Luận văn Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo hiệp định chung về thuế quan và thương mại và tác động của nó đối với doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO

pdf 96 trang vanle 2440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo hiệp định chung về thuế quan và thương mại và tác động của nó đối với doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_dieu_chinh_chinh_sach_thue_quan_doi_voi_hang_cong_n.pdf

Nội dung text: Luận văn Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo hiệp định chung về thuế quan và thương mại và tác động của nó đối với doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG  NGÔ ĐỨC CHIẾN ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP THEO HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO Chuyên ngành : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGYỄN THỊ MƠ HÀ NỘI 2007
  2. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn hai mươi năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc về kinh tế và đang được đánh giá là một môi trường kinh doanh lý tưởng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam không ngừng nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, là thành viên chính thức của nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn, thể hiện mong muốn tham gia ngày càng đầy đủ hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế . Ngày 11 tháng 7 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại Thế giới WTO. Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã chứng minh với thế giới rằng nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập với nền kinh tế thế giới và sẵn sàng tham gia vào “sân chơi chung” trong tiến trình tự do hoá thương mại. Là thành viên của WTO, Việt Nam đồng thời phải thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan nói chung và đối với hàng công nghiệp nói riêng để mở cửa cho hàng hoá của nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào Việt nam. Việc điều chỉnh cắt giảm thuế quan không chỉ ảnh hưởng tới ngân sách Nhà nước mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp khi phải đối mặt với cuộc cạnh tranh bình đẳng, khốc liệt với các tập đoàn, doanh nghiệp, công ty nước ngoài, vì thực tế các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp công nghiệp nước ta còn non yếu và thiếu năng lực cạnh tranh. Cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp để gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chính sách thương mại hàng công nghiệp của mình. Điều này sẽ có những tác động nhất định đối với các doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam. Tác động sẽ là tích cực hay không tích cực? Làm thế nào để phát huy tác động tích cực và giảm thiểu ảnh hưởng
  3. 2 của tác động phi tích cực ? Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, đầy đủ hơn về các cam kết của Việt nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp, về tác động của việc điều chỉnh chính sách thương mại hàng công nghiệp để từ đó có các giải pháp phát huy các tác động tích cực và hạn chế các tác động phi tích cực . Đó là lý do để người viết chọn vấn đề “Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và tác động của nó đối với các doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Ở nước ngoài Hiện đã có một số tài liệu như Fernandez de Cordobe, Santiago, SamLaird and Jose Maria Serena 2004 „ Trade Liberalization and Adjustment Costs „ Trade Analysis Branch, UNs Conference on Trade and Development nghiên cứu về lĩnh vực điều chỉnh chính sách thương mại. 2.2. Ở Việt nam Ngoài các bài báo, tạp chí và tập san có bài viết nghiên cứu về chính sách thương mại, hiện đã có công trình nghiên cứu khoa học, luận văn tiến sĩ, của tác giả Bùi Thị Lý „ Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt nam khi gia nhập WTO „ 2002. Cho đến nay chưa có tài liệu nào nghiên cứu về „ Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và tác động của nó đối với các doanh nghiệp Việt nam sau khi Việt nam gia nhập WTO „, đây là tài liệu đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu
  4. 3 Trên cơ sở phân tích thực tế điều chỉnh sách thuế quan đối với hàng công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua, sau khi làm rõ các cam kết của Việt Nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp, đề tài đề xuất giải pháp phát huy những tác động tích cực của việc điều chỉnh chính sách thương mại đối với hàng công nghiệp trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau đây : - Giới thiệu tổng quan về Hiệp định chung về Thuế quan và Thương (GATT) - Làm rõ yêu cầu của GATT đối với các nước về việc cắt giảm thuế quan - Phân tích đặc điểm của hàng công nghiệp và các cam kết của Việt nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp - Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp ở Việt nam trong thời gian qua - Đề xuất giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động phi tích cực trong việc điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp đối với Việt nam. 4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định trong Hiệp định GATT về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp và các cam kết của Việt Nam trong WTO về lĩnh vực này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn chỉ ở điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp, không mở rộng sang các sản phẩm
  5. 4 khác. Khi lựa chọn sản phẩm công nghiệp để phân tích, luận văn chọn 3 sản phẩm là hàng dệt may, hàng da giầy và ô tô. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như phương pháp phân tích, diễn giải và quy nạp ; phương pháp thống kê, so sánh để khái quát, hệ thống và khẳng định kết quả nghiên cứu. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp trong thương mại quốc tế. Chương 2: Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua. Chương 3: Tác động của điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp đối với doanh nghiệp Việt Nam và một số giải pháp.
  6. 5 CHƢƠNG 1 HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƢƠNG MẠI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƢƠNG MẠI Trong những năm ngay sau Đại chiến thế giới thứ hai, các nước đã có những cố gắng quan trọng ban đầu để thông qua các quy tắc điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế. Những cố gắng này đã dẫn đến việc thông qua Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (mà sau này thường được gọi tắt là GATT - được viết tắt từ tên tiếng Anh của Hiệp định : General Agreement on Trade and Tariff ) vào năm 1947 và Hiệp định có hiệu lực vào ngày 1.1.1948. Các quy định của GATT được áp dụng cho thương mại quốc tế về hàng hoá mà mục tiêu của nó là tự do hoá thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan đối với hàng hoá trao đổi giữa các nước thành viên của GATT. Qua các năm sau, văn bản của GATT đã được sửa đổi bổ sung thêm nhiều quy định mới, đặc biệt để xử lý các vấn đề vướng mắc liên quan đến cắt giảm thuế quan trong thương mại của các nước đang phát triển. Ngoài ra nhiều Hiệp định kèm theo chi tiết hoá một số điều khoản chính của GATT cũng đã được thông qua. Các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT, theo đó WTO chính thức thành lập độc lập với hệ thống Liên Hiệp Quốc và đi vào hoạt động từ 1.1.1995. 1.1.1. Sự ra đời của GATT Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ
  7. 6 chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hiệp quốc triệu tập một ". Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và Việc làm" với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập ITO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ. Công việc chuẩn bị cho hiến chương này đã được các quốc gia tiến hành trong năm 1946 và 1947. Từ tháng 4 đến tháng 10/1947, các nước đã tiến hành một hội nghị chuẩn bị toàn diện. Tại hội nghị này, bên cạnh việc tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến hiến chương thành lập ITO, các nước còn tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan đa phương. Trong vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000 nhân nhượng thuế quan có ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5 tổng giá trị thương mại thế giới [ 5 ]. Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và "tạm thời" một số quy tắc thương mại trong dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các nhân nhượng nói trên. Kết quả gồm các quy định thương mại và các nhân nhượng thuế quan được đưa ra trong Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp định phụ trợ nằm trong Hiến chương ITO và nếu ITO được thành lập thì GATT sẽ hết hiệu lực và hoà nhập vào quy định của ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến chương ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc,
  8. 7 các nước đều muốn sớm thúc đẩy tự do hóa thương mại, và bắt đầu khắc phục những hậu quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm 1930. Do vậy, ngày 23/10/1947, 23 nước đã ký "Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời " (PPA), có hiệu lực từ 1/1/1984, thông qua nghị định thư này, Hiệp định GATT đã được chấp nhận và thực thi. Trong thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận. Cuối cùng, tháng 3/1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị về thương mại và Việc làm của Liên hiệp quốc tại Havana. Tuy nhiên, quốc hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc biệt là Quốc hội Mỹ rất phản đối hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ Mỹ đã đóng góp vai trò rất tích cực trong việc nỗ lực thiết lập ITO. Tháng 12/1950, Chính phủ Mỹ chính thức thông báo sẽ không vận động Quốc hội thông qua Hiến chương Havana nữa, do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn tác dụng và do đó ITO đã không thể ra đời. Két quả là, mặc dù chỉ tạm thời, GATT trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế từ năm 1948 cho đến tận năm 1995, khi tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời. Trong 48 năm tồn tại, GATT đã tổ chức 8 vòng đàm phán ( xem bảng 1.1 ). Bảng 1.1 : GATT đã trải qua 8 Vòng đàm phán Năm Địa điểm/Tên Chủ đề đàm phán Số nước 1947 Geneva Cắt giảm Thuế quan 23 1949 Annecy Cắt giảm Thuế quan 13 1951 Torquay Cắt giảm Thuế quan 38 1956 Geneva Cắt giảm Thuế quan 26 1960-1961 Geneva (Vòng Dillon) Cắt giảm Thuế quan 26 1964-1967 Geneva Cắt giảm Thuế quan và các biện pháp 62 (Vòng Kenedy) chống bán phá giá 1973-1979 Geneva Cắt giảm Thuế quan, các biện pháp phi 102 (Vòng Tokyo) quan thuế, các hiệp định "khung"
  9. 8 1986-1994 Geneva Cắt giảm Thuế quan, các biện pháp phi 123 (Vòng Uruguay) quan thuế, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, hàng dệt, nông nghiệp, thành lập WTO, v.v Nguồn : [ 5 ] Nhìn từ bảng 1.1, có thể thấy rõ là cả 8 Vòng đàm phán của GATT đều tập trung vào việc cắt giảm thuế quan, đây chính là mục đích mà các nước có nền công nghiệp phát triển mong muốn và hướng tới nhằm tăng lợi ích của mình. Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang phát triển còn khoảng 15%. Trong đó, đối tượng cắt giảm thuế của GATT từ khi thành lập cho đến nay vẫn là hàng công nghiệp. 1.1.2. Chức năng và nguyên tắc hoạt động  Chức năng của GATT GATT có ba chức năng cơ bản: - Một là điều tiết mọi hoạt động thương mại của các nước tham gia ký kết; - Hai là diễn đàn thương lượng đa phương lớn nhất để thảo luận việc từng bước tự do hóa thương mại quốc tế về hàng hóa thông qua cắt giảm thuế quan;
  10. 9 - Ba là tạo ra cơ chế để các nước thông qua GATT có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế .  Nguyên tắc hoạt động: GATT hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc sau: - Nguyên tắc không phân biệt đối xử : Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, quy định các nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi trên cơ sở tối huệ quốc về thuế xuất nhập khẩu (MFN) và đối xử quốc gia (NT) trong thương mại. Nguyên tắc này có hai ngoại lệ là : + Các nước tham gia các khối mậu dịch tự do hay liên minh thuế quan khu vực như EU, NAFTA, AFTA có quyền áp dụng với nhau một biểu thuế, một hàng rào phi quan thuế riêng. + Các nước đang phát triển được ưu đãi riêng, được các nước phát triển dành cho Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) với thuế suất thấp hơn thuế suất tối huệ quốc. - Nguyên tắc có đi có lại : Một nước quyết định mở cửa thị trường của mình (hạ thuế nhập khẩu, bỏ bớt các quy định đối với hàng nhập) có quyền đỏi hỏi các thành viên khác có những nhượng bộ tương tự. - Nguyên tắc công khai và cạnh tranh lành mạnh : Yêu cầu các nước thành viên không được tăng và từng bước giảm hàng rào phi thuế quan, thừa nhận quyền đánh thuế chống phá giá và chống trợ cấp xuất khẩu. - Nguyên tắc khước từ một số nghĩa vụ của GATT : Cho phép mỗi thành viên có quyền áp dụng biện pháp cấp thiết (như hạn chế nhập khẩu hoặc đình chỉ những nhượng bộ về quan thuế) để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước đang bị thương tổn, hoặc do khó khăn về cán cân thanh toán. - Nguyên tắc ưu tiên cho hàng hóa của các nước đang phát triển : Ngoài hệ thống GSP, còn có các ưu đãi về tiếp cận thị trườn, hoặc ít bị ràng buộc bởi nguyên tắc có đi có lại.
  11. 10 1.1.3. Những nội dung cơ bản của GATT Mục tiêu cơ bản của GATT là tạo cơ sở để tiến hành cắt giảm thuế quan không ngừng và ràng buộc sao cho các nước tham gia ký kết không tăng thuế quan trở lại. Đến khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước tham gia GATT đã đưa ra các cam kết ràng buộc cắt giảm thuế đối với hầu hết các mặt hàng công nghiệp nhập khẩu. Để thực hiện cam kết của mình, các nước ký kết GATT phải nỗ lực điều chỉnh chính sách thuế quan cho phù hợp với quy định của GATT. Sau Vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển cam kết tiến hành cắt giảm thuế quan hàng công nghiệp từ 6,3% xuống còn trung bình là 3,8% trong vòng 5 năm, tính từ 1/1/1995. Giá trị hàng hóa nhập khẩu vào các nước này được miễn thuế hoàn toàn lên tới 44% (từ 20%). Số lượng các sản phẩm phải chịu thuế suất hải quan cao giảm xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ tất cả các nước phải chịu thuế suất trên 15% giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng đối với các nước đang phát triển thì mức giảm này là từ 9% xuống 5%). Số lượng các dòng thuế được ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết ràng buộc 99% dòng thuế của họ (từ mức 77%), các nước đang phát triển ràng buộc 73% (từ 21%), các nền kinh tế chuyển đổi 98% từ (73%) [ 32 ] Như vậy, nội dung chủ yếu của GATT là giảm và ràng buộc thuế quan không tăng trở lại đối với hàng công nghiệp. Thật vậy với 8 vòng đàm phán, các thành viên của GATT đã nhất trí với nội dung chủ yếu là không ngừng cắt giảm thuế quan hàng hoá nới chung và hàng công nghiệp nói riêng. Trên thực tế lợi ích của việc cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp chủ yếu rơi vào tay các nước có nền công nghiệp phát triển, các nước thành viên mới của GATT thường là các nước đang hoặc kém phát triển khi gia nhập phải tuân thủ những điều kiện này. Vì vậy , họ phải điều chỉnh chính sách thuế quan trong nước của họ, đây là thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển.
