Lâm nghiệp - Quản lý rừng bền vững

pdf 61 trang vanle 2511
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lâm nghiệp - Quản lý rừng bền vững", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdflam_nghiep_quan_ly_rung_ben_vung.pdf

Nội dung text: Lâm nghiệp - Quản lý rừng bền vững

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGÀNH LÂM NGHIỆP &ĐỐI TÁC CẨM NANG NGÀNH LÂM NGHIỆP Chương QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG NĂM 2006 i
  2. Biên soạn Trần Văn Côn Nguyễn Huy Sơn Phan Minh Sáng Nguyễn Hồng Quân Chu Đình Quang Lê Minh Tuyên Chỉnh lý: Nguyễn Văn Tư Vũ Văn Mễ Nguyễn Hoàng Nghĩa Nguyễn Bá Ngãi Trần Văn Hùng Đỗ Quang Tùng Hỗ Trợ kỹ thuật và tài chính: Dự án GTZ-REFAS ii
  3. Mục lục 1. Cơ sở pháp lý và nguyên lý quản lý rừng bền vững 1 1.1. Nguyên lý quản lý rừng bền vững 1 1.1.1. Định nghĩa quản lý rừng bền vững 1 1.1.2. Các nguyên lý quản lý rừng bền vững 1 1.2. Những chính sách quản lý rừng bền vững của Việt Nam 2 1.2.1. Các văn bản của Nhà nước 2 1.2.2. Những chủ trương chính sách của ngành 7 2. Quản lý bền vững rừng tự nhiên 13 2.1. Tổng quan các hệ thống quản lý rừng tự nhiên hiện nay ở các nước nhiệt đới và Việt Nam 13 2.1.1. Hệ thống và kinh nghiệm quản lý rừng tự nhiên ở một số nước trong khu vực 13 2.1.2. Các hệ thống quản lý rừng tự nhiên đang áp dụng ở Việt Nam 18 2.1.3. Bài học kinh nghiệm và các lỗ hổng kiến thức 19 2.2. Cơ sở lâm học để quản lý bền vững rừng tự nhiên 21 2.2.1. Phân loại rừng tự nhiên 21 2.2.2. Các đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên 21 2.2.3. Các qui luật sinh trưởng và sản lượng rừng tự nhiên 22 2.2.4. Các qui luật diễn thế và tái sinh rừng 23 2.3. Các chỉ tiêu kỹ thuật khai thác 24 2.3.1. Đối tượng rừng được phép đưa vào khai thác 24 2.3.2. Phương thức khai thác 25 2.3.3. Luân kỳ khai thác 25 2.3.4. Cường độ khai thác 25 2.3.5. Cấp kính khai thác tối thiểu (ký hiệu là Dmin) 26 2.3.6. Tỷ lệ lợi dụng gỗ 26 2.4. Hệ thống các biện pháp kỹ thuật lâm sinh 27 2.4.1. Sử dụng bền vững rừng tự nhiên nguyên sinh 27 2.4.2. Kỹ thuật phục hồi rừng đã bị thoái hoá 30 2.5. Quản lý khai thác 33 2.5.1. Lập kế hoạch khai thác 33 2.5.2. Thiết kế khai thác 38 2.5.3. Thẩm định ngoại nghiệp 39 2.5.4. Trình duyệt 41 2.5.5. Tổ chức thực hiện 41 2.5.6. Kiểm tra, giám sát, nghiệm thu (của cơ quan cấp trên) 42 2.5.7. Đóng cửa rừng sau khai thác 43 2.6. Quản lý rừng tự nhiên bền vững dựa vào cộng đồng dân cư địa phương (Tham khảo Chương Lâm nghiệp cộng đồng của Cẩm nang lâm nghiệp) 43 2.6.1. Những đặc điểm xã hội của cộng đồng dân cư địa phương có tác động đến quản lý rừng bền vững 43 2.6.2. Vai trò của cộng đồng dân cư địa phương trong quản lý, bảo vệ rừng 43 2.6.3. Xu thế phát triển của quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng dân cư 44 2.7. Chứng chỉ rừng trong quản lý rừng bền vững 45 iii
  4. 2.8. Định hướng nghiên cứu và phát triển quản lý rừng tự hiên bền vững 45 3. Quản lý bền vững rừng trồng 46 3.1. Những quy định liên quan đến quản lý rừng trồng 46 3.1.1. Loại rừng trồng 46 3.1.2. Giống 47 3.1.3. Những quy định liên quan đến Phương thức trồng 48 3.1.4. Loại đất và xử lý thực bì 49 3.2. Quản lý khai thác rừng trồng 50 3.2.1. Những quy định về quản lý khai thác rừng trồng 50 3.2.2. Phương thức khai thác 51 3.2.3. Thiết kế khai thác rừng trồng 51 3.3. Kinh nghiệm trồng rừng của các dự án trong nước 52 3.3.1. Chương trình trồng rừng theo Quyết định số 327/CT của Chính phủ 52 3.3.2. Dự án trồng rừng bằng nguồn vốn tài trợ của chương trình lương thực Thế giới (gọi tắt là dự án trồng rừng PAM) 53 3.3.3. Dự án trồng rừng do Chính phủ Cộng hoà Liên bang Đức thông qua Ngân hàng tái thiết Đức (KFW) 53 3.4. Quản lý rừng trồng bền vững 54 3.4.1. Lập kế hoạch trồng rừng 54 3.4.2. Phương thức trồng rừng và các mô hình trồng rừng 55 3.4.4. Các chỉ tiêu kỹ thuật trong khai thác rừng trồng 55 3.4.5. Lập kế hoạch khai thác rừng trồng 56 iv
  5. 1. Cơ sở pháp lý và nguyên lý quản lý rừng bền vững 1.1. Nguyên lý quản lý rừng bền vững 1.1.1. Định nghĩa quản lý rừng bền vững Trong thời gian gần đây, quản lý rừng bền vững (QLRBV) đã trở thành một nguyên tắc đối với quản lý kinh doanh rừng đồng thời cũng là một tiêu chuẩn mà quản lý kinh doanh rừng phải đạt tới. Hiện tại có hai định nghĩa đang được sử dụng ở Việt Nam. Theo ITTO (tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế), QLRBV là quá trình quản lý những lâm phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều hơn những mục tiêu quản lý rừng đã đề ra một cách rõ ràng, như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng và không gây ra những tác động không mong muốn đối với môi trường tự nhiên và xã hội. Theo Tiến trình Hensinki, QLRBV là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách thức và mức độ phù hợp để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống của rừng và duy trì tiềm năng của rừng trong quá trình thực hiện và trong tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp quốc gia và toàn cầu và không gây ra những tác hại đối với hệ sinh thái khác. Các định nghĩa trên, nhìn chung tương đối dài dòng nhưng tựu trung lại có mấy vấn đề chính sau: Quản lý rừng ổn định bằng các biện pháp phù hợp nhằm đạt các mục tiêu đề ra (sản xuất gỗ nguyên liệu, gỗ gia dụng, lâm sản ngoài gỗ ; phòng hộ môi trường, bảo vệ đầu nguồn, bảo vệ chống cát bay, chống sạt lở đất ; bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn loài, bảo tồn các hệ sinh thái ). Bảo đảm sự bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường, cụ thể: Bền vững về kinh tế là bảo đảm kinh doanh rừng lâu dài liên tục với năng suất, hiệu quả ngày càng cao (không khai thác lạm vào vốn rừng; duy trì và phát triển diện tích, trữ lượng rừng; áp dụng các biện pháp kỹ thuật làm tăng năng suất rừng). Bền vững về mặt xã hội là bảo đảm kinh doanh rừng phải tuân thủ các luật pháp, thực hiện tốt các nghĩa vụ đóng góp với xã hội, bảo đảm quyền hạn và quyền lợi cũng như mối quan hệ tốt với nhân dân, với cộng đồng địa phương. Bền vững về môi trường là bảo đảm kinh doanh rừng duy trì được khả năng phòng hộ môi trường và duy trì được tính đa dạng sinh học của rừng, đồng thời không gây tác hại đối với các hệ sinh thái khác. 1.1.2. Các nguyên lý quản lý rừng bền vững Nguyên lý thứ nhất là: Sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài nguyên rừng: Cuộc sống con người luôn gắn với sử dụng tài nguyên thiên nhiên và để sử dụng nó, chúng ta 1
  6. cần phải bảo vệ nó vì tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận.Theo định nghĩa Brundtland thì phát triển bền vững là “sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến các khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng được các nhu cầu của họ”1. Vấn đề chìa khoá để bảo đảm nguyên lý bình đẳng giữa các thế hệ trong quản lý tài nguyên rừng là bảo đảm năng suất và các điều kiện tái sinh của nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo này. Một trong những nguyên tắc cần tuân thủ là tỷ lệ sử dụng lâm sản không được vượt quá khả năng tái sinh của rừng. Nguyên lý thứ hai là: Trong quản lý tài nguyên rừng bền vững, sự phòng ngừa, nó được hiểu là: ở đâu có những nguy cơ suy thoái nguồn tài nguyên rừng và chưa có đủ cơ sở khoa học thì chưa nên sử dụng biện pháp phòng ngừa suy thoái về môi trường. Nguyên lý thứ ba là: Sự bình đẳng và công bằng trong sử dụng tài nguyên rừng ở cùng thế hệ : Đây là một vấn đề khó, bởi vì trong khi cố tạo ra sự công bằng cho các thế hệ tương lai thì chúng ta vẫn chưa tạo được những cơ hội bình đẳng cho những người sống ở thế hệ hiện tại. Rawls, 19712 cho rằng, sự bình đẳng trong cùng thế hệ hàm chứa hai khía cạnh: - Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng về sự tự do thích hợp trong việc được cung cấp các tài nguyên từ rừng; - Sự bất bình đẳng trong xã hội và kinh tế chỉ có thể được tồn tại nếu: (a) sự bất bình đẳng này là có lợi cho nhóm người nghèo trong xã hội và (b) tất cả mọi người đều có cơ hội tiếp cận nguồn tài nguyên rừng như nhau. Nguyên lý thứ tư là tính hiệu quả. Tài nguyên rừng phải được sử dụng hợp lý và hiệu quả nhất về mặt kinh tế và sinh thái. 1.2. Những chính sách quản lý rừng bền vững của Việt Nam Trong khoảng 10 năm trở lại đây quản lý rừng bền vững được Nhà nước cũng như các ngành hết sức quan tâm. Những quan tâm này được thể hiện trong các văn bản pháp luật, các chỉ thị nghị quyết của Chính phủ cũng như trong các quy chế, quy trình, quy phạm của ngành. 1.2.1. Các văn bản của Nhà nước a) Về luật  Luật Bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi, năm 2004 Trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng, các vấn đề về quản lý rừng bền vững, đã được đề cập đến như: - Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, 1 WCED (World Commission on Environment and Development) 1987. Our Common Future. Oxford University Press, Oxford. 2 Rawls, J. 1971: A Theory of Justice. Horwood University Press, Cambridge. 2
  7. chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định 3. - Bảo vệ rừng là trách nhiệm của toàn dân. Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm nguyên tắc quản lý rừng bền vững; kết hợp bảo vệ và phát triển rừng với khai thác hợp lý để phát huy hiệu quả tài nguyên rừng; kết hợp chặt chẽ giữa trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh, phục hồi rừng, làm giầu rừng và bảo vệ diện tích rừng hiện có - Việc bảo vệ và phát triển rừng phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước với chủ rừng; giữa lợi ích kinh tế của rừng với lợi ích phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái và bảo tồn thiên nhiên, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; - Đối với bảo vệ và phát triển rừng, Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển các loại rừng mang tính công ích và các hoạt động dịch vụ quan trọng để bảo vệ và phát triển rừng. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, chính sách khuyến khích và thu hút vốn của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để bảo vệ và phát triển vốn rừng 4. - Về bảo đảm đời sống của cư dân sống tại rừng, Nhà nước có chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, định canh định cư, ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân miền núi, ngoài ra còn quy định rõ quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư thôn được giao rừng (cụ thể xin tham khảo Chương “ Lâm nghiệp cộng đồng” của Cẩm nang Lâm nghiệp). - Những hành vi bị nghiêm cấm: (5) + Chặt phá, khai thác rừng trái phép. + Săn, bắn, bắt, nuôi nhốt, giết mổ động vật rừng trái phép + Hủy hoại tài nguyên từng, hệ sinh thái rừng. + Khai thác lâm sản không đúng quy định của pháp luật + Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác. - Điều kiện sản xuất kinh doanh đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên (6); đó là: Những khu rừng sản xuất là rừng tự nhiên đã có chủ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận. Chủ rừng là tổ chức thì phải có các hồ sơ được cấp có thẩm quyền phê duyệt, gồm: Dự án đầu tư; phương án bảo vệ và sản xuất kinh doanh rừng; khai thác rừng 3 Điều 9 Luật bảo vệ và phát triển rừng 4 Điều 9 (4) Điều 10 Luật bảo vệ và Phát triển rừng 5 Điều 12 6 Điều 56 Luật bảo vệ và phát triển rừng 3
  8. phải có phương án điều chế rừng đã được cơ quan quản lý Nhà nước về lâm nghiệp phê duyệt. + Chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân có phương án hoặc kế hoạch quản lý bảo vệ và sản xuất kinh doanh rừng được chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh phê duyệt. Chỉ được khai thác gỗ và các thực vật khác của rừng sản xuất là rừng tự nhiên, trừ các loài nguy cấp, quý, hiếm theo quy định của Chính phủ về quy chế quản lý rừng và chế độ quản lý bảo vệ và danh mục những loài thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm. - Thủ tục khai thác: Đối với các tổ chức khi khai thác phải có hồ sơ thiết kế khai thác phù hợp với phương án điều chế rừng hoặc phương án hay kế hoạch sản xuất kinh doanh rừng được chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt. Đối với cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, cá nhân khai thác phải có đơn, báo cáo Uỷ ban nhân dân xã để tổng hợp trình Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh phê duyệt. Việc khai thác rừng phải theo quy chế quản lý rừng và chấp hành quy phạm, quy trình kỹ thuật bảo vệ và phát triển rừng; sau khi khai thác phải tổ chức bảo vệ, nuôi dưỡng, làm giầu rừng cho đến kỳ khai thác sau.  Luật Bảo vệ môi trường Trong Luật Bảo vệ môi trường, vấn đề quản lý rừng bền vững được hết sức quan tâm. Cụ thể: - Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ các giống, loài thực vật, động vật hoang dã, bảo vệ tính đa dạng sinh học, bảo vệ rừng, biển và các hệ sinh thái. - Việc khai thác các nguồn lợi sinh vật phải theo đúng thời vụ, địa bàn, phương pháp và bằng công cụ, phương tiện đã được quy định, bảo đảm sự khôi phục về mật độ và giống, loài sinh vật; không làm mất cân bằng sinh thái. - Việc khai thác rừng phải theo đúng quy hoạch và các quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Nhà nước có kế hoạch tổ chức cho các tổ chức, cá nhân trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc để mở rộng nhanh diện tích của rừng, bảo vệ các vùng đầu nguồn sông, suối. - Việc sử dụng, khai thác khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên phải được phép của cơ quan quản lý ngành hữu quan, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường và 4
