Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã hội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã hội", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- nhung_van_de_co_ban_ve_bao_hiem_xa_hoi_va_quy_bao_hiem_xa_ho.pdf
Nội dung text: Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã hội
- Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã hội Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
- Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã hội Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Phiên bản trực tuyến:
- MỤC LỤC 1. Bảo hiểm xã hội trong đời sống người lao động 2. Khái niệm, đối tượng và chức năng của Bảo hiểm xã hội 3. Tính chất của Bảo hiểm xã hội 4. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội 5. Những quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội 6. Khái niệm, đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội 7. Phân loại quỹ bảo hiểm xã hội 8. Tạo nguồn 9. Sử dụng nguồn 10. Cơ quan tổ chức thực hiện Tham gia đóng góp 1/30
- Bảo hiểm xã hội trong đời sống người lao động Bảo hiểm xã hội trong đời sống người lao động. Xã hội loài người phát triển thông qua quá trình lao động và sản xuất, thế nhưng chính quá trình ấy một mặt đã đưa con người tới bước phát triển vượt bậc, mặt khác lại là căn nguyên của những nỗi lo thường trực của con người vì trong quá trình lao động và sản xuất con người luôn đứng trước nguy cơ gặp phải rủi ro bất ngờ sảy ra ngoài mong đợi: Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, ở, mặc và đi lại để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để sản xuất ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng của họ. Thế nhưng, trong thực tế không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều phát sinh ngẫu nhiên làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ suy giảm khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; Đi vay, đi xin hay dựa vào sự cứu trợ của nhà nước song đó là những cách làm thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi sảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro sảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ 2/30
- hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ xung từ ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Bảo hiểm xã hội ra đời đã giải quyết được mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ- thợ và kết hợp hài hoà lợi ích giữa các bên: • Đối với người lao động: Góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ kông may bị mất hoặc giảm thu nhập, tạo điều kiện cho họ yên tâm sản xuất và công tác, gắn bó lợi ích của mình và gắn bó lợi ích của chủ sử dụng lao động và lợi ích của nhà nước. • Đối với người sử dụng lao động: Giúp họ ổn định sản xuất kinh doanh tránh được những thiệt hại lớn khi phải chi ra những khoản tiền lớn khi không may người lao động mà mình thuê mướn gặp rủi ro trong lao động, đặc biệt thông qua bảo hiểm xã hội lợi ích của người sử dụng lao động với người lao động được giải quyết hài hoà tránh những căng thẳng không cần thiết. • Đối với xã hội: Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách bảo đảm an toàn cho xã hội, đặc biệt quỹ Bảo hiểm xã hội là một nguồn đầu tư rất lớn góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế, thông qua đó gắn bó lợi ích của tất cả các bên tham gia. 3/30
- Khái niệm, đối tượng và chức năng của Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm xã hội trong đời sống người lao động Xã hội loài người phát triển thông qua quá trình lao động và sản xuất, thế nhưng chính quá trình ấy một mặt đã đưa con người tới bước phát triển vượt bậc, mặt khác lại là căn nguyên của những nỗi lo thường trực của con người vì trong quá trình lao động và sản xuất con người luôn đứng trước nguy cơ gặp phải rủi ro bất ngờ sảy ra ngoài mong đợi: Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, ở, mặc và đi lại để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để sản xuất ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng của họ. Thế nhưng, trong thực tế không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều phát sinh ngẫu nhiên làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ suy giảm khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; Đi vay, đi xin hay dựa vào sự cứu trợ của nhà nước song đó là những cách làm thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi sảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro sảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ 4/30
- hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ xung từ ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Bảo hiểm xã hội ra đời đã giải quyết được mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ- thợ và kết hợp hài hoà lợi ích giữa các bên: • Đối với người lao động: Góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ kông may bị mất hoặc giảm thu nhập, tạo điều kiện cho họ yên tâm sản xuất và công tác, gắn bó lợi ích của mình và gắn bó lợi ích của chủ sử dụng lao động và lợi ích của nhà nước. • Đối với người sử dụng lao động: Giúp họ ổn định sản xuất kinh doanh tránh được những thiệt hại lớn khi phải chi ra những khoản tiền lớn khi không may người lao động mà mình thuê mướn gặp rủi ro trong lao động, đặc biệt thông qua bảo hiểm xã hội lợi ích của người sử dụng lao động với người lao động được giải quyết hài hoà tránh những căng thẳng không cần thiết. • Đối với xã hội: Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách bảo đảm an toàn cho xã hội, đặc biệt quỹ Bảo hiểm xã hội là một nguồn đầu tư rất lớn góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế, thông qua đó gắn bó lợi ích của tất cả các bên tham gia. 5/30
