Xây dựng và phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn

doc 138 trang vanle 2270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Xây dựng và phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxay_dung_va_phan_tich_chinh_sach_nong_nghiep_nong_thon.doc

Nội dung text: Xây dựng và phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Trường Đại học Lâm nghiệp Xuân Mai GIÁO TRÌNH MÔN HỌC Xây dựng và phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn Bộ môn: kinh tế ( Tổng số tiết 45: Lý thuyết 30 và thảo luận, tiểu luận 15) Giảng viên: TS. Chu Tiến Quang. Giám đốc Trung tâm Tư vấn Quản lý và Đào tạo Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương 68 Phan Đình Phùng, Quận Ba Đình, Hà Nội Mobill: 0912068724 Email: Chu quang@mpi.gov.vn Chuquang@yahoo.com.vn 1
  2. Hà Nội- 2010 Mở đầu I. Mục đích của môn học: Trang bị cho học viên cao học và sinh viên đại học của trường Đại học lâm nghiệp những kiến thức cơ bản về lý luận chính sách và phân tích chính sách trong lĩnh vực kinh tế ngành nông lâm nghiệp; cung cấp cho học viên những kỹ năng cơ bản trong phân tích chính sách đối với phát triển nông, lâm nghiệp II. Đối tượng và phạm vi về nội dung môn học 2.1. Đối tượng: Các loại chính sách; chủ thể, khách thể của chính sách; chu trình hình thành và vận hành chính sách; kiểm định và điều chỉnh chính sách đối với kinh tế nông, lâm nghiệp 2.2. Phạm vi: - về không gian: cả vĩ mô, vi mô; - Về thời gian: trước đổi mới và sau đổi mới kinh tế ở VN (năm 1986) - Về nội dung: quá trình xây dựng và thực thi chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn. III. Những nội dung của môn học Chương một NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH (Số tiết: 10, lý thuyết 8, thảo luận 2 ) I. Các vấn đề chung về chính sách nông nghiệp, nông thôn 1.1. Khái niệm và vai trò của chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn 1.1.1. Khái niệm về chính sách. 1.1.2. Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn. 1.1.3. Nội dung của chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn 1.1.4. Cách thức xây dựng chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn 1.1.5 Vai trò của chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn 1.2. Các giai đoạn trong hình thành và vận hành chính sách 1.2.1. Giai đoạn xác định mục tiêu và các biện pháp của chính sách 1.2.2. Giai đoạn triển khai chính sách 1.2.3. Đánh giá kết quả triển khai chính sách 2
  3. 1.3. Phân loại chính sách đối với nông nghiệp1, nông thôn. 1.3.1. Phân loại theo quy mô điều chỉnh của chính sách 1.3.2. Phân loại theo các lĩnh vực kinh tế là đối tượng tác động của chính sách 1.3.3. Phân loại theo các thành phần kinh tế là đối tượng điều chỉnh (hưởng lợi) của chính sách 1.3.4. Phân loại theo phương thức tác động 1 .3.5. Phân loại chính sách theo “phân khúc” quá trình sản xuất 1.3.6. Phân loại chính sách theo "mức độ quan trọng" của mục tiêu cần đạt tới 1.3.7 Phân loại theo cơ quan ban hành và cấp độ của chính sách 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới xây dựng và vận hành chính sách 1.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả xây dựng chính sách. 1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới kết quả vận hành (thực thi) chính sách. II. Đặc điểm nông nghiệp, nông thôn và vai trò của nhà nước, thị trường, cộng đồng 2.1. Những đặc điểm cơ bản của nông nghiệp, nông thôn 2.1.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp 2.1.2. Đặc điểm nông thôn và phát triển nông thôn 2.2. Vai trò của Nhà nước, thị trường, cộng đồng 2.2.1. Vai trò của Nhà nước. 2.2.2. Vai trò của thị trường 2.2.3. Vai trò của các tổ chức quần chúng trong phát triển nông thôn III. Kinh nghiệm xây dựng chính sách NN, NT một số nước 3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản 3.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp 3.3. Kinh nghiệm Hàn quốc về Phong trào làng mới 3.4. Kinh nghiệm Đài Loan 3.5. Kinh nghiệm Hà Lan 3.6. Kinh nghiệm Trung quốc Chương II PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (Số tiết:12; lý thuyết: 8, thảo luận: 4) I. Phương pháp luận phân tích, đánh giá chính sách phát triển NN, NT 1.1. Mục đích của phân tích chính sách 1.2. Phương pháp phân tích và các giai đoạn phân tích 1.3. Các tác nghiệp trong phân tích chính sách II. Đánh giá sự phát triển các ngành nông, lâm, thủy sản . 1 Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng thủy sản và làm muối 3
  4. 2.1. Kết quả sản xuất nông, lâm, thủy sản thời gian qua 2.2. Phát triển một số ngành sản phẩm chính 2.3. Hạn chế của sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay III. Một số chính sách xã hội nông thôn 3.1 Khái niệm 3.2 Mục tiêu 3.3 Đối tượng 3.4. Nội dung cơ bản 3.5 Các kênh tác động . 3.6 Một số chính sách xã hội nông thôn . Chương III THỰC TRẠNG VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP2, NÔNG THÔN VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY (Số tiết: 13, lý thuyết 9, thảo luận 4) I. Các chính sách kinh tế 1.1. Nhóm chính sách đất đai. 1.2. Nhóm chính sách khoa học-công nghệ 1.3 Nhóm chính sách thị trường 1.4.Nhóm chính sách phát triển ngành nghề . 1.5 Nhóm chính sách đầu tư, tài chính và tín dụng II. Nhóm chính sách xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất 2.1 Chính sách phát triển kinh tế hộ và trang trại 2.2. Chính sách về doanh nghiệp Nhà nước trong NN, NT 2.3. Chính sách phát triển Hợp tác xã III. Nhóm chính sách xã hội nông thôn 3.1 Chính sách lao động và việc làm nông thôn 3.2 Chính sách xóa đói giảm nghèo trong nông thôn IV. Nhóm chính sách vùng 4.1 Bối cảnh ra đời 4.2 Tác động của chính 4.3 Những hạn chế của chính sách vùng V. Kết luận và định hướng chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn 5.1 Kết luận 5.2. Định hướng các nhóm chính sách 2 Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp, thúy sản và nghề muối 4
  5. Đánh giá kết quả học tập của học viên. - Chuyên cần, bài tập nhỏ: 0,1 - Tiểu luận: 0,2 - Thi hết môn: 0,7 5
  6. Phần một NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH I. Các vấn đề chung 1.1. Khái niệm, nội dung và vai trò của chính sách đối với NN, NT. 1.1.1. Khái niệm Cụm từ "chính sách" đã được dùng khá phổ biến trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Nhưng chưa có một định nghĩa tổng quát và đầy đủ về cụm từ này a.Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa ”Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó của chính phủ. Nó bao gồm các mục tiêu kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó”3. b. Từ điển tiếng Việt (1988) “Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị và tình hình thực tế mà đề ra", hay "Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội.” c. Franc Ellis cho rằng "trên tầm vĩ mô, chính sách được xem như đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với quản lý nhà nước về một lĩnh vực nào đó, có thể là kinh tế, xã hội và môi trường "4 c. Samuelson cho rằng " Ngay cả khi Chính phủ không đưa ra một chính sách trong bối cảnh bất đắc dĩ nào đó để thực hiện mục đích nào đó, thì đó cũng là một kiểu chính sách"5. đ.Theo Jones (1984) thì chính sách luôn gồm các yếu tố bao gồm: - Dự định: là mong muốn của người làm (hoạch định) chính sách; -Mục tiêu: cụ thể hóa dự định thành đích cần đạt tới; - Đề xuất giải pháp: cách thức tác động để nhằm đạt được mục tiêu; - Quyết định lựa chọn giải pháp để triển khai thực hiện. e. Đinh Dũng Sỹ (2008) cho rằng chính sách có mối tương quan rất mật thiết với chính trị và pháp luật, chính sách là cụ thể hóa đường lối chính trị của Nhà nước. 3 W. 4 Franc Ellish "Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển" NXB Nông nghiệp 1995 trang 23 5 Paul Samuelson "Kinh tế học"; Viện kinh tế học, Bộ Ngoại giao, tập I trang 117 6
  7. Chính sách chính là linh hồn, là nội dung của pháp luật, còn pháp luật là hình thức, là phương tiện thể hiện của chính sách khi nó được thừa nhận, được ban hành bởi nhà nước theo một trình tự luật định.” f. Ngô Đức Cát và Vũ Đình Thắng (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho rằng, chưa có định nghĩa thống nhất về "chính sách” và đưa ra cách hiểu về "chính sách” là ”phương pháp can thiệp” của Nhà nước nhằm mục tiêu nào đó và trong thời hạn nhất định.6 g. Tác giả giáo trình này cho rằng, ”Chính sách là tập hợp các chủ trương, quan điểm, giải pháp, công cụ nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Quá trình hình thành chính sách có sự tác động của nhiều yếu tố. Trước hết là sự nảy sinh một vấn đề kinh tế - xã hội nào đó cần giải quyết. Trên cơ sở thực tế vấn đề và mong muốn, Chính phủ sẽ lựa chọn mục tiêu cần đạt, đưa ra giải pháp và công cụ trên cơ sở cân nhắc các điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tâm lý nhân dân để hiện thực hóa được chủ trương đã định”. Theo cách tiếp cận này thì Chính sách được hiểu là: - Phương thức tác động của chủ thể vào khách thể để đạt tới mục tiêu mà chủ thể mong muốn, tương tự như định nghĩa về "quản lý là một quá trình, trong đó chủ thể quản lý tác động lên khách thể quản lý để đạt tới mục tiêu do chủ thể quản lý đưa ra"; - Công cụ của quá trình quản lý mà Người quản lý lên đối tượng bị quản lý. - Chủ thể chính sách là các cơ quan ban hành và thực thi chính sách gồm Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các Bộ ngành; Khách thể chính sách hay đối tượng điều chỉnh của chính sách là những cá nhân, tổ chức, DN, hộ gia đình mà chính sách sẽ tác động vào. Để triền thực hiện chính sách, Chủ thể chính sách đưa ra các biện pháp tạo sức hấp dẫn hay tạo động lực trong khách thể (đối tượng) của chính sách, để khuyến khích họ làm theo định hướng mà Chủ thể chính sách đưa ra, từ đó đạt tới các kết quả mong đợi. Trong trường hợp không khuyến khích thì Chủ thể chính sách có thể đưa ra các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp làm giảm hoặc mất động lực của đối tượng điều chỉnh để họ hạn chế hành vi theo mong muốn. - Ở tầm vi mô, khái niệm chính sách cũng được sử dụng để phản ánh chiến lược hay sách lược hành động của một chủ thể nào đó như DN, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cộng đồng, hộ gia đình nhằm đạt tới mục tiêu nào đó do các chủ thể đó định ra cho họ. Chẳng hạn một DN có chính sách riêng đối với sử dụng lao động, đối với mở rộng hoặc thu hẹp thị trường; chính sách của hộ gia đình trong quản lý chi tiêu 6 PGS. TS Ngô Đức Cát và TS Vũ Đình Thắng “ Giáo trình phân tích chính sách Nông nghiệp, nông thôn”; NXB Thống kê-Đại học Kính tế Quốc dân; Hà nội 2001 7
  8. Như vậy có thể thấy rằng: chính sách là một phạm trù của khoa học quản lý, nó đề cập các giải pháp tác động của Chủ thể đến khách thể, có phạm vi rộng từ cấp vĩ mô (quốc gia, chính phủ) tới các cấp địa phương như tỉnh, huyện, xã và tới từng đơn vị kinh tế-xã hội trong một hệ thống kinh tế-xã hội xác định. Điểm chung nhất trong khái niệm về chính sách, dù ở cấp độ nào cũng là một trong các công cụ của quản lý. Phải có 3 nhóm yếu tố, đó là: Chủ thể, Khách thể và Mục tiêu của chính sách. Mỗi chính sách đều phải phục vụ cho một hoặc một vài mục tiêu nhất định, do một chủ thể nào đó đưa ra và tác động (ảnh hưởng) đến một hoặc một số khách thể (đối tượng hưởng lợi) nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định. Vì vậy, mỗi chính sách phải có: chủ thể, khách thể và mục tiêu của nó. Chính sách sẽ là vô nghĩa hay không khả thi khi nó không xác định được 3 nhóm nhân tố nói trên, hay nói cách khác là chính sách bắt nguồn từ ý chí của chủ thể, không định được khách thể (đối tượng hưởng lợi) và không đưa ra được mục tiêu cần đạt tớ7i. 1.1.2. Chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn. - Là ”tổng thể các giải pháp của Nhà nước tác động vào nông nghiệp, nông thôn theo những mục tiêu nhất định và trong khoảng thời gian nhất định”8. - Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt đưa định nghĩa ”Chính sách phát triển nông thôn là tập hợp các chủ trương và hành động của Chính phủ về cung cấp các yếu tố đầu vào (đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng); đầu ra (sản phẩm) của nông nghiệp, nông thôn; làm thay đổi tổ chức sản xuất; chuyển giao công nghệ ”. - Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn rất rộng, bao gồm cả pháp luật, cơ chế, chế độ do Nhà nước ban hành, được áp dụng phù hợp đối với từng đối tượng của nông nghiệp, nông thôn và bao gồm các nhóm chính sách: kinh tế, xã hội và môi trường diễn ra ở nông thôn. - Mục tiêu của chính sách nông nghiệp, nông thôn bao gồm: (i). Tạo sự tăng trưởng không ngừng về kinh tế; (ii). Gia tăng không ngừng các loại phúc lợi xã hội, dân trí và đời sống tinh thần cho cộng đồng dân cư nông thôn; (iii). Duy trì, bảo vệ môi trường sinh thái mang tính nông thôn phục vụ cho phát triển chung của toàn nền kinh tế, đặc biệt là đối với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá của mỗi quốc gia. 7 Nguyễn Văn Bích và Chu Tiến Quang " Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nôn nghiệp, nông thôn Việt Nam"; NXB Chính trị Quốc gia; Hà Nội 1996, trang25 8 PGS. TS Ngô Đức Cát và TS Vũ Đình Thắng, sách đã dẫn 8