  9. phải đăng ký với Uỷ ban nhân dân địa phương được giao trách nhiệm quản lý hành chính khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên nói trên (7). - Việc khai thác đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản phải tuân theo quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch cải tạo đất, bảo đảm cân bằng sinh thái. Việc sử dụng chất hóa học, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, các chế phẩm sinh học khác phải tuân theo quy định của pháp luật (8). - Nghiêm cấm các hành vi đốt phá rừng, khai thác khoáng sản một cách bừa bãi gây hủy hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái (9); - Cấm khai thác, kinh doanh các loài thực vật, động vật quý, hiếm trong danh mục quy định của Chính phủ và cấm sử dụng các phương pháp, phương tiện, công cụ hủy diệt hàng loạt trong khai thác, đánh bắt các nguồn động vật, thực vật.  Luật Đất đai - Trong Luật Đất đai, đất lâm nghiệp được xếp vào một trong các loại đất nông nghiệp mà không để mục đất lâm nghiệp riêng như trước đây và được phân loại như sau: Đất rừng sản xuất; Đất rừng phòng hộ; Đất rừng đặc dụng; Cách phân loại này làm cho đất lâm nghiệp bị hòa đồng với các loại đất khác nên trong Luật ít có những quy định riêng, mang tính đặc thù cho đất lâm nghiệp. Có lẽ đây là một hạn chế của luật này vì đất lâm nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng quỹ đất của quốc gia và nó có ý nghĩa lớn đối với kinh tế - xã hội và môi trường, đặc biệt đối với đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi. - Về nguyên tắc sử dụng đất, có quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng các nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh . b) Về các văn bản dưới luật.  Về quản lý bảo vệ rừng có các văn bản sau: - Nghị định số 139/2004-NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Trong đó quy định mức phạt cụ thể và hình thức xử lý đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. 7 Điều 13 8 Điều 14 9 Điều 29 Luât bảo vệ môi trường 5
  10. - Nghị định số 48/2002/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh mục thực vật, động vật hoang dã quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 18/HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng Bộ trưởng quy định danh mục thực vật, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ. Trong đó quy định 16 loài thực vật (nhóm IA), 56 loài động vật (nhóm IB) nghiêm cấm khai thác sử dụng và 26 loài thực vật (nhóm IIA), 51 loài động vật (nhóm IIB) hạn chế khai thác sử dụng. - Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01 năm 2001 về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất là rừng tự nhiên. Trong đó quy định về phân loại, về tổ chức quản lý; về bảo vệ, xây dựng và sử dụng các loại rừng nói trên. Riêng đối với rừng sản xuất quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của chủ rừng, điều kiện đưa rừng vào sản xuất kinh doanh, đối tượng rừng đưa vào khai thác, các thủ tục tiến hành khai thác.  Về quyền lợi và nghĩa vụ của chủ rừng Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp.  Về bảo tồn đa dạng sinh học: Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg ngày 17/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt nam đến năm 2010. Trong đó nêu lên những nguyên tắc, phương pháp, hành động của chiến lược như: quy hoạch; xây dựng khung pháp lý; tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học; đổi mới hệ thống tổ chức quản lý; đổi mới cơ chế thiết lập, đầu tư và cung cấp tài chính, đào tạo nguồn nhân lực; đẩy mạnh công tác thông tin-giáo dục-truyền thông và thu hút cộng đồng tham gia vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học; tăng cường hợp tác quốc tế. c) Những chủ trương lớn của Nhà nước  Thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Đây là dự án lớn của quốc gia, được khởi động từ năm 1998 và kết thúc vào năm 2010. Theo quyết định số 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ, Dự án có 3 mục tiêu phù hợp với quản lý rừng bền vững, cụ thể: Một là về môi trường: đến năm 2010 độ che phủ tăng lên 43%, góp phần bảo đảm an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên tai, bảo tồn nguồn gen và đa dạng sinh học Hai là về xã hội: giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội, quốc phòng, an ninh Ba là về kinh tế: cung cấp gỗ làm nguyên liệu để chế biến, đáp ứng nhu cầu gỗ củi và các lâm đặc sản khác cho tiêu dùng và xuất khẩu, đưa lâm nghiệp trở thành một ngành kinh tế quan trọng 6
  11.  Giảm lượng khai thác rừng tự nhiên. Để nâng cao chất lượng rừng, Nhà nước có chủ trương thực hiện một giải pháp tình thế là hạn chế khai thác gỗ rừng tự nhiên được thực hiện từ năm 1990, giải pháp này bao gồm: - Giảm số lâm trường khai thác rừng tự nhiên từ 265 lâm trường (năm 1993) xuống còn 114 lâm trường (năm 2004); - Giảm số tiểu khu khai thác từ 562 tiểu khu (năm 1993) xuống còn 179 tiểu khu (năm 2004); - Giảm diện tích khai thác từ 31.000 ha (năm 1993) xuống còn 6.706ha (năm 2004); - Giảm trữ lượng từ 1.081.000 m3 (năm 1990) xuống còn 200.000 m3 (năm 2004), 150.000 m3 (năm 2005); - Trữ lượng 150.000m3/năm sẽ còn được duy trì ít nhất trong thời gian 3 năm, thậm chí có thể đến năm 2010. Nhìn chung các văn bản của Nhà nước là tương đối đầy đủ để bảo đảm quản lý bảo vệ rừng theo hướng bền vững, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế sau: - Trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng (năm 2004), mới chỉ quy định quyền lợi và nghĩa vụ của người dân được nhận rừng mà chưa quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người dân sống tại rừng nhưng không thuộc sở hữu của họ. - Về quy hoạch, việc xác định lâm phận ổn định quốc gia là hết sức quan trọng, nhưng Nhà nước chưa có một văn bản nào quyết định về việc này. - Chiến lược lâm nghiệp là rất quan trọng nhưng mới chỉ do ngành tự phê duyệt. Hiện nay, Chiến lược lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 đang được xây dựng lại để trình Chính phủ phê duyệt vào đầu năm 2006. 1.2.2. Những chủ trương chính sách của ngành Các văn bản pháp luật, các quyết định, chỉ thị của Nhà nước đã đựơc ngành cụ thể hoá, hướng dẫn thực hiện thông qua các thông tư hướng dẫn, các quyết định ban hành các chính sách, các quy chế, quy trình, quy phạm và các chỉ thị. Liên quan đến quản lý rừng bền vững, từ cuối những năm 80 của thế kỷ trước, Bộ Lâm nghiệp (cũ) đã thực hiện những chủ trương mang tính chất quyết định, tạo ra những chuyển biến mới trong quản lý kinh doanh rừng. Cụ thể đã tiến hành các nội dung sau: a) Tăng cường các biện pháp quản lý rừng  Tổ chức rừng (thiết lập mặt bằng quản lý) Đã phân chia rừng thành các đơn vị tiểu khu, khoảnh, lô, cụ thể như sau: - Tiểu khu rừng (TK): Việc phân chia tiểu khu được thực hiện từ những năm 1985, Tiểu khu là đơn vị cơ bản để quản lý rừng, đồng thời là đơn vị để theo dõi diễn biến tài 7
  12. nguyên, kiểm tra giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh rừng. Tiểu khu có diện tích bình quân 1000 ha, có vị trí mã số ổn định trong suốt quá trình sản xuất, ranh giới được thể hiện trên bản đồ và trên thực địa dựa vào địa hình tự nhiên hoặc nhân tạo và có hệ thống cọc mốc chỉ dẫn (hiện nay còn nhiều lâm trường chưa thực hiện được quy định này). - Tiểu khu được định danh bằng chữ số Ả Rập từ tây sang đông, từ bắc xuống nam, trong phạm vi của từng tỉnh. - Khoảnh là đơn vị chia nhỏ của tiểu khu, có diện tích trung bình 100 ha, là đơn vị thống kê tài nguyên rừng và tạo thuận lợi cho việc xác định vị trí trên thực địa. Khoảnh được định danh bằng chữ số Ả Rập trong phạm vi từng tiểu khu. Việc phân chia khoảnh được tiến hành khi xây dựng Phương án quản lý kinh doanh rừng. - Lô là đơn vị chia nhỏ của khoảnh có điều kiện lập địa hoặc trạng thái rừng tương đối đồng nhất, có cùng biện pháp tác động kỹ thuật. Diện tích lô khoảng từ 5-30 ha. Lô được định danh bằng chữ cái Việt Nam trong phạm vi từng khoảnh.Việc khoanh lô cũng đựợc tiến hành khi kiểm kê tài nguyên rừng để xây dựng Phương án quản lý kinh doanh rừng.  Thiết lập tổ chức quản lý rừng - Lâm trường là đơn vị kinh tế cơ sở của ngành lâm nghiệp, có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, sản xuất, kinh doanh rừng; diện tích của lâm trường khoảng từ 10.000-30.000ha - Lâm trường là đơn vị sản xuất kinh doanh khép kín (trong điều chế rừng, người ta gọi là đơn vị điều chế), nghĩa là đảm bảo sản xuất lâu dài liên tục, trong một luân kỳ hay một chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, có một sự nhầm lẫn đáng tiếc, cho rằng đơn vị khép kín là phân trường (Quy phạm thiết kế kinh doanh rừng, QPN6-84). - Phân trường hoặc đội sản xuất là đơn vị chia nhỏ của lâm trường, là cấp quản lý thực hiện kế hoạch sản xuất của lâm trường, có diện tích khoảng 4000 - 6000ha, bao gồm 4-6 tiểu khu trọn vẹn. Hiện nay Chính phủ đang chỉ đạo xắp xếp đổi mới lâm trường quốc doanh (Quyết định số 187 sau này là Nghị định số 200/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới lâm trường quốc doanh theo Nghị quyết 28 của Ban chấp hành Trung ương Đảng). Quy hoạch phân chia 3 loại rừng (rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất) trên phạm vi toàn quốc (xem Chương Rừng phòng hộ của Cẩm nang lâm nghiệp). Xây dựng phương án điều chế rừng đơn giản cho các lâm trường Ngày 19/7/1989 Bộ Lâm nghiệp (cũ) đã ban hành Chỉ thị 15- LSCNR về công tác xây dựng phương án điều chế rừng đơn giản cho các lâm trường, trong đó hướng dẫn việc xây dựng phương án và quy định kể từ 1991 việc khai thác, quản lý khai thác phải căn cứ vào 8
  13. Phương án điều chế rừng đơn giản. Vì vậy, toàn bộ các lâm trường có khai thác rừng tự nhiên đã xây dựng Phương án này. Phương án điều chế của một lâm trường thể hiện 3 nội dung chủ yếu sau:  Phần hiện trạng - Vị trí địa lý : Tỉnh, huyện, xã. - Diện tích, trữ lượng rừng phân theo trạng thái của toàn lâm trường. - Diện tích đất trống trọc. - Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội.  Phần quy hoạch - Quy hoạch các tiểu khu theo rừng phòng hộ và rừng sản xuất - Phân chia thành các phân trường hoặc đội sản xuất. - Quy hoạch các biện pháp tác động: khai thác, trồng rừng, nuôi dưỡng rừng, làm giầu rừng, nông lâm kết hợp - Quy hoạch mạng lưới đường.  Phần kế hoạch tác nghiệp - Kế hoạch khai thác cho một luân kỳ 35 năm, từng giai đoạn 5 năm và trong 5 năm đầu . Xây dựng quy chế quản lý khai thác. Việc quản lý khâu khai thác được quy định tại quyết định số 04/2004/QĐ-BNN-LN ngày 02/02/2004, nay được thay thế bằng Quyết định số 40/2005-QĐ/BNN ngày 7/7/2005 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về Ban hành quy chế khai thác gỗ và lâm sản. Trong đó quy định các nội dung sau:  Thiết kế khai thác Tất cả các khu rừng đưa vào khai thác hàng năm phải tiến hành thiết kế, thẩm định, phê duyệt từ năm trước. Nội dung chủ yếu của công tác thiết kế như sau : - Ngoại Nghiệp: Chọn tiểu khu khai thác (theo phương án điều chế đã được duyệt). Lập bản đồ khu khai thác. Đo các nhân tố để xác định trữ lượng của lô. Dự kiến cường độ khai thác Bài cây khai thác bằng búa, đánh số cây khai thác. 9
