Luận án Xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam

pdf 198 trang vanle 2350
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_xay_dung_mo_hinh_thue_tai_san_o_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận án Xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI BÙI HỒNG ĐIỆP XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2015
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI BÙI HỒNG ĐIỆP XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Chuyên ngành : Quản lý công nghiệp Mã số : 62340414 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. PGS. TS. Nghiêm Sĩ Thương 2. GS. TS. Trần Chí Thành HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc cụ thể, rõ ràng. Các kết quả của luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Nếu có sai sót, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật. NGHIÊN CỨU SINH Bùi Hồng Điệp i
  4. LỜI CẢM ƠN Luận án là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của tác giả trong một thời gian dài, bằng nỗ lực của bản thân, sự hướng dẫn nhiệt tình chu đáo của PGS.TS Nghiêm Sĩ Thương, GS.TS Trần Chí Thành và đóng góp của quý thầy cô, các bạn đồng nghiệp. Trước tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn và cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nghiêm Sĩ Thương và GS.TS Trần Chí Thành đã hướng dẫn, định hướng, ủng hộ và động viên tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới quý thầy cô giáo, những người đã đem lại cho tác giả những kiến thức bổ trợ, tạo nền tảng lý luận cần thiết để nghiên cứu đề tài này. Đặc biệt là sự đóng góp và giúp đỡ tận tình của quý thầy cô Viện Kinh tế và Quản lý, Viện Đào tạo sau đại học trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, trường Đại học Xây dựng, Học Viện Ngân hàng,Viện Hàn lâm Khoa học-Xã Hội Việt Nam Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Học viện Tài chính, Viện Kế toán-Kiểm toán và Tài chính Doanh nghiệp,Trường Đại học Sài Gòn, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, Ban Kinh tế Trung ương, Tổng Cục Thuế, Cục Thống kê TP.HCM, Cục Thuế TP.HCM, Cục Thuế Tỉnh Đồng Nai, Cục Thuế Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ để tác giả hoàn thiện luận án. Cuối cùng, tác giả xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình, bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên và tạo điều kiện để tác giả hoàn thành công trình này. Hà Nội, ngày 11 tháng 11 năm 2015 TÁC GIẢ Bùi Hồng Điệp ii
  5. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan i Lời cám ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ viết tắt vi Danh mục bảng biểu, hình vẽ, biều đồ, đồ thị, sơ đồ vii Lời mở đầu x CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1 1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1 1.2 Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án 6 1.2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới 6 1.2.2 Các công trình nghiên cứu trong nước 10 1.3 Mục tiêu nghiên cứu của luận án 13 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 13 1.5 Phương pháp nghiên cứu 14 1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án 15 1.7 Tên và kết cấu của luận án 15 Kết luận chương 1 16 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ THUẾ TÀI SẢN 17 2.1 Tài sản và phân lọai tài sản 17 2.1.1 Tài sản 17 2.1.2 Phân loại tài sản 19 2.2 Thuế tài sản 19 2.2.1 Khái niệm và đặc điểm của thuế tài sản 19 2.2.2 Vai trò của thuế tài sản 21 2.2.3 Quan điểm chung về đánh thuế tài sản 23 2.2.4 Các hình thức đánh thuế tài sản 25 2.2.5 Vị trí của thuế tài sản trong hệ thống thuế 26 2.3 Thuế tài sản trong các lý thuyết kinh tế 28 2.3.1 Lịch sử nghiên cứu thuế tài sản 28 2.3.2 Lý thuyết đánh thuế tài sản 30 2.4 Những nhân tố cơ bản của mô hình thuế tài sản 34 2.5 Những nguyên tắc xây dựng mô hình thuế tài sản 35 2.6 Mô hình thuế tài sản ở một số nước trên thế giới 44 iii
  6. 2.6.1 Quá trình hình thành và phát triển thuế tài sản ở các nước trên thế giới 44 2.6.2 Mô hình thuế tài sản ở một số nước trên thế giới 47 2.6.3 Nhận xét về các mô hình thuế tài sản ở một số nước trên thế giới 53 Kết luận chương 2 57 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VỀ THU NGÂN SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN TÀI SẢN Ở VIỆT NAM 58 3.1 Tổng quan về thuế và ngân sách Việt nam giai đoạn 2003-2013 58 3.1.1 Cấu trúc nguồn thu từ thuế 58 3.1.2 Cấu trúc nguồn thu ngân sách 60 3.2 Tài sản liên quan đến thuế tài sản hiện nay 65 3.3 Thực trạng chính sách về thu ngân sách liên quan đến tài sản ở Việt Nam 67 3.3.1 Tổng quan về các chính sách thuế liên quan đến tài sản 67 3.3.2 Thực trạng về các chính sách thuế liên quan đến tài sản 67 3.3.2.1 Nguồn thu liên quan đến tài sản 67 3.3.2.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 69 3.3.2.3 Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 71 3.3.2.4 Thuế nhà đất 72 3.3.2.5 Lệ phí trước bạ 74 3.3.2.6 Tiền sử dụng đất 76 3.3.2.7 Tiền thuê đất 77 3.3.2.8 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 77 3.3.2.9 Thuế thu nhập đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản 78 3.3.2.10 Thuế tài nguyên 78 3.3.2.11Lệ phí địa chính 79 3.3.3 Đánh giá chung về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam 79 Kết luận chương 3 81 CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM 82 4.1.1 Các bước xây dựng mô hình thuế tài sản 82 4.1.2 Mô hình nghiên cứu thuế tài sản 82 4.1.3 Phương pháp nghiên cứu đối với xây dựng mô hình 83 4.1.4 Thiết kế nghiên cứu 84 4.1.5 Nghiên cứu định tính 85 4.1.5.1 Giới thiệu 85 4.1.5.2 Kết quả nghiên cứu thảo luận nhóm chuyên gia 86 4.1.6 Nghiên cứu định lượng 99 iv
  7. 4.2 Phân tích và đánh giá mô hình thuế tài sản 104 4.2.1 Giới thiệu 104 4.2.2 Mô tả mẫu và xử lý dữ liệu 104 4.2.3 Phân tích độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha 105 4.2.4 Phân tích nhân tố 108 4.2.5 Phân tích hồi quy 110 4.2.6 Kết quả nghiên cứu định lượng 111 4.2.7 Các trường hợp nghiên cứu tình huống 113 4.2.7.1 Trường hợp nghiên cứu 1 113 4.2.7.2 Trường hợp nghiên cứu 2 119 4.2.8 Các trường hợp nghiên cứu thực nghiệm 126 4.2.8.1 Thuế tài sản và tính công bằng 126 4.2.8.2 Thuế tài sản và hiệu quả kinh tế 128 4.2.8.3 Thuế tài sản và tổn thất xã hội (DWL) 129 4.2.8.4 Độ đàn hồi của thuế tài sản (tax buoyancy) 131 4.3 Kết luận mô hình thuế tài sản 132 Kết luận chương 4 135 CHƯƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ ỨNG DỤNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN VÀO VIỆC XÂY DỰNG CÁC CHÍNH SÁCH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM 136 5.1 Những khuyến nghị ứng dụng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam 136 5.2 Những khuyến nghị xây dựng chính sách thuế tài sản dựa trên mô hình 136 5.2.1 Thuế đăng ký tài sản 136 5.2.2 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 138 5.2.3 Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 140 5.2.4 Thuế nhà 142 5.2.5 Thuế công trình xây dựng gắn liền trên đất 145 5.2.6 Thuế phương tiện giao thông 145 5.3 Một số gợi ý chính sách và điều kiện để triển khai mô hình thuế tài sản 146 Kết luận chương 5 149 Kết luận 150 Các công trình khoa học đã công bố của luận án Tài liệu tham khảo Phụ lục v
  8. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tiếng việt Tiếng Anh ADB Ngân hàng phát triển Châu Á Asian Development Bank AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ASEAN Free Trade Area Association of Southeast ASEAN Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á Asian Nations Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trade in Goods ATIGA ASEAN Agreement BĐS Bất động sản Hiệp định về chương trình thuế quan ưu Common Effective CEPT đãi có hiệu lực chung Preferential Tariff CP Chính phủ CQSDĐ Chuyển quyền sử dụng đất FTA Hiệp định thương mại tự do Free Trade Agreement GDP Tổng sản phẩm quốc nội Gross Domestic Product GINI Hệ số Gini Gini Index GTGT Giá trị gia tăng Ha héc ta NSĐP Ngân sách địa phương NSNN Ngân sách nhà nước Organization for Economic OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Co-operation and Development QH Quốc hội SDĐ Sử dụng đất SDĐNN Sử dụng đất nông nghiệp SDĐPNN Sử dụng đất phi nông nghiệp SXKD Sản xuất kinh doanh TNCN Thu nhập cá nhân TNDN Thu nhập doanh nghiệp Trans-Pacific Strategic Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược TPP Economic Partnership xuyên Thái Bình Dương Agreement TS Tài sản TTĐB Tiêu thụ đặc biệt UBND Ủy ban nhân dân WTO Tổ chức Thương mại Thế giới World Trade Organization XHCN Xã hội chủ nghĩa XNK Xuất nhập khẩu vi
  9. DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ Bảng Tên Bảng Trang 2.1 Tỷ lệ thuế tài sản trên GDP của nhóm các nước OECD 45 2.2 Thuế tài sản ở Liêng bang Hoa kỳ 47 2.3a Thuế tài sản cá nhân ở cộng hòa Pháp 48 2.3b Thuế tài sản thừa kế, cho tặng ở cộng hòa Pháp 49 2.3c Thuế tài sản ở Cộng hòa Pháp 49 2.4 Thuế tài sản ở Thụy Điển 51 2.5 Thuế tài sản ở Đài Loan 52 2.6 Nhận xét về mô hình thuế tài sản ở các nước trên thế giới 53 3.1a Kết cấu nguồn thu từ thuế giai đoạn 2003-2013 59 3.1b Kết cấu nguồn thu so với GDP giai đoạn 2003-2013 59 3.2 Kết cấu nguồn thu NSNN giai đoạn 2003-2013 61 So sánh cán cân NSNN Việt nam và các nước đang phát triển 3.3 (%GDP) 63 3.4 Độ đàn hồi của thuế (tax buoyancy) 64 3.5 Tình trạng nhà ở tính đến ngày 1/4/2009 66 3.6 Tình trạng phương tiện giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2013 66 3.7 Kết cấu nguồn thu liên quan đến TS so với tổng thu ngân sách 68 3.8 Kết cấu nguồn thu liên quan đến TS so với tổng thu thuế 68 3.9 Kết quả điều tra chính sách thuế SDĐNN hiện nay 70 3.10 Kết quả điều tra về chính sách thuế nhà đất 73 3.11 Kết quả điều tra về chính sách lệ phí trước bạ 75 3.12 Kết quả khảo sát các sắc thuế liên quan đến tài sản hiện nay 79 4.1 Các bước thực hiện trong nghiên cứu 84 4.2 Kết quả nghiên cứu đối tượng chịu thuế tài sản 87 4.3 Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản 90 4.4 Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản 93 4.5 Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản 96 4.6 Các bước phân tích nhân tố EFA 102 4.7 Mô tả các biến trong phương trình hồi quy đa biến 104 4.8 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến D09, D06 và D08 106 4.9 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến H12 107 4.10 Độ tin cậy thang đo sau khi loại biến C19 và C23 108 vii
  10. 4.11 Độ tin cậy thang đo “Tính hiệu quả của thuế tài sản” 109 4.12 Kết quả phân tích hồi quy đa biến 110 4.13 Mô hình thuế tài sản trong trường hợp nghiên cứu 1 117 4.14 Doanh thu thuế tài sản dựa trên trường hợp 1 118 4.15 Mô hình thuế tài sản trong trường hợp nghiên cứu 2 124 4.16 Doanh thu thuế tài sản dựa trên trường hợp 2 125 4.17 DWL đối với thuế đăng ký tài sản (thuế trước bạ) 130 4.18 DWL đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp 130 4.19 DWL đối với thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 131 4.20 Độ đàn hồi thuế tài sản (2004-2013) 132 4.21 Diễn giải Mô hình thuế tài sản 133 Hình Tên Hình Trang 1.1 Khung nghiên cứu của luận án 14 2.1 Cung vốn hoàn toàn co dãn 31 2.2 Cung đất đai không co dãn 31 2.3 Mức độ ảnh hưởng tài sản do nhu cầu 33 2.4 Các nhân tố cơ bản của thuế tài sản 35 4.1 Các bước xây dựng mô hình thuế tài sản 82 4.2 Mô hình nghiên cứu thuế tài sản 83 4.3 Các nhân tố ảnh hưởng mô hình thuế tài sản 111 4.4 Đường cong Lorenz 127 4.5 Hệ thống thuế tài sản 133 Hộp Tên hộp Trang Các ý kiến nhận định mô hình thuế tài sản với mục tiêu bền vững, 4.1 khả thỉ và giảm chi phí thực thi chính sách thuế tài sản 115 Các ý kiến nhận định mô hình thuế tài sản với mục tiêu cần thể hiện tính công bằng, đạt hiệu quả kinh tế, thuế tài sản cần có độ 4.2 đàn hồi cao và ổn định 120 Biểu đồ Tên Biểu đồ Trang 2.1 Tỷ lệ thuế tài sản so với GDP của các nhóm nước 46 Tỷ lệ đóng góp từ thuế tài sản cho chi tiêu của chính quyền địa 2.2 phương 47 3.1 Kết cấu nguồn thu từ thuế giai đoạn 2003-2013 58 Cấu trúc nguồn thu thuế của Việt Nam so với một số nền kinh tế 3.2 mới nổi ở Châu Á, giai đoạn 2000-2013. 60 viii
  11. 3.3 Kết cấu nguồn thu NSNN giai đoạn 2003-2013 60 Tỷ lệ thu ngân sách so GDP của một số nền kinh tế mới nổi ở Châu 3.4 Á 62 3.5 Mức độ minh bạch của Ngân sách Việt Nam 63 3.6 Hiện trạng sử dụng đất của cả nước tính đến ngày 1/3/2013 65 3.7 Kết cấu nguồn thu đối với tài sản 67 3.8 Mức phụ thuộc vào thuế tài sản ở một số Quốc gia 2000-2013 69 4.1 Kết quả nghiên cứu đối tượng chịu thuế tài sản 88 4.2 Kết quả nhận định đối tượng chịu thuế tài sản 89 4.3 Kết quả nghiên cứu hình thức đánh thuế tài sản 91 4.4 Kết quả nhận định hình thức đánh thuế tài sản 92 4.5 Kết quả nghiên cứu căn cứ tính thuế tài sản 94 4.6 Kết quả nhận định căn cứ tính thuế tài sản 95 4.7 Kết quả nghiên cứu tính hiệu quả thuế tài sản 97 4.8 Xu hướng kết quả nhận định đối với đối tượng chịu thuế tài sản 112 4.9 Xu hướng kết quả nhận định đối với hình thức đánh thuế tài sản 113 4.10 Xu hướng kết quả nhận định đối với căn cứ tính thuế tài sản 113 Sơ đồ Tên Sơ đồ Trang 2.1 Sơ đồ biểu diễn chu kỳ vận động của thu nhập 27 4.1 Quy trình nghiên cứu 85 Đồ thị Tên đồ thị Trang 3.1 Độ đàn hồi của thuế (2004-2013) 64 4.1 Độ đàn hồi của thuế tài sản (2004-2013) 132 ix