  12. 11 1.1.4. Các quy tắc cơ bản của GATT Như đã trình bày ở trên, mục tiêu chính của GATT là tự do hoá thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, đặc biệt là đối với hàng công nghiệp. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này, GATT đã đưa ra 4 quy tắc pháp lý để ràng buộc các nước tham gia. Bốn quy tắc đó là : 1.1.4.1. Quy tắc thứ nhất Quy định về việc giảm và xóa bỏ thuế quan và các rào cản thương mại khác thông qua đàm phán đa phương. Mức giảm thuế quan được liệt kê trên cơ sở dòng thuế quan trong Danh mục nhượng bộ của mỗi nước. Mức thuế trong Danh mục nhượng bộ này còn được gọi là mức thuế ràng buộc. Các nước không được phép nâng thuế suất vượt qua mức thuế ràng buộc đã ghi trong Danh mục nhượng bộ. - Cần cắt giảm dần thuế quan và bị ràng buộc không tăng thêm. Giảm thuế quan Quy tắc quan trọng thứ nhất của GATT là phải giảm thuế quan và các biện pháp khác mà các quốc gia duy trì để bảo hộ nền sản xuất nội địa và nếu có thể, loại bỏ thông qua đàm phán giữa các quốc gia thành viên, và mức thuế đã giảm phải được cam kết ràng buộc là sẽ không tăng thêm. Cam kết không tăng thêm Cần giải thích thêm khái niệm "cam kết ràng buộc". Mức thuế quan thỏa thuận tại các cuộc đàm phán cũng như các cam kết khác của các nước ghi lại trong Danh mục nhượng bộ. Mỗi quốc gia thành viên của WTO có một danh mục riêng và có nghĩa vụ không được áp đặt thuế quan hay các khoản thuế, lệ phí khác "cao hơn mức đã đưa ra" tại danh mục của mình. Các quốc gia không được phép áp dụng các biện pháp như áp đặt hạn chế định lượng làm giảm giá trị của các nhượng bộ thuế quan. Mức thuế quan ghi trong danh mục còn được gọi là thuế suất ràng buộc.
  13. 12 Ràng buộc thuế quan. Các nước không được tự động tăng thuế vượt quá mức ràng buộc ghi trong Danh mục nhượng bộ. Ngoài nhiều vấn đề khác, Danh mục này liệt kê từng sản phẩm với thuế suất trước khi đàm phán và thuế suất mà một nước đã thỏa thuận "trong quá trình đàm phán để ràng buộc thuế suất". Trong đàm phán thương mại, một nước có thể thỏa thuận: Ràng buộc thuế suất dương (chẳng hạn 10%) hay thuế suất bằng không hiện hành; hoặc Giảm thuế suất, chẳng hạn từ 10% xuống còn 5%, và ràng buộc thuế suất đã giảm. Một quốc gia cũng có thể ràng buộc thuế suất ở mức trần cao hơn thuế đã thỏa thuận giảm trong đàm phán. Như vậy, một quốc gia đã chấp nhận giảm thuế suất từ 10% xuống 5% cũng có thể nêu ra rằng, trong khi sẽ áp dụng mức giảm thuế đối với hàng nhập khẩu như đã thỏa thuận thì thuế suất ràng buộc vẫn là 8%. Trong trường hợp này, quốc gia đó có thể tự do tăng thuế suất lên tới 8% bất kỳ lúc nào mà không vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào của mình theo GATT. Vòng đàm phán Uruguay đã mang lại những tiến bộ to lớn trong việc ràng buộc thuế quan của mọi quốc gia. Tất cả quốc gia - phát triển, đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi - đều ràng buộc thuế quan trong lĩnh vực công nghiệp: hơn 98% hàng nhập khẩu vào các nước phát triển và chuyển đổi sẽ được nhập khẩu theo mức thuế quan ràng buộc. Đối với hàng nhập khẩu vào các nước đang phát triển, tỷ trọng hàng nhập khẩu nhập vào theo thuế suất ràng buộc là khoảng 73%. Tuy nhiên, một số nước đang phát triển lại ràng buộc mức trần trong một số trường hợp. Những ràng buộc mức thuế trần như vậy có dạng cam kết không tăng thuế: Vượt quá mức thuế trần đã nêu cho từng sản phẩm; Vượt quá mức thuế trần áp dụng cho một ngành nhất định;
  14. 13 Vượt quá mức thuế áp dụng cho toàn bộ sản phẩm. Một nước sau khi đã ràng buộc thuế quan cũng vẫn có thể từ bỏ và nâng mức thuế lên trên thuế suất ràng buộc. Để thực hiện điều này, họ sẽ tái đàm phán với các nước mà lúc đó họ đã đàm phán nhượng bộ cũng như với các nước cung cấp sản phẩm đó nhiều nhất và do vậy được lợi từ việc nhượng bộ. Trong những cuộc đàm phán này, nước yêu cầu xóa bỏ cam kết sẽ phải có nhượng bộ thuế quan đền bù cho các sản phẩm mà các nước đối tác đàm phán có lợi ích thương mại. 1.1.4.2. Quy tắc thứ hai Trong khi thừa nhận rằng các nước cần thay đổi chính sách thương mại mở và tự do nhưng đồng thời cũng cho phép các nước bảo hộ nền sản xuất trong nước tránh sự cạnh tranh của nước ngoài, miễn là sự bảo hộ này chỉ được thực hiện thông qua thuế quan và chỉ ở mức thấp. Để đạt được điều đó, quy tắc nghiêm cấm các nước sử dụng các hạn chế định lượng, trừ những trường hợp đặc biệt. Quy tắc chống hạn chế định lượng đã được củng cố thêm tại Vòng đàm phán Urugoay. Trong khi GATT ủng hộ tự do thương mại, hiệp định này cũng thừa nhận là các quốc gia có thể muốn bảo hộ nền sản xuất trong nước khỏi cạnh tranh của nước ngoài. Hiệp định này thúc đẩy các nước tiến hành bảo hộ ở mức thấp hợp lý thông qua thuế quan. Nguyên tắc bảo hộ bằng thuế quan được hỗ trợ bởi điều khoản cấm các quốc gia thành viên sử dụng các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, nguyên tắc này có những ngoại lệ đặc biệt. Một ngoại lệ quan trọng là cho phép các quốc gia khi gặp khó khăn trong cán cân thanh toán quốc tế (BOP) được phép hạn chế nhập khẩu nhằm đảm bảo tình hình tài chính đối ngoại của mình. Trường hợp ngoại tệ này tạo sự linh hoạt cho các nước đang phát triển hơn là những nước phát triển trong
  15. 14 việc sử dụng các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu nếu việc hạn chế này là cần thiết để ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại tệ. Trong lĩnh vực công nghiệp, hầu hết các nước phát triển không áp dụng quy tắc chống sử dụng các hạn chế định lượng đối với hàng dệt, một lĩnh vực mà các nước đang phát triển đặc biệt quan tâm. Có sự khác biệt cơ bản giữa các hạn chế áp dụng cho lĩnh vực nông nghiệp và hạn chế áp dụng cho ngành dệt. Trừ những trường hợp đặc biệt, còn lại các hạn chế trong lĩnh vực nông nghiệp nằm ngoài sự điều chỉnh của các quy tắc của GATT. Còn trong trường hợp hàng dệt, các hạn chế này được sự cho phép bởi các điều khoản của hiệp định đa sợi (MFA), được sự đàm phán dưới sự bảo hộ của GATT. MFA cho phép các nước giảm nghĩa vụ cơ bản của mình và thực hiện hạn chế hàng dệt may nhập khẩu, miễn là đáp ứng được các điều kiện đưa ra. Củng cố nguyên tắc chống sử dụng hạn chế định lượng, cụ thể trong lĩnh vực hàng công nghiệp. Trong lĩnh vực hàng dệt may, Hiệp định dệt may (ATC) yêu cầu các nước thành viên hiện đang duy trì các hạn chế phải loại bỏ dần theo bốn giai đoạn, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn vào ngày 1/1/2005. 1.1.4.3. Quy tắc thứ ba Yêu cầu các nước tiến hành buôn bán mà không được phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu hoặc giữa các nước nhập khẩu hàng hóa đó. Quy tắc được thể hiện trong nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Trường hợp ngoại lệ đặc biệt của quy tắc này là thỏa thuận ưu đãi khu vực. Quy tắc cơ bản thứ ba của GATT quy định không được phép phân biệt đối xử trong thương mại và được thể hiện trong quy chế tối huệ quốc. Theo cách nói đơn giản, điều này có nghĩa là nếu một quốc gia thành viên cho phép một nước hưởng ưu đãi thuế quan hay các ưu đãi đối với bất kỳ sản phẩm nào thì ngay lập tức và vô điều kiện, quốc gia này cũng phải cho phép
  16. 15 các nước khác hưởng ưu đãi như thế đối với sản phẩm tương tự. Vì vậy, nếu nước A, khi đàm phán thương mại với nước B, thỏa thuận giảm thuế nhập khẩu chè từ 10% xuống 5% thì mức thuế giảm này cũng phải áp dụng cho tất cả các thành viên còn lạ của WTO. Nghĩa vụ đối xử theo quy chế tối huệ quốc không chỉ áp dụng đối với nhập khẩu mà còn đối với cả xuất khẩu. Vì vậy, nếu một nước đánh thuế đối với hàng xuất khẩu sang một nước, thì cũng phải đánh thuế suất như vậy đối với hàng xuất khẩu sang tất cả các nước. Hơn thế nữa, nghĩa vụ đối xử theo quy chế tối huệ quốc không chỉ hạn chế ở thuế quan mà còn áp dụng đối với: Bất kỳ khoản phí nào liên quan tới nhập khẩu và xuất khẩu; Phương pháp đánh thuế và các khoản phí nói trên; Những quy tắc và thủ tục liên quan đến xuất khẩu và nhập khẩu; Thuế và phí nội địa đối với hàng nhập khẩu và các luật lệ, quy định, điều kiện ảnh hưởng đến việc bán hàng; Việc quản lý các hạn chế định lượng (chẳng hạn như phân phối quota giữa các quốc gia cung cấp hàng trên cơ sở không phân biệt) trong những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng hạn chế định lượng. Vì vậy, nguyên tắc này nhấn mạnh rằng, khi thỏa thuận áp dụng quy chế tối huệ quốc, các nước thành viên cam kết không phân biệt đối xử giữa các nước và không được đối xử đối với một nước ưu đãi hơn một nước khác trong mọi vấn đề liên quan tới thương mại hàng hóa. Ngoại lệ của quy chế tối huệ quốc. Tuy nhiên, các quy định của GATT cũng cho phép được giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác trên cơ sở ưu đãi giữa các nước tham gia hiệp định thương mại khu vực. Thuế suất thấp hoặc miễn thuế đối với hoạt động thương mại giữa các thành viên của thỏa thuận thương mại khu vực không phải áp dụng đối với các nước khác. Chính vì vậy, hiệp định ưu
  17. 16 đãi khu vực tạo thành môi trường hợp ngoại lệ quan trọng của quy chế tối huệ quốc. Để đảm bảo lợi ích của các nước không phải là thành viên của hiệp định thương mại khu vực, GATT cũng đưa ra những điều kiện nghiêm ngặt khi thành lập các hiệp định này. Các điều kiện này cùng với các điều kiện khách quy định rằng: Các nước thành viên của hiệp định khu vực phải xóa bỏ thuế quan và các rào cản thương mại khác có ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước đó, và Các hiệp định này không được dẫn đến việc đặt ra những rào cản thương mại đối với các nước khác. Các hiệp định này có thể hình thành dưới dạng liên minh thuế quan hoặc khu vực thương mại tự do. Trong cả hai trường hợp, thương mại giữa các nước thành viên được miễn thuế trong khi buôn bán với các nước khác vẫn phải tuân thủ theo mức thuế quan của quy chế tối huệ quốc. Đối với liên minh thuế quan, thuế suất của các nước thành viên đã được hài hòa và được áp dụng thống nhất như nhau đối với hàng nhập khẩu từ các nước bên ngoài. Trong khu vực thương mại tự do, thuế suất không được hài hòa mà thay vào đó, các nước thành viên tiếp tục sử dụng mức thuế quan ghi trong danh mục của từng nước. Hiện có hơn 100 hiệp định ưu đãi khu vực đang có hiệu lực, trọng tâm là thúc đẩy thương mại dựa trên cơ sở khu vực thông qua củng cố và giảm mạnh thuế quan cũng như tăng cường các nhượng bộ khác trao đổi tại các hiệp định ưu đãi khu vực và gia tăng trong những năm gần đây. Kết quả là thương mại khu vực tăng vững chắc và tỷ trọng thương mại khu vực ngày càng lớn trong thương mại thế giới. Các hiệp định ưu đãi này đã tạo ra lợi thế cho các ngành công nghiệp tiếp thị sản phẩm của mình ở các nước khác trong khu vực. Đồng thời, nó
  18. 17 cũng có thể đặt các ngành công nghiệp của các nước nằm ngoài khu vực, là những nơi phải đóng thuế theo quy chế tối huệ quốc, vào một vị thế cạnh tranh bất lợi. Một trong những thách thức lớn mà các nước thành viên WTO sẽ gặp phải trong năm tới là làm sao đảm bảo được sự bổ sung giữa nỗ lực phát triển thương mại khu vực với ý đồ tiếp tục tự do hóa thương mại ở cấp độ đa phương. Bên cạnh những hiệp định này, các nước phát triển cũng đã áp dụng các hiệp định tự do thương mại một chiều, theo đó hàng nhập khẩu từ tất cả hay một số các nước đang phát triển có thể thâm nhập vào thị trường nước phát triển mà không phải đóng thuế nhập khẩu. Đây là các hiệp định không có đi có lại bởi vì các nước đang phát triển được lợi từ việc thâm nhập ưu đãi mà không phải đối xử tương tự đối với hàng nhập khẩu từ các nước phát triển. Ví dụ của các hiệp định thương mại ưu đãi một chiều này là: - Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), theo đó các nước phát triển cho phép nhập khẩu trên cơ sở ưu đãi và miền thuế nhập khẩu tất cả các sản phẩm công nghiệp, và một số nông phẩm chọn lọc của tất cả các nước đang phát triển. - Công ước Lomé ( Lomé IV - hết hạn 2.2002 ), theo đó các quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu cho phép hàng nhập khẩu trên cơ sở miễn thuế nhập khẩu của một số nước đang phát triển và chậm phát triển ở châu Phi, vùng Caribê, châu Á và Thái Bình Dương (tức là các nước ACP) đưa vào thị trường này. - Sáng kiến Lòng chảo Caribê, theo đó Mỹ cho phép nhập khẩu hàng hóa tên cơ sở miễn thuế nhập khẩu từ các nước vùng Caribê. Cơ sở pháp lý của việc các nước phát triển dành đối xử ưu đãi cho hàng nhập khẩu từ tất cả các nước đang phát triển theo GSP chính là Quyết định về đối xử khác biệt và ưu đãi hơn, tương hỗ và tham gia đầy đủ hơn của
