Lâm nghiệp - Môi trường nguồn nhân lực trong quản lý, sử dụng tài nguyên rừng và khuyến lâm

pdf 65 trang vanle 2160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lâm nghiệp - Môi trường nguồn nhân lực trong quản lý, sử dụng tài nguyên rừng và khuyến lâm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdflam_nghiep_moi_truong_nguon_nhan_luc_trong_quan_ly_su_dung_t.pdf

Nội dung text: Lâm nghiệp - Môi trường nguồn nhân lực trong quản lý, sử dụng tài nguyên rừng và khuyến lâm

  1. Cẩm nang ngành lâm nghiệp
  2. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGÀNH LÂM NGHIỆP & ĐỐI TÁC CẨM NANG NGÀNH LÂM NGHIỆP Chương MÔI TRƯỜNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN RỪNG VÀ KHUYẾN LÂM KS. Nguyễn Viết Khoa TS. Nguyễn Bá Ngãi TS. Vũ Văn Mễ NĂM 2006 1
  3. Mục lục Phần 1: Phân Tích Các Yếu Tố Nhân Lực Trong Quản Lý và Sử Dụng Tài Nguyên Rừng 5 1. Nguồn nhân lực 5 1.1. Khái niệm và phân loại nguồn lực 5 1.2. Nguồn nhân lực trong quản lý và sử dụng tài nguyên rừng 5 1.2.1. Dân số và lao động 5 1.2.2. Dân tộc 6 1.2.3. Giới 6 1.2.4. Trình độ học vấn: 7 1.2.5. Thu nhập từ lâm nghiệp của Hộ gia đình 7 1.3. Nét đặc trưng xã hội liên quan đến tiếp cận tài nguyên rừng 9 1.3.1. Thái độ của những người làm rừng đối với lâm nghiệp 9 1.3.2. Sự tham gia vào việc ra quyết định tại địa phương 9 1.3.3. Cung cấp các dịch vụ 10 1.4. Quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên rừng 11 1.4.1. Các đối tượng tham gia quản lý nguồn tài nguyên rừng 11 1.4.2. Hộ gia đình, cá nhân 11 1.4.3. Cộng đồng thôn bản 12 1.5. Những tài liệu và kiến thức còn thiếu hụt chưa được cập nhật đầy đủ 12 2. Phát triển Kinh tế - Xã hội đối với các xã đặc biệt khó khăn 13 2.1. Các chính sách phát triển kinh tế, xã hội đối với các xã đặc biệt khó khăn ở vùng núi và dân tộc thiểu số 13 2.2. Các tiêu chí về kinh tế - xã hội và môi trường để xác định các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số 14 2.2.1.Tiêu chí đối với các xã thuộc 3 khu vực miền núi, vùng cao 14 2.2.2. Tiêu chí đối với các xã có đồng bào Khmer, Chăm và các dân tộc thiểu số khác ở đồng bằng thuộc các tỉnh phía Nam 16 3. Tổng hợp Danh sách các xã đặc biệt khó khăn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để đầu tư theo Chương trình 135, tính đến 12/11/2003 17 Phần 2: Khuyến Lâm 18 1. Các kinh nghiệm khuyến lâm ở Việt Nam và giá trị của chúng để áp dụng 18 1.1. Các chính sách khuyến lâm 18 1.2. Tổ chức và thể chế khuyến lâm 19 1.3. Một số cách tiếp cận khuyến lâm chủ yếu 22 1.3.1. Chuyển giao kỹ thuật Lâm nghiệp 22 1.3.2. Phát triển kinh tế xã hội 22 2
  4. 1.3.3. Hạn chế rủi ro trong sản xuất lâm nghiệp 22 1.3.4. Xúc tién các dịch vụ thương mại 23 1.3.5. Xúc tiến lâm sản hàng hoá 23 1.4. Kế hoạch tài chính cho khuyến lâm. 25 1.5. Sự chuyển hoá về khuyến lâm trong hệ thống khuyến nông, khuyến lâm và các dự án Quốc tế 26 1.5.1. Chuyển biến về chính sách khuyến nông, khuyến lâm 26 1.5.2. Chuyển biến về nội dung và cơ chế hỗ trợ đầu vào 27 1.6. Khuyến lâm và xoá đói giảm nghèo 28 1.6.1. Cam kết của Chính phủ đối với giảm nghèo 28 1.6.2. Các chính sách khác liên quan đến khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo 31 1.6.3. Quan điểm và cách tiếp cận khuyến lâm cho người nghèo, người dân tộc tiểu số sống phụ thuộc vào rừng 31 1.6.4. Các phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong khuyến lâm cho người nghèo, người dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng 33 1.7. Khái quát kinh nghiệm về khuyến lâm của các tổ chức, dự án/chương trình quốc tế, NGOs đang hoạt động ở Việt nam 35 1.7.1. Khuyến nông, khuyến lâm có sự tham gia 35 1.7.2. KNKL từ nông dân-đến- nông dân 36 1.7.3. Các tổ chức nông dân tự quản (nhóm sở thích, câu lạc bộ KNKL) 36 1.7.4. Điều kiện để thực hiện khuyến lâm có sự tham gia 37 1.8. Một số mô hình khuyến lâm đã thử nghiệm thành công 37 1.8.1. Mô hình về tổ chức khuyến lâm 37 1.8.2. Mô hình phát triển công nghệ có sự tham gia 41 1.8.3. Mô hình liên kết 4 yếu tố 43 1.8.5. Mô hình khuyến lâm và lâm nghiệp cộng đồng 44 2. Khuyến lâm là một phần của công tác lập kế hoạch các chương trình phát triển lâm nghiệp 44 2.1 Khuyến lâm trong xây dựng kế hoạch hoạt động hàng năm dự án trồng rừng 5 triệu ha 44 2 2. Khuyến lâm đối với xây dựng chiến lược giống cây lâm nghiệp và quản lý giống 45 2 3. Khuyến lâm trong xây dựng, thực hiện kế hoạch hành động phát triển và bảo tồn Lâm sản ngoài gỗ 46 3. Các phương pháp khuyến lâm, các kênh thông tin trao đổi hiện tại 46 3.1. Phương pháp khuyến lâm truyền thống 46 3.2. Phương pháp khuyến lâm tổng hợp có sự tham gia 48 3.2. So sánh phương pháp khuyến nông lâm truyền thống và phương pháp khuyến nông lâm tổng hợp 49 4. Xu hướng khuyến lâm trong tương lai 50 4.1. Bối cảnh phát triển 50 4.1.1. Mục tiêu chiến lược của ngành Lâm nghiệp 50 3
  5. 4.1.2. Đặc điểm khuyến lâm 51 4.1.3. Trở ngại, thách thức 51 4.2. Mục tiêu khuyến lâm 52 4.3. Định hướng khuyến lâm 52 4.4. Giải pháp khuyến lâm 53 4.4.1. Củng cố hệ thống, tăng cường hệ thống khuyến lâm 53 4.4.2. Tài chính cho khuyến lâm 53 4.4.3. Chính sách khuyến lâm 54 4.4.4. Ưu tiên khuyến lâm cho người nghèo ở vùng cao phụ thuộc vào rừng 55 Phụ biểu 1: Tổng hợp các xã thuộc diện đầu tư của Chương trình 135 56 Phụ biểu 2: Danh mục các hoạt động khuyến lâm cần hỗ trợ trong giai đoạn 2005-2010 59 Phụ biểu 3: Những mong muốn để các dịch vụ khuyến nông hiện hành có lợi cho người nghèo 61 Phụ biểu 4: Những tài liệu về khuyến lâm có sẵn ở Việt Nam 63 4
  6. Phần 1: Phân Tích Các Yếu Tố Nhân Lực Trong Quản Lý và Sử Dụng Tài Nguyên Rừng 1. Nguồn nhân lực 1.1. Khái niệm và phân loại nguồn lực Khái niệm nguồn lực: Có nhiều định nghĩa khác nhau về nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực thường được hiểu là các nguồn lực vật chất cho phát triển, ví dụ như tài nguyên thiên nhiên, tài sản vốn bằng tiền Theo nghĩa rộng, nguồn lực được hiểu gồm tất cả những lợi thế, tiềm năng vật chất và phi vật chất để phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất định nào đó. Tùy vào phạm vi phân tích, khái niệm nguồn lực được sử dụng rộng rãi ở các cấp độ khác nhau: quốc gia, vùng lãnh thổ, phạm vi doanh nghiệp hoặc từng chủ thể là cá nhân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế Nguồn lực phát triển của một quốc gia được hiểu là khả năng cung cấp các yếu tố cần thiết cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Phân loại nguồn lực: Cho đến nay đang tồn tại một số cách phân loại nguồn lực phổ biến như sau: (a) Phân theo giá trị: nguồn lực kinh tế và nguồn lực phi kinh tế. (b) Phân theo nguồn gốc hình thành: nguồn lực tự nhiên và nguồn lực nhân tạo. (c) Phân theo khả năng tái tạo: nguồn lực có khả năng tái tạo và nguồn lực không có khả năng tái tạo. Giới hạn nguồn lực trong quản lý tài nguyên rừng :Theo những khái niệm và các cách phân loại về nguồn lực nêu trên thì nguồn lực trong phát triển tài nguyên rừng có 2 loại: Nguồn lực về đất đai và nguồn lực về con người (nhân lực). Nguồn lực về đất đai và tài nguyên rừng đã được mô tả trong “Chương Số liệu về Môi trường tự nhiên và Lâm nghiệp Việt Nam” của Cuốn Cẩm nang ngành lâm nghiệp. Vì thế trong Chương này của cuốn Cẩm nang chỉ đề cập đến nguồn nhân lực (con người); đồng thời được giới hạn ở cấp cơ sở nghĩa là ở vùng rừng núi, nơi mà người dân sống phụ thuộc vào rừng với những hoạt động liên quan trực tiếp đến quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên rừng ở địa phương. 1.2. Nguồn nhân lực trong quản lý và sử dụng tài nguyên rừng 1.2.1. Dân số và lao động Nguồn nhân lực bao gồm cả số lượng, chất lượng của dân số và người lao động được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, sẵn sàng được huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, nguồn nhân lực có 2 cách tiếp cận: (a) Cách tiếp cận rộng, coi nguồn nhân lực là toàn bộ nguồn lực về con người bao gồm cả những người chưa đến tuổi lao động và những người trong độ tuổi lao động. (b) Cách tiếp cận hẹp, nguồn nhân lực được giới hạn trong số người ở tuổi lao động, thực chất là nguồn lao động sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu hoạt động kinh tế Ở Việt Nam, hiện nay đã thống nhất cách tiếp cận coi nguồn lực lao động bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người đang độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng chưa làm việc do đang trong tình trạng thất nghiệp, đang đi học, đang đảm đương nội trợ trong gia đình. Theo kết quả Tổng điều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản năm 2001 của Tổng cục Thống kê, đến 1/10/2001, khu vực nông thôn cả nước có 13,07 triệu hộ; 58,41 triệu nhân khẩu. Cũng theo kết quả điều tra này thì cơ cấu các hộ ở nông thôn theo ngành nghề cũng rất khác nhau (xem Sơ đồ ở phần dưới). Các hộ làm lâm nghiệp chỉ chiếm có 0,2% trong tổng số 13,07 triệu hộ nông thôn của cả nước tương đương với 2,614 triệu hộ với 11, 682 triệu nhân khẩu; khoảng 6,268 triệu người ở trong độ tuổi lao động. Cơ cấu của hộ nông dân theo ngành sản xuất chính năm 2001 5
  7. Hộ phi lâm nghiệp, thủy Hộ lâm nghiệp sản và hộ khác 0.20% 19.00% Hộ thủy sản 3.40% Hộ nông nghiệp 77.40% Nguồn: Kết quả Tổng điều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản 2001, TCTK xuất bản 2003, tr. 29 1.2.2. Dân tộc Việt Nam có hơn 50 dân tộc anh em sinh sống, trong đó người Kinh chiếm 87,2% dân số cả nước. Theo kết quả Nghiên cứu nhu cầu nông dân, năm 2003 của Dự án VIE/98/004/B/01/99, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thì gần như 100% nông dân các vùng thuộc đồng bằng Bắc bộ và Đông Nam bộ là người Kinh. Dân tộc thiểu số chiếm khoảng 21-36% ở Trung bộ, Tây nguyên và Đông Bắc. Tỷ lệ này là 98% ở vùng Tây Bắc. Theo thống kê của Ủy Ban dân tộc và miền núi, năm 2003 về Danh sách các xã thuộc Chương trình 135 thì trong số 2.362 xã có 1.889.626 hộ, 9.779.492 nhân khẩu; riêng hộ thiểu số là 1.030.939 với 5.551.321 nhân khẩu. Chất lượng lao động nông thôn thấp, có tới 93,8% lao động nông thôn chưa qua đào tạo. Chỉ có 2,3% lao động được đào tạo nghề có trình độ sơ cấp; 2,4% bậc trung cấp; 0,8% bậc cao đẳng và 0,7% bậc đại học và trên đại học (Điều tra NN-NT và Thuỷ sản 2001; Tổng cục Thống kê). Mặt khác, quy mô và cơ cấu giáo dục và đào tạo và chất lượng lao động nông thôn ở cấp cơ sở còn nhiều bất cập 1.2.3. Giới Cũng theo kết quả Nghiên cứu nhu cầu nông dân, năm 2003 của Dự án VIE/98/004/B/01/99 nêu trên, tại các vùng nông thôn, số nữ giới cao hơn số nam giới; nguyên nhân chính là do hậu quả của chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của phần lớn nam thanh niên. Cụ thể: Đồng Bằng Sông Hồng: Tỷ lệ nữ chiếm 61% Đông Bắc 48% Tây Bắc 27% Bắc Trung bộ 65% Nam Trung Bộ 64% Tây Nguyên 45% 6
  8. Đông Nam Bộ 46% Đồng Bằng Sông Cửu Long 45% 1.2.4. Trình độ học vấn: Trình độ học vấn của nông dân Việt Nam nói chung tương đối thấp. Khoảng 65% nông dân đã học cấp 1 hoặc cấp 2 và khoảng 16% chưa bao giờ đến trường. Tỷ lệ tương ứng của khu vực nông thôn là 69% và 23% (nguồn: TCTK, 1999). Nông dân vùng đồng bằng sông Hồng có trình độ học vấn cao hơn nông dân ở các vùng khác, đặc biệt là các vùng Tây bắc, Đông Nam bộ và Đồng Bằng sông Cửu Long. 1.2.5. Thu nhập từ lâm nghiệp của Hộ gia đình Nhìn chung, thu nhập của hộ gia đình từ hoạt động ở vùng nông thôn miền núi, đặc biệt từ hoạt động lâm nghiệp chiếm tỷ trọng rất thấp. Trong cơ cấu tổng thu nhập về sản xuất kinh doanh ở nông thôn: Thu từ nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 76,08%, thu từ công nghiệp, xây dựng chiếm 9,82% và thu từ các ngành dịch vụ chiếm 14,1%. Thu từ sản xuất kinh doanh của hộ Thu từ DV 14.10% Thu từ CN, XD 9.82% Thu từ NLTS 76.08% Nguồn: Kết quả Tổng điều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản 2001, TCTK xuất bản 2003, tr.61 Trong cơ cấu tổng thu của 3 ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản: Thu từ ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 79,67%, thu từ thủy sản chiếm 15,52% và thu từ lâm nghiệp chỉ chiếm 4,81% 7
  9. Cơ cấu thu từ nông, lâm nghiệp, thủy sản của hộ Thu từ lâm Thu từ thủy nghiệp sản 4.81% 15.52% Thu từ nông nghiệp 79.67% Nguồn: Kết quả Tổng điều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản 2001, TCTK xuất bản 2003, tr.61 Riêng thu nhập của hộ gia đình từ hoạt động lâm nghiệp bao gồm: Khai thác lâm sản, lâm sản phụ, trồng rừng và bảo vệ rừng (lâm sinh), dịch vụ lâm nghiệp. Trong cơ cấu tổng thu của từ lâm nghiệp thì thu nhập từ hoạt động khai thác lâm sản chiếm tỷ lệ lớn 78,47%, thu nhặt lâm sản phụ chiếm 13,2% và thu từ hoạt động trồng rừng, chăm sóc, khoanh nuôi, tu bổ, cải tạo rừng chiếm 7,4%; thu từ hoạt động dịch vụ lâm nghiệp tăng hơn những năm trước nhưng mới chiếm 0,93% (TCTK, 2003) Cơ cấu này chưa hợp lý vì tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động lâm sinh còn rất bé (7,4%), trong khi đó thu về khai thác gỗ và lâm sản lại quá lớn nhưng chuyển dịch chậm trong những năm qua. Cơ cấu thu từ lâm nghiệp của hộ Thu nhặt lâm sản phụ 13.20% Lâm sinh Dịch vụ lâm 7.40% nghiệp 0.93% Khai thác lâm sản 78.47% Nguồn: Kết quả Tổng điều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản 2001, TCTK xuất bản 2003, tr.63 8
