Thương mại điện tử - Chương 11: Đánh giá danh mục đầu tư

ppt 26 trang vanle 2060
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thương mại điện tử - Chương 11: Đánh giá danh mục đầu tư", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pptthuong_mai_dien_tu_chuong_11_danh_gia_danh_muc_dau_tu.ppt

Nội dung text: Thương mại điện tử - Chương 11: Đánh giá danh mục đầu tư

  1. Chương 11 ĐÁNH GIÁ DANH MỤC ĐẦU TƯ
  2. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH Khách hàng yêu cầu gì đối với nhà quản trị? Các thước đo thành tích quản trị danh mục đầu tư Lựa chọn thời điểm thị trường và lựa chọn chứng khoán
  3. Các giải pháp đánh giá danh mục – Trước 1960: Đánh giá chủ yếu dựa vào tỷ suất lợi nhuận. Chưa có phương pháp lượng hóa rủi ro nên không thể đưa rủi ro vào bài toán đánh giá; lợi suất và rủi ro được xem xét tách rời. – Phương pháp phổ biến: So sánh đồng đẳng. Nhóm các danh mục lại theo cùng mức rủi ro (phương sai) và so sánh lợi suất của các danh mục trong một nhóm. • Nhược điểm: không tính đến rủi ro một cách trực tiếp, không tạo thành nhóm đồng đẳng đủ lớn, lợi suất tương đối không gắn với mục tiêu và những điều kiện ràng buộc của đầu tư.
  4. Sau 1960s – Lý thuyết đầu tư hiện đại được xây dựng, với mô hình CAPM. – Đòi hỏi đánh giá thành tích quản trị danh mục đầu tư phải gắn lợi nhuận với rủi ro  Các phương pháp đánh giá tổng hợp ra đời.
  5. Những đòi hỏi đối với nhà quản trị Năng lực đạt được mức lợi suất trên trung bình, với một mức rủi ro nhất định. Năng lực đa dạng hóa danh mục, loại bỏ hoàn toàn rủi ro phi hệ thống so với danh mục chuẩn.
  6. Mức lợi suất trên trung bình – Theo lý thuyết hiện đại, lợi suất vượt trội (trên mức trung bình thị trường) điều chỉnh theo rủi ro có thể đạt được nhờ: • Năng lực phân tích thời điểm (timing) vượt trội, hoặc • Năng lực lựa chọn chứng khoán vượt trội. – Năng lực phân tích thời điểm: đưa ra được các dự báo về xu hướng của nền kinh tế, giá cả, lãi suất để xây dựng và điều chỉnh danh mục hợp lý, đạt lợi nhuận cao. – Năng lực lựa chọn chứng khoán: tìm ra những chứng khoán bị đánh giá thấp so với rủi ro.
  7. Phân tích thời điểm (timing) DANH MỤC CỔ PHIẾU TT tăng giá: Lợi nhuận Lợi suất chọn beta Dự báo các cao hơn khi điều chỉnh cao; giảm đỉnh và đáy TT tăng giá, theo rủi ro giá: beta của thị tổn thất nhỏ cao hơn thấp và trường hơn khi TT mức trung công TT tiền suy giảm . bình tệ DANH MỤC TRÁI PHIẾU Lợi suất điều Tăng (giảm) Dự báo lãi suất chỉnh theo rủi ro Duration của giảm (tăng) cao hơn mức danh mục trung bình
  8. Năng lực thực hiện đa dạng hóa – Thị trường chỉ “thưởng” cho nhà đầu tư về việc chấp nhận rủi ro hệ thống. Rủi ro phi hệ thống không được tính tới trong mức lợi suất đòi hỏi. – → nhà quản trị muốn danh mục được đa dạng hóa hoàn toàn, để loại bỏ rủi ro phi hệ thống. – Mức độ da dạng hóa: được đánh giá theo tương quan giữa lợi suất của DM với lợi suất của DM chuẩn (ví dụ, chỉ số thị trường). – Danh mục đa dạng hóa hoàn toàn có tương quan hoàn hảo với danh mục chuẩn.