  19. 18 các nước đang phát triển. Quyết định này được áp dụng trong GATT từ 1979 và thường được biết đến dưới tên gọi Điều khoản cho phép chung. Trong các điều khoản của GATT 1994 không có một có sở pháp lý rõ ràng cho các hiệp định ưu đãi như Công ước Lomé và Sáng kiến Lòng chảo Caribê, trong đó các nước phát triển thâm nhập có ưu đãi hoặc miễn thuế đối với một số ít các nước đang phát triển mà các nước phát triển đó có những ràng buộc lịch sử hay vì các yếu tố khác. Hiện nay, các hiệp định này được cho phép theo điều khoản "miễn trừ" dành cho các nước phát triển đưa ra ưu đãi, tức là khỏi phải thực hiện nghĩa vụ dành đối xử tối huệ quốc. Đứng về mặt pháp lý, các hiệp định ưu đãi hạn chế này sẽ dẫn tới sự phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu của các nước nước đang phát triển không được hưởng ưu đãi này. Vì vậy hiện có rất nhiều sức ép đòi hỏi các nước phát triển dành những ưu đãi này phải điều chỉnh cho phù hợp với các quy tắc của GATT. 1.1.4.4. Quy tắc thứ tư Gọi là quy tắc đối xử quốc gia. Quy tắc này yêu cầu các nước không được đánh thuế nội địa như thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng vào các sản phẩm nhập khẩu sau khi hàng hóa đó đã vào thị trường nội địa và nộp thuế nhập khẩu tại biên giới, theo mức thuế cao hơn mức thuế đánh vào sản phẩm nội địa tương tự. Quy chế tối huệ quốc yêu cầu các thành viên không phân biệt đối xử giữa các nước. Nguyên tắc đối xử quốc gia bổ sung cho quy chế tối huệ quốc, quy định rằng, một mặt hàng nhập khẩu sau khi đã đi qua biên giới và đã trả các khoản thuế quan cũng như các khoản phí khác sẽ không bị đối xử kém ưu đãi hơn so với các sản phẩm nội địa tương tự. Nói cách khác, nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên đối xử với các hàng nhập khẩu trên cùng cơ sở như hàng sản xuất trong nước. Vì vậy các nước không được đánh
  20. 19 các khoản thuế nội địa (như thuế doanh thu) với thuế suất cao hơn mức áp dụng cho các sản phẩm nội địa tương ứng đối với hàng nhập khẩu sau khi nó đã thanh toán các khoản thuế quan tại biên giới. Tương tự như vậy, các quy định tác động đến việc mua bán sản phẩm tại thị trường trong nước cũng không thể áp dụng nghiêm ngặt hơn đối với hàng nhập khẩu. 1.2. YÊU CẦU CỦA GATT ĐỐI VỚI CÁC NƢỚC THÀNH VIÊN TRONG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP. Một trong những mục đích quan trọng của GATT là hỗ trợ các nước thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua thương mại gia tăng bằng cách xóa bỏ thuế quan đối với thương mại hàng công nghiệp tại các cuộc đàm phán. 1.2.1. Đặc điểm, vai trò, vị trí hàng công nghiệp trong thƣơng mại quốc tế Thương mại quốc tế những thập niên gần đây đã có bước tăng trưởng đột biến cả về chất và lượng. Song với sự tăng trưởng mạnh mẽ này, các khu vực và quốc gia trên thế giới cũng đã và đang tích cực mở cửa thị trường nội địa của mình với tư tưởng rằng tự do hóa thương mại là một xu thế khách quan, là nền tảng của sự phát triển, tự do hóa thương mại đưa các quốc gia xích lại gần nhau, thân thiện hơn trong quan hệ sản xuất, kinh doanh và chia sẻ thịnh vượng chung. Theo thời gian, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, biểu hiện ở chỗ hàng hoá ngày một nhiều, sự thông thương hàng hoá giữa các quốc gia dễ dàng hơn bao giờ hết. Hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong thương mại hàng hoá quốc tế. Thông thường, hàng công nghiệp được chuyển từ các nước phát triển, các nước có nền công nghiệp phát triển, một số nước đang phát triển có nền sản xuất công nghiệp sang các nước đang phát triển và kém phát triển. Đối với các quốc gia công nghiệp, kim ngạch thương mại hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong thương mại hàng hoá, do vậy hàng công
  21. 20 nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển thương mại quốc tế, hàng công nghiệp cũng là tác nhân cho sự phát triển trong các lĩnh vực ngành hàng hoá và dịch vụ. Các nước phát triển và đang phát triển luôn chú trọng xây dựng cho quốc gia mình một chiến lược phát triển công nghiệp lớn mạnh. Sản xuất hàng công nghiệp luôn giữ vị trí nòng cốt trong sự phát triển của một quốc gia, vì trên thực tế lợi ích tạo ra từ thương mại hàng công nghiệp là vô cùng lớn. Trong giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới II, thương mại quốc tế đã có những bước phát triển ngoạn mục, đặc biệt có nhiều quốc gia giàu lên nhanh chóng, mà chủ yếu là các quốc gia có nên công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật bản, các nước EU , bên cạnh đó nổi lên các nước đang phát triển, có chính sách thương mại phù hợp và nền sản xuất công nghiệp trong nước vững mạnh như Hàn quốc, Trung quốc, điều này cho thấy rằng hàng công nghiệp giữ vai trò quan trọng cho sự phát triển của một quốc gia. 1.2.2. Yêu cầu của GATT đối với các nƣớc tham gia Sau mỗi Vòng đàm phán, thuế suất mà các nước thoả thuận với nhau được ghi vào bản danh mục ưu đãi, hay còn gọi là danh mục thuế quan. Mỗi nước có một bản danh mục riêng. Thuế suất ghi trong bản danh mục này được gọi là thuế suất ràng buộc, tức là sau này nước đó sẽ không được phép tăng thuế suất cao hơn mức đã ghi trong danh mục. Như vậy, nếu đã đưa vào danh mục thuế quan là mặt hàng đó đã bị ràng buộc, những mặt hàng không đưua vào danh mục thuế quan thì được tự do tăng thuế suất. Thực tế, việc giảm thuế quan thường diễn ra từ từ qua một số năm để các ngành sản xuất trong nước có thể thể thích nghi dần với việc giảm bảo hộ qua thuế quan. Các mặt hàng công nghiệp thường được giảm thuế quan trong thời gian 5 năm với mức giảm bằng nhau cho mỗi năm. Như vậy, nếu trước
  22. 21 khi đàm phán một mặt hàng công nghiệp có thuế suất 40%, sau đàm phán thuế suất hạ xuống 15%, còn 25% thì mỗi năm thuế suất sẽ giảm đi 3%. GATT chỉ yêu cầu các thành viên phải áp dụng thuế xuất khẩu như nhau đối với các thành viên khác ( đãi ngộ tối huệ quốc ). Trên thực tế, nhiều nước đã tự nguyện giảm dần hoặc xoá bỏ thuế xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu. 1.2.3. Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp từ phía các nƣớc tham gia GATT. 1.2.3.1. Các điều chỉnh chung  Giảm thuế quan Ngoài việc tạo nên một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thương mại quốc tế, hệ thống thương mại đa phương tạo nên một diễn đàn để tiếp tục đàm phán cho việc tự do hoá thương mại. Việc cắt giảm thuế quan một cách rõ rệt và các rào cản thương mại là kết quả của những vòng đàm phán nối tiếp nhau trong 50 năm qua. Nhờ những cắt giảm thuế quan đã đạt được từ những vòng đàm phán trước đây, mức thuế quan trung bình của các sản phẩm công nghiệp tại các nước phát triển giảm từ khoảng 40% vào năm 1948 khi GATT thành lập xuống khoảng 7% vào cuối Vòng đàm phán Tokyo [ 1 tr 22]. Trong vòng đàm phán Uruguay, các nước này đã đồng ý cắt giảm thêm 40% chia đều trong 5năm. Tuy nhiên, tỷ lệ cắt giảm thuế quan cho một số mặt hàng mà các nước đang phát triển có lợi ích xuất khẩu như các sản phẩm dệt, may, da và các sản phẩm da là thấp hơn nhiều so với mức trung bình. Nhiều nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi cũng đã nhất trí cắt giảm thuế quan của họ bằng khoảng 2/3 tỷ lệ cắt giảm của các nước phát triển . Mức thuế quan trung bình của các sản phẩm công nghiệp của các nước đang phát triển giảm từ 40% xuống còn 10%, mức trung bình này còn tiếp
  23. 22 tục được giảm xuống thêm 40% nữa tại Vòng đàm phán Uruguay [ 1 tr 243]. Các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi cũng cắt giảm thuế quan, nhưng ở mức thấp là 30%. Các nước chậm phát triển không đòi hỏi giảm thuế quan theo tỷ lệ phần trăm, nhưng được khuyến khích thực hiện về nhượng bộ tượng trưng bằng cách giảm thuế quan ở những mặt hàng có chọn lọc. Tất cả những cắt giảm đó, trừ một vài ngoại lệ, đều được thực hiện trong 5 giai đoạn bằng nhau để đạt tới thuế suất thoả thuận cuối cùng đã được áp dụng vào năm 1999. Các nước phát triển và các nước đang phát triển cũng đồng ý tại vòng đàm phán Urugoay loại bỏ mọi thuế quan ở một số ngành nhất định, gọi là các ngành có thuế suất bằng không. Đó là các ngành tân dược, thiết bị nông nghiệp, thiết bị xây dựng, thiết bị y tế, bàn ghế, giấy, thép và đồ chơi. Do kết quả của những thỏa thuận này và những nhượng bộ khác, tỷ trọng hàng công nghiệp thâm nhập vào thị trường các nước phát triển trên cơ sở tối huệ quốc đã tăng gấp đôi, từ 22% lên 44%. Mức bình quân gia quyền của thuế quan áp dụng cho hàng công nghiệp sẽ giảm từ: + 6,3% xuống còn 3,8% tại các nước phát triển + 15,3% xuống còn 12,3% tại các nước đang phát triển + 8,6% xuống còn 6% tại các nền kinh tế chuyển đổi [ 1 tr 244]  Điều chỉnh theo ràng buộc thuế quan Mọi hàng công nghiệp nhập khẩu vào các nước phát triển đều chịu suất ràng buộc, tỉ trọng đối với các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi là 73% và 98%. Một trong những lợi thế của sự ràng buộc là đem lại đảm bảo tiếp cận thị trường nước ngoài. Các doanh nghiệp có thể đặt kế hoạch phát triển thương mại của mình mà không sợ bị tăng thuế nhập khẩu hay giới hạn tiếp cận thị trường bởi hạn chế số lượng. Việc điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp mà cụ thể là cắt giảm thuế quan qua các Vòng đàm phán của GATT đã mang lại cho
  24. 23 thương mại hàng công nghiệp nói riêng và thương mại hàng hoá nói chung những bước tiến vượt bậc, cụ thể nó làm tăng thu nhập thế giới lên 1% mỗi năm hay khoảng từ 200 tỷ đến 500 tỷ mỗi năm, kim ngạch thương mại thế giới tăng trưởng từ 6% tới 20% mỗi năm [ 1 tr 23 ]. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết lợi ích mang lại đều do các nước phát triển và một số nước đang phát triển hưởng lợi chính; các nước phát triển và một số nước đang phát triển cso trình độ phát triển cao, có nền công nghiệp mạnh do vậy chủ yếu hàng công nghiệp đều xuất phát từ các quốc gia này . 1.2.3.2. Kinh nghiệm của một số nước trong việc điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp trước và sau khi gia nhập WTO.  Kinh nghiệm của Trung Quốc: Từ năm 1990, Trung Quốc đã liên tục cắt giảm thuế quan đánh vào hàng công nghiệp nhập khẩu. Tháng 11 năm 1995, tại Nhật Bản, trong Hội nghị các nhà lãnh đạo APEC, Trung Quốc tuyên bố giảm mức thuế trung bình từ 36% xuống 24%. Tiếp đến tháng 10/1997, Trung Quốc giảm mức thuế trung bình xuống còn 17%. Năm 1998, Trung Quốc chuẩn bị một kế hoạch chi tiết về việc tiến hành giảm bình quân khoảng 30% thuế cho 7000 mặt hàng nhằm đưa mức thuế trung bình về hàng công nghiệp xuống còn 10% năm 2005. Đối với ngành sản xuất ô tô, thuế suất đánh vào xe nhập khẩu vào Trung Quốc khá cao, dao động từ 80% đến 100%, đã giảm theo lộ trình xuống còn 25% vào tháng 7/2006. Đối với phụ tùng, thuế suất cũng đã giảm từ 23,4% xuống còn 10% vào tháng 7/2006. Trong năm 2001, Trung Quốc cũng đã quyết định giảm 6,6% thuế nhập khẩu đối với 152 mặt hàng thuộc ngành sản xuất ô tô. Trung Quốc và ASEAN đang xúc tiến quá trình giảm thuế xuất nhập khẩu để thiết lập khu vực thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN (FTA).