- Tính chất của Bảo hiểm xã hội Tính chất của Bảo hiểm xã hội • Tính tất yếu, khách quan trong đời sống xã hội: Chúng ta biết rằng bảo hiểm xã hội ra đời do xuất hiện những mâu thuẫn trong hệ chủ- thợ. Người lao động trong quá trình lao động khó có thể tránh được những biến cố, rủi ro, có những trường hợp rủi ro xảy ra như là một tất yếu. Khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình trạng khó khăn bởi sự gián đoạn trong sản xuất kinh doanh. Khi nền sản xuất càng phát triển thì những rủi ro trong lao động càng nhiều và trở lên phức tạp dẫn đến mối quan hệ chủ-thợ ngày càng căng thẳng và nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua bảo hiểm xã hội. Do đó, Bảo hiểm xã hội hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước. • Tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian: Xuất phát từ những rủi ro mang tính ngẫu nhiên không lường trước được, khó có thể xác định được khi nào thì người lao động gặp rủi ro trong lao động và cũng không phải tất cả những người lao động đều gặp rủi ro vào cùng một thời điểm. Tính chất này thể hiện bản chất của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít. • Bảo hiểm xã hội vừa có tính kinh tế, vừa có tính dịch vụ: Xét dưới góc độ kinh tế, cả người lao động và người sử dụng lao động đều được lợi khi không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động khi họ bị mất hoặc gảm thu nhập. Với nhà nước, bảo hiểm xã hội góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân sách, đồng thời quỹ bảo hiểm xã hội còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra bảo hiểm xã hội còn mang tính dịch vụ trong lĩnh vực tài chính bằng các hình thức phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm xã hội. • Tính nhân đạo nhân văn cao cả: Thể hiện ở sự tương trợ, san xẻ lẫn nhau những rủi ro không mong đợi. Một người có thể đóng góp rất nhiều vào quỹ bảo hiểm xã hội mà không được hưởng trợ cấp hoặc hưởng rất ít mà thôi, nhưng không hề gì, bởi số tiền đó sẽ được chia sẻ cho những người khác. Chẳng hạn: Khi một người tham gia bảo hiểm xã hội đã đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí nhưng không may họ bị chết và chỉ được hưởng một khoản trợ cấp tử tuất ít ỏi so với công lao đóng góp của họ. Hay một minh chứng cụ thể hơn đó là việc quy định một tỷ 6/30
- lệ đóng góp như nhau song những người đàn ông chẳng hy vọng gì ở khoản trợ cấp thai sản. 7/30
- Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Mục đích của bảo hiểm xã hội thường gắn liền với việc “đền bù” hậu quả của những sự kiện khác nhau xảy ra trong và ngoài quá trình lao động của những người lao động. Tập hợp những cố gắng tổ chức “ đền bù” cho những sự kiện đó là cơ sở chủ yếu của các chính sách bảo hiểm xã hội. Vì thế, năm 1952 Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ra công ước 102 quy định tối thiểu về bảo hiểm xã hội và đã được 158 nước thành viên phê chuẩn. Theo công ước này, hệ thống bảo hiểm xã hội gồm các nhánh sau: 1. Chăm sóc y tế. 2. Trợ cấp ốm đau. 3. Trợ cấp thất nghiệp. 4. Trợ cấp tuổi già. 5. Trợ cấp tai nạn lao động _ bệnh nghề nghiệp. 6. Trợ cấp gia đình. 7. Trợ cấp thai sản. 8. Trợ cấp tàn tật. 9. Trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Ở từng nước, tuỳ theo điều kiện có thể thực hiện có thể thực hiện một số chế độ cơ bản hoặc mở rộng. Tuy nhiên, ILO quy định rằng các thành viên phê chuẩn công ước phải thực hiện ít nhất 3 trong 9 chế độ nêu trên, trong đó phải có ít nhất một trong các chế độ 3, 4, 5, 8 hoặc 9. Các chế độ bảo hiểm xã hội hiện nay ở Việt nam bao gồm: 1.Trợ cấp ốm đau. 2.Trợ cấp thai sản. 1. Trợ cấp tai nạn lao động_ bệnh nghề nghiệp. 2. Trợ cấp hưu trí. 3. Trợ cấp tử tuất. Ngoài ra ở Châu Âu, các thành viên của cộng đồng châu âu đã ký một đạo luật gọi là Đạo luật Châu Âu về bảo hiểm xã hội. Đạo luật này về cơ bản tương tự như công ước 102 nhưng ở mức độ cao hơn và những điều kiện chặt chẽ hơn, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và xã hội của các nước thuộc cộng đồng châu Âu. 8/30
- Những quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội Những quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội Mọi người lao động đứng trước nguy cơ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội Bởi vì bảo hiểm xã hội ra đời là để phục vụ quyền lợi của người lao động và mọi người lao động ở mọi ngành nghề thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều đứng trước nguy cơ mất an toàn về thu nhập và đều có nhu cầu đước tham gia bảo hiểm xã hội. Hầu hết các nước khi mới thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, do các điều kiện kinh tế xã hội mà đối tượng thực hiện bảo hiểm xã hội chỉ là công nhân viên chức nhà nước và những người làm công hưởng lương. Việt nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động. Tuy nhiên việc tham gia bảo hiểm xã hội đã và sẽ được mở rộng đến tất cả người lao động bằng cả hình thức tự nguyện và bắt buộc. Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm xã hội đối với người lao động, người lao động phải có trách nhiệm tự bảo hiểm xã hội cho mình Bảo hiểm xã hội đem lại lợi ích cho cả người lao động, người sử dụng lao động và cả nhà nước: Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội và có đủ phương tiện, công cụ thực hiện chức năng đó, tuy nhiên không phải lúc nào chức năng đó cũng được phát huy tác dụng như mong muốn mà đôi khi đem lại những kết quả bất lợi làm ảnh hưởng đến đời sống người lao động. Khi đó dù không có bảo hiểm xã hội thì nhà nước vẫn phải chi ngân sách để giúp đỡ người lao động dưới một dạng khác. Đối với người sử dụng lao động cũng tương tự nhưng trên phạm vi xí nghiệp, đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh. Chỉ khi người sử dụng lao động chăm lo đến đời sống người lao động và có những ưu đãi xứng đáng thì người lao động mới yên tâm, tích cực lao động góp phần tăng năng suất lao động. Còn đối với người lao động, những rủi ro phát sinh suy cho cùng đều có một phần lỗi của người lao động (do ý thức, tay nghề ) và vì thế họ cũng phải gánh vác một phần trách nhiệm tự bảo hiểm xã hội cho mình. 9/30
- Bảo hiểm xã hội phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm xã hội độc lập, tập trung Nhờ sự đóng góp của các bên tham gia mà phương thức riêng có của bảo hiểm xã hội là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới được thực hiện. Hơn nữa, nó còn tạo ra mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ giữa quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên tham gia, góp phần tránh những hiện tượng tiêu cực như lợi dụng chế độ bảo hiểm xã hội. Phải lấy số đông bù số ít Bảo hiểm nói chung hoạt động trên cơ sở xác suất rủi ro theo quy luật số lớn, tức là lấy sự đóng góp của số đông người tham gia san xẻ cho số ít người không may gặp rủi ro. Trong số đông người tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội, chỉ những người lao động mới là đối tượng hưởng trợ cấp và trong số những người lao động lại chỉ có những người bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay tuổi già có đủ các điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Phải kết hợp hài hoà các lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu cầu bảo hiểm xã hội Việc xác định lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm xã hội thì đã được làm rõ và quyền lợi luôn đi đôi với trách nhiệm, điều đó đòi hỏi phải có một sự cân đối giữa trách nhiệm và quyền lợi của mỗi bên tham gia, nghĩa là xác định mức đóng góp của mỗi bên tham gia phù hợp với lợi ích mà họ nhận được từ việc tham gia đó. Việc thực hiện bảo hiểm xã hội cho người lao động sẽ không được thực hiện nếu như gánh nặng thuộc về bất cứ bên nào làm triệt tiêu đi lợi ích mà họ đáng được hưởng. Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu Trong điều kiện bình thường, người lao động làm việc và nhận được mức tiền công thoả đáng. Khi gặp các biến cố rủi ro họ được hưởng trợ cấp và nếu như mức trợ cấp này lớn hơn hoặc bằng mức tiền công của họ thì không lý gì mà họ phải cố gắng làm việc và tích cực làm việc. Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của bảo hiểm xã hội thì mức trợ cấp bảo hiểm xã hội thấp nhất cũng phải đủ để trang trải các chi phí cần thiết cho người lao động trong cuộc sống hàng ngày. 10/30
- Chính sách bảo hiểm xã hội là bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội đặt dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước Ở nước ta, bảo hiểm xã hội nằm trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và nhà nước. Thực chất đây là một trong những chính sách nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu tối thiểu của con người: Nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội chính sách bảo hiểm xã hội còn thể hiện trình độ xã hội hoá của mỗi quốc gia ( trình độ văn minh, tiềm lực kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý xã hội ) và, trong một chừng mực nào đó, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Hơn nữa, nhà nước có chức năng quản lý vĩ mô mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội do đó bảo hiểm xã hội phải được đặt dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước. Bảo hiểm xã hội phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn cụ thể Sự phát triển của bảo hiểm xã hội còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố: Các điều kiện về kinh tế xã hội, trình độ quản lý của nhà nước hay sự hoàn chỉnh của nền pháp chế mỗi quốc gia. Việc thực hiện toàn bộ 9 chế độ trong công ước 102 của ILO là mong muốn và mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, song không phải quốc gia nào cũng thực hiện được do sự hạn chế về nhiều mặt. Khi xã hội đã đạt tới một bước phát triển mới làm nảy sinh những vấn đề mà hệ thống bảo hiểm xã hội hiện thời không còn phù hợp thì yêu cầu đặt ra là sự đổi mới hệ thống bảo hiểm xã hội ( Cơ cấu các bộ phận của hệ thống, số lượng và cơ cấu các chế độ trợ cấp, mức đóng phí ) cho phù hợp với sự phát triển chung của toàn xã hội. 11/30