  9. Phương pháp Treynor – Treynor xây dựng một thước đo tổng hợp thành tích danh mục, có tính đến rủi ro. – Tổng rủi ro = rủi ro do những biến động thị trường tổng thể + rủi ro do những biến động riêng của các chứng khoán trong DM. – Rủi ro thị trường được nhận diện bằng đường đặc trưng chứng khoán; độ dốc của nó thể hiện tính biến động tương đối (β). – Độ lệch khỏi đường đặc trưng cho thấy rủi ro riêng của danh mục, bắt nguồn từ lợi suất của các cổ phiếu riêng lẻ.
  10. – Danh mục được đa dạng hóa hoàn hảo thì rủi ro cá biệt của những cổ phiếu riêng lẻ sẽ loại bỏ nhau. – Tương quan giữa danh mục với thị trường tăng lên, rủi ro cá biệt giảm và tính đa dạng tăng lên.
  11. Công thức tính hệ số Treynor – Áp dụng cho mọi nhà đầu tư, không phân biệt mức độ chấp nhận rủi ro. – Kết hợp một tài sản phi rủi ro với những danh mục đầu tư khác nhau, tạo thành những “đường danh mục khả thi” tương ứng. – Một nhà đầu tư hợp lý, sợ rủi ro sẽ luôn luôn thích đường danh mục khả thi cao hơn (có độ dốc lớn hơn).
  12. – Công thức cho biết mức bù rủi ro trên một đơn vị rủi ro hệ thống – T càng lớn, độ dốc của đường danh mục khả thi càng lớn và danh mục càng tốt hơn đối với mọi nhà đầu tư. – So sánh T của danh mục với T của thị trường để biết danh mục này có nằm bên trên SML không.
  13. Ví dụ: tính giá trị T; RM = 14%; RFR = 8% Nhà quản trị Lợi suất thực tế Beta T = (Lợi suất thực tế bq danh mục bình quân – rf) /beta M (thị trường) 0,14 1,0 0,060 W 0,12 0,9 0,044 X 0,16 1,05 0,076 Y 0,18 1,20 0,083 Nhà quản trị W: xếp hạng thấp nhất, kém hơn cả danh mục thị trường Cả X và Y đều “thắng” danh mục thị trường, đều nằm bên trên đường SML
  14. Lợi suất SML 0,18 TY 0,16 TX 0,14 TM 0,12 TW 0,08 0,00 0,50 1,00 1,50 Beta
  15. Beta âm: ví dụ về danh mục vàng • Nhà quản trị G đầu tư mạnh vào các cổ phiếu khai thác vàng trong một thời kỳ bất ổn về kinh tế, chính trị. • Danh mục G có beta = -0,2 và lợi suất trung bình = 10%. TG = (0,10 – 0,08)/ - 0,02 = - 0,100 Mặc dù TG âm, nó vẫn nằm bên trên đường SML.
  16. Nhận xét – Thành tích lợi suất rất kém, hoặc rất tốt với rủi ro rất thấp, đều đem lại giá trị T RFR cũng có T < 0. DM có T < 0 vẫn có thể nằm bên trên SML – T được sử dụng để đặt danh mục lên đồ thị SML hoặc để tính lợi suất dự tính (đòi hỏi) của danh mục này và so sánh với lợi suất thực tế của nó.
  17. Phương pháp Sharpe (S) • Thước đo S bám sát mô hình CAPM, trực tiếp sử dụng CML • Đo tổng rủi ro của danh mục (σ) thay vì chỉ đo rủi ro hệ thống (β): cho biết mức bù rủi ro trên một đơn vị của tổng rủi ro. • Sử dụng tổng rủi ro để so sánh các danh mục với CML.
  18. Danh mục Lợi suất thực Độ lệch chuẩn tế trung bình của lợi suất M 0,14 0,20 0,300 D 0,13 0,18 0,278 E 0,17 0,22 0,409 F 0,16 0,23 0,348 Danh mục D có mức bù rủi ro cho một đơn vị tổng rủi ro thấp nhất, chưa bằng mức bù rủi ro của danh mục thị trường. Danh mục E và F tốt hơn danh mục thị trường, và E tốt hơn F.