  25. 24 Mức thuế suất xuất nhập khẩu của Trung Quốc áp dụng đối với hàng hóa của các nước ASEAN giảm từ 9,9% xuống 8,1% năm 2005 và sẽ giảm xuống 6,6% vào năm 2007 [ 29 ] Mức thuế suất trung bình sẽ giảm xuống 2,4% vào năm 2009 và vào năm 2010, thời điểm dự tính khu vực thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN được thiết lập, 93% sản phẩm từ các nước ASEAN sẽ hoàn toàn được miễn thuế. Thực tế cho thấy giảm thuế quan sẽ tăng giao dịch thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN. Tổng thương mại giao dịch Trung Quốc với ASEAN đạt 130,4 tỷ USD năm 2005, trong đó nhập khẩu chiếm 75 tỷ USD, xuất khẩu chiếm 55,4 tỷ USD [ 29 ] Cho đến 2010, Trung Quốc sẽ thiết lập FTA với Brunei, Indonesia, Malaysia, Philipin, Singapo và Thái Lan. Các nước còn lại sẽ dần thiết lập trong thời kỳ quá độ hơn 5 năm.  Kinh nghiệm của Đài Loan Trong quá trình gia nhập WTO, Đài Loan cũng liên tục cắt giảm thuế quan. Tháng 7/1995, Đài Loan đã đưa đề nghị cắt giảm thuế suất cho 758 sản phẩm. Như vậy, chỉ tính riêng trong giai đoạn 1986-1995, Đài Loan đã thực hiện cắt giảm cho 74% sản phẩm công nghiệp từ mức 24,4% xuống 6,38%. Tại phiên họp của tổ công tác vào cuối năm 1995, Đài Loan công bố kế hoạch cắt giảm mức thuế trung bình đối với hàng công nghiệp là 5,2% vào năm cuối cùng của thời gian chuyển tiếp, sau đó tiếp tục hạ xuống chỉ còn 4,34%. Đây là mức thuế nhập khẩu khá thấp, chắc chắn ngành công nghiệp nội địa của Đài Loan sẽ gặp phải những áp lực cạnh tranh lớn với hàng nhập khẩu từ bên ngoài.  Kinh nghiệm của Băng la det Băng-la-đet đã thực hiện việc cắt giảm thuế quan một cách mạnh mẽ. Ngay từ những năm đầu 1990, các hạn chế định lượng của Băng-la-đet đã được cắt giảm mạnh mẽ đến mức khó có thể cắt giảm hơn nữa. Thực vậy, số
  26. 25 dòng thuế chịu kiểm soát nhập khẩu giảm xuống còn 1993 dòng từ mức 325 dòng trong những năm 1991-1993 xuống chỉ còn 122 dòng vào những năm 1997-2002 và dự kiến chỉ còn 63 trong giai đoạn 2003-2006. Nhờ vậy, tỷ trọng số dòng thuế quan các dòng HS 4 chữ số chịu kiểm soát nhập khẩu đã giảm hơn 3 lần, từ 15,65% trong những năm 1991-1993 xuống còn hơn 5% trong giai đoạn 2003-2006. Hiện chỉ còn một số mặt hàng chịu kiểm soát và hạn chế nhập khẩu là các mặt hàng thiết yếu cho lợi ích cộng đồng và quốc gia. 1.2.4. Bài học kinh nghiệm Từ phân tích kinh nghiệm điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp của các nước phát triển và đang phát triển, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm dưới đây. Thứ nhất, nhìn chung, sau khi gia nhập WTO, các thành viên đã thực hiện khá nghiêm túc các cam kết gia nhập của mình, nhất là thực hiện các cam kết ràng buộc, cắt giảm hàng rào thuế quan đối với hàng công nghiệp. Đáng lưu ý là nhiều nước đã đưa ra các mức thuế quan thực tế thấp hơn so với mức thuế quan đã cam kết. Tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh khác nhau, nhiều nước giữ mức chênh lệch tương đối lớn giữa hai mức thuế quan để tạo độ linh hoạt khi cần thiết phải điều chỉnh mức thuế quan thực tế để thực hiện các mục tiêu phát triển ngành của mình. Thứ hai, nhìn chung việc cắt giảm thuế quan hàng công nghiệp có thể làm giảm thu ngân sách từ thuế nhập khẩu, tuy vậy, làm tăng thu ngân sách (đặc biệt là xét theo giá trị tuyệt đối) của không ít thành viên, nhất là các nước đang phát triển có mức thuế nhập khẩu trước khi gia nhập ở mức trung bình (trên dưới 15%) và mức cắt giảm khoảng 5 điểm % (trường hợp Trung Quốc, Bungary, Rumany, ). Việc cắt bỏ một số hàng rào phi thuế quan như thuế quan hóa, bỏ cấm nhập khẩu cũng làm tăng thu thuế nhập khẩu.
  27. 26 Thứ ba, để giảm tác động tiêu cực (có thể) của việc cắt giảm thuế quan đối với thu ngân sách từ nhập khẩu, các chính phủ thường điều chỉnh, cải cách hệ thống thuế - thuế quan theo hướng: - tạo lập hệ thống thu thuế hữu hiện bằng cách sớm chuyển dịch cơ sở thuế từ thuế xuất nhập khẩu sang một cơ sở thuế rộng hơn như thuế VAT, thu nhập cá nhân; - cải cách các biện pháp thương mại có tác động tích cực tới nguồn thu (như thuế quan hóa, cắt giảm diện miễn thuế) và tác động trung tính (chưa rõ ràng) tới nguồn thu; tăng hiệu quả thu thuế từ các loại thuế hiện có (giảm chi phí biên của từng cơ sở thu thuế); - cải thiện hiệu quả chi ngân sách thông qua việc tăng hiệu quả và cắt giảm chi ngân sách. Thư tư, việc sử dụng các công cụ chính sách thuế để nâng cao năng lực các ngành hàng, nhất là các ngành non trẻ sau khi gia nhập WTO nhìn chung bị thu hẹp cả về mức độ, phạm vi và loại hình áp dụng, đòi hỏi có sự điều chỉnh chúng một cách "linh hoạt" và "sáng tạo". Để bảo hộ và phát triển các ngành non trẻ có tầm quan trọng quốc gia, các nước đang phát triển và chuyển đổi vẫn có thể tiếp tục: (i) trợ cấp xuất khẩu trong một thời gian chuyển tiếp (7-8 năm), sử dụng công cụ hỗ trợ xuất khẩu nếu thị phần của nước đó không vượt quá mức cho phép, khuyến khích xuất khẩu thông qua các chương trình bảo hiểm và tín dụng xuất khẩu với lãi suất thấp (hơn lãi suất thị trường), ưu đãi thuế và thuế nhập khẩu và thuế nhập khẩu, và phát triển khu chế xuất; (ii) trợ cấp phát triển ngành thay thế nhập khẩu và bảo hộ ngành trong tình thế sản xuất trong nước bị đe dọa do bùng phát về hàng hóa nhập khẩu vẫn có thể được áp dụng song với mức độ hạn chế và khó sử dụng; (iii) không tham GPA để có thể dùng các khoản
  28. 27 mua sắm của Chính phủ để hỗ trợ mục tiêu phát triển ngành, song vẫn phải tính đến đầy đủ các nguyên tắc cạnh tranh, công bằng và hiệu quả. Tuy nhiên, việc sử dụng các công bảo hộ, nhất là trợ cấp, ưu đãi thuế, khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tính đến đầy đủ đặc thù của từng nước/lãnh thổ về mức độ cam kết, năng lực ngành hàng trong nước, chi phí và hiệu quả trong trung và dài hạn. Trước những đòi hỏi của bối cảnh mới, các công cụ chính sách thuế và trợ cấp can thiệp phát triển ngành hàng công nghiệp có hiệu quả và được phép phải là một chính sách mang tính toàn diện hơn là một chính sách hướng tới một số ngành nhất định. Các trọng tâm chính sách nên chuyển sang cải thiện hiệu quả của hệ thống kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo chính sách tỷ giá thích hợp và tạo ra một môi trường khuyến khích đầu tư và đổi mới công nghệ. Các nước thành viên có thể dùng trợ cấp, khuyến khích ưu đãi để hỗ trợ thúc đẩy thương mại, cải cách cơ cấu, hỗ trợ trong công nghiệp theo các cam kết và quy định của WTO. Thứ năm, "dư địa" cho hỗ trợ phát triển ngành dịch vụ, nhất là trợ cấp là tương đối rộng do các quy định về trợ cấp trong lĩnh vực này còn lỏng lẻo và có thể gây nhiều tranh cãi. Đây là vấn đề quan trọng do sự phát triển của khu vực công nghiệp chế biến phụ thuộc nhiều vào một khu vực dịch vụ phát triển năng động và có hiệu quả. Thứ sáu, để đảm bảo công bằng xã hội và tạo dựng ủng hộ chính trị rộng rãi cho những cải cách tiếp theo, sự hỗ trợ những đối tượng dễ bị và bị tổn thương trong quá trình tự do hóa là rất cần thiết. Để đảm bảo vấn đề này, các chính phủ đã trợ cấp và tạo cơ chế khuyến khích cho người lao động trong nâng cao tay nghề, đào tạo tay nghề mới, tìm kiếm việc làm và tạo dựng hệ thống an sinh xã hội.
  29. 28 Thứ bảy, kinh nghiệm rất thành công của Trung Quốc và không thực sự thành công của Băng-la-đet theo các khía cạnh như tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu, thu hút FDI, nâng cao năng lực ngành hàng, cho thấy để đảm bảo tự do hóa thương mại mang lai lợi ích thực sự cho nền kinh tế, ngoài việc nâng cao năng lực thể chế, việc đẩy mạnh cải cách cơ cấu, nhất là hỗ trợ và khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân phát triển và bảo đảm rằng khu vực này được hưởng lợi từ tự do hóa thương mại - là cần thiết. 1.3. CÁC CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG WTO VỀ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP 1.3.1. Các cam kết chung Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn văn kiện gia nhập WTO vào ngày 27-28/11/2006. Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 11/1/2007, và các cam kết của ta bắt đầu có hiệu lực. Theo kết quả đàm phán, về cam kết đa phương, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp định đa biên của WTO và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh. Về thuế nhập khẩu, mức cam kết chung là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm. Cụ thể, có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với
  30. 29 nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ô tô - xe máy vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hoá chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 – 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Tổng hợp chung toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO như được thể hiện trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt Nam. Có thể rút ra một số nét lớn như sau: - Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm 10.60 dòng thuế. - Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện sau 5-7 năm. - Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải.
  31. 30 - Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện - điện tử. - Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân thời điểm gia nhập là 16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ là 23,9%. - Các mức cắt giảm này có thể so sánh tương ứng với mức cắt giảm trung bình của các nước đang phát triển và đã phát triển trong vòng đàm phán Uruguay (1994) như sau: trong lĩnh vực nông nghiệp các nước đang phát triển và đã phát triển cam kết cắt giảm là 30% và 46%; với hàng công nghiệp tương ứng là 37% và 24%; Trung quốc đàm phán gia nhập của mình cam kết cắt giảm khoảng 45% thuế nhập khẩu (từ 17,5% xuống 10%). Mức độ cam kết và cắt giảm thuế của Việt Nam tổng hợp theo một số nhóm ngành hàng và nhóm mặt hàng chính với thời gian thực hiện được cụ thể hoá trong các bảng 1.2, bảng 1.3, bảng 1.4: Bảng 1.2 – Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành công nghiệp hàng chính. Thuế suất cam kết Thuế suất cam kết Nhóm mặt hàng tại thời điểm gia cắt giảm cuối cùng nhập WTO (%) cho WTO (%) 1. Dầu khí 36,8 36,6 2. Gỗ, giấy 14,6 10,5 3. Dệt may 13,7 13,7 4. Da, cao su 19,1 14,6 5. Kim loại 14,8 11,4
  32. 31 6. Hoá chất 11,1 6,9 7. Thiết bị vận tải 46,9 37,4 8. Máy móc thiết bị cơ khí 9,2 7,3 9. Máy móc thiết bị điện 13,9 9,5 10. Hàng chế tạo khác 12,9 10,2 Cả biểu thuế 17,2 13,4 Nguồn : Bộ Thương mại, 2006 Qua bảng 1.2, ta thấy Việt nam đã cắt giảm thuế quan một cách nghiêm chỉnh trong tiến trình gia nhập WTO. Mức thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập của hầu hết các sản phẩm công nghiệp đều gần tói mức cuối cùng phải cắt giảm. Bảng 1.3 – Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng công nghiệp chính Cam kết với WTO Thuế Ngành hàng/ Mức thuế Thuế Thuế suất suất suất khi suất cuối Thời gian thực hiện MFN gia nhập cùng - Xăng dầu 0-10 38,7 38,7 - Sắt thép (thuế suất bình 7,5 17,7 13 5-7 năm quân) - Xi măng 40 40 32 2 năm - Phân hoá học (thuế suất 0,7 6,5 6,4 2 năm bình quân) - Giấy (thuế suất bình 22,3 20,7 15,1 5 năm quân) - Ti vi 50 40 25 5 năm - Điều hoà 50 40 25 3 năm - Máy giặt 40 38 25 4 năm - Dệt may (thuế suất bình 37,3 13,7 13,7 Ngay khi gia nhập
  33. 32 quân) (thực tế đã thực hiện theo hiệp định dệt may với Mỹ và EU) - Giày dép 50 40 30 5 năm - Xe ô tô con + Xe từ 2.500 cc trở lên, 90 90 52 12 năm chạy xăng + Xe từ 2.500 cc trở lên, 90 90 47 10 năm loại 2 cầu + Dưới 2.500 cc và các loại 90 100 70 7 năm khác Bảng 1.4 – Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng công nghiệp chính Cam kết với WTO Thuế Ngành hàng/ Mức thuế Thuế Thuế suất suất suất khi suất cuối Thời gian thực hiện MFN gia nhập cùng - Xe tải + Loại không quá 5 tấn 100 80 50 10 năm + Loại thuế suất khác hiện 80 100 70 7 năm hành 80% + Loại thuế suất khác hiện 60 60 50 5 năm hành 60% - Phụ tùng ôtô 20,9 24,3 20,5 3-5 năm - Xe máy + Loại từ 800 cc trở lên 100 100 40 8 năm + Loại khác 100 95 70 7 năm Nguồn : Bộ Thương mại, 2006
  34. 33 Qua Bảng 1.3 và 1.4, về cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu , có thể đánh giá rằng Việt nam đã nghiêm túc thực hiện các quy định của WTO về mức thuế suất và thời gian thực hiện cam kết cắt giảm. Như tất cả các nước mới gia nhập khác, Việt Nam cũng cam kết tham gia vào một số Hiệp định tự do hóa theo ngành. Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để thực hiện cam kết giảm thuế từ 3-5 năm. Trong các Hiệp định trên, tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng 330 dòng thuế thuộc diện công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3-5 năm. Như vậy, các sản phẩm điện tử như: máy tính, điện thoại di động; máy ghi hình, máy - ảnh kỹ thuật số sẽ đều có thuế suất 0%, thực hiện sau 3-5 năm, tối đa là sau 7 năm. Việc tham gia Hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hoá mức thuế đã cam kết theo các Hiệp định dệt may với EU, Hoa Kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đáng kể đối với các mặt hàng này: vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5%. 1.3.2. Các cam kết cắt giảm thuế quan đối với sản phẩm công nghiệp Việt Nam sẽ cắt giảm thuế với khoảng 3.800 dòng thuế; ràng buộc ở mức thuế hiện hành với khoảng 3.700 dòng; ràng buộc theo mức thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành với 3.170 dòng thuế; chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại, hoá chất, một số phương tiện vận tải. Cam kết ràng buộc toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm 10.600 dòng thuế.