  14. Những cây bài chặt được đo đếm tỷ mỷ và ghi vào phiếu bài cây, trong đó mỗi cây được ghi rõ số hiệu, tên loài, chiều cao, đường kính, thể tích cây, khối lượng sản phẩm chính, sản phẩm phụ. Xác định đường vận suất, vận chuyển, kho bãi gỗ. - Nội nghiệp: Tính toán, viết thuyết minh và lập các bảng biểu, gồm: Tính toán trữ lượng, sản lượng cây đứng. Sản lượng gỗ chính phẩm, gỗ tận dụng. Thống kê gỗ theo loài và theo 8 nhóm gỗ, theo kích thước. Các thuyết minh về xây dựng đường sá, kho bãi gỗ.  Quy định thủ tục quản lý khâu khai thác Trong quản lý khai thác đã quy định cụ thể về các thủ tục xây dựng, trình, duyệt phương án điều chế; về thiết kế khai thác, thẩm định, phê duyệt thiết kế và phê duyệt phương án sản xuất kinh doanh rừng hàng năm cho lâm trường, đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp đối với việc phê duyệt các nội dung nói trên.  Quy định về tiến hành khai thác và kết thúc khai thác.  Quy định các chỉ tiêu kỹ thuật về khai thác rừng Xây dựng phần mềm quản lý khai thác qua máy vi tính: Để theo dõi hoạt động khai thác trong cả luân kỳ (35 năm), Cục Lâm nghiệp đã xây dựng 1 phần mềm để quản lý khâu khai thác. Các số liệu khai thác từ năm 1993 được đưa vào quản lý và hiện nay đã cập nhật được thông tin của 11 tỉnh có diện tích khai thác lớn trong tổng số 20 tỉnh có khai thác rừng tự nhiên, chiếm 2/3 khối lượng khai thác của toàn quốc. b) Xây dựng chiến lược lâm nghiệp Ngày 22 tháng 1 năm 2002 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ra quyết định số 199/QĐ-BNN-PTLN phê duyệt “Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001-2010”. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam, Chiến lược phát triển lâm nghiệp được ban hành chính thức. Tuy nhiên, để phù hợp với những thay đổi trong các luật vừa mới được sửa đổi như Luật Đất đai (2003), Luật Bảo vệ và phát triển rừng (2004) và để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới, vào đầu năm 2004, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tiến hành xây dựng Chiến lược lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 thay thế Chiến lược lâm nghiệp cũ để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào đầu năm 2006. Trong Chiến lược mới này có một số chỉ tiêu quan trọng cần chú ý như sau: (nguồn: Dự thảo Chiến lược lâm nghiệp, 2006-2020 - tháng 11/2005)  Mục tiêu đến 2010: 10
  15. - Về môi trường, đạt 43% độ che phủ rừng so với tổng diện tích tự nhiên của lãnh thổ; - Về kinh tế, đạt giá trị 2,5 tỷ USD xuất khẩu; - Về xã hội, thu hút 6-8 triệu lao động. - Về quy hoạch, diện tích lâm phận ổn định quốc gia là 16 triệu ha; trong đó: Rừng phòng hộ 6 triệu ha, Rừng đặc dụng 2 triệu ha, Rừng sản xuất 8 triệu ha. Đây cũng là lần đầu tiên một lâm phận quốc gia được chính thức xác lập.  Về định hướng xây dựng và phát triển vốn rừng, đã xác định: - Bảo vệ rừng hiện có 10,9 triệu ha; - Làm giầu rừng nghèo kiệt 1,85 triệu ha; - Khoanh nuôi phục hồi rừng 1,56 triệu ha; - Trồng rừng mới 3,52 triệu ha, trong đó rừng kinh tế chủ lực 1,8 triệu ha,  Về khai thác rừng: - Giai đoạn 2001-2005, hàng năm khai thác khoảng 1,2 triệu m3 gỗ, trong đó rừng tự nhiên 0,3 triệu m3; khoảng 200-300 nghìn tấn song mây, tre nứa và khoảng 300 nghìn tấn dầu, nhựa, vỏ quế, hoa hồi - Giai đoạn 2006-2010 khai thác khoảng 2,5 triệu m3 gỗ, trong đó rừng tự nhiên khoảng 0,3-0.5 triệu m3; 300-350 nghìn tấn song mây, tre nứa và 0,5-0,6 triệu tấn đặc sản khác.  Các chương trình gồm: - Chương trình quản lý rừng bền vững; - Chương trình bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và dịch vụ môi trường; - Chương trình chế biến và thương mại lâm sản; - Chương trình nghiên cứu, đào tạo và khuyến lâm; - Chương trình đổi mới thể chế, chính sách, lập kế hoạch giám sát ngành lâm nghiệp. c) Xây dựng các quy trình quy phạm kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật:  Về quản lý, có các văn bản sau: - Quy chế khai thác gỗ và lâm sản ban hành kèm theo quyết định số 40/2005/QĐ-BNN, ngày 07/07/2005 của Bộ Nông nghiệp và PTNT để thay cho quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác ban hành ở các năm 2004 và 1999 đã được nêu ở phần trên. - Quy chế xác định ranh giới và cắm mốc các loại rừng (Quyết định số 3013/1997/QĐ- BNN-KL, ngày 20/11/1997). 11
  16. - Quy phạm thiết kế kinh doanh rừng (QPN-84) (Quyết định số 682B/QDKT, ngày 01/8/1984). - Các quyết định công nhận các xuất xứ, các dòng, các giống đã được khảo nghiệm, tuyển chọn và lai tạo. Hiện nay đã công nhận giống sản xuất cho 5 dòng vô tính (2 dòng bạch đàn, 3 dòng keo lai), công nhận giống tiến bộ kỹ thuật cho 9 dòng và 42 xuất xứ để đưa vào khảo nghiệm rộng (2 dòng phi lao, 3 dòng bạch đàn, 3 xuất xứ tràm Việt Nam, 6 xuất xứ tràm Úc,16 xuất xứ của 4 loài bạch đàn, 16 xuất xứ của 6 loài keo, 5 xuất xứ thông caribaea). - Các quyết định công nhận rừng giống, vườn giống cho nhiều loài cây trồng rừng. - Các quyết định ban hành tiêu chuẩn hạt giống cây lâm nghiệp, phương pháp thử; tiêu chuẩn hạt giống (11 loài cây), tiêu chuẩn chất lượng sinh lý hạt giống (cho 17 loài cây).  Về kỹ thuật: - Đối với rừng sản xuất: có quy phạm các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa (QPN 14-92), Ban hành kèm theo quyết định số 200/QĐ-KT ngày 31 tháng 3 năm 1993 của Bộ Lâm nghiệp (cũ). Trong đó quy định về đối tượng và các biện pháp kỹ thuật trồng rừng, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh, làm giầu rừng, khai thác rừng. - Đối với rừng phòng hộ: có quy phạm kỹ thuật xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn (QPN-13-91) ban hành theo quyết định số 134/QĐ/KT ngày 04 tháng 4 năm 1991 của Bộ Lâm nghiệp (cũ); năm 2005 Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành tiêu chí phân cấp rừng phòng hộ (Quyết định số 61/2005-QĐ-BNN ngày 12/10/2005). Trong đó quy định về phân cấp rừng phòng hộ, các biện pháp xây dựng rừng (khoanh nuôi, nuôi dưỡng, trồng rừng) và sử dụng rừng ở các vùng xung yếu và rất xung yếu. - Đối với rừng tự nhiên: đã ban hành quy phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung (QPN 21-98) (Quyết định số175/1998/QP-BNN- KHCN, ngày 04 tháng 11 năm 1998). - Đối với rừng trồng, đã ban hành các loại quy trình sau: (1) các quy trình kỹ thuật về xây dựng vườn giống, rừng giống, rừng giống chuyển hóa; (2) các quy trình kỹ thuật về xây dựng vườn ươm; (3) các quy trình trồng rừng cho các loài cây. Nhìn chung các quy trình, quy phạm kỹ thuật được xây dựng là tương đối đầy đủ, trong đó đã chú ý đến các lợi ích về kinh tế xã hội và môi trường bảo đảm các tiêu chí quản lý rừng bền vững (rừng có năng xuất chất lượng cao, giảm thiểu tác động môi trường, xói mòn và thoái hoá đất ). Tuy nhiên, có một số quy trình đã cũ cần được xây dựng lại như quy trình khai thác gỗ (ban hành từ năm 1963), quy phạm kỹ thuật xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn (ban hành năm 1991), ngoài ra còn thiếu một số quy định cần được bổ sung như quy trình 12
  17. trồng một số loài cây trồng mới, quy trình thiết kế khai thác, quy trình nhân giống vô tính một số loài cây 2. Quản lý bền vững rừng tự nhiên 2.1. Tổng quan các hệ thống quản lý rừng tự nhiên hiện nay ở các nước nhiệt đới và Việt Nam 2.1.1. Hệ thống và kinh nghiệm quản lý rừng tự nhiên ở một số nước trong khu vực Lịch sử quản lý rừng nhiệt đới được phát triển từ những năm đầu của thế kỷ 19 ở Ấn Độ, Mianma và nhanh chóng lan rộng sang nhiều khu vực ở châu Phi. Khởi đầu, hoạt động quản lý được thực hiện nhằm bảo vệ có hệ thống các nguồn tài nguyên gỗ. Ở giai đoạn sau này, các hoạt động quản lý được đa dạng hóa như: chuyển đổi rừng tự nhiên thành rừng trồng hoặc nông lâm kết hợp (các hệ thống chuyển đổi), tác động nhằm tạo ra rừng tự nhiên có năng suất cao hơn (các hệ thống chặt trắng), hoặc giảm thiểu tác động và sử dụng tái sinh tự nhiên để tạo ra các lâm phần có mục tiêu lấy gỗ (các hệ thống tái sinh tự nhiên). Ngoài ra, quản lý rừng cũng bao gồm các hệ thống phục hồi bằng việc phục hồi lại rừng trên đất đã bị thoái hóa (các hệ thống phục hồi). Theo (Go’mez-Pompa & Burley 1991) có thể gộp các hệ thống quản lý rừng trên thế giới về 4 nhóm chính sau: Kiểu quản lý rừng Ví dụ cụ thể ở vùng địa lý Nguồn tham khảo Các hệ thống thay thế Rừng trồng Nigeria Kio& Ekwebalan 1987, Đông Nam Á Davidson 1985, Taungya Java Wiersum 1972 Hệ thống nông lâm Mêhicô Go’mez-Pompa et al. 1987 Mayan Các hệ thống chặt trắng Chặt đồng tuổi Malayan Malaixia Watt-Smitt 1963, Chai&Udarbe 1977 Chặt cải thiện lâm phần Philippines FAO 1989 Chặt dưới tán nhiệt đới Nigeria Lowe 1978 Assam, Ấn Độ Nair 1991 Hệ thống mengo Uganđa Earl 1968 Chặt dần theo băng Pêru Hartshorn 1990 Các hệ thống thúc đẩy tái sinh tự nhiên Chặt chọn có quản lý Malaixia Lee 1982; Salleh&Baharudin 1985 Chặt chuyển đổi có chọn Ghana Asabere 1987 lựa 13
  18. Kiểu quản lý rừng Ví dụ cụ thể ở vùng địa lý Nguồn tham khảo Hệ thống lâm sinh Celos Suriname de Graaf 1986 Chặt tuần tự theo khối Trinidad Clubbe & Jhilmit 1992 Chặt chọn Queensland Ốt xtrâylia Sheephrd & Richter 1985 Các hệ thống phục hồi Hỗ trợ tự tái sinh Mêhicô del Amo 1991 Làm giàu rừng (theo Uganđa Dawkins 1958 băng) Nigeria Kio & Ekwebalan 1987  Các hệ thống chuyển đổi rừng Chặt trắng và trồng lại rừng bằng các loài gỗ cứng, thông, bạch đàn hay thay bằng nông nghiệp du canh là đặc điểm chính của các hệ thống này. Việc thay thế rừng tự nhiên bằng rừng trồng công nghiệp thường được sử dụng nhằm làm tăng năng suất và đơn giản hóa công tác quản lý. Hệ thống này không được áp dụng trên diện rộng ở vùng nhiệt đới. Tuy nhiên, ở những khu vực đất đai canh tác nông nghiệp có năng suất thấp thì việc chuyển đổi thành rừng trồng công nghiệp là hợp lý và có triển vọng. Mặc dù gỗ rừng trồng có thể không thay thế được gỗ rừng tự nhiên trong sản xuất một số sản phẩm nhưng nó cũng làm giảm áp lực phá rừng bằng khả năng cung cấp của mình (Kanowski et al. 1992). Nông nghiệp du canh rất phổ biến trong các khu vực nhiệt đới. Rừng được thay thế bởi các hệ thống nông nghiệp ngắn ngày mà sau đó đất đai được bỏ hóa để cho chu kỳ tiếp theo. Hệ thống canh tác nông lâm kết hợp có thể kể đến như Taungya, trong đó các cây gỗ có giá trị được trồng xen với cây nông nghiệp hàng năm. Hệ thống này còn có ở dưới dạng các cây tầng dưới của rừng bị chặt để thay vào đó là các cây nông nghiệp như ca cao. (Nair 1992).  Các hệ thống chặt cải thiện Các hệ thống chặt trắng bao gồm việc biến đổi triệt để các lâm phần gỗ để sau đó được lâm phần có nhiều các cây gỗ có giá trị thương mại hơn. Các loài không có giá trị thương mại có thể bị chặt, ken hoặc dùng thuốc để diệt nhằm tạo ra lâm phần mà các loài cây có giá trị thương mại chiếm ưu thế. Các hệ thống này đòi hỏi lâm phần phải có đủ cây con thuộc loài có giá trị và có đủ cây gieo giống. Hệ thống này đòi hỏi chu kỳ kinh doanh dài (có thể đến 70 năm) dẫn đến việc thay thế nó bằng các hệ thống khai thác theo luân kỳ đang được áp dụng ở hầu hết các vùng nhiệt đới.  Các hệ thống chặt thúc đẩy tái sinh tự nhiên Những hệ thống “chặt chọn” hoặc “chặt luân phiên” nhằm cố gắng giảm thiểu những tác động không có lợi đối với những cây có giá trị thương mại và bảo vệ sự sinh trưởng của chúng. Quá trình tái sinh có thể coi là diễn ra hoàn toàn tự nhiên mà không đòi hỏi những tác động đáng kể nào của con người. Mục tiêu đặt ra là đạt được lâm phần sau khai thác mà kích 14
  19. cỡ và mật độ của lỗ trống được tạo ra không làm thay đổi kiểu tái sinh và số lượng cây con của các loài có giá trị thương mại, những loài này được tạo ra sẽ đạt được ở luân kỳ hai (trong khoảng thời gian 20-30 năm sau). Hiệu quả kinh tế của các mô hình này không chắc chắn bởi vì nguồn vốn thu được từ các hoạt động khai thác đầu tiên thấp hơn các hệ thống theo luân kỳ. Mặt khác, chi phí quản lý dài hạn lại thấp hơn. Các hệ thống tác động tối thiểu tạo ra những cơ hội tốt nhất cho các mục tiêu quản lý hướng tới bảo tồn. Tuy nhiên, như đã chỉ ra bởi Whitmore (1990), mặc dù phương pháp này là tốt về mặt lý thuyết và có triển vọng thực tiễn nhưng không có một bằng chứng cụ thể về tính bền vững nào của hệ thống này trong thời gian dài.  Các hệ thống phục hồi Trong những hệ thống này, quản lý rừng được đưa ra nhằm tái sinh những rừng sản xuất trên đất đã bị thoái hoá mà quá trình diễn thế thoái bộ có thể vẫn tiếp tục xảy ra trong luân kỳ tiếp theo, như các thảm cỏ Imperata của Đông Nam Á. Các khu rừng bị phá hoại nghiêm trọng bởi khai thác không hợp lý, không có khả năng tự phục hồi cũng là đối tượng để thực thi những hệ thống quản lý rừng này. Theo A. Ofosu-Asiedu (1997), các hệ thống quản lý rừng ở vùng nhiệt đới ẩm có thể gộp thành hai nhóm chính, nhóm các hệ thống hướng rừng về cấu trúc đơn giản hơn, rừng có xu hướng trở thành đồng tuổi hoặc cùng kích thước (monocyclic management systems) và nhóm các hệ thống quản lý có tính chu kỳ, thúc đẩy tái sinh tự nhiên nhằm tạo ra rừng có cấu trúc gần với tự nhiên (polycyclic management systems). Cụ thể: Sơ đồ: Hệ thống quản lý rừng tự nhiên nhiệt đới (A. Ofosu-Asiedu, 1997) Hệ thống quản lý rừng Hệ thống chu kỳ đơn Hệ thống chu kỳ (không chính thức) phức (lựa chọn) Tái sinh tự nhiên Tái sinh nhân Tái sinh tự nhiên Tái sinh nhân (shelterwood) tạo (selection) tạo SMS MUS MSS TSS GLS PES INS CSS 15
  20. Trong đó: MUS: Malaysian Uniform System (Asia) - Chặt đồng tuổi Malaixia TSS: Tropical Shelterwood System (West Africa) - Chặt đồng tuổi nhiệt đới (Tây Phi) PES: Post Exploitation System (West Africa) SMS: Selection Management System (Asia) - Chặt chọn (châu Á) MSS: Modified Selection System (West Africa) - Chặt chuyển đổi (Tây Phi) GLS: Girth Limit System (Africa) - Chặt hạn chế theo đường kính (châu Phi) INS: Improvement of Natural Stand (Africa) - Chặt cải thiện lâm phần (châu Phi) CSS: CELOS Silvicultural System (Latin America) - Hệ thống CELOS (Mỹ latinh) Dawkins và Philip (1998) lại mô tả lịch sử các hệ thống quản lý rừng mưa nhiệt đới theo thời gian, các hệ thống này lấy tái sinh tự nhiên là chủ đạo, sự phát triển của các hệ thống này có thể mô tả bằng sơ đồ sau: 16