  10. 1.3. Nét đặc trưng xã hội liên quan đến tiếp cận tài nguyên rừng 1.3.1. Thái độ của những người làm rừng đối với lâm nghiệp Trong gần 2 thập kỷ qua, kể từ khi Nhà nước chuyển hướng từ lâm nghiệp Nhà nước truyền thống sang lâm nghiệp xã hội, nhất là từ năm 1997 khi Quốc hội phê chuẩn Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (1998-2010), người dân miền núi gắn bó với rừng nhiều hơn. Hàng năm, diện tích rừng trồng và diện tích khoanh nuôi bảo vệ rừng ngày một tăng, nâng tỷ lệ che phủ rừng từ 28,1% vào năm 1995 lên 36,1% vào năm 2003 là con số đáng khích lệ. Tuy nhiên, do thu nhập từ hoạt động lâm nghiệp của các hộ nông dân miền núi chưa cao và chưa xứng với tiềm năng lao động và đất đai của miền núi đã dẫn đến tình trạng họ chưa gắn bó với bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng. Nguyên nhân chính là các chính sách phát triển lâm nghiệp còn nhiều bất cập, cần phải được cải thiện để có thể thu hút nhiều hơn sự quan tâm của họ vào phát triển nguồn tài nguyên quý giá này. Theo Nghiên cứu nhu cầu nông dân, năm 2003 do Dự án VIE/98/004/B/01/99 của Bộ NN-PTNT thực hiện, khi tiến hành điều tra 117 mẫu về Đánh giá thái độ về Lâm nghiệp cho thấy: Người trồng rừng muốn Chính phủ có chính sách hỗ trợ việc tìm thị trường. 40% người được hỏi cho rằng họ không nhận được sự giúp đỡ kỹ thuật có chất lượng. Cụ thể như sau: Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ nông dân bán các sản phẩm lâm 97 nghiệp từ trồng rừng Tất cả các hộ trong một làng nên tham gia công tác bảo vệ rừng và 97 chia sẻ phụ cấp 50.000 đồng tiền công trả cho việc chăm sóc 1 ha rừng tự nhiên là 94 được, nhung với rừng khoanh nuôi tái sinh là quá ít Để công việc trồng rừng hiệu quả hơn, tôi muốn làm việc trong một 91 nhóm có người lãnh đạo hơn là làm một mình Chúng tôi muốn có thêm rừng, nhưng chính quyền xã chưa thực sự 71 quan t âm đến công tác trồng rừng Tôi đã nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật rất tốt từ cán bộ khuyến lâm để giúp 61 tôi phát triển trồng rừng 0 20406080100120 Nguồn: Nghiên cứu Nhu cầu nông dân, năm 200; tr. 96 (Dự án VIE/98/004/B/01/99-Bộ NN-PTNT) 1.3.2. Sự tham gia vào việc ra quyết định tại địa phương Báo cáo Đánh giá nghèo theo vùng Vùng miền núi phía Bắc do Nhóm Hành động chống đói nghèo của UNDP và DFID thực hiện năm 2003 đã chỉ ra rằng: 9
  11. Người dân ở vùng thấp hoặc ở các xã khá giả cảm nhận được những thay đổi chừng mực nào đó trong hành vi của cán bộ như sự minh bạch, cung cấp thông tin và tham khảo ý kiến người dân đều được cải thiện hơn. Đó là nhờ: - Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có rất nhiều tiến bộ, đặc biệt các hộ nghèo có thể tham gia một cách có ý nghĩa vào các quy trình xây dựng kế hoạch và lập ngân sách. - Từng bước nâng cao năng lực và động viên khuyến khích đối với cán bộ xã (nâng cao địa vị và trả lương cao hơn; biệt phái cán bộ cấp tỉnh và huyện). Ở vùng cao hay tại các cộng đồng nghèo hơn, đã có một số cải thiện nhưng tính minh bạch vẫn thấp, việc cung cấp thông tin vẫn còn hạn chế và việc tham khảo ý kiến thực sự diễn ra rất hiếm. Người dân mới chủ yếu tham gia ở khâu thực hiện. Ban giám sát xã, các tổ chức đại diện hoạt động còn thiếu hiệu quả ở vùng cao. Vai trò quyết định của cấp thôn bản đang còn rất hạn chế. Nguyên nhân chính của những hạn chế nêu trên là do: - Khả năng về ngôn ngữ Tiếng Việt (của bà con dân tộc thiêu số) vẫn còn hạn chế, vì vậy việc cung cấp thông tin và phản hồi đều thông qua các trưởng thôn và qua các cuộc họp thôn mà họ chủ trì; tuy nhiên trưởng thôn nói chung có trình độ văn hoá thấp - Năng lực yếu của cán bộ cấp xã và cấp huyện (rất cần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng truyền thông và giao tiếp) - Tỷ lệ biết đọc, biết viết thấp và vị trí thấp kém của phụ nữ chính là nguyên nhân dẫn đến sự tham gia ở mức độ thấp của phụ nữ vào các cuộc họp thôn bản và hầu như phụ nữ không có vai trò lãnh đạo - Cơ sở hạ tầng thông tin vẫn còn thiếu Người dân ở tất cả các xã cảm nhận ít có sự thay đổi trong quá trình ra quyết định và giám sát thực sự, ví dụ như liên quan đến ngân sách xã và các dự án đầu tư theo Chương trình 135. Sự minh bạch trong việc lập kế hoạch, lập ngân sách và chi tiêu, và sự tham gia của địa phương vào việc quản lý dự án cần được nâng cao. Điều này đòi hỏi những nỗ lực to lớn trong việc xây dựng thể chế và phân quyền trách nhiệm hơn nữa. Ở tất cả các xã, đều có sự cải thiện về tính hiệu quả của các cơ quan đại diện như Hội đồng nhân dân, các tổ chức đoàn thể xã hội và Ban thanh tra nhân dân 1.3.3. Cung cấp các dịch vụ a. Trong lĩnh vực Giáo dục Tỷ lệ nhập học mẫu giáo đã gia tăng đáng kể, thậm chí ở cả các thôn vùng sâu, vùng xa nhưng vẫn hạn chế ở độ tuổi lên 5 và vì vậy rất nhiều trẻ em dân tộc thiểu số vẫn chưa thông thạo tiếng Việt khi đi học tiểu học Tỷ lệ nhập học bậc tiểu học và tỷ lệ hoàn thành bậc này đã được cải thiện đáng kể, kể cả đối với trẻ em gái người dân tộc thiểu số ở các cộng đồng vùng cao mặc dù vẫn còn ít hơn so với trẻ em trai Tỷ lệ theo học bậc trung học vẫn còn chưa được phổ cập Tình trạng mù chữ ở người lớn vẫn tồn tại, đặc biệt ở các cộng đồng vùng cao. Các lớp học xoá mù người lớn không có hiệu quả ở các xã này với tỷ lệ bỏ học cao b. Trong lĩnh vực Y tế 10
  12. Chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là đối với phụ nữ Việc cung cấp nước sạch chưa được phổ biến; vệ sinh công cộng vẫn rất thấp, đặc biệt ở các thôn bản vùng cao c. Trong lĩnh vực Khuyên lâm- Khuyến nông Các dịch vụ nông nghiệp góp phần lớn vào việc tăng sản lượng gạo và ngô, trồng rừng và chăn nuôi. Đó chính là nhờ sự hỗ trợ của hệ thống khuyến nông nhưng chất lượng các dịch vụ khuyến nông và việc tiếp cận kiến thức kỹ thuật của phụ nữ và nông dân nghèo vẫn còn hạn chế Hiện tại hệ thống khuyến nông-khuyến lâm chưa đáp ứng được yêu cầu của nông dân và các doanh nghiệp, do: (1) chức năng nhiệm vụ chưa rõ ràng, (2) Dựa chủ yếu bằng nguồn kinh phí hạn hẹp của nhà nước, (3) Phương pháp tiếp cận đào tạo chưa thích hợp với đối tượng là nông dân, (4) Thiếu đội ngũ khuyến lâm cấp thôn, xã có đủ năng lực 1.4. Quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên rừng 1.4.1. Các đối tượng tham gia quản lý nguồn tài nguyên rừng Theo số liệu của Cục Kiểm Lâm năm 2003 thì diện tích có rừng trên toàn lãnh thổ là 12.094.517 ha, trong đó rừng tự nhiên 10.004.709 ha, rừng trồng 2.089.809 ha. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 36,1% (năm 2003). Đất trống đồi trọc 6.771.955 ha; các loại đất khác 14.062.345 ha Tham gia vào quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên rừng và đất rừng nêu trên, gồm có 5 đối tượng: (1) Hộ gia đình, cá nhận; (2) Các tổ chức kinh tế; (3) Nước ngoài và liên doanh với nước ngoài; (4) UBND xã; (5) Các tổ chức khác. Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến năm 2003 thì đất lâm nghiệp có rừng đã được giao, cho thuê là 11.118.858 ha; phân theo 5 đối tượng sử dụng nêu trên như sau: - Hộ gia đình, cá nhận 2.715.580 ha - Các tổ chức kinh tế 3.920.995 ha - Nước ngoài và liên doanh với nước ngoài 7.964 ha - UBND xã 1.836.328 ha - Các tổ chức khác 2.637.991ha Hiện tại vẫn còn 123.339 ha đất lâm nghiệp có rừng chưa được giao hoặc cho thuê để có chủ sử dụng thực sự 1.4.2. Hộ gia đình, cá nhân Hiện tại hộ gia đình, cá nhân đang quản lý và sử dụng 2.715.580 ha, nghĩa là đang quản lý 22% diện tích đất lâm nghiệp có rừng. Ngoài ra, hiện nay (31/12/2003) các hộ gia đình và tập thể đang quản lý 2.063.338 ha đất trống đồi núi trọc trong tổng số 6.771.955 ha, nhưng thực tế chưa có kế hoạch sử dụng hợp lý, ít nhất cũng là kế hoạch trồng rừng Quy mô sử dụng đất lâm nghiệp của các hộ cũng rất khác nhau: Hộ có dưới 1 ha: 47,0 % Hộ có từ 1ha đến dưới 3 ha 21,1 % Hộ có từ 3ha đến dưới 5 ha 11,1 % 11
  13. Hộ có từ 5ha đến dưới 10 ha 10,1 % Hộ có từ 10 ha đến dưới 20 ha 6,0 % Hộ có từ trên 20 ha 4,7 % Nguồn: Kết quả tổng điều tra Nông thôn, Nông nghiệp và Thuỷ sản năm 2001 TCTK xuất bản năm 2003 1.4.3. Cộng đồng thôn bản Theo số liệu của Bộ NN-PTNT (2001) cộng đồng dân cư thôn bản trực tiếp quản lý 0,214 triệu ha rừng theo truyền thống; được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao gần 1,25 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp; ngoài ra còn tham gia quản lý rừng thông qua hình thức nhận khoán bảo vệ rừng với các lâm trường, ban quản lý rừng trên 0, 936 triệu ha. Bên cạnh hộ gia đình, các nhân quản lý và sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng thì hiện nay quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một trong những loại hình quản lý rừng ngày càng có vị trí quan trọng ở Việt Nam. Theo số liệu báo cáo tổng hợp từ các địa phương, đến tháng 6/2001, các cộng đồng dân cư thuộc 1203 xã, 146 huyện của 24 tỉnh đang tham gia quản lý 2.348.295 ha rừng và đất chưa có rừng được quy hoạch để trồng rừng (gọi là đất lâm nghiệp), chiếm khoảng 15,5% diện tích đất lâm nghiệp trong toàn quốc. Diện tích đất lâm nghiệp hiện tại do các cộng đồng quản lý nêu trên có thể phân thành 3 loại như sau: - Rừng và đất rừng do cộng đồng tự công nhận và quản lý theo truyền thống. Đó là những khu rừng thiêng, rừng ma, rừng đình, rừng công, rừng mó nước cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất. Diện tích này là 214.010 ha - Rừng và đất rừng được chính quyền địa phương giao cho cộng đồng quản lý và bảo vệ. Theo số liệu thống kê ban đầu, đã có 18 tỉnh thí điểm giao đất giao rừng cho cộng đồng quản lý ổn định lâu dài với tổng diện tích đất lâm nghiệp là 1.197.961 ha, bao gồm đất có rừng 669.750 ha, đất trống đồi núi trọc 528.211 ha. Tuy chính quyền địa phương đã có quyết định giao đất lâm nghiệp cho cộng đồng, nhưng cho đến nay, rất ít cộng đồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ Đỏ). - Cộng đồng nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng từ các tổ chức quản lý kinh doanh rừng của Nhà nước. Tổng diện tích rừng nhận khoán theo hình thức quản lý này là 936.324 ha, bao gồm rừng phòng hộ 494.242 ha, rừng đặc dụng 39.289 ha, rừng sản xuất 402.795 ha 1.5. Những tài liệu và kiến thức còn thiếu hụt chưa được cập nhật đầy đủ Mặc dù đã có nhiều cố gắng sưu tầm số liệu, tài liệu và phân tích các khía cạnh về các yếu tố nguồn lực trong quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên rừng, nhưng vẫn còn thiếu nhiều thông tin cần thiết mà lẽ ra phải có. Việc phân tích sẽ phong phú và chính xác hơn, nếu như cập nhật được đầy đủ các thông tin đó. Cụ thể những thông tin dưới đây chưa có hoặc đã có nhưng còn sơ sài, thiếu hụt, cần được tiếp tục bổ sung: - Nhận thức của người dân sống phụ thuộc vào rừng về nguồn tài nguyên rừng và đất rừng - Những kinh nghiệm của người dân địa phương về quản lý nguồn tài nguyên rừng và đất rừng - Những nét đặc trưng về văn hóa, xã hội liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên 12
  14. - Trình độ dân trí, học vấn, và khoa học kỹ thuật của những người dân đang sống phụ thuộc vào rừng hoặc ở khu vực rừng núi - Những tiềm năng/khả năng tiếp cận tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp một cách ổn định - Nhu cầu hỗ trợ kỹ thuật của người dân địa phương để có thể quản lý tốt hơn nguồn tài nguyên rừng và đất rừng - Mức độ sẵn lòng/tự nguyện hợp tác của người dân sống phụ thuộc vào rừng với các nhà quản lý và lãnh đạo về rừng ở cấp cơ sở (xã, huyên, tỉnh) 2. Phát triển Kinh tế - Xã hội đối với các xã đặc biệt khó khăn 2.1. Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với các xã đặc biệt khó khăn ở vùng núi và dân tộc thiểu số - Nghị quyết số 22/NQ-TW, ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị - Quyết định số 72/HĐBT, ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi. - Quyết định 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000) - Quyết định 35/TTg ngày 13/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao. - Quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. - Quyết định 138/2000/QĐ-TTg ngày 29/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hợp nhất Dự án định canh định cư, Dự án hỗ trợ dân tộc đặc biệt khó khăn, Chương trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao vào Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa thành Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Thời gian thực hiện Chương trình 135 là 5 năm (2001-2005) Chương trình 135 gồm 5 dự án sau đây: a. Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng: Bao gồm các nội dụng quy định tại Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 và phần xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án định canh định cư tại Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ Phần xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án định canh định cư chỉ thực hiện trong các xã triển khai dự án của Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 và phải điều chỉnh cho phù hợp với nội dung quy hoạch đã được phê duyệt và dự án đầu tư cơ sở hạ tầng của xã theo Chương trình 135. b. Dự án xây dựng trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao c. Dự án quy hoạch bố trí lại dân cư ở những nơi cần thiết d. Dự án ổn định và phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với chế biến tiêu thụ sản phẩm e. Dự án đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum, sóc. 13