  12. LỜI MỞ ĐẦU Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nghề nông, đến nay đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng được cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH) và chuyển toàn bộ mọi hoạt động của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp sang nền kinh tế có tư duy công nghiệp. Quy mô của nền kinh tế tăng nhanh, thu nhập bình quân đầu người vượt khỏi ngưỡng thu nhập thấp, đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Kinh tế Việt Nam từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đất nước, Việt Nam đặt ra mục tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020. Những năm qua, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng bước đầu đạt được một số kết quả nhất định. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả đã đem lại nhiều nguồn lực bên ngoài cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Đồng thời, làm cho hệ thống chính sách, pháp luật, thể chế và quá trình thực thi có những bước tiến quan trọng và ngày càng hiệu quả. Với những thành quả đạt được đã tạo ra cho Việt nam thế và lực lớn hơn nhiều so với trước, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên. Đây chính là những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh hơn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen lẫn nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây đã bị suy giảm, cho thấy mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam có những điểm không còn phù hợp. Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đọan tới, một trong những yêu cầu được đặt ra là tập trung xây dựng chiến lược quy hoạch, hoàn chỉnh và ban hành đồng bộ hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế - tài chính. Do vậy, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các văn bản pháp luật, các chính sách liên quan đến thương mại, tài chính, khoa học công nghệ và chính sách đào tạo nguồn nhân lực một cách đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế để giúp cho các thành phần kinh tế có thể tham gia phát triển bền vững, đặc biệt là kinh tế công nghiệp phải giữ vài trò chủ đạo. x
  13. Thuế là công cụ tài chính quan trọng của nhà nước nhằm để tạo nguồn thu cho ngân sách, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo công bằng xã hội. Thuế trong nền kinh tế thị trường luôn được các quốc gia quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện. Trong cơ cấu hệ thống thuế hiện nay bao gồm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản thì thuế tài sản ngày càng được quan tâm bởi lẽ loại thuế này có số thu ổn định, bền vững, chiếm tỷ trọng cao trong tổng số thu ngân sách nhà nước, thuế tài sản góp phần điều tiết cung cầu tài sản trên thị trường, tránh các hiện tượng đầu cơ tích trữ và góp phần điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, hạn chế bất bình đẳng về thu nhập và thực hiện công bằng xã hội. Thuế tài sản là một loại thuế ra đời rất sớm trong hệ thống thuế khoá của đại đa số các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển. Việc nghiên cứu và xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt nam hướng theo các yêu cầu đổi mới sau: Thứ nhất, Việt nam đang trong quá trình hội nhập khu vực, hội nhập toàn cầu dẫn đến nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm sút một cách đáng kể, trong khi nhu cầu chi tiêu của ngân sách phục vụ các chức năng, nhiệm vụ kinh tế-xã hội của Nhà nước không ngừng tăng lên. Vì vậy, việc cải cách đối với hệ thống chính sách thuế nội địa nhằm khai thác thêm nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi tiêu không ngừng tăng lên của ngân sách nhà nước là điều cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đọan tới đòi hỏi một hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế - tài chính hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế. Thứ ba, quá trình phát triển kinh tế-xã hội, các hoạt động kinh tế, các quan hệ dân sự, đặc biệt là các quan hệ dân sự về tài sản, nhà, đất diễn ra khá phức tạp, đa dạng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trong phạm vi quốc tế. Vì vậy, cần có một hệ thống thuế tài sản phù hợp hơn để góp phần đắc lực vào yêu cầu quản lý, hòa hợp với cơ chế thị trường và hội nhập Thứ tư, qua thành tựu gần 30 năm đổi mới, mức thu nhập của một số tầng lớp dân cư tăng lên đáng kể, thành phần kinh tế tư nhân đã có những đóng góp tích cực cho nền kinh tế và ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng, mua sắm tài sản đang phát triển với tốc độ nhanh chóng và đi liền theo đó là khoảng cách giàu nghèo cũng ngày một gia tăng. Vì vậy, cần thiết phải xem xét, sửa đổi, bổ sung chính sách thuế đối với tài sản cho phù hợp với tình hình mới. Qua đó, vừa khai thác thêm nguồn thu hợp lý cho NSNN, vừa thực hiện được mục tiêu công bằng xã hội. xi
  14. Nhìn chung, chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam tuy đã phát huy được nhiều điểm tích cực trên các phương diện kinh tế, xã hội. Song trước xu thế hội nhập và những diễn biến phức tạp đa dạng về tài sản, thu nhập của dân cư, hệ thống thuế tài sản hiện hành bộc lộ những nhược điểm cần phải có chính sách thay đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu cải cách quản lý trong lĩnh vực thuế. Qua số liệu thống kê cho thấy, nguồn thu từ các loại thuế liên quan đến tài sản chiếm một tỷ trọng thấp trong tổng nguồn thu NSNN và cũng chưa thực sự giữ một vị trí quan trọng trong ngân sách địa phương như ở các quốc gia trên thế giới. Kết quả nguồn thu liên quan đến tài sản chưa khuyến khích mọi người sử dụng tài sản hợp lý và hiệu quả. Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, việc đối mặt và giải quyết những vấn đề khuyết tật của kinh tế thị trường phải luôn được quan tâm, giải quyết bằng các chính sách kinh tế của nhà nước, trong đó có chính sách thuế. Gần đây, nhà nước đã và đang thực hiện chiến lược cải cách thuế, nhiều sắc thuế được sửa đổi bổ sung như: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế tài nguyên, thuế tài nguyên môi trường và đang nghiên cứu để ban hành nhiều sắc thuế mới như: thuế tài sản, thuế nhà, thuế sử dụng đất Trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam đã có những chuyển biến nhanh và thay đổi tích cực, vấn đề cải cách thuế tài sản nhằm nâng tỷ trọng thu ngân sách từ thuế tài sản, ổn định và phát triển lành mạnh nền kinh tế, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa, hạn chế khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng về tài sản và thu nhập trong xã hội là vấn đề trở nên cấp thiết. Vì vậy, tác giả chọn đề tài luận án “XÂY DỰNG MÔ HÌNH THUẾ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM” để nghiên cứu với mục đích tìm ra một mô hình thuế tài sản ở Việt Nam mới hơn, phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế, những thay đổi tích cực nhiều mặt của xã hội và bên cạnh vấn đề hội nhập quốc tế ngày một sâu rông hơn. Mô hình thuế tài sản ở Việt Nam được xây dựng trên một giác độ toàn diện và định hướng lâu dài. Tác giả với mong muốn được đóng góp một số khuyến nghị trong công cuộc cải cách chính sách thuế trong giai đoạn tới phù hợp với tinh thần và chủ trương của Chính phủ Việt Nam. xii
  15. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia nằm trong nhóm các nước đang phát triển và phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Bên cạnh đó, Việt Nam hiện đang trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, để quá trình hội nhập được thuận lợi hơn và tạo các tiền đề vững chắc cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chính phủ Việt Nam gần đây đã thực hiện một loạt cải cách về kinh tế, chính sách thuế, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý tài chính. Kết quả là Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng kinh tế đáng kể trong hai thập kỷ qua và hầu hết các chỉ số kinh tế đều cho thấy xu hướng tăng trưởng nhanh. Tình hình thu chi ngân sách cũng đáng khích lệ, mức tăng thu ngân sách đạt được khá ấn tượng. Tuy nhiên, do cần đầu tư nhiều cho hạ tầng cơ sở nên Việt Nam vẫn còn tỷ lệ nợ công tương đối cao. Việt Nam cũng đang từng bước tiến hành cải cách pháp luật về thuế và hiện đại hóa quản lý thuế. Trong hai thập kỷ qua, hệ thống thuế trải qua ba giai đoạn cải cách và giai đoạn cải cách lần thứ ba hiện nay đang được thúc đẩy do Việt nam gia tăng hội nhập vào nền kinh tế thế giới với nỗ lực gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Hệ thống thuế hiện hành ở Việt nam được định hướng theo khuôn khổ của một “hệ thống thuế tốt”, nghĩa là công bằng, hiệu quả kinh tế, ổn định và hiệu quả về mặt kỹ thuật. Từ những yêu cầu thực tiễn của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đọan tới, một trong những yêu cầu được đặt ra là tập trung xây dựng chiến lược quy hoạch, hoàn chỉnh và ban hành đồng bộ hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế - tài chính. Vì lẽ trên, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chính sách liên quan đến thương mại, tài chính, trong đó có chính sách thuế một cách đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế để giúp cho các thành phần kinh tế có thể tham gia phát triển bền vững, đặc biệt là kinh tế công nghiệp phải giữ vài trò chủ đạo là điều tất yếu cần phải làm của các nhà hoạch định chính sách. Các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách như Đỗ Đức Định [10], Ngô Đăng Thành và cộng sự [22], Chenery và Robinson [44] khi xây dựng bộ tiêu chí về một nước công nghiệp cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đều đề cập đến yếu tố “phát triển bền vững”, yếu tố này bao gồm các tiêu chí như: công bằng xã hội, tỷ lệ nghèo đói, tỷ lệ thất nghiệp, giáo dục và đào tạo, chỉ số phát triển con người, môi trường tự nhiên. Qua đó chỉ ra rằng, chính sách thuế là một công cụ góp phần hoàn thiện tiêu chí bền vững cho tiến trình công nghiệp hóa của đất nước. Trong đó, thuế tài sản là một phần quan trọng thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và giải quyết bất bình 1
  16. đẳng trong xã hội, góp phần tạo nên một hệ thống thuế hoàn thiện bao gồm thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam tham gia AFTA và thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo CEPT, giai đoạn 1996- 2013 cắt giảm thuế suất đối với 6.000 mặt hàng (97,6% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu). Việt Nam gia nhập WTO và đang trong tiến trình cắt giảm 10.600 dòng thuế suất. Trong năm 2015, Việt Nam sẽ ký kết 8 Hiệp đinh thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Với nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được xóa bỏ vào khoảng cuối năm 2020. Thực hiện cam kết ATIGA, Việt Nam đã cắt giảm 6.859 dòng thuế (72% tổng biểu thuế xuất nhập khẩu) xuống thuế suất 0% tính đến thời điểm 2014. Dự kiến năm 2015, sẽ có thêm 1.720 dòng thuế được cắt giảm xuống thuế suất 0%. Số còn lại gồm 687 dòng thuế (chiếm 7% biểu thuế), chủ yếu là những mặt hàng nhạy cảm trong thương mại giữa Việt Nam và khu vực ASEAN sẽ xuống 0% vào năm 2018. Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định tự do thương mại Việt Nam-EU hiện vẫn trong tiến trình đàm phán và ký kết trong năm 2015. Trong giai đoạn 2015-2020, các hiệp định như ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Hàn Quốc có mức độ giảm sâu nhất và đạt đến mức cam kết cuối cùng. Các hiệp định khác như ASEAN-Australia-New Zealand, ASEAN- Nhật Bản, ASEAN-Ấn Độ, Việt Nam-Nhật Bản và Việt Nam-Chi Lê sẽ có mức độ, lộ trình giảm thuế dài hơn. Việc tham gia mạnh mẽ của Việt Nam trên các sân chơi quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế quan theo các hiệp định tự do thương mại FTA đã, đang và sẽ tác động tới hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, cơ hội và thách thức đan xen lẫn nhau. Về thu ngân sách Nhà nước, nếu không vươn lên sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế và do đó sẽ tác động tới thu ngân sách Nhà nước. Vì lẽ trên, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống thuế sẽ góp phần tích cực tăng thu NSNN, ổn định kinh tế vĩ mô, bù đắp phần thiếu hụt do thực hiện các cam kết FTA về lộ trình cắt giảm thuế suất, trong đó thuế tài sản là một mục tiêu cần thiết để nghiên cứu. Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt tại Quyết định 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 tập trung vào các mục tiêu tổng quát bao gồm: Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước. Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; công tác quản lý 2