  21. Lịch sử các hệ thống quản lý rừng sử dụng tái sinh tự nhiên trong kinh doanh rừng nhiệt đới. Dawkins và Philip (2002) Malaya (Ch ặt cải thiện) 1910 (Chặt cải thiện tái sinh) 1927 Andaman Is. (Chặt dần) c.1930 Sri Lanka (chặt chọn) c.1938 Trinidad (TSS) c.1939 Nigeria (TSS kiểu 1) c.1944 Malaya (MUS) c.1950 Puerto Rico (Chặt chọn) c. 1943 Ghana (TSS) c.1945 Sabah and Sarawak (Chặt Uganđa (Chặt đồng tuổi) đồng tuổi) c.1960 c.1950 Philippin (Chặt chọn) c. 1950 Nigeria (TSS kiểu 2) c.1953 Nigeria (TSS kiểu 3) c.1961 Ghana (Chặt chọn) c. 1970 Nigeria (chặt theo chu kỳ) c.1970 Sabah and Sarawak (Chặt đồng tuổi điều chỉnh) c.1970 Penisular Malaixia (Chặt chọn có Inđônêxia (chặt chọn) c.1972 Surinam (chặt theo chu kỳ) c.1970 hệ thống ) c. cuối 1970s Sabah and Sarawak (Chặt 2 Brazil (chặt giới hạn đường kính lần theo đường kính) c.1980 theo chu kỳ) c.1980 17
  22. Các biện pháp kỹ thuật cụ thể của các hệ thống quản lý rừng này xin tham khảo cuốn Tropical Moist Forest Silvicultuve and Management: A History of Success and Failure (Dawkins H.C. and Philip M.S. 1998) 2.1.2. Các hệ thống quản lý rừng tự nhiên đang áp dụng ở Việt Nam Các hệ thống tổ chức và quản lý lâm nghiệp ở Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn10: (i) Thời kỳ trước 1945; (ii) Thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung (1946-1990); (iii) thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường (từ 1991).  Thời kỳ trước 1945 Đơn vị quản lý rừng trong thời kỳ này được gọi là hạt lâm nghiệp có qui mô tương đương với cấp tỉnh. Nội dung hoạt động lâm nghiệp trong thời kỳ này chủ yếu là quản lý tài nguyên rừng nhằm để thu thuế là chính. Để thực hiện mục tiêu khai thác tài nguyên rừng, người ta đã chia rừng thành ba loại: (i) Rừng không thuộc quản lý của Nhà nước. Đây là những khu rừng ở vùng sâu vùng xa với mật độ dân địa phương rất thấp, khó tiếp cận và kiểm soát. Ở những khu rừng này dân địa phương có quyền tự do khai thác gỗ, lâm sản và phát nương làm rẫy để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày của họ. (ii) Rừng khai thác là những khu rừng tự nhiên nằm gần các khu dân cư và có điều kiện giao thông thuận lợi. Rừng được phân chia thành các đơn vị quản lý, được kiểm kê tài nguyên, điều tra các thông tin cơ bản phục vụ quản lý. Các đơn vị rừng được chia thành các coup (cúp) khai thác và Nhà nước quy định cấp kính tối thiểu được phép khai thác. Kiểm lâm đặt các trạm kiểm soát ở cửa rừng, tất cả các gỗ khai thác ra được chấp nhận, đóng búa, nộp thuế và cho phép lưu thông. (iii) Rừng quan trọng là những khu rừng có vị trí quan trong về kinh tế được khai thác và bảo vệ trong suốt luân kỳ; hoặc là những khu rừng có chức năng quan trọng khác như rừng đầu nguồn cần bảo vệ nghiêm ngặt.  Thời kỳ 1946 - 1990 Sau năm 1945 ngành lâm nghiệp được quản lý bởi Nha lâm chính thuộc Bộ canh nông với nhiệm vụ được qui định là: (i) Quản lý lâm phận: ngăn ngừa sự tàn phá rừng và sự lạm dụng lâm sản, gìn giữ các khu rừng có quan hệ đến sự điều hoà khí hậu và mực nước của các triền sông, giữ vững các cồn cát để khỏi lấn vào nội địa; (ii) Thi hành lâm pháp; (iii) Thi hành thể lệ về săn bắn. Các hoạt động lâm nghiệp trong giai đoạn này luôn gắn liền với nhiệm vụ kháng chiến và tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ11: (i) xây dựng chính sách thể chế lâm nghiệp bao gồm: xoá bỏ các thể lệ lâm nghiệp độc quyền, xây dựng tổ chức và chính sách thể chế lâm nghiệp mới; cải tiến chế độ thu tiền bán khoán lâm sản; chính sách phát triển trồng cây gây rừng; các thể chế về bảo vệ rừng, sản xuất, lưu thông và xuất nhập khẩu lâm sản; (ii) Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng; (iii) Khai thác gỗ và lâm sản phục vụ yêu cầu kháng chiến; (iv) Vận động nhân dân trồng cây; (v) Đóng góp các nguồn thu của ngành lâm nghiệp vào ngân sách; (vi) Đào tạo cán bộ lâm nghiệp; (vii) Công tác nghiên cứu lâm nghiệp. 10 Nguyễn Ngọc Lung, 1998: Forest management system and forestry policies in Vietnam. Proceeding of the national seminar on sustainable forest management and forest certification (Ho Chi Minh City 1 12 February 1998. 11 Bộ Nông nghiệp và Phat triển nông thôn,2001: Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội, 2001. Chủ biên: Nguyễn Văn Đẳng. 18
  23. Đến giai đoạn 1956-1975 được đánh dấu bởi sự thành lập của Tổng cục Lâm nghiệp (TCLN) như là cơ quan đầu não của ngành lâm nghiệp. Ở cấp tỉnh có các ty lâm nghiệp để quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Hoạt động lâm nghiệp trong thời kỳ này chủ yếu vẫn là khai thác và bảo vệ rừng tự nhiên. Lượng gỗ khai thác thời kỳ này trung bình khoảng 1,5 triệu m3/năm. Nhiệm vụ trồng rừng tuy có được chú ý nhưng qui mô nhỏ (50.000 ha/năm) và tỷ lệ thành rừng rất thấp (khoảng 30%). Giai đoạn 1976-1990 là những năm có nhiều thay đổi trong hệ thống tổ chức và chính sách quản lý lâm nghiệp được đánh dấu bằng sự thành lập Bộ Lâm nghiệp năm 1976. Năm 1986 rừng được qui hoạch thành ba loại theo chức năng, đó là: Rừng sản xuất; Rừng phòng hộ và Rừng đặc dụng. Rừng được giải thửa thành các tiểu khu có diện tích bình quân khoảng 1000 ha để làm đơn vị quản lý. Các hoạt động quản lý và sản xuất lâm nghiệp của ba loại rừng nói trên được nghiên cứu phát triển và có nhiều đổi mới trong giai đoạn này. Tổ chức của các hệ thống quản lý ba loại rừng có thể được tóm lược như sau: (i) Đối với rừng sản xuất: được quản lý bởi các Liên hiệp lâm nông công nghiệp và các lâm trường quốc doanh. (ii) Đối với rừng phòng hộ: các vùng đầu nguồn trọng yếu như Sông Đà, Dầu Tiếng, Trị An, Thạch Nham có các ban quản lý rừng phòng hộ trực thuộc Bộ Lâm nghiệp, các khu rừng phòng hộ khác do các lâm trường quản lý hoặc các ban quản lý rừng phòng hộ trực thuộc tỉnh, liên hiệp (iii) Đối với rừng đặc dụng: thành lập các vườn quốc gia và các khu bảo tồn thiên nhiên có ban quản lý để bảo vệ nghiêm ngặt theo qui chế riêng.  Thời kỳ từ 1991 đến nay Từ tháng 10/1995, Bộ Lâm nghiệp (cũ) cùng với Bộ Thủy lợi (cũ) sát nhập vào với Bộ Nông nghiệp (cũ) để thành lập Bộ NN&PTNT. Bốn định hướng đổi mới về chiến lược phát triển lâm nghiệp đã được vạch ra trên cơ sở của dự án “Nghiên cứu tổng quan phát triển Lâm nghiệp Việt Nam”: (i) Chuyển lâm nghiệp từ ngành kinh tế có nhiệm vụ khai thác tài nguyên rừng là chính, trở thành một ngành kinh tế có nhiệm vụ cơ bản là xây dựng và phát triển vốn rừng. (ii) Chuyển lâm nghiệp từ một ngành kinh tế chỉ có Nhà nước và tập thể sang một nền lâm nghiệp xã hội, thu hút nhiều thành phần kinh tế trong đó có cả hộ gia đình, cá nhân và các lực lượng xã hội tham gia xây dựng rừng và kinh doanh rừng; (iii) Chuyển lâm nghiệp từ một nền kinh tế chuyên khai thác gỗ tự nhiên sang một ngành kinh tế kinh doanh nhiều sản phẩm, phát triển nhiều ngành nghề; (iv) Chuyển lâm nghiệp từ tình trạng quảng canh, trình độ khoa học kỹ thuật thấp sang xây dựng một ngành lâm nghiệp, thâm canh, có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Để thực hiện định hướng chiến lược có 4 chương trình: (i) Chương trình quản lý rừng (điều chế rừng), bảo vệ rừng và tổ chức lại sản xuất lâm nghiệp. (ii) Chương trình trồng rừng, sử dụng đất trống đồi núi trọc và phát triển lâm nghiệp theo phương thức nông lâm kết hợp. (iii) Chương trình khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng và (iv) Chương trình đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm nghiệp theo cơ chế thị trường . Trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững; đó là Luật đất đai và các chính sách giao đất lâm nghiệp; Luật bảo vệ và phát triển rừng (1991, năm 2004 ) và các thể chế về tăng cường quản lý bảo vệ rừng; Qui chế quản lý 3 loại rừng: sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Nghị định của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp. 2.1.3. Bài học kinh nghiệm và các lỗ hổng kiến thức Phân tích thực trạng của hệ thống quản lý rừng và đất lâm nghiệp đang áp dụng ở Việt Nam, có thể rút ra một số bài học sau: - Hệ thống quản lý cần phải được xây dựng trên một quan niệm đúng đắn về đối tượng và cần chú ý đến tương quan tổng thể, toàn cầu. 19
  24. Về đối tượng: Bản chất kinh tế của rừng thể hiện ở 3 tính chất sau: (i) Rừng vừa là sản phẩm, vừa là tư liệu sản xuất và là một khối thống nhất của hai yếu tố này; (ii) Rừng có giá trị sử dụng tổng hợp; (iii) Giá trị sử dụng của rừng mang tính tiềm năng, (lợi ích của rừng được xác định bao gồm giá trị sử dụng của các lâm sản, dịch vụ và khả năng tái sản xuất ra những sản phẩm trên). Về tương quan tổng thể: Theo quan niệm hiện nay, giá trị tổng hợp của rừng có thể chia thành 5 chức năng: (1) Chức năng sản xuất (kinh tế); (2) Chức năng phòng hộ môi trường; (3) Chức năng giải trí (du lịch); (4) Chức năng môi sinh; và (5) Chức năng bảo vệ đa dạng sinh học. Thứ tự tầm quan trong của các chức năng này sẽ thay đổi theo từng thời kỳ, theo từng nơi và theo từng đối tượng rừng. Hệ thống quản lý rừng cần dựa trên sự hài hoà giữa kinh tế quốc dân (nhà nước) và kinh tế doanh nghiệp. Bất kỳ một khu rừng nào cũng có khả năng cung cấp lợi ích kinh tế và lợi ích sinh thái. Về nguyên tắc thì lợi ích kinh tế không mâu thuẫn với lợi ích sinh thái, nếu giữa kinh tế quốc dân và kinh tế doanh nghiệp không tạo ra các hệ thống độc lập với nhau. Kinh tế doanh nghiệp chịu sự ràng buộc của các sản phẩm có thể bán trên thị trường. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh nghề rừng, sản phẩm có thể bán ra thị trường chủ yếu là các sản phẩm vật chất (gỗ và các lâm sản ngoài gỗ). Các sản phẩm phi vật chất của rừng (mặc dầu có giá trị rất lớn cho cộng đồng và xã hội) cho đến nay và có thể trong một thời gian dài nữa vẫn chưa được thị trường hóa. Sự ràng buộc của thị trường lâm sản sẽ dẫn đến: (i) Các doanh nghiệp được quản lý rừng còn nhiều tài nguyên sẽ có rất nhiều lợi thế trong kinh doanh. Vì lợi nhuận của họ phụ thuộc vào thị trường lâm sản vốn rất biến động. Các nguy cơ có thể xẩy ra là: khai thác quá mức cho phép các loài cây có giá trị hàng hóa cao; vi phạm các nguyên tắc bền vững theo nghĩa đa dạng sinh học. (ii) Các doanh nghiệp quản lý rừng nghèo, đất trống thì phải đầu tư rất lớn cho công tác trồng rừng, cải tạo làm giàu rừng đó là những đầu tư cần thời gian rất dài mới thu hồi được vốn. Điều này buộc họ phải chọn những loài cây sinh trưởng nhanh có giá trị kinh tế cao, từ đó có nguy cơ vi phạm nguyên tắc bền vững (xét theo nghĩa đa dạng sinh học và chức năng khác của rừng). (iii) Các ban quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, hoạt động dựa vào nguồn kinh phí sự nghiệp được cấp rất hạn chế. (iv) Rừng được giao cho hộ gia đình, sự ràng buộc về kinh tế cũng rất phức tạp (do người dân không thể vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư mà thời gian thu hồi qúa dài); nguy cơ vi phạm nguyên tắc bền vững càng cao hơn. Giải pháp duy nhất là đẩy mạnh sản xuất lâm sản hàng hóa và thị trường hoá các sản phẩm/dịch vụ phi vật chất của rừng. Việc tồn tại nhiều nhóm quyền lợi khác nhau trong quản lý rừng đòi hỏi phải có những chính sách hài hòa được các lợi ích kinh tế quốc doanh (lợi ích chung của toàn xã hội) và lợi ích riêng của từng doanh nghiệp (mục tiêu kinh doanh của chủ rừng). Hệ thống quản lý rừng cần một môi trường chính sách/thể chế thông thoáng và hợp lý. Các vấn đề quan trọng nhất trong việc tạo môi trường chính sách thể chế là: (i) giải quyết mối quan hệ sở hữu và quyền sử dụng rừng; (ii) Làm rõ trách nhiệm quản lý cuả các cấp, các ngành; (iii) Cơ chế quản lý phải tạo được quyền chủ động cho các doanh nghiệp và chủ rừng. Hệ thống quản lý rừng phải dựa trên các cơ sở khoa học về lâm sinh. Hệ thống quản lý rừng phải dựa vào toàn dân (xã hội hóa nghề rừng) Bên cạnh những kinh nghiệm nêu trên, một số nhận thức trong quản lý rừng bền vững cần được hiểu đầy đủ như sau: (i) Rừng không chỉ là nơi sản xuất gỗ và các lâm sản khác, nó còn là nhân tố phát triển ở dạng một giá trị tiềm năng tổng hợp, đa chức năng. Các nguyên tắc quản lý rừng bền vững cần phải được bổ sung cho các chức năng khác nhau của rừng; (ii) Các nhân tố cơ bản của sự sống (không khí, nước, khí hậu ) có thể bị 20