  15. Mục tiêu của Chương tình 135 trong giai đoạn II là xây dựng thêm và đồng bộ các hạng mục hạ tầng cơ bản ở các xã nghèo, để tạo cơ sở thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ đói nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 25% vào năm 2005, bảo đảm cung cấp cho đồng bào có đủ nước sinh hoạt; thu hút trên 70% tre em trong độ tuổi đến trường, đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học và chủ động vận dụng vào sản xuất; kiểm soát được phần lớn các dịch bệnh hiểm nghèo, có đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh đến các trung tâm cụm xã, thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn. Cơ cấu vốn đầu tư cho các hạng mục công trình kết cấu hạ tầng thiết yếu cho các xã nghèo như sau: Giao thông 42%, trường học 25,1%, thuỷ lợi 18%, điện 7%, nước sinh hoạt 6%, chợ 0,9%, trạm xá 1%. - Thông tư liên tịch số 666/2001 TTLT/BKH-UBDTMN-TC-XD, ngày 23/8/2001 về Hướng dẫn quản lý đầu tư và xây dựng công trình hạ tầng thuộc Chương trình 135 2.2. Các tiêu chí về kinh tế - xã hội và môi trường để xác định các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số Có 5 tiêu chí về kinh tế - xã hội và môi trường để xác định các xã đặc biệt khó khăn ở miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số là: - Địa bàn cư trú - Cơ sở hạ tầng - Các yếu tố xã hội - Điều kiện sản xuất - Về đời sống Mỗi tiêu chí nêu trên lại quy định các chỉ số cụ thể và được áp dụng cho 3 khu vực khác nhau: - Khu vực I: Khu vực bước đầu phát triển - Khu vực II: Khu vực tạm ổn định - Khu vực III: Khu vực khó khăn Quyết định số 7189/ĐPI ngày 14/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ về Công bố tiêu chí 3 khu vực miền núi, vùng cao. Quy định cụ thể như sau: 2.2.1.Tiêu chí đối với các xã thuộc 3 khu vực miền núi, vùng cao Tiêu chí Khu vực I Khu vực II Khu vực I 1. Địa bàn Các thành phố, thị xã, Các xã ở vùng giữa khu Các xã vùng sâu, vùng xa, cư trú thị trấn, thị tứ, các khu vực một và khu vực ba. vùng cao hẻo lánh, vùng công nghiệp, trung tâm Khoảng cách của các xã biên giới, hải đảo. Khoảng hoạt động của các doanh đến các khu trục động cách của các xã đến các nghiệp; vùng cây trồng lực phát triển từ 10 đến khu trục động lực phát vật nuôi hàng hóa bước 20 km triển trên 20 km đầu phát triển; ven các quốc lộ, tỉnh lộ, ga đường sắt, sân bay, bến cảng (gọi tắt là khu trục 14
  16. Tiêu chí Khu vực I Khu vực II Khu vực I động lực phát triển). Khu vực nằm trong bán kính ảnh hưởng đến các khu trục động lực phát triển trên đây là dưới 10 km 2. Cơ sở Cơ sở hạ tầng đã hình Cơ sở hạ tầng đã hình Cơ sở hạ tầng chưa được hạ tầng thành, bước đầu phục vụ thành nhưng chưa hoàn xây dựng, hoặc còn tạm tốt cho sản xuất và đời chỉnh, chưa ổn định. bợ. Giao thông rất khó sống của đồng bào; giao Giao thông còn khó khăn, không có đường ô thông khá thuận lợi, hệ khăn, điện, thủy lợi, tô vào xã. Các công trình thống điện, thủy lợi, nước sạch, trường học, điện, thủy lợi, nước sạch, nước sạch, trường học, bệnh xá, các dịch vụ trường học, bệnh xá, các bệnh xá, phát thanh khác chưa đáp ứng yêu dịch vụ khác rất thấp kém truyền hình v.v đáp cầu phục vụ cho sản hoặc không có ứng cơ bản được nhu xuất và đời sống của cầu cấp thiết đồng bào 3. Các yếu Trình độ dân trí, đời Các yếu tố xã hội chưa Các yếu tố xã hội chưa đạt tố xã hội sống văn hóa, nếp sống đủ điều kiện cơ bản cho mức tối thiểu. Dân trí quá v.v có tiến bộ và đạt cộng đồng phát triển. thấp, tỷ lệ mù chữ và thất mức trung bình của cả Trình độ dân trí còn học trên 60%, bệnh tật nước thấp, tỷ lệ mù chữ, thất nhiều, tập tục lạc hậu, học từ 30-60%, vệ sinh không có thông tin v.v phòng bệnh kém, thiếu thông tin v.v 4. Điều Điều kiện sản xuất ổn Điều kiện sản xuất chưa Điều kiện sản xuất rất khó kiện sản định, định canh định cư ổn định, sản xuất giản khăn, thiếu thốn. Sản xuất xuất bền vững, đã hình thành đơn tự cấp tự túc là chủ mang tính tự nhiên hái các vùng sản xuất hàng yếu ; còn phát rừng làm lượm, chủ yếu phát rừng hóa bước đầu phát triển nương rẫy, có khả năng làm nương rẫy, du canh tái du canh du cư. Sản du cư xuất hàng hóa còn ít. 5. Về đời Số hộ đói nghèo dưới Số hộ đói nghèo từ 20 - Số hộ đói nghèo trên 60% sống 20% số hộ của xã, đời 50% số hộ của xã. Đời số hộ của xã. Đời sống sống của đồng bào sống của đồng bào tạm thực sự khó khăn, nạn đói tương đối ổn định; mức ổn định nhưng chưa thường xuyên xảy ra thu nhập bình quân đầu vững chắc người bằng và vượt mức bình quân của cả nước 15
  17. 2.2.2. Tiêu chí đối với các xã có đồng bào Khmer, Chăm và các dân tộc thiểu số khác ở đồng bằng thuộc các tỉnh phía Nam Tiêu chí đối với các xã thuộc khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, nơi đồng bào Khmer, Chăm và các dân tộc thiểu số khác đang sinh sống ở đồng bằng thuộc các tỉnh phía Nam. Tiêu chí Khu vực I Khu vực II Khu vực I 1. Địa bàn Các xã (phường, thị Các xã (phường, thị Các xã vùng sâu, vùng xa, cư trú trấn) cách thành phố, trấn) cách thành phố, thị vùng biên giới cách thành thị xã, khu công xã, khu công nghiệp, phố, thị xã, khu công nghiệp, trung tâm trung tâm thương mại, nghiệp, trung tâm thương thương mại, vùng sản vùng sản xuất hàng hóa mại, vùng sản xuất hàng xuất hàng hóa bước bước đầu phát triển, nhà hóa bước đầu phát triển, đầu phát triển, nhà ga, ga, bến cảng, quốc lộ, nhà ga, bến cảng, quốc lộ, bến cảng, quốc lộ, tỉnh tỉnh lộ từ 5 đến 10 km tỉnh lộ trên 10 km lộ dưới 5 km 2. Cơ sở hạ Giao thông thủy lợi Giao thông còn khó Giao thông rất khó khăn, tầng khá thuận lợi, hệ thống khăn, điện, thủy lợi, không có đường ô tô vào điện, thủy lợi, nước nước sạch, trường học, xã, các công trình điện, sạch, trường học, bệnh bệnh xá, các dịch vụ thủy lợi, nước sạch, xá, phát thanh truyền khác chưa đáp ứng được trường học, bệnh xá, các hình v.v đáp ứng cơ yêu cầu phục vụ cho sản dịch vụ khác rất thấp kém bản được yêu cầu phục xuất và đời sống của hoặc không có đồng bào vụ cho sản xuất và đời sống của đồng bào 3. Các yếu Trình độ dân trí, đời Trình độ dân trí còn Dân trí quá thấp, tỷ lệ mù tố xã hội sống văn hóa, nếp sống thấp, tỷ lệ mù chữ, thất chữ, thất học trên 50%, v.v có tiến bộ, đạt học từ 20-50%, vệ sinh bệnh tật nhiều, tập tục lạc mức trung bình cả phòng bệnh kém, thiếu hậu, không có thông tin nước thông tin v.v v.v 4. Điều kiện Điều kiện sản xuất ổn Điều kiện sản xuất chưa Điều kiện sản xuất rất khó sản xuất định. Số hộ có người ổn định về mùa vụ, cây khăn, thiếu thốn. Số hộ làm thuê dưới 10% số trồng, vật nuôi; sản xuất không có đất và thiếu đất hộ của từng xã. Bước giản đơn còn mang tính sản xuất trên 20% số hộ đầu hình thành các tự túc, tự cấp. Số hộ của xã. Số hộ có người vùng sản xuất hàng không có đất và thiếu làm thuê trên 20% số hộ hóa đất sản xuất chiếm từ của xã. 10-20% số hộ của xã. Số hộ có người làm thuê từ 10-20% số hộ của xã. 5. Về đời Số hộ đói nghèo dưới Số hộ đói nghèo từ 10 - Số hộ đói nghèo trên 30% sống 10% số hộ của xã. Đời 30% số hộ của xã. Đời số hộ của xã. Đời sống sống của đồng bào sống của đồng bào tạm còn nhiều khó khăn; còn tương đối ổn định; ổn định nhưng chưa bền 16
  18. Tiêu chí Khu vực I Khu vực II Khu vực I mức thu nhập bình vững tình trang đói giáp hạt quân đầu người bằng mức bình quân cả nước 3. Tổng hợp Danh sách các xã đặc biệt khó khăn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để đầu tư theo Chương trình 135, tính đến 12/11/2003 Danh sách các xã đặc biệt khó khăn đã được Chính phủ phê duyệt theo nhiều đợt: - Lần đầu tiên, năm 1990 tại Quyết định 1232/QĐ-TTg ngày 24/12/1999 Chính phủ đã phê duyệt danh sách các xã đặc biệt khó khăn, thuộc: 49 tỉnh, 248 huyện, 1.870 xã - Sau đó, do có những lý do như: cần bổ sung các xã thực sự khó khăn, xóa tên các xã đã được phê duyệt trước đây, xã mới được thành lập, chia tách xã, thay tên xã hoặc đính chính tên xã Nên, Chính phủ đã phê duyệt bổ sung danh sách các xã tại các Quyết định: Quyết định 647/QĐ-TTg ngày 12/7/2000 Quyết định 42/2001/QĐ-TTg ngày 26/3/2001 Quyết định 120/2002/QĐ-TTg ngày 13/9/2001 Quyết định 231/2003/QĐ-TTg ngày 12/11/2003 - Như vậy, theo thống kê của Ủy ban Dân tộc và Miền núi, tính đến tháng 12/2003, Danh sách các xã đặc biệt khó khăn, biên giới, an toàn khu trong kế hoạch đầu tư năm 2003 trên phạm vi cả nước là : Tỉnh: 49 Huyện: 317 Xã: 2362 Trong đó: 2.037 xã đặc biệt khó khăn 67 xã An toàn khu 323 xã Biên giới (trong đó có 65 xã biên giới đặc biệt khó khăn) Ngân sách Trung ương đầu tư: 2.233 xã Ngân sách Địa phương đầu tư: 192 xã (Chi tiết xem Phụ biểu 1: Danh sách các xã ) 17
  19. Phần 2: Khuyến Lâm 1. Các kinh nghiệm khuyến lâm ở Việt Nam và giá trị của chúng để áp dụng 1.1. Các chính sách khuyến lâm Chính sách về khuyến lâm của Chính Phủ được phản ánh trong Nghị Định số 13 /CP ngày 02/03/ 1993 về "Quy định công tác khuyến nông " trong đó có khuyến lâm và trong Thông Tư Liên Bộ số 02/LB_TT ngày 02/08/1993 về hướng dẫn thi hành Nghị Định 13/CP. Nội dung chính của hai văn bản trên liên quan đến khuyến lâm là : • Thành lập hệ thống khuyến lâm của Nhà nước từ cấp trung ương đến cấp huyện với số lượng cán bộ trong biên chế nhà nước và mạng lưới khuyến lâm viên ở cấp xã theo chế độ hợp đồng. Khuyến khích và cho phép thành lập các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm tự nguyện của các cơ quan nghiên cứu, đào tạo, các đoàn thể và các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân ở trong và ngoài nước. • Kinh phí cho hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm nhà nước được hình thành từ các nguồn: - Ngân sách nhà nước cấp hàng năm ( Ngân sách Trung ương, ngân sách Tỉnh và ngân sách huyện) - Tài trợ của các tổ chức và cá nhân trong nước và ngoài nước - Thu của nông dân một phần giá trị sản phẩm tăng thêm nhờ áp dụng khuyến nông, khuyến lâm. - Nguồn vốn cho hoạt động của các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm tự nguyện do chính tổ chức đó tự trang trải. Nghị định đề cập đến xây dựng các chương trình khuyến nông, khuyến lâm Quốc gia trong đó có 8 chương trình khuyến lâm quốc gia, đây là cơ sở để Nhà nước hỗ trợ các hoạt động khuyến lâm. Định mức chi tiêu cho các chương trình khuyến lâm được qui định tại văn bản 2698 của Bộ Tài chính năm 1994: Nhà nước hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn khuyến lâm ( 60 % giống, phân bón đối với hộ nông dân miền núi, 40 % giống, phân bón đối hộ nông dân đồng bằng) . Nghị định 56/CP về khuyến nông, khuyến ngư trong đó có khuyến lâm ban hành năm 2005 qui định lại nguyên tắc khuyến nông: Xã hội hoá khuyến nông, khuyến lâm, khuyến nông lâm dựa trên nhu cầu của đối tượng. Hệ thống tổ chức: Tằng cường hệ thống khuyến nông lâm cơ sở mỗi xã có 1 cán bộ khuyến nông làm nhiệm vụ khuyến lâm. Đối tượng khuyến lâm: Đa dạng đối tượng khuyến lâm ngoài nông dân các tổ chức khác trong đó nông, lâm trường cũng là đối tượng khuyến lâm. Thông tư hướng dẫn thực hiện đang được xây dựng, dự kiến ban hành cuối năm 2005. Dựa vào chính sách khuyến nông của Nhà nước, các tỉnh cũng ban hành chính sách riêng. Nhìn chung các chính sách này cùng chung nguyên tắc với chính sách khuyến nông của Nhà nước. 18