  19. So sánh T và S – S sử dụng σ (đo tổng rủi ro), còn T sử dụng beta (rủi ro hệ thống) → S đánh giá nhà quản trị cả về lợi suất lẫn đa dạng hóa. – Với DM đa dạng hóa hoàn toàn, không còn rủi ro phi hệ thống: cả S và T cho xếp hạng như nhau, vì phương sai = RRHT – Với DM kém đa dạng hóa: T cho xếp hạng cao hơn nhiều so với S. Sự khác biệt có nguồn gốc trực tiếp từ đa dạng hóa. – Cả T và S đều cho xếp hạng tương đối.
  20. – T và S là hai thước đo cung cấp thông tin khác nhau nhưng bổ sung cho nhau. – Cần phải sử dụng cả hai thước đo. – Với một nhóm các danh mục đa dạng hóa mạnh (như một số quỹ đầu tư) thì hai phương pháp cho kết quả xếp hạng tương tự nhau.
  21. Phương pháp Jensen – Điểm chung: dựa vào CAPM Biểu diễn lợi suất được thực hiện (realized) RP = RFR + βP [RM – RFRt] + αP RP - RFR = βP [RM – RFRt] + αP → αP = RP – [RFR + βP (RM – RFRt)] J là lợi suất bình quân trên danh mục vượt quá mức dự đoán bởi CAPM, với một giá trị của beta và lợi suất trung bình của thị trường. J là giá trị alpha của danh mục.α = 0,02: nhà quản trị tạo ra lợi suất cao hơn 2% so với mức hợp lý ứng với rủi ro của danh mục.
  22. Phương pháp hệ số thông tin • IR đo mức lợi suất bình quân của danh mục vượt quá lợi suất bình quân của danh mục chuẩn, chia cho độ lệch chuẩn của khoản phụ trội này. – IRj = hệ số thông tin của danh mục j – Rj = lợi suất trung bình của j trong một kỳ – Rb = lợi suất trung bình của benchmark trong kỳ – ϬER = độ lệch chuẩn của lợi suất phụ trội trong kỳ
  23. – Nhà quản trị giỏi thường luôn chọn được các CK bị đánh giá thấp, thu mức bù rủi ro cao hơn so với dự báo của mô hình này → luôn luôn có eP > 0, vì lợi suất thực tế của những DM của họ luôn lớn hơn lợi suất dự tính theo mô hình. – Để tìm ra nhà quản trị này → cho phép một điểm chặn (hằng số ≠ 0) đo lường khoảng cách + hoặc – so với mô hình.
  24. – Khoản chênh lệch >0 → điểm chặn > 0 Rjt - RFRt = αj + βj [RMt – RFRt] + ejt Alpha > 0 cho biết nhà quản trị có năng lực trong phân tích thời điểm thị trường và lựa chọn cổ phiếu. – α cho biết: trong lợi suất của DM có bao nhiêu là do năng lực của nhà quản trị (dự báo thị trường hoặc lựa chọn cổ phiếu) để đạt được lợi suất điều chỉnh theo rủi ro cao hơn mức trung bình.
  25. • Ứng dụng thước đo Jensen – Đòi hỏi sử dụng RFR khác nhau cho từng giai đoạn trong kỳ mẫu. So với T và S: xem xét lợi suất bình quân trên toàn kỳ đối với tất cả các biến số (danh mục, thị trường và tài sản phi rủi ro) – Giống T: J không trực tiếp xem xét khả năng đa dạng hóa của nhà QT, vì nó tính mức bù rủi ro theo rủi ro hệ thống. Giả thiết này là hợp lý khi áp dụng đánh giá các quỹ đầu tư (đa dạng hóa hoàn toàn).
  26. • ϬER đôi khi còn gọi là tracking-error của danh mục, là chi phí của quản trị chủ động. • IR có thể được coi là hệ số lợi ích – chi phí. • Nếu lợi suất định kỳ được đo T lần/năm, thì hệ số IR hàng năm sẽ là: (Trong đó ϭe là sai số chuẩn của phép hồi quy)