  25. suy thoái mà rừng có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì các nhân tố này. Vì vậy rừng không thể là đối tượng chỉ cho mục tiêu kinh doanh lâm sản thuần túy. Đối với rừng cần phải có hai thành phần sở hữu: sở hữu riêng (chủ kinh doanh lấy sản xuất lâm sản làm lợi ích chính) và sở hữu chung (thụ hưởng các chức năng phi vật chất của rừng). Cần phải có các nghiên cứu về mối quan hệ này và xây dựng các phương pháp lượng giá các giá trị phi vật chất của rừng; (iii) Khái niệm về rừng và các chức năng của nó cần phải được nghiên cứu hoàn thiện để có quan niệm đúng hơn về đối tượng; (iv) Các cơ sở lâm học về rừng nhiệt đới còn rất hạn chế, đây là lỗ hổng lớn nhất về kiến thức của chúng ta hiện nay. 2.2. Cơ sở lâm học để quản lý bền vững rừng tự nhiên 2.2.1. Phân loại rừng tự nhiên Tính không đồng nhất về không gian và thời gian của rừng hỗn giao nhiệt đới trong đó nhiều giai đoạn khác nhau của quá trình diễn thế cùng tồn tại . Sự không đồng nhất này là kết quả của quá trình tiến hoá và cạnh tranh lâu dài của các loài để phù hợp với các điều kiện lập địa (đất đai và khí hậu). Tuy nhiên, yếu tố lập địa không nhất thiết phải là quyết định. Thực chất, cấu trúc của rừng tự nhiên không phải lúc nào cũng thay đổi khi có sự thay đổi về đất và khí hậu. Ví dụ đơn giản này đủ nói lên sự khó khăn trong việc phân loại rừng tự nhiên để xây dựng các biện pháp quản lý. 2.2.2. Các đặc điểm cấu trúc rừng tự nhiên Cấu trúc rừng bao gồm: cấu trúc sinh thái (tổ thành, dạng sống, tầng phiến), cấu trúc hình thái (tầng thứ, mật độ, mạng hình phân bố) và cấu trúc thời gian (N/D). (Công trình nghiên cứu có hệ thống nhất về cấu trúc rừng tự nhiên việt Nam cần được tham khảo là của Nguyên Văn Trương, 198312) . Cấu trúc sinh thái: rừng tự nhiên nhiệt đới là các kiểu rừng có cấu trúc sinh thái phức tạp nhất về thành phần loài, tầng phiến và dạng sống thể hiện sự phong phú về đa dạng sinh học. Các chỉ tiêu để chỉ sự đa dạng về loài của rừng tự nhiên là hệ số hỗn loài (số loài/số cây). Trong rừng tự nhiên ở Việt Nam hệ số này biến động từ 1/5 đến 1/13 (nếu số cây gỗ có đường kính ngang ngực từ 10 cm trở lên trong 1 ha bình quân là 500 cây thì số loài biến động từ 38-100 loài/ha). Cấu trúc tổ thành loài nghiên cứu về tầm quan trọng sinh thái của mỗi loài trong quần thụ, các chỉ tiêu để định lượng về tổ thành thường được dùng là giá trị IV (Important Value) tính bằng %. Giá trị này được tính cho tỷ trọng số cây của một loài so với tổng quần thụ, hay tỷ trọng tiết diện ngang G, hoặc tổng của hai chỉ tiêu này. Các loài có giá trị IV%> 5 được xếp vào các loài ưu thế. Phục vụ mục tiêu quản lý, người ta cũng nghiên cứu các quan hệ tương hỗ giữa các loài (nhóm sinh thái); nhóm các loài mục đích, các loài phù trợ và các loài phi mục đích. Sự phân chia này là tương đối vì loài phi mục đích hôm nay có thể trở thành loài kinh tế trong tương lai và ngược lại. Việc khai thác rừng sẽ làm thay đổi cấu trúc tổ thành loài. Nghiên cứu ở Lâm trường Ba Rền cho thấy, trong khi nhóm loài cây mục đích ở rừng giàu và trung bình chiếm 30-50% thì ở rừng nghèo sau khai thác nhiều lần chỉ chiếm 13-25%. Ở Hương Sơn có những vùng Chẹo và Ngát chiếm 32%, các loài khác chiếm 41% nghĩa là 73% ưu thế là các loài kém giá trị kinh tế. Tại Kon Hà Nừng cũng nhận thấy tổ thành các loài có giá trị kinh tế ở rừng giàu (Giổi, sữa, xoay, re, xoan đào, thông nàng ) chiếm 20% trong khi ở rừng nghèo chỉ có 13%13. 12 Nguyễn Văn Trương (1983): Qui luật cấu trúc rừng gỗ hỗn loài. Nhà xuất bản KHKT. Hà Nội 1983. 13 Đỗ Đình Sâm và cộng sự, 2001: Cơ sở khoa học bổ sung những vấn đề kỹ thuật lâm sinh nhằm nâng cao năng suất rừng tự nhiên sau khai thác và rừng trồng công nghiệp. Trong “ kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ lâm nghiệp giai đoạn 1996-2000” của Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam. Nhà xuất bản nông nghiệp. Hà Nội, 2001. 21
  26. Cấu trúc thời gian (N/D): Phân bố số cây theo cấp kính là một trong những cơ sở quan trọng nhất của kết cấu lâm phần. Đường kính là thành phần tham gia chủ yếu trong việc tính toán thể tích cây, từ đó xác định trữ lượng của rừng. Phân bố đường kính cũng là cơ sở cho các biện pháp xử lý lâm sinh, đặc biệt là khai thác và điều chế. Đối với rừng tự nhiên lá rộng thường xanh, các nghiên cứu của nhiều tác giả đều cho thấy dạng phân bố nói chung là giảm dần và chia làm 3 kiểu: (i) Giảm đều; (ii) Đường cong giảm có một đỉnh lệch trái (ở cấp kính 12-16cm) và (iii) Đường cong giảm có hai đỉnh (ở d=16cm và d=80cm). Các dạng phân bố N/D đều có thể mô tả bằng toán. Các kết quả nghiên cứu của Lê Sáu (1996), Nguyễn Văn Đoàn/Trần Văn Con (1998) ở Kon Hà Nừng; Lê Minh Trung (1991) ở Gia nghĩa; Đào Công Khanh ở Hương Sơn đều cho thấy rừng tự nhiên ít bị tác động (trạng thái IV) đều có cấu trúc N/D ở dạng một đỉnh lệch trái và có thể mô phỏng được bằng hàm Weibull. Qui luật kết cấu trữ lượng: tức là qui luật phân bố thể tích theo cỡ kính, đây là cơ sở quan trọng để xác định phương thức và cường độ khai thác. Phương thức khai thác chính đối với rừng tự nhiên khác tuổi là khai thác chọn. Với phương thức này kết cấu trữ lượng được chia thành 3 lớp cây: (i) Lớp dự trữ (D1,3 40cm). Một mô hình rừng được coi là có kết cấu trữ lượng chuẩn cần có tỷ lệ thể tích giữa ba lớp cây trên là: 1:3:5. Các mẫu rừng chuẩn ở Kon Hà Nừng (Gia Lai) có kết cấu trữ lượng là: 1:3:13; ở Hương Sơn (Hà Tỉnh) là 1:2:714; ở Gia Nghĩa (Đak Nông) là: 0,8:3,2:4,915; ở Quảng Bình với rừng giàu: 1,5:3,7:4,8; với rừng trung bình: 1,8:5,6:2,6 và với rừng nghèo là: 2,8:5,9:1,3.16 Cấu trúc thẳng đứng (tầng thứ): Phân bố số cây theo chiều cao cũng được các nhà lâm học quan tâm để xác định tầng thứ của rừng. Rừng tự nhiên nhiệt đới Việt nam có thể chia làm 3-5 tầng thứ. 2.2.3. Các qui luật sinh trưởng và sản lượng rừng tự nhiên Năng suất rừng được quyết định bởi tốc độ tăng trưởng của các cây trong quần thể. Trong rừng tự nhiên hỗn loài, các cá thể của mỗi loài phân bố phân tán, ở mọi cấp tuổi; tính phức hợp của rừng tự nhiên hỗn loài, khác tuổi không những thể hiện ở sự khác biệt về loài mà còn thể hiện ngay trong từng loài do các cá thể được sinh ra và phát triển trong những điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Đặc điểm này đã gây ra rất nhiều khó khăn trong nghiên cứu các qui luật sinh trưởng của rừng tự nhiên. Vì vậy, so với rừng trồng thuần loài, các kết quả nghiên cứu về sinh trưởng và sản lượng của rừng tự nhiên còn rất hạn chế, đặc biệt là ở Việt Nam. Sản lượng của rừng là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, nhiều quá trình riêng lẻ, tuy nhiên các nhân tố và quá trình riêng lẻ này có những qui luật quan hệ với nhau theo các tương quan nhất định. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này đã cho thấy từng loài cây tuy mọc rất phân tán trong lâm phần vẫn có những qui luật về cấu trúc và tương quan sinh trưởng riêng của chúng17. Các qui luật quan hệ giữa thể tích với đường kính và chiều cao; giữa chiều cao và đường kính; giữa suất tăng trưởng về thể tích với đường kính; giữa tuổi cây và đường kính đã được phát hiện cho từng loài, từng nhóm loài; và đó là cơ sở để xây dựng các mô hình dự đoán sản lượng của rừng tự nhiên. 14 Nguyễn Ngọc Lung trích trong Đỗ Đình Sâm 2001: Cơ sở khoa học bổ sung những vấn đề kỹ thuật lâm sinh nhằm nâng cao năng suất rừng tự nhiên sau khai thác và rừng trồng công nghiệp. Kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ lâm nghiệp giai đoạn 1996-2000 của Viện Khoa học lâm nghiệp. Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội 2001. 15 Lê Minh Trung (1991): 16 Đỗ Đình Sâm và cộng sự, 2001: đã dẫn 17 Vũ Đình Phương, Đào Công Khanh, 2001: Kết quả thử nghiệm phương pháp nghiên cứu một số qui luật cấu trúc, sinh trưởng phục vụ điều chế rừng lá rộng thường xanh ở Kon Hà Nưng-Gia Lai. Nghiên cứu rừng tự nhiên. Nhà xuất bản thống kê. Hà Nội, 2001. 22
  27. Các mô hình dự đoán sản lượng của rừng tự nhiên hỗn loài khác tuổi có thể được tiếp cận theo hai phương pháp chính: (i) Từ mô hình sinh trưởng của các cá thể riêng lẻ để tổng hợp thành sinh trưởng của lâm phần. Phương pháp tiếp cận này dựa trên cơ sở các qui luật tương quan giữa các đơn lẻ vừa nói trên.(ii) Tiếp cận tổng thể của hệ thống (lâm phần) như là sự hợp nhất của ba quá trình động trong sinh trưởng lâm phần, đó là: (a) quá trình sinh trưởng (growth); (b) quá trình tỉa thưa tự nhiên (mortality) và (c) quá trình tái sinh của cây con bổ sung vào các cấp kính tính sản lượng (ingrowth). Nhiều mô hình sinh trưởng và sản lượng đã được các tác giả đề xuất theo cả hai hướng tiếp cận này. Tuy nhiên, đối với rừng tự nhiên ở Việt Nam thì đây vẫn còn rất nhiều lỗ trống cần được đầu tư nghiên cứu thêm. Vai trò của các kiến thức về lượng tăng trưởng của rừng là rất lớn trong việc quản lý rừng bền vững. Chỉ khi chúng ta biết chính xác lượng tăng trưởng của rừng, chúng ta mới tính toán chính xác lượng khai thác cho phép để bảo đảm tính bền vững. Thông tin về sinh trưởng và tái sinh của cây rừng cần được thu thập từ các quan sát lâu dài bằng các ô định vị, bằng việc theo dõi diễn biến tăng trưởng trước và sau khai thác qua các ô định vị hoặc các phương pháp điều tra khác. Đây là một công việc đòi hỏi không những kiến thức chuyên môn mà còn đòi hỏi nhiều tiền và thời gian. Đó cũng chính là những hạn chế của kiến thức trong lĩnh vực này. Các nghiên cứu của Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và Viện Điều tra qui hoạch rừng đều cho thấy tăng trưởng của các loài cây mục đích trong rừng tự nhiên ở mức trung bình và chậm18. Có thể tạm phân thành 4 cấp tăng trưởng đường kính như sau: - Tăng trưởng rất chậm: 0,8 cm. Theo phân cấp này thì cây vạng thuộc nhóm sinh trưởng nhanh; các loài re, giổi ở Tây Nguyên và Khu 4 (cũ) có tăng trưởng trung bình; các loài gụ, huỷnh ở Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh sinh trưởng chậm. Các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Trương và Vũ Đình Phương cũng đều có nhận xét chung là tăng trưởng rừng tự nhiên ở Việt nam rất chậm, khoảng 2-4 m3/ha/năm. 2.2.4. Các qui luật diễn thế và tái sinh rừng Quá trình tái sinh và diễn thế của rừng tự nhiên là những vấn đề hết sức quan trọng trong nghiên cứu sinh thái rừng nhiệt đới. Mỗi sự phá hoại rừng nguyên sinh đều dẫn đến quá trình diễn thế theo xu hướng trở lại trạng thái ban đầu. Sự thay đổi như vậy thường được gọi là quá trình diễn thế thứ sinh. Theo Thái Văn Trừng (1970)19 thì có thể phân ra hai loạt trong quá trình diễn thế thứ sinh: (i) trên đất rừng nguyên trạng và (ii) trên đất rừng thoái hóa. Trên đất rừng nguyên trạng, nếu thảm thực vật chỉ bị phá hoại một lần thì các kiểu thảm thực vật sẽ phục hồi gần giống như các quần thể nguyên hay thứ sinh tự nhiên ở một số khu vực nhất định. Nếu bị tác động nhiều lần trong quá trình diễn thế thứ sinh thì tuỳ loại hình quần thụ nhưng thường là không biến đổi mấy về hình dạng, còn về cấu trúc sẽ đơn giản hơn và thành phần cây tái sinh gồm chủ yếu là những loài cây tiên phong tạm cư hay tiên phong định cư và có rất ít loài định vị nên không thể đạt độ ưu thế tương đối của rừng nguyên sinh. Trên loại đất rừng thoái hóa, môi trường đã biến đổi, nhiều khi thảm thực vật rừng không phục hồi nguyên trạng được nên sẽ phát sinh những kiểu thảm thực vật ở bậc thấp hơn kiểu khí hậu, hay kiểu khí hậu thổ nhưỡng. Đây là loại 18 Đỗ Đình Sâm và cộng sự, 2001: sách đã dẫn 19 Thái Văn Trừng, 1970: sách đã dẫn. 23
  28. diễn thế đi xuống, muốn rừng trở lại nguyên trạng thì phải chờ thời gian dài để cải thiện chất lượng về mặt thổ nhưỡng. Tái sinh tự nhiên là quá trình chủ yếu để phục hồi rừng qua các pha diễn thế. Có hai cách tái sinh tự nhiên: (i) Cách tái sinh liên tục dưới tán kín rậm của những loài chịu bóng thường thưa thớt và yếu ớt vì thiếu ánh sáng nên chỉ có một số ít cây thoát khỏi giai đoạn nguy hiểm, ức chế kéo dài để chờ cơ hội vươn lên tầng cao có đủ nhu cầu về sinh thái; (ii) Cách tái sinh theo vệt để hàn gắn những lổ trống trong tán rừng do cây già đổ rụi hay gió bão làm đổ gãy. Trên lỗ trống , trước hết mọc lên các loài cây tiên phong ưa sáng, mọc nhanh. Dưới tán của các cây tiên phong, các loài cây định vị trong thành phần quần thụ cũ thường đòi hỏi che bóng trong 1-2 năm đầu sẽ mọc sau và dần dần vươn lên thay thế những loài tiên phong tạm thời có tuổi thọ ngắn. Nghiên cứu tái sinh 9 loài cây gỗ có giá trị kinh tế (táu mật, giẻ, re, lim xanh, cà ổi, sến, xoay, vàng tâm, giổi) trên các trạng thái rừng khác nhau so với rừng giàu chưa bị tác động, nhận thấy số lượng cây tái sinh giảm rõ rệt20: Ở rừng nguyên sinh, tổng số cây tái sinh mục đích đạt 2594 cây/ha, trong khi đó ở rừng IIIA2 số lượng giảm xuống còn 1481 cây/ha, ở rừng IIIA1 chỉ còn là 750 cây/ha; trong đó có một số loài hầu như rất ít gặp như lim xanh, re, vàng tâm, xoay, sến. Tỷ lệ % so với tổng số các loài cây tái sinh cũng giảm rõ rệt. Tuy nhiên, rừng ở Kon Hà Nừng còn có trữ lượng cao và khai thác chọn mới được diễn ra trong vòng 10 năm thì sự thay đổi trong tái sinh chưa xẩy ra mạnh. 2.3. Các chỉ tiêu kỹ thuật khai thác Các chỉ tiêu kỹ thuật khai thác được thể hiện ở 6 chỉ tiêu chính là: Đối tượng rừng được phép đưa vào khai thác Phương thức khai thác Luân kỳ khai thác Cường độ khai thác Đường kính khai thác tối thiểu Tỷ lệ lợi dụng gỗ. 2.3.1. Đối tượng rừng được phép đưa vào khai thác a) Rừng tự nhiên hỗn loài, khác tuổi chưa qua khai thác hoặc đã qua khai thác nhưng đã được nuôi dưỡng đủ thời gian quy định của chu kỳ khai thác và tuỳ theo loại rừng mà có quy định tiêu chuẩn trữ lượng như sau: Loại 1: Rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá Trên 90 m3/ha đối với các tỉnh từ Thanh Hoá trở ra Trên 110 m3/ha đối với các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên - Huế Trên 130 m3/ha đối với các tỉnh từ Đà Nẵng trở vào Loại 2: Rừng rụng lá (rừng khộp) đạt trên 100 m3/ha Loại 3: Rừng lá kim đạt trên 100 m3/ha Loại 4: Rừng kinh doanh gỗ trụ mỏ phải có trữ lượng trên 70 m3/ha Loại 5: Rừng hỗn loài với tre nứa có trữ lượng như sau: Đối với các tỉnh từ Thanh Hóa trở ra đạt trên 50 m3/ha 20 Đỗ Đình Sâm và cộng sự, 2001: sách đã dẫn. 24