  20. 1.2. Tổ chức và thể chế khuyến lâm Tổng quan về hệ thống khuyến lâm: Chức năng chung của các cơ quan khuyến nông bao gồm khuyến lâm được xác định từ năm 1993 như sau: - Tuyên truyền phổ biến các tiến bộ kỹ thuật và kinh nghiệm của các mô hình sản xuất thành công; - Nâng cao kiến thức và kỹ năng quản lý sản xuất cho người nông dân; và - Cung cấp thông tin thị trường cho người nông dân - Chức năng và mục tiêu của khuyến nông, khuyến lâm được qui định lại năm 2005 như sau: Mục tiêu: - Nâng cao nhận thức về chủ chủ chương, chính sách, pháp luật, kiến thức, kỹ năng về khoa học kỹ thuật, quản lý kinh doanh cho người sản xuất. - Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn; nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, phát triẻn sản xuất theo hướng bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói, giảm nghèo, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá. Hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. - Huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia khuyến nông, khuyến ngư. Nguyên tắc - Xuất phát từ nhu cầu của người sản xuất và yêu cầu phát triển sản xuất. - Tạo sự liên kết chặt chẽ giữa nhà quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp với người sản xuất và giữa người sản xuất với nhau. - Xã hội hoá hoạt động khuyến nông. - Dân chủ, công khai, có sự tham gia tự nguyện của người sản xuất. - Các hoạt động khuyến nông phải phù hợp và phục vụ chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn; ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sản xuất hàng hoá. Theo qui định chính thức, hệ thống khuyến nông nhà nước được tổ chức theo ba cấp: cấp quốc gia, cấp tỉnh và cấp huyện. Cấp quốc gia: Theo Nghị định 86 mới, Trung tâm Khuyến nông quốc gia (NAEC) trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm về các dịch vụ khuyến nông. Đây là một nỗ lực nhằm tách biệt giữa vai trò “quản lý nhà nước” và vai trò “cung cấp dịch vụ công" trong khuyến nông1. Hiện nay, NAEC có các phòng chuyên môn khác nhau trong đó có phòng khuyến lâm được biên chế 4-5 cán bộ. Cấp tỉnh: Có các trung tâm khuyến nông tỉnh trực thuộc các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại tất cả 64 tỉnh thành trên cả nước. Trung bình, mỗi trung tâm khuyến nông tỉnh hiện có từ 15-20 cán bộ (70% cán bộ khuyến nông tỉnh có trình độ đại học). Mỗi tỉnh 1 Trung tâm Khuyến nông quốc gia (NAEC) được thành lập ngày 26 tháng 4 năm 2002. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Trung tâm trực thuộc Cục Khuyến nông và Khuyến lâm. Theo Nghị định 86 mới, NAEC hiện nay trở thành một cơ quan độc lập do Bộ trưởng trực tiếp quản lý (và Cục Khuyến nông và Khuyến lâm trước đây nay được thay thế bằng Cục Nông nghiệp mới). Phòng khuyến lâm được thành lập tháng 4 năm 2005 theo Quyết định của Bộ trưởng. Phòng này có chức năng quản lý, hướng dẫn các chương trình khuyến lâm Quốc gia. 19
  21. bình quân có 2-3 cán bộ khuyến lâm thuộc phòng trồng trọt. Chưa có tỉnh nào có phòng khuyến lâm riêng. Cấp huyện: Có khoảng 420 huyện trong tổng số 600 huyện trên cả nước đã thành lập các trạm khuyến nông khuyến lâm với tổng số gần 2000 cán bộ khuyến nông có biên chế. Mỗi trạm khuyến nông huyện có từ 3-5 cán bộ có chuyên môn về trồng trọt và chăn nuôi. Tại một số tỉnh, cũng đã thành lập các tổ khuyến nông ở cụm xã. Rất ít huyện có cán bộ lâm nghiệp làm công tác khuyến lâm. Cấp xã và thôn bản: mạng lưới khuyến nông cấp xã và thôn bản theo quy định hiện hành không mang tính bắt buộc. Một số tỉnh, dựa trên nguồn ngân sách địa phương, đã thành lập các nhóm cán bộ khuyến nông xã và cộng tác viên khuyến nông thôn bản thông qua ký kết hợp đồng làm việc hàng năm hoặc theo mùa vụ. Chính sách đãi ngộ các cán bộ khuyến nông xã có sự khác biệt đáng kể giữa các tỉnh- phụ cấp hàng tháng có thể dao động từ 90.000 đồng (ở Lào Cai) đến 300.000-400.000 đồng (ở Hà Giang, Tuyên Quang). Năng lực hạn chế của các cán bộ khuyến nông cơ sở luôn là một vấn đề lớn được quan tâm . Ngoài ra, có nhiều tổ chức khuyến nông tự nguyện (nhóm, câu lạc bộ) được các cộng đồng và các cá nhân thành lập ở cấp xã và thôn bản. Một số tổ chức đoàn thể cũng tham gia vào các hoạt động khuyến nông, do đó đã góp phần tăng cường việc xã hội hoá công tác này. Tuy nhiên Tổ chức khuyến nông cơ sở được qui định cứng bởi Nghị định 56 (i) Mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất 01 nhân viên lầm công tác khuyến nông. (ii) Cấp thôn có cộng tác viên khuyến nông (iii) Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh qui định số lượng và chế độ thù lao cho nhân viên khuyến nông cáp thôn. 20
  22. Hộp 2.1: Các mối quan hệ theo chiều dọc trong hệ Các nhiệm vụ chính: thống khuyến nông nhà nước (Quy định theo Nghị định 56 - được Bộ Nông nghiệp và sửa đổi theo tinh thần Nghị định 86 Phát triển nông thôn mới) Cấp quốc gia • Xây dựng chính sách khuyến nông Trung tâm Khuyến nông • Xây dựng và quản lý các chương trình quốc gia (NAEC) khuyến nông quốc gia • Xác định các định mức về kỹ thuật và kinh tế cho các chương trình khuyến nông quốc gia • Tổ chức và quản lý chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và thông tin thị trường cho người nông dân • Đào tạo cán bộ khuyến nông Sở Nông nghiệp và Phát • Ch ẩnbị các tài liệ kh ến nông triển nông thôn • Xây dựng và hướng dẫn thực hiện các chương trình khuyến nông cấp tỉnh Trung tâm Khuyến nông • Hướng dẫn các tổ chức, bao gồm cả các tổ và Khuyến lâm chức tư nhân, thực hiện các chương trình khuyến nông ở tỉnh Cấp tỉnh • Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân • Cung cấp thông tin thị trường cho nông dân • Lập ra các chính sách khuyến nông cấp tỉnh • Xây dựng các mô hình trình diễn thuộc các chương trình khuyến nông quốc gia (phối Phòng Nông nghiệp và hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông Phát triển nông thôn thôn) • Theo dõi và đánh giá các chương trình khuyến nông Trạm Khuyến nông khuyến lâm huyện • Trực tiếp chuyển giao kỹ thuật cho người nông dân • Hướng dẫn áp dụng các kỹ thuật mới cho nông dân • Cùng với nông dân xây dựng các mô hình trình diễn Các cán bộ/cộng tác viên khuyến • Đào tạo cán bộ khuyến nông cấp cơ sở • Xây dựng các câu lạc bộ “nông dân giỏi” hoặc nông theo hợp đồng hoặc cán bộ các nhóm sở thích nông nghiệp xã làm việc như các • Phối hợp và báo cáo cấc hoạt động khuyến nông cán bộ khuyến nông cấp huyện lên các cấp cao hơn Cấp huyện • Không bắt buộc Cấp cụm xã • Trách nhiệm được mô tả theo hợp đồng Cấp xã • Một số tỉnh đã có các chính sách riêng của tỉnh quy định về chức năng và nhiệm vụ của cán bộ khuyến nông xã và vai trò của các tổ chức ở cơ sở Cấp thôn bản Các tổ chức nông dân (tổ nhóm, câu lạc bộ) Hộ nông dân Hộ nông dân 21
  23. 1.3. Một số cách tiếp cận khuyến lâm chủ yếu Kể từ khi khuyến lâm nhà nước được chính thức hình thành năm 1993, ở Việt Nam có nhiều tổ chức, dự án quốc tế tham gia các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm. Mỗi tổ chức có chính sách, đối tượng phổ cập, mục tiêu khuyến nông lâm khác nhau từ đó hình thành nên các cách tiếp cận khuyến nông, khuyến lâm khác nhau ở Việt Nam. Sau đây là một số cách tiếp cận chính đang được áp dụng. 1.3.1. Chuyển giao kỹ thuật Lâm nghiệp Hình thức khuyến lâm này nhằm chuyển giao các tiến các tiến bộ kỹ thuật về Lâm nghiệp cho người nông dân, thường thông qua các chương trình khuyến nông quốc gia (còn gọi là phương pháp khuyến nông "theo định hướng"). Trung tâm khuyến nông quốc gia (NAEC) trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD) hướng dẫn, giám sát việc triển khai thực hiện các chương trình này thông qua xây dựng các mô hình trình diễn quy mô lớn. Phương pháp này được áp dụng khi Hệ thống Khuyến nông, Khuyến lâm muốn giới thiệu nhanh các giống mới trên các khu vực có diện tích đất đai lớn, đồng nhất. Hình thức khuyến lâm này có ưu điểm tốn ít thời gian, lập kế hoạch đơn giản, phân bổ kinh phí, thanh quyết toán kịp thời theo năm kế hoạch, quản lý được nội dụng khuyến cáo. Nhưng có một số bất cập đối tượng khuyến cáo bị động khi tiếp nhận chương trình. Phân bổ kế hoạch thường mang tính chủ quan của Cơ quan Khuyến nông lâm cấp cao. Khó giám sát dánh giá kết quả thực hiện. Các tỉnh cũng duy trì các chương trình khuyến lâm riêng rất giống với các chương trình khuyến lâm quốc gia về mặt phương pháp và nội dung khuyến cáo đến nông dân. Mức độ nông dân chấp nhận nội dung khuyến cáo được coi là một trong số các tiêu chí để đánh giá sự thành công của chương trình. Năng suất cây trồng cũng là một tiêu chí để theo dõi đánh giá chương trình. 1.3.2. Phát triển kinh tế xã hội Kỹ thuật chỉ là một trong số các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất lâm nghiệp và sinh kế của người nông dân, chủ rừng. Do vậy, việc giới thiệu các kỹ thuật thường đi kèm với hỗ trợ vật tư đầu vào, vay vốn hoặc cơ sở hạ tầng. Các chương trình của Chính phủ nhằm phát triển nông nghiệp và xoá đói giảm nghèo ở cấp tỉnh thường áp dụng hình thức khuyến nông này. Ví dụ Chương trình 661, vay vốn trồng rừng kinh tế. Hoạt động của các chương trình này được tổ chức thành các dự án do Uỷ ban nhân dân tỉnh điều hành dưới sự quản lý của các ban ngành có liên quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD). Các quy định tài chính của những chương trình này thường tuân theo các hướng dẫn về sử dụng ngân sách nhà nước đã ban hành và thường ít có tính linh hoạt. 1.3.3. Hạn chế rủi ro trong sản xuất lâm nghiệp Hạn chế rủi ro trong sản xuất lâm nghiệp bao gồm việc quản lý dịch hại và phòng chống bệnh hại cây rừng. Phòng chống cháy rừng ( Được qui định trong luật bảo vệ và phát triển rừng). Chức năng này do các hệ thống kiểm lâm thực hiện có sự tham gia của Chi cục Lâm nghiệp, Các Lâm trường. Chương trình khuyến lâm Quốc gia có một Chương trình liên quan đến lĩnh vực này tuy nhiên hoạt động còn rất hạn chế. Khuyến cáo nông dân, chủ rừng hạn chế tối thiểu rủi ro trong sản xuất lâm nghiệp được thực hiện bởi hệ thống kiểm lâm là chính. Việc phối kết hợp giữa Kiểm lâm và Khuyến lâm đẻ thực hiện chương trình rất hạn chế. 22
  24. 1.3.4. Xúc tién các dịch vụ thương mại Xúc tiến các dịch vụ thương mại về vật tư sản xuất một phần do ngành Lâm nghiệp thực hiện, một phần do các doanh nghiệp thực hiện. Hình thức khuyến lâm này thường dựa vào giả định tiêu thụ vật tư đầu vào (giống, phân bón) càng cao thì năng suất càng tăng và càng thúc đẩy phát triển lâm nghiệp. Nông dân được coi là khách hàng, được khuyến cáo sử dụng các loại giống mới, phân bón cũng như các loại vật tư đầu vào khác. Tuy nhiên, nông dân phải trả tiền mua vật tư theo giá thoả thuận. Hệ thóng khuyến nông lâm nhà nước chủ yếu làm cầu nối liên kết trong quá trình xúc tiến thương mại và ít khi tham gia trực tiếp như nhà phân phối vật tư. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, cán bộ khuyến nông lâm cũng có thể thiên lệch trong khuyến cáo nông dân nên sử dụng loại sản phẩm nào, đặc biệt khi họ làm đại lý cho các công ty thương mại. 1.3.5. Xúc tiến lâm sản hàng hoá Đây thường là hình thức xúc tiến ‘canh tác theo hợp đồng’ trong đó người nông dân cam kết bán lâm sản cho các doanh nghiệp và đổi lại nông dân có thể nhận được một số hỗ trợ về đào tạo tập huấn, vật tư hoặc tín dụng. Đây là hình thức xúc tiến phổ biến ở các vùng nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu (ví dụ: công nghiệp giấy, công nghiệp chế biến gỗ, chế biến lâm sản ngoài gỗ). Các hợp đồng tiêu thụ lâm sản sẽ được ký kết giữa người nông dân và các doanh nghiệp thương mại. Những doanh nghiệp này cũng có cơ chế cung cấp các dịch vụ khuyến lâm của riêng họ (khuyến lâm nhà nước thường chỉ hỗ trợ chứ không trực tiếp tiến hành hoạt động xúc tiến này). Chính phủ đang có một số ưu đãi dành cho các doanh nghiệp nhằm mở rộng hình thức canh tác theo hợp đồng này trong những năm tới (Theo Quyết định số 80/2002/QD-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002 về đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ nông, lâm sản theo hợp đồng trong nông nghiệp). Nhìn chung có 5 cách tiếp cận khuyến lâm chính đang tồn tại. Hệ thống khuyến nông lâm chỉ tham gia vào cách tiếp cận chuyển giao tiến bộ kỹ thuật là chính. Không có tổ chức nào tham gia điều phối các cách tiếp cận khuyến lâm trên. Xuất phát điểm từ nhu cầu của nông dân và các chủ rừng rất đa dạng sau khi họ nhận đất, nhận rừng, hệ thống khuyến lâm đã hình thành nhưng những ý tưởng về đưa ra một cơ chế khuyến lâm, nội dung và các hoạt động hợp lý mới chỉ là ý tưởng ban đầu. Cách tiếp cận và phương pháp khuyến lâm vẫn mang tính định hướng từ trên xuống. Phối kết hợp giữa khuyến lâm và phát triển cộng đồng, xoá đói giảm nghèo và khuyến nông rất yếu. Bên cạch đó là hệ thống khuyến lâm ở cơ sở, cán bộ khuyến lâm chưa có đủ năng lực để thích ứng được hoạt động trong giai đoạn mới. Sau đây là một số bất cập nghi nhận từ cấp cơ sở (i) Hiện nay ở cấp cơ sở : Xã, thôn bản có rất nhiều tổ chức tham gia vào hoạt động khuyến lâm như tổ chức Khuyến nông, khuyến lâm, Kiểm lâm, Lâm trường, Nhưng thiếu sự phối kết hợp và tính đồng bộ dẫn đến có những hoạt động còn trùng lặp gây lãng phí về vốn hoặc nội dung khuyến lâm không thống nhất ví dụ như Kiểm lâm khuyến cáo nông dân quản lý, bảo vệ rừng theo luật định, lâm trường khuyến cáo nông dân sử dụng đất rừng theo nhiều phương thức khác nhau kể cả dùng đất rừng canh tác theo phương thức nông lâm kết hợp tạo thu nhập cho dân. Như vậy nảy sinh mâu thuần giữa nội dung khuyến cáo theo luật định và thực tiễn sản xuất. (ii) Khuyến lâm không có sự phối hợp với khuyến nông từ khâu lập kế hoạch, nên khi thực hiện không gắn kết được cụ thể là tại cấp huyện, khi lập kế hoạch khuyến lâm không có sự tham gia của cán bộ khuyến nông, hoặc đại diện của một số tổ chức khác có liên quan đến khuyến lâm như lâm trường. (iii) Khi phê duyệt, thẩm định kế hoạch thiếu sự tham gia của khuyến nông, các tổ chức liên quan. Kế hoạch khuyến lâm được phê duyệt không nằm trong khuôn khổ của kế hoạch phát triển cộng đồng và có mối liên quan đến khuyến nông. 23