- Khái niệm, đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội Khái niệm, đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Điều kiện tiên quyết để một hệ thống BHXH hoạt động được là phải hình thành được nguồn quỹ tiền tệ tập trung để rồi nguồn quỹ này được dùng để chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH. Đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ bảo hiểm xã hội mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản nhất của một quỹ, ngoài ra do đặc thù của BHXH mà quỹ BHXH có những đặc trưng riêng có sau: • Quỹ BHXH là quỹ an toàn về tài chính. Nghĩa là, phải có một sự cân đối giữa nguồn vào và nguồn ra của quỹ BHXH. Chức năng của bảo hiểm xã hội là đảm bảo an toàn về thu nhập cho người lao động và để thực hiện chức năng này, đến lượt nó, BHXH phải tự bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Để tạo sự an toàn này, về nguyên tắc tổng số tiền hình thành nên quỹ phải bằng tổng số tiền chi ra từ quỹ. Tuy nhiên, không phải cứ đồng tiền nào vào quỹ là được dùng để chi trả ngay ( nếu vậy đã không tồn tại cái gọi là quỹ BHXH ) mà phải sau một khoảng thời gian nhất định, đôi khi tương đối dài ( như đối với chế độ hưu trí ) số tiền ấy mới được chi ra, cùng thời gian ấy đồng tiền luôn biến động và có thể bị giảm giá trị do lạm phát, điều này đặt ra yêu cầu quỹ BHXH không chỉ phải bảo đảm về mặt số lượng mà còn phải bảo toàn về mặt giá trị. Điều đó lý giải tại sao trong điều 40 Điều lệ BHXH nước ta quy định “ Quỹ bảo hiểm xã hội được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của chính phủ ”. • Tính tích luỹ. Quỹ BHXH là “ của để dành ” của người lao động phòng khi ốm đau, tuổi già và đó là công sức đóng góp của cả quá trình lao động của người lao động. Trong quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi ở một thời điểm hiện tại để chi trả trong tương lai, khi người lao động có đủ các điều kiện cần thiết để được hưởng trợ cấp ( chẳng hạn như về thời gian và mức độ đóng góp BHXH ). Số lượng tiền trong quỹ có thể được tăng lên bởi sự đóng góp đều đặn của các bên tham gia và bởi thực hiện các biện pháp tăng trưởng quỹ. 12/30
- • Quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ, mục đích của việc thiết lập quỹ BHXH là để chi trả trợ cấp cho người lao động khi họ không may gặp các rủi ro dẫn đến mất hay giảm thhu nhập. Do đó, người lao động là đối tượng đóng góp đồng thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp. Tuy nhiên, thời gian, chế độ và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau, điều đó phụ thuộc vào những rủi ro mà họ gặp phải cũng như mức độ đóng góp và thời gian tham gia BHXH. Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, mặc dù nguyên tắc của BHXH là có đóng- có hưởng, đóng ít- hưởng ít, đóng nhiều- hưởng nhiều nhưng như vậy không có nghĩa là những người có mức đóng góp như nhau sẽ chắc chắn đưọc hưởng một khoản trợ cấp như nhau. Trong thực tế, cùng tham gia BHXH nhưng có người được hưởng nhiều lần, có người được hưởng ít lần ( với chế độ ốm đau), thậm trí không được hưởng (chế độ thai sản). 13/30
- Phân loại quỹ bảo hiểm xã hội Phân loại quỹ bảo hiểm xã hội Nhiệm vụ của các nhà làm công tác BHXH là phải thành lập nên quỹ BHXH theo cách thức phù hợp với trình độ tổ chức và thực hiện. Thế nhưng, đó lại là một vấn đề hết sức khó khăn và đôi khi không thống nhất quan điểm. Bởi vì theo nhiều cách tiếp cận khác nhau có các loại quỹ bảo hiểm xã hội khác nhau. Theo tính chất sử dụng quỹ • Quỹ dài hạn: Là quỹ được thành lập để dùng chi trả cho các chế độ đài hạn ( chế độ trợ cấp hưu trí ). • Quỹ ngắn hạn: Dùng chi trả cho các chế độ trợ cấp ngắn hạn (ốm đau, thai sản ) . Theo các trường hợp được BHXH Có thể thành lập ra các quỹ theo từng chế độ và mỗi quỹ sẽ dùng để chi trả cho từng chế độ tương ứng. • Quỹ hưu trí. • Quỹ TNLD-BNN. • Quỹ thất nghiệp. • Cách phân loại này giúp chúng ta có thể cân đối giữa mức hưởng và mức đóng góp đối với từng chế độ. Theo đối tượng quản lý, có: • Quỹ BHXH cho công chức nhà nước. • Quỹ BHXH lực lượng vũ trang. • Quỹ BHXH cho nông đân. • Ở mỗi nước, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà có thể thành lập quỹ bảo hiểm xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, trình độ quản lý nhà nước Thông thường, khi mới thực hiện BHXH các nước thành lập một quỹ chung nhất cho mọi người lao động do: Trình độ tổ chức và quản lý còn hạn chế, đối tượng BHXH còn hạn hẹp và các chế độ bảo hiểm xã hội còn ít ( một vài chế độ ). Nhưng khi nền kinh tế phát triển đến một mức 14/30
- độ nhất định, trình độ quản lý được nâng cao, đối tượng tham gia ngày càng lớn thì xuất hiện những bất cập mà đòi hỏi phải thành lập ra các quỹ BHXH thành phần. Ở Việt nam, nên chăng chúng ta cũng thành lập ra các quỹ BHXH thành phần và thành lập theo cách nào là tốt nhất. Việc thành lập theo cách tiếp cận thứ hai và thứ ba đối với Việt nam trong điều kiện hiện nay dường như không thích hợp vì như thế sẽ đẫn tới tình trạng quá phân tán nguồn đóng góp của các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ( theo cách tiếp cận thứ hai chúng ta phải thành lập ra 5 quỹ BHXH tương ứng với 5 chế độ BHXH hiện hành và theo cách tiếp cận thứ ba thì ít nhất cũng phải thành lập ra không dưới 5 quỹ BHXH). Trong điều kiện hiện nay, chúng ta nên thành lập ra các quỹ BHXH thành phần theo cách tiếp cận thứ nhất là hợp lý hơn cả và những lý do sẽ được trình bày ở phần sau. 15/30