  17. thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hoá cao. Chiến lược cải cách thuế của Chính phủ Việt Nam cũng cụ thể hoá một số mục tiêu, yêu cầu cụ thể cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 như: Về cải cách hành chính thuế, xây dựng và thực hiện chính sách huy động từ thuế, phí và lệ phí hợp lý nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước, khuyến khích đầu tư; Hệ thống chính sách thuế, phí và lệ phí được sửa đổi bổ sung phù hợp với định hướng phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; Hệ thống chính sách thuế được xây dựng, hoàn thiện bảo đảm minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện; mở rộng cơ sở thuế để phát triển nguồn thu mới phát sinh và cơ cấu lại theo hướng tăng nguồn thu nội địa đến năm 2015 đạt trên 70% tổng thu NSNN và đến năm 2020 đạt trên 80% tổng thu ngân sách nhà nước. Một số chỉ tiêu cụ thể được đưa vào chiến lược, cụ thể: Giai đoạn 2011-2015: Giảm thời gian thực hiên thủ tục hành chính thuế để phấn đấu đến năm 2015 là một trong năm nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á được xếp hạng cho mức độ thuận lợi về thuế; Đến năm 2015 tối thiểu có 60% doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ thuế điện tử; 50% doanh nghiệp đăng ký thuế, khai thuế qua mạng internet; 70% số người nộp thuế hài lòng với các dịch vụ mà cơ quan thuế cung cấp; Tỷ lệ tờ khai thuế đã nộp trên tổng số tờ khai thuế phải nộp tối thiểu là 90%; tỷ lệ tờ khai thuế đúng hạn đạt tối thiểu là 85%; tỷ lệ tờ khkai thuế được kiểm tra tự động qua phần mềm ứn dụng của cơ quan thuế đạt tối thiểu là 95%. Giai đoạn 2016-2020: Thời gian thực hiện thủ tục hành chính thuế đến năm 2020 là một trong bốn nước đứng đầu khu vực Đông Nam Á được xếp hạng có mức độ thuận lợi về thuế; Đến năm 2020 tối thiểu có 90% doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ thuế điện tử, 65% doanh nghiệp đăng ký thuế, khai thuế qua mạng internet; 80% số người nộp thuế hài lòng với các dịch vụ mà cơ quan thuế cung cấp; Tỷ lệ tờ khai thuế đã nộp trên tổng số tờ khai thuế phải nộp tối thiểu là 95%; tỷ lệ tờ khai thuế đúng hạn đạt tối thiểu là 95%; tỷ lệ tờ khai thuế được kiểm tra tự động qua phần mềm ứng dụng của cơ quan thuế là 100%. Tỷ lệ huy động thu NSNN giai đoạn 2011-2015 khoảng 23-24% GDP, trong đó tỷ lệ động viên từ thuế, phí và lệ phí bình quân hàng năm từ 16%-18%/năm. Giai đoạn 2016-2020: Tỷ lệ huy động thu NSNN và tỷ lệ động viên từ thuế, phí và lệ phí trên 3
  18. GDP ở mức hợp lý theo hướng giảm mức động viên về thuế trên một đơn vị hàng hoá, dịch vụ để khuyến khích cạnh tranh, tích tụ vốn cho sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những thành quả đạt được qua các kỳ cải cách thuế, hệ thống thuế Việt Nam vẫn còn bộc lộ những khuyết điểm theo đánh giá vào năm 2011 của tổ chức Ngân hàng thế giới và đưa ra các khuyến nghị [13,22]: - Về mặt hiệu quả kinh tế: Hiện còn tồn tại một số điểm không trung lập trong chính sách thuế và thực thi như thiếu sự hài hòa giữa các loại thuế, nhiều thuế suất, nhiều trường hợp không chịu thuế và chính sách ưu đãi thuế đã tạo ra hiệu quả kinh tế thấp trong phân bổ nguồn lực do các đối tượng nộp thuế đưa ra quyết định kinh doanh với mục tiêu giảm thiểu gánh nặng thuế chứ không phải với mục tiêu tối đa hóa năng lực sản xuất và sản lượng. - Tính công bằng: Tính công bằng chiều ngang (horizontal equity) bị vi phạm theo nhiều cách. Nhiều loại miễn giảm khác nhau cũng dẫn đến vi phạm tính công bằng theo chiều dọc (vertical equity). - Tính minh bạch: Minh bạch được đảm bảo trước hết với điều kiện luật thuế phải không được quá phức tạp và không phân biệt đối xử, còn các quy chế và đòi hỏi về quản lý thì phải dễ tiếp cận và dễ tuân thủ. Với ý nghĩa đó, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ về minh bạch tuy vẫn còn nhiều việc cần cải thiện. - Tính phù hợp và ổn định của nguồn thu: Tuy không có đủ thông tin để xác định độ co giãn thuế (tax elasticity) nhưng độ đàn hồi thuế (tax buoyancy) thất thường cho thấy cần phải cải tiến một số lĩnh vực trong hệ thống thuế. Cơ sở thuế hạn hẹp nên cần phải đa dạng hóa và mở rộng. Cần theo dõi chặt chẽ các khu vực đang tăng trưởng trong nền kinh tế để mở rộng cơ sở thuế vào thời điểm thích hợp. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy một hệ thống thuế đơn giản và có cơ sở thuế rộng sẽ co giãn và đàn hồi cao hơn. Do vậy, cần rà soát các luật thuế để đơn giản và hợp lý hóa chúng. Cuối cùng, sẽ rất hữu ích nếu như ước tính phạm vi chi tiêu thuế (tax expenditures) và xem xét tính hợp lý của chúng. Bên cạnh đó, cũng theo nhận xét của tổ chức Ngân hàng thế giới rằng: Việt Nam hiện tại không có thuế tài sản. Tuy nhiên, thực tế thì Việt nam có một số chính sách thuế liên quan đến tài sản. Việc kêu gọi giới thiệu loại thuế này gần đây trở nên phổ biến hơn, những người có ý kiến đối lập cho rằng loại thuế như vậy sẽ vừa có hiệu quả và hợp lý [13]. Qua đó cho thấy rằng ở Việt Nam, thuế liên quan đến tài sản đã được áp dụng từ khá lâu. Tuy nhiên, Luật thuế của Việt Nam lại không gọi là thuế tài sản. Chính vì vậy vẫn còn rất nhiều người xem đó là một loại thuế mới và chưa hiểu đó là loại thuế gì, đối tượng chịu thuế ra sao và khái niệm thuế tài sản cũng chỉ được 4
  19. hiểu một cách chung chung. Hiện tại, ở Việt Nam đang có một số thuế, phí, lệ phí liên quan đến tài sản như: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, tiền thuê đất và tiền bán nhà thuộc sở hữu nhà nước. Trên thế giới, thuế liên quan đến tài sản thường có phạm vi rộng hơn, chẳng hạn như: nhà, đất, tàu thuyền, ôtô, máy bay, thuyền du lịch, chứng khoán và các động sản tài chính khác. Tuy nhiên, mỗi nước lại có một cách xác định đối tượng chịu thuế khác nhau và tùy thuộc vào điều kiện của từng nước mà người ta áp dụng ít hay nhiều, sớm hay muộn. Tại các nước phát triển, thuế tài sản là nguồn thu chính chiếm 40 - 50% tổng số thu thuế tại các đô thị như Mexico, Brazil, India, Indonesia và nó thường chiếm từ 15% - 40% trong thu ngân sách địa phương. Tuy nhiên, ở Việt Nam, loại thuế này mới chỉ chiếm khoảng nhỏ hơn 1% trên tổng thu ngân sách và chủ yếu thu từ đất đai. Có thể nói rằng cải cách thuế tài sản là hết sức cần thiết trong hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay, đáp ứng nhu cầu cấp thiết cho Ngân sách Nhà Nước, phù hợp với tinh thần chủ trương của Đảng và Nhà Nước thông qua Quyết định 732/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày 17/5/2011. Vì lẽ trên, việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam hiện nay là cần thiết bởi những lý do: Việt Nam đang trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực, cần có một hệ thống thuế phù hợp thông lệ quốc tế. Quá trình hội nhập và các cam kết đối với WTO, AFTA, ASEAN, TPP dẫn đến giảm dần nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt nam ổn định và thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng tốt, tích lũy tài sản dần dần được nâng lên. Mục tiêu cải cách thuế của chính phủ tiến tới một hệ thống thuế bền vững và hiệu quả nhằm cải thiện tình trạng thâm hụt kéo dài của cán cân ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, trước tình trạng thị trường bất động sản ở Việt Nam rất bất ổn mà nguyên nhân chủ yếu là do việc đầu cơ bất động sản. Vì vậy, chống đầu cơ nhà đất là một trong những mục tiêu quan trọng của dự thảo luật trong cách tính thuế tài sản. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển điều này đồng nghĩa tài sản có sự tập trung quá mức vào một nhóm người giàu có, dẫn đến khoảng cách chênh lệch giàu nghèo khá lớn. Vì vậy, để góp phần thực hiện công bằng xã hội tránh sự phân hóa giàu nghèo một cách đáng kể thì những người có thu nhập và tài sản nhiều phải có một nghĩa vụ chia sẽ trách nhiệm đối với xã hội. Thuế tài sản giúp hạn chế việc sử dụng tài sản lãng phí, để góp phần thúc đẩy cho các thành phần kinh tế phát huy hiệu quả sử dụng tài sản và cuối cùng là đem lại nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà Nước trong bối cảnh thâm hụt Ngân sách kéo dài hiện nay. Thuế tài sản là nền tảng vững chắc cho 5
  20. ngân sách địa phương từ các nguồn thu thuế bất động sản để phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công, đặc biệt đối với các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh chuẩn bị thí điểm cho mô hình chính quyền đô thị. Thuế tài sản phần nào sẽ góp phần bảo vệ môi trường và quy hoạch giao thông trước tình trạng nan giải do số lượng phương tiện giao thông tăng quá mức so với dự báo hiện nay. 1.2 Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án 1.2.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới Quan điểm truyền thống về thuế tài sản bắt nguồn từ Simon [67] và Netzer [61]. Quan điểm truyền thống ủng hộ cách tiếp cận cân bằng từng phần, theo đó thuế tài sản được xem là khoản thanh toán riêng biệt đối với vốn và đất. Những người đầu tiên đưa ra quan điểm mới về thuế tài sản là Thomson [69], Mieszkowski [56]. Sau đó, quan điểm mới được Mieszkowski và cộng sự [57] xây dựng lại. Quan điểm này phân tích trạng thái cân bằng chung của phạm vi pháp lý ở một quốc gia và cho rằng cả tiền vốn của quốc gia đó cũng như đất đai nằm trong mọi phạm vi thẩm quyền đều là tài sản cố định. Quan điểm lợi ích mở rộng phân tích của quan điểm mới, bổ sung những lợi ích mà chủ sở hữu tài sản thu được từ thuế tài sản. Theo Hamilton và cộng sự [48], nếu việc cung cấp các dịch vụ công cộng được xem là chính sách tốt thì quan điểm mới cho rằng chính quyền nên cung cấp các dịch vụ ưu đãi nhằm tận dụng đất đai ở khu vực có nhu cầu cao sao cho lợi ích của các dịch vụ công cộng cao hơn những thiệt hại mà thuế tài sản gây ra. Quan điểm lợi ích cho rằng các phạm vi thẩm quyền sẽ tham gia vào quá trình phân vùng tài chính theo đó giá trị của các công trình nhà cửa cho phép trong phạm vi thẩm quyền sẽ bị giới hạn bằng giá trị tối thiểu nào đó, điển hình là việc sử dụng quyền phân vùng của phạm vi thẩm quyền hoặc thông qua một số quyền lực khác nhằm kiểm soát việc sử dụng đất đai và các khoản ưu đãi [45]. Những phân tích và nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến giá trị pháp lý của các quan điểm truyền thống, quan điểm mới và quan điểm lợi ích đều không đi đến kết luận cuối cùng. Netzer (1973), người đề xướng quan điểm truyền thống, cho rằng việc thiếu tính đồng nhất khi tính thuế tài sản, khiến cho việc áp dụng một phần thuế vốn (như thuế tài sản chỉ áp dụng trong một phạm vi thẩm quyền) thậm chí không còn ý nghĩa, xét về một loại thuế làm giảm mức thu nhập bình quân từ toàn bộ vốn như đề xuất theo quan điểm truyền thống [62]. Nhiều loại nghiên cứu thực nghiệm khác nhau không thành công khi chỉ ra quan điểm mới hay quan điểm lợi ích diễn giải thuế tài sản đúng đắn hơn. Theo tổng hợp của Mieskowski và cộng sự [58], đa số các nghiên cứu thực nghiệm đều tập trung 6
  21. vào quy mô vốn hóa thuế tài sản và phí chính quyền địa phương thành giá trị tài sản. Các nghiên cứu của Edel và cộng sự, Hamilton, Oates [46], [49], [50], [63] cũng như nhiều nghiên cứu khác chi ra rằng thuế tài sản và phí chính quyền địa phương đều được vốn hóa thành giá trị tài sản. Tuy nhiên, những nghiên cứu này không xác nhận quan điểm lợi ích vì quan điểm mới cũng ám chỉ sự vốn hóa này. Đáp lại đề xuất của Mieszkowski và cộng sự, Carroll và Wassmer [70] đã tiến hành nghiên cứu xem xét những biến động của giá trị thuế tài sản cũng như các khoản chênh lệch giá thuê tài sản trong nội thành. Nghiên cứu của Harvey S.Rosen [29] cho rằng một trong những nguồn tài trợ chủ yếu cho chính quyền địa phương tại Mỹ chính là thuế tài sản, loại thuế đánh vào giá trị của bất động sản, bao gồm cả giá trị của đất và các công trình xây dựng trên đất. Ước tính thuế tài sản chiếm trên 50% tổng thu từ thuế của chính quyền địa phương [29]. Thuế tài sản được đánh với thuế suất xác định theo từng địa phương trên các tài sản thường trú hay tài sản được mua bán, giá trị được xác định thường theo quyền hạn của chính quyền thành phố. Trong đa phần các trường hợp, chính quyền địa phương cố gắng đưa giá trị pháp lý tài sản tiệm cận với giá thị trường của tài sản, nhưng điều khó khăn xảy ra khi không có tài sản tương tự được mua bán trong cùng thời điểm. Harvey S.Rosen, đưa ra các quan điểm [29]: (1) Ai phải gánh chịu thuế tài sản Ở Mỹ, thuế tài sản là nguồn gốc của nhiều tranh luận ở cấp bang cũng như cấp địa phương. Một số chính quyền bang đặt ra giới hạn với chính quyền địa phương trong việc tăng thuế tài sản. Tranh luận này phản ánh quan điểm cho rằng thuế tài sản đặt gánh nặng đáng kể lên thu nhập trung bình của người sở hữu tài sản. Phạm vi tác động của thuế tài sản là nguồn gốc của những tranh luận dai dẳng giữa những nhà kinh tế chuyên tài chính công bởi hai lý do. Thứ nhất, thuế tài sản là nguồn thu sử dụng để tài trợ cho chi tiêu của chính quyền địa phương, chi tiêu này mang lại giá trị đối với người chủ sở hữu tài sản. Do vậy, thuế tài sản trên góc độ nào đó chính là phí sử dụng theo mô hình Tiebout [29,tr.184-186], thuế tài sản là giá mà mỗi địa phương đưa ra để tài trợ cho việc cung cấp hàng hóa công ở mức tối ưu. Nếu địa phương đang ở điểm cân bằng Tiebout hoàn hảo thì tại đó tất cả dân cư đều định giá của hàng hóa công chính là số thuế mà họ phải nộp. Vì vậy, sẽ không có gánh nặng đối với thuế tài sản, đơn giản chỉ là giá cả mà dân cư tự nguyện trả cho hàng hóa công. Nhưng những hộ gia đình không đánh giá giá trị của hàng hóa công bằng tổng số thuế mà họ phải trả có thể phải gánh chịu gánh nặng thuế tài sản. Lý do thứ hai cho những tranh luận về thuế tài sản chính là thuế này đánh trên đất và tất cả tài sản trên đất. Sự phân biệt như 7
