Quản trị tài chính doanh nghiệp xây dựng - Chương 7: Công cụ tài chính phái sinh
Bạn đang xem tài liệu "Quản trị tài chính doanh nghiệp xây dựng - Chương 7: Công cụ tài chính phái sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- quan_tri_tai_chinh_doanh_nghiep_xay_dung_chuong_7_cong_cu_ta.pdf
Nội dung text: Quản trị tài chính doanh nghiệp xây dựng - Chương 7: Công cụ tài chính phái sinh
- BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DNXD - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ CHƯƠNG 7: CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH Trong môn học “Tài chính doanh nghiệp xây dựng” ở chương trình đại học, chúng ta đã đề cập đến phân loại chứng khoán căn cứ vào tính chất huy động vốn. Theo cách phân loại này, có thể phân loại chứng khoán thành chứng khoán vốn, chứng khoán nợ và các chứng khoán phái sinh. Một trong những phát triển đáng kể nhất của đổi mới tài chính trong thời gian gần đây là việc sử dụng các công cụ phái sinh ngày càng tăng. Các công cụ này đặt cược phụ trên lãi suất, hối suất, giá cả hàng hóa, v.v. Các doanh nghiệp không phát hành các công cụ tài chính phái sinh để huy động tiền, họ mua hay bán chúng để bảo vệ chống lại các thay đổi có hại trong nhiều yếu tố ngoại lai. Trên các thị trường chứng khoán phát triển, ngoài hoạt động giao dịch các chứng khoán thông thường như các loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, còn xuất hiện một số loại chứng khoán phái sinh khác như quyền mua cổ phần (Rights), chứng quyền (Warrants), hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn, v.v. Theo Nghị định số 42/2015/NĐ-CP ngày 05/5/2015 của Chính phủ, về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh, chứng khoán phái sinh gồm: hợp đồng tương lai, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn và các chứng khoán phái sinh khác (trích khoản 1 Điều 3). Chứng khoán phái sinh hình thành trên cơ sở các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nó không có vai trò tạo vốn cho nền kinh tế, nhưng nó làm cho thị trường chứng khoán giao dịch sôi động, làm tăng thêm tính hấp dẫn cho các loại chứng khoán phát sinh ra nó. 7.1. Quyền mua cổ phần (Rights) Trong kinh doanh, những công ty thành đạt thường có nhu cầu phát hành thêm cổ phiếu thường bổ sung vốn để mở rộng kinh doanh. Nhưng khi phát hành cổ phiểu bổ sung sẽ ảnh hưởng đến quyền sở hữu đối với công ty của các cổ đông hiện hữu. Nghĩa là quyền sở hữu, quyền kiểm soát đối với công ty cổ đông hiện hành bị “pha loãng”. Để khắc phục nhược điểm này, công ty cổ phần đã cho phép các cổ đông hiện hành được hưởng quyền ưu tiên: quyền được mua trước cổ phiếu thường mới phát hành với giá thấp hơn giá thị trường và với số lượng tỷ lệ với số cổ phần mà cổ đông đang nắm giữ. Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán của công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu thường bổ sung và được phát hành cho cổ đông hiện hành, sau đó chúng có thể được đem ra giao dịch. Mỗi cổ phần thường đang lưu hành được xác định có một quyền mua. Số lượng quyền cần thiết để mua một cổ phiếu thường mới sẽ được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành. Các công ty thường xác định số lượng quyền cần mua để mua một cổ phiếu mới như sau: Chương 7 - Công cụ tài chính phái sinh Page 85
- BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DNXD - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ Số lượng quyền cần để Số lượng cổ phiếu cũ đang lưu hành = mua một cổ phiếu mới Số lượng cổ phiếu mới phát hành Trong đó: Số lượng cổ phiếu Mức vốn cần huy động = mới phát hành Giá ghi bán một cổ phiếu Nếu các cổ đông thực hiện quyền mua cổ phiếu mới, sẽ duy trì được tỷ lệ sở hữu đối với Công ty. Nếu không thực hiện quyền mua cổ phiếu mới thì họ có thể bán quyền đó trên thị trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền mua có thể tăng hoặc giảm trong khoảng thời gian chào bán, tuỳ thuộc vào giá thị trường của cổ phiếu. Tham khảo Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành nhằm mang lại cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phần mới theo điều kiện đã được xác định. (trích khoản 5 Điều 6 Văn bản hợp nhất Luật chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội) 7.2. Chứng quyền (Warrants) Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, trong đó xác nhận quyền được mua một số cổ phiếu theo những điều kiện nhất định. Thông thường chứng quyền được phát hành cùng với đợt phát hành các trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi để giúp cho việc chào bán lần đầu các chứng khoán này trở nên hấp dẫn hơn. Chẳng hạn, một công ty có thể phát hành kết hợp giữa các trái phiếu và chứng quyền. Các trái phiếu được phát hành dưới hình thức thông thường, còn chứng quyền được phát hành nhằm giúp cho việc chào bán trái phiếu hấp dẫn hơn. Chẳng hạn, một công ty có thể phát hành kết hợp giữa các trái phiếu và chứng quyền. Các trái phiếu được phát hành dưới hình thức thông thường, còn chứng quyền được phát hành nhằm giúp cho việc chào bán trái phiếu hấp dẫn hơn. Nếu công ty có chiều hướng phát triển tốt, thì chứng quyền sẽ hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Chứng quyền cho phép người nắm giữ được mua cổ phiếu thường mới một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định. Giá định trước trên chứng quyền cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường và chứng quyền có thời hạn dài hơn quyền mua cổ phần. Ví dụ: Công ty cổ phần X có cổ phiếu thường đang lưu hành trên thị trường với giá 30.000 đồng mỗi cổ phiếu vào ngày 20 tháng 9 năm N, tại thời điểm này Công ty phát hành chứng quyền cho phép người sở hữu nó được quyền mua cổ phiếu thường với giá 35.000 đồng mỗi cổ phiếu vào bất cứ thời điểm nào cho đến ngày 31 tháng 12 năm N+1. Chương 7 - Công cụ tài chính phái sinh Page 86
- BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DNXD - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ Nếu công ty X có triển vọng phát triển tốt và công chúng cho rằng các cổ phiếu thường không chỉ đạt tới giá 35.000 đồng mỗi cổ phiếu vào năm N+1 mà còn có thể được mua bán trên mức giá đó thì chứng quyền sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Chứng quyền có thể được giao dịch tách biệt hoặc kèm với chứng khoán gốc của chứng quyền đó. Nếu giá thị trường của cổ phiếu thường cao hơn mức giá được quyền mua của chứng quyền thì chứng quyền sẽ có giá trị, còn ngược lại chứng quyền sẽ không có giá trị. Giá trị của chứng quyền được quyết định bởi giá trị nội tại và độ dài thời hạn của chứng quyền. Nhìn chung, thời gian cho đến khi hết hạn càng dài thì giá trị của chứng quyền càng cao. Tuy nhiên nếu giá trị của một cổ phiếu thấp hơn mức giá thực hiện, nhưng thời hạn còn lại của chứng quyền là dài thì giá trị thời gian sẽ góp phần đáng kể vào giá trị thị trường của chứng quyền. Về cơ bản, các mức giá chứng quyền sẽ có xu hướng tăng trong một thị trường giá tăng lên và giảm trong một thị trường giá xuống thấp. Tham khảo Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định. (trích khoản 6 Điều 6 Văn bản hợp nhất Luật chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội) 