  35. 34 Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn 13,4%). Thời gian thực hiện sau 5 – 7 năm. - Sản phẩm công nghiệp nói chung Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Nhóm mặt hàng có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: Dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện - điện tử. Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia nhập là 16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức thuế MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm sẽ là 23,9% [ 31 ] Các mức cắt giảm này có thể so sánh tương ứng với các mức cắt giảm trung bình của các nước đang phát triển và đã phát triển trong vòng đàm phán Uruguay (1994) như sau: Trong lĩnh vực công nghiệp các nước đang phát triển và đã phát triển cam kết cắt giảm là 37% và 24% [ 31] Những ngành mà Việt Nam cam kết tham gia đầy đủ là sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế. Những ngành Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3-5 năm. Trong các Hiệp định trên, tham gia ITA là quan trọng nhất, theo đó khoảng 330 dòng thuế thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin sẽ phải có thuế suất 0% sau 3-5 năm. Như vậy, các sản phẩm điện tử như: máy tính, điện thoại di động; máy ghi hình, máy - ảnh kỹ thuật số sẽ đều có thuế suất 0%, thực hiện sau 3-5 năm, tối đa là sau 7 năm. Bia giảm 20%. Sản phẩm nhựa dùng trong gia đình giảm 20%.
  36. 35 Giầy dép mũ các loại giảm 20% Đồng hồ các loại giảm 25% Chè giảm 20% Thịt chế biến (hộp) giảm 20% Gạch ốp giảm 17% Đồ sứ giảm 17 – 20% Thuỷ tinh, kính giảm 10% Một số loại ắc quy giảm 20% Một số hàng tạp hoá khác giảm 20 – 25%. - Sản phẩm thép tấm Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, với những cam kết về mức thuế sẽ áp dụng, các sản phẩm thép tấm, lá chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng do thuế suất nhập khẩu mặt hàng này chỉ còn 0%. Khi đàm phán để tham gia Hiệp định Thương mại hàng hóa giữa các nước ASEAN và Trung Quốc là thời điểm năm 2003, chúng ta đã căn cứ vào những dòng thuế đang áp dụng tại thời điểm này để đàm phán. Khi đó thuế suất thuế nhập khẩu với các sản phẩm thép tấm chỉ có 0% do trong nước chưa sản xuất được, 100% nhu cầu phải nhập khẩu. Mức thuế suất thuế nhập khẩu 0% với thép tấm đã được chúng ta cam kết dành ưu đãi cho các nước tham gia Hiệp định. Nhưng đến đầu năm 2006 nhà máy thép cán nguội Phú Mỹ đã đầu tư xong và bắt đầu sản xuất với công suất 200.000 tấn/ năm và để bảo hộ cho sản xuất trong nước, thuế suất thuế nhập khẩu với thép tấm đã được nâng lên là 7%. Theo mô hình cắt giảm và loại bỏ thuế quan đối với các dòng thuế trong danh mục thông thường thì tất cả các mức thuế sẽ phải giảm dần theo lộ trình đến 2015 còn 0%. Nhưng nếu mức thuế hiện là 5% thì nó sẽ được giữ nguyên đến 2015 mới phải giảm xuống còn 0%. Riêng mức thuế dưới 5% (từ 5% - 0%) thì giữ nguyên ngay từ thời điểm 2005 [ 30 ]
  37. 36 Vào thời điểm đàm phán thì thuế suất thuế nhập khẩu với thép xây dựng của Việt Nam đang là 35%, theo lộ trình đến 2006 – 2007 giảm xuống còn 30%, 2008 còn 25%, 2009 còn 20%, 2011 còn 15%, 2013 còn 10% và 2015 còn 0%, nên không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên đối với sản phẩm thép tấm thì khác, trong số 7 nước ASEAN (trừ Lào, Campuchia và Myanma) thì Việt Nam là nước có mức thuế suất thuế nhập khẩu với thép tấm thấp nhất (0%), 6 nước còn lại chỉ có Philipinnes là 3% còn tất cả đều ở mức 5%. Như vậy với mức thuế sản phẩm thép tấm mà Việt Nam cam kết dành cho các nước là 0% thì theo lộ trình sẽ phải giữ nguyên ngay từ thời điểm hiện nay và theo cam kết này thì mức thuế suất thuế nhập khẩu với thép tấm là 7% hiện nay sẽ phải giảm xuống còn 0%. Các doanh nghiệp này khi lập dự án vay vốn đầu tư luôn chắc chắn rằng sẽ được bảo hộ và họ đã đưa điều kiện này vào để tính hiệu quả dự án đầu tư. Thực tế hiện nay thép tấm đang được bảo hộ với mức thuế 7% đánh vào những sản phẩm cùng loại nhập khẩu. Nay mức thuế hạ xuống còn 0% tức là không có bảo hộ nữa, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Vì có bảo hộ bằng thuế nên thép nhập khẩu vào Việt Nam sẽ phải bán với giá cao, thép trong nước sản xuất chỉ cần bán thấp hơn chút ít sẽ cạnh tranh được, như vậy doanh nghiệp có điều kiện thu hồi vốn nhanh và có lợi nhuận. Không còn bảo hộ, thép tấm nhập khẩu tràn vào, giá bán rẻ, thép sản xuất trong nước khó cạnh tranh nổi bởi chi phí đầu tư ban đầu lớn làm cho giá bán không thể hạ thấp, thời gian thu hồi vốn cũng như trả nợ vốn vay sẽ bị kéo dài hơn so với tính toán ban đầu. Chẳng hạn như thép Phú Mỹ theo tính toán, Với mức bảo hộ là 0% thì hiệu quả đầu tư sẽ giảm đáng kể. Hiện lượng thép tấm tiêu thụ của thép Phú Mỹ đã chậm lại, do biết thông tin này, nhiều khách hàng đang hạn chế mua để chờ thép nhập khẩu.
  38. 37 Theo Hiệp hội thép, nhu cầu thép tấm cả nước năm 2005 là 800.000 tấm, năm 2006 ước tính là 1.000.000 tấm, các năm tới mức tăng trưởng dự báo là 20%/năm. Hiện thép tấm chiếm 45% trong tổng nhu cầu thép của Việt Nam, còn thép xây dựng là 55%. Ở các nước công nghiệp phát triển thì thép tấm chiếm 55% còn thép xây dựng là 45%. Theo nhận định, thời gian tới tại Việt Nam thép tấm cũng sẽ chiếm 55% trong tổng nhu cầu thép do công nghiệp phát triển, đời sống được nâng cao. Nhiều doanh nghiệp đã coi đây là một thị trường tiềm năng, đang xúc tiến đầu tư vào sản xuất phôi và thép tấm. Ngoài 3 doanh nghiệp đã đầu tư vào sản xuất thép tấm kể trên, hiện còn một doanh nghiệp nước ngoài đang đàm phán với một đối tác trong nước để đầu tư nhà máy sản xuất thép tấm tại Việt Nam với sản lượng khoảng 800.000tấn/năm, nhưng mức bảo hộ để dự án có hiệu quả mà họ đề nghị là 10%, phía đối tác Việt Nam đưa ra mức bảo hộ khi đàm phán là 5% (bằng với cam kết khi gia nhập AFTA, các mức thuế sẽ chỉ từ 0%-5%). Nếu không còn bảo hộ nữa, không biết nhà đầu tư sẽ nghĩ gì? Bên cạnh đó, các dự án lớn về luyện kim chuẩn bị đầu tư như Liên hợp luyện kim Thạch Khê (Hà Tĩnh) với công suất 4,5 triệu tấn/năm, Dung Quất 5 triệu tấn/năm mà sản phẩm thép tấm chiếm tới trên 90% sản lượng cũng sẽ phải xem xét lại tính khả thi khi không còn bảo hộ nữa. - Sản phẩm dệt may Việc tham gia hiệp định dệt may (thực hiện đa phương hoá mức thuế đã cam kết theo các Hiệp định dệt may với EU, Hoa Kỳ) cũng dẫn đến giảm thuế đáng kể đối với các mặt hàng này; vải từ 40% xuống 12%, quần áo từ 50% xuống 20%, sợi từ 20% xuống 5% [ 30 ] Dệt may: các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam khi vào WTO. Riêng trường hợp vi phạm quy định
  39. 38 WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất định. Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của Việt Nam. Từ những điều phân tích ở trên cho thấy, với tư cách là thành viên của WTO, Việt nam, trong thực tế đã điều chỉnh chính sách thuế quan đối với sản phẩm công nghiệp ngay từ trước khi Việt nam gia nhập. Vì vậy, ngay khi gia nhập WTO vào ngày 11.7.2006, các cam kết của Việt nam về chính sách thuế quan đối với sản phẩm công nghiệp sẽ đòi hỏi Việt nam phảI có sự điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp . Chương 2 sẽ phân tích vấn đề này. CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 2.1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIỆC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP KỂ TỪ SAU KHI VIỆT NAM NỘP ĐƠN XIN GIA NHẬP WTO . 2.1.1 Những thuận lợi và kết quả
  40. 39 2.1.1.1. Việt nam đã tích cực điều chỉnh chính sách thuế và thuế quan theo cơ chế thị trường nhằm tạo điều kiện để chuẩn bị cho Việt nam gia nhập WTO Trước khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, Việt Nam có quan hệ kinh tế, nhất là quan hệ thương mại chủ yếu là với các nước thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Năm 1992, sau khi khối SEV tan rã, Việt Nam bắt đầu chính sach đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, với bước đầu tiên là ký kết Hiệp định về Ưu đãi thuế quan với Cộng đồng chung châu Âu (ECC) - tiền thân của Liên minh Châu Âu (EU) bây giờ. Sau khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) (1995), năm 1996, Việt Nam đã cam kết thực hiện Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT), tham gia Khu vực Thương mại tự do ASEAN (AFTA). Để có điều kiện gia nhập sâu và rộng hơn vào nền kinh tế khu vực, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) (11/1998) và sau đó (7/2000) đã ký Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ. Ngày 5/11/2002, với tư cách là thành viên của ASEAN, Việt Nam đã ký kết Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc (AC- FTA). Ngày 11/1/2007, sau gần 12 năm kiên trì đàm phán, Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO. Đối với lĩnh vực đầu tư, từ Hiệp định song phương đầu tiên về khuyến khích và bảo hộ đầu tư (được ký kết với Italia vào năm 1990), đến nay Việt Nam đã đạt được thỏa thuận ký kết hiệp định loại này với 47 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Chính sách thuế của Việt Nam trong những năm qua cũng đã tiến triển theo hướng là thực hiện các cam kết quốc tế (ASEAN/AFTA và song phương Việt Nam - Hoa Kỳ và AC-FTA), đồng thời, nỗ lực bảo hộ sản xuất
  41. 40 trong nước để nâng cao năng lực ngành hàng, thúc đẩy xuất khẩu và phát triển kinh tế các vùng/địa phương. Chính sách thuế của Việt Nam trong thời gian qua đã được cải cách định hướng thị trường và điều chỉnh cho phù hợp với các nguyên tắc và quy định của GATT/WTO và thông lệ quốc tế. Các cải cách tập trung vào việc hợp lý hóa cơ cấu thuế suất, không phân biệt đối xử, mở rộng cơ sở tính thuế, cải cách quản lý hành chính về thuế và áp dụng thuế VAT để thay thuế doanh thu. Các loại thuế được áp dụng và sửa đổi bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế nhà đất, thuế thu nhập (cá nhân), thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ngoài ra, Chính phủ còn thu một số khoản khác như tiền thuê đất, mặt nước, thuế sát sinh (đã được xóa bỏ năm 1999), thuế môn bài, lệ phí đăng ký tài sản trước bạ, Thuế thu nhập doanh nghiệp được áp dụng theo Luật Thuế Thu doanh nghiệp (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2003 và có hiệu lực từ ngày 01/10/2004, thay thế cho Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp ban hành ngày 10/05/1997. Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) đã điều chỉnh quy định thuế suất chung là 28% và các mức thuế suất ưu đãi là 10%, 15% và 20% và quy định một nhóm tiêu chí thống nhất áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp cũng đã bãi bỏ quy định hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp số thu nhập tái đầu tư, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài quy định tại Điều 42 và 43 Luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam. Trong một số trường hợp, mức ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là lớn hơn so với các doanh nghiệp trong nước.