  9. Như vậy, có thể thấy rằng chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn là tập hợp nhiều chính sách khác nhau, cùng tác động lên các khách thể ở nông thôn (là những đối tượng điều chỉnh của các chính sách khác nhau) cùng hoạt động trên địa bàn nông thôn và cùng tham gia vào quá trình phát triển nông thô, theo nghĩa vừa có lợi ích, vừa có trách nhiệm. 1.1.3. Nội dung chính sách nông nghiệp, nông thôn Nội dung của chính sách đối với NN, NT cũng rất đa dạng, thay đổi theo điều kiện đặc thù ở mỗi giai đoạn của nền kinh tế, ở mỗi quốc gia riêng biệt. Nhưng xét về cách thức tác động có thể hình thành 2 nhóm chính sách sau a. Nhóm tác động trực tiếp. Trong nhóm này, Nhà nước sử dụng các nguồn lực của mình để tác động trực tiếp vào NN, NT thông qua các hoạt động: đầu tư, cung cấp các dịch vụ tín dụng, khoa học công nghệ bằng nguồn vốn của Nhà nước và bằng sự hình thành các Chương trình mục tiêu quốc hướng tới những nhóm đối tượng nhất định và trong thời gian nhất định. b. Nhóm tác động gián tiếp. Trong nhóm này, Nhà nước áp dụng các giải pháp mang tính hỗ trợ, ưu đãi nhằm khuyến khích, thúc đẩy các tác nhân tại nông thôn cùng tham gia vào các hoạt động phát triển NN, NT bao gồm cả kinh tế-xã hội và môi trường. 1.1.4. Vai trò của chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn a. Là công cụ để Nhà nước tác động vào các đối tượng trên địa bàn nông thôn. - Đối tượng của chính sách nông nghiệp, nông dân, nông thôn bao gồm kinh tế hộ, các DN, tổ chức kinh tế và tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, phi nông nghiệp và các lĩnh vực xã hội trong nông thôn. - Đối với các nước đang phát triển thì chinhs sách NN, NT tập trung chủ yếu vào nông dân do đối tượng này đang chiếm số đông và cần được chính sách hỗ trợ b. Là công cụ để Nhà nước hướng dẫn các đối tượng sản xuất, kinh doanh ở nông thôn cùng thực hiện chiến lược và quy hoạch phát triển do Nhà nước xác định. - Vai trò này thể hiện quyền lực riêng có của nhà nước và đồng thời là nghĩa vụ của Nhà nước trong việc đưa ra định hướng phát triển nền kinh tế nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng. - Chính sách đóng vai trò như công cụ dẫn dắt, định hướng cho các đối tượng này thực hiện quy hoạch. Nếu quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn không có 9
  10. chính sách đi kèm để thúc đẩy và định hướng các đối tượng thực hiện quy hoạch thì quy hoạch đó sẽ không thể triển khai. c. Là công cụ để thúc đẩy sự gắn kết các đơn vị kinh tế, hộ gia đình cùng hợp tác để phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn thường liên quan đến nhiều đơn vị kinh tế khác nhau như: các hộ gia đình, các DN cùng sản xuất kinh doanh trong một ngành sản phẩm nông nghiệp và phi nông nghiệp, trên cùng một địa bàn; - Yêu cầu hợp tác và liên kết giữa các đối tượng khác nhau cùng tham gia sản xuất một sản phẩm nào đó là yêu cầu khách quan, Chính sách là công cụ để Nhà nước tác động, thúc đẩy sự gắn kết các đơn vị kinh tế trong hợp tác cùng phát triển nông nghiệp, nông thôn. d. Là công cụ để Nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các đơn vị kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn - Nhà nước ban hành các chính sách điều chỉnh việc phân bổ các nguồn lực đầu vào (đất đai, nước, điện, hạn mức khai thác tài nguyên ) và các chính sách về thuế trong sử dụng các nguồn lực này. - Thông qua các chính sách trên, Nhà nước đã tác động, điều chỉnh thu nhập của các đơn vị kinh tế, các hộ gia đình theo chủ trương, quan điểm nào đó, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong tiếp cận và sử dụng các nguồn lực nói trên. 1.2. Các giai đoạn trong xây dựng và vận hành chính sách 1.2.1. Giai đoạn xác định mục tiêu và các biện pháp của chính sách. Trong giai đoạn này cần phân tích, làm rõ những các tình huống hiện tại; các khả năng về nguồn lực có thể sử dụng để đạt tới mục tiêu mong muốn. 1.2.2. Giai đoạn triển khai chính sách. Trong giai đoạn này thực hiện các biện pháp, quy định, chế độ đã lựa chọn của chính sách vào thực tiễn. Đối tượng điều chỉnh (hưởng lợi) của chính sách sẽ thay đổi hành vi, thay đổi hoạt động của mình theo hướng tác động của chính sách. 1.2.3. Đánh giá kết quả triển khai chính sách. Trong giai đoạn này, Chủ thể của chính sách tổ chức đánh giá, tổng kết các kết quả triển khai chính sách so với mục tiêu đã đề, rút ra những mặt tích cực và hạn chế trong việc xác định mục tiêu và các giải pháp đã được triển khai để đạt tới mục tiêu. Việc đánh giá chính sách được thực hiện thống qua áp dụng các công cụ như: chỉ tiêu giám sát, kết quả mong đợi và những thay đổi mới so với trước khi triển khai chính sách. 10
  11. Sự hình thành và vận hành chính sách được mô phỏng qua 7 bước sau Sơ đồ 1. Các bước xây dựng và vận hành chính sách 1. Xác định mục tiêu cần đạt tới của chính sách: ngắn hạn và dài hạn 2. Xác định các đối tượng hưởng lợi của chính sách (cá nhân, tổ chức, cộng động) 3. Đề xuất và ra quyết định lựa chọn các giải pháp của chính sách (các chế độ ưu đãi, cơ chế; các chương trình, dự án hỗ trợ; các quy định cần tuân thủ) 4. Triển khai các giải pháp chính sách đã lựa chọn vào thực tiễn ( tác động vào các đối tượng hưởng lợi của chính sách) 5. Đánh giá các kết quả đã triển khai và so sánh kết quả đó với mục tiêu đã đề ra; sự thay đổi của đối tượng hưởng lợi chính sách sau một thời gian chịu tác động của chính sách) 6. Tổng kết, rút ra những nguyên nhân thành công và chưa thành công trong triển khai từng giải pháp của chính sách, những bài học và kinh nghiệm 7. Nhấn mạnh những giải pháp tích cực cần phát huy và hạn chế những giải pháp không phù hợp, cần loại bỏ. Bổ sung, hoàn thiện chính sách Trong chu trình 7 bước cơ bản nói trên của hình thành và vận hành chính sách thì: a. Các bước từ 1 đến 3 thuộc về giai đoạn xây dựng chính sách. Trong giai đoạn này diễn ra công tác nghiên cứu, đề xuất chính sách theo những mục tiêu đã được chủ thể của chính sách xác định. Giai đoạn này thu hút sự tham gia, đóng góp của nhiều chuyên gia có kinh nghiệm, tích luỹ thực tiễn trong lĩnh vực mà chính sách sẽ tác động. b. Các bước từ 4 đến 5 thuộc về giai đoạn triển khai chính sách. - Trong giai đoạn này đòi hỏi các cơ quan, tổ chức và cá nhân vận hành chính sách phải xác định đúng đối tượng hưởng lợi để triển khai cho đúng và đủ. 11
  12. - Giai đoạn triển khai chính sách đòi hỏi sự tiếp cận chính xác đối tượng hưởng lợi và thực hiện đúng các chế độ, quy định của chính sách. - Sự cẩn trọng và chu đáo trong tác vận hành chính sách có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành công của các giải pháp chính sách và đảm bảo đạt được các mục tiêu của chính sách. c. Bước 6 và 7 thuộc về giai đoạn 3 là tổng kết, đánh giá. - Nhằm rút ra những kết quả và hạn chế của chính sách đã triển khai và đề xuất được hướng hoàn thiện chính sách một cách phù hợp nhất. - Những người tham gia đánh giá phải nắm vững phương pháp và sử dụng tốt những công cụ tổng kết, đánh giá. Phải làm rõ được các nguyên nhân dẫn đến thành công và hạn chế của bản thân các quy định, chế độ của chính sách và những nguyên nhân phát sinh trong quá trình triển khai. Sự tổng kết, đánh giá kết quả vận hành chính sách trong giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng, nó vừa giúp cho cơ quan vận hành chính sách thấy đúng kết quả tác động của chính sách, đồng thời giúp phát hiện sớm những sai lệnh cần điều chỉnh để đạt tới mục tiêu đề ra. Công tác tổng kết, đánh giá thường phức tạp và không hấp dẫn cơ quan, tổ chức và cá nhân vận hành chính sách, vì vậy họ rất dễ bỏ qua hoặc làm không tốt công tác này. 1.3. Phân loại chính sách đối với nông nghiệp9, nông thôn. Việc phân loại chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn có ý nghĩa giúp thống nhất hiểu biết về hệ thống chính sách trong các lĩnh vực này. Việc phân loại chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn là việc làm có tính quy ước, nhưng làm rõ các mục tiêu và đối tượng hưởng lợi (khách thể) của từng loại chính sách, làm rõ những nội dung của chính sách. Do tính đa dạng của chính sách cả về mục tiêu và đối tượng hưởng lợi và định nghĩa về chính sách nên việc phân loại các chính sách cũng chỉ có tính tương đối và tùy thuộc vào định nghĩa được sử dụng. Có các cách phân loại sau: 1.3.1. Phân loại theo quy mô điều chỉnh của chính sách. a. Chính sách đối ngoại (foreign policies). Đối tượng điều chỉnh của chính sách này là các hoạt động đối ngoại của một quốc gia, thể hiện chủ trương, biện pháp đối ngoại của Nhà nước b. Chính sách kinh tế trong nước (local economic policies). 9 Nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng thủy sản và làm muối 12
  13. Đối tượng hưởng lợi của chính sách này là các hoạt động kinh tế đa dạng như tiền tệ, tài khóa, tỷ giá hối đoái, đầu tư và các ngành, lĩnh vực kinh tế c. Chính sách xã hội trong nước (local social policies). Đối tượng của chính sách này là các hoạt động xã hội và mang tính xã hội, chẳng hạn như: lao động- việc làm,giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội d. Các chính sách khác Bao gồm các chính sách không nằm trong các nhóm trên. Ví dụ chính sách môi trường, chính sách khoa học-công nghệ 1.3.2. Phân loại theo các lĩnh vực kinh tế là đối tượng tác động của chính sách, có các nhóm a. Chính sách đối với nông nghiệp; b. Chính sách đối với công nghiệp; c. Chính sách đối với thương mại, dịch vụ 1.3.3. Phân loại theo các thành phần kinh tế là đối tượng điều chỉnh (hưởng lợi) của chính sách, có các nhóm chính sách a. Chính sách đối với DN; b. Chính sách đối với HTX c. Chính sách đối với kinh tế hộ gia đình; d. Chính sách đối với trang trại 1.3.4. Phân loại chính sách theo “phân khúc” quá trình sản xuất. a. Chính sách đầu vào của sản xuất: Đối tượng hưởng lợi của chính sách này là những đơn vị tổ chức và cá nhân tham gia vào các hoạt động cung ứng các đầu vào cho sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp trong nông thôn b. Chính sách đối với quá trình sản xuất. Đối tượng hưởng lợi của chính sách này là những các nhân, tổ chức trực tiếp tham gia vào chính quá trình sản xuất: các chính sách này tác động vào những đối tượng trực tiếp sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn hay nói cách khác là tác động vào khu vực trực tiếp sản xuất, tạo ra sản phẩm nông nghiệp và phi nông nghiệp của kinh tế nông thôn. Đối tượng hưởng lợi của chính sách này rất đa dạng: có thể là: cá nhân, hộ gia đình tổ chức và các loại hình kinh tế khác cùng tham gia sản xuất trên địa bàn nông thôn. c. Chính sách tác động vào đầu ra của sản xuất: 13
  14. Đối tượng hưởng lợi của chính sách này là những tác nhân tham gia vào khâu mua gom, chế biến và tiêu thụ sản phẩm do hộ gia đình, các đơn vị sản xuất trong nông thôn làm ra và họ không tự tiêu thụ được. Mục tiêu của chính sách này là tạo động lực thúc đẩy các tác nhân tham gia hoạt động mua gom, chế biến và tiêu thụ sản phẩm mở rộng thị trường, gắn kết với người sản xuất. 1.3.5. Phân loại chính sách theo "mức độ quan trọng" của mục tiêu cần đạt tới. a. Chính sách có mục tiêu tạo ra sự thay đổi khởi đầu của đối tượng hưởng lợi để triển khai các hoạt động tiếp theo. Chẳng hạn như chính sách đào tạo, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho người nông dân có ý nghĩa trang bị cho người nông dân kiến thức sản xuất để họ vận dụng vào sản xuất theo năng lực ứng dụng của từng hộ. b. Chính sách có mục tiêu trung gian. Là chính sách chỉ tác động vào những đối tượng nằm ở một khâu nào đó trong tổng thể các khâu thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách (có thể gọi là chính sách bộ phận hay chính sách tình huống). c. Chính sách có mục tiêu cần đạt tới là cuối cùng. Là chính sách mà kết quả mong đợi do tác động của chính sách tạo ra là được coi là kết thúc, hoàn tất các mong đợi đặt ra. 1.3.6. Phân loại theo cơ quan ban hành và cấp độ chính sách - Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị - Văn bản của cấp Quốc hội và Hội đồng nhân dân, gồm: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp - Văn bản của Chính phủ và cơ quan trực thuộc Chính phủ, gồm: Nghị quyết, Quyết định, Thông tư, Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch, Đề án phát triển ngành, lĩnh vực, do Chính phủ và các cơ quan trực thuộc Chính phủ ban hành. - Các chế độ, quy định của Nhà nước, của cơ quan chính quyền cấpđịa phương cụ thể hóa luật và văn bản dưới luật vào các điều kiện cụ thể của địa phương. Như vậy có thể thấy hệ thống chính sách rất đa dạng và mang tính đa cấp (tùy thuộc vào số lượng các cấp có thẩm quyền ban hành chính sách) theo quy định của pháp luật. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới xây dựng và vận hành chính sách 1.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới xây dựng chính sách. a. Nhân tố “Nhân lực” tham gia hoạch định chính sách. 14