- Tạo nguồn Tạo nguồn Đối tượng tham gia và đóng góp. Những câu hỏi cơ bản nhất liên quan đến tài chính BHXH là: Ai đóng góp, đóng góp bao nhiêu và dựa trên cơ sở nào. Nói chung, các nguồn kinh phí của một hệ thống BHXH có thể liệt kê như sau: Sự tham gia của Nhà nước, sự tham gia của chính quyền các cấp ( chính quyền tỉnh và địa phương ); những khoản thuế đã được nhắm trước hoặc phân bổ cho BHXH; Đóng góp của người tham gia bảo hiểm xã hội, của chủ sử dụng lao động; Thu nhập từ đầu tư và các khoản thu nhập khác. Trong đó nguồn thu nhập chủ yếu của quỹ BHXH là từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. Thông thường, để đảm bảo nguyên tắc có đóng có hưởng, tất cả những người lao động tham gia BHXH đều có nghĩa vụ đóng góp bảo hiểm xã hội, tuy nhiên việc xác định đối tượng tham gia ở mỗi quốc gia có khác nhau. Ban đầu, chương trình BHXH không có xu hướng bảo hiểm cho những người tự tạo việc làm, lao động nông nghiệp, người thất nghiệp và người chưa có việc làm. BHXH cũng không bảo hiểm cho những người làm việc bán thời gian và lao động trong các doanh nghiệp nhỏ. Ở khu vực Châu Á- Thái bình dương, các quốc gia công nghiệp (Ôxtraylia, Hồng Kông, Nhật bản và Niu Di Lân) và các nước cộng hoà thuộc Liên xô (cũ) đang mở rộng sự bao phủ hệ thống an toàn xã hội đến toàn bộ dân chúng một cách toàn diện hơn. Trong khi đó, các nước còn lại chủ yếu tập trung các hệ thống của họ vào khu vực sử dụng lao động một cách chính quy tại các trung tâm đô thị trong khi làm ngơ một bộ phận đáng kể dân chúng đang nằm ngoài sự bảo trợ. Nguyên nhân của sự bỏ qua này là do sự khó khăn về mặt hành chính trong việc thúc đẩy sự mở rộng bắt buộc của họ cũng như không có khả năng về tài chính của các doanh nghiệp nhỏ để đóng góp vào hệ thống này. Ở Giooc Đan Ni, thậm chí những trường hợp ban đầu được tham gia hệ thống an toàn xã hội nhưng sau đó lại bị bỏ qua như trường hợp của các nông dân, ngư dân, người tự lao động ( làm tư). Ở các nước khác, một số nằm ngoài đã được cho phép tham gia vào chương trình trên cơ sở tự nguyện. Phương thức đóng góp • Đóng góp theo mức cố định: Đối tượng tham gia đóng một mức cố định không phụ thuộc vào mức thu nhập của họ, mặc dù vậy vẫn có có thể có những tỷ lệ đóng góp khác nhau ( ví dụ tỷ lệ đóng góp của người trẻ khác với của người già, của nam khác với nữ ) nhưng trong phạm vi một 16/30
- nhóm người thì mức đóng góp sẽ như nhau và không gắn với thu nhập của họ và khi đó mức hưởng cũng sẽ là một khoản được ấn định trước. • Đóng góp gắn với thu nhập: Theo phương thức này, mức đóng góp sẽ gắn với thu nhập của từng cá nhân và được ấn định bằng cách sử dụng cách tính phần trăm đơn giản so với thu nhập, khi hưởng trợ cấp thì mức trợ cấp cũng được căn cứ vào mức thu nhập khi còn làm việc của người lao động. Phương thức này được áp dụng phổ biến nhất trên thế giới. • Đóng góp theo nhóm tiền công: Trong từng nhóm tiền công có các mức tiền công và đối với mỗi mức tiền công sẽ có một mức đóng góp tương ứng theo mức độ luỹ tiến. Nhóm tiền công cũng có thể được sử dụng như là một công cụ thúc đẩy việc phân phối lại nguồn quỹ giữa các thành viên. • Đóng góp theo tỷ lệ đặc biệt: Một số nước dựa vào mức đóng góp theo một tỷ lệ đặc biệt dựa vào sự khác biệt giữa các công việc của người lao động. Chẳng hạn trong chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, tỷ lệ đóng góp thay đổi tuỳ theo ngành công nghiệp và mức độ rủi ro của mỗi ngành nghề. Xác định mức đóng góp. Nói chung, xác định mức đóng góp BHXH dựa trên một cơ chế tài chính là cân đối giữa thu và chi. Có thể xác định mức đóng góp và, trên cơ sở đó xác định mức hưởng hoặc cũng có thể xác định mức hưởng trước rồi xác định mức đóng góp. Cho dù thực hiện theo cách nào thì vẫn phải đảm bảo sự cân đối giữa tổng số tiền hình thành quỹvà tổng số tiền được chi ra từ quỹ. Hệ thống “ trợ cấp xác định ” và hệ thống “ đóng góp xác định ”: -Hệ thống “ đóng góp xác định ”: Hệ thống này xác định người lao động nên giành bao nhiêu tiền cho tuổi già của mình chứ không phải là họ sẽ xứng đáng được nhận trợ cấp là bao nhiêu. Ưu điểm của hệ thống này là nó không phải chịu bất cứ sự mất cân bằng nào về tài chính và không bao giờ phải tăng mức đóng góp lên cả. Nhưng nhược điểm của nó là do có rất nhiều rủi ro nên một số hoặc tất cả mọi người lao động có thể bị chấm dứt được nhận trợ cấp tuổi già, mức trợ cấp này thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đã đặt ra. - Hệ thống “ trợ cấp xác định ”: Ưu điểm chính của hệ thống này là nó cho phép người lao động được bảo đảm về tài chínhởmức độ cao hơn ở tuổi già, tuy nhiên nhược điểm của hệ thống này là đôi lúc gặp phải rắc rối về tài chính mà vấn đề này cần thiết phải tăng mức đóng góp và hoặc giảm mức trợ cấp. 17/30
- Quốc gia nào áp dụng ? . Hệ thống bảo hiểm xã hội mà có chế độ tuổi già ở hầu hết các nước (trong đó có Việt Nam) là hệ thống bảo hiểm chế độ trợ cấp xác định. Trong khi đó hệ thống tiết kiệm hưu trí bắt buộc ở Chile và Quỹ dự trữ quốc gia ở các nước Malayxia và Singapore lại là những ví dụ điển hình về hệ thống bảo hiểm có mức đóng góp xác định. Nhiệm vụ của những người chịu trách nhiệm thực hiện là phải xác định được chính xác những khoản chi phí chính đáng trong tương lai sẽ chi ra từ quỹ nhưng điều đó dường như không thể bởi những thay đổi không tiên đoán trước được sẽ xảy ra. Do những ước tính là không thể thực hiện được nên khi xác định mức đóng góp người ta phải xác định thêm một lượng đủ để dự trữ cho các sự cố phát sinh làm tăng thêm các chi phí trong tương lai. Hơn nữa, việc xác định mức trợ cấp lại không hoàn toàn mang tính kỹ thuật mà còn liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế xã hội ( nghĩa là việc xác định mối quan hệ giữa đóng và hưởng chỉ mang tính chất tương đối ). Khi xác định mức đóng góp BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: • Phải cân bằng Thu - Chi. • Lấy số đông bù số ít. • Có dự phòng. Khoản tiền đóng góp của những người tham gia BHXH cho quỹ BHXH được gọi là phí BHXH : Ptp = Ptt + Phc + Pdp Trong đó: Ptp: phí toàn phần. Ptt: phí thuần tuý. Phc: chi phí hành chính. Pdp: phần an toàn. • Phí thuần tuý được dùng để chi trả trợ cấp các chế độ BHXH và đó là phần mà những người lao động tham gia BHXH sẽ được nhận khi họ có đủ các điều kiện hưởng trợ cấp. Đây là phần chiếm tỷ trọng lớn nhất trong quỹ BHXH việc xác định phí thuần tuý liên quan trực tiếp đến mức trợ cấp BHXH. Thông thường, mức trợ cấp càng cao thì phí thuần tuý cũng được tăng lên và ngược lại, tuy nhiên điều này cũng không phải luôn đúng khi số lượng những đóng góp vào quỹ là lớn và chỉ có số ít những người hưởng trợ cấp. • Chi phí hành chính được dùng để trang trải cho các hoạt động sự nghiệp. Những người thực hiện BHXH suy cho cùng họ không thể uống nước lã mà sống ( thậm chí nước lã cũng mất tiền ) và thêm vào đó là các khoản chi phí để 18/30
- xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng Nguồn tài chính tài trợ cho các chi phí này là từ quỹ BHXH. Chi phí hành chính bị ảnh hưởng bởi cả thời gian thành lập và độ lớn của tổ chức BHXH. Các tổ chức BHXH mới thành lập thường có chi phí hành chính cao hơn bởi những hệ thống này còn đang trong giai đoạn học hỏi để hoạt động có hiệu quả. Những hệ thống BHXH nhỏ có chi phí hành chính cao hơn gắn với mức đóng góp bởi vì những hệ thống này không thể thực hiện lợi thế của tiết kiệm do mở rộng quy mô do những chức năng hành chính được chuyên môn hoá cao hơn và khả năng dàn trải chi phí cố định đối với chi phí hành chính ra cho nhiều người tham gia. • Phần an toàn được thiết lập để đối phó với những biến cố xảy ra trong tương lai và được dùng tới khi mức trợ cấp vượt quá so với dự tính. 19/30
- Sử dụng nguồn Sử dụng nguồn Điều kiện hưởng trợ cấp Như đã nêu, không phải tất cả những người tham gia đều được nhận trợ cấp và không phải ai cũng nhận được một khoản trợ cấp như nhau mà chỉ khi họ thực sự bị mất hay giảm thu nhập. Nghĩa là họ gặp phải các rủi ro trong quá trình lao động và trong cuộc sống. Các rủi ro này có thể là: • Theo nguyên nhân: + Những rủi ro thể chất: Làm giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do những nguyên nhân nghề ngiệp như bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc không do nguyên nhân nghề nghiệp như ốm đau, sinh đẻ, tuổi già làm cho sức lao động của đối tượng bị giảm sút hoặc mất hẳn. + Rủi ro kinh tế: Loại rủi ro này cũng làm giảm hoặc mất thu nhập do sức lao động không được sử dụng. Đó là trường hợp thất nghiệp. + Làm giảm mức sống vì những chi tiết bất thường: Đây là loại rủi ro liên quan đến sử dụng thu nhập. Thu nhập của người lao động trong các trường hợp này không phải do giảm hay mất đi mà do phải sử dụng thu nhập để chi cho các khoản chi bất thường như chi phí thuốc men, chữa bệnh hoặc các đảm phụ gia đình. - Theo hậu quả: Về biểu hiện, có nhiều loại rủi ro khác nhau nhưng đều có hậu quả là đe doạ sự an toàn về kinh tế của người lao động cũng như gia đình họ. Những rủi ro này cũng bao gồm cả rủi ro về thể chất và rủi ro về kinh tế. Tuy nhiên, không phải tất cả những rủi ro nêu trên đều thuộc đối tượng của BHXH (chẳng hạn như tai nạn chiến tranh, ). Ngay cả những rủi ro được gọi là đối tượng của BHXH không phải lúc nào cũng được bảo hộ, được đền bù. Trong lịch sử phát triển của mình, ban đầu các trường hợp được BHXH là những rủi ro liên quan đến quá trình lao động của người làm công ăn lương như ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Dần dần ý niệm về Bảo hiểm xã hội hiểm xã hội được mở rộng nên các trường hợp được BHXH cũng được mở rộng dần cả trong và ngoài quá trình lao động . Ngoài những quy định về rủi ro, còn có các quy định về tuổi đời và thời gian tham gia BHXH. Quy định về tuổi đời nhằm xác lập mức chi trả trợ cấp, quy định về thời gian 20/30
- tham gia nhằm xác lập mức độ dóng góp. Hai điều kiện này là một trong những biện pháp cân đối thu chi của BHXH và thực hiện nguyên tắc có đóng có hưởng, đóng ít hưởng ít, đóng nhiều hưởng nhiều. Một vài ví dụ : Với chế độ ốm đau: Thời gian đóng BHXH trước khi được hưởng trợ cấp ốm đau ở Mianma quy định là 6 tháng, Iran là 3 tháng Với chế độ thai sản: Thời gian đóng BHXH trước khi được hưởng trợ cấp thai sản đối với Mianma là 26 tuần, Đài loan: 10 tháng, Ấn độ: 18 tuần Với chế độ hưu trí: Thời gian tham gia đóng BHXH trước khi nghỉ hưu ở các nước thường là 60 cho nam và 55 cho nữ ( một số nước có quy định khác: Ôxtrâylia: 65 cho nam, 60 cho nữ; Sri lanka: 55 cho nam và 50 cho nữ ). Thời gian tham gia BHXH trước khi hưởng chế độ hưu trí thường là từ 20 đến 30 năm. Xác định mức trợ cấp Theo quan điểm của BHXH, mức trợ cấp phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, nhưng phải đảm bảo mức sống tối thiểu. Nhưng mức trợ cấp là bao nhiêu ?. chúng ta biết rằng mục đích của BHXH là bù đắp lại một phần thu nhập đã bị mất và góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động. Do đó, để xác định mức trợ cấp người ta dựa vào: • Mức giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động. Khi những rủi ro xảy ra, mức độ suy giảm khả năng lao động khác nhau dẫn tới việc giảm thu nhập khác nhau. Do đó, mức trợ cấp BHXH phải căn cứ vào mức suy giảm thu nhập để có thể bù đắp một cách hợp lý. Tuy nhiên đối với cả một tập hợp người lao động với những mức độ suy giảm khả năng lao động khác nhau và do đó mức suy giảm thu nhập khác nhau thì cần phải tính toán những “ thiếu hụt có tính xã hội ” chung, có khả năng đại diện cho mọi người lao động trong các trường hợp cụ thể. • Những chi phí cần