  25. Bảng 1 Tóm tắt các cánh tiếp cận khuyến nông lâm hiện hành Phương pháp 1. Xúc tiến công nghệ 2. Phát triển kinh tế-xã hội 3. Hạn chế rủi ro 4. Xúc tiến các dịch 5. Xúc tiến nông sản Chủ đề vụ thương mại hàng hoá Tổ chức, chương Hệ thống khuyến nông Chương trình 135, Định canh IPM, các cơ quan Các công ty vật tư Các tổng công ty và trình, dự án chính nhà nước, các viện định cư, chương trình xoá thú y, bảo vệ thực nông nghiệp (phân công ty chế biến nghiên cứu đói giảm nghèo (HEPR) vật bón, thuốc trừ sâu, nông sản (đường, cà giống) phê, chè ) Các chính sách Nghị định 13 Chương trình 135, 661, Nghị định 07,08 - Quyết định 80/TTg chính HEPR, Nghị định 20 L/CTN Mục tiêu Xúc tiến các tiến bộ Xoá đói giảm nghèo Kiểm soát rủi ro Kinh doanh thu lợi Xúc tiến xuất khẩu kỹ thuật nhuận Tài chính Ngân sách nhà nước, Ngân sách nhà nước, các nhà Ngân sách nhà nước, Kinh doanh thu lợi Kinh doanh thu lợi ngân sách tỉnh và tài trợ, vốn vay của WB / các nhà tài trợ, vốn nhuận nhuận huyện ADB vay của WB / ADB Nhóm đối tượng Những nông dân có Mô hình trình diễn quy mô Nông dân Những nông dân có Nông dân có đất đai xúc tiến khả năng xây dựng nhỏ, nông dân nghèo ở các khả năng mua vật tư các mô hình trình diễn khu vực miền núi nông nghiệp Nội dung xúc tiến Tiến bộ kỹ thuật từ Nhân rộng các kinh nghiệm Các kỹ thuật giảm Hướng dẫn sử dụng Công nghệ mới để các nhà nghiên cứu – thành công thiểu rủi ro vật tư do các công ty xúc tiến xuất khẩu triển khai cung cấp Các phương pháp Mô hình trình diễn Mô hình trình diễn, đào tạo, Đào tạo tại chỗ Đào tạo tại chỗ, tài Đào tạo, vật tư đầu xúc tiến chính vật tư đầu vào (giống, phân liệu hướng dẫn vào, tín dụng bón ) 24
  26. 1.4. Kế hoạch tài chính cho khuyến lâm. Đối với khuyến lâm Nhà nước hiện nay có 2 nguồn ngân sách chủ yếu chi cho các hoạt động khuyến lâm: (1) Nguồn ngân sách Quốc gia Kinh phí cho hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm nhà nước được hình thành từ các nguồn: - Ngân sách nhà nước cấp hàng năm ( Ngân sách Trung ương, ngân sách Tỉnh và ngân sách huyện) - Tài trợ của các tổ chức và cá nhân trong nước và ngoài nước - Thu của nông dân một phần giá trị sản phẩm tăng thêm nhờ áp dụng khuyến nông, khuyến lâm. - Nguồn vốn cho hoạt động của các tổ chức khuyến nông, khuyến lâm tự nguyện do chính tổ chức đó tự trang trải. Ngân sách trung ương chi cho các chương trình khuyến nông-khuyến lâm quốc gia hàng năm như sau: Kinh phí cho khuyến nông lâm từ ngân sách TU Năm Tiền chi cho Trong đó chi cho khuyến nông, khuyến lâm Khuyến nông Khuyến lâm (Tỷ đồng) (Tỷ đồng ) (Tỷ đồng) 1993 3,7 3,5 0,2 1994 14,3 13,3 1,0 1995 17,0 15 2,0 1996 23,5 21 2,5 1997 28,5 25 3,5 1998 26,6 23,5 3,1 1999 26,7 23,7 3,0 2000 35 32 3,0 2001 4,5 2002 9,0 2003 10,8 2004 12 2005 12 Nguồn thông tin: Từ Bộ NN và PTNT Biểu trên cho thấy có sự ra tăng hàng năm về tài chính cho khuyến nông-khuyến lâm nhưng mức tăng những năm gần đây chậm và so với số hộ nông dân trong cả nước thì nguồn tài chính này quá nhỏ bé. Trong đó tỷ lệ kinh phí dành cho khuyến lâm là rất ít so với tổng kinh phí dành cho khuyến nông (thường chỉ chiếm 10% hoặc thấp hơn), nhưng địa bàn hoạt động của công tác khuyến lâm lại lớn hơn và khó khăn hơn nhiều. Quá trình lập kế hoạch và phân bổ tài chính cho khuyến lâm tuân thủ qui trình dự toán ngân sách Nhà nước của cơ quan sự nghiệp, gồm kế hoạch chi thường xuyên và chi cho các 25
  27. hoạt động khuyến nông ( các chương trình khuyến lâm). Trung tâm Khuyến nông cấp tỉnh thường dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch phát triển ngành, khả năng nguồn ngân sách khuyến lâm của Trung ương và tỉnh để trình kế hoạch lên Bộ NN và PTNT thông qua TTKNQG, Cục LN. Sau khi xem xét, thẩm định kinh phí khuyến lâm sẽ được phân bổ cho các tỉnh hàng năm từ nguồn vốn Trung ương. Ngân sách hoạt động hàng năm và ngân sách từ các chương trình, dự án khuyến lâm dành cho miền núi và vùng dân tộc thiểu số tăng dần trong những năm gân đây. Tuy nhiên ngân sách chi cho khuyến lâm còn rất nhiều hạn chế. Tổng cộng ngân sách từ các nguồn khác nhau chi cho khuyến nông trong đó có khuyến lâm trong năm 2002 ước tính khoảng 441 tỷ đồng ( tương đương với 29 triệu USD), chiểm 0,4 % tổng sản phẩm ngành nông nghiệp. Tỷ lệ này còn rất thấp so với một số nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan, ( Theo ADB, 2002 BeckmanM, 2002). Nhìn chung các tỉnh miền núi có nhiều nhu cầu về vốn cho khuyến lâm, nhưng nhu cầu này vẫn chưa được đáp ứng. Ngân sách khuyến lâm Trung ưong cấp cho các tỉnh bình quân khoảng 200 triệu VND cho mỗi tĩnh hàng năm. Ngoài nguồn ngân sách Quốc gia còn có (2) Ngân sách địa phương Căn cứ kế hoạch phát triển kinh tế tổng thể của tỉnh, nhu cầu phát triển nông, lâm nghiệp của các huyện thông qua phòng nông nghiệp, trạm khuyến nông huyện, Trung tâm khuyến nông tỉnh xây dựng kế hoạch khuyến nông trình UBND tỉnh thông qua Sở NN và PTNT. Sở KH và đầu tư của tỉnh sẽ tổng hợp giúp tỉnh phân bổ kế hoạch khuyến nông lâm cho Trung tâm khuyến nông, khuyến lẩm tỉnh. Mức kinh phí dành cho khuyến nông, khuyến lâm cao thấp có khác nhau tuỳ theo từng tỉnh. Tỉnh cao nhất đến 1 tỷ đồng (như Đồng Nai, An Giang, Cần Thơ ) và thấp nhất khoảng 200-300 triệu đồng (như Cao Bằng, Hà Giang, Phú Yên ). Trong đó tỷ lệ kinh phí dành cho hoạt động khuyến lâm chiếm rất ít, thậm chí có tỉnh không dành kinh phí cho khuyến lâm như Quảng Trị, và một số tỉnh có ít diện tích rừng. 1.5. Sự chuyển hoá về khuyến lâm trong hệ thống khuyến nông, khuyến lâm và các dự án Quốc tế 1.5.1. Chuyển biến về chính sách khuyến nông, khuyến lâm Chính phủ đã ban hành NĐ/13CP năm 1993 về khuyến nông trong đó có khuyến lâm. Nghị định này qui định về tổ chức, nội dung phương pháp và các chính sách để thực hiện các hoạt động khuyến lâm trên phạm vi toàn Quốc. Qua 12 năm thực hiện Nghị định, có nhiều bất cập và bức xúc nảy sinh trong thực tế vì vậy Chính phủ ban hành NĐ mới về khuyến nông, khuyến ngư trong đó có khuyến lâm đó là NĐ 56/CP2 ngày 26/4/2005. Nghị định này ra đời với một số nội dung mới khắc phục được một số tồn tại của Nghị định cũ và phần nào đáp ứng được hiện trạng sản xuất lâm nghiệp và xu hướng toàn cầu hoá. Cụ thể NĐ qui ước nguyên tắc khuyến Lâm: “ xuất phát nhu cầu của người sản xuất, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa nhà quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp với người sản xuất và giữa người sản xuất với nhau”. NĐ qui định công tác xã hội hoá khuyến lâm, dân chủ, công khai có sự tham gia tự nguyện của người sản xuất. Các hoạt động khuyến lâm phải phù hợp với chiến lược Lâm nghiệp và ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Một trong những điểm đổi mới của nghị định đó là cho phép khuyến nông, khuyến lâm như là một loại hình dịch vụ. Hệ thống khuyến nông, khuyến lâm có chức năng cung cấp dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khuyến nông về (1) xây dựng chính sách, pháp luật (2) Nâng 2 Hiện nay Bộ NN và PTNT đang chủ trì xây dựng thông tư hướng dẫn thực hiện 26
  28. cao năng lực cho người sản xuất (3) Khởi xướng xây dựng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển làng nghề (4) chuyển giao công nghệ NĐ cũng đề cập đến tăng cường hệ thống khuyến nông, khuyến lâm cơ sở. Mỗi một xã sẽ có 1 cán bộ khuyến nông được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước để thực thi các hoạt động khuyến nông trên địa bàn xã trong đó có khuyến lâm. Để triển khai NĐ, Bộ NN và PTNT đang phối hợp với Bộ Tài Chính, Bộ Thuỷ Sản xây dựng thông tư hướng dẫn thực thi NĐ. Dự kiến Thông tư liên Bộ này sẽ ra đời cuối năm 2005. 1.5.2. Chuyển biến về nội dung và cơ chế hỗ trợ đầu vào Định hướng nội dung khuyến lâm từ các cơ quan khuyến lâm : Một vài năm gần đây, các chương trình khuyến lâm Quốc gia đã có chuyến biến đáng kể về lựa chọn công nghệ chuyển giao cho nông dân như nuôi trồng và chế biến các cây con lâm đặc sản rừng để tạo ra sản phẩm đa dạng phong phú từ rừng, mở rộng ngành nghề tại vùng miền núi, tạo cho người dân có ý thức sử dụng tiết kiệm tài nguyên rừng. Phổ cập kỹ thuật nuôi trồng các loài cây lâm đặc sản như Quế, Hồi, Song Mây, Tre trúc , kỹ thuật trồng các cây nông nghiệp, cây đặc sản, cây dược liệu dưới tán rừng tự nhiên và rừng trồng. Phổ cập kỹ thuật chế biến, bảo quản các sản phẩm ngoài gỗ có chất lượng cao giá trị lớn. Loài cây trồng chủ yếu được định hướng từ cơ quan Khuyến lâm Trung ương: Tre lấy măng, Hồi, Quế, Bời lời đỏ, Dó trầm Sự chuyển hoá này đạt kết quả khả quan nhất, được nhân dân tự giác tham gia do sản phẩm thu được có giá trị cao hoặc thời gian thu hoạch nhanh, người dân nhìn thấy ngay lợi ích của họ, đặc biệt trong mấy năm gần đây những loài cây như Tre măng, Dó trầm, Bời lời đỏ được mở rộng gây trồng mạnh mẽ ở một số vùng. Tuy nhiên cũng cần cảnh báo về vấn đề tiêu thụ sản phẩm nếu không có qui hoạch cụ thể ở từng tỉnh, cũng như phải xem xét về điều kiện sinh thái phù hợp của vùng trồng tránh chạy theo phong trào. Một hạn chế khác của chương trình là chưa có những mô hình về chế biến lâm đặc sản ở qui mô hộ gia đình và việc nuôi các con vật đặc sản rừng cũng không được quan tâm. Sau đây là một số kết quả đạt được từ các chương trình này: Tổng số MH đã xây dựng 752 mô hình/ 52 tỉnh Số hộ tham gia xây dựng mô hình 25.154 hộ trình diễn Diện tích trình diễn: Trong đó 18.529 ha Cây lâm nghiệp 8.570 ha (chiếm 47%) Cây ăn quả 4.056 ha (chiếm 21,8 %) Cây đặc sản 3500 ha (chiếm 19 %) Cây cải tạo đất 2.403 ha trồng xen (chiếm 13 %) Diện tích trình diễn 6.500 ha Số hộ tham gia 5000 hộ (Nguồn: Khuyến lâm- Bộ NN và PTNT) 27
  29. Đối tượng khuyến lâm được tham gia lựa chọn nội dung khuyến lâm và cơ chế hỗ trợ đầu vào: Các tổ chức NGOs và một số dự án Quốc tế đang khuyến khích nguyên tắc chỉ có các thử nghiệm hay mô hình có độ rủi ro cao, cần nhiều thời gian thực hiện và người dân không thể tự đầu tư xây dựng mô hình thì mới được hỗ trợ một phần kinh phí để xây dựng mô hình. Đóng góp đối ứng của người dân bằng tiền hoặc bằng hiện vật phải là điều kiện cần thiết trong các mô hình thử nghiệm. Về lâu dài việc bao cấp hỗ trợ nên chậm dứt để đảm bảo tính bền vững. Tuy nhiện hỗ trợ giúp nông dân thay đổi nhận thức và tiếp cận được cái mới thông qua đào tạo các chuyến thăm quan chéo là cần thiết. Trên thực tế có sự khác biệt về mặt hỗ trợ đầu vào cho nông dân giữa hệ thống khuyến nông lâm Nhà nước, các dự án Quốc tế và các NGOs đang hoạt động ở Việt nam. (Xem hôp 1.5) Hộp 1.5: Các chính sách trợ cấp khác nhau trong hoạt động khuyến nông Trợ cấp đầu vào cho các mô hình trình diễn là một chính sách quan trọng trong hệ thống khuyến nông nhà nước để khuyến khích người nông dân tham gia các hoạt động khuyến nông (theo Nghị định 13 và các chính sách của địa phương): • Trợ cấp theo khu vực: 60% trợ cấp cho các xã vùng 3 và 40% cho các xã vùng đồng bằng • Trợ cấp theo đối tượng hưởng lợi: 100% trợ cấp cho những người nghèo có sổ trong dự án “khuyến nông cho người nghèo” hoặc trong các hợp phần về khuyến nông của chương trình 135, chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình định canh định cư. • Trợ cấp theo nhóm mặt hàng chủ lực cần khuyến khích của tỉnh: như 20-30% hoặc thậm chí 50% trợ cấp cho các loại giống lai (sản xuất hàng hóa), thường được cắt giảm dần trong vài năm. Các dự án của các tổ chức phi chính phủ cũng phân biệt các chính sách trợ cấp đầu vào trong các mô hình/thử nghiệm : • Trợ cấp theo thời hạn hoạt động (Helvetas): cây trồng ngắn ngày (gạo, ngô): trợ cấp 0%, vật nuôi trung hạn (lợn): tối đa 50%, cây lâu năm (quế): 70%. • Trợ cấp theo các nhóm đối tượng xã hội (CARE): hộ không nghèo: trợ cấp 50%, hộ nghèo: 80-90%, hộ cực nghèo: 100%. • Trợ cấp theo mức độ rủi ro của hoạt động thử nghiệm (CCF Australia): thử nghiệm lần đầu (rủi ro): trợ cấp 60%; thử nghiệm tiếp theo để đánh giá: 40%; nhân rộng: 20-30%, năm thứ hai: 10-15%, sau đó là 0% (chỉ hỗ trợ kỹ thuật). • Trợ cấp theo loại hình hoạt động (ETSP): chỉ trợ cấp rất hạn chế đối với một số thử nghiệm PTD, thí điểm phát triển thị trường, các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng, và giống cây cho trồng rừng. 1.6. Khuyến lâm và xoá đói giảm nghèo 1.6.1. Cam kết của Chính phủ đối với giảm nghèo Tiếp tục các cam kết xoá đói giảm nghèo, Chính phủ gần đây đã ban hành một số chính sách, kế hoạch và chương trình về khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo. Khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo trong Chương trình xoá đói giảm nghèo (HEPR) và Chương trình 135 Khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo là một trong số 12 dự án trọng điểm của Chương trình xoá đói giảm nghèo hiện hành trong giai đoạn 2001-2005 (Theo Quyết định số 28