  15. Nhân tố này phản ánh sự ảnh hưởng của số lượng và chất lượng chuyên gia (cán bộ chuyên môn) được huy động vào quá trình nghiên cứu, hoạch định chính sách. Theo đó, những người tham gia nghiên cứu, hoạch định một chính sách nào đó phải có kiến thức lý luận và tích lũy thực tiễn (có kinh nghiệm) về lĩnh vực mà chính sách sẽ tác động. b. Nhân tố “thông tin” về đối tượng hưởng lợi chính sách Thông tin về đối tượng hưởng lợi của chính sách cần đưa ra là yêu cầu rất quan trọng đối với cá nhân và tổ chức có nhiệm vụ hoạch định chính sách. Thiếu thông tin về đối tượng hưởng lợi thì chính sách đưa ra rất dễ tác động sai đối tượng, rất dễ bị lợi dụng và kết quả là tác động của chính sách sẽ rất hạn chế. c. Nhân tố “ thông tin” về các nguồn lực để thực hiện chính sách. Nhân tố này phản ánh sự ảnh hưởng của những nguồn lực như: con người, tài chính và những tư liệu cần thiết tới thực hiện chính sách một cách thành công nhất. 1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới vận hành (thực thi) chính sách. a. Nhân tố “ bộ máy triển khai chính sách”. Một chính sách sau khi đã được ban hành, muốn vận hành, đưa nó vào cuộc sống thì phải có bộ máy triển khai, đó là một tổ chức hoặc một nhóm người thực hiện đưa các nội dung của chính sách đó vào thực tiễn. Nói cách khác là phải có bộ máy tổ chức để đưa các chế độ, nội dung của chính sách đã xác định đến với các đối tượng cần hưởng lợi, hoặc cần được điều chỉnh bởi chính sách để đạt tới mục tiêu đã định. b. Nhân tố “ công cụ triển khai chính sách” Cùng với bộ máy triển khai thì nhân tố “công cụ triển khai chính sách” có tác động mạnh mẽ đến kết quả thực thi chính sách. Nếu không có công cụ, hoặc công cụ không phù hợp yêu cầu triển khai thì chính sách sẽ rất khó được thi hành. Theo tính chất và đặc điểm, có thể phân các công cụ triển khai chính sách thành các nhóm: hạ tầng, tài chính và nhóm kỹ thuật - Nhóm công cụ hạ tầng để triển khai chính sách bao gồm: các phương tiện để người triển khai chính sách tiếp cận tới đối tượng hưởng lợi (chịu điều chỉnh của chính sách), đó là các phương tiện vận chuyển, thông tin liên lạc, nhà làm việc, máy móc, văn phòng phẩm phục vụ trực tiếp cho quá trình triển khai chính sách. - Nhóm công cụ tài chính để triển khai chính sách bao gồm: những khoản tài chính cần có để mua sắm những công cụ kỹ thuật thuộc nhóm (1) để phục vụ triển khai chính sách; (ii). Các khoản tài chính cần có để chi tiêu vào các hoạt động khác nhau của 15
  16. bộ máy tổ chức triển khai chính sách; (iii). Các khoản tài chính cần để chi cho các đối tượng hưởng lợi theo mục tiêu, chế độ mà chính sách đã đề ra. - Nhóm công cụ kỹ thuật để triển khai chính sách bao gồm: (i). Các phương pháp vận hành và điều chỉnh và tổng kết hoạt động của chính sách trong thời gian triển khai; (ii). Các kỹ thuật giám sát, theo dõi, đánh giá việc triển khai và vận hành chính sách; (iii). Các tiêu chuẩn, định mức, điều kiện, chế độ dùng để triển khai các hoạt động và các hỗ trợ của chính sách đối với đối tượng hưởng lợi c. Nhân tố “ các nguồn lực để phục vụ triển khai chính sách” Trong triển khai chính sách, cần lưu ý huy động các nguồn lực tại chỗ để cùng với nguồn lực do chính sách tạo ra, cùng tác động vào đối tượng hưởng lợi, từ đó sẽ làm cho hiệu ứng tác động của chính sách được nhân lên. Đối tượng hưởng lợi chính sách sẽ có động lực lớn hơn để tiếp nhận và triển khai chính sách và năng động, sáng tạo trong quá trình tiếp cận chính sách. Nguồn lực ở đây được hiểu là nguồn lực về vật chất và phi vật chất (tinh thần) của đối tượng hưởng lợi, được hình thành và nhân lên trong quá trình tiếp cận sự tác động của chính sách d. Nhân tố “lựa chọn đúng đối tượng hưởng lợi của chính sách” Mỗi chính sách có đối tượng hưởng lợi và phạm vi tác động riêng, có giới hạn và không thể áp dụng tràn lan với những đối tượng khác. Việc lựa chọn sai đối tượng tác động của chính sách, chẳng khác nào làm vô hiệu hóa chính sách, chẳng hạn chính sách xóa đói giảm nghèo mà áp dụng cho người giàu thì chính sách đó sẽ không phát huy được tác dụng bởi người giàu không cần những tác động của chính sách này. đ. Nhân tố “giám sát, theo dõi, đánh giá kết quả triển khai và điều chỉnh chính sách” -Trong quá trình triển khai mỗi chính sách, việc giám sát, theo dõi, đánh giá kết quả triển khai và điều chỉnh chính sách cho phù hợp hơn đối với khả năng thích ứng của mỗi loại đối tượng hưởng lợi là một trong những yêu cầu bắt buộc. -Công tác giám sát, theo dõi, đánh giá kết quả triển khai và điều chỉnh chính sách làm càng thường xuyên bao nhiêu thì việc triển khai chính sách càng trở nên sát thực tiễn và có hiệu quả bầy nhiêu. -Xác định đúng những nguyên nhân dẫn tới những thay đổi đã và đang diễn ra ở đối tượng hưởng lợi và xác định đâu là nguyên nhân khách quan, đâu là nguyên nhân chủ quan dẫn tới những kết quả và hạn chế trong sự tác động của chính sách vào đối tượng hưởng lợi. 16
  17. - Đánh giá tác động của chính sách tới đối tượng hưởng lợi là yếu tố quan trọng, đồng thời cũng là một trong những công việc khó khăn, phức tạp nhất của toàn bộ chu trình vận hành chính sách. Để đánh giá được tác động của chính sách, cần có phương pháp tiếp cận tổng hợp kết hợp cả định tính, định lượng phù hợp đầy đủ các số liệu phản ánh kết quả triển khai chính sách. II. Đặc điểm của nông nghiệp, nông thôn và vai trò của nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn 2.1. Những đặc điểm cơ bản của nông nghiệp, nông thôn 2.1.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Đặc điểm thứ nhất. Sản xuất nông nghiệp diễn ra trong không gian rộng, gắn với các điều kiện tự nhiên, sinh thái và xã hội rất đa dạng và phức tạp. Đây là là đặc điểm chung và có tính đặc thù nhất của sản xuất nông nghiệp. Đặc điểm này còn thể hiện các chủ thể tác động vào cây trồng, vật nuôi là những người dân và cộng đồng xã hội đã sinh sống ở các vùng mà sản xuất nông nghiệp diễn ra. Tính đa dạng của phương thức canh tác nông nghiệp ở từng cộng đồng dân cư và vùng sinh thái khác nhau đã tạo ra sự phức tạp to lớn của tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất. Đặc điểm thứ hai. Sản xuất nông nghiệp không ổn định, sản lượng mỗi loại cây trồng vật nuôi luôn biến động theo thời gian, dưới tác động của nhiều yếu tố tự nhiên, điều kiện canh tác, quyêt định của người sản xuất và nhu cầu của thị trường. Lý do gồm: Một là: Do quá trình sản xuất luôn xảy ra trong tự nhiên, nên kết quả sản xuất luôn chịu tác động trực tiếp của những tác động môi trường, tác động của các nguồn lực có sẵn trong tự nhiên như đất, nước, ánh sáng Hai là. Bên cạnh tác động của tự nhiên làm thay đổi mạnh sản lượng cây trồng như trên thì sản xuất nông nghiệp còn chịu tác động của yếu tố dịch bệnh, nảy sinh ngay trong quá trình sản xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ba là. Thị trường sản phẩm nông nghiệp phức tạp hơn nhiều so với các thị trường sản phẩm khác. Lý do dẫn đến những phức tạp này là trong phần sản xuất (bên cung) có rất nhiều chủ thể (đó là: hộ nông dân, trang trại, HTX, DN) cùng tham gia sản xuất. Quyết định sản xuất của mỗi chủ thể không giống nhau, vì vậy sự tăng giảm sản lượng của mỗi loại sản phẩm nông nghiệp luôn biến động mạnh, phụ thuộc vào quyết định của nhiều nhà sản xuất. 17
  18. Đặc điểm thứ ba. Sản xuất nông nghiệp luôn là tác nhân trực tiếp, quan trọng đối với môi trường sinh thái. Là ngành sản xuất vật chất gắn liền với khai thác tài nguyên đất và nước, khí hậu nên nông nghiệp có vai trò vô cùng lớn đối với sinh thái. Quá trình gia tăng sản xuất, nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi đồng nghĩa với tiêu hao nhiều hơn các nguồn lực về đất và nước. Đặc điểm thứ tư. Đó là đặc điểm về sự phát triển hài hoà, hợp lý giữa nông nghiệp truyền thống với phát triển các ngành nghề, hoạt động phi nông nghiệp của kinh tế nông thôn hiện đại. Dưới tác động của các cuộc cách mạng về công nghệ, về phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản (đường giao thông, điện, nước) và đặc biệt là cuộc cách mạng về thông tin trong những thập kỷ gần đây thì sản xuất nông nghiệp đã găn với phát triển nhiều ngành sản xuất vật chất thuộc khu vực công nghiệp và dịch vụ. 2.1.2. Đặc điểm nông thôn và phát triển nông thôn. Thứ nhất. Đặc điểm tự nhiên-kinh tế-xã hội vùng nông thôn. Nông thôn mang tính đa dạng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hoá, khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, đa dạng về hình thức tổ chức, thiết chế xã hội10 Cùng với phát triển nông nghiệp, nông thôn đã phát triển nhiều ngành sản xuất vật chất khác. Đặc biệt là với cơ sở hạ tầng phát triển, thông tin liên lạc phát triển, trình độ dân trí tăng lên thì nông thôn đã trở thành vùng phát triển cả kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Như vậy theo quan niệm mới thì sản xuất nông nghiệp sẽ không còn là đặc trưng duy nhất của nông thôn, mà chỉ là một bộ phận trong cơ cấu kinh tế nông thôn, có chức năng vừa tạo ra sản phẩm lương thực, thực phẩm cho xã hội (an ninh lương thực) vừa có tạo ra môi trường sinh thái đặc biệt, khác vùng đô thị, tạo ra những điểm du lịch sinh thái, an dưỡng, chữa bệnh và nghỉ ngơi. Những nghiên cứu gần đây về nông thôn cho thấy những đặc điểm riêng trong phát triển kinh tế, xã hội nông thôn được phản ánh qua các sơ đồ 1 và 2 sau đây Sơ đồ 1 mô tả mối quan hệ giữa các tác nhân tham gia vào quá trình phát triển nông thôn và những vấn đề (nội dung) trong phát triển nông thôn 10 Tham khảo cuốn kinh tế nông thôn; Chủ biên PGS Lê Nghiêm; NXB nông nghiệp; Hà nội 1995; Trang7 18
  19. Sơ đồ 1: Phát triển nông thôn theo vùng Mục Phát triển kinh tế-xã hội Sử dụng nguồn lực tự nhiên tiêu bền vững Lĩnh vực Dịch vụ Cơ sở Tiếp cận Năng Hiệu An ninh Quản lý suất lao suất sử lương thực n.lực tự Can thiệp và d. dưỡng nhiên xã hội hạ tầng t. trường động dụng đất (Hoàn Chiếncảnh Dịch vụ phù Cơ hội giảm Khả năng sáng lược hợp thiểu rủi ro tạo của NDNT cụ thể) trọng điểm Sự can chính sách và thiệp luật pháp cộng đồng địa KT –XH nông thôn phương của các cấp Thứ hai Đặc điểm của quá trình phát triển nông thôn - Theo nghĩa tổng hợp nhất thì, “phát triển nông thôn” bao gồm những nhiệm vụ, hoạt động gắn với sản xuất, đời sống của người dân, xã hội, văn hóa và môi trường ở khu vực nông thôn bao gồm: kinh tế, giáo dục, y tế, nhà ở, dịch vụ công và phát triển kết cấu hạ tầng, quản lý nhà nước và tự quản lý của các cộng đồng nông thôn, bảo tồn các di sản văn hoá tại chỗ. - Trong phát triển nông thôn, các hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường luôn gắn với hành vi của các chủ thể là người dân nông thôn với những đặc điểm cộng đồng cao hơn so với dân cư đô thị, thể hiện họ thường cùng nhau tham các hoạt động phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển nông thôn phải + Mang tính ổn định, lâu dài (sustained), không thể ngắn hạn ; + Mang tính bền vững (sustainable), được kế thừa qua các thời đại; + Là một quá trình (process) thể hiện song trùng một chuỗi hành động liên tục và tác động qua lại lẫn nhau; 19
  20. + Mang tính kinh tế giữa các chủ thể trong nông thôn với với các chủ thể ngoài khu vực nông thôn; + Mang tính xã hội, văn hóa (social), thể hiện sự liên quan đến các mối quan hệ giữa người và người trong quá trình phát triển; thể hiện sự liên quan đến các đặc trưng về tập quán văn hóa riêng của từng cộng đồng, từng địa bàn nông thôn; + Mang tính môi trường (environmental), thể hiện sự bảo vệ, phát triển cảnh quan tự nhiên của từng vùng với những đặc trưng riêng về sinh thái và vật thể; + Mang tính nhân tạo (designed), thể hiện các mô hình kinh tế, xã hội nông thôn là do con người tạo ra, mang dấu tích của sự hiểu biết, nền văn hóa bản địa. + Mang tính cộng đồng (community), thể hiện sự tham gia của nhiều người, nhiều hộ gia đình trong một cộng đồng, địa bàn nông thôn nhất định - Phát triển nông thôn gắn với sản xuất nông nghiệp. Vào thời kỳ đầu, khi nông thôn còn nghèo và nhu cầu sản xuất lương thực, thực phẩm để tự cung, tự cấp còn lớn và mang tính phổ biến thì khái niệm phát triển nông thôn gắn liền với khái niệm phát triển nông nghiệp, bởi vì ở giai đoạn này người dân nông thôn phải tự sản xuất ra lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu của chính họ. Tiếp theo giai đoạn trên, phát triển nông thôn dần mở rộng ra các ngành và lĩnh vực khác, cả trong kinh tế, xã hội và môi trường và mang tính tổng hợp nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Cũng có một số quan điểm không coi phát triển nông nghiệp nằm trong nội dung của phát triển nông thôn, mà coi nông nghiệp là bộ phận độc lập với phát triển nông thôn. Nhưng thực tế quan điểm này đã không được thừa nhận. - Phát triển nông thôn gắn với sinh kế người dân. Bước sang thập kỷ 1970, khi nhận thấy nếu chỉ phát triển nông nghiệp thì người nông dân không thể có thu nhập và đời sống cao, tình trạng nghèo nàn sẽ kéo dài. Vì vậy những nghiên cứu về phát triển nông thôn đã chú ý nhiều hơn đến vấn đề việc làm và thu nhập phi nông nghiệp đối với giảm nghèo và làm giàu cho người dân ở nông thôn. - Các chương trình phát triển nông thôn ra đời nhằm tăng năng suất nông nghiệp và tăng cường cung cấp nhu cầu cơ bản của con người. Theo đó, các nước đã triển khai các dự án cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản, các hỗ trợ về phát triển hạ tầng nông thôn, khuyến khích sự tham gia tích cực của các nhân và cộng đồng vào phat triển xã hội nông thôn mới, bỏ qua hoặc ít chú trọng đến cơ chế và tạo động lực để các nhà đầu tư bỏ vốn phát triển các cơ sở kinh tế trong nông thôn. 20