  42. 41 Để chuẩn bị gia nhập WTO, thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia, tháng 11/2005, Quốc hội đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt. Đối với thuế giá trị gia tăng, phạm vi sửa đổi liên quan đến việc thống nhất mức thuế suất, không phân biệt hàng trong nước hay nhập khẩu đều được miễn thuế giá trị gia tăng để đảm bảo bình đẳng giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Thuế tiêu thụ đặc biệt được sửa đổi nhằm áp dụng thống nhất mức thuế suất của 4 mặt hàng là ô tô, rượu, thuốc lá, bia hơi và bia tươi. Nhìn chung, những cải cách, điều chỉnh trong chính sách thuế của Việt Nam trong thời gian qua góp phần quan trọng đối với thu thuế cho NSNN (chủ yếu từ thu thuế) đã tăng rõ nét từ 21,6% GDP năm 2001 lên 25,11% GDP năm 2005; trong đó, tỷ trọng thu nội địa đã tăng từ 50,7% năm 2001 lên 54,7% năm 2005 . Trong cùng giai đoạn, giá trị thu thuế đã tăng mạnh, liên tục từ 65,4 nghìn tỷ đồng năm 2001 lên 102,3 nghìn tỷ đồng và dự toán đạt 133 nghìn tỷ đồng năm 2005 [ IMF, 2006 ]. Trong cơ cấu thu thuế, các loại thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế xuất khẩu, nhập khẩu đóng vai trò tương ứng quan trọng nhất (từ năm 2002 trở về trước, thuế thu nhập doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng nhất); thu từ thuế thu nhập cá nhân có tỷ trọng đáng kể và vai trò ngày càng tăng. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là thu từ thuế xuất khẩu, nhập khẩu có xu hướng giảm nhẹ nếu xét theo giá trị kể từ năm 2002, trong khi đó, tỷ trọng trong tổng thu thuế giảm rất rõ nét từ đó đến nay . Thực trạng trên nói lên rằng, quá trình cải cách cơ cấu, trong đó có cải cách hệ thống thuế, tự do hóa thương mại và đầu tư có tác động tích cực thu thuế VAT; đồng thời, quá trình cắt giảm thuế quan có tác động tiêu cực lên thu từ thuế xuất khẩu - nhập khẩu và việc thuế quan hóa ít có vai trò quyết định làm tăng tổng thu từ thuế nhập khẩu.
  43. 42 Trước năm 1987, Việt Nam chưa có Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu đối với hàng mậu dịch. Từ năm 1988, Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu hàng mậu dịch bắt đầu có hiệu lực, đánh dấu mốc quan trọng trong thể chế hóa chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam. Hệ thống biểu thuế của Việt Nam bắt đầu được hoàn thiện năm 1991 và được hài hòa theo hệ thống hài hòa hoa thuế quan (HS) năm 1992. Sau khi gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và để chuẩn bị gia nhập WTO, việc cơ cấu lại một cách cơ bản hệ thống thuế quan đã được tiến hành từ đầu năm 1999 (Theo Quyết định 1983 của Bộ Tài chính, ban hành ngày 11/12/1998). Kể từ đó, Biểu thuế quan bao gồm ba loại thuế suất (i) thuế suất MFN áp dụng cho những nước đã ban MFN cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, (ii) thuế suất ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) áp dụng cho hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN và hàng dệt may của EU theo Hiệp định Dệt, May Việt Nam - EU, (iii) thuế suất phổ thông cao hơn 50% so với thuế suất MFN cho tất cả các nước không thuộc nhóm (i) và (ii). Chính sách thuế quan của Việt Nam trong thời gian qua nhìn chung hướng tới: (1) ưu đãi các hàng hóa có xuất xứ từ các nước có quan hệ thương mại ưu đãi với Việt Nam; (2) bảo hộ sản xuất trong nước (xem chi tiết phần sau); (3) hỗ trợ xuất khẩu; cắt bỏ các hạn chế định lượng đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và kinh doanh cho các nhà sản xuất trong nước và nước ngoài; (4) thống nhất chế độ hai giá; (5) thuế quan hóa và cắt bỏ dần các hạn ngạch thuế quan; (6) cắt bỏ dần các hạn chế xuất khẩu; và (7) tương thích hóa với các qui định khác của WTO (xem chi tiết trong Bảng 2.1).
  44. 43 Bảng 2.1: Một số mốc quan trọng trong quá trình cải cách, điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay. Năm Các mốc thực hiện 1995 . Xoá bỏ hạn ngạch xuất khẩu đối với tất cả các mặt hàng trừ gạo. . Thuế xuất khẩu tăng đối với 11 mặt hàng. . Số lượng thuế suất thuế doanh thu giảm từ 18 xuống 11. . Xoá bỏ giấy phép xuất khẩu cho hầu hết các mặt hàng sản xuất và tiêu dùng. . Giảm số mặt thuộc diện quản lý hạn ngạch nhập khẩu xuống 7. 1996 . Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) giảm phạm vi miễn thuế nhập khẩu đối với các dự án đầu tư nước ngoài. . Xoá bỏ thuế đánh vào chuyển ngoại tệ từ nước ngoài về nước . Giảm số lượng mặt hàng chịu hạn ngạch nhập khẩu xuống 6 mặt hàng. 1997 . Tăng số lượng mặt hàng chịu hạn ngạch nhập khẩu nhằm cân đối cán cân thanh toán. . Cấm nhập khẩu đường . Cấm tạm thời đối với nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng sau đó được dỡ bỏ. 1998 . Danh mục thuế quan mới được ban hành vào tháng 5: ba loại thuế suất áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước thực hiện AFTA, thuế suất MFN, và thuế suất thông thường cao hơn 50% đối với các nước khác. . Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghiệp được phép xuất khẩu trực tiếp không cần thông qua các doanh nghiệp thương mại. . Xóa bỏ việc sử dụng danh mục giá tối thiểu nhằm xác định giá hàng nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1999 . Thuế VAT được áp dụng từ tháng 1/1999 (thay thế Thuế doanh thu), cùng với thuế tiêu thụ đặc biệt (áp dụng đối với ô tô, xăng dầu, thuốc lá, bia và đồ uống có cồn và một số mặt hàng khác).
  45. 44 Bảng 2.1 (tiếp theo) 2000 . Sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài nhằm cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài và tạo dựng sân chơi bình đẳng. . Đơn giản hóa thủ tục cấp giấy phép tự động đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia hoạt động xuất khẩu, cho phép các đặc biệt có vốn đầu tư nước ngoài được mua ngoại tệ trong giới hạn nhất định, cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận thế chấp đất đai. . Mức cước viễn thông đã được áp dụng thống nhất (giữa các loại hình doanh nghiệp) kể từ ngày 1/10/2000. . Xóa bỏ hạn chế định lượng đối với 8 trong 19 nhóm mặt hàng, bao gồm phân bón, soda lỏng, sản phẩm sứ, nhựa plastic, chất dẻo, sứ vệ sinh, quạt điện và xe đạp. 2001 . Quy định quản lý hoạt động xuất nhập trong thời hạn 5 năm, dỡ bỏ các hạn chế định lượng đã ban hành (tháng 4) với mục tiêu ổn định hoạt động xuất nhập khẩu và ban hành lộ trình xóa bỏ hạn chế định lượng và các biện pháp thương mại khác. . Thành lập Quỹ Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu (Quyết định 132/2001/QĐ-TTg, ban hành ngày 10/09/2001). . Cho phép công ty và cá nhân được xuất, nhập khẩu hầu hết các mặt hàng, không phụ thuộc vào ngành hàng đã đăng ký, ngoại trừ các mặt hàng cấm xuất, nhập khẩu, xuất nhập khẩu theo giấy phép và hàng hóa thuộc diện quản lý của các bộ chuyên ngành (Quyết định 46/2001/QĐ-TTg của Chính phủ). . Xóa bỏ hạn chế định lượng đối với rượu, xi măng clinke, giấy, gạch ốp lát, kính xây dựng và một số sản phẩm thép, dầu thực vật. . Ban chấp hành Trung ương thông qua Nghị quyết vào tháng 8/2001 kêu gọi thúc đẩy việc xóa bỏ chính sách hai giá (hầu hết được thực hiện từ năm 1999), đơn giản hóa quy trình và thủ tục hành chính cấp giấy phép đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hệ thống chính sách hai giá đối với nhà đầu tư nước ngoài sẽ được xóa bỏ đa số các loại phí và lệ phí vào năm 2003, trừ điện và được xóa bỏ vào năm 2005 . Ban hành Luật Hải quan vào tháng 10 với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động hải quan và thông quan. . Hạn chế định lượng đối với kính xây dựng, các sản phẩm thép, được thay thế bởi thuế nhập khẩu vào tháng 12 (có hiệu lực từ 1/1).
  46. 45 . Tất cả các pháp nhân (cá nhân và Công ty) được phép xuất khẩu hầu hết các sản phẩm không cần giấy phép (theo Nghị định số 44/2001/NĐ-CP, tháng 8 năm 2001). Bảng 2.1 ( tiếp theo ) 2002 . Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép xuất khẩu các sản phẩm không thuộc phạm vi sản xuất (tháng 1). . Hạn ngạch nhập khẩu xe máy và phụ tùng xe máy và ô tô khách dưới 9 chỗ ngồi được dỡ bỏ. 2003 . Thuế suất trong và ngoài hạn ngạch đối với thuốc lá, muối và bông nhập khẩu đã được công bố vào 7/8 (Quyết định số 126/2003/QĐ-TTg). . Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, nhiều chính sách về tài chính, tín dụng, đầu tư, phí và phụ phí đã được sửa đổi và mở rộng, tập trung vào tín dụng dài hạn cho đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất, đặc biệt đối với các ngành sản xuất nguyên liệu cho sản xuất xuất khẩu (Quyết định 266/2003/QĐ-TTg ngày 17/12/2003). 2004 . Nghị định 99/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 về việc ban hành Danh mục hàng hóa và thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam cho các năm 2004-2008 để thực hiện Chương trình thu hoạch sớm của Hiệp định Khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc. . Quyết định 90/2004/QĐ-BT (ban hành ngày 25/11/2004) điều chỉnh thuế nhập khẩu áp dụng cho một số mặt hàng có xuất xứ từ Hoa Kỳ và từ các nước đã được hưởng MFN . Ban hành biểu thuế mới cho xe gắn máy, với thuế suất được áp dụng trên cơ sở các linh kiện, phụ tùng, nhập khẩu riêng thay vì một hệ thống hiện tại dựa trên gói linh kiện CKD và IKD (Quyết định 177/2004/QĐ-TTg) (để phát triển hai ngành công nghiệp là ô tô và linh kiện điện tử). . Thông tư 95/2004/TT-BTC hướng dẫn một số chính sách hỗ trợ tài chính và ưu đãi thuế về thuế phát triển vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến nông, lâm, thủ sản, muối. . Thông tư 87/2004/TT-BTC (ban hành ngày 31/8/2004) hướng dẫn về cách tính giá hải quan (giá tính thuế hàng nhập khẩu được xác định căn cứ theo giá giao dịch thực tế thay vì dựa vào Bảng giá tối thiểu, Bảng giá kiểm tra như trước đây); . Ban hành Chương trình Cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 (theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 201/2004/QĐ-TTg ngày 6/12/2004) 2005 . Nghị định 90/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. . áp dụng mức giá điện thống nhất đối với cả Việt Nam và người nước ngoài kể từ 1/1/2005 (Quyết định 215/2004/QĐ-TTg, ban hành ngày 29/12/2004). . Hợp nhất 2 mức thuế suất VAT là 10% (đối với bông sơ chế nhập khẩu) và 5% (đối với bông sơ chế trong nước) thành một mức thuế suất là 5%.