  22. vậy là quan trọng bởi vì mặc dù cung về đất đai là hoàn toàn không co dãn nhưng các tài sản trên đất là một hình thức đầu tư dài hạn sẽ đặt gánh nặng trên một số người như nhân công xây dựng các công trình trên đất hay nhà đầu tư trong khu vực xây dựng. Thực tế, nhiều quan điểm phân tích cho rằng thuế tài sản nhìn chung cũng là thuế vốn và gánh nặng của thuế này sẽ chia sẻ cho tất cả những người sở hữu vốn. Như vậy, kết luận cuối cùng về phạm vi tác động của thuế tài sản là không rõ ràng. Nhưng tối thiểu thì gánh nặng thuế cũng đặt lên hai nhóm có thu nhập cao: người sở hữu đất đai và người sỡ hữu vốn. Kết quả này hàm ý rằng thuế tài sản cần phải lũy tiến hơn là mức mà người chi trả các khoản thuế cảm nhận được. (2) Các loại thuế tài sản Thuế tài sản không nhất thiết phải bằng nhau đối với tất cả các loại tài sản mà cần có sự phân biệt. Nhà ở và tài sản kinh doanh: Sự phân biệt thứ nhất khi thiết kế thuế tài sản là phân biệt giữa nhà đất để ở và tài sản để kinh doanh. Một số ý kiến cho rằng, để khuyến khích phát triển kinh tế thì thuế đánh vào tài sản dùng để kinh doanh cần thấp hơn thuế đánh vào nhà ở. Nhưng điều này không chắc sẽ mang lại lợi ích cho những người kinh doanh nhà đủ bằng số thuế mà chính quyền địa phương sẽ mất đi. Đất và tài sản trên đất: Sự phân biệt thứ hai phải được đặt ra khi xây dựng chính sách thuế tài sản là sự phân biệt giữa đánh thuế đất và đánh thuế đối với tài sản trên đất như: nhà ở, tòa nhà văn phòng hay trung tâm mua sắm việc phân biệt này được Hanry Geogre – một nhà tư tưởng của thế kỷ XIX, cho rằng thu nhập nhận được từ lao động và vốn phản ánh năng suất hoạt động của các yếu tố này, nhưng thu nhập nhận được từ sở hữu đất đai thi không – nhấn mạnh. Người sở hữu đất đai phải chịu thuế một mình bởi vì chính họ sở hữu đất chứ không phải bởi vì các nỗ lực đưa đất đai vào sản xuất. Do vậy, Geogre đưa ra một kiến nghị mang tính căn bản rằng giảm thiểu thuế đánh vào lao động và vốn, thay vào đó đánh thuế vào các tài sản trên đất. Suy luận của Geogre được Mark Lubold – một ủy viên hội đồng thành phố Holyoke, bang Massachussetts – thể hiện [29]. Các thành phố công nghiệp trước đây phải gánh chịu một cơ sở đánh thuế đang thu hẹp lại bởi vì có qúa nhiều cao ốc không sử dụng hoặc đang còn trống. Lubold lưu ý rằng hệ thống thuế tài sản hiện hành “đang xử phạt những người đang duy trì hoặc nâng cấp tài sản của mình bằng việc phải chịu thuế cao hơn trong khi đó những người bỏ phí tài sản lại là những người có lợi với việc phải chịu thuế thấp hơn”. Lubold đã thiết lập hệ thống thuế tài sản cho thành phố Holyoke theo quan điểm của Geogre bằng việc giảm thuế cho các cao ốc nhưng lại tăng thuế đất. Lubold cho rằng hệ thống này “sẽ khuyến khích các ông chủ của những 8
  23. cao ốc còn trống cải tạo, tìm người cho thuê và thực hiện kinh doanh bởi vì thuế đất cao hơn hoặc bán những cao ốc hay tài sản này cho người khác”. Lobold nghiên cứu 700 thành phố trên toàn cầu đã áp dụng thuế đánh trên giá trị của đất bao gồm cả Sydney – Australia, Cape Town – Nam Phi. Tại Harrisburg, Pennsylvania, số cao ốc giảm còn trống từ 4000 xuống còn 500 sau khi áp dụng thuế đánh trên giá trị đất đai. Ngoài ra, công trình nghiên cứa gần đây của Jay K. Rosengard [66], Cải cách thuế tài sản ở các nước đang phát triển. Với những đóng góp rất có giá trị khoa học cho các nước đang phát triển và trong đó có Việt Nam. Jay K.Rosengard cho rằng, mô hình thuế tài sản tại các nước đang phát triển cần phải bảo đảm việc tạo ra đủ nguồn lực dài hạn cho chính phủ địa phương tùy nghi sử dụng. Yêu cầu này tạo nhiều nguồn thu hơn cho chính quyền địa phương và tăng cường khả năng phát triển trong tương lai của thuế tài sản bằng cách cải thiện tính hiệu quả về mặt chi phí quản lý, tính trung lập kinh tế, và sự công bằng trong thực hiện chính sách. Theo đó, các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng mô hình thuế tài sản tại các nước đang phát triển đó là hiệu quả phân bổ và quản lý, công bằng theo chiều dọc và chiều ngang, tính bền vững của hệ thống. Điều này sẽ bảo đảm tạo ra được nguồn thu một cách bền vững về mặt tài chính, không làm méo mó kinh tế, công bằng chính trị- xã hội và bền vững theo thời gian. Mô hình thuế tài sản tại các nước đang phát triển phải đảm bảo giảm thiểu các chi phí và tối đa hóa độ bền của chính sách thuế bằng cách: tăng phạm vi thu thuế với việc xây dựng và duy trì cơ sở thuế (tax base) rộng, chú trọng tính đơn giản thông qua việc thúc đẩy sự minh bạch trong chính sách và rõ ràng về hành chính cũng như việc duy trì độ đàn hồi ổn định của thuế tài sản. Nghiên cứu của Jay K. Rosengard [66], khuyến nghị các nước đang phát triển về các nguyên tắc xây dựng mô hình thuế tài sản là những nguyên tắc tạo nguồn thu cho ngân sách địa phương một cách hiệu quả, công bằng và bền vững có thể đạt được bằng cách mở rộng phạm vi thu thuế, đơn giản hóa và tối đa độ nổi của thuế tài sản. - Hiệu quả phân bổ và quản lý là điều quan trọng để duy trì mối quan hệ hợp lý giữa nguồn thu tạo ra được với chi phí kinh tế và tài chính để huy động được số thu đó. - Công bằng theo chiều dọc và chiều ngang là điều tối quan trọng nếu muốn giải quyết yếu tố kinh tế và chính trị của thuế tài sản. Công bằng theo chiều dọc và chiều ngang thể hiện ở chỗ các tài sản tương tự cần có nghĩa vụ thuế được xác định và thanh toán tương tự nhau, trong khi đó sự khác biệt tương đối về giá trị tài sản cần phải được phản ánh trong các mức khác biệt tương đối có thể so sánh được trong giá trị tài sản chịu thuế và phần nộp thuế. Sự công bằng cũng đòi hỏi phải áp dụng một cách rõ 9
  24. ràng, nhất quán và khách quan các chính sách và thủ tục được hiểu và chấp nhận rộng rãi. Để thể hiện tính công bằng, cần đánh thuế theo các quy tắc chung và khách quan được thừa nhận là hợp lý và thõa đáng. Tổng số tiền thuế phải nộp cần chắc chắn và không nên được xác định thông qua thương lượng hoặc yêu sách một cách tùy tiện. - Tính bền vững của hệ thống là điều cần thiết vì chi tiêu thường xuyên của chính quyền địa phương thường lấy từ nguồn thu thuế tài sản, chính quyền địa phương cần một nguồn thu thuế ổn định nhằm phát triển và duy trì mức độ cung cấp dịch vụ và cơ sở hạ tầng tại địa phương như mong muốn. Để bảo đảm tính bền vững thì hệ thống thuế tài sản phải cân bằng giữa tính năng động và uyển chuyển với tính ổn định và nhất quán để cho nó vừa có khả năng thay đổi thích nghi với tình hình, đồng thời có thể dự báo trước trong quá trình áp dụng. - Phạm vi thu thuế rộng là điều thiết yếu nếu muốn thuế tài sản phát huy hiệu quả, công bằng và bền vững. Phạm vi thu thuế được xem là quan trọng bởi vì những trường hợp bất công nhất và thất thu thuế nhiều nhất là do cơ sở thuế hẹp, bất kể “hẹp” là do luật định hoặc do cách quản lý trong thực tế. Danh mục tài sản chịu thuế thường chỉ bao gồm một tỷ lệ nhỏ tài sản chịu thuế. Do vậy, khi nhu cầu tiền thuế tăng mà lại không mở rộng được danh mục tài sản chịu thuế thì xuất hiện cái vòng tròn lẩn quẩn từ định giá tài sản chịu thuế cao hơn, giảm mức độ tuân thủ nộp thuế, cơ sở thuế hiệu dụng nhỏ hơn, số thu thuế thấp hơn và lại tiếp tục định giá tài sản chịu thuế cao hơn. - Tính đơn giản phải được thể hiện trong mô hình thuế tài sản, làm gia tăng tính hiệu quả về mặt chi phí và sự công bằng khi thực thi chính sách thuế. Các thủ tục thuế tài sản đơn giản sẽ được cán bộ thuế và người nộp thuế nhanh chóng nắm bắt, do vậy việc quản lý sẽ tương đối dễ dàng và ít tốn kém. - Độ nổi của thuế - tức số thu thuế tài sản tăng tương ứng với sự gia tăng giá trị thực của tài sản tăng cũng như những thay đổi chủ quan của chính sách thuế – có vai trò quan trọng để duy trì và nâng cao giá trị thực của số thu thuế tài sản theo thời gian. 1.2.2 Các công trình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam, trong thời gian qua đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về thuế tài sản. Nổi bật là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ tài chính với đề tài “Mô hình thuế tài sản ở Việt Nam” năm 1995 do Trần Xuân Thắng làm chủ biên, đề tài “Nghiên cứu thuế tài sản áp dụng tại Việt nam trong những năm tới” năm 2002 do PGS.TS Quách Đức Pháp làm chủ biên và Luận án “Hoàn thiện chính sách thuế đánh vào tài sản ở Việt nam” năm 2008 của TS. Nguyễn Đình Chiến – Học Viện Tài Chính. Những đề tài trên đã nghiên cứu những nội dung chủ yếu về thuế tài sản, thực 10
  25. trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam và đề ra các phương hướng xây dựng chính sách thuế tài sản ở Việc Nam, đây là những công trình nghiên cứu rất có giá trị về mặt khoa học, đóng góp cho những nhà nghiên cứu cải cách chính sách thuế ở Việt Nam. Tuy nhiên, các đề tài trên chủ yếu trình bày thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam và đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách thuế đánh vào tài sản với những căn cứ của nền kinh tế-xã hội Việt Nam tại thời điểm đó, cụ thể hơn là mức thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tích lũy tài sản chưa cao như hiện nay, nguồn thu từ thuế nhập khẩu thời điểm trước đây ở mức rất cao. Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đưa ra các vấn đề chính sách thuế tài sản hay liên quan đến tài sản mà chưa chỉ ra mô hình thuế tài sản tối ưu nào cho Việt Nam, cũng như chưa có một nghiên cứu định lượng nào cho việc kiểm định mô hình và các giả thuyết đặt ra đối với thuế tài sản. Những nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào lý luận và so sánh thực tiễn, từ đó khuyến nghị vận dụng chính sách thuế tài sản. Dưới sự tài trợ kỹ thuật của Cộng đồng Châu Âu cho dự án ETV2 do Bộ tài Chính chủ trì về thuế tài sản ở Việt Nam, đã có những nghiên cứu, đóng góp ý kiến thông qua các hội thảo như: Cách đánh thuế tài sản ở Việt Nam, tài liệu Hội thảo ngày 22 và 23/8/2008 tại Hải Phòng; Cải cách thuế của Việt Nam, tài liệu Hội thảo ngày 26 và 27/2/2009 tại TP. Hồ Chí Minh; Thuế Tài Sản ở Việt Nam nên xây dựng theo hướng nào, tài liệu Hội thảo ngày 31/05/2009; Đánh thuế tài sản để bình ổn thị trường bất động sản, tài liệu Hội thảo ngày 2/11/2010. Mục đích của các hội thảo trên nhằm thu thập thông tin phục vụ cho quá trình nghiên cứu, xây dựng chính sách thuế tài sản ở Việt Nam, hội thảo là một cơ hội thuận lợi để các nhà nghiên cứu và giới chuyên môn thảo luận, đề xuất kiến nghị cho việc xây dựng chính sách thuế tài sản đáp ứng yêu cầu thực tiễn, yêu cầu hội nhập trong những năm tới và phù hợp với thông lệ quốc tế. Các đại biểu đến từ Văn phòng Chính Phủ, Ban Kinh tế Trung ương, Cục thuế các tỉnh thành, các Bộ ngành và các chuyên gia trong và ngoài nước đã tập trung thảo luận về các vấn đề: - Chính sách thu liên quan đến tài sản ở Việt Nam - Chính sách thu tài tài chính hiện hành đối với tài sản và khả năng điều chỉnh của Luật Thuế tài sản. - Hướng tới hệ thống thuế tài sản hiện đại và toàn diện tại Việt Nam - Mô hình đánh thuế tài sản ở Việt Nam Theo quan điểm của TS. Nguyễn Đình Chiến - giảng viên Khoa Thuế và Hải quan - Học viện Tài chính đã đưa ra ba mô hình chủ yếu khi thiết kế, xây dựng thuế tài sản trong thời điểm hiện tại: Mô hình thứ nhất, chỉ xây dựng một sắc thuế đánh 11
  26. hàng năm vào giá trị (hoặc giá trị ròng) của toàn bộ các tài sản chịu thuế, còn gọi là thuế của cải, thuế tài sản. Mô hình thứ hai là xây dựng các sắc thuế khác nhau đánh hàng năm vào giá trị của các tài sản chịu thuế khác nhau với tên gọi gắn với các tài sản chịu thuế như: thuế đất, thuế nhà. Mô hình thứ ba, thuế tài sản được thiết kế theo hình thức kết hợp hai mô hình trên, ngoài thuế tài sản đánh vào giá trị của các tài sản chịu thuế còn có các sắc thuế khác điều chỉnh đối với các tài sản đặc biệt như: đất, tài sản thừa kế, biếu tặng. Đứng trên góc độ một chuyên gia về bất động sản, GS.TSKH Đặng Hùng Võ - Nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên môi trường khẳng định: cần xây dựng thuế tài sản tập trung chủ yếu vào bất động sản để điều chỉnh tình trạng đầu cơ khiến nhà đất tăng cao. Tuy nhiên, đánh thuế tài sản vào tài sản của đối tượng nào và có đánh thuế vào tài sản của pháp nhân không cũng là vấn đề đáng quan tâm. Theo TS. Quách Đức Pháp - Viện trưởng Viện Khoa học Tài chính, chỉ đánh thuế tài sản vào tài sản của các cá nhân, không đánh thuế tài sản vào tài sản của tổ chức vì mục đích của thuế tài sản là loại thuế đánh vào thu nhập. Với tư cách là chuyên gia dự án ETV2 về Thuế Tài sản, TS. Phan Hồng Phúc phân tích: Việc xây dựng Luật Thuế tài sản thể hiện bước cải cách đáng kể thực trạng chính sách thu tài chính liên quan đến tài sản. Tuy nhiên, khi nghiên cứu soạn thảo cần lưu ý theo hướng loại bỏ thuế chuyển quyền sử dụng đất (vì đã đưa vào thuế thu nhập), thuế tài nguyên (chỉ thu đối với tài nguyên khai thác, đất để khai thác tài nguyên đó được xếp vào đất sử dụng cho mục đích phi nông nghiệp) và lệ phí địa chính (là khoản lệ phí thuần tuý). Các loại thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, lệ phí trước bạ là các loại thu tài chính cần nghiên cứu trong quá trình xây dựng dự thảo luật. TS. Nguyễn Văn Phụng, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thuế cho rằng: Đối với thuế tài sản, cần phải xác định rõ phạm vi áp dụng, cụ thể là nên tập trung vào thuế nhà và đất, đồng thời cần phải quy định rõ một mức, ngưỡng chịu thuế và miễn thuế phù hợp đối với nhà, đất thuộc các khu vực thành thị, nông thôn và cho các mục đích sử dụng khác nhau. Thuế tài sản là loại thuế có ảnh hưởng lớn đến mọi hoạt động của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là thị trường bất động sản. Vì thế cần nghiên cứu kỹ khi hoạch định và ban hành chính sách thuế mới hoặc sửa đổi các chính sách thuế hiện hành và đặc biệt hơn là cần xem xét kinh nghiệm của các nước để chính sách thuế tài sản Việt Nam phù hợp với thông lệ Quốc tế Tuy nhiên, kết quả thu được từ những hội thảo trên cũng chỉ dừng lại ở những góp ý mang tính thảo luận về thuế tài sản, chia sẻ những quan điểm ủng hộ và không ủng hộ việc đánh thuế tài sản. Vì vậy, cho đến khi thời hạn dự án ETV2 được tài trợ 12