7.3. Hợp đồng tương lai (hay hợp đồng giao sau - Futures) Hợp đồng tương lai là một lệnh (hay cam kết) đặt trước để mua hoặc bán một tài sản hay một hàng hóa. Giá cả được ấn định khi đặt lệnh, nhưng chưa trả tiền cho đến ngày giao hàng. Các thị trường hợp đồng tương lai đã tồn tại một thời gian dài cho các hàng hóa như lúa mì, đậu nành và đồng. Các thị trường tương lai phát triển chủ yếu trong thập niên 1970 khi các sở giao dịch hợp đồng tương lai bắt đầu giao dịch các hợp đồng về tài sản tài chính, như: trái phiếu, đồng tiền và các chỉ số thị trường chứng khoán. Các hợp đồng tương lai liên quan đến hàng hoá nông sản như ngũ cốc hay gia súc, thực phẩm nhập khẩu (cà phê, ca cao, đường) hay các hàng công nghiệp được giao dịch gọi chung là các hợp đồng tương lai hàng hoá. Các hợp đồng tương lai dựa trên một công cụ tài chính hay một chỉ số tài chính được gọi là hợp đồng tương lai tài chính. Về cơ bản, đối với việc mua bán trong tương lai cần phải chú ý rằng: khi người mua một hợp đồng tương lai, người đó đang ở trạng thái “dư thừa”. Để làm như vậy, người mua chỉ cần đồng ý nhận hàng, thanh toán đầy đủ một số tiền xác định và mẫu hàng nhất định được giao cho người mua tại một địa điểm xác định trong một tháng nào đó được xác định trong tương lai. Ngược lại, khi người đó bán một hợp đồng trong tương lai, người đó đang ở trạng thái “thiếu hụt”. Người đó đang Chương 7 - Công cụ tài chính phái sinh Page 87
- BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DNXD - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ chấp nhận giao một số lượng hàng xác định và một mẫu hàng nhất định tại một địa điểm xác định trong một tháng nào đó trong tương lai, vào thời điểm đó người bán sẽ được thanh toán đầy đủ. Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng tương lai được thống nhất về số lượng, chất lượng phải giao, địa điểm giao hàng và nhiều quy định cụ thể khác. Tất cả được xác định trước và được quy định cụ thể theo các nguyên tắc giao dịch. Nếu một hợp đồng tương lai được thoả thuận, người mua và người bán cần phải quyết định tháng giao hàng, số liệu trên hợp đồng và giá cả. Giá cả trên hợp đồng là giá được thoả thuận giữa người mua và người bán bằng đấu giá công khai trong phòng giao dịch của Sở giao dịch các hợp đồng tương lai có tổ chức. Các hợp đồng tương lai có thể được thực hiện thông qua giao hàng hoặc bù đắp (hay được thanh lý). Thực hiện bằng giao hàng có nghĩa là bạn phải hoặc là nhận hoặc là giao hàng theo như hợp đồng đã ký kết. Tuy nhiên, số các hợp đồng tương lai được thực hiện bằng giao hàng là rất ít, còn hầu hết chúng được thanh lý (bù đắp) trước tháng giao hàng. Cho dù có hợp đồng nhưng việc giao hàng không nhất thiết phải được thực hiện. Các thành viên tham gia thị trường này không phải giao hoặc nhận hàng trừ khi họ có khả năng hoặc mong muốn thực hiện điều đó. Người chủ một hợp đồng, dù là người mua hay người bán có quyền lựa chọn việc bù đắp hợp đồng. Việc bù đắp hợp đồng được thực hiện bằng cách bán hay mua một hợp đồng có cùng số lượng trong cùng tháng giao hàng đó. Chẳng hạn, một nhà đầu tư đã mua, giả sử một hợp đồng chỉ số cổ phiếu X, có thể bù đắp hợp đồng này bằng việc bán một hợp đồng khác vào cùng tháng giao hàng. Tương tự, một người đã bán một hợp đồng có thể bù đắp hợp đồng đó bằng một hợp đồng khác có cùng số lượng và tháng giao hàng. Nói khác đi, trạng thái này có thể bù đắp trạng thái kia và chênh lệch giữa giá của hai giao dịch thể hiện khoản lợi nhuận hoặc lỗ của nhà đầu tư. Tham