  30. 143/2001/QD-TTg ngày 27 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng chính phủ). Đề xuất của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (MOLISA) về khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo trong giai đoạn 5 năm gồm các hoạt động sau 3: - Tổ chức các hình thức tập huấn khuyến nông nhằm nâng cao năng lực sản xuất và hướng dẫn cách làm ăn cho 1,5 triệu hộ nghèo - Phát triển mạng lưới cán bộ khuyến nông xã và hỗ trợ các hoạt động của họ - Phát triển các mô hình trồng trọt, chăn nuôi với giống mới, kỹ thuật mới trong sản xuất, giúp đỡ người nghèo nâng cao kiến thức và tăng thu nhập - Hướng dẫn việc lập kế hoạch sản xuất, quản lý chi tiêu trong hộ gia đình - Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh hướng dẫn người nghèo trong sản xuất Các cấp chính quyền tỉnh sẽ phải ‘cụ thể hoá’ và phê duyệt dự án khuyến nông cho người nghèo trong các kế hoạch HEPR hàng năm. Trên thực tế, phạm vi và quy mô của các dự án khuyến nông cho người nghèo hiện hành rất khác nhau, tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể ở địa phương, cam kết của các nhà lãnh đạo và nguồn ngân sách hiện có của các tỉnh. Tại cấp quốc gia, trách nhiệm quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về các dự án nông nghiệp trong Chương trình HEPR- bao gồm các dự án khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo - được giao cho “Cục Hợp tác xã và PTNT”, không phải giao cho Trung tâm Khuyến nông Quốc gia hay Cục Lâm nghiệp. Đây là một vấn đề khá khó khăn khi khuyến nông cho người nghèo được thực hiện như một dự án độc lập đặt ngoài hệ thống khuyến nông, khuyến lâm và hệ thống Cục Lâm nghiệp. Chương trình 135 (và Chương trình 661) cũng có một số công cụ chính sách cho công tác khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo, trong đó bao gồm trợ cấp các vật tư nông nghiệp thiết yếu tại các khu vực nghèo (Theo Nghị định 20). Đặc biệt là, hợp phần “phát triển nguồn nhân lực” cho các xã nghèo trong Chương trình 135 có mục tiêu là đào tạo các cán bộ khuyến nông cấp cơ sở, những người có thể được lựa chọn từ các ‘nông dân giỏi’ tại địa phương. Khuyến nông cho người nghèo trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (CPRGS) Trong CPRGS được phê duyệt vào tháng 5 năm 2002 nhằm hoàn thành các mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong các mục tiêu phát triển của Việt Nam (VDT), trên cơ sở cụ thể hoá các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG), Chính phủ đã ban hành một số định hướng chính sách về khuyến nông cho người nghèo bao gồm (SRV.2002) : - Tập trung kinh phí khuyến nông vào các vùng khó khăn để đảm bảo người nghèo và đồng bào dân tộc ít người được hưởng chất lượng dịch vụ khuyến nông tương đương với các vùng khác - Tổ chức thường xuyên việc cung cấp thông tin về áp dụng giống mới, hướng dẫn kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giới thiệu các mô hình tiên tiến, kinh doanh giỏi và cách làm ăn mới có hiệu quả của các hộ nghèo - Chú trọng đào tạo cán bộ làm công tác khuyến nông là phụ nữ, người địa phương và biết tiếng dân tộc 3 Theo đề án của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, ngân sách dành cho các dự án khuyến nông cho người nghèo giai đoạn 2001-2005 trong Chương trình HEPR ước tính vào khoảng 100 tỷ đồng, tính trung bình khoảng 20 tỷ đồng một năm. 29
  31. - Hỗ trợ nghiên cứu công nghệ chi phí thấp, hiệu quả phù hợp với nhu cầu của người nghèo - Khuyến khích trao đổi thường xuyên kinh nghiệm sản xuất giữa các trường đại học, các viện nghiên cứu, các nhà nghiên cứu và quản lý, cán bộ kỹ thuật với nông dân nghèo để giúp họ tăng năng suất cây trồng, vật nuôi - Xây dựng và phổ biến các mô hình tự phát triển để xoá đói giảm nghèo có hiệu quả ở các vùng khác nhau, tập dần cho người nghèo có khả năng tự vươn lên, thay đổi tập quán làm ăn để thoát nghèo và hoà nhập cùng cộng đồng. - Khuyến khích phát triển và có chính sách hỗ trợ các hình thức khuyến nông khuyến lâm đa dạng, tự nguyện và tự quản giữa người dân với nhau ở từng cơ sở, cộng đồng dân cư nhằm chia xẻ và học hỏi kinh nghiệm sản xuất, giúp nhau nâng cao thu nhập và giảm nghèo. Các định hướng chính sách trên cần phải được hiện thực hoá trong các quy định và kế hoạch cụ thể hơn. Một số nhà tài trợ và tổ chức phi chính phủ quốc tế đang hỗ trợ Chính phủ Việt Nam “triển khai” CPRGS ở cấp quốc gia và cấp tỉnh (thông qua một số hoạt động thử nghiệm). Hy vọng là một số nguyên tắc lập kế hoạch then chốt của CPRGS - ví dụ như có lợi cho người nghèo, dựa trên sự tham gia, luận chứng dựa trên cứ liệu rõ ràng - sẽ dần dần được áp dụng trong lĩnh vực khuyến nông. Khuyến nông, khuyến lâm trong “Chương trình phát triển ngành nông nghiệp” của Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) Vào tháng 4 năm 2003, Chính phủ đã ký kết dự án “Chương trình phát triển ngành nông nghiệp (ASDP)” trị giá 60 triệu đô la Mỹ với ADB. Theo lộ trình giải ngân chi tiết bao gồm ba đợt, Chính phủ cam kết tái cơ cấu hệ thống nghiên cứu và khuyến nông. Trong giai đoạn từ 2003- 2006, các cam kết chính trong chương trình ASDP bao gồm (ADB.2002) : - Các Hội đồng tư vấn khuyến nông, khuyến lâm tỉnh sẽ được thành lập nhằm cung cấp một diễn đàn cho sự tham gia của các bên liên quan trong việc chuẩn bị các chương trình khuyến nông. Đại diện tham gia hội đồng sẽ bao gồm các tổ chức hiệp hội của nông dân và những người nuôi trồng, các tổ chức đoàn thể, các hợp tác xã, các viện nghiên cứu địa phương, các cán bộ khuyến nông, ngân hàng, các Tổ chức phi chính phủ (NGO), các đơn vị tư nhân cung cấp đầu vào và cán bộ từ các ban ngành nông nghiệp, kế hoạch, địa chính, tài chính, khoa học và công nghệ và thương mại. - Một số dịch vụ khuyến nông sẽ được ký kết với các NGO, các trường đại học, các tổ chức nông dân, các công ty tư nhân, các nhà cung cấp đầu vào và kinh doanh nông nghiệp, lâm nghiệp. - Chính phủ sẽ tăng ngân sách nhà nước cho khuyến nông ở mức ít nhất là 12% một năm nhằm cấp đủ kinh phí thường xuyên và kinh phí hoạt động cho khuyến nông. Tuy nhiên đối với khuyến lâm hiện tại chưa có cam kết gì về tăng cường ngân sách cho lĩnh vực này. - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các đại diện của tất cả các chính quyền tỉnh tham gia chương trình sẽ phê duyệt một kế hoạch chung cho công tác khuyến nông, khuyến lâm bao gồm: (i) Xây dựng các chiến lược và ưu tiên khuyến nông tập trung công tác khuyến nông, khuyến lâm ở các khu vực vùng sâu vùng xa và miền núi nơi có nhiều nông dân nghèo sinh sống; (ii) Tăng cường các mối liên kết giữa nghiên cứu và khuyến nông, khuyến lâm. 30
  32. (iii) Đào tạo cho các cán bộ khuyến nông về một số kỹ năng mới bao gồm phương pháp khuyến nông có sự tham gia, ma-ket-ting, các hoạt động chế biến sau thu hoạch và tài chính nông thôn; (iv) Thể chế hoá phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm trong đó người nông dân sẽ tăng cường tham gia vào việc lập kế hoạch, thực hiện, theo dõi và đánh giá các hoạt động khuyến nông; (v) Mở rộng cung cấp các dịch vụ khuyến nông ở cấp huyện và cấp xã, đặc biệt là ở các tỉnh nghèo, bằng cách tuyển dụng thêm 5000 cán bộ khuyến nông làm việc ở cấp xã; (vi) Tăng cường tài trợ hoạt động đào tạo cán bộ khuyến nông và nông dân; và (vii) Cải tiến việc cung cấp các dịch vụ khuyến nông cho người nghèo, phụ nữ và người dân tộc bằng cách tăng số lượng cán bộ nữ và người dân tộc thiểu số ít nhất là 10% ở từng lĩnh vực trong thời gian 36 tháng. Bên cạnh đó, nhiều dự án khác của các nhà tài trợ cũng cố gắng vận động khuyến nông cho người nghèo theo các phương thức nhất định. Ví dụ, Chương trình xoá đói giảm nghèo ở miền núi phía Bắc của Ngân hàng Thế giới đang sử dụng một số cách tiếp cận “kế hoạch phát triển xã/thôn bản” (như đã được thể chế hoá ở tỉnh Sơn La) như là điểm khởi đầu cho các hoạt động lập kế hoạch và lập ngân sách ở cấp xã. 1.6.2. Các chính sách khác liên quan đến khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo Cùng với một số chính sách liên quan trực tiếp đến khuyến nông, còn có các chính sách và quy định khác của Chính phủ có thể giúp thúc đẩy phát triển khuyến nông cho người nghèo ở Việt Nam, mặc dù những chính sách và quy định này không đề cập một cách cụ thể đến người nghèo, đó là: - Sự tham gia: Nghị định 29 trước đây (ban hành ngày 11 tháng 5 năm 1998) và Nghị định 79 mới (ban hành ngày 7 tháng 7 năm 2003) về thực hiện dân chủ ở cơ sở về nguyên tắc yêu cầu tăng cường sự tham gia của người dân địa phương trong toàn bộ chu kỳ (xác định/ưu tiên, lập kế hoạch, triển khai thực hiện, theo dõi và đánh giá) của tất cả các dự án và chương trình trong cộng đồng, bao gồm cả các hoạt động khuyến nông. - Trao quyền: Luật Hợp tác xã, Nghị định về Hiệp hội (Nghị định 88/2003/ND-CP ngày 30 tháng 7 năm 2003) và Bộ luật Dân sự (ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1995) đều có quy định khung cho các mối liên kết theo chiều ngang giữa các nông dân. - Quản lý nhà nước: việc tách riêng cung cấp dịch vụ và quản lý nhà nước (Theo Nghị định 86), “cổ phần hoá” các doanh nghiệp nhà nước và đẩy mạnh phân cấp có thể giúp các nhà cung cấp dịch vụ khuyến nông đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nông dân địa phương. Các chính sách và quy định này đã hàm chứa một môi trường tương đối thuận lợi có thể giúp cho chính quyền tỉnh phát triển các dịch vụ khuyến nông cho người nghèo - nếu như thực sự mong muốn làm như vậy. 1.6.3. Quan điểm và cách tiếp cận khuyến lâm cho người nghèo, người dân tộc tiểu số sống phụ thuộc vào rừng Phần này giới thiệu chung về quan niệm và thực tiễn khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo của các Tổ chức phi chính phủ (NGO) và các chương trình/dự án tài trợ tại Việt Nam. Lưu ý đây chưa phải là tổng hợp các kinh nghiệm thực tiễn tốt nhất và cũng không phải là một phân tích chi tiết về các điểm mạnh và điểm yếu của bất kỳ tổ chức hay chương trình nào. 31
  33. Khuôn khổ khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo Một sơ đồ đơn giản của khuôn khổ khuyến nông ( bao gồm cả khuyến lâm) cho người nghèo được trình bày trong hình 1 dưới đây. Khuôn khổ này có thể bao hàm các nỗ lực khác nhau của các NGO và các dự án tài trợ từ bên ngoài nhằm xúc tiến công tác khuyến nông cho người nghèo tại Việt Nam (MARD.1996, MARD.2002). Hình 1 Khuôn khổ khuyến nông, khuyến lâm cho người nghèo tại Việt Nam Các thể chế Chính ph ủ Các chính sách Tỉnh Li ên Cung cấp Nhu cầu Huyện (Thông tin, các kế (thông tin, các t [Cụm xã] nguồn lực) nguồn lực) dọ c Xã Thôn bản Đánh giá nông thôn Khuyến nông đa tầng (Xã có sự tham gia hội hoá) (PRA) Lập kế hoạch có sự tham gia Liên kế t ngang Các nhóm/câu lạc bộ ND Từ Nông dân đến Nông dân Khuyến nông cho người nghèo hỗ trợ nông dân-đặc biệt là nông dân ở các khu vực khó khăn (nghèo, vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số) trong việc tăng cường các mối liên kết theo chiều ngang để những người sản xuất nhỏ có thể cùng nhau áp dụng các chiến lược sinh kế tốt hơn và do đó giúp cho họ tăng thu nhập, giảm thiểu rủi ro và dần dần thoát khỏi đói nghèo. Các từ khoá quan trọng được nhấn mạnh trong tất cả các dự án khuyến nông cho người nghèo là ‘sự tham gia’ và ‘trao quyền’ mang tính ‘nhạy cảm về giới’. Các kỹ thuật đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) thường được áp dụng để tăng cường sự tham gia của người nghèo trong toàn bộ chu kỳ hoạt động của chương trình/dự án khuyến nông- ví dụ như xây dựng (đánh giá nhu cầu, lập kế hoạch, tham vấn), thẩm định, thực hiện, theo dõi và đánh giá. Các tổ chức nông dân dựa trên cộng đồng, có quy mô nhỏ và tự quản (các nhóm, các câu lạc bộ) được thành lập nhằm tạo cơ hội cho người nghèo được phát biểu và được lắng nghe (vì người nghèo có các nhu cầu khuyến nông cụ thể có thể rất khác so với những người khá giả). Các nông dân chủ chốt, trong vai trò của các cán bộ khuyến nông được hỗ trợ để xây dựng hình thức khuyến nông “từ -nông dân- đến- nông dân” trong cộng đồng. Đồng thời, cũng có các nỗ lực tăng cường các mối liên kết theo chiều dọc trong hệ thống khuyến nông về xây dựng năng lực, theo dõi và đánh giá và thể chế hoá các phương pháp tiếp cận có sự tham gia. Trong các dự án của các Tổ chức phi chính phủ (NGO) và các dự án tài trợ từ bên ngoài, các khoá đào tạo giảng viên (TOT) về các phương pháp khuyến 32