  29. Đối với các tỉnh từ Nghệ An trở vào đạt trên 70 m3/ha Đối với các khu rừng loại 1, loại 2 và loại 3 của đối tượng rừng quy định tại mục (a) thì ngoài tiêu chuẩn trữ lượng còn phải đảm bảo tiêu chuẩn là trữ lượng của các cây đạt cấp kính khai thác phải lớn hơn 30% so với tổng trữ lượng. b) Rừng tự nhiên hỗn loài đồng tuổi đã đạt tuổi thành thục công nghệ c) Rừng của hộ gia đình cá nhân được giao để quản lý, bảo vệ và được hưởng lợi theo Quy định của Chính phủ 21. d) Những khu rừng nghèo kiệt có năng suất chất lượng thấp cần khai thác để trồng lại rừng có năng suất chất lượng cao hơn (theo luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt) e) Các khu rừng được chuyển hoá thành rừng giống theo quy phạm xây dựng rừng giống chuyển hóa (QPN 16-93) được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. g) Các khu rừng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng . 2.3.2. Phương thức khai thác Việc khai thác được thực hiện theo cả hai phương thức là khai thác chọn và khai thác trắng 22 2.3.3. Luân kỳ khai thác Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành quy phạm (QPN 14-92) quy định luân kỳ khai thác như sau: a) Đối với rừng lá rộng thường xanh, nửa rụng lá, rừng lá kim, rừng gỗ hỗn giao với tre nứa là 35 năm. b) Đối với rừng rụng lá (rừng khộp) là 40 năm c) Đối với rừng kinh doanh gỗ trụ mỏ (chống lò) là 10 năm 23 2.3.4. Cường độ khai thác a) Cường độ khai thác không kể chặt bài thải và đổ vỡ  Đối với rừng lá rộng thường xanh, nửa rụng lá, rừng lá kim kinh doanh gỗ lớn, thì cường độ khai thác thay đổi theo cấp trữ lượng, cụ thể : - Cấp trữ lượng từ 91 m3/ha - 150 m3/ha, cường độ khai thác từ 18 - 23% (18- 24%) 24 (*). - Cấp trữ lượng từ 151 - 200 m3/ha, cường độ khai thác từ 24 - 28% (22-28%). - Cấp trữ lượng từ 201 - 300 m3/ha, cường độ khai thác từ 29 - 33% (26-34%). - Cấp trữ lượng từ 301 m3 trở lên, cường độ khai thác từ 34-38% (32-38%).  Đối với rừng hỗn loài tre nứa : cường độ khai thác từ 25-30% 21 Quy định này mới được bổ sung ở Quyết định số 04/2004/QĐ-BNN-LN ngày 2/2/2004 của Bộ Nông nghiệp và PTNT. 22 Quyết định số 02 và 04 của Bộ Nông nghiệp và PTNT 23 Quyết định số 02 và 04 của Bộ Nông nghiệp và PTNT 25
  30.  Đối với rừng kinh doanh gỗ trụ mỏ : - Cấp trữ lượng từ 70 - 100 m3/ha, cường độ khai thác từ 20 - 25% (20-25%) . - Cấp trữ lượng trên 100 m3/ha, cường độ khai thác từ 26-30% (26-30%).  Đối với rừng rụng lá (rừng khộp), cường độ khai thác được tăng lên một cấp so với cấp trữ lượng nói trên. b) Cường độ khai thác nếu bao gồm cả chặt bài thải và đổ vỡ trong quá trình khai thác thì được phép tăng lên, nhưng không được vượt quá 45% và không được tạo thành các khoảng trống có diện tích trên 1.500 m2. c) Cường độ khai thác theo quy định trên được xác định ở lô khai thác có độ dốc từ 150 trở xuống (∝ 150) thì cường độ khai thác phải giảm xuống như sau : cứ độ dốc tăng lên từ 10-20 ( ∝ = 10-20) thì cường độ khai thác phải giảm xuống 1% 25 2.3.5. Cấp kính khai thác tối thiểu (ký hiệu là Dmin) Quy định cấp đường kính tối thiểu được phép khai thác ở rừng kinh doanh gỗ lớn được chia ra theo vùng và theo nhóm gỗ, cụ thể 26 a) Đối với các tỉnh từ Thanh Hóa trở ra 27  Gỗ nhóm I và II : Dmin = 45 cm (45 cm) (*)  Gỗ nhóm III đến nhóm VI Dmin = 40 cm (35 cm)  Gỗ nhóm VII và nhóm VIII Dmin = 30 cm (25 cm) b) Đối với các tỉnh từ Nghệ An đến Thừa Thiên - Huế  Gỗ nhóm I và II : Dmin = 50 cm (45 cm) (*)  Gỗ nhóm III đến nhóm VI Dmin = 45 cm (40 cm)  Gỗ nhóm VII và nhóm VIII Dmin = 35 cm (30 cm) c) Đối với các tỉnh từ Đà Nẵng trở vào .  Gỗ nhóm I và II : Dmin = 50 cm (50 cm) (*)  Gỗ nhóm III đến nhóm VI Dmin = 45 cm (45 cm)  Gỗ nhóm VII và nhóm VIII Dmin = 40 cm (35 cm) Riêng rừng lá kim: Dmin = 40 cm; Những cây họ dầu của rừng khộp: Dmin = 35 cm 28 2.3.6. Tỷ lệ lợi dụng gỗ Ở các năm trong thập kỷ 90 trở về trước, ngành Lâm nghiệp chưa ra quy định bắt buộc phải thực hiện về tỷ lệ lợi dụng gỗ cây đứng. 25 Từ năm 1999 - 2003 quy định là khi độ dốc tăng 100 thì cường độ khai thác phải giảm 5% 26 Quyết định số 02 và 04 của Bộ Nông nghiệp và PTNT 27 (*) Số trong ngoặc đơn (-) là quy định tại QĐ số 02 và áp dụng từ 1999-2003. Số ngoài ngoặc đơn là số quy định tại QĐ số 04 và áp dụng từ năm 2004 trở đi. 28 Quyết định số 04/2004/QĐ-BNN-LN ngày 2/4/2004 26
  31. Từ năm 1999 đến nay đi, tỷ lệ lợi dụng gỗ cây đứng được Bộ Nông nghiệp và PTNT thể chế hóa thành các quy định bắt buộc cho các chủ rừng, đơn vị thiết kế và cơ quan quản lý Nhà nước các cấp phải thực hiện, trong tỷ lệ lợi dụng gỗ được chia thành ba loại : Gỗ lớn khúc thân (gỗ thương phẩm) gỗ tận dụng và củi, các loại này được quy định như sau : - Gỗ lớn khúc thân (gỗ thương phẩm) từ 60% trở lên (55-70%) 29(*) - Gỗ tận dụng từ 10% trở lên (5-15%) - Củi từ 5% trở lên ( 5-7%) 2.4. Hệ thống các biện pháp kỹ thuật lâm sinh 2.4.1. Sử dụng bền vững rừng tự nhiên nguyên sinh Một chiến lược để bảo tồn rừng tự nhiên không thể chỉ dựa vào các giải pháp bảo vệ (như tăng cường lực lượng kiểm lâm, đóng cửa rừng). Để làm như vậy, Nhà nước sẽ không đủ năng lực kể cả về nguồn tài chính và cơ sở xã hội. Thay vào đó, phải luôn luôn tìm kiếm các biện pháp sử dụng kết hợp với bảo vệ, cho dù đó là rừng sản xuất, rừng phòng hộ hay là rừng đặc dụng. Đằng sau quan điểm này ẩn chứa hai ý: thứ nhất, chỉ khi nào rừng mang lại lợi ích kinh tế thì nó mới được quan tâm bảo vệ và thứ hai, chỉ khi nào việc khai thác các lợi ích của rừng được thực hiện với phương thức bền vững thì rừng mới được bảo vệ tốt. a) Khai thác đảm bảo tái sinh Một thực tế đang diễn ra trong ngành lâm nghiệp là việc tách rời khai thác rừng ra khỏi các giải pháp lâm sinh để giao cho một ngành khác gọi là “công nghiệp khai thác rừng”. Cho đến khi tài nguyên rừng bị cạn kiệt thì lại có chủ trương “đóng cửa rừng”. Thực ra, rừng là một hệ sinh vật sống, nghĩa là trong hệ sinh thái rừng luôn xẩy ra các quá trình phát sinh (tái sinh), phát triển (sinh trưởng) và chết. Trong diễn thế tự nhiên, các cây rừng thành thục sinh học sẽ bị chết, từ các lỗ trống của các cây bị chết này cây con sẽ tái sinh, phát triển để thay thế. Như vậy các biện pháp kỹ thuật lâm sinh chính là tạo điều kiện tối ưu cho quá trình phát triển bền vững của rừng. Vì vậy khai thác rừng phải được coi là một biện pháp kỹ thuật lâm sinh. Mục đích của khai thác không chỉ để lấy sản phẩm gỗ, mà còn là tạo điều kiện để các thế hệ cây dự trữ và kế cận phát triển nhanh hơn, tạo năng suất cao hơn cho hệ sinh thái rừng. Mặc dầu cần phải có những nghiên cứu bổ sung hoàn thiện, nhưng qui trình, qui phạm và các qui định khai thác đảm bảo tái sinh ở Việt Nam đã được xây dựng tương đối hợp lý. Nếu các cơ sở sản xuất tuân thủ nghiêm ngặt các qui định đã có, thì rừng tự nhiên sẽ được khai thác, sử dụng lâu bền. Mục tiêu của kỹ thuật khai thác đảm bảo tái sinh là: - Bảo toàn được vốn rừng và bền vững trong sử dụng tài nguyên: muốn như vậy phải bảo đảm nguyên tắc là lượng khai thác không được vượt quá lượng tăng trưởng của rừng hàng năm. - Vốn tái đầu tư để phục hồi rừng sau khai thác tối thiểu nhằm giảm thiểu các tác hại của quá trình khai thác đến cấu trúc rừng và tầng cây tái sinh. - Tạo điều kiện tốt cho quá trình tái sinh tự nhiên và sinh trưởng phát triển của các thế hệ kế tiếp sau khai thác. - Nâng cao tỷ lệ sử dụng gỗ trong khai thác. 29 (*) Số trong ngoặc đơn là theo quy định tại QD số 02 của Bộ Nông nghiệp và PTNT và được áp dựng từ năm 1999-2003. Số ngoài ngoặc đơn là theo quy định tại QĐ số 04 và được áp dụng từ năm 2004 trở đi. 27
  32. Muốn như vậy cần phải nghiên cứu bổ sung để xác định: (i) Luân kỳ khai thác hợp lý; (ii) Xác định lại cỡ đường kính khai thác tối thiểu cho từng nhóm loài 30. (iii) Trong lâm phần chừa lại, phải có đủ một lượng cây mẹ khoẻ mạnh ở cấp kính 30-45 cm để gieo giống (tối thiểu là 32 cây/ha và phân bố đều trên diện tích); (iv) Khai thác đảm bảo tái sinh phải tuân thủ đúng qui trình, qui phạm. Sau đây là một số khuyến nghị có thể bổ sung vào qui trình tác nghiệp trước và sau khi khai thác trong hệ thống các biện pháp lâm sinh để bạn đọc tham khảo b) Kỹ thuật khai thác giảm thiểu tác động (RIL-Reduced Impact Logging) Thuật ngữ “khai thác giảm thiểu tác động” được đưa ra lần đầu tiên bởi Putz và Pinard 1993 và nhanh chóng thay thế các thuật ngữ “khai thác gần gũi với môi trường” - được đề xuất bởi FAO, (Dykstra và Heinrich, 1992) hay “khai thác tác động thấp” – do Quỹ rừng nhiệt đới (TFF) giới thiệu. Có thể điểm lại lịch sử phát triển các hệ thống khai thác rừng tự nhiên nhiệt đới theo các giai đoạn lớn sau đây. Giai đoạn trước những năm 50 thế kỷ 20, hoạt động khai thác rừng nhiệt đới chủ yếu được thực hiện bởi sức lao động của con người và động vật mà chưa sử dụng máy móc trong quá trình khai thác. Chính vì vậy, các biện pháp khai thác này không gây tác động lớn cho rừng tự nhiên. Từ những năm 50 trở lại đây, khai thác công nghiệp rừng tự nhiên phát triển mạnh mẽ do nhu cầu gỗ tăng vọt trên thế giới. Các phương pháp khai thác cơ giới hóa ở các nước vùng ôn đới được sử dụng ở các vùng nhiệt đới ngày càng nhiều với cường độ ngày càng cao. Hệ quả là, rất nhiều khu rừng nhiệt đới bị phá hoại nghiêm trọng sau khai thác. Vấn đề khai thác rừng tự nhiên bền vững trở thành mối quan tâm của nhiều tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý, sử dụng, bảo tồn rừng tự nhiên nhiệt đới trên thế giới. Hàng loạt các hệ thống kỹ thuật khai thác giảm thiểu tác động được đề xuất từ những năm 90 thế kỷ 20 trở lại đây. Trong đó đáng kể nhất là các hệ thống biện pháp kỹ thuật quản lý sử dụng rừng xây dựng bởi ITTO (1990), Poore và Sayer (1990), FAO (1993, 1996) và FSC (1994, sửa đổi năm 2000). Rất nhiều kỹ thuật sử dụng trong các phương thức khai thác được đề xuất này là kinh nghiệm rút ra từ hệ thống khai thác áp dụng cho rừng nhiệt đới ở Australia. Trong rất nhiều hệ thống biện pháp kỹ thuật khai thác giảm thiểu tác động được đề xuất, quy trình khai thác được xây dựng bởi FAO (1996) (Dykstra và Heinrich, 1996) có ảnh hưởng rộng rãi nhất trong các nước có rừng tự nhiên nhiệt đới. Trên cơ sở quy trình này, với sự hỗ trợ của FAO, nhiều nước đã xây dựng được quy trình khai thác cụ thể phù hợp với điều kiện của nước mình. Đối với các nước khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, do diện tích rừng tự nhiên nhiệt đới lớn, tính cấp thiết trong quản lý rừng, FAO và các nước thành viên trong khu vực đã phát triển “Quy trình khai thác rừng tự nhiên nhiệt đới cho vùng châu Á – Thái Bình Dương” (FAO, 1999). Quy trình này thậm chí đã phát triển chuyên sâu cho phép các nước có thể xây dựng các biện pháp khai thác cho từng vùng cụ thể. Để có thông tin chi tiết độc giả có thể tìm hiểu trong các quy trình khai thác, hướng dẫn kỹ thuật quản lý rừng tự nhiên bền vững của FAO, ITTO, FSC Mặt dù các hệ thống khai thác giảm thiểu tác động có những khác biệt, những đặc điểm chung của một hệ thống này là: (Sist et al. 1998): - Điều tra trước khai thác và đánh dấu trên bản đồ các cây khai thác 30 Qui chế khai thác gỗ và lâm sản khác số 04/2004/QĐ/BNN/PTLN ngày 2/2/2004. 28