khảo Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai. (trích khoản 8 Điều 6 Văn bản hợp nhất Luật chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội) 7.4. Hợp đồng kỳ hạn (Forwards) Các hợp đồng tương lai là các sản phẩm đã được tiêu chuẩn hóa, được mua bán trong các sở giao dịch có tổ chức. Một hợp đồng kỳ hạn là một hợp đồng tương lai theo “đơn đặt hàng”, không được giao dịch trong một sở giao dịch có tổ chức. Công cuộc kinh doanh chính trong các hợp đồng kỳ hạn diễn ra trong thị trường ngoại hối, nơi các doanh nghiệp cần tự bảo vệ mình chống lại một thay đổi trong hối suất mua hay bán đồng tiền kỳ hạn qua một ngân hàng. Chương 7 - Công cụ tài chính phái sinh Page 88
- BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DNXD - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ Điểm khác biệt giữa một hợp đồng kỳ hạn và giao dịch ngay là thời điểm thanh toán giao dịch. Trong phần lớn các giao dịch giao ngay, hàng hoá được trao đổi và việc thanh toán được tiến hành ngay lập tức (nếu trả bằng tiền) hoặc trong vòng hai ngày giao dịch kể từ khi ký kết hợp đồng. Đối với hợp đồng kỳ hạn, thời hạn kết thúc giao dịch được để lùi lại một khoảng thời gian trong tương lai. Các hợp đồng kỳ hạn xác định một ngày thanh toán cụ thể hoặc một thời điểm tiến hành giao dịch trên thực tế. Khi ngày thanh toán tới, người mua phải trả tiền để mua hàng hoá tại mức giá thoả thuận ban đầu và người bán chuyển giao hàng với số lượng ấn định ban đầu. Trong hợp đồng kỳ hạn chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên thoả thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính cá nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng có sự thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua hoặc bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (đối với bên bán) hoặc cao hơn (đối với bên mua) so với giá thị trường. Như vậy, bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ gia tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì giá cả đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác. Tham khảo Hợp đồng kỳ hạn là chứng khoán phái sinh giao dịch thỏa thuận, xác nhận cam kết mua hoặc bán một số lượng tài sản cơ sở nhất định theo một mức giá đã được xác định vào một ngày đã được ấn định trước trong tương lai (trích khoản 1 Điều 3 Nghị định số 42/2015/NĐ-CP ngày 05/5/2015 của Chính phủ, về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh) 7.5. Quyền lựa chọn (hay quyền chọn - Traded Options) Một quyền lựa chọn cho doanh nghiệp quyền, nhưng không phải bắt buộc, mua hay bán một tài sản trong tương lai với giá thỏa thuận ngày nay. Đôi khi doanh nghiệp phát hành các quyền lựa chọn, hoặc tự bản thân các quyền lựa chọn (các chứng chỉ đặc quyền) hoặc gắn với các chứng khoán khác (các chứng khoán chuyển đổi). Ngoài ra, có một khối lượng lớn các giao dịch quyền lựa chọn được tạo ra bởi các sở chuyên giao dịch quyền lựa chọn. Ví dụ: doanh nghiệp có thể giao dịch quyền lựa chọn để mua hay bán cổ phần thường, trái phiếu, đồng tiền và hàng hóa. (tr.474 - TCDN hiện đại - Trần Ngọc Thơ). Quyền lựa chọn là một bản hợp đồng mang tính thỏa thuận nhưng ràng buộc về mặt pháp lý, trong đó có ba bên tham gia: Chương 7 - Công cụ tài chính phái sinh Page 89
- BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DNXD - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ Bên thứ nhất: người mua quyền lựa chọn (gọi là người chủ) trả một khoản tiền mua quyền để được thực hiện một giao dịch loại chứng khoán nào đó với số lượng và giá cả đã ấn định trong một thời hạn nhất định. Bên thứ hai: người viết quyền lựa chọn đồng thời là người bán quyền (gọi là người thụ trái), thu một khoản tiền từ người mua để có nghĩa vụ thực hiện giao dịch đã nêu trong hợp đồng. Bên thứ ba: cơ quan quản lý, đảm bảo cho giao dịch nêu trong hợp đồng sẽ được thực hiện đúng. Một quyền lựa chọn có những đặc điểm cơ bản sau: - Loại quyền: quyền lựa chọn bao gồm quyền chọn mua và quyền chọn bán. Quyền chọn mua: là một hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên cho bên kia được quyền mua một khối lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định trong một thời hạn nhất định. Người mua quyền chọn mua phải trả cho người bán nó một khoản tiền gọi là tiền cược thuận hay trị giá quyền chọn mua. Quyền chọn bán: là hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên cho bên kia được quyền bán một khối lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định trong một thời hạn nhất định. Người mua quyền chọn bán phải trả cho người bán quyền một khoản tiền được gọi là giá quyền hoặc phí quyền. - Tên hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua hoặc bán theo quyền. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, hợp đồng tương lai. - Ngày hết hạn: Ngày mà sau đó quyền hết giá trị gọi là ngày hết hạn. Quyền lựa chọn kiểu Mỹ có thể thực hiện bất kỳ lúc nào trong hạn định. Quyền lựa chọn kiểu châu Âu chỉ có thể thực hiện vào cuối hạn định. - Giá thực hiện: Mức giá mà tại đó công cụ này có thể được mua hoặc bán gọi là mức giá thực hiện quyền. Mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn là mức giá thị trường hiện hành của hàng hoá cơ sở, giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền và giá của bản thân quyền lựa chọn. Các bộ phận cấu thành nên giá quyền bao gồm giá trị nội tại và giá trị thời gian của quyền: + Giá trị nội tại của quyền: Giá trị nội tại của một quyền lựa chọn là giá trị mà người nắm quyền giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền ngay lập tức. Do người mua quyền không bắt buộc phải thực hiện quyền và trong thực tế họ sẽ không làm điều đó nếu như không thu được hiệu quả kinh tế nào từ việc thực hiện quyền, nên giá trị nội tại của một quyền thấp nhất sẽ bằng 0. Đối với một quyền lựa chọn mua, nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá của chứng khoán cơ sở, quyền chọn mua đó được coi là lãi. Một quyền chọn có mức giá thực hiện ngang bằng với giá hiện hành của chứng khoán cơ sở được coi là hoà vốn, Chương 7 - Công cụ tài chính phái sinh Page 90
- BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DNXD - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ còn nếu cao hơn giá hiện hành của chứng khoán thì bị coi là lỗ. Cả hai loại quyền lỗ và hoà vốn đều có giá trị nội tại bằng 0. Đối với quyền chọn bán thì ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lãi nếu giá trị thực hiện quyền cao hơn giá hiện hành của chứng khoán cơ sở và sẽ bị lỗ nếu giá trị thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của chứng khoán cơ sở. + Giá trị thời gian của quyền Giá trị thời gian của quyền lựa chọn là khoản trội ra giữa giá của một quyền so với giá trị nội tại của nó. Mức phụ trội cao hơn giá trị nội tại được gọi là giá trị thời gian. Quyền lựa chọn hết giá trị vào ngày kết thúc thời hạn của nó. Nếu trong thời hạn hiệu lực, người chủ hợp đồng thực hiện hợp đồng thì người viết quyền lựa chọn phải có nghĩa vụ thực hiện các điều khoản trong hợp đồng mà không được từ chối hoặc trì hoãn vì bất cứ lý do gì. Nếu không muốn thực hiện quyền, người chủ có thể bán quyền lựa chọn đó trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, quyền lựa chọn cũng được coi là một loại chứng khoán của thị trường chứng khoán. Hiện nay, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, giao dịch về quyền lựa chọn trên thị trường chứng khoán cũng tấp nập như giao dịch cổ phiếu và trái phiếu. Tham khảo Quyền chọn mua, quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán được xác định trước trong khoảng thời gian nhất định với mức giá được xác định trước. (trích khoản 7 Điều 6 Văn bản hợp nhất Luật chứng khoán số 27/VBHN-VPQH ngày 18/12/2013 của Văn phòng Quốc hội) 7.6. Hoán đổi (Swaps) Giao dịch hoán đổi ngoại tệ là giao dịch đồng thời mua và bán cùng một lượng ngoại tệ (chỉ có hai đồng tiền được sử dụng trong giao dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch là khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tác giả Hoàng Kim (2001), Tiền tệ - Ngân hàng - Thị trường tài chính, Nhà Xuất bản Tài chính, Hà Nội, đề cập đến thị trường hoán đổi. Thị trường hoán đổi (swaps market) bao gồm hai nghiệp vụ: hoán đổi lãi suất (interest rate swaps) và hoán đổi tiền tệ (currency swaps). Hoán đổi lãi suất là một hợp đồng giữa hai bên để trao đổi số lãi phải trả tính trên một số tiền nhất định trong một thời hạn nhất định. Hoán đổi tiền tệ là trao đổi một khoản nợ bằng một đồng tiền này cho một khoản nợ bằng một đồng tiền khác. Như vậy, nghiệp vụ swaps là một cam kết song phương giữa hai ngân hàng, theo đó các ngân hàng sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định, một số lượng nhất định Chương 7 - Công cụ tài chính phái sinh Page 91
- BÀI GIẢNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH DNXD - CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ đồng tiền này (ví dụ 1.000 USD lấy một số lượng biến đổi (ví dụ 900 EUR) đồng tiền khác, trong một thời hạn xác định, với cam kết là hoàn lại vốn khi đến hạn. Trong nghiệp vụ swaps, hai bên ngân hàng đều có lợi: - Cả hai bên đều có thể thoả mãn nhu cầu về ngoại tệ cần sử dụng mà không phải đi vay trên thị trường. - Thông qua quan hệ tạm thời giao vốn ngoại tệ cho nhau, họ không bị phụ thuộc vào rủi ro không trả được nợ (ngân hàng A chỉ trả tiền cho ngân hàng B khi ngân hàng B trả tiền cho ngân hàng A). Thực chất việc này chỉ là sự trao đổi ngoại tệ, không phải là trao đổi khoản vay hay quan hệ tín dụng. Tham khảo Ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam, tên viết tắt là Ngân hàng Quốc Tế (VIB) được thành lập ngày 18 tháng 9 năm 1996, trụ sở đặt tại 16 Phan Chu Trinh, Q. Hoàn Kiếm, Hà Nội. Giao dịch hoán đổi ngoại tệ là giao dịch đồng thời mua và bán cùng một lượng ngoại tệ (chỉ có hai đồng tiền được sử dụng trong giao dịch), trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch là khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tính năng sản phẩm: - Giải quyết nhu cầu vốn của khách hàng bằng cơ chế mua giao ngay và bán kỳ hạn. Khách hàng có ngay vốn một đồng tiền mình đang có nhu cầu sử dụng với chi phí hợp lý mà không cần mất thời gian làm thủ tục vay vốn. - Đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp muốn sử dụng nguồn tiền thu của tương lai, tại thời điểm hiện tại. - Đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp đang có nguồn ngoại tệ trong hiện tại và sẽ loại bỏ rủi ro tỷ giá với nghĩa vụ thanh toán trong tương lai. - Trạng thái ngoại hối của khách hàng không bị thay đổi do đồng thời thực hiện mua và bán ngoại tệ trong hợp đồng Swap, khách hàng không bị rủi ro tỷ giá khi thị trường biến động. (vib.com.vn) Chương 7 - Công cụ tài chính phái sinh Page 92