  34. nông cho người nghèo thường được tổ chức cho đội ngũ cán bộ khuyến nông ở cấp tỉnh và huyện để sau đó họ có thể tiếp tục đào tạo lại cho những người khác ở cấp xã và thôn bản. Các kinh nghiệm và các bài học của các NGO từ các cấp xã/thôn bản thường được phổ biến lên cấp huyện và tỉnh, đôi khi lên cấp trung ương (thông qua các hình thức tài liệu hoá, hội thảo, đào tạo, các phương tiện thông tin đại chúng, các chuyến tham quan học tập kinh nghiệm). Đến nay, một số tổ chức NGO đã khá thành công trong việc giúp cán bộ đối tác cấp tỉnh/huyện (Trung tâm khuyến nông và/hoặc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn) xây dựng quy trình lập kế hoạch có sự tham gia ở các cấp huyện và xã, xuất bản các sách hướng dẫn và tài liệu đào tạo về khuyến nông cho người nghèo để lưu hành rộng rãi và áp dụng trong hệ thống khuyến nông. Việc “xã hội hoá khuyến nông” cũng được các NGO xúc tiến khi có thể để mở rộng phạm vi cho các nhà cung cấp dịch vụ (là các cơ quan của chính phủ, các cơ quan nghiên cứu hoặc các doanh nghiệp tư nhân) để các dịch vụ khuyến nông có thể tiếp cận tới người nghèo theo nhiều cách phù hợp với nhu cầu cụ thể của họ và cũng phù hợp với các điều kiện về môi trường, văn hoá, kinh tế và xã hội của cộng đồng nơi người nghèo sinh sống. Bên cạnh các yếu tố then chốt trên, có thể thấy một số giá trị và nguyên tắc điển hình khác về khuyến nông cho người nghèo ở Việt Nam: - Tập trung hỗ trợ các yếu tố “phần mềm” (đào tạo kết hợp với thực hành, các chuyến đi thăm quan thực địa, cung cấp thông tin, hình thành và hoạt động tổ nhóm, v.v.) nhằm cải thiện vốn nhân lực và vốn xã hội cho người nghèo; bất kỳ hỗ trợ các yếu tố “phần cứng” nào (giống, vật tư đầu vào, xây dựng) đòi hỏi quản lý có sự tham gia của người dân, theo dõi và đánh giá chặt chẽ, - Hạn chế bao cấp và cho không nhằm phát huy tính tự chủ của người nghèo và đảm bảo tính bền vững của các tác động - Phối hợp các nỗ lực về khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư, các dịch vụ thú y, bảo vệ thực vật với các hoạt động hỗ trợ sinh kế khác như tín dụng, đào tạo dạy nghề, phân bổ và quản lý đất đai nhằm tạo ra sự đồng bộ giữa các loại dịch vụ khác nhau mang lại lợi ích cho người nghèo - Thúc đẩy đa dạng hóa bằng cách giới thiệu các bộ trọn gói công nghệ khác nhau (khác với chỉ giới thiệu một mô hình nông nghiệp đơn lẻ) để nông dân tự lựa chọn tham gia - Phát triển công nghệ phù hợp (đã được chứng minh) chi phí thấp mà người nghèo có thể áp dụng, tập trung vào giảm thiểu rủi ro trong thực tiễn canh tác và trồng trọt kết hợp với theo dõi và đánh giá chặt chẽ, có sự tham gia - Bảo tồn và phát triển vốn kiến thức bản địa của người dân địa phương, đặc biệt là của các nhóm dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện khí hậu, địa lý và truyền thống của địa phương - Tổ chức các hoạt động khuyến nông tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của người nghèo và phụ nữ (về thời gian, địa điểm, phương pháp, mức độ đóng góp, ) - Giới thiệu các ví dụ điển hình về những người nghèo đã thoát khỏi đói nghèo, trở thành các cán bộ khuyến nông cơ sở hoặc được bầu làm lãnh đạo của các tổ nhóm nông dân, - Luôn chú trọng vấn đề bình đẳng giới. 1.6.4. Các phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong khuyến lâm cho người nghèo, người dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng Các phương pháp tiếp cận phổ biến trong các dự án có hoạt động khuyến lâm cho người nghèo của các dự án hỗ trợ Quốc tế là: lập kế hoạch, qui hoạch sử dụng đất có sự tham 33
  35. gia, kế hoạch phát triển rừng cộng đồng, xây dựng qui ước bảo vệ rừng. Trên thực tế không có sự phân biệt rõ ràng giữa các cách tiếp cận này bởi vì chúng luôn được lồng ghép với nhau ở các cấp xã và thôn bản. Qui hoạch sử dụng đất có sự tham gia. Quyền tiếp cận rõ ràng và đảm bảo của cộng đồng đối với rừng là một điều kiện tiên quyết cho quản lí rừng cộng đồng. Sự quản lí của cộng đồng địa phương đối với rừng có thể được nâng cao thông qua lập kế hoạch sử dụng đất và giao đất, cụ thể là thông qua việc xác định ranh giới giữa các thôn bản và xã. Cách tiếp cận thông qua sự tham gia của người dân thôn bản mang lại những hiểu biết tốt hơn về điều kiện, vấn đề và tiềm năng của địa phương. Quá trình này được thực hiện thông qua phương pháp luận giới thiệu bởi các dự án Quốc tế và được chính quyền địa phương (tỉnh, huyện) phê duyệt. Sản phẩm cuối cùng của hoạt động qui hoạch sử dụng đất và giao đất có sự tham gia là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Sổ đỏ) đảm bảo quyền sử dụng đất lâu dài để đầu tư lao động và vốn cho quản lí và bảo vệ rừng. Mục tiêu chính của quá trình QHSD đất, giao đất: - Sự tham gia trực tiếp và thực sự của người dân địa phương trong toàn bộ quá trình Lập kế hoạch sử dụng đất và giao đất. - Tính khả thi với nguồn lực về tài chính, nhân lực và kĩ thuật hiện có của địa phương ở cấp xã và huyện. - Đẩy nhanh quá trình Lập kế hoạch sử dụng đất và giao đất một cách hiệu quả và bền vững bằng cách sử dụng công cụ PRA. Xây dựng kế hoạch phát triển rừng cộng đồng có sự tham gia Thông qua phân tích có sự tham gia, từng trạng thái, sự sở hữu và cấu trúc hiện tại của từng khu rừng trong thôn bản . Đối với mỗi một khu rừng, các chức năng cụ thể như phòng hộ, phòng hộ kết hợp sản xuất, rừng trồng hoặc rừng tái sinh được thảo luận giữa những người sử dụng rừng. Trong cuộc điều tra thực địa diện tích và trạng thái rừng được xác minh tại thực địa và nếu cần thiết, ranh giới hiện tại của thôn bản cũng được tái khẳng định nhằm giải quyết mẫu thuẫn về đất đai. Xuất phát từ đánh giá nguồn lực dựa trên nhu cầu, các hoạt động lâm nghiệp của cộng đồng được xác định và lượng hoá nhằm cân bằng cung cầu về rừng của thôn bản. Trong trường hợp nguồn rừng không đủ cung cấp đối với một lâm sản cụ thể, những giải pháp có thể sẽ được thảo luận nhằm tăng khả năng cung cấp trong tương lai. Điều này dẫn đến kế hoạch quản lí rừng dài hạn (5 Năm), Từ kế hoạch 5 năm này, kế hoạch hằng năm của thôn bản sẽ được trích ra từ đó nhằm từng bước hoàn thành mục tiêu dài hạn. Sau khi có sự nhất trí của các thành viên thôn bản, kế hoạch quản lí rừng cộng đồng (5 năm) sẽ được trưởng thôn bản đệ trình lên uỷ ban xã, và từ xã đệ trình lên huyện để thông qua. Kiểm lâm phụ trách xã hoặc cán bộ xã tham gia vào quá trình phê duyệt sẽ phản hồi kế hoạch đã được phê duyệt cho ban quản lí thôn bản. Kế hoạch quản lí rừng hàng năm được đưa vào kế hoạch phát triển thôn bản (LKHTB), tạo nên cơ sở lập kế hoạch có tính pháp lí cho năm sau. Một đánh giá vào cuối mỗi năm với sự giúp đỡ của kiểm lâm xã tăng cường đáng kể năng lực của người dân thôn bản trong quản lí bền vững rừng tại cấp thôn bản. Xây dựng qui ước bảo vệ rừng 34
  36. Mục tiêu của phương pháp luận là nhằm xây dựng năng lực cho mỗi người dân để họ có thể phân tích nguồn tài nguyên rừng và các qui ước truyền thống, cuối cùng xác định và đưa ra những qui ước bảo vệ rừng, đáp ứng tốt nhất nhu cầu quản lí rừng của người dân và Nhà nước. Phương pháp luận cũng nhằm giúp đỡ các cán bộ Kiểm lâm thiết lập mối quan hệ tin cậy lẫn nhau, tôn trọng và trao đổi thông tin với cộng đồng địa phương. Bởi vậy phương pháp luận không chỉ là hướng dẫn người dân cách xây dựng qui ước bảo vệ rừng mà còn thông qua các phương pháp đào tạo có sự tham gia cung cấp cho họ những công cụ và kĩ năng giúp họ phân tích nguồn rừng của mình, và đưa ra những ý tưởng mới về qui ước bảo vệ rừng nhằm đạt mục tiêu cụ thể: - Bảo vệ và phát triển nguồn rừng hiện có cho quản lí rừng bền vững trong tương lai; - Tăng cường năng lực của người dân trong việc bảo vệ và quản lí rừng theo những qui ước đã được người dân xây dựng và thông qua; - Tham gia trực tiếp của người dân trong công tác quản lí và bảo vệ rừng tạo ra những lợi ích từ các sản phẩm gỗ và lâm sản ngoài gỗ; - Tạo ra những qui định có thể được xã hội chấp nhận và có thể được giám sát và có - hiệu lực thậm chí tại cấp thôn bản. 1.7. Khái quát kinh nghiệm về khuyến lâm của các tổ chức, dự án/chương trình quốc tế, NGOs đang hoạt động ở Việt nam 1.7.1. Khuyến nông, khuyến lâm có sự tham gia Các phương pháp tiếp cận phổ biến trong các dự án KNKL cho người nghèo của các dự án quốc tế, NGOs là: lập kế hoạch có sự tham gia, KNKL từ- nông dân- đến- nông dân và các tổ chức nông dân. Trên thực tế không có sự phân biệt rõ ràng giữa ba phương pháp tiếp cận này bởi vì chúng luôn được lồng ghép với nhau ở các cấp xã và thôn bản. Phương pháp lập kế hoạch KNKL có sự tham gia đã được hầu hết các chương trình/dự án khuyến nông của NGO áp dụng. - Sử dụng các kỹ thuật PRA: các kỹ thuật PRA (tổ chức các cuộc "thảo luận nhóm trọng tâm" (FDG) và "phỏng vấn sâu" (IDI) với các công cụ khác nhau như lược sử thôn bản, lập bản đồ, lát cắt, lịch mùa vụ, phân loại kinh tế hộ ) ban đầu được sử dụng để đánh giá nhu cầu của người dân, xác định những người tham gia dự án và ưu tiên sử dụng các nguồn lực sẵn có. Dần dần, các quy trình PRA (đã được đơn giản hoá) có thể trở thành phương tiện giao tiếp giữa người dân địa phương với cán bộ KNKL nhằm cung cấp luận cứ và các ý kiến phản hồi theo định kỳ để theo dõi, đánh giá và lập kế hoạch KNKL - Thẩm định kế hoạch: trong những giai đoạn nhất định, kết quả thu được của các phương pháp tiếp cận có sự tham gia cần được thẩm định bằng cách ‘kiểm tra trên thực tế’ để làm cho kế hoạch KNKL mang tính khả thi hơn. Tiếp theo việc lập kế hoạch có sự tham gia là việc triển khai thực hiện có sự tham gia. Do đó, các giải pháp theo kế hoạch cần dựa trên các nguồn lực của chính người nông dân và từ các nguồn hỗ trợ sẵn có từ bên ngoài (vốn, các kỹ năng, thông tin) - Kết hợp với phát triển cộng đồng: lập kế hoạch có sự tham gia/từ dưới lên không chỉ được áp dụng cho KNKL mà còn áp dụng cho các hoạt động khác theo yêu cầu của người dân địa phương, chẳng hạn như tài chính vi mô, quản lý thuỷ lợi, Vì vậy, việc triển khai 35
  37. thực hiện, theo dõi và đánh giá các kế hoạch khuyến nông thường được gắn liền với nỗ lực tổng thể về phát triển cộng đồng nhằm xoá đói giảm nghèo. 1.7.2. KNKL từ nông dân-đến- nông dân Phương pháp KNKL từ -nông dân- đến -nông dân đặt người nông dân ở vị trí trung tâm và khuyến khích họ trở thành các tác nhân thay đổi chính để cải thiện sản xuất lâm nghiệp. - Nông dân trở thành giảng viên: những nông dân tình nguyện và có năng lực được đào tạo và hỗ trợ để trở thành các KNKL viên nông dân ở cơ sở (còn gọi là “các nông dân nòng cốt” hoặc “nông dân đầu mối”). Hoạt động đào tạo thường bao gồm các chủ đề về kỹ thuật sản xuất, phát triển cộng đồng, PRA, các kỹ năng thuyết trình, Những cán bộ khuyến nông xã/thôn bản này có thể là lãnh đạo của các tổ nhóm nông dân (các nhóm cùng sở thích, các câu lạc bộ) và đồng thời cũng là thành viên của nhóm nòng cốt tiến hành lập kế hoạch khuyến nông có sự tham gia trong cộng đồng. - Lớp học nông dân trên đồng ruộng/Lớp học đầu bờ (FFS): một nhóm nông dân tập hợp lại với nhau để học tập, chia sẻ kinh nghiệm và thử nghiệm các kỹ thuật sản xuất trên đồng ruộng từ khi bắt đầu tới khi kết thúc một mùa vụ. Phổ biến nhất là các lớp học về quản lý lý rừng cộng đồng, phòng chống cháy rừng. - Phát triển công nghệ có sự tham gia (PTD): thông qua các nghiên cứu và thử nghiệm trên ô mẫu có sự tham gia của người dân, các kỹ thuật công nghệ mới được khảo nghiệm và được chứng minh bởi người dân địa phương, thường có sự trợ giúp của các kỹ thuật viên hoặc các nhà nghiên cứu. Sau đó, những công nghệ này có thể được truyền bá rộng rãi trong nông dân thông qua các kênh chính thức và phi chính thức. 1.7.3. Các tổ chức nông dân tự quản (nhóm sở thích, câu lạc bộ KNKL) Các tổ chức nông dân tự quản có thể giúp tăng cường các mối liên kết theo chiều ngang trong cộng đồng nhằm tăng thu nhập và giảm rủi ro cho các thành viên. - Hợp tác tình nguyện và tự quản: về cơ bản, các tổ chức này có qui chế riêng, các thành viên tự bầu ra trưởng nhóm và duy trì hoạt động định kỳ theo quyết định của các thành viên. Một nhóm hoặc một câu lạc bộ có thể dựa trên một loại cây trồng vật nuôi cụ thể hoặc có thể bao gồm các thành viên có cùng chung các đặc điểm nhất định - Tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ sản xuất: các nhóm và các câu lạc bộ có thể là tâm điểm tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ sản xuất. Chúng có thể trở thành nơi hoạt động của các cán bộ KNKL (những người không thể tiếp cận với từng hộ gia đình riêng lẻ), thúc đẩy các mối liên kết với các tổ chức đoàn thể (hội nông dân, hội phụ nữ), hoạt động như một đầu mối để ký kết các hợp đồng với các doanh nghiệp và giao dịch với các ngân hàng. Ngoài ra, các tổ nhóm dựa trên cộng đồng này có thể hỗ trợ các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương trong công tác hoà giải, bảo vệ môi trường và thực hiện hương ước trong cộng đồng. - Khả năng phát triển dần tính tự lực: ban đầu, các tổ chức nông dân tự quản có thể được hình thành rất lỏng lẻo, chủ yếu dựa vào sự hỗ trợ từ bên ngoài. Sau một thời gian, nhiều tổ nhóm và câu lạc bộ có thể phát triển các hình thức dịch vụ tự quản khác nhau như tín dụng và tiết kiệm, phục vụ các thành viên về vật tư đầu vào và thị trường đầu ra, đổi công và chia sẻ sức cày kéo, Một số nhóm./câu lạc bộ sau đó có thể duy trì các hoạt động đem lại lợi ích tương hỗ cho các thành viên và có thể phát triển thành các hợp tác xã kiểu mới. 36