  27. bởi Cộng đồng Châu Âu kết thúc mà vẫn chưa có một kết luận nào cụ thể về “Mô hình đánh thuế tài sản ở Việt Nam” như mục tiêu đề ra. 1.3 Mục tiêu nghiên cứu của luận án Trước bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay có nhiều chuyển biến tích cực và đặc biệt là tiến trình hội nhập toàn cầu hóa, chủ trương cải cách thuế của Chính phủ theo lộ trình có kế thừa chính sách thuế hiện hành, mạnh dạn thay thế những điểm bất hợp lý và bổ sung những điểm mới sao cho phát huy các vai trò của chính sách thuế, tăng thu ngân sách, điều tiết vĩ mô, đảm bảo công bằng xã hội. Việc cải cách thuế cũng phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng bộ với các chính sách khác nhằm phát triển kinh tế của Việt nam. Vì vậy, mục tiêu nghiên cứu của luận án nhằm vào các nội dung sau: - Nghiên cứu các mô hình thuế tài sản ở các nước trên thế giới, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam - Phân tích và đánh giá thực trạng về chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt nam hiện nay, chỉ ra những ưu-nhược điểm của chính sách thuế hiện nay và so sánh chính sách thuế tài sản với các nước trên thế giới. - Vận dụng các nguyên tắc xây dựng mô hình thuế tài sản, xác định các nhân tố hình thành và tác động đến mô hình. Phân tích và đề xuất mô hình thuế tài sản ở Việt nam theo hướng đảm bảo tính hiệu quả và phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội hiện nay. 1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các nội dung lý luận về tài sản, thuế tài sản, mô hình thuế tài sản và chính sách thuế tài sản ở một số quốc gia, chính sách thuế và các khoản thu có liên quan đến tài sản ở Việt Nam. Với mỗi sắc thuế đều nghiên cứu nội dung chủ yếu theo quy định của pháp luật, kết quả đạt được và những hạn chế. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến thuế tài sản và xu hướng cải cách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam hiện nay, số liệu nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2013. Riêng vấn đề tổ chức thực hiện các chính sách thuế tài sản ra sao thì luận án chỉ đưa ra những đánh giá tổng quát mà không đi sâu nghiên cứu về phần tổ chức thực hiện các chính sách đó. Tuy nhiên, vì thời gian nghiên cứu có hạn, nên phần dự báo doanh thu thuế tài sản từ mô hình thuế tài sản không được nghiên cứu sâu trong luận án. 13
  28. 1.5 Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp diễn giải, phân tích, điều tra xã hội học, tổng hợp , lấy phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp luận nghiên cứu. Với phương pháp này, các chính sách thuế về tài sản được đặt trong quá trình vận động, biến đổi không ngừng và được hoàn thiện để phù hợp với xu thế phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và thế giới. Dựa trên những lý luận cơ bản về tài sản và thuế tài sản, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: - Tiếp cận lý thuyết về thuế nói chung và các sắc thuế liên quan đến tài sản nói riêng, chú trọng đến vai trò và mục tiêu của chính sách thuế. - Tham khảo các tài liệu về thuế tài sản của một số quốc gia và các tài liệu nghiên cứu về chính sách thuế liên quan đến tài sản hiện hành. - Thảo luận chuyên gia tìm ra các nhân tố hiệu quả cho mô hình thuế tài sản - Thu thập ý kiến điều tra từ các chuyên gia ngành thuế và tài chính. - Thống kê số liệu có chọn lọc từ các tài liệu và trang thông tin điện tử có liên quan (Chính phủ, Bộ tài chính, Tổng cục thống kê, Ngân hàng thế giới ) - Phân tích mô tả, đánh giá những ưu điểm, nhược điểm của từng sắc thuế liên quan đến tài sản. So sánh về mức độ đóng góp thu ngân sách, vai trò điều tiết của các sắc thuế trong hệ thống chính sách thuế liên quan đến tài sản - Tổng hợp các vấn đề nghiên cứu, suy diễn lô-gíc phục vụ đề xuất mô hình thuế tài sản Cơ sở thực tiễn, số liệu thống kê, Cơ sở lý thuyết về TS, Thuề TS điều tra khảo sát Phân tích định tính, tìm ra các nhân tố Phân tích định lượng, tìm ra các nhân tố tác động mô hình thuế TS phù hợp cho mô hình thuế TS Đánh giá tính phù hợp Đánh giá mức độ tác động Tác động của quá Tác động của điều Chủ trương, chính trình hội nhập sách cải cách thuế kiện KT-XH Đề xuất mô hình Thuế TS Kiến nghị Hình 1.1: Khung nghiên cứu của luận án 14
  29. 1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án Luận án được nghiên cứu trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cải cách thuế, trong đó có thuế tài sản. Việc đóng góp ý kiến cho nghiên cứu sửa đổi các văn bản pháp luật của nhà nước về thuế tài sản là vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, đặc biệt là các dự thảo Luật sẽ ban hành trong tương lai liên quan đến thuế tài sản. Luận án đã nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận về tài sản, chính sách thuế đánh vào tài sản, nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình thuế tài sản của các quốc gia, phân tích chi tiết thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam hiện nay. Từ đó có những nhận xét, đánh giá về ưu-nhược điểm hiện nay và định hướng cho mô hình thuế tài sản phù hợp với điều kiện và đặc điểm ở Việt Nam. Những kết quả đạt được đáng chú ý qua việc nghiên cứu mô hình thuế tài sản trong đề tài luận án: . Nhận dạng các nhân tố và xây dựng mô hình lý thuyết thuế tài sản. . Hình thành khung nghiên cứu của Luận án để giải quyết các nội dung và mục tiêu đưa ra. . Phân tích thực trạng chính sách thuế liên quan đến tài sản ở Việt Nam . Khảo sát điều tra các nhân tố cấu thành mô hình thuế tài sản và đề xuất mô hình thuế tài sản trong bối cảnh kinh tế-xã hội hiện nay. . Đề xuất định hướng xây dựng chính sách thuế tài sản trên mô hình mới nhằm hoàn thiện thuế tài sản ở Việt Nam hoàn chỉnh hơn trong tiến trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa và hộp nhập Quốc tế. 1.7 Tên và kết cấu của luận án Với mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận án “Xây dựng mô hình thuế tài sản ở Việt Nam” gồm có 5 chương : Chương 1: Giới thiệu Chương 2: Tổng quan lý thuyết và thực tiễn về thuế tài sản Chương 3: Thực trạng chính sách về thu ngân sách liên quan đến tài sản ở Việt Nam Chương 4: Phân tích và đề xuất mô hình thuế tài sản ở Việt Nam Chương 5: Khuyến nghị ứng dụng mô hình thuế tài sản vào việc xây dựng các chính sách thuế tài sản ở Việt Nam 15
  30. Kết luận chương 1 Thực ra, ở Việt Nam đã có chính sách thu ngân sách đối với tài sản như đất đai từ rất lâu. Cụ thể như thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất khi giao đất hoặc cho thuê đất. Trong quá trình sử dụng đất có thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất (nay đã chuyển thành thuế sử dụng đất phi nông nghiệp), khi chuyển nhượng đất có thuế chuyển quyền sử dụng đất (nay đã chuyển thành thuế thu nhập). Trong thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản có lệ phí trước bạ, khi được giải quyết một số công việc liên quan đến địa chính phải nộp lệ phí địa chính. Đó là tám khoản thu đối với tài sản được quy định bởi bốn luật thuế. Việc xây dựng mô hình Thuế tài sản sẽ gộp các khoản thu trên vào một hệ thống thuế tài sản và mở rộng thêm cơ sở tính thuế cho phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội hiện nay là vấn đề được Chính Phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Cùng với thành tựu gần 30 năm đổi mới của đất nước, thu nhập và đời sống của người dân ngày càng tăng lên nhanh chóng. Việc xây dựng nhà cửa khang trang, mua sắm tài sản có giá trị lớn đang phát triển mạnh từ thành thị đến nông thôn cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thành phần kinh tế tư nhân. Theo đó, chênh lệch giàu nghèo trong xã hội cũng ngày càng gia tăng. Do vậy, cần có một mô hình thuế tài sản phù hợp tình hình mới, vừa khai thác thêm nguồn thu cho NSNN vừa đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội trong chính sách động viên. Mặt khác, thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập, nguồn thu về thuế nhập khẩu của quốc gia giảm nhiều; các sắc thuế nội địa, trong đó có các sắc thuế liên quan đến tài sản cần được cải cách để bù đắp khoản thu bị giảm sút, đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng, bảo đảm mối quan hệ hữu cơ trong hệ thống chính sách thuế mới. Trước thực tế các giao dịch tài sản, nhà, đất đang biến động khá phức tạp, đa dạng cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế, chính sách thuế liên quan đến tài sản cần phải có những chế tài rõ ràng hơn để góp phần tích cực vào yêu cầu kiểm kê, kiểm soát vừa phù hợp cơ chế thị trường định hướng XHCN và vừa phù hợp với thông lệ Quốc tế. 16
  31. CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ THUẾ TÀI SẢN 2.1 Tài sản và phân lọai tài sản 2.1.1 Tài sản Từ thời cổ xưa các đồ vật không phân biệt về mặt giá trị cao hay thấp đều được xem là tài sản. Nhưng thời đại ngày càng phát triển thì càng xuất hiện nhiều dạng tài sản mới, tức là cấu trúc các dạng tài sản càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Trong thực tế thì việc xác định của cải nào thuộc về tài sản là vấn đề rất phức tạp và càng khó khăn hơn khi phải xác định giá trị đích thực của tài sản đó. Theo hai nhà kinh tế học người Anh là Simon James và Christopher trong quyển “Kinh tế học đánh thuế” đã viết: “Tài sản giống như là thu nhập, là những của cải mà một người có được nhờ những nguồn lợi thu được từ hoạt động kinh tế. Sự khác nhau giữa tài sản và thu nhập ở chỗ tài sản là khối lượng của cải ở một thời điểm nào đó còn thu nhập là số của cải thu được trong một khoảng thời gian” Theo Luật của Anh-Mỹ, tài sản là một công cụ để duy trì sự liên tục của quyền sở hữu của chủ thể trong một thời gian. Vì vậy, khi một người đã quá cố, người ta kiểm kê tất cả tài sản mà họ để lại, xác định các khoản phải thanh toán, các khoản công nợ phải thu-phải trả, từ đó xác định giá trị ròng tài sản còn lại của người quá cố để lại mà những người có đủ tư cách thừa kế được nhận. Ở Việt Nam, theo luật và tục lệ cổ truyền, các tài sản tư thuộc về gia đình, các quyền đối với tài sản tư của gia đình do người chủ gia đình thực hiện và nghĩa vụ về tài sản chỉ có thể do chủ gia đình quyết định trực tiếp hoặc thông qua các thành viên trong gia đình. Tài sản thuộc về tất cả những người có quan hệ trực tiếp hoặc quan hệ hôn nhân trong gia đình, nhưng việc quản lý tài sản được giao cho cha, mẹ, ông, bà nói chung là những người đứng đầu trong gia đình. Cũng có khi ông, bà, cha, mẹ quyết định chia các tài sản của gia đình cho con cháu để có cơ sở kinh tế thành lập các hộ gia đình mới và tài sản được chia đã trở thành tài sản của hộ gia đình mới đó và cứ lần lượt theo cách truyền thống đó mà phát triển. Theo Bộ Luật Dân sự Việt Nam (2005), tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Như vậy, quyền đối với tài sản phải có đủ hai yếu tố: được thể hiện trị giá bằng tiền và chuyển nhượng được trong giao dịch dân sự. Chủ tài sản có những quyền nhất định đối với tài sản của họ như quyền sử dụng, quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, quyền mua bán, quyền cho thừa kế, quyền thế chấp, quyền hủy bỏ . Ngược lại, quyền bầu cử, quyền tự do, quyền được tôn trọng danh dự không thể hiện được giá trị bằng tiền và cũng không thể chuyển nhượng nên không có tính chất tài sản. 17