thiết để đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người lao động: Đó là các khoản chi phí để đáp ứng những nhu cầu tối thiểu như: nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại, nhu cầu chữa bệnh, nhu cầu học tập Đây là những khoản chi phí cần thiết khách quan và phải tuỳ thuộc vào khả năng của nền kinh tế quốc dân cũng như khả năng tài chính của cơ quan BHXH mà có thể xác định những chi phí cần thiết đó, đáp ứng mức độ nhất định nhu cầu đòi hỏi. • Mức và thời gian đóng BHXH: Mối liên hệ giữa mức đóng và mức hưởng liên quan chặt chẽ với nhau, và mặc dù những chi phí như đã nêu trên là khách quan và chính đáng nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu đó lại phụ thuộc rất nhiều vào lượng vất chất (tiền) của quỹ BHXH. Quỹ này lại được tạo ra từ sự đóng góp của các đối tượng tham gia. Để thực hiện sự tương đương giữa đóng và hưởng 21/30
- BHXH, các mức trợ cấp và thời hạn hưởng trợ cấp phải căn cứ vào mức và thời gian đóng phí BHXH của người lao động và, về nguyên tắc, ai đóng cao hơn và lâu hơn sẽ được hưởng mức trợ cấp cao hơn và dài hơn. Theo công ước 102 của ILO: khoản trợ cấp BHXH cho thai sản không thể thấp hơn 2/ 3 thu nhập trước khi sinh và khuyến cáo các nước nên tăng mức trợ cấp thai sản bằng 100% mức thu nhập trước khi sinh; Mức hưởng trợ cấp ốm đau bằng 45% mức lương (tuy nhiên đa số các nước quy định trợ cấp ốm đau bằng 50-70% mức lương ) ; Và với chế độ hưu trí, mức hưởng trợ cấp thường là 70-80% mức tiền lương bình quân của một số năm trước khi nghỉ hưu. Phương thức chi trả trợ cấp BHXH Nói chung các tổ chức bảo hiểm xã hội thực hiện chi trả trợ cấp thông qua một mạng lưới chi trả do mình thành lập ra hoặc là ký kết hợp đồng với các cơ sở làm đại lý chi trả, việc thực hiện chi trả thường được tiến hành theo tháng, tuần một cách định kỳ. Cơ quan quản lý BHXH và Vụ Phúc lợi xã hội New Zrealand đã xắp xếp việc thanh toán chi trả trợ cấp theo từng giai đoạn ( tháng, tuần ) để giảm bớt khối lượng công việc phát sinh trong quá trình tiến hành thanh toán theo đòi hỏi của khách hàng. Ở Nam phi, hơn 400.000 người về hưu nhận trợ cấp chế độ thông qua máy rút tiền tự động của ngân hàng hay ở Ireland, Cục Các Vấn đề Xã Hội, Cộng đồng và gia đình ( DSCFA ) đã hợp đồng chi trả trợ cấp ngắn hạn với ngành Bưu điện (với mạng lưới 2000 trạm bưu điện địa phương). 22/30
- Cơ quan tổ chức thực hiện Cơ quan tổ chức thực hiện Việc tiến hành tổ chức thực hiện có thể do nhà nước đảm nhận và cũng có thể do tư nhân tiến hành và đôi khi cùng tồn tại một lúc hai hệ thống thành phần. Nhà nước được lợi từ BHXH nhưng như thế không có nghĩa là nhà nước phải trực tiếp đứng ra thực hiện mà chỉ cần đóng vai trò của một bên tham gia và thực hiện chức năng quản lý. Với hệ thống bảo hiểm xã hội do nhà nước lập ra, quỹ BHXH có sự bù đắp thêm của Ngân sách nhà nước và nó không hoạt động theo phương thức kinh doanh đối với người lao động. Còn hệ thống bảo hiểm xã hội do tư nhân và các tổ chức xã hội thực hiện theo quy định của pháp luật và có sự bảo trợ của nhà nước thì hoạt động theo phương thức kinh doanh và trong phí bảo hiểm được thêm một phần gọi là lãi định mức cho tổ chức bảo hiểm xã hội ( Plđm, khi đó Ptp=Ptt+Phc+Pdp+Plđm ). Liệu rằng, quản lý Nhà nước hay quản lý tư nhân các hệ thống bảo hiểm xã hội có hiệu quả hơn ? Chúng ta thử so sánh hai hình thức này thông qua việc lập quỹ hưu trí: Bảng : Quản lý Nhà nước và tư nhân các hình thức quỹ BHXH. 23/30
- Theo cách tiếp cận này, chúng ta thấy quản lý tư nhân và quản lý nhà nước đều có những ưu và nhược điểm riêng. Xét về khía cạnh kinh tế, quản lý tư nhân sẽ có hiệu quả hơn do khả năng tham gia vào thị trường trong hoạt động đầu tư. Thế nhưng, BHXH lại là một chính sách xã hội và do đó, quản lý nhà nước các hình thức quỹ BHXH sẽ có hiệu quả hơn trong việc bảo đảm đời sống người lao động cũng như ổn định tình hình kinh tế- chính trị và xã hội của đất nước. Mối liên hệ giữa đầu vào và đầu ra của quỹ bảo hiểm xã hội a, Chu trình quỹ của một hệ thống bảo hiểm xã hội 24/30
- b, Các biện pháp giải quyết khi quỹ mất cân đối Một cách đơn giản nhất, công thức cơ bản đối với cân đối tài chính của một hệ thống BHXH được viết: Thu = Chi ( hoặc thu nhập = chi tiêu ) Và, với tỷ lệ đóng góp được xác định trước, công thức được biểu thị: Thu có thể xảy ra = Chi phí có thể xảy ra Và, đó là điều mà các nhà làm công tác BHXH mong muốn nhất. Tuy nhiên điều đó không phải lúc nào cũng xảy ra, do những sai lệch trong tính toán hay những thay đổi trong tương lai mà nhiều khi quỹ BHXH có thể bội thu hay bội chi (mà thường là bội chi), vậy thì biện pháp để đối phó với tình trạng này là gì ? Thông thường, khi xảy ra mất cân đối giữa thu và chi, một cách đơn giản nhất, người ta tìm ra những nguyên nhân gây ra sai lệch đó và tác động vào chúng. Chẳng hạn như với chế độ TNLĐ-BNN, khi có một sự gia tăng về tỷ lệ TNLĐ -BNN dẫn đến bội chi BHXH thì người ta sẽ tìm cách giảm tỷ lệ này bằng các biện pháp tăng cường công tác 25/30