  21. - Phát triển nông thôn là một quá trình bao hàm: (i). Cải thiện mức sống của người dân nông thôn, bao gồm các hoạt động nâng cao thu nhập, tạo việc làm việc làm, phát triển giáo dục, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng, tổ chức lại hệ thống nhà ở và các dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nông thôn; (ii). Tạo ra sự vươn ra của nông thôn tới đô thị và các vùng kinh tế phát triển, giảm mất cân bằng thu nhập giữa nông thôn và thành thị, tạo cơ hội phát triển ngang bằng với thành thị; (iii). Tăng cường khả năng tự chống chịu với những biến động về thiên nhiên như lụt bão và những biến động của thị trường như khủng hoảng kinh tế và những biến động giá cả hàng hóa và dịch vụ xã hội. - Các lý thuyết mới về phát triển nông thôn bắt đầu được mô phỏng theo nhiều các khác nhau dựa vào các phương thức tiếp cận người dân và các vấn đề của họ, cụ thể: (i). Lý thuyết “kinh tế thể chế mới” đã coi trọng ảnh hưởng của thông tin, chi phí trao dịch đối với giảm nghèo và phát triển của các cộng đồng dân cư nông thôn; (ii). Lý thuyết thúc đẩy phát triển sản xuất thông qua các nguyên tắc và quan hệ thị trường kết hợp với thay đổi công nghệ sản xuất truyền thống sang công nghệ hiện đại thay cho định hướng chỉ thúc đẩy thay đổi công nghệ; (iii). Lý thuyết thúc đẩy phi tập trung hóa, dân chủ hóa và nâng cao vai trò của xã hội dân sự (vai trò của người dân nông thôn và các tổ chức của họ); (iv). Lý thuyết phát triển nông thôn với cách tiếp cận mang tính cân bằng và hệ thống kinh tế - xã hội - môi trường từ dưới lên, được gọi là phát triển bền vững, bắt đầu từ cuối những năm 1990 (Sustainable livelihoods) trong đó chứa đựng các mục tiêu mục tiêu giảm nghèo, xã hội và môi trường sinh thái được bảo vệ. Tổ chức Ngân hàng thế giới xác định: “Phát triển nông thôn là một chiến lược bao gồm các hoạt động nhằm cải thiện đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của một nhóm cư dân nông thôn nhất định - dân nghèo ở nông thôn; liên quan đến việc mở rộng ích lợi của quá trình phát triển đến cho những người nghèo nhất ở nông thôn, bao gồm tiểu nông, tá điền và người không có đất canh tác - Phát triển nông thôn gắn với công nghiệp hóa, đô thị hóa và phát triển bền vững. Đặc điểm này phản ánh sự sung túc về kinh tế và bảo tồn tài nguyên, môi trường, sinh thái, khí hậu, an ninh, chính trị, ổn định xã hội do đó những khái niệm phát triển nông thôn cũng không hoàn toàn tập trung vào các khía cạnh kinh tế. Ngày nay, ở các nước như Nhật Bản, Châu Âu, Hàn quốc, Đài loan người ta đang đề cao 21
  22. quan niệm phát triển nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái bền vững và kinh tế đa ngành gọi là “ phát triển nông thôn đa chức năng”. Chức năng bảo vệ và phát triển tài nguyên thiên nhiên nhất là tài nguyên rừng, tài nguyên đất và nước, tài nguyên đa dạng sinh học, khoáng sản. Bảo vệ và phát triển môi trường, bảo tồn và khai thác cảnh quan tự nhiên, duy trì các cân bằng sinh thái; Chức năng bảo tồn và phát triển các di sản văn hoá truyền thống của các dân tộc, của các địa phương. Gìn giữ và khai thác các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, các kiến thực bản địa, các giá trị nhân văn và tài nguyên con người; Chức năng kết hợp quá trình phi tập trung hoá các ngành công nghiệp (phân tán về nông thôn) và đô thị hoá (tạo không gian phát triển các đô thị mới) và chức năng là quá trình gắn kết toàn cầu hoá với phát triển các cộng đồng dân cư nông thôn; Đối với các nước đang phát triển, quan điểm phát triển nông thôn đa chức năng nhấn mạnh vào khía cạnh phát triển tổng hợp cả kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, môi trường bền vững được định nghĩa là “Là sự phát triển đáp ứng đủ các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”11. - Phát triển nông thôn mang tính vùng lãnh thổ, tính địa phương Nông thôn nói chung có thể hiểu là vùng không gian lãnh thổ ngoài các đô thị và các khu công nghiệp lớn. Theo cách hiểu này thì nông thôn là những vùng lãnh thổ bao quanh thành thị và khu công nghiệp. Mỗi đô thị sẽ có các vùng nông thôn bao quanh nó, đô thị càng phát triển mạnh thì vùng nông thôn xung quanh cũng phát triển theo, đó là quy luật của tác động lan tỏa. Như vậy sự khác biệt về trnhf độ phát triển giữa các vùng nông thôn có nguyên nhân do sự khác biệt về trình độ phát triển của các đô thị gần nông thôn. Trên thực tế, trình độ phát triển của các đô thị rất khác nhau về quy mô, hình thức, các quan hệ xã hội và phụ thuộc rất nhiều vào thời gian phát triển. Nhân tố này đã ảnh hưởng mạnh tới sự phát triển của các vùng nông thôn xung quanh. Những khác biệt giữa các vùng nông thôn thể hiện trên khía cạnh sau: Thứ nhất, Khác biệt về phát triển sự phát triển của khu vực nông nghiệp. Ở nhiều vùng nông thôn kinh tế nông nghiệp vẫn là hoạt động chính, nhưng có những vùng ngành du lịch lại phát triển nhanh và chi phối kinh tế vùng, ở một số vùng khác các ngành khai khoáng, công nghiệp chế tạo lại nắm vai trò đầu tàu kinh tế. Sự đa dạng này xuất phát từ lợi thế tự nhiên của từng vùng và ảnh hưởng từ sự phát triển của đô thị trong vùng. 11 Theo định nghĩa của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (WCED) 22
  23. Thứ hai, Sự khác biệt về các nguồn tài nguyên. Có những vùng nông thôn chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhưng có những vùng lại rất nghèo tài nguyên. Sự khác biệt này đã tạo ra sự khác biệt giữa các vùng nông thôn về định hướng phát triển nông nghiệp và định hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác dựa trên khả năng khai thác các nguồn tài nguyên sẵn có tại chỗ. Thứ ba, Sự khác biệt về con người, cộng đồng dân cư. Con người và cộng đồng dân cư ở mỗi vùng nông thôn có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự khác biệt giữa các vùng. Sự khác biệt về con người và cộng đồng dân cư sẽ tạo ra những sắc thái đặc thù riêng của mỗi vùng nông dựa trên khác biệt về con người và cộng đồng của nó. Thứ tư, Sự hỗ trợ của chính phủ. Quá trình toàn cầu hóa đặt ra những vấn đề về hỗ trợ của chính phủ đối với phát triển nông thôn nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng xấu của quá trình này. Theo các tư duy trên đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã phổ biến và khuyếch trương sâu rộng các ý tưởng về phát triển vùng, miền nông thôn. Ở Anh quốc đã hình thành các chương trình đặc thù về “Phát triển nông thôn” (Rural Development) và “Cải tổ ngân sách” (Single Regeneration Budget) và gần đây là các chiến lược phát triển cộng đồng. Ở Ailen có Chương trình về “tiến bộ kinh tế và xã hội” (Programmes for Economic and Social Progress; ở Pháp là “Các cam kết Quốc gia” và “Nghiệp đoàn liên vùng”; ở Phần Lan là “Chương trình phát triển nông thôn dựa trên sáng kiến của cơ sở” (Programmes of Rural Development Based on Local Initiative). Ở EU có chương trình LEADER đối với các vùng khó khăn và chương trình “Hiệp định lao động châu lục” (Territorial Employment Pacts) Trên cơ sở các đặc tính trên đây các Nhà kinh tế Malcolm. Móelay vào năm 2003 đã đưa ra khái niệm về “Phát triển nông thôn theo cộng đồng, địa phương và vùng, miền” như là một trong những chìa khóa để mở ra những bí quyết để phát triển nông thôn theo hướng bền vững. Định nghĩa mà Malcolm đưa ra về phát triển cộng đồng nông thôn là qua trình giải quyết 3 nhiệm vụ cơ bản sau: - Giải quyết những ‘thất bại thị trường’ ở các vùng nông thôn; - Nâng cao “năng lực tự quản lý của cộng đồng từng vùng”, làm tăng năng lực và sự tích cực tham gia của người dân, các tổ chức trong phát triển cộng đồng nơi họ sinh sống; 23
  24. - Hỗ trợ “quyền tự chủ và tự quyết cho cộng đồng địa phương”, nghĩa là tạo cho các ‘tác nhân’ địa phương quyền tự quyết nhiều hơn trong việc quản lý, điều hành các hoạt động trên địa bàn) Nhận xét chung về phát triển nông thôn là: (i). Sự nghiệp của những người dân và cộng đồng của họ ở từng địa bàn, phụ thuộc rất nhiều vào tư duy, văn hóa và kiến thức của những người dân trong từng cộng đồng; (ii). Sự tác động của Nhà nước và Chính phủ có thể làm thay đổi hướng phát triển của nông thôn, song không thể làm thay được người dân và cộng đồng của họ; (iii). Phát triển nông thôn phải dựa vào sự đồng tâm, hưởng ứng của cộng đồng dân cư tại chỗ, không có mô hình chung về phát triển nông thôn cho mọi cộng đồng nông thôn; (iv). Mức độ tổng hợp về kinh tế, xã hội và môi trường trong phát triển nông thôn tùy thuộc vào quy mô của cộng đồng dân cư ở nông thôn mà mỗi quốc gia quyết định lựa chọn, đối với quy mô cộng đồng nhỏ (ở cấp làng xã thì nội dung phát triển nông thôn chỉ bao gồm những vấn đề về xã hội, dân sinh và môi trường, nội dung kinh tế có thể bị hạn chế; ở cấp lớn hơn như vùng liên làng xã, hoặc cấp huyện thì nội dung về kinh tế có điều kiện phát triển mạnh hơn và đầy đủ hơn); (v). Phát triển nông thôn không thể tách rời sự phát triển của đô thị lớn và sự hình thành các đô thị mới ngay trong các vùng nông thôn, quá trình này mang tính đan xen vừa là đô thị hóa, vừa bảo tồn và gìn giữ những giá trị văn hóa của cộng đồng nông thôn, được hình thành và phát triển qua nhiều thế hệ. Sự mất đi của những giá trị này sẽ làm đảo lộn các giá trị xã hội và có thể gây ra những tổn thất cho sự bền vững của nông thôn. 2.2. Vai trò của Nhà nước, thị trường, và cộng động trong phát triển nông thôn Lý luận về phát triển nông thôn đã đưa đến sự xác định vai trò của ba khối chủ thể chính là: Thị trường, Nhà nước và các tổ chức xã hội do người dân nông thôn tự lập ra. Các lý luận về phát triển nông thôn đến nay đều công nhận sự cân bằng về vị trí và vai trò của 3 khối chủ thể này trên mỗi địa bàn nông thôn, coi 3 khối này là 3 đỉnh của tam giác phát triển nông thôn, là nền tảng trong xây dựng chính sách phát triển nông thôn. Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn cho thấy ở mỗi giai đoạn cụ thể thì vai trò của mỗi khối chủ thể có thể gia tăng, có tính nổi trội hơn những khối chủ thể khác. Chẳng hạn, ở 24
  25. Việt Nam trước năm 1980 (thời kỳ kế hoạch hóa tập trung) thì vai trò của nhà nước đã nổi lên, chiếm ưu thế mạnh hơn cả trong phát triển nông thôn; tiếp sau đó, quá trình đổi mới quản lý kinh tế đã làm thay đổi vai trò Nhà nước theo hướng giảm bớt các can thiệp mang tính áp đặt và chủ quan để nhường chỗ cho vai trò của các nhân tố thị trường và quyền tự chủ của các cộng đồng nông thôn. Ngày nay vai trò của Nhà nước dừng lại ở hỗ trợ và thúc đẩy, còn toàn bộ vai trò về quyền tổ chức quá trình phát triển và huy động lực lượng tham gia và hưởng lợi đã thuộc về người dân nông thôn và cộng đồng của họ. Ba thể chế và chính sách trong phát Sơ đồ 2: Mối quan hệ giữa 3 khối chủ thể trong phát triển nông thôn triển nông thôn Nhà nước Ưu thế trước 1980 Thị trường 1982: khủng khoảng, thành Tổ chức dân sự công mở cửa thị trường, thị 1990: đảm bảo tính công bằng, điều trường nông thôn phát triển hòa xã hội, giảm bớt tính phi xã hội của thị trường 2.2.1. Vai trò của Nhà nước. Nhà nước luôn có vai trò quan trọng đối với phát triển nông thôn. Vai trò của nhà nước trong phát triển nông thôn được đề cao trong bối cảnh tự do hóa thương mại và điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở các quốc gia hiện nay. Chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn đã trở thành một trong các chính sách quan trọng, có ý nghĩa với toàn nền kinh tế. Trong đó, các chính sách về thuế, hàng rào kĩ thuật đã tác động trực tiếp đến sản xuất và tiêu thụ nông sản của các hộ nông dân tại nước xuất khẩu và nông dân ngay tại nước phải nhập khẩu. 2.2.2. Vai trò của thị trường. Sau năm 1990, vai trò của thị trường trong phát triển nông thôn đã được nâng lên một bước mới và bắt đầu trở nên quan trọng từ những năm sau này do tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Điều này đã tạo ra sân chơi 25