  32. Từ những trích dẫn và phân tích trên theo Bộ Luật Dân sự, khái niệm “tài sản” có thể được hiểu theo những cách sau: - Thứ nhất, về phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử dụng, bản thân “của cải” là một khái niệm luôn được biến đổi và tự hoàn thiện theo sự hoàn thiện của quan niệm về giá trị vật chất. Ở thời La Mã cổ đại, thuật ngữ của cải chỉ khiến người ta liên tưởng đến ruộng, đất, gia súc, nô lệ, hoa lợi từ thiên nhiên Trong xã hội hiện đại ngày nay, có những của cải rất đặc biệt và đa dạng như sóng vệ tinh, năng lượng nguyên tử, quyền phát minh sáng chế, quyền tác giả, thương hiệu - Thứ hai, trong ngôn ngữ thông dụng, tài sản là một vật được con người sự dụng, một vật cụ thể có thể nhận biết được bằng giác quan trực tiếp như: ô tô, máy bay, tàu thuyền, giấy bạc, nhà cửa Trên phương diện khác, mọi tài sản có thể được xem là hữu hình hay đều có thể trở thành hữu hình hóa, ví dụ như quyền sử dụng đất có thể chuyển nhượng, có thể nhận tiền đền bù và chuyển thành tiền hoặc một tài sản hữu hình khác. Tóm lại, của cải vật chất chỉ có thể là tài sản khi chúng có thể được sở hữu, tức là có thể thuộc quyền sở hữu của một cá nhân, một tập thể hay một quốc gia nào đó. Tài sản phải có khả năng mua bán, chuyển nhượng được, có hao mòn và biến mất. - Thứ ba, tài sản là những vật có thực như nhà cửa, phương tiện giao thông, tiền, vàng, giấy tờ trị giá được bằng tiền của một chủ thể ở một thời điểm nhất định. Tài sản được tạo ra có thể từ sự bắt nguồn khác nhau như từ lao động, sản xuất kinh doanh, thu nhập mang lại, từ đầu tư vốn, nhận biếu tặng, được hưởng thừa kế Tài sản có thể thường xuyên thay đổi trạng thái và giá trị tùy thuộc vào hành động của chủ sở hữu hay do nguyên nhân khách quan tác động và nó có thể tăng hoặc giảm với nhiều lý do khác nhau. Qua đó rút ra nhận xét, khái niệm tài sản không phải là một khái niệm bất biến mà nó được biến đổi và tự hoàn thiện theo quan niệm về giá trị vật chất. Vì vậy, khi nghiên cứu khái niệm tài sản, cần phải chú ý đến các khía cạnh sau: - Tài sản có thể đồng nghĩa với của cải tồn tại dưới dạng hữu hình hay vô hình trong trường hợp của cải đó trị giá được bằng tiền và chủ sở hữu có thể ứng xử những quyền đối với của cải đó. - Tài sản phải luôn gắn liền với một chủ sở hữu nhất định. - Tài sản hoàn toàn khác với thu nhập - Tài sản khác với vốn, tài sản chỉ có thể trở thành vốn khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, còn tài sản cất giữ nó chỉ là vốn tiềm năng trong tương lai. - Quan niệm về tài sản trong kinh tế phải nhất quán với quy định trong luật dân sự về tài sản. Bời vì, các tài sản, các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có những quyền và nội dung, hình thức và phương thức thực hiện các quyền đó do Luật xác định. 18
  33. 2.1.2 Phân loại tài sản Tài sản rất phong phú và đa dạng, người ta có thể phân loại tài sản theo những tiêu thức khác nhau: - Căn cứ nguồn hình thành tài sản: gồm tài sản do thiên nhiên đem lại như đất đai, rừng, biển, vùng trời, tài nguyên khoáng sản, thắng cảnh và tài sản do con người tạo ra do lao động, được thừa kế, cho tặng như nhà cửa, tàu thuyền, xe cộ - Theo yêu cầu hình thái biểu hiện: gồm tài sản hữu hình (đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc ) và tài sản vô hình (thương hiệu, quyền tác giả, bằng sáng chế phát minh ) - Căn cứ theo đặc điểm: gồm có bất động sản và động sản. Bất động sản là các tài sản bao gồm: đất đai, nhà công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng, các tài sản khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định; động sản là những tài sản không phải là bất động sản - Căn cứ theo yêu cầu quản lý: có tài sản thuộc diện quản lý của nhà nước, phải thực hiện chế độ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng như nhà, đất, phương tiện vận tải, súng thể thao, súng săn, và tài sản không thuộc diện quản lý, không bắt buộc phải thực hiện chế độ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng (máy vi tính, thiết bị văn phòng, hàng kim khí điện máy ) Theo Bộ Luật Dân sự năm 2005, các loại tài sản bao gồm: . Bất động sản và động sản - Bất động sản là các tài sản bao gồm: Đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng, các loại tài sản khác gắn liền với đất đai. - Động sản là những tài sản không phải là bất động sản . Hoa lợi, lợi tức - Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại - Lợi tức là các khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản . Vật chính và vật phụ . Vật chia được và vật không chia được . Vật tiêu hao và không tiêu hao . Vật cùng loại và vật đặc định . Vật đồng bộ . Quyền tài sản 2.2 Thuế tài sản 2.2.1 Khái niệm và đặc điểm của thuế tài sản Thuế tài sản là tên gọi chung của các sắc thuế đánh vào quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản. Sắc thuế tài sản phổ biến nhất là thuế bất động sản, ở một số quốc gia, chính quyền tách bất động sản thành nhà ở và đất ở và tương ứng là hai sắc 19
  34. thuế riêng. Thời phong kiến Việt Nam, thuế điền thổ, còn gọi là thuế ruộng đất là một loại thuế tài sản phổ biến. Có một sắc thuế tài sản được thu khi phát sinh sự thay đổi quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, như thuế trước bạ, thuế thừa kế. Theo Huỳnh Huy Quế-một nhà nghiên cứu có gần 50 năm kinh nghiệm về chính sách thuế, cho rằng [18]: - Thuế tài sản là tên gọi để chỉ sắc thuế lấy tài sản làm đối tượng đánh thuế. Đây là một trong ba cách phân loại theo nội dung của hệ thống thuế gồm: thuế đánh vào thu nhập, thuế đánh vào tiêu dùng (sử dụng thu nhập) và thuế đánh vào tài sản (thu nhập là được tích luỹ và vật chất hoá dưới dạng tài sản). Việc phân biệt rõ đối tượng đánh thuế tài sản, đối tượng đánh thuế thu nhập và thuế tiêu dùng có ý nghĩa quan trọng để có căn cứ xác định chính xác thời điểm cũng như cơ sở đánh thuế, tránh được sự trùng lắp, chồng chéo về nội dung động viên thu nhập của đối tượng chịu thuế . - Thuế tài sản là loại thuế ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại với hình thức đầu tiên là thuế đất được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các xã hội cổ đại, vì lúc đó đất đai hầu như là tài sản duy nhất thật sự có giá trị và nhà nước có điều kiện thuận lợi để nắm chắc, quản lý và đánh thuế. Khi nền kinh tế-xã hội của các quốc gia ngày càng phát triển, trên thế giới dần dần xuất hiện nhiều loại của cải khác thuộc đối tượng đánh thuế tài sản. Thông thường, việc đánh thuế vào tài sản không tính đến nguồn gốc thu nhập tạo ra tài sản có từ đâu, lúc nào mà chỉ quan tâm đến trị giá tài sản của chủ thể có quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) vào thời điểm nhất định. - Thuế tài sản được điều chỉnh theo quyền sở hữu, quyền sử dụng, khai thác hay chuyển nhượng tài sản tại thời điểm nhất định, theo quy định của pháp luật, với nhiều hình thức tên gọi khác nhau, chủ yếu là: thuế đăng ký tài sản (thuế trước bạ, lệ phí trước bạ); thuế thừa kế; thuế quà biếu; thuế nhà đất; thuế tài sản (đánh tổng hợp trên toàn bộ giá trị bất động sản, động sản và tài sản tài chính của một chủ thể); thuế chuyển nhượng tài sản (nhà, đất, vốn, trái phiếu ); thuế khai thác tài nguyên quốc gia. Thuế tài sản được đánh giá là loại thuế trực thu có thể động viên tương đối sát với khả năng đóng góp thực tế của người chịu thuế vì thuế đánh vào những tài sản cụ thể, nhất là nhà và đất, là những vật thực có, dễ nhận biết hơn các đối tượng đánh thuế thu nhập hay tiêu dùng. Thuế tài sản được thể hiện dưới nhiều hình thức với tên gọi khác nhau như thuế mua tài sản, thuế nhà, thuế đất, thuế đăng ký tài sản, thuế chuyển nhượng tài sản với những đặc điểm như sau: Thuế tài sản là loại thuế dựa trên quan điểm đánh thuế theo lợi ích, những người được hưởng lợi ích nhiều thì phải nộp thuế nhiều hơn. Điều này xuất phát từ thực tế là nhiều loại tài sản được bảo tồn, phát triển và sinh lợi là do được thừa hưởng 20
  35. rất nhiều từ các dịch vụ công cộng của nhà nước. Ví dụ, giá trị đất có thể tăng lên rất nhiều nhờ việc mở đường, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, các công trình vui chơi giải trí mà không cần một sự đầu tư nào của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, nhà nước bảo vệ tài sản của chủ sở hữu bằng cách công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế, bảo vệ tài sản trong trường hợp bị mất cắp Như thế, người có tài sản cần phải đóng góp một khoản tiền nhất định cho nhà nước để thực hiện các chi phí công cộng. Từ luận điểm này, việc đánh thuế tài sản thường được xem xét trên giá trị lợi ích khác nhau về các dịch vụ công cộng mà chủ sở hữu tài sản đã được hưởng. Thuế tài sản mang tính chất là loại thuế hổ trợ cho thuế đánh trên thu nhập. Thu nhập từ tài sản thường khó xác định được nếu chủ sở hữu cố tình che dấu, trong khi tài sản dù là động sản hay bất động sản khó mà che dấu được. Thuế đánh vào tài sản cho phép khai thác hết khả năng của người nộp thuế. Điều này, còn góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế vì nó khuyến khích chủ sở hữu tài sản sử dụng tài sản có hiệu quả nhất. Thuế tài sản chỉ ảnh hưởng đến một phần thiểu số dân cư thuộc diện giàu có nên dễ nhận được sự ủng hộ của đại đa số người dân. Thuế tài sản là một trong những biện pháp can thiệp của nhà nước trong việc giải quyết sự không công bằng về phân phối tài sản giữa các tầng lớp dân cư. Thông thường sự bất bình đẳng về phân phối tài sản dễ nhận thấy hơn trong phân phối thu nhập và tiêu dùng. Biện pháp để điều chỉnh sự bất bình đẳng thông qua phân phối tài sản là đánh thuế tài sản. Với quan điểm này, đòi hỏi thuế tài sản phải đáp ứng được yêu cầu là đánh trên tất cả các tài sản chứ không phải chỉ đánh trên một số loại tài sản, giá tính thuế phải là giá trị tài sản ròng chứ không phải là tổng giá trị tài sản. Thuế tài sản là sắc thuế có thể phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm của các chủ thể trong nền kinh tế. Do việc đánh thuế tài sản sẽ làm hạn chế ý thích tiết kiệm, tích lũy bằng tài sản và khuyến khích tăng tiêu dùng hoặc đầu tư sản xuất, kinh doanh nên có thể sử dụng thuế tài sản làm công cụ kích cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội Thuế tài sản, đặc biệt là loại thuế đăng ký, thường dễ thu. Thuế đăng ký tài sản là loại thuế dễ thu vì loại thuế này được xây dựng phù hợp với tâm lý của người có tài sản, muốn được xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp và bảo hộ đối với một số tài sản có giá trị. 2.2.2 Vai trò của thuế tài sản Việc đánh thuế tài sản không đơn giản chỉ nhằm mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà xuất phát từ nhiều lý do xét trên nhiều khía cạnh kinh tế, xã hội. Thuế tài sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế cũng như hệ thống ngân sách nhà nước, cụ thể: Thứ nhât, Thuế tài sản là nguồn thu rất quan trọng cho ngân sách Nhà Nước. Thuế đánh vào tài sản thường chiếm một tỷ trọng rất cao trong tổng thu ngân sách của 21
  36. nhiều Quốc gia và cũng chính là loại thuế dễ quản lý thu. Những bất động sản, nhà cửa không thể di dời hay che dấu được. Máy bay, ô tô, tàu thuyền thì không thể không đăng ký lưu thông. Nhìn chung ở các Quốc gia áp dụng thuế tài sản đã mang về nguồn thu rất cao cho ngân sách Nhà Nước. Ví dụ như ở Canada, Mỹ, Úc, Ireland, Newzeland thuế tài sản chiếm trên 85% trong tổng thu ngân sách [20]. Thứ hai, Thuế tài sản góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Công bằng xã hội luôn là một khái niệm rất quan trọng khi xây dựng bất kỳ chính sách thuế nào, đối với thuế tài sản thì công bằng xã hội được hiểu như sau: những người sở hữu một lượng tài sản có giá trị lớn, những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập nhiều hơn, ngoài những tài sản phục vụ cho đời sống sinh hoạt cá nhân họ còn có các tài sản tích trữ, đầu tư sinh lợi thì những chủ thể này phải có một nghĩa vụ đóng góp cho ngân sách Nhà nước và cuối cùng thì ngân sách này thực hiện chức năng phân phối và phân phối lại. Bất kỳ một xã hội nào càng phát triển thì càng có sự phân cực giữa hai tầng lớp người giàu và người nghèo. Vì vậy, đứng ở góc độ quản lý Nhà nước đảm bảo một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh thì chính sách thuế tài sản là một công cụ thực hiện mục tiêu này. Bên cạnh đó, thuế tài sản còn có vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa các thế hệ, tăng cường đoàn kết nội bộ, giảm đi sự chênh lệch quá đáng về thu nhập trong các tầng lớp xã hội. Thứ ba, thuế tài sản còn được coi là công cụ hữu hiệu của Chính phủ. Thuế tài sản còn được coi là công cụ nhằm thực hiện việc quản lý, kiểm kê, kiểm soát đối với các loại tài sản có giá trị. Thông qua đó thấy được sự chênh lệch giàu nghèo, mức sống của các tầng lớp dân cư, tiềm năng nguồn lực xã hội Từ đó Chính phủ có những quyết sách hợp lý cho việc phát triển kinh tế xã hội trong mỗi thời kỳ nhất định. Như vậy, xét trên khía cạnh việc đánh thuế tài sản là cần thiết vì nó khắc phục các khiếm khuyết của thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là đối với những nước mà mức độ thu nhập cá nhân có diện đánh thuế hạn hẹp và bị hạn chế do năng lực thực hiện. Cùng với các loại thuế khác, thuế tài sản cho phép thực hiện được các mục tiêu, yêu cầu đề ra về tài chính, kinh tế, xã hội đồng thời phát huy tác dụng hỗ trợ có hiệu quả cho thuế đánh vào thu nhập và tiêu dùng trong hệ thống thuế. Đó cũng chính là lý do mà thuế tài sản ra đời đã từ lâu và đang được nhiều nước sử dụng, kể cả trong xu thế cải cách hệ thống chính sách thuế hiện nay theo hướng đơn giản, giảm bớt các loại thuế. Tuy nhiên trong một hệ thống thuế gồm nhiều loại thuế thu nhập có diện đánh thuế mở rộng thì hình thức thuế tài sản đánh vào những tài sản do thu nhập tạo ra đã chịu thuế thu nhập có thể dẫn đến tình trạng đánh thuế trùng vào khoản tiết kiệm và vì vậy sẽ không mang lại hiệu quả kích thích các đối tượng tạo ra thu nhập trong xã hội. Do vậy, việc đánh thuế tài sản cần phải được xem xét, phân tích thận trọng trong mối quan hệ với các loại thuế khác, đặc biệt là đối với các loại thuế trực thu để thuế tài sản 22