  33. - Thiết kế hệ thống đường khai thác, vận xuất, bãi gỗ hợp lý theo hệ thống nhằm giảm thiểu tác động tới đất rừng, bảo vệ nguồn nước. - Chặt toàn bộ dây leo xung quanh cây sẽ bị khai thác - Sử dụng biện pháp chặt hạ hợp lý về hướng chặt, hạ thấp tối đa chiều cao gốc chặt, cắt khúc hợp lý nhằm tận dụng tối đa gỗ sử dụng được. - Xây dựng đường vận xuất, khai thác và bãi gỗ theo thiết kế, hợp lý, không tác động xấu tới hoàn cảnh rừng - Kéo gỗ trên các đường vận xuất đã thiết lập và đảm bảo rằng trong suốt quá trình vận chuyển chúng không bị kéo ra ngoài. - Nơi có điều kiện thì sử dụng phương pháp vận xuất trên không (bằng đường cáp ) nhằm bảo vệ đất và thực vật. - Tiến hành các hoạt động đánh giá sau khai thác nhằm tìm hiểu mức độ thành công của các biện pháp kỹ thuật, sự thuần thục của đội ngũ công nhân. Khai thác tác động thấp chỉ mới thâm nhập vào Việt Nam trong những năm gần đây. Song các quy chế, các quy trình kỹ thuật của ta đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của khai thác tác động thấp. Tuy nhiên đã có thể tiếp cận với các kỹ thuật mới và để khai thác tác động thấp thật sự áp dụng vào thực tế sản xuất còn nhiều vấn đề phải làm như hoàn thiện cơ chế chính sách, quy trình, quy phạm, tập huấn đào tạo bổ sung cho cán bộ, giáo viên, công nhân; đào tạo công nhân khai thác c) Du lịch sinh thái Du lịch sinh thái là một dịch vụ của rừng phải được coi như là một sản phẩm (lợi ích) của rừng cần được sử dụng một cách bền vững. Đã có nhiều dự án phát triển du lịch sinh thái được hình thành gắn liền với các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu rừng tự nhiên có cảnh quan đặc biệt của các cơ quan du lịch Nhà nước và các thành phần kinh tế khác, vấn đề đặt ra đối với quản lý rừng bền vững là làm thế nào để các cộng đồng dân địa phương sống trong và gần rừng chia sẻ được các lợi ích từ các hoạt động du lịch sinh thái và thông qua đó nâng cao được mối quan tâm bảo vệ rừng tự nhiên của họ. Vì vậy, nếu du lịch sinh thái có khả năng tạo được các cơ hội tăng thêm thu nhập cho dân địa phương thì người dân sẽ có ý thức tham gia bảo vệ các cảnh quan của rừng để thu hút khách du lịch và bảo vệ nguồn thu của họ. Chỉ có như vậy, du lịch sinh thái mới trở thành một biện pháp sử dụng rừng tự nhiên bền vững. Ở Việt Nam du lịch sinh thái mới bắt đầu phát triển, chủ yếu ở các vườn Quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên. Nhiều nơi đã thu hút được đồng bào dân tộc thiểu số tham gia làm các dịch vụ phục vụ khách như vườn Quốc gia YookĐôn, Cúc Phương, Ba Bể, U Minh Thông qua đó, người dân đã gắn bó với rừng hơn và tham gia tích cực hơn vào công tác bảo vệ, xây dựng rừng. Tuy nhiên cũng cần tăng cường quản lý để tránh du lịch làm ảnh hưởng xấu đến môi trường nói chung và môi trường sống của các loài động vật. d) Lâm sản ngoài gỗ và quản lý săn bắt Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào thống kê được khối lượng và tính toán được giá trị kinh tế từ nghề săn bắt. Tuy nhiên một điều có thể khẳng định là: tình trạng săn bắt bừa bãi cộng với việc môi trường sống bị hủy hoại đã làm cho tài nguyên động vật trong nhiều khu rừng tự nhiên ngày càng khan hiếm, có nhiều loài đang đứng trước nguy cơ diệt chủng. Nói chung, chúng ta đang thiếu các cơ sở khoa học và pháp luật để quản lý bền vững nguồn tài nguyên động vật rừng. Các nghiên cứu gần đây chỉ mới tập trung vào xác định sự có mặt và phân bố của các loài để lập qui hoạch và khoanh các khu bảo tồn mà 29
  34. chưa đủ cơ sở để lập kế hoạch phát triển sử dụng, săn bắt bền vững nguồn lợi động vật rừng. Tiềm năng tài nguyên lâm sản ngoài gỗ của rừng tự nhiên Việt Nam là rất lớn. Vấn đề lớn nhất hiện nay là thiếu một thị trường đảm bảo cho việc tiêu thụ các lâm đặc sản ngoài gỗ. Ở đây vai trò của một thị trường quốc tế là rất quan trọng, bởi vì việc tiêu thụ trong nước và ở địa phương không thể đảm bảo cho việc phát triển ở qui mô xứng đáng với tiềm năng lớn lao của nguồn tài nguyên nhưng ngược lại những lâm sản được thị trường ưa chuộng lại bị khai thác lạm dụng, không có khả năng quản lý được và nhiều nơi trở nên cạn kiệt như song mây, trầm hương, sa nhân, sá xị Ngoài ra, rất nhiều vấn đề về khả năng nuôi trồng lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng vẫn còn để ngỏ, chưa được nghiên cứu. 2.4.2. Kỹ thuật phục hồi rừng đã bị thoái hoá Vấn đề khoanh nuôi phục hồi rừng ở Việt Nam đã được đặt ra từ rất sơm, bắt đầu từ những năm 50-60 của thế kỷ trước bằng thuật ngữ “khoanh núi, nuôi rừng”. Cho đến thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, thuật ngữ này được đổi thành “phục hồi rừng bằng khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh” với những chuyển hướng mới về kỹ thuật lâm sinh và đã được thể hiện trong các văn bản pháp quy: Qui phạm các giải pháp kỹ thuật lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa (QPN 14-92) ban hành kèm theo quyết định số 200/QĐ-KT ngày 31/3/1993 của Bộ Lâm nghiệp (cũ). Qui phạm phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp với trồng bổ sung (QPN 21-98) ban hành kèm theo quyết định số 125/QĐ/BNN/KHCN ngày 4/11/1998 của Bộ NN&PTNT. a) Kỹ thuật khoanh nuôi xúc tiến tái sinh Đối tượng phục hồi rừng có diện tích rộng, phân bổ hầu như trên phạm vi cả nước từ vùng thấp (500-700m) đến vùng cao (trên 700m) Các vấn đề kỹ thuật cần lưu ý trong khoanh nuôi phục hồi rừng là: - Lựa chọn, xác định và lượng hóa hệ thống tiêu chuẩn các điều kiện cần và đủ cho khoanh nuôi phục hồi rừng; làm cơ sở cho việc phân loại đối tượng để có các phương thức tổ chức quản lý thích hợp cho rừng khoanh nuôi. - Lựa chọn, xác định và lượng hóa hệ thống tiêu chuẩn về trạng thái thực bì và đất đai cho đối tượng tác động bằng khoanh nuôi để có các biện pháp xúc tiến có hiệu quả. - Lựa chọn các loài cây ưu tiên bao gồm cây gỗ, cây ăn quả, cây có giá trị hàng hóa và xác định cơ cấu cây khoanh nuôi thích hợp cho từng dạng lập địa là đối tượng khoanh nuôi. - Qui hoạch vi mô cần được chú ý; thiết kế chi tiết các mô hình nuôi rừng trên từng lập địa vi mô và xây dựng hướng dẫn kỹ thuật cụ thể. Hiện tại có hai dạng khoanh nuôi: khoanh nuôi phục hồi rừng không trồng bổ sung và khoanh nuôi phục hồi rừng có trồng bổ sung. Khoanh nuôi phục hồi rừng không trồng bổ sung được tiến hành ở các đối tượng có đủ điều kiện cây tái sinh ở nhóm loài mục đích: Biện pháp quản lý là khoanh, bảo vệ tránh các tác động của con người và súc vật để rừng tự phục hồi bằng quá trình tái sinh, diễn thế tự nhiên. Các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ ở đây chỉ là: chăm sóc cây mục đích khỏi bị cây cỏ, dây leo xâm hại; có các tác động xúc tiến để thúc đẩy quá trình tái sinh tự nhiên như xử lý thực bì, làm đất để hạt dễ tiếp xúc, nẩy mầm. Tất cả các hoạt động hỗ trợ và xúc tiến này 30
  35. chỉ tiến hành cục bộ, trên từng vi lập địa cụ thể với mục đích tạo môi trường tối ưu cho cây mục đích tái sinh và sinh trưởng để chất lượng rừng phục hồi được nâng cao. Khoanh nuôi có trồng bổ sung được thực hiện ở những đối tượng mà quá trình tái sinh tự nhiên bị hạn chế do thiếu cây mẹ gieo giống, điều kiện lập địa khắc nghiệt Biện pháp kỹ thuật có thể là gieo hạt bổ sung sau khi đã xử lý đất (ở lập địa tốt, nhưng thiếu cây mẹ gieo giống), hoặc trồng bổ sung ở nơi lập địa không thích hợp cho tái sinh tự nhiên. Về kết quả khoanh nuôi có thể đánh giá như sau : - Khoanh nuôi là một biện pháp rẻ tiền, phục hồi rừng nhanh chóng, qua 10 năm thực hiện đã góp phần nâng độ che phủ của rừng lên một cách đáng kể. - Yếu tố quyết định thành công của khoanh nuôi trước hết là lựa chọn đúng đối tượng đất để khoanh nuôi sau nữa là các biện pháp bảo vệ chống chặt phá, chống cháy. - Khoanh nuôi thành công ở nhiều tỉnh, đặc biệt là các tỉnh phía Bắc, đối với các rừng chẹo, dẻ, re, ràng ràng. - Khoanh nuôi có trồng bổ sung, nhìn chung còn ít thành công, chỉ có một số mô hình nhỏ ở một số địa phương do còn mắc một số vấn đề về kỹ thuật (xem phần kỹ thuật làm giầu rừng ). - Nhìn chung biện pháp khoanh nuôi phù hợp đối với rừng phòng hộ và đặc dụng để tạo nhanh độ che phủ, chống xói mòn, giữ đất, giữ nước. Chất lượng rừng khoanh nuôi kém, hiệu quả kinh tế mang lại thấp. Là một nước đông dân, đất đai hạn hẹp, cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng đất, vì vậy khi điều kiện tài chính cho phép nên tiến hành trồng lại rừng, nên coi khoanh nuôi rừng là giải pháp tạm thời, sau này chỉ áp dụng ở những nơi cao, xa, vào các đối tượng cực kỳ thuận lợi, thuộc vùng phòng hộ rất xung yếu và rừng đặc dụng. b) Kỹ thuật làm giầu rừng. Làm giàu rừng là biện pháp kỹ thuật áp dụng đối với rừng thứ sinh nghèo kiệt, rừng non phục hồi (không đạt chất lượng) bằng cách lợi dụng nền rừng cũ, trồng bổ sung các loài cây có giá trị kinh tế vào các băng hay rạch hoặc vào các khoảng trống trong rừng (khoảng 200-500 cây/ha) Kết cấu rừng mong muốn khi định hình sẽ là các cây làm giàu chiếm ưu thế, xen lẫn với cây sẵn có trong rừng tự nhiên.  Ưu điểm của hoạt động làm giàu rừng - Giá thành tương đối thấp - Thi công đơn giản - Bảo vệ và lợi dụng được nền rừng cũ và những cây giá trị sẵn có trong rừng đồng thời duy trì được khả năng phòng hộ của rừng.  Nhược điểm của hoạt động làm giàu rừng - Sinh trưởng của cây trồng thường quá thấp. - Công việc chăm sóc phải thường xuyên và kéo dài  Những vấn đề cần quan tâm. - Quan sát rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới (chiếm diện tích chủ yếu rừng tự nhiên của Việt nam) hầu như mọi người đều nghĩ rằng cây rừng nhiệt đới là loại cây chịu bóng, ít có yêu cầu cao về ánh sáng. Nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy, các loài cây có giá trị kinh tế của rừng nhiệt đới chỉ tái sinh ở các lỗ trồng và đều là những loài cây ưa sáng 31
  36. ngay từ giai đoạn non, tối thiểu đòi hỏi cường độ ánh sáng 25% (so với nơi trống hoàn toàn), và nhiều loài đòi hỏi cường độ ánh sáng trên 50%, còn ở giai đoạn “cây sào” đòi hỏi ánh sáng trên 50% hoặc trên 70%. - Trong rừng rậm nhiệt đới, ánh sáng lọt xuống dưới tán rừng chỉ đạt khoảng 3,5%.  Phương pháp khắc phục Để khắc phục những tồn tại trên, cần có những biện pháp xử lý điều tiết ánh sáng phù hợp để đạt hiệu quả của làm giàu rừng Để tăng cường độ ánh sáng cho cây trồng có 2 cách, một là hạ tầng tán của cây rừng ở các băng chừa, hai là mở rộng rạch hoặc băng. Thường người ta hạ tầng tán xuống còn 15-18m, nghĩa là chặt hầu hết cây có đường kính >20cm, chỉ để lại cây có giá trị kinh tế. Tăng bề rộng của rạch lên: rạch có bề rộng > 1/2H đối với hướng Đông Tây, > 5/8H đối với hướng Bắc Nam. Ở nơi có độ dốc thấp, nên tận dụng tối đa khả năng mở rạch hoặc băng theo hướng Đông Tây, nơi có độ dốc cao, mở băng theo đường đồng mức. Chỉ tiến hành làm giàu theo đám đối với các khoảng trống có đường kính tối thiểu bằng 2H. Không nên trồng cây vào sát mép của băng hoặc mép của lỗ trống. Đối với rạch chỉ trồng một hàng cây, còn đối với băng thì tùy theo bề rộng mà xác định số hàng cho phù hợp. Để tránh cây rừng phi mục đích chèn ép cây trồng và tránh thời gian chăm sóc kéo quá dài cần chọn các loài cây mọc tương đối nhanh để đưa vào trồng làm giàu (tốt nhất tăng trưởng chiều cao đạt >1,2m/năm, tối thiểu >1m/năm). Thường xuyên phát cây chèn ép cây trồng cũng như những cành nhánh từ nền rừng chừa lại, che bóng cây trồng. Ở Việt nam làm giàu rừng thành công đối với giổi, lát và bước đầu hứa hẹn đối với sao, dầu, chiêu liêu, kháo vàng, dẻ cau, trám trắng. Từ những phân tích trên, các biện pháp kỹ thuật được quy định như sau:  Chọn đối tượng làm giàu rừng Đối tượng làm giàu rừng là các rừng kiệt, rừng non, rừng nghèo có trữ lượng thấp, số lượng cây mục đích thấp và có phẩm chất không đạt yêu cầu (dưới 150 cây/ha); số cây tái sinh có giá trị kinh tế, có chiều cao trên 2m chỉ đạt dưới 500 cây/ha.  Nội dung kỹ thuật - Có hai hình thức làm giàu rừng: Làm giàu rừng theo rạch và làm giàu rừng theo đám, trong đó làm giàu rừng theo đám cần được ưu tiên. Làm giàu rừng theo rạch: Mở các rạch trồng rừng rộng từ 4-8 m, bề rộng của rạch phụ thuộc vào đặc tính ưa sáng của loài cây trồng và chiều cao cây của băng chừa để lại. Rạch mở theo đường đồng mức, hoặc theo hướng Đông Tây. Tiến hành phát dọn sạch thực bì, chỉ để lại các cây tái sinh có giá trị kinh tế cao. Trồng 1 hàng cây trong rạch với mật độ khoảng 150-400 cây/ha. Băng chừa rộng 6-12 cm. Trong băng chừa tiến hành các nội dung công việc của nuôi dưỡng rừng và chặt hạ các cây có chiều cao lớn hơn 15 cm (tương đương với cây có đường kính trên 20 cm). 32