  26. bình đẳng cho các chủ thể ở nông thôn, trước hết là các hộ nông dân và các tổ chức của họ như HTX, các hội, câu lạc bộ và toàn cộng đồng nông thôn. Nhưng trước sức ép của cạnh tranh thị trường sự tồn tại của các hộ nông dân qui mô nhỏ ngày càng trở nên rất khó khăn và nhiều rủi ro. 2.2.3. Vai trò của các tổ chức dân sự-xã hội (quần chúng). Từ 25 năm trở lại đây, trong nông thôn các nước trên thế giới đã có sự phát triển nhanh chóng về số lượng, sự đa dạng, sự phức tạp của các hình thức tổ chức mang tính kinh tế-xã hội kết hợp do người dân nông thôn tự lập ra. Sự phát triển các tổ chức này diễn ra cùng với quá trình phi tập trung hóa hoạt động quản lý kinh tê-xã hội của Nhà nước đã thúc đẩy hình thành những quan điểm và cách tiếp cận về phát triển nông thôn mới. Đơn vị làng, xã được lựa chọn làm cơ sở cho liên kết cộng đồng để quản lý quản lí các tài sản có chức năng phục vụ nhu cầu cộng đồng, không thể bị phá vỡ. Ở những nơi mà chính quyền làng không đóng vai trò quản lý tài sản cộng đồng, thì việc hình thành những tổ chức của dân trong làng là giải pháp tình thế bởi vì các tổ chức này mang nặng tính truyền thống và rất bảo thủ trước những yêu cầu thay đổi của cuộc sống. III. Kinh nghiệm xây dựng và thực thi chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn một số nước 3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản. Thứ nhất: Cải thiện điều kiện cơ bản sản xuất của ngành nông nghiệp, thực hiện kinh doanh nông nghiệp có hiệu quả cao, giúp nông nghiệp đảm bảo an ninh lương thực và cung cấp ổn định các mặt hàng nông phẩm cần thiết cho quốc dân. Thứ hai: Nâng mức thu nhập của người làm việc trong ngành nông nghiệp bằng hoặc gần bằng những người làm việc trong các ngành nghề khác, đem lại cho người nông dân một cuộc sống phong lưu, dư dả . Thứ ba: Năm 1969 ban hành “Luật chấn hưng nông thôn”, năm 1970 lại tiến hành sửa đổi “Luật ruộng đất” và “Luật trợ nông” đồng thời ban hành chế độ bảo hiểm dưỡng lão nông nghiệp. Năm 1971, chính phủ Nhật đã ban hành “Luật khuyến khích các khu vực nông thôn tham gia vào ngành công nghiệp”, khuyến khích công nghiệp thành phố chuyển về các vùng nông thôn. Có thể nói cơ cấu chính sách của Nhật Bản ngày nay và các luật chủ yếu có liên quan đến chế độ đất đai đều được hình thành trong thời kỳ này. Trong thời gian thực hiện phong trào xây dựng thôn xã, đổi mới nông thôn, năm 1984 chính phủ Nhật bắt 26
  27. đầu sửa đổi “Luật chấn hưng nông nghiệp nông thôn” và “Luật cải cách ruộng đất”. Năm 1987 đã ban hành “Luật quy hoạch làng mạc”, tiến hành quy hoạch lại phạm vi sử dụng đất ở làng mạc và các vùng ven đô. 3.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp. 3.2.1. Về Chính sách phát triển nông nghiệp. Trước bối cảnh nông thôn lạc hậu, an ninh lương thực-thực phẩm không đảm bảo, nước Pháp lựa chọn nông nghiệp là khâu đầu tiên đột phá trong phát triển nông thôn. Để tăng cường đầu tư vào nông nghiệp, năm 1960 nước Pháp đã ban hành “Dự luật chỉ đạo nông nghiệp”, quyết định thành lập “quỹ phong trào điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp”. Để khuyến khích nông dân trẻ làm nông nghiệp, năm 1974 nước Pháp bắt đầu thực hiện chính sách” trợ cấp thoát nông suốt đời”, chỉ cần người nông dân cao tuổi trong toàn quốc nghỉ sản xuất nông nghiệp, trao “quyền kinh doanh” nông nghiệp cho thế hệ trẻ thì đều có thể được hưởng chế độ hưu trí của chính phủ. 3.2.2. Về chính sách đô thị hóa và du lịch hóa nông thôn. Hình thành những khu nhà nghỉ, khu du lịch, vui chơi giái trí, khu bảo tồn thiên nhiên, khu thể thao, khu sản xuất nông nghiệp, khu sản xuất phi nông nghiệp tạo ra một qui hoạch lãnh thổ mới trên toàn nước Pháp. Do đó, nông thôn Pháp thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước, tạo ra tính đặc trưng cao bậc nhất thế giới cho từng vùng về văn hóa, sinh thái, sản phẩm nông sản và thực phẩm. 3.2.3. Chính sách công nghiệp hóa nông thôn. Trên nền tảng phát triển công nghiệp chế biến nông sản, Pháp thực hiện chính sách công nghiệp hóa nông thôn. Nông nghiệp, là nền tảng của nông thôn, nhưng nông nghiệp không quyết định phát triển nông thôn mà phải là công nghiệp chế biến. 3.3. Kinh nghiệm Hàn quốc . Một số bài học rút ra từ kinh nghiệm Hàn Quốc là: (i). Phát huy dân chủ, đưa nhân dân tham gia vào quá trình ra quyết định. Để làm việc này, trước hết nông dân tự bầu ra người lãnh đạo mà họ tín nhiệm, cả nam và nữ. Tổ chức của làng mang tính cộng đồng, không chịu ảnh hưởng của đoàn thể chính trị hoặc chính quyền địa phương gồm 5 đến 10 người để vạch kế hoạch và tiến hành dự án phát triển nông thôn12. Sau đó mọi hoạt động của Chương trình đều được tiến hành thông qua các cuộc họp để nông dân tự ra quyết định lựa chọn công trình, phương thức đóng góp, giải pháp xây dựng, tự chịu trách nhiệm quản lý giám sát công trình. 12 Ở Việt Nam hoạt động phát triển ở địa phương tại cơ sở trước đây do Hợp tác xã và nay chủ yếu do Ủy ban nhân dân địa phương chịu trách nhiệm quản lý. 27
  28. (ii). Tổ chức chương trình từ cơ sở lên Trung Ương, phối hợp chặt giữa các Bộ. Cấp quan trọng nhất là cấp cơ sở, mỗi làng thông qua dân chủ bầu chọn bầu ra "Uỷ ban Phát triển Làng mới" do một thủ lĩnh nam giới và một là nữ giới có quyền ngang nhau chỉ huy. Ở cấp chỉ đạo TW, chương trình do tổng thống trực tiếp lãnh đạo bên dưới là Uỷ ban Phối hợp Trung ương gồm các bộ và Thứ trưởng các Bộ liên quan13. (iii). Xây dựng đội ngũ lãnh đạo ở nông thôn làm nòng cốt cho chương trình phát triển. Mỗi làng nhân dân tự bầu ra người làm lãnh đạo cho phong trào của mình. Để những người lãnh đạo Phong trào ở cấp làng xã thực sự của dân, vì dân, những người lãnh đạo này độc lập với hệ thống hành chính và chính trị ở nông thôn, và không dành cho họ bất kỳ một khoản trợ cấp vật chất nào. Để đào tạo chính qui đội ngũ quan trọng này, Chính phủ đầu tư ba trung tâm đào tạo quốc gia được trang bị rất hiện đại và sử dụng rộng rãi mạng lưới trường nghiệp vụ của các ngành ở địa phương phục vụ công tác tập huấn ngắn hạn cho nông dân. (iv). Tất cả các làng đều lần lượt được tham gia chương trình14. Các giai đoạn của chương trình đều tiến hành đánh giá công khai do các tổ chức phát triển làng của dân tham gia. Các làng làm tốt bước trước mới được đầu tư để tham gia bước sau, làng nào làm kém không được đầu tư và bị công khai chê bai trước công luận tạo nên tinh thần tự hào vì phát triển và xấu hổ vì làm ăn kém. Trở thành niềm phong trào thi đua quần chúng sôi động cả nước. (v). Tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách phát triển nông thôn, trọng tâm là cán bộ cơ sở, sau đó là cán bộ các cấp. Hình thành hệ thống trường, giáo trình có chất lượng. Các quan chức trung ương và địa phương được đưa về cùng sống và theo học với cán bộ cơ sở ở các trường đào tạo phát triển nông thôn15. 3.4. Kinh nghiệm Đài Loan16 3.4.1. Về chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp Đài Loan có nhiều điểm giống Việt Nam là: qui mô ruộng đất trên mỗi hộ nông dân nhỏ, sản xuất lúa nước là chính, có khả năng xuất khẩu nông sản, qui mô nền kinh tế không lớn. 13 Việt Nam chưa có một chương trình điều phối tập trung cho phát triển nông thôn. Các chương trình liên quan do từng Bộ điều hành. 14 Chương trình 135 chọn làng nghèo tham gia chương trình, vì vậy nhiều địa phương nhận nghèo. Phát triển không tạo được động lực thi đua, không thay đổi cách nghĩ của nông dân. 15 Việt Nam chưa có hệ thống đào tạo chuyên môn cho phát triển nông thôn. 16 Đặng Kim Sơn, Vũ Trọng Bình: Một số lí luận về PTNT, chính sách và kinh nghiệm PTNT một số nước. Tài liệu nội bộ, 2007. 28
  29. Học tập Nhật Bản, Đài Loan đã chia đều quỹ đất cho nông dân, phát triển nông hộ quy mô nhỏ, đẩy mạnh nhu cầu tiêu dùng nội địa. Để phát triển nông nghiệp, Đài Loan sử dụng 1/3 số vốn viện trợ tái thiết của Mỹ vào phát triển nông thôn, chủ yếu là phát triển khoa học kỹ thuật, dạy nghề cho nông dân và cấp vốn tín dụng cho nông nghiệp. Suốt trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, nông nghiệp Đài Loan tăng trưởng với mức trung bình 4,5%/năm, chủ yếu nhờ thâm canh tăng năng suất bằng áp dụng kỹ thuật mới mà không tăng thêm vật tư nông nghiệp17. 3.4.2. Chính sách phát triển nghành nghề nông thôn Một điểm đáng chú ý là giai đoạn đầu công nghiệp hóa, công nghiệp phát triển chậm. Mỗi năm chỉ khoảng 0,3–2,3% lao động nông thôn chuyển ra thành phố. Đài Loan đã thực thi chính sách tập trung phát triển ngành nghề nông thôn và chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, thu hút thành công cả số lượng lao động tăng thêm hàng năm và làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Sau năm 1965, các ngành công nghiệp được bắt đầu phát triển nhanh, lao động rút khỏi nông nghiệp chuyển sang công nghiệp tăng gấp 5 lần, lao động nông thôn bắt đầu giảm mạnh, giá lao động tăng, sản xuất nông nghiệp chuyển sang cơ giới hóa. Nhờ có đủ việc làm nên phân phối thu nhập ở nông thôn Đài Loan công bằng. Đài Loan rất thành công trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Chính phủ thành lập 17 khu công nghiệp nông thôn để hỗ trợ phát triển. Các doanh nghiệp thủ công và công nghiệp nông thôn được hỗ trợ tín dụng, công nghệ, được chính phủ bảo trợ ký kêt hợp đồng với nông dân để thu mua nguyên liệu và tiêu thụ nông sản. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ họat động thành công trong việc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp xuất khẩu lớn. Năm 1991, công nghiệp chế biến tạo ra giá trị sản lượng 17,5 tỷ USD/năm (thịt 15%, thức ăn gia súc 12%, đồ uống 18%, xay sát gạo 9% ). Các nhà máy chế biến đều dựa trên quan hệ hợp đồng với nông dân sản xuất nguyên liệu. 3.5. Kinh nghiệm Hà Lan18 3.5.1 Chính sách ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Để duy cao để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm Hà Lan tập trung đầu tư nghiên cứu và áp dụng khoa học, công nghệ 19.Ở Hà Lan, nghề trồng rau-hoa-cây cảnh chủ yếu sản xuất trong nhà kính, sản xuất ngoài trời chỉ chiếm 6% diện tích đất nông nghiệp. Chiếm 25% tổng diện tích nhà kính thế giới, 11.000 ha, hiệu quả tăng 5-6 lần 17 Tương đương với mức tăng trưởng của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới nhưng Việt Nam chủ yếu là nhờ tăng thêm vật tư và diện tích gieo trồng 18 Tài liệu tham khảo: Nguyễn Công Tạn, 2005, Đặng Kim Sơn trích dẫn, 2007. 19 Giai đoạn vừa qua, nông nghiệp Việt Nam tập trung đầu tư tài nguyên, lao động vật tư hơn là công nghệ. 29
  30. sản xuất ngoài trời. Đầu tư nhà kính tốn kém, khoảng 1 triệu USD/ha. Thiết bị điều hành bằng tin học, sản xuất được cơ giới hoá, tự động hoá, gồm các khâu làm ấm, thông gió, hạ nhiệt, tưới nước, bón phân, phun thuốc, thanh trùng 3.5.2. Chính sách phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu20. Hà Lan có ngành công nghiệp chế biến nông sản hùng hậu, hiện đại, gồm chế biến sữa, thịt, thuỷ sản, trứng, khoai tây, rau quả, kẹo bánh, dầu ăn, ngũ cốc, đồ uống, gia vị, phụ liệu thực phẩm, thức ăn nhanh.v.v Để có nguyên liệu cho chế biến, Hà Lan nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu không có lợi thế sản xuất, thông qua chế biến để nâng cao giá trị gia tăng. Hàng năm chi 1,3 tỉ USD, nhập toàn bộ đậu tưong để tiêu dùng trong nước, và chế biến xuất khẩu, xuất siêu 800 triệu USD. Hà Lan là cường quốc sản xuất, xuất khẩu bia mà toàn bộ nguyên liệu sản xuất nhập khẩu, xuất siêu 1997 là 810.000 tấn. Nền nông nghiệp Hà Lan hướng về xuất khẩu, cà chua, bơ, sữa bột xuất khẩu 100% sản lượng. Hà Lan đứng đầu thế giới về xuất khẩu hoa tươi cắt, cây cảnh trong chậu, cà chua, khoai tây, hành tây, trứng gà còn vỏ, pho mát khô, sữa đặc, bia đại mạch bánh và dầu ca cao đứng thứ nhì thế giới về thịt lợn, sản phẩm sôcôla, thuốc lá. Hàng năm mỗi người tạo ra giá trị xuất khẩu 140.600 USD, vượt xa các nước khác (Pháp 39.200 USD, Australia 35.300 USD, Mỹ 19.900 USD). Mức xuất khẩu trên một đơn vị diện tích canh tác đạt 18570 USD/ha (không kể thuỷ sản. Hiệu suất sản xuất của đất ở Hà Lan năm 1991 đạt 2468 USD/ha, hiệu suất lao động đạt 44.339 USD/người, hơn hẳn mọi nước trên thế giới. 3.5.3. Chính sách thúc đẩy phát triển trang trại lớn. Cơ sở của nền nông nghiệp Hà Lan là các trang trại gia đình, tỉ lệ lao động làm thuê rất ít. Các hộ gia đình tiểu nông tự cấp, tự túc, trước đây nhờ tích luỹ vốn đã chuyển sang sản xuất hàng hoá nhỏ, tiếp đó chuyển sang hộ sản xuất chuyên môn hoá, rồi dần dần chuyển thành trang trại lớn hiện đại, sản xuất vì lợi nhuận, tạo nên dạng kinh tế tổ hợp “nông-công-thương”. Các trang trại được khuyến khích tích tụ ruộng đất để có quy mô đủ lớn, gắn liền với quá trình tạo việc làm phi nông nghiệp, và giải thể các trang trại nhỏ, làm ăn kém hiệu quả. Bình quân qui mô trang trại Hà Lan năm 1997 là 18 ha. Năm 1950, cả nước Hà Lan có 400.000 trang trại, đến năm 1980 còn 145.000, năm 1990 còn 125.000, năm 2000 chỉ còn khoảng 100.000. Số lao động nông nghiệp từ 20 Việt Nam trừ một số mặt hàng như hạt điều, đồ gỗ, một số thủy sản, hầu hết nông sản được xuất khẩu thô. 30