  37. vừa đáp ứng yêu cầu tăng thu cho Ngân sách nhà nước một cách hợp lý, vừa khắc phục được sự trùng lắp, chồng chéo trong cách đánh thuế thu nhập, không kìm hãm phát triển sản xuất kinh doanh và không làm cản trở ý chí làm giàu chính đáng, mua sắm tài sản của các tầng lớp dân cư. Thuế tài sản không những là một biện pháp tài chính động viên cho ngân sách mà còn là một yêu cầu có tính kỹ thuật hệ thống nhằm đảm bảo việc đóng góp công bằng, hợp lý giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội và phục vụ mục tiêu quản lý của nhà nước. Vì lẽ đó, cùng với thuế tiêu dùng, thuế tài sản là một hình thức thu bổ sung của thuế thu nhập nhằm đảm bảo tính công bằng và tính hiệu quả của cả hệ thống thuế. Thứ tư, có tác dụng làm giảm nhẹ gánh nặng cho thuế thu nhập. Thuế tài sản thực chất là một loại thuế bổ sung cho thuế thu nhập vì nó đánh vào một dạng tồn tại khác của thu nhập (thu nhập tích lũy được tài sản hoá). Theo quan điểm này, việc sử dụng nhiều hình thức đánh thuế vào các dạng tồn tại của thu nhập (như yêu cầu đánh thuế lũy tiến vào thu nhập) là cần thiết để đảm bảo yêu cầu bao quát hết tất cả các nguồn thu. Về nguyên tắc thì chỉ cần đánh thuế thu nhập là đủ vì tất cả các khoản thuế có tính chất trực thu, suy cho cùng đều được trích từ thu nhập của đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, nếu chỉ đánh một lần duy nhất vào thu nhập khi phát sinh thì mức thuế sẽ phải cao và do đó không có lợi về mặt tâm lý, thậm chí kìm hãm các hoạt động tạo ra thu nhập. Hơn thế nữa, việc đánh thuế một lần vào thu nhập sẽ có khuynh hướng không đảm bảo công bằng vì khả năng kiểm soát chặt chẽ các nguồn thu thường rất khó khăn đối với chính quyền thu thuế. Vì vậy, việc đánh thuế tài sản thực chất cũng là đánh thuế vào phần thu nhập được tài sản hoá. Diện đánh thuế tài sản rộng hơn diện đánh thuế thu nhập, bao gồm mọi tài sản, không phân biệt tài sản đó mang lại thu nhập hay không, đảm bảo công bằng xã hội. Việc đánh thuế tài sản sẽ có thêm cơ hội để hạ bớt thuế suất thuế thu nhập, làm cho sắc thuế này được đông đảo người dân chấp nhận hơn. Thứ năm, phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm. Thuế tài sản phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm của các tác nhân trong nền kinh tế. Việc đánh thuế tài sản sẽ làm hạn chế ý thích tiết kiệm, tích luỹ bằng tài sản và khuyến khích tăng tiêu dùng hoặc đầu tư sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần thực hiện tốt chủ trương kích cầu để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 2.2.3 Quan điểm chung về việc đánh thuế tài sản 2.2.3.1 Quan điểm ủng hộ việc đánh thuế tài sản Theo Huỳnh Huy Quế-một nhà nghiên cứu có gần 50 năm kinh nghiệm về chính sách thuế, cho rằng [18]: 23
  38. - Về mặt lý thuyết chỉ cần đánh thuế trên thu nhập là đủ vì tất cả các khoản thuế suy cho cùng đều động viên từ thu nhập của công chúng. Song nếu chỉ có một loại thuế thì mức thuế này phải rất cao mới đảm bảo nguồn thu cần thiết cho NSNN. Từ đó sẽ cản trở đến tinh thần hăng say lao động để có nhiều thu nhập vì phải nộp thuế cao. Hơn nữa, nếu chỉ có thuế thu nhập thì khả năng rủi ro về thất thu sẽ rất lớn. Việc đánh thuế vào tài sản vừa tạo điều kiện giảm bớt số thuế đánh vào thu nhập, vừa cho phép động viên thêm phần thu nhập đã trốn hoặc tránh thuế. - Việc đánh thuế tài sản xuất phát từ nguyên tắc đánh thuế theo lợi ích. Những người được hưởng lợi ích từ Nhà nước nhiều phải nộp thuế cao. Nhà, đất và các tài sản khác được bảo tồn, phát triển và sinh lời là nhờ được thừa hưởng rất nhiều lợi ích từ các dịch vụ công cộng của Nhà nước để làm tăng thêm giá trị của một số tài sản. Chẳng hạn, giá trị nhà, đất có thể tăng lên nhiều do Nhà nước cải tạo, mở rộng cơ sở hạ tầng mà không cần có sự đầu tư của chủ sở hữu. Từ đó, người có tài sản, đặc biệt với tài sản có giá trị cần phải có trách nhiệm đóng góp để Nhà nước có thêm nguồn trang trãi các khoản chi này. - Thuế tài sản mang tính chất là khoản thu bổ sung vào thuế đánh vào thu nhập, đặc biệt ở các nước mà thuế thu nhập cá nhân còn bị hạn chế và trình độ quản lý còn yếu kém. Thuế tài sản cho phép tính đến khả năng lớn lao của người nộp thuế, được thể hiện bằng lượng của cải hơn là lượng tiền họ bỏ ra để tiêu dùng. Thuế tài sản còn góp phần hướng dẫn, khuyến khích sử dụng tài sản có hiệu quả thông qua đầu tư vào vốn kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế hơn là cất giữ tài sản, loại thuế này thường động viên vào một số tầng lớp dân cư giàu có nên dễ được sự đồng tình, ủng hộ của đại bộ phận quần chúng nhân dân. - Thuế tài sản là một công cụ có hiệu lực phục vụ yêu cầu quản lý của Nhà nước trong hoàn cảnh sở hữu tài sản còn quá chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư. Thông qua thuế tài sản, Nhà nước có thể thực hiện việc kiểm kê, kiểm soát, quản lý những loại tài sản quan trọng trong xã hội và động viên một phần đóng góp của chủ sở hữu tài sản có giá trị lớn, có nhiều thu nhập từ tiền cho thuê, chuyển nhượng, góp phần điều hoà thu nhập xã hội, thực hiện nghĩa vụ đóng góp công bằng, khuyến khích sử dụng tài sản hợp lý và hiệu quả. - Thuế tài sản thường dễ thu do người chủ sở hữu tài sản thường muốn công khai đăng ký để được Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu hay quyền sử dụng hợp pháp của mình khi có tranh chấp, kiện tụng Vấn đề cần được quan tâm là mức đóng góp của chủ tài sản phải được xây dựng hợp lý, phù hợp, nhất là với tài sản đã qua nhiều lần luân chuyển và với tài sản có giá trị lớn khiến người nộp thuế phải bỏ ra khoản tiền nhiều. 24
  39. - Đối với tài nguyên thiên nhiên thuộc quyền sở hữu quốc gia, thì việc đánh thuế mang tính chất chuyển nhượng tài nguyên cho người khai thác là một việc cần thiết. Ngoài ra, việc đánh thuế vào việc sử dụng đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân cũng là hợp lý và bảo đảm được sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân với NSNN, kể cả trường hợp nộp thuế vào nhà đất để ở, không có thu nhập. - Thuế tài sản còn phục vụ yêu cầu điều chỉnh mối quan hệ hợp lý giữa tiêu dùng, đầu tư và tiết kiệm trong đời sống xã hội. Việc đánh thuế vào tài sản sẽ góp phần hạn chế ý thích muốn tích luỹ bằng tài sản cất giữ, khuyến khích tăng tiêu dùng hoặc đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Qua đó, góp phần thực hiện tốt chủ trương kích cầu, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Với những lý do đó, việc nghiên cứu mô hình thuế tài sản trong bối cảnh hiện nay là cần thiết, nhằm phát huy tác dụng bổ sung cho thuế đánh vào thu nhập, đánh vào tiêu dùng trong hệ thống chính sách thuế. 2.2.3.2 Quan điểm không ủng hộ việc đánh thuế tài sản Bất kỳ một sắc thuế nào khi ban hành cũng có những ý kiến không đồng thuận cần sửa đổi bổ sung. Lập luận phản đối về việc áp dụng thuế tài sản thường tập trung các ý kiến sau [18]: - Tài sản được hình thành trong quá trình tích lũy thu nhập mà bản thân thu nhập đó đã chịu thuế rồi, chưa tính đến những tài sản còn chịu các thứ thuế khác khi mua sắm và khi đăng ký. - Nếu đánh thuế trên những tài sản cất trữ không dùng cho hoạt động tạo ra thu nhập thì vô hình dung đã tướt đoạt dần giá trị tài sản của chủ sở hữu. - Thuế tài sản có thể gây ra sự ảnh hưởng nền kinh tế nếu như mức thuế suất và giá tính thuế đưa ra áp dụng không hợp lý sẽ làm cho những người sở hữu tài sản ngần ngại đầu tư tài sản. 2.2.4 Các hình thức đánh thuế tài sản (a) Đánh thuế trên tất cả các tài sản Theo hình thức này, đối tượng đánh thuế tài sản là tất cả các loại tài sản mà một chủ sở hữu có được (gồm cả bất động sản và động sản). Trị giá tài sản chịu thuế là giá trị tài sản ròng, là khỏan chênh lệch giữa tổng giá trị các tài sản và các chi phí, tiền vay tạo thành tài sản đó. Hình thức thuế của cải đánh trên giá trị tài sản ròng thường thích hợp trong điều kiện xã hội có mức thu nhập bình quân đầu người cao, khu vực kinh tế tư nhân phát triển, tài sản có sự tập trung quá mức vào một nhóm người giàu có dẫn đến khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa giàu và nghèo, loại thuế này thường được áp dụng ở các nhóm nước OECD. Thuế suất thường sử dụng theo hình thức thuế suất lũy tiến, mức độ lũy tiến phụ thuộc vào mức độ tập trung tài sản trong xã hội cao 25
  40. hay thấp vào một nhóm người giàu có nhất định. Nếu khoảng cách chênh lệch giàu nghèo quá lớn thì mức lũy tiến cần thiết kế cao hơn. Ngược lại, mức lũy tiến vừa phải hoặc đôi khi không cần sử dụng loại thuế suất này. (b) Đánh thuế vào một bộ phận tài sản Theo hình thức này, đối tượng đánh thuế tài sản chỉ là một bộ phận trong toàn bộ tài sản của chủ sở hữu, có hai hình thức thuế phổ biến khi tính theo phương pháp này: - Thuế bất động sản: Đối tượng nộp thuế là chủ sở hữu đất, nhà và bất động sản khác. Thuế suất thường là thuế suất lũy tiến áp dụng trên trị giá tài sản chịu thuế, với mức động viên thấp và chỉ mang tính chất quản lý. Thuế bất động sản thường được giao cho các cấp chính quyền địa phương quản lý và thu vào ngân sách địa phương. - Thuế đánh một lần vào tài sản khi chuyển dịch quyền sở hữu: Thuế được thực hiện khi đối tượng nộp thuế cần có chứng nhận quyền sở hữu khi mua bán, thừa kế, chuyển dịch động sản hoặc bất động sản. Thuế chỉ đánh một lần khi đăng ký quyền sở hữu, mức thuế thường là thuế suất tỷ lệ tính trên giá trị giá tài sản chịu thuế hoặc là định suất thuế (giá trị tuyệt đối) theo đơn vị tài sản. Mức thuế cao hay thấp tùy theo yêu cầu và mục đích điều tiết: Áp dụng mức thuế thấp nếu ngoài việc nộp thuế chuyển dịch quyền sở hữu, hàng năm còn phải nộp thuế tài sản. Áp dụng mức thuế cao nếu chỉ chịu một lần thuế tài sản khi đăng ký. Giá tính thuế tài sản thường được căn cứ theo giá thị trường tại thời điểm đánh thuế tài sản. Một số trường hợp khó xác định giá thị trường thì áp dụng giá tính thuế do nhà nước quy định. Nguồn thu từ các loại thuế đăng ký tài sản khi chuyển dịch quyền sở hữu thuộc các cấp ngân sách, trong đó có một phần cho ngân sách địa phương. 2.2.5 Vị trí của thuế tài sản trong hệ thống thuế Nếu phân loại hệ thống thuế theo các yếu tố kinh tế bị đánh thuế (đối tượng đánh thuế) thì thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản là ba sắc thuế cấu thành một hệ thống thuế. Cả ba loại thuế nói trên đều được trang trãi bằng thu nhập của các cá nhân trong xã hội. Mỗi loại thuế đảm nhận thu cho nhà nước theo những phương pháp thích hợp, đồng thời tạo ra hiệu ứng tối ưu nhất đối với nền sản xuất xã hội. Thuế đánh vào thu nhập làm giảm bớt thu nhập khả dụng của người có thu nhập. Thuế đánh vào tiêu dùng làm cho người tiêu dùng bị điều tiết một phần thu nhập mà nếu không có nó người tiêu dùng đã có thể mua được nhiều hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng hơn. Thuế đánh vào tài sản làm giảm bớt sự giàu có hoặc lợi ích do tài sản mang lại cho chủ sở hữu của chúng. Điều đó cho thấy sự tồn tại của ba loại thuế thu nhập, tiêu dùng và tài sản là tất yếu, thể hiện sự phù hợp, tương ứng theo sát chu kỳ vận động của thu nhập. Có thể minh hoạ điều này thông qua sơ đồ biểu diễn dưới đây: 26
  41. Sơ đồ 2.1: Sơ đồ biểu diễn chu kỳ vận động của thu nhập Thu nhập tiêu dùng (2) Thuế tiêu dùng (5) (1) (3) Thu nhập tích lũy (5) Thu nhập hiện tại hiện vật hóa thành Thu nhập tương lai Thuế thu nhập tài sản Thuế thu nhập Thuế tài sản (5) (4) (5) Thu nhập tích lũy khác (5) Tài sản tài chính hóa Nguồn: [66]. Ghi chú: (1) Thu nhập nhận được trong hiện tại chưa sử dụng sẽ bị đánh thuế thu nhập. (2) Thu nhập còn lại (sau thuế thu nhập) khi tiêu dùng bị đánh thuế tiêu dùng. (3) Thu nhập còn lại dùng cho mục đích tích luỹ tài sản bị đánh thuế tài sản. (4)Tài sản tích lũy khác không hiện vật hoá (tài sản tài chính) thông thường không bị đánh thuế tài sản vì thực chất chúng chỉ là những trái vụ phản ánh quyền nắm giữ tài sản của chủ sở hữu. Phần tài sản thực đã tồn tại dưới dạng hiện vật như chứng khoán, cổ phiếu, tạo nên tài sản hiện vật của người vay vốn. (5)Thu nhập dùng cho tiêu dùng, mua tài sản hoặc tích luỹ dưới dạng tài sản tài chính đến lượt nó lại tạo ra thu nhập tiềm năng trong tương lai và một quá trình đánh thuế mới lại bắt đầu (mũi tên đứt đoạn chỉ dòng thu nhập tương lai ở nhiều chu kỳ đánh thuế sau đó). Như vậy, hệ thống thuế là một thể thống nhất gồm nhiều loại thuế cấu thành, được thiết kế dựa trên những nguyên lý và tiêu thức nhất định nhằm phát huy tối đa những chức năng của mỗi sắc thuế đồng thời thực hiện một cách có hiệu quả mục tiêu của toàn bộ hệ thống. Một hệ thống thuế hoàn chỉnh phải gồm đầy đủ các loại thuế cơ bản là: thuế tiêu dùng, thuế thu nhập và thuế tài sản. Sự hiện diện của ba loại thuế nói trên không đơn thuần là biện pháp cốt lõi để thu được thuế mà quan trọng hơn là một sự tinh xảo, một kỹ nghệ trong việc thiết kế hệ thống các sắc thuế nhằm đảm bảo tiêu thức công bằng và hiệu quả một cách tối ưu. 27