  47. 46 2006 . Từ 1/2006, nhập khẩu đường chuyển từ hạn chế định lượng (giấy phép nhập khẩu) (trong giai đoạn 2001-2005 theo Quyết định 46/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001) sang hạn ngạch thuế quan (NĐ 12/CP ngày 23/1/2006). Nguồn : Tổng hợp của tác giả Qua Bảng 2.1, Việt nam đã hoàn toàn chủ động trong việc đưa ra các chính sách điều chỉnh, thay đổi, bổ sung vào hệ thống pháp luật, chính sách thương mại để phù hợp với các quy định của WTO trong tiến trình gia nhập vào tổ chức này. Đối với hạn ngạch nhập khẩu, từ năm 1999 số lượng các mặt hàng phải chịu hạn ngạch nhập khẩu ở Việt Nam đã giảm xuống. Đến cuối năm 2005, hạn ngạch chỉ còn áp dụng đối với đường và xăng dầu. Đối với hạn ngạch xuất khẩu, đến nay, Việt Nam đã dỡ bỏ hạn ngạch đối với hầu các mặt hàng xuất khẩu, trừ một số mặt hàng thiết yếu. Đối với thuế xuất khẩu, Việt Nam áp dụng thuế suất xuất khẩu những năm đầu cải cách, song từ năm 1998 đến nay, các loại thuế này đã dỡ bỏ cùng với chiến lược thúc đẩy xuất khẩu, chỉ còn hai mặt hàng chịu thuế xuất khẩu đó là dầu thô và kim loại phế thải. Việt Nam đã từng bước loại bỏ các biện pháp phi thuế quan dưới dạng phụ thu đối với một số hàng công nghiệp nhập khẩu từ năm 2000 theo chương trình điều chỉnh cơ cấu mở rộng. Đối với một số sản phẩm như xi măng, clinke, đồ gốm sứ, giấy và thép, các biện pháp phi thuế tạm thời được thay thế bằng phụ thu nhập khẩu. Tuy nhiên, tất cả phụ thu nhập khẩu đã được xóa bỏ từ tháng 12/2004. Các khoản phụ thu nhập khẩu cuối cùng đối với nhựa PVC và ống thép hàn đã được loại bỏ theo Quyết định số
  48. 47 81/2004/QĐ-BTC ngày 15/10/2004 và Quyết định số 102/204/QĐ-BTC ngày 27/12/2004 [ 6 ] Việt Nam cũng từng bước xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp hàng xuất nhập khẩu trong và ngoài nước và giữa doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, được thể hiện khá rõ nét trong các biện pháp thuế nhất là thuế quan đánh vào hàng ô tô, xe máy và một số mặt hàng như cơ khí, điện và điện tử trong các nỗ lực nội địa hóa các sản phẩm này. Những hạn chế này đã được loại bỏ đáng kể đối với xe máy trong năm 2003. Điều đáng lưu ý trong khi Việt Nam ngày càng tự do hóa thương mại sâu và rộng hơn thì mức thuế quan trung bình (giản đơn) đã tăng dần từ 10,7% năm 1992 lên 16,2% năm 2000 và lên tới 18,5% năm 2003 và đạt mức 17,8% tại thời điểm 20/4/2005 [ 6 ] (cùng thời điểm, mức thuế quan trung bình gia quyền là 11%). Nguyên nhân chủ yếu khiến mức thuế quan trung bình giản đơn tăng dần là do Việt Nam đã thực hiện thuế quan hóa một số mặt hàng nhập khẩu thuộc diện hạn chế định lượng, nhất là theo cam kết CEPT/AFTA, điều chỉnh biểu thuế theo Biểu hài hòa thuế quan ASEAN, chuyển các hàng rào phi thuế quan thành thuế quan và việc đưa các loại thuế và phí khác vào các dòng thuế. Tuy nhiên, riêng đối với các mặt hàng công nghiệp từ các nước/khu vực mà Việt Nam ký kết hiệp định ưu đãi thương mại mức thuế quan nhập khẩu trung bình ngày càng giảm. Qua việc phân tích những thuận lợi và kết quả đạt được của Việt nam trong việc điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp kể từ sau khi Việt nam nộp đơn gia nhập WTO và đến nay đã trở thành thành viên chính
  49. 48 thức thứ 150 của tổ chức này, chúng ta đã thấy được sự nỗ lực hết mình của Việt nam khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường và liên tục thay đổi, điều chỉnh, bổ sung các chính sách thuế quan hàng công nghiệp, mặc dù nền công nghiệp Việt nam còn rất non trẻ, để tạo ra sự phù hợp cần thiết về chính sách thuế qquan trong việc gia nhập WTO. 2.1.1.2. Đã tích cực và chủ động điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp theo các cam kết khu vực và song phương. o Thực thi các cam kết trong ASEAN/AFTA Việc thực hiện AFTA được cụ thể hóa qua CEPT đã được Chính phủ triển khai từ năm 1996, ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào tháng 7/1995. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng Danh mục cắt giảm ngay (IL) với lộ trình thực hiện bắt đầu từ 1/1/1996 để đạt mức thuế suất 0-5% vào 1/1/2006 như đã cam kết. Đồng thời, các sản phẩm thuộc Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) đã được chuyển vào Danh mục cắt giảm ngay và được chia thành 5 đợt, mỗi đợt 20% số lượng mặt hàng mỗi năm, bắt đầu từ tháng 1/1999 và kết thúc vào tháng 1/2003. Kể từ 1/2001, mức thuế suất của mặt hàng trong danh mục cắt giảm không cao hơn 20%. Việc cắt giảm thuế được tiến hành song song với việc loại bỏ các biện pháp hạn chế định lượng. Các thủ tục hải quan đã được đơn giản hóa và rút ngắn. Từ năm 2001, Việt Nam đã chính thức công bố lịch trình cắt giảm thuế quan của hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN vào Việt Nam với mức cắt giảm thuế suất trung bình từ 10,9% (2001) xuống 3% (2006). Năm 2006 là năm có vai trò quan trọng trong thực thi CEPT/AFTA. Ngay từ đầu năm, từ 1/1/2006, Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế quan đối với
  50. 49 một loại mặt hàng theo hướng là dòng thuế 5% được áp dụng với đa số hàng hóa hiện đang chịu thuế suất 10%, đồng thời, đưa thêm một số mặt hàng vào danh sách mục giảm thuế. Những mặt hàng hiện chưa được vào thực hiện CEPT gồm 14 loại linh kiện xe máy và ô tô tải thuộc Danh mục loại trừ tạm thời, Danh mục nhạy cảm và những mặt hàng thuộc Danh mục loại trừ hoàn toàn (Đỗ Hoài Nam, 2006). (Xem bảng 2.2) Bảng 2.2: Một số mốc quan trọng trong thực thi các cam kết CEPT/AFTA giai đoạn 1996-2006 Năm Lộ trình 1996 . Lộ trình thực hiện CEPT/AFTA được ban hành 1998 . Lộ trình không chính thức thực hiện cắt giảm thuế quan theo CEPT cho đến 2006 được xây dựng 2001 . Một số dòng thuế theo AFTA bắt đầu đi vào thực hiện từ tháng 1: 713 dòng được chuyển từ Danh mục TEL sang vào IL, chỉ còn lại 1.200 dòng danh mục TEL (sẽ được chuyển vào IL trước 2003) 2002 . Theo cam kết trong AFTA, 498 dòng thuế đã được chuyển từ TEL sang IL, chỉ còn lại 719 dòng trong danh mục TEL. Trong tổng số 5566 dòng thuế trong IL, 65% có thuế suất từ 0-5% và số còn lại có thuế suất bình quân 16,4% (tháng 11). 2003 . Các dòng thuế còn lại trong TEL đã được chuyển sang danh mục IL . Ban hành Danh mục thực hiện CEPT cho giai đoạn 2003-2006 (Quyết định số 78/2003/NĐ-CP). . Danh mục hàng hóa xuất, nhập khẩu Việt Nam trên cơ sở Danh mục Hải hòa hóa thuế quan trong các nước ASEAN (ASEAN Harmonized Tariff Nomenclature) đã được ban hành (Quyết định 82/2003/QĐ-BTC) để thống nhất việc áp dụng thuế quan cho hàng hóa nhập khẩu từ trong và ngoài ASEAN) . Ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi mới thay thế biểu thuế ưu đãi nhập khẩu cũ (có hiệu lực từ ngày 1/9/2003) (Quyết định số 110/2003/QĐ/BTC).
  51. 50 2004 . Nghị định 213/2004/NĐ-CP (ban hành ngày 24/12/2004) Về việc bổ sung 19 mặt hàng vào danh mục hàng hóa và thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện CEPT cho các năm 2004-2006. 2005 . Quyết định 59/2005/QĐ-BTC về việc không áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu đủ điều kiện áp dụng thuế suất CEPT. 2006 . Quyết định 09/2006/QĐ-BTC Về việc ban hành Danh mục hàng hóa và mức thuế suất nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện CEPT giai đoạn 2006- 2013 . Thông tư 14/2006/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện thuế suất nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện CEPT. Nguồn : Tổng hợp của tác giả Với những nỗ lực thực thi AFTA, Việt Nam đã thực thi khá nghiêm túc theo Lộ trình Cắt giảm thuế quan theo CEPT cho giai đoạn 1996-2006 (xem Bảng 2.3) cũng như trong việc thực hiện thuế quan hóa. Bảng 2.3: Lộ trình cắt giảm thuế quan theo CEPT của Việt Nam giai đoạn 1996-2006 (%) Danh 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 mục IL 7,0 6,8 5,8 5,6 4,7 3,9 3,8 2,8 2,6 2,5 2,3 TEL 19,9 19,9 19,9 19,9 19,8 19,6 19,4 17,5 13,4 8,9 3,9 Tổng 12,7 12,6 11,9 11,9 11,4 10,9 10,7 9,3 7,4 5,3 3,0 Nguồn: Bộ Tài chính, 2006 Đối với các hàng rào phi thuế quan, Việt Nam đã và đang thực hiện loại bỏ tất cả biện pháp định lượng cũng như thuế hóa các hàng rào phi thuế
  52. 51 quan đối với các sản phẩm cam kết theo CEPT/AFTA (xem Bảng 2.4). Việt Nam cũng đã hài hòa tiêu chuẩn đối với nhóm 20 mặt hàng ưu tiên, ký kết các Hiệp định khung Công nhận lẫn nhau (MRA) như tiêu chuẩn và đánh giá hợp chuẩn và đang triển khai MRA chuyên ngành. Từ năm 2002, Việt Nam cũng đã đưa vào thực thi Hiệp định GATT về giá trị tính thuế hải quan đối với các thành viên ASEAN. Bảng 2.4: Lịch trình Việt Nam cam kết thuế quan hóa CEPT/CFTA. Thời điểm tiến hành Sản phẩm thuế quan hóa Ngày 1/1/2001 . Hydrôxit natri lỏng . Hàng tiêu dùng sứ và thủy tinh . Bao bì nhựa Ngày 1/1/2003 . Chất làm dẻo DOP . Đồ sứ và granít . Thiết bị sứ vệ sinh . Quạt điện . Xe đạp Ngày 1/1/2004 . Dầu thực vật . Kính cửa Ngày 1/1/2005 . Đồ uống có cồn . Giấy in báo, viết, gói . Ô tô . Xe máy và linh kiện
  53. 52 Ngày 1/1/2006 . Xi măng . Clanhke . Phân bón Ngày 1/1/2007 . Sản phẩm xăng dầu . Sản phẩm thép Ngày 1/1/2010 . Đường thô và đường tinh chế Nguồn : Bộ Thương mại o Thực thi các cam kết Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ Các cam kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (VN-US BTA) là hiệp định mang tính chất toàn diện và bao quát nhất kể từ trước đó. Theo VN-US BTA, mức thuế suất trung bình đánh vào hàng hóa công nghiệp đến từ Việt Nam được cắt giảm từ 35%-40% xuống còn 5%-10% sau khi Hiệp định có hiệu lực (trung bình là 4 năm). Tuy nhiên, quy chế tối huệ quốc mà Hoa Kỳ dành cho Việt Nam hàng năm vẫn phải được gia hạn. Mức thuế suất thuế quan đánh vào hàng hóa Mỹ sẽ giảm xuống từ 35% xuống còn 26% cho khoảng 244 danh mục có ràng buộc, được thực hiện trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực (20% danh mục là hàng công nghiệp). Hai bên đồng ý cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa. Các hạn ngạch, giấy phép và kiểm soát xuất khẩu và nhập khẩu sẽ được loại bỏ. Hai năm sau Hiệp định có hiệu lực, các bên hạn chế tất cả các loại phí và phụ phí dưới bất kỳ hình thức nào áp dụng đối với xuất nhập khẩu, và đảm bảo rằng những loại phí và phụ phí đó không phải là một sự bảo hộ gián tiếp đối với sản xuất trong nước hoặc vì mục đích
  54. 53 thu ngân sách. Việt Nam cũng đã có những cam kết trong hiệp định đầu tư về mở cửa đầu tư, thực hiện quy chế NT. Thực hiện cam kết Nhìn chung, Việt Nam đã thực hiện khá nghiêm túc những cam kết trong VN-US BTA trong hầu hết mọi lĩnh vực thông qua việc thực hiện cam kết các cam kết cắt giảm, ưu đãi thuế quan đối với các dịch vụ và hàng hóa đến từ Hoa Kỳ (xem Bảng 2.5). Bảng 2.5. Một số mốc quan trọng trong thực thi VN-US BTA, 2001-2005 Năm Các mốc thực hiện 2001 . Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ cho phép hàng hóa nhập khẩu Việt Nam được hưởng mức giảm thuế suất thuế nhập khẩu trung bình từ 40% xuống còn 4%. 2004 . Quyết định 19/2004/QĐ/BTC về việc ban hành Danh mục hàng hóa và thuế suất thuế nhập khẩu để thực hiện lộ trình giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định về thương mại Hàng dệt, may ký giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cho giai đoạn 2003-2005; . Quyết định 90/2004/QĐ-BT ngày 25 tháng 11 năm 2004 điều chỉnh thuế nhập khẩu áp dụng cho một số mặt hàng có xuất xứ từ Mỹ và từ các nước khác mà đã được ban MFN (ví dụ, nước hoa sẽ giảm xuống còn 30%, mỹ phẩm 20-30%, máy quay 20% và tủ lạnh 900 lít là 20-40%); 2005 . Quyết định 81/2005/QĐ-BTC về việc thực hiện cam kết Hiệp định về thương mại Hàng dệt, may ký giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Nguồn : Tổng hợp của tác giả Việt Nam cũng đã và đang tiến hành bãi bỏ ưu đãi về thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa và dần dần dỡ bỏ việc áp dụng chế độ thu phí và lệ phí liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu. 2.1.1.3. Quá trình điều chỉnh chính sách thuế quan để bảo hộ và nâng cao năng lực của các ngành hàng công nghiệp trong nước.