  31. 1959 đến 1980, lọc lại trong nông nghiệp một nửa số lao động là nông dân làm ăn giỏi, đam mê với nghề nông, ham muốn lập nghiệp, làm giàu từ nghề nông. Số trang trại kinh doanh đa ngành nghề (kinh doanh hỗn hợp ) ngày càng giảm, năm 1980 là 12,7%, năm 2001 chiếm 9,5%, từ 9.600 trang trại sau 10 năm, giảm xuống còn 6.000 trang trại. Năm 2001, trang trại chuyên môn hoá có trình độ tri thức, kỹ năng cao chiếm tỉ trọng trên 90%, là một nguyên nhân cực kỳ quan trọng đảm bảo hiệu suất sản xuất và năng lực cạnh tranh của nông nghiệp Hà Lan hơn hẳn nhiều nước khác trên thế giới. 3.5.4. Chính sách phát triển các tổ chức của nông dân. Tổ chức Hợp tác xã và các Hiệp hội ngành nghề của nông dân đóng vai trò quan trọng. Các loại Hiệp hội ngành nghề và Hiệp hội thương mại, trong đó Hiệp hội ngành hàng là tổ chức ngang của trang trại liên kết các bộ môn của trang trại, còn Hiệp hội hàng hoá là tổ chức ngành dọc, liên kết khâu cung ứng nguyên liệu đến tiêu thụ sản phẩm của trang trại. 3.5.5. Chính sách tín dụng. Ngân hàng hợp tác, đã có 110 năm lịch sử dịch vụ tiền tệ cho nông nghiệp, hỗ trợ nông dân giải quyết vốn, mở rộng sản xuất, kể cả về tư vấn đầu tư, trở thành nhà cho vay lớn nhất, đảm bảo 90% vốn cho các chủ trang trại, 40% vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cả nước và nhiều hoạt động quốc tế. Năm 2001, tập đoàn ngân hàng Rabobank group là một trong 30 ngân hàng lớn nhất thế giới, có tài sản 140 tỉ USD, đứng thứ 2 trong toàn ngành ngân hàng Hà Lan. 3.6. Kinh nghiệm Trung quốc 3.6.1. Đối sách của Trung quốc trong lĩnh vực nông thôn có thể tóm tắt như sau: - Đa dạng hóa và cải thiện chất lượng sản phẩm nông nghiệp; - Phát triển việc chế biến nông sản hướng tới sản xuất an toàn hơn, dinh dưỡng cao hơn, chất lượng tốt hơn mới có thể phát triển thị trường nông sản; - Khai thác lợi thế so sánh của các địa phương: Những vùng ven biển và ngoại ô thành phố định hướng vào phát triển công nghệ sử dụng nhiều lao động và vốn. Giảm bớt sản xuất lương thực và tăng sản xuất nghề làm vuờn, nghề cá, chăn nuôi giá trị cao. Tăng cường chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa trong nông nghiệp, hạn chế phát triển cây trồng, vật nuôi tiêu tốn nhiều đất đai, nguồn nước; - Phát triển các đô thị vừa và nhỏ thành mạng lưới của đô thị lớn để sẽ thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động, giảm sức ép ở các đô thị lớn; 31
  32. - Thúc đẩy xây dựng môi trường sinh thái và thực hiện phát triển bền vững. Nhà nước hỗ trợ nông dân chuyển sang các hệ thống sản xuất sinh thái, bảo vệ môi trường, tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên; 3.6.2. Điều chỉnh chính sách nông nghiệp ở Trung Quốc. (1). Thúc đẩy hình thành hệ thống thông tin thị trường, cải thiện tính minh bạch của thông tin thị trường để người dân (sản xuất, tiêu dùng và buôn bán) tiếp cận tốt hơn; (2). Phát triển hệ thống quản lí chất lượng sản phẩm, cả hệ thống kiểm tra giám sát của nhà nước cũng như hệ thống quản lí chất lượng nội bộ của doanh nghiệp Trợ giúp nông dân sản xuất có chất lượng; (3). Điều chỉnh chính sách bảo hộ cho nông nghiệp phù hợp qui định của WTO; (4). Thúc đẩy đổi mới quản lí trong nông nghiệp. Phát triển hệ thống quản lí nông nghiệp sang công ty-hộ gia đình nông dân để tăng cường tiếp cận thị trường của nông dân và các tổ chức nông dân; (5). Cải thiện lưu thông nông sản để giảm chi phí lưu thông: (6). Tái cấu trúc hệ thống tài chính, đầu tư cho nông nghiệp và hình thành hệ thống bảo hiểm nông nghiệp; (7). Tái cấu trúc hệ thống nghiên cứu và khuyển nông cho nông nghiệp theo hướng nghiên cứu ứng dụng, mang tính tổng hợp cả kĩ thuật, kinh tế và xã hội. (8). Cải cách hệ thống hộ khẩu nhằm tạo điều kiện cho người dân định cư tại đô thị dề dàng hơn. 3.6.3. Một số biện pháp cụ thể về tam nông của Trung quốc như sau: Đất đai Thực hiện chính sách đất đai dễ dãi để thu hút đầu tư. Nhà nước mua rẻ đất đai của người dân sau đó cho doanh nghiệp thuê và bán với giá cao. Nhưng nhiều nơi, chính quyền đia phương xác định giá không minh bạch, bán đất cho doanh nghiệp giá cao. Cải cách sở hữu: Hiện nay ở Trung quốc sở hữu đất đai là nhà nước, tại nông thôn, quyền sở hữu rất khác nhau. Tại cấp thôn, UBND thôn, là đại diện quyền sở hữu của người dân trong thôn. Quyền sử dụng đất của người dân, được xác định mang tính chất rất ổn định, gần như quyền tư hữu. Đất sử dụng 30 năm, có thể kéo dài 70 năm. Người dân có quyền chuyền quyền sử dụng đất cho người khác, Ủy ban thôn chứng thực cho giao dịch này. Người dân mong muốn chính sách đất đai vĩnh cửu, vĩnh viễn. Mặc dù vậy do mâu thuẫn giữa tư hữu hóa và nghèo đói, bảo vệ tài nguyên. Quá trình sử dụng đất đai chưa 32
  33. thực sự ổn định, đang phát triển, do vậy trong thời gian tới Trung quốc sẽ chưa thay đổi quan điểm quản lí đất đai. Dựa trên quan điểm: 1) tăng người nhưng không tăng đất; 2) Giảm người nhưng không giảm đất. Hiện nay tại Trung quốc cũng đang tranh luận có chia lại đất hay không, hay cứ để như vậy. Một số nơi có thử nghiệm: 80% đất chia lại, 20% để lại làm đất tập thể. Thời gian sử dụng đất: Đồng bằng 50 năm, Miền núi 70 năm. Tín dụng nông thôn. - Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nông thôn (thủ tục vay và lãi suất), đặc biệt xác định danh sách các doanh nghiệp đầu rồng tại từng vùng để hỗ trợ. - Hỗ trợ phát triển hệ thống tín dụng nhỏ kiểu Gramy Bank của Băng la dét (Châu phi) cho các vùng khó khăn. - Hỗ trợ, cổ vũ các địa phương phát triển các quĩ phát triển xã hội, lãi suất được để lại địa phương. - Cho phép các ngân hàng tư nhân, hộ kinh doanh tín dụng thành lập và phát triển: Việc này đã chính thức hóa kinh doanh tiền tệ, giảm cho vay nặng lãi ở nông thôn. Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh tiền tệ, nếu có hơn 10 vạn NDT, nếu xin phép sẽ cho đăng kí kinh doanh tín dụng. Những hộ này không được phép huy động vốn. Cổ vũ các tổ chức xã hội, cá nhân thành lập các quĩ cho vay. Phát triển các tổ chức, hiệp hội, HTX - Ngày 1/07/2007, đưa ra luật tập thể các ngành nông nghiệp, luật HTX chuyên ngành của nông dân. Toàn bộ Trung quốc có 150 nghìn HTX nông nghiệp, chủ yếu nằm ở Miền đông và Miền trung. Số lượng HTX này rất thấp so với qui mô của nền kinh tế Trung quốc. Nhà nước khuyến khích thành lập các hội kinh tế. Kiên quyết không khuyến khích tồn tại và thành lập các HTX như thời bao cấp. Mặc dù có sự khuyến khích phát triển, nhưng các HTX chủ yếu vẫn nằm trong tay một số người, ông chủ, các HTX gần như doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Trung quốc thúc đẩy phát triển mạnh các HTX chuyên ngành theo ngành hàng, phát triển các hiệp hội ngành nghề theo ngành, tăng cường liên kết dọc. - Chính sách hỗ trợ liên kết nông dân - doanh nghiệp: nhà nước cổ vũ, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu rồng liên kết với nông dân để phát triển. Miễn giảm thuế Do đặc thù Trung quốc mang tính lịch sử, đất nước Trung quốc chủ yếu sống bằng nền nông nghiệp và nông dân, vì vậy người dân đóng góp quá nhiều. Trước khi miễn 33
  34. giảm, thuế nông nghiệp khoảng 30 tỷ NDT, các loại thế khác 100 tỷ NDT. Khi thu thuế nông nghiệp, địa phương giữa một phần, phần còn lại Trung ương thu. Hiện nay tất cả các loại thuế này đã được miễn không thu nữa. Việc miễn giảm thuể đã đặt chính quyền cơ sở tại nhiều nơi gặp khó khăn trong đảm trách dịch vụ công và phát triển nông thôn. Đặc biệt tại vùng nghèo, vùng khó khăn. Môi trường Đại hội 17 Đảng CS Trung quốc, TBT Hồ Cầm Đào đã đề cập cần cải thiện tình hình môi trường nông thôn. Ban đầu Trung quốc không ý thức được vấn đề, hiện nay TW đã đưa ra các yêu cầu nghiêm ngặt. Nếu các cơ sở sản xuất không đạt yêu cầu về môi trường, sẽ đóng cửa không cho sản xuất. Mô hình nông thôn mới Tại các khu vực thử nghiệm, các mô hình nông thôn mới được chú trọng xây dựng theo các mức độ, qui mô khác nhau. Những mô hình này mang tính đa dạng tùy theo cấp vùng, không có bộ tiêu chí chuẩn áp đặt cho mọi nơi. Để định hướng cho nội dung này, cuối năm 2004, TW Trung quốc đưa ra mục tiêu xây dựng nông thôn mới. 1. Sản xuất và kinh tế phát triển 2. Đời sống và sinh hoạt giàu có, thịnh vượng 3. Xã hội nông thôn văn minh 4. Môi trường nông thôn sạch sẽ, phong cảnh nông thôn mang đậm tính thiên nhiên, sinh thái tự nhiên 5. Quản lí nhà nước và cộng đồng dân chủ, vai trò tự chủ của ngươi dân trong xây dựng kinh tế, xã hội và quản lý đời sống được nâng lên. 34
  35. Chương II PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN I. Phương pháp luận về phân tích, đánh giá chính sách phát triển NN, NT 1.1. Mục đích của phân tích, đánh giá chính sách phát triển NN, NT Phân tích, đánh giá chính sách nông nghiệp, nông thôn là một khoa học dựa trên cơ sở các lý thuyết kinh tế vĩ mô, vi mô về các đối tượng hoạt động kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn và mối quan hệ giữa chúng. Mục đích của phân tích, đánh giá chính sách nông nghiệp, nông thôn nhằm tìm ra các căn cứ khoa học giúp cho các nhà hoạch định chính sách lựa chọn phương án có hiệu quả để đạt được mục tiêu đề ra. Phân tích, đánh giá chính sách nông nghiệp, nông thôn là cần thiết nhằm chuẩn bị cho các nhà hoạc định chính sách bổ sung, lựa chọn đúng đắn các chính sách, đồng thời giúp cho việc hiểu biết và nắm được sự vận động của chính sách. Phân tích, đánh giá chính sách nông nghiệp, nông thôn có quan hệ đến tất cả những vấn đề có liên quan đến nông nghiệp, nông thôn; từ những thành quả của sản xuất nông nghiệp đến việc phát triển toàn diện nông thôn; bố trí sản xuất nông nghiệp trong mối liên hệ với sự phát triển nền kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô đến việc giải quyết những vấn đề của sự phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đối với các nước đang phát triển thì quá trình phát triển một nền nông nghiệp, nông thôn bền vững sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội và giữ vai trò quan trọng đối với phát triển toàn kinh tế - xã hội. Vì vậy, phân tích chính sách nông nghiệp, nông thôn luôn trở thành tất yếu để tạo ra sự hiểu biết nhất quán về quá trình vận động của lĩnh vực này và tìm ra sự can thiệp hữu hiệu của Nhà nước khi quá trình vận động đó không đi theo định hướng tích cực. Việc phân tích ảnh hưởng của các chính sách giúp cho các cơ quan các cấp, các lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách thấy rõ những tác động đúng hướng hay không đúng hướng của Chính phủ đối với con đường phát triển nông nghiệp, nông thôn. Từ đó rút ra những cải tiến, hoàn thiện hay xây dựng mới những chính sách kinh tế -xã hội đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn. Khi phân tích chính sách cần lưu ý đến các mục tiêu đề ra đạt đến mức nào? Những mục tiêu nào chưa đạt được?. Mặt khác phải xem xét các văn bản, chính sách có liên quan đến việc thực hiện mục tiêu đó. Có thể có cả mục tiêu kinh tế và phi kinh tế. Khi xem xét mục tiêu, phải trả lời câu hỏi ai hưởng lợi từ chính sách đó? Chẳng hạn khi giải quyết vấn đề an ninh lương thực thì vấn đề đặt ra là nhập khẩu lương thực hay tự 35
  36. túc lương thực (sản xuất trong nước). Chính sách an ninh lương thực có lợi cho ai, người sản xuất hay người tiêu dùng?, hay cả hai. Hoặc khi đặt ra vấn đề trợ giá nông sản phẩm, thì cơ quan hoạch định chính sách cần tính toán lựa chọn về hình thức trợ giá nào (trợ giá cho đầu vào hay đầu ra), mức trợ giá bao nhiêu và thời gian kéo dài chính sách này bao lâu, đồng thời cần xem xét những ảnh hưởng nghịch của chính sách này tới các chủ thể có liên quan, ví dụ ngân sách nhà nước sẽ mất mát thế nào nếu giành quá nhiều tiền cho trợ giá?, trợ giá liệu có làm gia tăng tính lệ thuộc của người sản xuất vào chính sách không? Tóm lại, khi xem xét và phân tích một chính sách nào đó đối với nông nghiệp, nông thôn, chúng ta cần phải lưu ý đến những ảnh hưởng tích cực và tiêu của chính sách đó tới các chủ thể trực tiếp hưởng lợi chính sách và những chủ thể khác, cần lưu ý đến tác động lâu dài của chính sách và quy mô tác động của nó đối với kinh tế vĩ mô và vi mô. Đồng thời phải lưu ý đến những đặc điểm riêng của chính sách nông nghiệp không giống với những logic về chính sách đối với các ngành khác trước hết là công nghiệp. 1.2. Phương pháp phân tích chính sách và các giai đoạn phân tích 1.2.1 Về phương pháp Phân tích chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn là đánh giá quá trình hình thành, triển khai và những ảnh hưởng của chính sách đó tới kinh tế, xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn. Nói cách khác là đánh giá sự vận hành của một chính sách theo chu trình đã trình bày ở Chương I. Kết quả của phân tích là những phát hiện về tác động tích cực hay tiêu cực (hạn chế) của một chính sách nào đó đối với nông nghiệp, nông thôn. Để phân tích, đánh giá một hoặc một số chính sách nào đó đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, một số phương pháp cơ bản là: - Phương pháp kinh tế học vĩ mô; - Phương pháp kinh tế học vi mô; - Phương pháp phân tích ngành sản phẩm (chuỗi giá trị). a. Về phương pháp kinh tế vĩ mô Phương pháp này được sử dụng với mục đích nhằm xác định cơ sở khoa học cho việc bố trí các nguồn lực vào các mục tiêu phát triển kinh tế sao cho có hiệu quả cao nhất. Phương pháp phân tích vĩ mô cho phép xác định, đánh giá sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường như thế nào?, tích cực hay tiêu cực, từ đó gợi mở phương thức can thiệp của Nhà nước vào thị trường như thế nào thì phù hợp và mang lại hiệu quả cao 36