  37. Làm giàu rừng theo đám: thực hiện đối với rừng có các khoảng trống lớn trên 1000 m2. Tiến hành trồng cây như kỹ thuật trồng rừng. - Loài cây lựa chọn là các loài bản địa, cây lá rộng nhập nội có giá trị kinh tế cao, sinh trưởng tương đối nhanh, đặc biệt là về chiều cao, tối thiểu đạt 0,8-1m/năm và phù hợp với điều kiện lập địa nơi gây trồng. - Tiêu chuẩn cây con đem trồng phải đạt chiều cao 0,8-1m để có sức cạnh tranh với cây bụi thảm tươi ở trong rừng. - Chăm sóc cây trong 3 năm đầu như kỹ thuật chăm sóc rừng trồng. - Chăm sóc trong 4-5 năm tiếp theo với nội dung chủ yếu là phát các cây phi mục đích chèn ép cây trồng cả ở rạch trồng và băng chừa, phát dây leo có hại, chặt tỉa cành nhánh ở băng chừa lấn át cây trồng. - Khi tiến hành làm giầu rừng , có khả năng tận thu gỗ từ chặt cây trong các rạch để trồng cây và chặt thải loại (chặt nuôi dưỡng) từ các băng chừa. 2.5. Quản lý khai thác Để quản lý công tác khai thác đảm bảo lợi dung rừng một cách hợp lý và bền vững, với quan điểm chỉ sử dụng một phần tăng trưởng của rừng, không xâm phạm vào vốn rừng, ngành Lâm nghiệp thực hiện việc quản lý khai thác theo 7 bước : Lập kế hoạch khai thác. Thiết kế khai thác cụ thể hàng năm ; thẩm định ; trình duyệt ; tổ chức thực hiện ; kiểm tra, giám sát và nghiệm thu rừng ; cuối cùng là đóng cửa rừng. 2.5.1. Lập kế hoạch khai thác Việc lập kế hoạch khai thác được tiến hành xây dựng cho cả một luân kỳ khai thác 35 năm. Từ đó chia ra kế hoạch khai thác cho 5 năm (gọi là một giai đoạn). Như vậy đối với rừng lá rộng thường xanh, nửa rụng lá, rừng lá kim, rừng hỗn loài với tre nứa được xây dựng làm 7 giai đoạn và rừng rụng lá (rừng khộp) là 8 giai đoạn. Cứ hết một giai đoạn 5 năm, các đơn vị chủ rừng sẽ tiến hành phúc tra lại các yếu tố tài nguyên để bổ sung, điều chỉnh và lập kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo. Việc xây dựng này được Bộ Nông nghiệp và PTNT quy định trong nội dung văn bản quy phạm pháp luật gọi là “ Xây dựng phương án điều chế rừng”. Thực chất của bản phương án này là một luân kỳ, trong đó chia ra từng giai đoạn 5 năm và được cụ thể hóa cho từng năm của giai đoạn đầu. Để bảo đảm quản lý rừng bền vững trong phương án điều chế rừng, không chỉ lập kế hoạch khai thác mà còn phải lập các kế hoạch về lâm sinh và các kế hoạch phù trợ khác. Để xây dựng một phương án Điều chế rừng cho một đơn vị chủ rừng được tiến hành theo trình tự 3 bước : thu thập, phân tích thông tin cơ bản, điều tra ngoại nghiệp và tính toán nội nghiệp. a) Thu thập và phân tích thông tin cơ bản  Bản đồ: gồm bản đồ địa hình tỷ lệ 1/25000, bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng và hiện trạng sử dụng đất, bản đồ quy hoạch ba loại rừng và quy hoạch sử dụng đất.  Thu thập các văn bản pháp lý có liên quan như quyền sử dụng đất, các quyết định giao đất, giao rừng thành lập đơn vị (nếu có), phân chia ba loại rừng của cấp có thẩm quyền theo quy định của Pháp luật Việt Nam.  Các thông tin về điều kiện tự nhiên : Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thủy văn, địa chất thổ nhưỡng, tài nguyên rừng và đất rừng (hoạch định rừng phòng hộ và 33
  38. rừng sản xuất trong lâm phần của đơn vị trong đó được phân chia theo từng trạng thái).  Các thông tin về kinh tế, xã hội : Dân số, dân tộc, lao động, y tế, giáo dục, đói nghèo, tình hình sản xuất, trình độ canh tác, cơ sở hạ tầng, về cơ chế, chính sách, và thị trường trên địa bàn tỉnh, huyện.  Các thông tin về tình hình kinh doanh 5 năm trước của chủ rừng : mục tiêu giai đoạn trước, tổ chức của đơn vị, nguồn nhân lực, tình hình thực hiện kế hoạch (khai thác, trồng rừng, khoanh nuôi, làm giầu rừng và các kế hoạch khác).  Những thông tin về các quy luật lâm sinh trên địa bàn và trong khu vực: Tổng trữ lượng rừng, trữ lượng bình quân của lâm phần và theo trạng thái, khả năng tái sinh của rừng, các kinh nghiệm trong trồng rừng, nuôi dưỡng rừng và khai thác rừng. b) Điều tra ngoại nghiệp . Điều tra ngoại nghiệp là để kiểm tra và bổ sung thêm về các thông tin cơ bản đã thu thập được, đồng thời tiến hành phúc tra kỹ về tài nguyên rừng và quy hoạch sử dụng đất trên lâm phận của chủ rừng quản lý. Nội dung của công tác điều tra ngoại nghiệp gồm có :  Kiểm tra, bổ sung các thông tin đã thu thập được: Hiệu chỉnh các loại bản đồ (hiện trạng sử dụng đất, hiện trạng tài nguyên rừng, quy hoạch 3 loại rừng, quy hoạch sử dụng đất) cho phù hợp với thực tế (xác định và hiệu chỉnh các đường ranh giới của lâm phận, tiểu khu, khoảnh). Các thông tin về điều kiện tự nhiên, về kinh tế, xã hội, kinh doanh, thị trường trên địa bàn. Các quy luật về lâm sinh Kiểm tra việc phân chia hai loại rừng phòng hộ và sản xuất giữa bản đồ với thực địa cho phù hợp.  Tiến hành đóng cọc mốc đối với đơn vị tiểu khu, còn đối với đơn vị khoảnh chỉ đóng cọc mốc cho những khoảnh dự kiến đưa vào khai thác giai đoạn 5 năm đầu.  Kiểm tra, hiệu chỉnh các loại đất giữa bản đồ với thực địa trên lâm phận quản lý của chủ rừng cụ thể . Đất có rừng được chia ra : rừng trồng, rừng tự nhiên (ở mỗi loại chia ra rừng gỗ, rừng tre nứa, rừng hỗn loài tre nứa) Đất không có rừng gồm : đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp (chia theo trạng thái IA,IB,IC ), đất khác.  Phúc tra trữ lượng rừng: - Việc phúc tra trữ lượng rừng được thực hiện bằng cách lập các ô tiêu chuẩn có diện tích 500 m2 (20mx 25m) theo phương pháp rút mẫu hệ thống ở mỗi trạng thái rừng với diện tích các ô tiêu chuẩn = 2% diện tích của từng trạng thái rừng được phúc tra. - Nội dung phúc tra : thu thập các tài liệu về chiều cao bình quân, đường kính bình quân, trữ lượng, độ tàn che, tổ thành loài cây, tổng số cây Phương pháp đo đếm, xác định được thực hiện theo phương pháp của điều tra thiết kế hiện hành. 34
  39. - Điều tra lập địa hay điều tra đất chỉ tiến hành đối với diện tích đất không có rừng để xây dựng kế hoạch trồng rừng trong phương án điều chế rừng ở từng giai đoạn 5 năm. - Việc điều tra được tiến hành đánh giá theo phương pháp điều tra nhanh để thu thập các thông tin : trạng thái (Ia, Ib, Ic), loại thực bì (loại thực bì, độ cao, độ che phủ), loại đất, độ sâu tầng đất, độ PH, độ dốc. c) Tính toán nội nghiệp  Xác định tài nguyên rừng, tài nguyên đất và quy hoạch sử dụng đất : Xác định tài nguyên rừng và đất đai: - Đo, tính các loại đất và thống kê vào biểu - Đo, tính lại diện tích các trạng thải rừng (nếu tài liệu cũ không còn chính xác, không đủ độ tin cậy ). - Dựa vào trữ lượng bình quân và diện tích của từng trạng thái để thống kê trữ lượng của từng trạng thái vào biểu theo đơn vị khoảnh và tiểu khu. - Tổng hợp diện tích các loại đất của chủ rừng quản lý vào biểu - Tổng hợp tài nguyên rừng của chủ rừng quản lý vào biểu Quy hoạch sử dụng đất: - Bố trí đất để sản xuất nông nghiệp cho chủ rừng - Trong đất lâm nghiệp được chia ra đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất (trong đất rừng sản xuất được chia ra sản xuất gỗ lớn, gỗ nguyên liệu cho sản xuất giấy, ván nhân tạo), đặc sản, tre nứa và được thống kê vào biểu  Tính toán sản lượng khai thác Sản lượng khai thác được tính toán trên cơ sở độ tăng trưởng của rừng giàu, trung bình là rừng sản xuất và được xác định như sau : L = M x Z x R x K (m3 gỗ lớn/năm). Trong đó: L: Sản lượng gỗ lớn được phép khai thác tối đa cho một năm. M: Tổng trữ lượng rừng giầu và trung bình thuộc rừng sản xuất được xác định trong từng giai đoạn 5 năm. Z: Lượng tăng trưởng của rừng : Căn cứ vào khả năng sinh trưởng của từng loại rừng và các công trình nghiên cứu tại địa phương (nếu có) để xác định lượng tăng trưởng trữ lượng bình quân, khoảng 2%/năm. R: Tỷ lệ lợi dụng gỗ cây đứng bình quân : Tuỳ theo từng loại rừng ở địa phương để xác định tỷ lệ lợi dụng cây đứng cho phù hợp nhưng không thấp hơn 60%. K: Hệ số tiếp cận về diện tích khai thác : Đối với địa hình bằng phẳng, ít chia cắt, K có thể lấy từ 0,8 - 0,9; đối với địa hình dốc, bị chia cắt lớn, K có thể lấy từ 0,7-0,8. - Xác định diện tích khai thác. L Được tính toán theo công thức: Sn = (ha), trong đó : l Sn: Diện tích được phép khai thác tối đa cho một năm. l: Sản lượng gỗ lớn được phép khai thác bình quân, tính theo công thức: l = Mtb x C x R (m3/ha), trong đó: 35
  40. M Mtb: Trữ lượng bình quân của rừng khai thác, Mtb = (m3/ha) S S: Diện tích rừng giầu, trung bình của rừng sản xuất được xác định trong từng giai đoạn 5 năm. - C: Cường độ khai thác bình quân : được xác định theo cấp trữ lượng và theo từng vùng (như trình bày ở mục cường độ khai thác)  Xây dựng các kế hoạch lâm sinh Các kế hoạch lâm sinh trong phương án điều chế rừng chỉ được lập cho 5 năm đầu và phải thể hiện được các nội dung chính là: Kế hoạch nuôi dưỡng rừng: - Đối tượng rừng được đưa vào kế hoạch nuôi dưỡng: Rừng trồng hoặc rừng tự nhiên đồng tuổi. Rừng phục hồi trên đất bị khai thác trắng, nương rẫy bỏ hoang, trồng cỏ cây bụi hỗn loài không đồng tuổi và ở tầng cây cao có các loài phù hợp với mục tiêu kinh doanh, có phẩm chất tốt phải đạt hoặc ở tầng cây tái sinh có số cây có giá trị kinh doanh và có triển vọng phải đạt trên 500 cây/ha (tính những cây tái sinh có chiều cao từ 2m trở lên). Rừng tự nhiên hỗn loài không đều tuổi sau khai thác chọn trong khoảng thời gian từ 1/3 đến 2/3 luân kỳ chặt chọn nếu thế hệ kế cận và dự trữ có đủ số cây thuộc các loài phù hợp với mục tiêu kinh doanh và có phẩm chất tốt phải có mật độ từ 150 cây/ha trở lên. Rừng tự nhiên hỗn loài không đều tuổi sau khai thác chọn không đúng kỹ thuật, có đủ số lượng cây ở tầng cây cao và cây tái sinh thuộc các loài mục đích có triển vọng và phân bố đều, có mật độ từ 150/ha trở lên (đối với tầng cây cao) và từ 500 cây/ha trở lên (đối với cây tái sinh). - Diện tích rừng đưa vào nuôi dưỡng: Căn cứ vào các nguồn kinh phí của chủ rừng dành cho công tác nuôi dưỡng rừng để xây dựng kế hoạch về diện tích đưa vào nuôi dưỡng trong cả giai đoạn 5 năm và cho từng năm trong giai đoạn. - Địa danh các khu rừng đưa vào nuôi dưỡng: Căn cứ vào diện tích và thứ tự ưu tiên trong các đối tượng (rừng trồng và tự nhiên đồng thời/rừng ở nơi gần, nơi dễ, rừng có sẵn hệ thống đường/rừng chưa được tiến hành chặt nuôi dưỡng lần nào/rừng có tỷ lệ cây cong queo,sâu bệnh, già cỗi, cụt ngọn và cây phi mục đích chiếm tỷ lệ cao) chủ rừng lập kế hoạch về địa danh (khoảnh, tiểu khu) cho từng năm và cả trong giai đoạn 5 năm. Dự kiến khối lượng gỗ, củi tận dụng và dự toán sơ bộ kinh phí. Sau đó được thống kê vào biểu của phương án. Kế hoạch làm giàu rừng: - Đối tượng rừng đưa vào làm giàu: Rừng đưa vào làm giàu là rừng kiệt, rừng non, rừng nghèo có trữ lượng thấp, số lượng cây mục đích có phẩm chất tốt dưới 150 cây/ha ; số cây tái sinh có giá trị kinh tế và có triển vọng dưới 500 cây/ha (tính các cây có chiều cao từ 2m trở lên). - Diện tích đưa vào kế hoạch làm giàu rừng: Căn cứ vào nguồn kinh phí phân bổ cho công tác làm giàu rừng và các chỉ tiêu định mức kinh tế kỹ thuật để xác định diện tích làm giàu rừng hàng năm và cả giai đoạn 5 năm. 36
  41. - Địa danh các khu rừng đưa vào kế hoạch làm giàu: Căn cứ vào diện tích và các đối tượng rừng làm giàu để xác định cụ thể địa danh (khoảnh, tiểu khu) đưa vào kế hoạch làm giàu hàng năm và cả giai đoạn 5 năm. Tính toán khối lượng gỗ, củi tận dụng, dự toán kinh phí thực hiện và thống kê vào biểu của phương án. Phục hồi rừng bằng khoanh nuôi. Kế hoạch phục hồi rừng bằng khoanh nuôi được thực hiện trên diện tích quy hoạch là rừng phòng hộ, hoặc phòng hộ cục bộ trên lâm phần của chủ rừng hoặc những nơi xa khu dân cư. - Đối tượng rừng đưa vào kế hoạch khoanh nuôi là đất chưa có rừng (do khai thác kiệt, nương rẫy cũ, trồng cỏ cây bụi xen cây gỗ) nhưng do qúa trình tái sinh tự nhiên, kết hợp với tác động của con người (như trồng bổ sung) có thể hình thành rừng trong một thời gian xác định và phải đạt một trong các điều kiện sau : Cây con tái sinh mục đích (tính cây có chiều cao trên 50 cm) phải đạt mật độ 300 cây/ha. Gốc cây mẹ có khả năng tái sinh chồi phân bố tương đối đều và phải đạt mật độ thấp nhất là 180 gốc/ha. Có cây mẹ gieo giống tại chỗ, phân bố tương đối đều và có mật độ thống nhất là 25 cây/ha và có nguồn gieo giống ở các khu rừng lân cận phù hợp với cự ly phát tán. Rừng tre nứa có độ che phủ trên 20% và phân bố đều - Diện tích rừng đưa vào kế hoạch khoanh nuôi: Căn cứ vào đối tượng trên và điều kiện thực tế của chủ rừng và nguồn kinh phí bố trí cho khoanh nuôi (kể cả kinh phí của các dự án) để xác định tổng diện tích khoanh nuôi thực hiện hàng năm và cả giai đoạn 5 năm theo hai mức độ tác động thấp và tác động cao31. - Địa danh đưa vào kế hoạch khoanh nuôi: Căn cứ vào diện tích khoanh nuôi, yêu cầu của các dự án (nếu có) để xác định cụ thể địa danh (khoảnh, tiểu khu) đưa vào kế hoạch khoanh nuôi hàng năm và trong cả giai đoạn 5 năm. Vì thời hạn cho kế hoạch khoanh nuôi là 5 năm nên trong kế hoạch phải thể hiện diện tích khoanh nuôi mới, diện tích được tiếp tục từ các năm trước. Trường hợp có trồng bổ sung phải kèm theo kế hoạch chăm sóc cây trồng, dự toán chi phí thực hiện và tổng hợp ghi vào biểu của phương án. Kế hoạch trồng rừng: - Đối tượng đất đưa vào kế hoạch trồng rừng bao gồm: Đất Lâm nghiệp chưa có rừng Rừng nghèo, rừng non có năng suất, hiệu quả kinh tế thấp cần khai thác trắng để trồng lại rừng có năng suất, hiệu quả kinh tế cao hơn (đối tượng này chỉ được tiến hành khi đã sử dụng hết diện tích đất không có rừng và phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt). - Diện tích đưa vào kế hoạch trồng rừng: 31 Mức độ tác động thấp, mức độ tác động cao được quy định ở phần biện pháp kỹ thuật trong QPN 14-92 37