  55. 54 Để bảo hộ và nâng cao năng lực các ngành hàng công nghiệp trong nước, Việt Nam đã điều chỉnh các công cụ thuế, thuế quan theo các mức cụ thể sau đây : o Mức thuế đối với hàng công nghiệp nhập khẩu vào Việt Nam . Mức thuế suất 0% đánh vào các mặt hàng như các loại lông thú, da thú và bông sử dụng cho các ngành công nghiệp thuộc da, công nghiệp dệt và may mặc. Đây là những nguyên liệu đầu vào cho sản xuất công nghiệp mà Việt Nam không có hoặc không sản xuất được. . Mức thuế suất từ 1-10% đánh vào những loại nhóm mặt hàng hoặc là trong nước không sử dụng được hoặc nhu cầu thấp, và được sử dụng như là nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến. . Mức thuế suất từ 15-30% áp dụng cho các loại lá thuốc lá, chè, cà phê bán thành phẩm Nhóm hàng này bao gồm những mặt hàng trong nước sản xuất được và có lợi thế so sánh khi xuất khẩu và không cần nhập khẩu. . Mức thuế suất từ 40-50% áp dụng đối với những sản phẩm này có hàm lượng giá trị gia tăng cao nhưng công nghiệp chế biến của Việt Nam chưa theo kịp, thường không có tính cạnh tranh cao nên Việt Nam cần phải bảo hộ bằng thuế suất cao. . Mức thuế từ 80-100% đánh vào hàng rượu, bia, các loại uống nước uống giải khát và các sản phẩm thuốc lá nhập khẩu. Đây là những sản phẩm được sản xuất trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu nội địa, được coi là những mặt hàng mang lại lợi nhuận cao và được xếp vào nhóm hàng xa xỉ và không được khuyến khích nhập khẩu. Các mức thuế nhập khẩu vào Việt Nam được xây dựng nhằm đạt các mục đích chủ yếu sau: (i) tạo nguồn thu cho NSNN; định hướng cho tiêu dùng trong nước; (ii) bảo hộ sản xuất cho những ngành non trẻ và có tiềm năng phát triển; và (iii) định hướng nền kinh tế quốc dân.
  56. 55 Các mặt hàng công nghiệp chế biến, nhất là hàng tiêu dùng được bảo hộ với mức thuế suất nhập khẩu trung bình cao nhất, từ 20-60% (chẳng hạn, thuế suất nhập khẩu giản đơn của giày dép là gần 44%, nước giải khát khoảng là 47%); nhóm ngành được bảo hộ với mức độ thấp hơn là nguyên vật liệu trung gian đầu vào (chẳng hạn, thuế suất nhập khẩu giản đơn của hàng dệt kim là 25%, sản phẩm từ da là gần 10%, sản phẩm cao su là 19,45%). Một số mặt hàng xa xỉ được bảo hộ với mức đánh thuế nhập khẩu lên tới 80-100% (như rượu, bia, các loại nước uống giải khát và các sản phẩm thuốc lá nhập khẩu). Mức EPR trung bình của các mặt hàng công nghiệp chế biến đã giảm rất đáng kể, từ mức hơn 121% năm 1997 đã giảm xuống chỉ còn hơn 46% năm 2003. Cơ cấu thuế quan theo công đoạn chế biến của Việt Nam có điểm chung với cơ cấu thuế quan của nhiều nước trên thế giới, nghĩa là có sự leo thang về thuế quan từ hàng thô sơ chế qua mức hàng trung gian và đạt mức cao nhất đối với hàng thành phẩm. Chẳng hạn, mức bình quân gia truyền của hàng hóa có mã số HS 2 số (kể cả hàng nông sản) năm 2003 đối với hàng trung gian và thành phẩm tương ứng là 11,6% và 23%. Tuy nhiên, có một vài mặt hàng trung gian nhập khẩu được dùng làm đầu vào sản xuất mà Việt Nam có lợi thế so sánh trong xuất khẩu có thuế quan cao hơn đầu vào cho những ngành cạnh tranh nhập khẩu (chẳng hạn, thuế quan nhập khẩu hàng sợi dệt và len đan (HS 58 và 60). Mức thuế quan trung bình giản đơn của Việt Nam đến cuối tháng 9/2003 cao hơn một ít so với Trung Quốc, Thái Lan năm 2001 và cao hơn rất nhiều so với của Inđônêxia, Philippin và Malaixia song độ phân tán cao hơn rất nhiều so với của các nước Trung Quốc, Thái Lan và Philippin . Các hàng rào phi thuế quan cũng dần được dỡ bỏ hay thuế quan hóa. Từ 15 mặt hàng công nghiệp chịu hạn chế định lượng năm 1999 đã giảm
  57. 56 xuống còn một mặt hàng là xăng dầu năm 2003. 72 mặt hàng chịu thu phụ thu hoặc thu chênh lệch giá, đã được chuyển sang thu bằng thuế nhập khẩu (hoặc xóa bỏ hẳn các khoản thu này), tiến tới thực hiện bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu. 2.1.2 Những khó khăn, tồn tại và nguyên nhân Nhìn chung, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong quá trình cải cách, điều chỉnh chính sách thuế để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và gia nhập WTO. Những nỗ lực này có thể thấy trên phương diện điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp; xóa bỏ sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, DNNN và ngoài quốc doanh; thực hiện tự do hóa thương mại, cắt giảm thuế quan, các hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là thực hiện khá nghiêm túc các cam kết ASEAN/AFTA cũng như US-VN BTA. Những nỗ lực này đã góp phần thúc đẩy Việt Nam trở nên một trong những nền kinh tế có độ thương mại tạo lớn nhất trong các nước đang phát triển (xem Hình 2.1) với mức tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và tăng trưởng kinh tế khá ngoạn mục trong 20 năm Đổi mới kinh tế. Những cải cách trong lĩnh vực thuế cũng góp phần tăng thu nội địa, kiềm chế mức thâm hụt ngân sách ở mức an toàn trong thời gian qua . Ghi chú: Nhập khẩu tính theo giá CIF. Nguồn : Tổng cục Thống kê 2005
  58. 57 Hình 2.1. Chỉ tiêu về thương mại quốc tế của Việt Nam, 1991-2005 Tuy nhiên, quá trình điều chỉnh, cải cách thuế trong thời gian qua cũng bộc lộ một số yếu kém xét trên phương diện hiệu quả phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế và nâng cao năng lực (kể cả năng lực cạnh tranh) ngành hàng trong nước. Cụ thể : 2.1.2.1. Chính sách thuế quan được phân bổ chưa hiệu quả giữa các ngành hàng công nghiệp. Mức bảo hộ thực tế nói chung và thuế quan (danh nghĩa) nói riêng cho đến nay vẫn còn quá chênh lệch (với nhiều dòng thuế đỉnh) giữa các ngành hàng là một trong nhiều nguyên nhân khiến một lượng vốn tương đối lớn được đầu tư vào các ngành hàng mà Việt Nam không có lợi thế so sánh và, do đó, dẫn đến nguồn vốn được phân bổ kém hiệu quả. Chẳng hạn, trong giai đoạn 1988-2003, trong tổng nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã thực hiện ở Việt Nam (khoảng hơn 25 tỷ USD), đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng và khai khoáng chiếm tỷ trọng lớn nhất, tương ứng 24,3% và 17,7%; trong khi đó, các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, nơi sử dụng nhiều lao động và ít thâm dụng vốn, chỉ thu hút tương ứng 11,2, 7,3% và 6,4% tổng lượng vốn thực hiện. Như vậy, chính sách bảo hộ ngành, nhất là thuế quan chưa hiệu quả xét trên mục tiêu tạo ra nhiều việc làm và thâm dụng nhiều vốn trong bối cảnh Việt Nam còn thiếu vốn đầu tư. Hơn nữa, việc hệ thống thuế quan còn khá phức tạp, số lượng thuế quan còn nhiều và độ phân tán giữa các mức thuế quan còn khá cao là mảnh đất màu mỡ “dinh dưỡng” cho các hoạt động tìm kiếm đặc lợi và tham nhũng. Không những không tạo ra nhiều công ăn việc làm, chính sách thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu cũng chưa thể hiện vai trò nổi bật trong nâng cao năng lực cạnh tranh của một số ngành hàng. Việc một
  59. 58 số mặt hàng được bảo hộ cao như đường ăn, xi măng sản xuất tại Việt Nam có giá thành tương đối cao là những minh chứng cho nhận định này. 2.1.2.2. Chính sách thuế quan chưa thực sự là động lực nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành hàng công nghiệp Thực tiễn bảo hộ ngành theo kiểu chọn ngành chiến lược như ô tô, xi măng, giấy, đường ăn trong những năm qua cho thấy thành công của chiến lược này vẫn chưa rõ ràng. Ngoại trừ trường hợp xe máy, những mặt hàng chiến lược được lựa chọn bảo hộ cao nói trên có chất lượng vẫn còn thấp, giá thành cao, kém khả năng cạnh tranh và có tỷ lệ nội địa hóa quá thấp (đối với ô tô khoảng 5%). Trong thời gian qua, để bảo hộ và “nuôi dưỡng” các ngành được coi là chiến lược kể trên, các chính sách thuế và trợ cấp của Việt Nam đã quá chú trọng tới bảo hộ đầu vào và đầu ra của sản phẩm mà chưa quan tâm đúng mức tới xây dựng/ cải thiện các cơ chế khuyến khích đối với các nhân tố được coi là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự “thui chột” một số ngành như thiếu cơ chế khuyến khích hữu hiệu việc sử dụng công nghệ cao (trường hợp một số nhà máy sản xuất mía đường, xi măng), nâng cao chất lượng quy hoạch, năng suất cây trồng (trường hợp mía đường, giấy, bông ), phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ hợp lý và thúc đẩy liên kết (nhất là chuyển giao và hấp thụ công nghệ) giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong nước, giữa các ngành hạ nguồn và thượng nguồn (trường hợp công nghiệp ô tô). Tuy nhiên, công bằng mà nói, sự chưa thành công trong phát triển một số ngành hàng kể trên còn có sự “góp sức” của các nhân tố như cơ chế giám sát, gia quyết định đầu tư và năng lực quy hoạch đầu tư còn hạn chế (chọn vùng nguyên liệu không thích hợp, đầu tư theo phong trào (đối với mía đường, giấy, xi măng), nâng cao chất lượng quy hoạch, năng suất cây trồng
  60. 59 (trường hợp mía đường, giấy, bông ), phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ hợp lý và thúc đẩy liên kết (nhất là chuyển giao và hấp thụ công nghệ) giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong nước, giữa các ngành hạ nguồn và thượng nguồn (trường hợp công nghiệp ô tô). Không tính đến các yếu tố quan trọng của bảo hộ ngành hoặc bị cản trở bởi các công cụ chính sách thuế trong nước chưa thích hợp đã làm giảm tính hiệu quả kinh tế nhờ quy mô sản xuất (trường hợp ngành công nghiệp ô tô) - điều cốt yếu đảm bảo thành công của chiến lược thay thế nhập khẩu. Ngoài ra, việc sử dụng các chính sách bảo hộ để tăng cao tỷ lệ nội địa hóa mà không tính tới đầy đủ các đặc thù ngành, bối cảnh thị trường thế giới, chiến lược của các Công ty xuyên, đa quốc gia và khả năng phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước có thể dẫn tới thất bại trong phát triển ngành chiến lược (trường hợp ngành công nghiệp ô tô). Cuối cùng, với chính sách bảo hộ ngành chiến lược cùng với chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách thuế quan trong thời gian qua đã tạo ra một khu vực công nghiệp chế biến có tính “lưỡng thể”, bao gồm một khu vực sản xuất hàng xuất khẩu có năng lực cạnh tranh toàn cầu (chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) và khu vực thay thế nhập khẩu yếu kém, ít gắn kết với khu vực sản xuất hướng tới xuất khẩu (các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam). 2.1.2.3. Chính sách thuế quan vẫn còn chưa công khai, minh bạch và thiếu chiến lược và tính tiên liệu trong dài hạn. Chính sách thuế quan của Việt Nam vẫn còn thiếu minh bạch, công khai và còn mang tính tuỳ tiện, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp. Việc thiếu vắng một hệ thống thông tin đầy đủ và nhất quán , kể cả thông tin chính thức, nội bộ các cơ quan quản lý Nhà nước và nội bộ đoàn đàm phán gia nhập WTO và đối phó với các thách thức sau khi gia nhập tổ chức này
  61. 60 của Việt Nam. Sự thiếu vắng hệ thống thông tin có ảnh hưởng bất lợi tới công tác hoạch định chính sách của Việt Nam, nhất là tạo sự bị động cho Việt Nam trong đề xuất điều chỉnh chính sách kinh tế nói chung và chính sách trợ cấp nói riêng nhằm nâng cao năng lực ngành, thúc đẩy tăng trưởng bền vững sau khi gia nhập WTO. Tuy có nhiều điều chỉnh, cải cách, đến nay Việt Nam vẫn còn sử dụng một số biện pháp trợ cấp bị cấm như trợ cấp xuất khẩu và nội địa hoá dành cho một số ngành hàng (ví dụ, hàng dệt may). Các trợ cấp này đã được cam kết cắt bỏ sau khi gia nhập WTO. Trợ cấp xuất khẩu vẫn chủ yếu dựa trên cơ sở ngắn hạn. Đặc biệt, trong trợ cấp nông nghiệp, các biện pháp hỗ trợ bị cấm dường như vẫn còn dựa vào các giải pháp thay thế, không thực sự theo một kế hoạch/ chương trình đã được Chính phủ phê chuẩn và hầu như không thể dự đoán; chủng loại cũng như khối lượng hàng hóa được nhận trợ cấp vẫn còn được xác định một cách tương đối tuỳ tiện. 2.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIỆC ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI MỘT SỐ HÀNG CÔNG NGHIỆP 2.2.1. Hàng dệt may Bảng 2.6 : Các mốc thời gian điều chỉnh chính sách thuế quan hàng dệt may trong giai đoạn từ năm 1995 đến nay Năm Các mốc thực hiện 1992 . Ký kết Hiệp định Thương mại với EU. Việt Nam được EU dành quy chế MFN, thiết lập hệ thống hạn ngạch đối với việc xuất khẩu hàng dệt, may tới thị trường EU và dành thuế suất ưu đãi đối với một số mặt hàng nhập khẩu có nguồn gốc từ EU. . Hệ thống HS được áp dụng. 1998 . Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghiệp được phép xuất khẩu trực tiếp không cần thông qua các doanh nghiệp thương mại. 2003 . Thuế suất trong và ngoài hạn ngạch đối với thuốc lá, muối và bông nhập khẩu đã được công bố vào 7/8 (Quyết định số 126/2003/QĐ-TTg). . Quyết định số 192/2003/QĐ-BTC về việc ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất thuế