  37. nhất. Ngoài ra phân tích kinh tế vĩ mô còn cho phép đánh giá sự hưởng lợi của các đối tượng điều chỉnh của chính sách, từ đó xem xét được những đối tượng hưởng lợi nhiều và những đối tượng hưởng lợi ít, và bộ phận không được hưởng lợi từ chính sách, do những thất bại của thị trường hay thất bại của chính sự can thiệp của chính sách. Phương pháp phân tích kinh tế học vĩ mô cho phép đánh giá tính như hiệu quả kinh tế - xã hội và công bằng trong sự phát triển của kinh tế - xã hội dưới tác động của can thiệp chính sách nhà nước. Hai trường hợp can thiệp chính sách thường xảy ra như sau: - Sự can thiệp chính sách là phù hợp (nghĩa là chính sách đúng) trong các trường hợp sau: * Tăng cường, bảo đảm và cung cấp các hàng hóa công phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn như nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp các dịch vụ công giáo dục, y tế, nước sạch, môi trường * Kết hợp hài hòa các lợi ích của các nhân với lợi ích toàn xã hội; * Hạn chế các lực lượng thị trường đang hướng tới độc quyền, phân bổ không hợp lý các nguồn lực để phát triển NN, NT, hướng tới sự cân bằng mới; * Trợ giúp những người khó khăn, gặp rủi ro và mất an sinh, đời sống; - Ngược lại sự can thiệp của Chính sách là không phù hợp (gọi là không đúng) trong các trường hợp sau - Làm giảm thu nhập quốc dân; - Làm tăng hoặc giảm giá nông sản tùy tiện không theo quy luật cung cầu trên thị trường bình thường; - Hạn chế đối với xuất, nhập khẩu nông sản đẫn đến làm méo mó thương mại nông sản của Việt Nam với thế giới thông qua các hạn mức (quota) hoặc các biện pháp khác; - Tạo ra sự cách biệt không bình thường giữa giá nông sản trong nước với giá nông sản cùng loại trên thị trường quốc tế; - Trợ giá các vật tư đầu vào và hỗ trợ chi phí xuất khẩu nông sản; - Những trường hợp can thiệp khác gây méo mó các hoạt động của thị trường đầu vào và đầu ra của sản xuất nông nghiệp. b. Phương pháp kinh tế vi mô Phương pháp kinh tế vi mô có mục đích phân tích các hành vi của các chủ thể kinh tế trong NN, NT trước những tác động, ảnh hưởng của các nhân tố thị trường như: 37
  38. sự thay đổi của các loại giá đầu vào đầu ra của sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng hóa nông sản. Phân tích vi mô cho phép làm rõ những tín hiệu phát sinh từ các chủ thể tham gia sản xuất kinh doanh trong NN, NT và từ đó cho phép nhận biết sự phân bổ các nguồn lực tự nhiên, lao động và vốn cho sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản có hiệu quả hay kém hiệu quả. Trong phân tích vi mô, người ta thường chú ý tới sự thay đổi hành vi của các tác nhân trên thị trường trước sự thay đổi của giá cả và những điều kiện khác như: chi phí giao dịch, chi phí tiếp cận thị trường (tiếp thị), khả năng tăng năng lực sản xuất Phân tích kinh tế vi mô thường dựa vào những quy luật biến đổi của thị trường đầu vào, đầu ra của sản xuất và những phản ứng của người sản xuất (bên cung và người tiêu dùng (bên cầu). Trong đó, không phải lúc nào cũng có đông người mua, đông người bán, nghĩa là không có sự can bằng về cung cầu ổn định, bất biến; không có sản phẩm nông sản đồng nhất về mọi mặt chất lượng, mẫu mã và giá bán. Người tiêu dùng và người bán thường không hoặc khó gặp nhau (ứng thuận với nhau) về nhu cầu và giá cả hàng hóa. Mặt khác thị trường nông sản không thể có tự do cạnh tranh thuần túy, đồng nghĩa với không có sự tham gia thị trường tùy tiện, mà luôn phải tuân thủ những quy định có tính chất kiểm soát thị trường từ phía Nhà nước hoặc từ phía các tổ chức Hiệp hội ngành hàng. Ngoài ra sự hạn chế tự do cạnh tranh còn xuất phát từ đặc điểm sử dụng tài nguyên trong sản xuất nông nghiệp, nghĩa là việc sử dụng tài nguyên trong sản xuất nông nghiệp không thể tùy tiện và không thể theo ý muốn chủ quan, Khi các nguồn tài nguyên trở nên hạn chế thì việc sử dụng chúng trong sản xuất nông nghiệp càng trở nên khó khăn và bị kiểm soát ngặt nghèo hơn Phương pháp phân tích kinh tế học vi mô đóng vai trò là công cụ để phân tích sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường, nơi gặp nhau của người sản xuất và người tiêu dùng. Đối với người sản xuất (bên cung) thì việc phân bổ nguồn nhân lực sản xuất hạn hẹp của họ như thế nào có lợi nhất sẽ có ý nghĩa quan trọng, nghĩa là với nguồn lực hạn hẹp họ phải đạt được thu nhập lớn nhất, lợi nhuận lớn nhất. Nói cách khác là quy luật tối đa hóa lợi nhuận và tối thiểu hóa chi phí trong những điều kiện sản xuất cụ thể. Trong khi đối với người tiêu dùng (bên cầu) với túi tiền có hạn nhưng họ lại muốn đạt được một sự thỏa dụng tối đa các hàng hóa nông phẩm mà họ có nhu cầu. Phương pháp vi mô cho phép chúng ta xem xét thái độ và cách ứng xử của người sản xuất và người tiêu dùng trong quan hệ kinh tế thị trường. Từ đó cho phép quyết 38
  39. định lựa chọn chính sách nên tác động vào khâu nào, tác nhân nào để điều chỉnh các quan hệ thị trường giữa bên cung và bên cầu đạt tới sự hữu dụng cao nhất cho cả hai bên và bền vững. Phương pháp này đòi hỏi phải vận dụng các kiến thức, các khái niệm và công cụ của kinh tế học vi mô và một trong những phương pháp thường được ứng dụng là phương pháp phân tích ngành sản phẩm. c. Phương pháp phân tích ngành sản phẩm (chuỗi giá trị nông sản) Phương pháp phân tích ngành sản phẩm là phương pháp phân tích kinh tế học vi mô, dựa trên nguyên tắc miêu tả, làm rõ toàn bộ những hoạt động và hành vi của các tác nhân tham gia sản xuất và chế biến và tiêu thụ một sản phẩm nào đó. Để làm được điều này, các nhà kinh tế chia hoạt động sản xuất một sản phẩm nào đó thành một chuỗi các khâu (công đoạn) từ điểm xuất phát tới điểm cuối cùng của sản phẩm, tạo thành chuỗi giá trị của ngành sản phẩm, trong đó có sự tham gia của nhiều tác nhân khác nhau, với vai trò và lợi ích riêng. Phương pháp này cho phép xác định được mức độ tham gia về vật chất và giá trị của các tác nhân trong từng công đoạn cụ thể, từ đó phác thảo các tài khoản kinh tế tương ứng đối với từng tác nhân, thể hiện sự tham gia của chúng vào ngành sản phẩm (chuỗi giá trị) Thông qua phân tích ngành sản phẩm có thể biết được sự phân bổ thu nhập giữa các tác nhân trong chuỗi, xác định được tính hợp lý và chưa hợp lý trong tham gia và phân phối lợi ích chung tạo ra từ toàn chuỗi, từ đó đưa ra cơ sở để thiết kế các giải pháp tác động, nhằm điều chỉnh lại sự tham gia và phân phối lợi ích giữa các công đoạn (khâu) trong toàn chuỗi hợp lý hơn. Với ý nghĩa đó phương pháp phân tích ngành sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong phân tích chính sách NN, NT. Tuy nhiên phương pháp này chưa được ứng dụng thường xuyên trong công tác phân tích và hoạch định chính sách, mà đang còn dừng lại ở nghiên cứu và thử nghiệm 1.2.2 Các giai đoạn của quá trình phân tích Thông thường, phân tích chính sách trải qua 3 giai đoạn là: chuẩn đoán, đánh giá và kết luận, đề xuất định hướng điều chỉnh hoặc thay đổi chính sách. a. Chuẩn đoán. Là khâu khởi đầu của quá trình phân tích chính sách, bao gồm các hoạt động: thu thập thông tin, điều tra khảo sát, xử lý các thông tin thứ cấp và tổng hợp tình hình (hiện trạng) để rút ra những thông tin cần thiết về đối tượng chịu điều chỉnh (hưởng lợi) của chính sách. Quá trình này phải được tiến hành một cách tỷ mỷ, cẩn thận giúp cho sự xem xét, chuẩn đoán tình trạng của đối tượng điều chỉnh của chính sách được chính xác nhất. 39
  40. b. Đánh giá những ảnh hưởng, tác động của chính sách tới đối tượng điều chỉnh của chính sách. Hoạt động này bao gồm những phân tích định tính và định lượng để làm rõ các sự ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến sự vận động, hành vi của đối tượng điều chỉnh (hưởng lợi) của chính sách. Trong thực tế có rất nhiều vấn đề liên quan, ảnh hưởng tới hành vi của đối tượng điều chỉnh như: thay đổi cung - cầu đối với sản phẩm do các đối tượng điều chỉnh làm ra; biến động của giá cả thị trường; thay đổi cơ chế tổ chức và những quan hệ hành chính-xã hội nơi đối tượng điều chỉnh của chính sách hoạt động. Vì vậy trong đánh giá ảnh hưởng cần tiếp cận theo các nhóm nhân tố tác động để đánh giá. Cụ thể. - Thuộc lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: Bao gồm các nhân tố kĩ thuật như: sinh thái và sản xuất cơ bản, xã hội nhân chủng học, hệ thống sản xuất Phân tích này có ý nghĩa cơ bản nhằm đánh giá tiềm năng, tìm ra thuận lợi, khó khăn thông qua tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tìm ra nhân tố để phát triển nông nghiệp. Sự can thiệp của Nhà nước thông qua chính sách như thế nào? - Thuộc lĩnh vực môi trường kinh tế - xã hội của khu vực sản xuất nông nghiệp bao gồm: giá cả thị trường, cơ chế tổ chức Khi phân tích nhóm các nhân xã hội - nhân khẩu học: cần lưu ý đến từng mặt của sản xuất (cung) nhất là nguồn lực. Tác động của Nhà nước thông qua chính sách đối với nhóm này như thế nào cho hiệu quả nhất, chẳng hạn như: hạn chế sinh đẻ, bình đăng giới, đào tạo, giáo dục, chăm sóc sưc khỏe c. Rút ra các kết luận về mặt thành công và hạn chế của việc thực thi từng chính sách và đề xuất các hướng điều chỉnh chính sách cho giai đoạn tiếp theo phù hợp hơn với thực tiễn. Quá trình phân tích chính sách sẽ kết thúc khi đưa ra được những kết luận về ảnh hưởng, tác động tích cực và chưa tích cực (hạn chế) của từng chính sách cụ thể theo những mục tiêu đề ra. Nếu các đối tượng chịu tác động của chính sách thay đổi hành vi và phát triển theo đúng hướng mục tiêu đề ra, thì chính sách đó được xem là thành công và có tác động tích cực. Ngược lại một chính sách được xem là chưa thành công, nếu như các mục tiêu của nó không đạt được, các đối tượng chịu tác động của chính sách không hoặc ít thay đổi hành vi của chúng theo mục tiêu mà chính sách đó đề ra. Trong cả hai trường hợp trên, cơ quan hoạch định có nghĩa vụ xem xét các kết quả phân tích và triển khai các điều chỉnh theo đề xuất của kết quả phân tích d. Các công cụ thường sử dụng trong phân tích, đánh giá chính sách. 40
  41. Có nhiều công cụ khác nhau để phục vụ cho công tác đánh giá chính sách (tác động của chính sách), đó là các công cụ định tính và định lượng khác nhau. Những công cụ phổ biến thường được sử dụng trong đánh giá chính sách là: - Về định tính bao gồm: Thực hiện so sánh các kết quả của cùng một chính sách trong triển khai ở các địa bàn khác nhau; thực hiện đánh giá đối tượng điều chỉnh của chính sách trong trường hợp thực thi chính sách và trong trường hợp không triển khai chính sách; đánh giá đối tượng điều chỉnh của chính sách bằng công cụ SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức); Phân tích định tính về phản ứng của đối tượng điều chỉnh về những nội dung, chế độ của chính sách khi triển khai nó vào thực tiễn - Về định lượng bao gồm: Đánh giá ảnh hưởng của chính sách thông qua tính toán mức hưởng lợi và chi phí giao dịch mà đối tượng điều chỉnh phải bỏ ra để tiếp cận chính sách; sử dụng các mô hình kinh tế lượng phù hợp để đánh giá mức độ tác động cụ thể của chính sách đối với từng đối tượng cụ thể. Nhìn chung các công cụ định lượng còn ít được sử dụng do đòi hỏi chuyên gia có trình độ và chuyên môn cao va hệ thống số liệu tương đối đầy đủ, phù hợp, đôi khi phải là dãy số liệu mang tính hệ thống theo thời gian. 1.3. Các tác nghiệp trong phân tích ngành sản phẩm 1.3.1. Xác định các khâu, tác nhân và dòng vật chất trong ngành sản phẩm Đây là bước đầu tiên để tiến hành phân tích ngành sản phẩm. Yêu cầu chủ yếu của bước này là : a. Xác định các khâu (công đoạn) của ngành sản phẩm, thiếu bất cứ khâu nào cũng không tạo thành chuỗi giá trị của ngành sản phẩm; b. Xác định các tác nhân (chủ thể) tham gia hoạt động trong từng công đoạn của ngành sản phẩm và các đặc điểm, chức năng của từng nhóm. Trong xác định các tác nhân tham gia ngành sản phẩm cần làm rõ chức năng của chúng trong ngành sản phẩm. Chẳng hạn: xác định chức năng của các tác nhân trong ngành sản phẩm thành những nhóm đồng nhất theo quan điểm phân tích. Đồng thời xác định vị trí của các cơ quan tác động trực tiếp đến hoạt động của ngành sản phẩm. Có thể sắp xếp các tác nhân theo thứ tự trao đổi hàng hóa dịch vụ giữa chúng với nhau theo hướng từ sản xuất nguyên liệu ban đầu tới các sản phẩm trung gian và tới sản phẩm tiêu dùng cuối cùng. Mỗi tác nhân tham gia trong ngành sản phẩm đều được mô tả cụ thể những chức năng nhất định mà chúng thực hiện. Chức năng của mỗi tác nhân được xác định theo hoạt động chủ yếu mà nó thực hiện trong ngành sản phẩm. Có thể phân loại các chức năng của các tác nhân theo cách sau: 41