- an toàn lao động, vệ sinh lao động hay chăm lo đến sức khoẻ của người lao động hơn. Tuy nhiên cách làm này hết sức thụ động vì an toàn lao động và vệ sinh lao động không phải là nhiệm vụ của BHXH. Hơn nữa, đối với một vài chế độ, biện pháp này dường như không hợp lý, chúng ta không thể làm giảm tỷ lệ sinh đẻ khi chính sách dân số của quốc gia là khuyến khích tăng dân số. Hay với chế độ hưu trí, khi tuổi thọ tăng lên dẫn đến bội chi BHXH thì chúng ta cũng không thể tìm cách nào đó để làm giảm tuổi thọ vì tăng tuổi thọ là mối quan tâm của các nhà khoa học, là mong muốn của mỗi xã hội và là mục đích của toàn nhân loại. Vậy thì biện pháp nào là thích hợp ? • Cân đối lại giữa mức đóng và mức hưởng BHXH: Khi quỹ BHXH bị thâm hụt, có thể buộc các đối tượng đóng góp phải đóng góp thêm một khoản đủ để bù đắp sự thiếu hụt đó. Giảm mức hưởng trợ cấp BHXH cũng là cách cân đối quỹ và cũng có thể sử dụng cả hai biện pháp trên ( vừa tăng mức đóng góp và vừa giảm mức hưởng). Khi tăng mức đóng góp phải xem xét đến khả năng tham gia của người lao động và khi giảm mức hưởng phải xem xét ảnh hưởng của quyết định đó đến việc ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ. • Đánh giá lại hiệu quả hoạt động BHXH: Các chi phí cho hoạt động sự nghiệp đôi khi lớn quá mức cần thiết, hoặc chi phí với mức không tương xứng cũng sẽ là nguyên nhân ảnh hưởng đến quỹ BHXH. Tuy nhiên đó không thường là nhân tố mang tính quyết định đến sự thâm hụt quá lớn quỹ BHXH song cũng cần đưa vào đánh giá để tăng cường hiệu quả hoạt động quỹ BHXH. Khía cạnh khác cần quan tâm là vấn đề đầu tư quỹ BHXH. Đôi khi thâm hụt quỹ BHXH không phải do bội chi hay do sự đóng góp quá ít của đối tượng tham gia vì chúng ta biết rằng theo thời gian quỹ BHXH sẽ bị giảm giá trị và nếu như không có các biện pháp bảo toàn giá trị cho quỹ thì thâm hụt quỹ là điều không thể tránh khỏi. Trách nhiệm này thuộc về các nhà làm công tác BHXH. • Sự tài trợ của Ngân sách nhà nước: Với nhiều quốc gia, mức đóng góp tối đa và mức hưởng trợ cấp tối thiểu được ấn định bởi những quy định của nhà nước và nếu như đó là nguyên nhân thâm hụt quỹ BHXH thì sự tài trợ của Ngân sách nhà nước là hết sức cần thiết. Và nếu như không phải vì điều đó thì, vì mục đích an toàn xã hội chung, nhà nước cũng nên hỗ trợ một phần. Một điển hình Đối với chế độ ốm đau, thai sản ở Mông cổ. Theo luật 1994, tỷ lệ hưởng tối đa đã giảm xuống từ 80% xuống còn 70% và tỷ lệ hưởng tối thiểu đã giảm xuống từ 60% xuống 45%. Các mức hưởng này được giảm xuống nhằm (i) Cắt giảm chi phí, (ii) Tin tưởng rằng sự chênh lệch lớn giữa lương và mức hưởng trợ cấp sẽ ngăn cản được tình trạng nghỉ việc. 26/30
- Cũng tại Mông cổ, Luật chế độ dài hạn năm 1997 đã đưa ra những thay đổi nhằm gảm mức hưởng như sau: - Tăng tuổi nghỉ hưu tối thiểu cho nam lên 55 và nữ lên 50 đối với những người làm việc ở hầm lò hoặc trong các điều kiện nóng bức, độc hại; - Tăng mức độ tàn tật tối thiểu cho phép hưởng trợ cấp MSLĐ dài hạn ở mức 50%; - Ngừng chi trả chế độ dài hạn cho những người dưới tuổi hưu quy định nếu họ vẫn làm việc. 27/30
- Tham gia đóng góp Tài liệu: Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã hội Biên tập bởi: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Bảo hiểm xã hội trong đời sống người lao động Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Khái niệm, đối tượng và chức năng của Bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Tính chất của Bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Những quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Khái niệm, đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: 28/30
- Giấy phép: Module: Phân loại quỹ bảo hiểm xã hội Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Tạo nguồn Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Sử dụng nguồn Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: Module: Cơ quan tổ chức thực hiện Các tác giả: Đại Học Kinh Tế Quốc Dân URL: Giấy phép: 29/30
- Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam Chương trình Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (Vietnam Open Educational Resources – VOER) được hỗ trợ bởi Quỹ Việt Nam. Mục tiêu của chương trình là xây dựng kho Tài nguyên giáo dục Mở miễn phí của người Việt và cho người Việt, có nội dung phong phú. Các nội dung đểu tuân thủ Giấy phép Creative Commons Attribution (CC-by) 4.0 do đó các nội dung đều có thể được sử dụng, tái sử dụng và truy nhập miễn phí trước hết trong trong môi trường giảng dạy, học tập và nghiên cứu sau đó cho toàn xã hội. Với sự hỗ trợ của Quỹ Việt Nam, Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER) đã trở thành một cổng thông tin chính cho các sinh viên và giảng viên trong và ngoài Việt Nam. Mỗi ngày có hàng chục nghìn lượt truy cập VOER (www.voer.edu.vn) để nghiên cứu, học tập và tải tài liệu giảng dạy về. Với hàng chục nghìn module kiến thức từ hàng nghìn tác giả khác nhau đóng góp, Thư Viện Học liệu Mở Việt Nam là một kho tàng tài liệu khổng lồ, nội dung phong phú phục vụ cho tất cả các nhu cầu học tập, nghiên cứu của độc giả. Nguồn tài liệu mở phong phú có trên VOER có được là do sự chia sẻ tự nguyện của các tác giả trong và ngoài nước. Quá trình chia sẻ tài liệu trên VOER trở lên dễ dàng như đếm 1, 2, 3 nhờ vào sức mạnh của nền tảng Hanoi Spring. Hanoi Spring là một nền tảng công nghệ tiên tiến được thiết kế cho phép công chúng dễ dàng chia sẻ tài liệu giảng dạy, học tập cũng như chủ động phát triển chương trình giảng dạy dựa trên khái niệm về học liệu mở (OCW) và tài nguyên giáo dục mở (OER) . Khái niệm chia sẻ tri thức có tính cách mạng đã được khởi xướng và phát triển tiên phong bởi Đại học MIT và Đại học Rice Hoa Kỳ trong vòng một thập kỷ qua. Kể từ đó, phong trào Tài nguyên Giáo dục Mở đã phát triển nhanh chóng, được UNESCO hỗ trợ và được chấp nhận như một chương trình chính thức ở nhiều nước trên thế giới. 30/30