  42. 2.3 Thuế tài sản trong các lý thuyết kinh tế 2.3.1 Lịch sử nghiên cứu thuế tài sản Nghiên cứu đánh thuế tài sản từ lâu đã là một phần trong phát triển phân tích kinh tế mà khởi đầu là những người theo thuyết trọng nông ở Pháp, sau đó là Ricardo và tiếp theo là George, vì vậy các tài liệu kinh tế liên quan đến thuế tài sản là rất rộng. Trong suốt 40 năm qua, ba lý thuyết đã được đưa ra để miêu tả ảnh hưởng kinh tế của thuế tài sản. Những người theo “quan điểm truyền thống” đưa ra giả thuyết rằng, do nguồn cung đất đai là cố định nên người sở hữu hoặc người thuê đất sẽ phải chịu thuế đất. Tuy nhiên, những người theo “quan điểm mới” lại kết luận rằng thuế đất hoàn toàn gần giống với một loại thuế tổng hợp đánh vào toàn bộ tiền vốn. Còn những người theo “quan điểm lợi ích” lại đưa ra giả thuyết rằng thuế tài sản được xem xét một cách đầy đủ thì nó không phải là thuế, mà là một loại phí hiệu quả đánh vào người sử dụng dịch vụ công cộng ở địa phương. Cho đến nay, những nghiên cứu thực nghiệm vẫn không xác định được liệu quan điểm mới hay quan điểm lợi ích là mô hình đánh thuế tài sản phù hợp hơn [45]. Các loại thuế tài sản cơ bản được xác định bao hàm các loại thuế đánh vào những bất động sản, động sản và phụ thuộc vào giá trị tài sản đó. Nhìn chung, thuế tài sản được quản lý thông qua việc sử dụng mức thuế thống nhất đối với giá trị định giá của tài sản chịu thuế. Trong phạm vi giới hạn nhất định, các mức thuế thường khác nhau phụ thuộc vào loại hoặc nhóm tài sản bị đánh thuế. Hệ thống thuế tài sản khác nhau đáng kể giữa các phạm vi pháp lý liên quan đến loại tài sản bao gồm cơ sở tính thuế, kỹ thuật định giá được sử dụng để xác định giá trị tài sản chịu thuế và mức thuế suất áp dụng đối với các nhóm tài sản khác nhau. Tài liệu kinh tế xem xét mô hình thuế tài sản có phạm vi rất rộng, các nhà kinh tế phát triển các giả thuyết khác nhau liên quan đến phạm vi tác động của thuế tài sản và tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm để kiểm định các giả thuyết này. Nghiên cứu về đánh thuế tài sản gắn chặt với nghiên cứu về cung cấp các dịch vụ công cũng như việc phân tích cân bằng tổng thể về đánh thuế tài sản phải xem xét đến lợi ích công cộng được đưa ra thông qua hệ thống đánh thuế tài sản. Những mô hình kinh tế về đánh thuế tài sản đóng vai trò khá quan trọng, là cơ sở cho các đề xuất chính sách công mà theo đó mức thuế tài sản khác nhau hoặc quy trình đánh giá khác nhau có thể dùng để bảo vệ đất nông nghiệp hoặc khuyến khích phát triển ở khu vực thành thị. Các nhà kinh tế cũng kiểm tra việc quản lý hệ thống thuế tài sản, bao gồm thủ tục đánh giá thích hợp khi định giá tài sản nhằm mục đích tính thuế. Theo như mô tả của Winfrey cũng như của Buchanan và Flowers [45], thuế tài sản là một trong những loại hình tính thuế sớm nhất được xem xét từ góc độ kinh tế. Từ những người theo trường phái trọng nông ở Pháp giữa thế kỷ XVIII, bao gồm cả 28
  43. Francois Quesnay– người đầu tiên mở ra học thuyết này, những nhà kinh tế đầu tiên đã kết luận rằng: tài sản là cơ sở hợp lý nhất để tính thuế mà cụ thể là đất đai. Những người theo trường phái trọng nông xem đất nông nghiệp là lĩnh vực sản xuất duy nhất của nền kinh tế, tạo ra thặng dư lớn hơn chi phí sản xuất thực tế. Tất cả các lĩnh vực kinh tế khác của nền kinh tế chỉ đơn giản cung cấp dịch vụ hoặc biến đổi hàng hóa từ dạng này sang dạng khác. David Ricardo, nhà kinh tế học cổ điển người Anh cũng cho rằng đất đai là yếu tố sản xuất thích hợp bị đánh thuế. Theo Ricardo, tăng dân số sẽ làm tăng nhu cầu đối với sản phẩm nông nghiệp, do đó sẽ dẫn đến nhiều đất đai được đưa vào sử dụng hơn. Do cần nhiều lao động hơn để làm những vùng đất tăng thêm này hiệu quả, Ricardo lý giải rằng chi phí lớn hơn sẽ được thể hiện trong việc giá cả sản phẩm nông nghiệp tăng lên. Giá cả sản phẩm nông nghiệp tăng lên sẽ làm tăng thu nhập cho những người sở hữu nhiều đất đai màu mỡ hơn, đây là những người không phải đối mặt với việc tăng chi phí sản xuất đối với phần đất biên tăng thêm [45]. Cũng theo Ricardo, phần thu nhập tăng thêm này hay gọi là “tô”, thặng dư này cần phải bị đánh thuế bởi vì nó không thể hiện chi phí sản xuất thực tế [45]. Theo Henry George, quan điểm của các nhà tư tưởng trọng nông và Ricardo được xem là cơ sở cho thay đổi về thuế duy nhất dành được sự ủng hộ mạnh mẽ tại Mỹ vào cuối thế kỷ XIX. George (1879) cho rằng lợi nhuận thu được từ đất đại diện cho tô kinh tế [45] có thể bị đánh thuế mà không làm thay đổi việc phân bổ nguồn lực mà nếu thay đổi thì sẽ không còn thuế nữa. Trong thuật ngữ ngày nay, tô kinh tế được định nghĩa là lợi nhuận bất kỳ yếu tố sản xuất nào vượt quá phần lợi tức mà yếu tố đó có thể nhận được khi sử dụng ở mức tốt nhất tiếp theo. Do đó, thuế của riêng tô kinh tế do bất kỳ yếu tố cụ thể nào cũng sẽ không dẫn đến việc chuyển yếu tố đó từ sử dụng thường xuyên sang sử dụng thay thế. Thêm vào đó, những người có quan điểm giống George cho rằng bất kỳ gia tăng nào trong giá trị đất đai phát sinh từ việc tăng trưởng nền kinh tế được xem là thặng dư do xã hội tạo ra mà có thể đánh thuế một cách hợp pháp. George đã khẳng định: Thuế tính trên giá trị đất không thể kiểm tra sản xuất ở mức độ nhỏ nhất, cho tới khi chúng vượt quá mức tô, hoặc giá trị đất được lấy hàng năm, đối với các khoản thuế khác đánh vào hàng hóa, hoặc trao đổi, hoặc vốn, hoặc bất kỳ công cụ hay quá trình sản xuất nào, chúng sẽ không cho vào sản xuất. Giá trị đất không thể hiện được phần thù lao sản xuất, cũng như tạo ra giá trị của cây trồng, vật nuôi, tòa nhà, hay của bất kỳ thứ gì mà được gọi là động sản. Nó thể hiện giá trị trao đổi của độc quyền. Giá trị đất không phải trong mọi trường hợp tạo ra do cá nhân sở hữu đất, nó tạo ra nhờ sự phát triển của cộng đồng. Do đó, cộng đồng có thể lấy hết mà không có cách nào làm giảm động lực cải tiến hoặc ở mức độ nhỏ nhất giảm sản xuất ra của cải. Thuế có thể được áp đặt theo giá trị đất đai cho tới khi tất cả tô được 29
  44. nhà nước đảm nhận, mà không làm giảm tiền lương người lao động hay khiến sản xuất khó khăn hơn [45]. Tại Mỹ, việc sử dụng thuế tài sản bị giới hạn trong phạm vi pháp lý bang và địa phương. Thêm vào đó, doanh thu có được thông qua đánh thuế vào động sản giảm so với đánh thuế vào bất động sản [61]. Mặc dù bước tiến về thuế duy nhất của George chưa bao giờ được thực hiện đầy đủ chủ yếu do các khó khăn về hành chính nhưng nó vẫn hiện hữu trong cơ chế thuế tài sản mà theo đó đất đai bị đánh thuế mạnh hơn so với các dạng tài sản khác [66]. 2.3.2 Lý thuyết đánh thuế tài sản 2.3.2.1 Tổng quan Các nhà kinh tế phát triển ba lý thuyết cơ bản xem xét tác động của thuế tài sản. Quan trọng hơn, mỗi lý thuyết đều phân biệt thuế đất đai và thuế vốn. Kết quả quan sát cho rằng thuế tài sản có thể có tác động khác biệt đến đất đai trái ngược với các hình thức vốn khác bắt nguồn từ khác biệt về tính co giãn về cung của mỗi đối tượng. Dựa trên giả thiết rằng cung đất đai phụ thuộc vào thuế là cố định trong phạm vi pháp lý cho trước, quan điểm truyền thống chỉ ra rằng thuế đất sẽ do người sử dụng đất chịu, mà cụ thể đó là người sở hữu hoặc người thuê đất [61]. Tuy nhiên, quan điểm mới lại đưa ra kết luận rằng thuế đất đai có thể tách ra thành hai phần là thuế thu nhập và thuế tiêu thụ đặc biệt [56]. Do phần thuế thu nhập tương đương với thuế chung đánh vào vốn nên phần thuế tài sản đó sẽ đánh vào người sở hữu vốn. Cuối cùng, quan điểm lợi ích giả thiết rằng thuế tài sản được xem là phí đánh vào người sử dụng các dịch vụ công tại địa phương [45]. Do người tiêu dùng các dịch vụ công là thay đổi nên quan điểm lợi ích cho rằng thuế tài sản trong nhiều trường hợp là cơ cấu tài chính hiệu quả đối với các dịch vụ công. 2.3.2.2 Quan điểm truyền thống Quan điểm truyền thống về thuế tài sản bắt nguồn từ Simon [67] và Netzer [61]. Quan điểm truyền thống ủng hộ cách tiếp cận cân bằng từng phần theo đó thuế tài sản được xem là khoản thanh toán riêng biệt đối với vốn và đất đai. Cung vốn được xem là hoàn toàn co dãn và cung đất đai được xem là hoàn toàn không co dãn. Như được nêu trong Hình 2.1, lợi tức của người sở hữu vốn là mức tiền thuê được xác định trong quốc gia đối với vốn ( ). Nếu phạm vi pháp lý quy định mức thuế đánh theo tỷ lệ (t) đối với vốn, chi phí vốn sẽ tăng lên bằng (1+t) để duy trì lợi tức sau thuế tính trên vốn của và tổng vốn trong phạm vi pháp lý sẽ giảm từ xuống . Ảnh hưởng này có thể lập thành mô hình khi giảm cầu vốn từ D xuống D’, ảnh hưởng này cũng sẽ xảy ra nếu phạm vi pháp lý quy định mức tăng trong tỷ suất thuế tài sản hiện hành. 30
  45. Hình 2.1: Cung vốn hoàn toàn co dãn Nếu thuế tài sản tính theo tỷ lệ cũng được áp dụng cho cung đất đai hoàn toàn không co dãn thì kết quả đạt được là giá trị vốn hóa thuế hoàn hảo từ lợi tức đất đai. Như chỉ ra trong Hình 2.2, lợi tức tính trên đất sẽ giảm từ xuống (1-t). Ngoài ra, do cung đất là cố định, thuế không tác động vào số lượng đất nhưng gây ra giảm chi phí đất. Quan điểm truyền thống được áp dụng để kết luận rằng đánh thuế tài sản đối với phần đất đai thặng dư có tính giảm dần. Kết luận này dựa trên giả thiết rằng phần thu nhập dành cho nhà cửa giảm khi thu nhập tăng. Tuy nhiên, theo quan điểm truyền thống, Netzer kết luận rằng thuế tài sản có tính tỷ lệ hơn là giảm dần [61]. Ngoài ra, liên quan đến nhà cửa, Netzer nhận thấy rằng thuế tài sản giảm dần dựa theo nghiên cứu thực nghiệm thực hiện lúc đó. Netzer sau này cũng cảnh báo rằng các nghiên cứu kết luận rằng thuế tài sản có tính giảm dần bị lệch bởi vì những nghiên cứu đó chấp nhận thu nhập hiện tại hơn là thu nhập danh nghĩa hay vĩnh viễn [62]. 31
  46. 2.3.2.3 Quan điểm mới Những người đầu tiên đưa ra quan điểm mới về thuế tài sản là Thomson [69], Mieszkowski [56]. Sau đó quan điểm mới được Mieszkowski và Zodrow [58] xây dựng lại. Quan điểm này phân tích trạng thái cân bằng chung của phạm vi pháp lý ở một quốc gia và cho rằng cả tiền vốn của quốc gia đó cũng như đất đai nằm trong mọi phạm vi thẩm quyền đều là tài sản cố định. Như Wassmer [70] đã mô tả, sự phân tích nhấn mạnh quan điểm mới này thường bị đơn giản hóa khi người ta cho rằng chỉ có ba loại quyền tài phán khác nhau tồn tại theo nhu cầu dịch vụ địa phương là quyền tài phán thấp, vừa và cao. Xét về ngắn hạn, tài sản được cấu thành từ tiền vốn hoặc đất đai được xem là tài sản cố định trong mọi phạm vi thẩm quyền với Po. Trước khi tính thuế, thu nhập từ vốn (return on capital) có tỷ lệ được xác định trên toàn quốc (Rn). Sau khi tính thuế, thu nhập từ vốn giảm đúng bằng khoản thuế phải đóng, giống như diễn giải của quan điểm truyền thống về đất đai nói riêng. Mức giảm này lớn nhất trong phạm vi thẩm quyền trong đó nhu cầu dịch vụ là cao nhất, khi cần phải đạt doanh thu lớn hơn nhằm cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu. Như chỉ ra trong Hình 2.3, thu nhập giảm xuống bằng Rh1 trong phạm vi thẩm quyền có nhu cầu cao, Rm1 trong phạm vi thẩm quyền có nhu cầu vừa và R11 trong phạm vi thẩm quyền có nhu cầu thấp. Mức giảm thu nhập từ tài sản trong phạm vi thẩm quyền có nhu cầu vừa từ Rn xuống còn Rm1 được gọi là ảnh hưởng từ “thuế lợi nhuận”, chính là mức giảm giá trị thị trường của tài sản ở tất cả các khu vực tính theo mức thuế bình quân [58]. Ảnh hưởng từ thuế lợi nhuận tăng lên trong phạm vi thẩm quyền có nhu cầu cao do ảnh hưởng tiêu cực từ “thuế hàng hóa” (excise tax), bằng mức chênh lệch giữa Rh1 và Rm1. Điều này là do phạm vi thẩm quyền có nhu cầu cao chịu mức thuế cao hơn khu vực có nhu cầu vừa. Tuy nhiên, trong phạm vi thẩm quyền có nhu cầu thấp, ảnh hưởng từ thuế lợi nhuận được giảm bớt phần nào nhờ ảnh hưởng tích cực từ thuế hàng hóa, bằng mức chênh lệch giữa R11 và Rm1. Điều này là do phạm vi thẩm quyền có nhu cầu thấp chịu mức thuế thấp hơn khu vực có nhu cầu vừa. Do thu nhập từ tài sản trong ba loại phạm vi thẩm quyền khác nhau cũng như tiền vốn được coi là tài sản lưu động hoàn hảo về dài hạn nên tiền vốn sẽ bị rút khỏi phạm vi thẩm quyền có nhu cầu cao (khu vực có mức thu nhập từ tài sản thấp nhất), khiến mức đầu tư tài sản (supply of property) vào khu vực này giảm từ Po xuống P1. Tiền vốn này sẽ được chuyển sang phạm vi thẩm quyền có nhu cầu thấp (khu vực có mức thu nhập từ tài sản cao nhất), giúp tăng đầu tư tài sản từ Po lên P1. Mức giảm đầu tư tài sản trong phạm vi thẩm quyền có nhu cầu cao khiến khoản thu nhập từ tài sản tăng lên từ Rh1 lên Rh2. Mức tăng đầu tư tài sản trong phạm vi thẩm quyền có nhu cầu thấp sẽ khiến khoản thu nhập từ tài sản giảm từ R11 xuống R12. Trạng thái cân bằng đạt được khi khoản thu nhập từ tài sản sau thuế ở cả ba loại phạm vi thẩm quyền Rh2, 32