  42. * Chức năng phục vụ : bao gồm các hoạt động cung ứng đầu vào cho hoạt động sản xuất khác nhau trong ngành sản phẩm; * Chức năng trực tiếp sản xuất, tạo ra sản phẩm ban đầu, sản phẩm trung gian; * Chức năng chế biến thô và chế biến tinh tạo ra sản phẩm cho tiêu dùng cuối cùng; * Chức năng thương mại, thực hiện các hoạt động bán buôn, bán lẻ, xuất khẩu các sản phẩm ra nước ngoài; Cách xác định và phân nhóm các tác nhân theo chức năng như trên sẽ giúp ta có thể hình dung được hoạt động, vai trò và vị trí của mỗi tác nhân trong ngành sản phẩm, đồng thời góp phần xác định được hướng trao đổi các luồng hàng giữa các tác nhân c. Xác định khối lượng các dòng vật chất (vật tư, sản phẩm trung gian) lưu chuyển qua lại giữa các tác nhân trong từng khâu (chiều ngang) và giữa các khâu (chiều dọc) trong toàn ngành sản phẩm 1.3.2. Xác định các sản phẩm trung gian và cuối cùng của ngành sản phẩm a. Mô tả các sản phẩm trung gian, tạo ra trong ngành sản phẩm từ khâu đầu đến khâu cuối cùng theo nguyên tắc chỉ tính các sản phẩm được dẫn xuất từ sản phẩm chính, (xuất hiện ngay từ đầu của chuỗi) thông thường đó là sản phẩm mà tên của nó được dùng luôn là tên của ngành sản phẩm (ngành sản phẩm lúa, ngành sản phẩm chè, ngành sản phẩm cà phê ) b. Các sản phẩm tiêu dùng cuối cùng là các sản phẩm được người tiều dùng sử dụng trực tiếp phục vụ cho đời sống của họ như ăn, mặc sử dụng hàng ngày. Các sản phẩm này được đưa ra bán trên thị trường. Cần lưu ý những sản phẩm mua về để tiếp tục chế biến ra các sản phẩm khác để bán đi thì chưa được gọi là sản phẩm cuối cùng. 1.3.3. Xác định phạm vi không gian và thời gian của ngành sản phẩm a. Phạm vi về không gian của ngành sản phẩm. Là phạm vi về mặt địa giới hành chính, nơi diễn ra các hoạt động tạo nên ngành sản phẩm, hay nói cách khác là diễn ra các hoạt động trao đổi giữa các tác nhân trong từng khâu và giữa các khâu của toàn ngành. Những tác nhân nằm ngoài phạm vi này sẽ không được tính tới. Phạm vi không gian của ngành sản phẩm được xác định tùy thuộc vào yêu cầu phân tích, có thể là trong nội bộ một doanh nghiệp, một huyện, một tỉnh, một vùng, một nước hay một nhóm nước . Những trao đổi hàng hóa vượt qua phạm vi địa giới đã xác định được coi là những khâu tiêu thụ cuối cùng, người phân tích không cần đi tiếp để nghiên cứu, mặc 42
  43. dầu có thể còn diễn ra nhiều hoạt động tiếp nối và tạo ra nhữn phẩm tring gian mới của ngành sản phẩm. b. Phạm vi thời gian. Là giới hạn về khoảng thời gian cụ thể diễn ra hoạt động của các tác nhân tham gia để phân tích hoạt động, trao đổi giữa chúng trong ngành sản phẩm. Có thể là một quý, một năm, 5 năm, tùy thuộc vào tính chất về thời gian diễn ra hoạt động của từng ngành sản phẩm. Việc xác định phạm vi thời gian trong phân tích ngành sản phẩm rất quan trọng nhằm loại trừ ảnh hưởng biến động của yếu tố ngoại biên như: giá cả, tỷ giá hối đoái, những thay đổi về thể chế làm cho hoạt động cảu ngành sản phẩm thay đổi theo. Việc xác định rõ phạm vi về mặt thời gian có ý nghĩa bảo đảm tính chính xác và hiện thực của các phân tích. Tóm lại, trong phân tích ngành sản phẩm cần xác định cụ thể về loại sản phẩm, không gian, thời gian hoạt động của các tác nhân trong ngành. 1.3.4. Lập sơ đồ các mối quan hệ trong ngành sản phẩm a. Tính toán luồng vật chất và tiền tệ - Các tác nhân trong một ngành sản phẩm hoạt động kinh doanh dựa trên các mối quan hệ trao đổi hàng hóa và thanh toán theo đúng nguyên tắc thị trường. Các hoạt động trao đổi này bao gồm trao đổi giữa các tác nhân trong phạm vi một ngành sản phẩm và trao đổi giữa các tác nhân trong ngành sản phẩm với tác nhân ngoài phạm vi ngành sản phẩm - Các luồng hàng hóa trao đổi được xác định theo nguyên tắc từ đầu nguồn tới cuối nguồn, nghĩa là từ sản phẩm ban đầu tới sản phẩm tiêu dùng cuối cùng (kể cả xuất khẩu). Luồng trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các tác nhân với nhau kết thúc ở đầu ra của toàn bộ ngành sản phẩm. Trong toàn bộ ngành sản phẩm, các luồng vật chất được trao đổi giữa các tác nhân trong khâu đầu tiên tới khâu cuối cùng. Do đó cần xác định hướng trao đổi các hàng hóa giữa các tác nhân và đặc tính hàng hóa mà tác nhân đó sử dụng ở đầu vào và đầu ra. Các luồng hàng trao đổi giữa các tác nhân bao gồm: hàng hóa khởi điểm và hàng hóa cuối cùng; hàng hóa đầu vào, đầu ra đối với mỗi tác nhân; Số lượng và giá cả hàng hóa đầu vào, đầu ra của mỗi tác nhân; Khối lượng và giá cả hàng hóa trao đổi giữa các tác nhân trong ngành sản phẩm theo trình tự từ các tác nhân khởi đầu tới tác nhân cuối cùng; Khối lượng và giá cả hàng hóa trao đổi giữa các tác nhân trong ngành sản phẩm với các tác nhân ngoài phạm vu ngành sản phẩm 43
  44. Khi tính toán khối lượng hàng hóa trao đổi giữa các tác nhân cần lưu ý đến hệ số kỹ thuật. Ví dụ hệ số kỹ thuật giữa thành phẩm cuối cùng đầu ra với nguyên liệu đầu vào như tỷ lệ giữa gạo và thóc, giữa thịt lợi hơi và thịt lợn móc hàm: tỷ lệ hao hụt trong quá trình bảo quản vận chuyển, chế biến. b. Lập sơ đồ ngành sản phẩm - Sơ đồ ngành sản phẩm là mô phỏng sự kết nối giữa các tác nhân trong ngành sản phẩm theo một trật tự nhật định của luồng lưu chuyển hàng hóa từ khâu đầu tới khâu cuối. - Sơ đồ ngành sản phẩm được phản ánh toàn bộ các mối quan hệ giữa các tác nhân trong ngành sản phẩm, thể hiện được các nội dung sau: số lượng các tác nhân hoạt động trong ngành sản phẩm, các mối quan hệ giữa các tác nhân trong một ngành sản phẩm, luồng trao đổi hàng hóa giữa các tác nhân trong ngành sản phẩm, mối quan hệ giữa các tác nhân trong và ngoài ngành sản phẩm. - Sơ đồ tổng quát của ngành sản phẩm trong nông nghiệp như sau 44
  45. ThÞ tr­êng n­íc ngoµi, trong n­íc Tinh chÕ, b¸n thµnh phÈm Tiªu thô Hé gia DN đinh B¸n thµnh phÈm, §.lý H.®ång gg thµnh phÈm ChÕ biÕn H.®ång SP s¬ chÕ, §.lý SP t­¬i Trång DN DN Hé VËt t­ NN, C«ng gia H. ®ång nghÖ, Gièng Tù do đinh ThÞ tr­êng ®Çu vµo (trong n­íc, n­íc ngoµi) -S ơ 45
  46. đồ mô phỏng ngành sản phẩm trong chăn nuôi, chế biên và tiêu thụ thịt lợn Các tác nhân dịch vụ chăn nuôi: giống; thú y, tín dụng, thức ăn gia súc, thụ tinh ) Nuôi lợn nái Nuôi lợn thịt Thu gom lợn thương phẩm Bán buôn lợn Giết mổ lợn Xí nghiệp chế biến thịt Làm giò, chả Bán lẻ sản phẩm 1.3.5. Xác lập các tài khoản sản xuất và tài khoản kinh doanh của các tác nhân a Tài khoản sản xuNgườiất. Tài tiêu khoản này cho phép tính toán được giá trị tăng thêm dùng trong của các sản phẩm trung gian trong ngành sản phẩm tương ứng với các tác nhân trong nước Xuất khẩu từng khâu của ngành sản phẩm. Bên Có tài khoản này được gọi là « sản phẩm » bên Nợ được gọi là « chi phí » Tài khoản sản xuất Chi phí Sản phẩm - Dự trữ đầu năm - Dữ trữ cuối năm - Tiêu dùng trung gian - Bán hàng hóa và sản phẩm hoàn chỉnh + Công trình, vật dụng và dịch vụ ngoài - Bán các phế liệu và phế phẩm + Vận tải và vận chuyển - Công trình do xí nghiệp tự làm cho mình + Các chi phí quản lý - Giá trị tăng thêm thô bên trong Tổng số Tổng số Số dư bên Nợ (chi phí) thể hiện giá trị tăng thêm thô bên trong của các tác nhân sản xuất (dự trữ cuốii cùng – dữ trữ ban đầu + sản phẩm – tiêu dùng trung gian) b. Tài khoản kinh doanh. Tài khoản này cho phép tính toán việc phân phối đã được thực hiện như thế nào trong quá trình hoạt động của các tác nhân của ngành. 46
  47. Thông qua tài khoản này có thể xem xét, đánh giá kết quả phân bổ giá trị tăng thêm giữa các tác nhân khác nhau tham gia vào sản xuất sản phẩm. Bên Có (nguồn vốn) của tài khoản kinh doanh bao gồm: số dư thừa rút ra từ tài khoản sản xuất (bên Nợ) tức giá trị tăng thêm (VA), cộng thêm những trợ cấp kinh doanh mà tác nhân đã nhận được. Bên Nợ (chi phí ) của tài khoản kinh doanh chỉ ra việc phân bổ giá trị tăng thêm tạo ra được phân bổ giữa các tác nhân khác nhau đã tham gia vào hoạt động của ngành sản phẩm, trở thành thu nhập của các tác nhân. Tài khoản kinh doanh: Chi phí Thu nhập - Trả công cho nhân viên (lương, đảm bảo phụ cấp xã - Giá trị tăng thêm :VA hộ) : (Sa) - Chi phí tài chính (lãi, bảo hiểm) : FF - Trợ cấp kinh doanh (tiền bồi thường, trợ cấp kinh - Thuế và lệ phí : T doanh) - Kết quả thô kinh doanh : RBE + Khấu hào :A + Kết quả kinh doanh thuần: RNE Tổng cộng Tổng cộng c. Tài khoản sản xuất – kinh doanh (tài khoản tổng hợp). Đó là tổng hợp các kết quả kinh tế của một tác nhân sản xuất trong năm bằng cách hợp nhất hai tài khoản sản xuất và kinh doanh. Tài khoản sản xuất – kinh doanh Chi phí Thu nhập - Dữ trữ đầu năm - Dự trữ cuối năm - Tiêu thu trung gian : CI - Bán hàng hóa và sản phẩm hoàn chỉnh - Giá trị tăng thêm VA - Giá trị công trình tự làm + Trả công cho nhân viên :Sa - Trợ cấp kinh doanh (tiền bồi thường, phụ cấp thiên + Chi phí tài chính :FF tai) + Kết quả thô kinh doanh RBE + Khấu hao : A + Kết quả ròng kinh doanh RNE Tổng cộng Tổng cộng 1.3.6. Xác lập tài khoản sản xuất – kinh doanh toàn ngành sản phẩm a. Nội dung bao gồm: - Xác định giá trị tổng thể của sản phẩm trong ngành; - Tính tổng các chi phí trung gian đã sử dụng trong ngành - Tính các khoản phải chi trả như nộp thuế, các chi phí tài chính và giao dịch ; 47
  48. - Tính giá trị khấu hao tài sản hàng năm ; - Tính số dư gồm: (VA, RBE, RNE) - Tính giá trị tăng thêm, lợi nhuận thô, lợi nhuận ròng Chú ý: - Đối với các tác nhân không có trong danh mục kế toán hoặc khi có tài khoản không cho phép xác lập nguồn thông tin cần thiết, thì cần tiến hành điều tra các tác nhân có tài khoản đó - Trong trường hơp sản xuất còn mang tính tự cung tự cấp, các trao đổi không thông qua công cụ tiền tệ hoặc có những giao dịch khó xác định khối lượng và giá cả (thương mại nhỏ ở địa phương), mua bán thường xuyên trong năm giữa các tác nhân thì buộc phải ước lượng các luồng vật chất theo giá thị trường tại chỗ đối với các loại vật chất tương ứng đã được mua bán trên thị trường (có giá giao dịch trên thị trường) - Về thời gian để tính các giá trị cho ngành sản phẩm: Đối với sản xuất nông nghiệp nên tiếp cận theo thời điểm bắt đầu mùa vụ để nắm bắt hết những tác nhân tham gia ngành sản phẩm; Đối với các hoạt động khác nên bắt đầu từ thời gian giao dịch chuyến hàng đầu tiên và kết thúc khi bán sản phẩm được dừng lại giai đoạn cuối. b. Thiết lập tài khoản sản xuất – kinh doanh tổng hợp toàn ngành sản phẩm Tài khoản sản xuất – kinh doanh tổng hợp toàn ngành sản phẩm được thiết lập bằng cách cộng các tài khoản sản xuất – kinh doanh của từng tác nhân đã trình bày ở phần trên. Trong quá trình tổng hợp các giá trị gia tăng và chi phí của ngành sản phẩm có thể có một số tài khoản phải cộng dồn lại vì có nhiều tác nhân quá nhỏ tham gia, hoặc có thể có một số tài khoản được trừ đi hay bị triệt tiêu, do các một tác nhân trong một công đoạn nào đó không có sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ với nhau. Nói chung giữa các tác nhân trong một ngành sản phẩm luôn tồn tại sự trao đổi hàng hóa và giá trị, trong đó hàng hóa là đầu ra của tác nhân này nhưng lại là đầu vào của tác nhân kế tiếp. Nếu một ngành sản phẩm có 3 nhóm tác nhân là: (i). Người nông dân sản xuất ; (ii). Các nhà bán buôn và (iii). Các nhà chế biến thì Tài khoản sản xuất – kinh doanh của mỗi tác nhân được thiết lập như sau : Người nông dân sx (a) Nhà bán buôn (b) Nhà chế biến (c) Chi phí Chi phí Chi phí Doanh thu P Doanh thu P Doanh thu P trung gian CI Trung gian CI Trung gian CI (a) (a) (b) (c) (b) (c) Giá trị gia tăng VA Giá trị gia tăng VA Giá trị gia tăng VA 48
  49. (a) (b) (c) Khi cộng các tài khoản của 3 loại tác nhân trên, cần lưu ý rằng doanh thu của người sản xuất P(a) sẽ là một phần chi phí trung gian của nhà bán buôn và doanh thu của nhà bán buôn và là một phần chi phí trung gian của nhà chế biến. Vì vậy, khi cộng các tài khoản trên ta sẽ có: Bên chi Bên thu CI (a) P (a) CI (b) = P(a) + CI (b’) P (b) CI (c) = P(b) + CI (c’) P (c) VA (a) + VA (b) + VA (c) Trong đó: - VA(a) là thu nhập của người sản xuất nông nghiệp ; - VA (b) là thu nhập của Nhà buôn, mua gom - VA (c) là thu nhập của Nhà chế biến Trong bản tổng hợp các tài khoản của 3 tác nhân trong ngành cho thấy nguồn thu của tác nhân nông dân sản xuất là P(a) đồng thời lại là một phần chi của tác nhân Nhà buôn, mua gom. Vì vậy, các giá trị sẽ phải này triệt tiêu lẫn nhau trong tài khoản sản xuất – kinh doanh của toàn ngành sản phẩm. Các khoản thu nhập của tác nhân này là chi phí của tác nhân khác sẽ bị triệt tiêu trong hạch toán toàn ngành gọi là tổng chi phí trung gian của ngành sản phẩm. Theo đó, tài khoản sản xuất – kinh doanh cuối cùng của toàn ngành sản phẩm sẽ chỉ còn lại các khoản thu – chi được tổng hợp như sau : Bên chi Bên thu Ngoài ngành Trong ngành Ngoài ngành Trong ngành CI (a) P (a’) P (a’’) P (a’) CI (b) P (b’) P (b’’) Người ND SX P (b’) CI (c) P (c’’) Nhà bán buôn VA (a) + VA (b) + VA (c) Nhà chế biến Sau khi triệt tiêu các chi phí trung gian của ngành. Cuối cùng sẽ có kết quả như sau : Bên chi Bên thu CI (a) P (a’’) CI (b) P (b’’) CI (c) P (c’’) 49