  38. - Cơ hội cho người dân “được phát biểu và được lắng nghe”: Khi tham gia trong các tổ chức nông dân tự quản phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mình, người dân có cơ hội bộc lộ nhu cầu và các mối quan tâm của họ. Do vậy, những nhu cầu và các mối quan tâm của người dân có thể được các tác nhân liên quan đáp ứng tốt hơn. 1.7.4. Điều kiện để thực hiện khuyến lâm có sự tham gia Khuyến lâm có sự tham gia yêu cầu một cơ chế tài chính linh hoạt không cứng nhắc. Cơ chế này không qui định ngặt nghèo về thời hạn thanh quyết toán, các định mức chi tiêu phù hợp với từng nội dung phổ cập, xoá bỏ quan điểm khuyến lâm được coi như hoạt động hỗ trợ giá sản xuất. Phân cấp quản lý tài chính cho khuyến lâm là nhân tố thúc đẩy khuyến lâm có sự tham gia. Đối với chính sách với cán bộ khuyến lâm, cán bộ hiện trường cần phải được khuyến khích, họ cần được chi trả phụ cấp làm việc, kinh phí đi lại tiếp cận, hội họp và hướng dẫn nông dân tại hiện trường. Đa dạng các các dịch phụ khuyến lâm, cho phép nhiều tổ chức, cá nhân tham gia khuyến lâm sẽ thúc đẩy, khuyến khích người dân tham gia vào quá trình phổ cập. Đối với nông dân thực hiện hoạt động khuyến lâm, cơ quan khuyến nông cần tạo mối liên kết để nông dân tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng khác nhau để có vốn thực thi ý tưởng. Cơ quan khuyến nông, khuyến lâm có thể tạo cơ chế hỗ trợ phù hợp ví dụ hỗ trợ tín dụng vi mô cho nông dân các dân tộc thiểu số là biện pháp hữu hiệu để người dân có thể vay vốn từ các nguồn khác ( như từ ngân hàng, quĩ phát triển thôn bản hoặc quĩ quay vòng của nhóm ). Cơ chế này thường được thực hiện song song với phương pháp khuyến nông, khuyến lâm theo nhóm. Các nhóm nông dân có khả năng và tiềm lực có thể phát triển và duy trì các dịch vụ đầu vào - đầu ra để giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm. Một kinh nghiệm khác khá thành công nhiều dự án quốc tế thực hiện thành công ở Việt Nam là hỗ trợ các cộng đồng dân tộc thiểu số tự nhân giống cây con. Dự án hỗ trợ kỹ thuật thông qua xây dựng hệ thống vườn ươm cây lâm nghiệp hộ gia đình. Kiến thức bản địa được được kết hợp với kiến thức mới có thể tạo gia giống cây lâm nghiệp có chất lượng cao thay thế mua bán và vận chuyển cây từ các địa phương khác gây tốn kém. Dự án trồng rừng Việt - Đức tại Lạng Sơn, bắc Giang là một ví dụ điển hình. Dự án tập huấn cho nông dân về kỹ thuật vườn ươm, hỗ trợ vật tư làm vườn ươm. Mua cây con do nông dân sản xuất để trồng rừng. Điều này mang lại lợi ích cho nông dân về kinh tế và chủ động cây giống. 1.8. Một số mô hình khuyến lâm đã thử nghiệm thành công 1.8.1. Mô hình về tổ chức khuyến lâm Mô hình tổ chức khuyến lâm cơ sở tỉnh Nghệ An Về tổ chức, khuyến lâm thường lồng nghép với tổ chức khuyến nông. Cấp tỉnh và huyện có cán bộ khuyến lâm. Tại cấp huyện, Kiểm lâm, Lâm trường, phòng Nông nghiệp huyện, Trạm Khuyến nông phối kết hợp chặt chẽ để thực hiện các hoạt động khuyến lâm. Cấp xã, thôn hình thành nhóm cộng đồng tham gia quản lý rừng, nhóm sở thích lâm nghiệp. Mô hình tổ chức có sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan cấp huyện và tổ chức tự nguyện của nông dân ở 3 huyện Con cuông, Anh Sơn, Tương Dương tỉnh Nghệ An sau đây là một ví dụ điển hình cho mô hình tổ chức khuyến lâm có hiệu quả. 37
  39. Trung tâm KN tỉnh Hạt kiểm lâm Trạm KNKL huyện Lâm trường c ọ Phối hợp theo chiều ngang về nội dung, phương pháp, tổ chức thực u d Nhóm sở Cộng đồng tham Thôn bản t theo chi ề t theo ế thích LN gia quản lý rừng k Liên Hộp; 1.8.1 Mô hình tổ chức khuyến lâm có hiệu quả Nguồn: Dự án Lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên Nghệ an Mô hình tổ chức khuyến nông lâm tỉnh Thái Nguyên Ngoài kinh nghiệm trên, CIDSE đã thử nghiệm thành công và UBND tỉnh Thái Nguyên đã chập nhận mô hình làng tự quản SEV ở miền núi để mọi người dân trong thôn bản (khoảng 20-40 người) đều có thể tham gia tự nguyện. SEV có thể có một số nhóm nông dân cùng sở thích trong đó có nhóm sở thích về lâm nghiệp, quản lý bảo vệ rừng, nhóm ươm cây lâm nghiệp hộ gia đình. Gần đây tỉnh Thái Nguyên đã có quyết định thể chế hoá nhân rộng mô hình này trên phạm vi toàn tỉnh với qui định cụ thể về các bước thành lập, cơ cấu quản lý, chức năng nhiệm vụ và quyền lợi của Ban phát triển làng và người dân, nguồn kinh phí hoạt động ( xem nội dung tóm tắt quyết định hộp 1.8.2) Hộp 1.8.2 : Quyết định của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Thái Nguyên về “Quy định công tác mở rộng làng khuyến nông tự quản” • Làng khuyến nông tự quản là một làng (hoặc bản), là tổ chức khuyến nông của nông dân do cộng đồng tự nguyện tổ chức xây dựng dưới sự hướng dẫn giúp đỡ của chính quyền địa phương và khuyến nông Nhà nước. • Trong những năm qua với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, khuyến nông Thái Nguyên đã xây dựng được 62 mô hình làng khuyến nông tự quản (KNTQ) đem lại kết quả đáng kể: đời sống của nông dân được cải thiện rõ rệt, các giống cây con mới đưa vào sản xuất đạt năng suất, sản lượng cao, góp phần xoá đói giảm nghèo. I. Những quy định chung 1. Làng KNTQ là một đầu mối trong hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở, là tổ chức khuyến nông của nông dân dưới sự hướng dẫn của khuyến nông Nhà nước. 38
  40. 2. Mục tiêu • Mở rộng làng KNTQ là từng bước hoàn thiện hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở. • Việc lập kế hoạch phát triển sản xuất ở làng, bản xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân, đáp ứng được nhu cầu của người dân. • Xây dựng mối quan hệ và phát triển cộng đồng để thực hiện nhiệm vụ chuyển giao kỹ thuật mới đến người nông dân, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo trong từng làng, bản, xóm, xã của tỉnh. • Tăng cường năng lực tự quản lý và điều hành sản xuất nông nghiệp và PTNT mới của cán bộ cơ sở (thôn, xóm). II. Những quy định cụ thể 1. Cơ cấu làng khuyến nông tự quản: 1.1. Thành viên của làng KNTQ: là các hộ nông dân sống tại cộng đồng, tự nguyện tham gia vào tổ chức làng KNTQ 1.2. Ban phát triển làng (BPT làng): • do cộng đồng trong làng bầu ra • gồm từ 3 - 5 người có kinh nghiệm trong sản xuất, có tín nhiệm, có năng lực quản lý cộng đồng (trưởng ban nên gắn với trưởng thôn, xóm hoặc bí thư chi bộ) • làm việc theo nguyên tắc công khai dân chủ, cộng đồng cùng tham gia • nhiệm kỳ của BPT làng là 2 năm 1.3. Chức năng, nhiệm vụ của BPT làng: • dự thảo quy chế hoạt động của làng KNTQ, thông qua cộng đồng, trình uỷ ban nhân dân xã thông qua • chuyển tải các thông tin về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế thị trường đến mọi thành viên trong làng • hướng dẫn nhóm sở thích lập kế hoạch hoạt động trong sản xuất • xây dựng dự án phát triển kinh tế xã hội văn hóa của làng; tổ chức triển khai thực hiện các kế hoạch đã được phê duyệt • kiểm tra, giám sát hoạt động của nhóm sở thích, việc sử dụng vốn và thu hồi vốn vay theo hợp đồng. • phối hợp với cán bộ khuyến nông tổ chức các cuộc tập huấn, tham quan, hội thảo cho nông dân 2. Quyền lợi: 2.1. Quyền lợi của các thành viên làng KNTQ: • được tiếp nhận các thông tin về chủ trương chính sách, thông tin về thị trường, khoa học kỹ thuật, • được hưởng các chính sách hỗ trợ về vật tư cây con giống trong sản xuất nông lâm nghiệp do Nhà nước quy định • được tham gia các lớp tập huấn, hội thảo, tham quan miễn phí 39
  41. • được hỗ trợ về kinh phí, kỹ thuật để xây dựng các mô hình thử nghiệm và mô hình trình diễn 2.2. Quyền lợi của BPT làng: • được cử đi đào tạo nâng cao năng lực về quản lý, phương pháp khuyến nông miễn phí • được tập huấn kỹ thuật, cung cấp các tài liệu kỹ thuật miễn phí • được tham gia các cuộc hội thảo, tham quan trong và ngoài tỉnh miễn phí • được hưởng thù lao do các thành viên của làng KNTQ tự nguyện đóng góp 3. Kinh phí hoạt động của làng KNTQ: được lấy từ các nguồn sau đây: • do các thành viên của làng đóng góp • do các tổ chức quốc tế tài trợ thông qua các dự án • do gân sách Nhà nước hỗ trợ thông qua các chương trình khuyến nông của Trung ương, địa phương III. Tổ chức thực hiện Để công tác mở rộng xây dựng làng KNTQ đạt hiệu quả, Giám đốc Sở Nông nghiệp & PTNT đề nghị Trung tâm khuyến nông phối hợp với phòng Nông nghiệp & PTNT các huyện thành thị, các cơ quan liên quan thực hiện các bước công việc sau: 1. Làm việc với chính quyền xã để thống nhất lựa chọn làng (xóm, thôn) xây dựng làng KNTQ 2. Tổ chức điều tra làng đã lựa chọn theo phương pháp điều tra xác định nhu cầu của làng 3. Tổ chức họp cộng đồng với các nội dung: giới thiệu mục tiêu và sự cần thiết xây dựng làng KNTQ; thảo luận thống nhất kế hoạch các bước trong tiến trình thành lập làng KNTQ; bầu ban phát triển làng; xây dựng quy chế hoạt động của làng; hình thành các nhóm sở thích. 4. Nâng cao năng lực cho BPT làng thông qua các lớp tập huấn về phương pháp khuyến nông, tập huấn về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi mới, cung cấp tài liệu 5. Phối kết hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị, xã hội trong làng tạo nên sức mạnh tổng hợp xây dựng kế hoạch để xây dựng làng KNTQ có hiệu quả 6. Liên kết chặt chẽ với cán bộ khuyến nông Nhà nước tại các cụm khuyến nông liên xã để có sự giúp đỡ và đẩy nhanh phát triển làng KNTQ. Nguồn: Sở NN&PTNT Thái Nguyên (2003) Mô hình về phương pháp PAEM của tỉnh Sơn la, Lai Châu Quan điểm của PAEM là khuyến nông, khuyến lâm phải theo nhu cầu của nông dân. Nhu cầu này sẽ được cán bộ khuyến nông, khuyến lâm các cấp xem xét và phê duyệt thông qua kế hoạch phát triển bản VDP đảm bảo hài hoà giữa nhu cầu của dân và định hướng phát triển của địa phương. Về phương pháp, PAEM cho rằng nông dân miền núi sẽ dễ ràng nhận thức và tiếp thu tiến bộ mới khi họ được lựa chọn thông qua xây dựng mô hình đối chứng “mô hình trình diễn cái mới và mô hình hiện tại”. Để có tiêu chí theo dõi, đánh giá, hệ thống theo dõi đánh giá hoạt động phổ cập M&A được thiết lập. Hệ thống này rất trú trọng sổ sách ghi chép của nông dân về diễn biến của mô hình trình diễn. Kinh nghiệm của Sơn La cho thấy để nhân rộng phương pháp trên diện rộng UBND tỉnh cần ban hành văn bản pháp qui hướng dẫn và qui định thực hiện phương pháp. Trong tiến trình thực hiện vai trò của DPI ( sở kế hoạch 40
  42. đầu tư ) rất quan trọng vì cơ quan này liên quan đến phân bố kế hoạch khuyến nông lâm hàng năm và cả kế hoạch về vốn. Hộp 1.8.3 Kinh nghiệm PAEM tại Sơn La, Lai Châu Thử nghiệm phải đáp ứng nhu cầu và những khó khăn của nông dân cũng như các hoạt động đã được nông dân đưa vào trong kế hoạch phát triển thôn bản. Thảo luận với nông dân trong cuộc họp đầu tiên . Thử nghiệm cần có các ô đối chứng. Trong ô đối chứng nông dân sẽ áp dụng phương pháp canh tác truyền thống. Trong ô thử nghiệm sẽ sử dụng kỹ thuật mới. Các điều kiện giữa ô đối chứng và ô thử nghiệm tương tự như nhau để đảm bảo việc so sánh chính xác, chỉ khác nhau về kỹ thuật canh tác. Một số nguyên tắc cơ bản là các thử nghiệm đó không được có quá nhiều rủi ro đối với nông dân và phù hợp với khả năng đầu tư của hầu hết các hộ nông dân trong thôn bản. Với mỗi hoạt động, cần tổ chức một cuộc họp đầu tiên ở thôn bản để thảo luận với nông dân một số chủ đề. Chúng được mô tả ở các bản hướng dẫn cho cán bộ khuyến nông. • Mục đích của việc đưa hoạt động này vào trong kế hoạch phát triển thôn bản. • Phân tích những vấn đề khó khăn liên quan đến hoạt động này • Thứ tự ưu tiên cho các vấn đề khó khăn • Xác định những vấn đề khó khăn chính • Thảo luận những nguyên nhân dẫn đến vấn đề khó khăn • Thảo luận những giải pháp khả thi • Giải thích phương pháp làm một thử nghiệm và trình diễn như thế nào (xem phần trên) • Những nông dân nào có sở thích tham gia hoạt động này • Những nông dân nào chịu trách nhiệm thực hiện thử nghiệm và trình diễn (ký hợp đồng, xem phụ lục 16) • Vẽ sơ đồ các ô thử nghiệm • Hướng dẫn cách sử dụng sổ ghi chép. Nông dân phải ghi chép thường xuyên, đầy đủ. • Lịch theo dõi của cán bộ khuyến nông, theo dõi cái gì, theo dõi như thế nào và khi nào • Phân công trách nhiệm đối với nông dân, cán bộ khuyến nông xã, cán bộ khuyến nông huyện và ban quản lý thôn bản 1.8.2. Mô hình phát triển công nghệ có sự tham gia Mô hình này cụ thể hoá các bước xây dựng nội dung khuyến lâm (công nghệ để chuyển giao) đó là một quá trình mà ở đó nông dân, nhà khoa học và các cơ quan khuyến lâm cùng nhau tìm kiếm và xây dựng nội dung phổ cập. Sau khi nội dung khuyến lâm được xác định các cơ quan khuyến lâm địa phương chỉ là các cơ quan điều phối để tự nông dân nhân rộng mô hình. (xem hộp 1.8.4) Hộp 1.8.4: Phương pháp PTD trong dự án SFSP/ETSP Phát triển kỹ thuật có sự tham gia (PTD) là một phương pháp "gắn kết nghiên cứu có sự tham gia với khuyến nông, và dựa trên năng lực đã được tăng cường của các cộng đồng nông thôn trong việc tìm kiếm các phương thức mới trong sản xuất nông nghiệp và quản lý tài nguyên, phù hợp với mong muốn và tiềm năng của người nông dân cũng như những trở ngại ở cấp hộ gia đình và cấp làng”. Mục tiêu của PTD là: • Tìm kiếm các kỹ thuật mới phù hợp với điều kiện và mong muốn của người nông dân địa phương và thôn bản của họ. Đây có thể là những ý tưởng mới về kỹ thuật, hoặc các phương thức quản lý mới, hoặc điều kiện thích nghi mới. 41