Lâm sinh - Công tác điều tra rừng ở Việt Nam

pdf 36 trang vanle 2030
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lâm sinh - Công tác điều tra rừng ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdflam_sinh_cong_tac_dieu_tra_rung_o_viet_nam.pdf

Nội dung text: Lâm sinh - Công tác điều tra rừng ở Việt Nam

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGÀNH LÂM NGHIỆP & ĐỐI TÁC CẨM NANG NGÀNH LÂM NGHIỆP Chương CÔNG TÁC ĐIỀU TRA RỪNG Ở VIỆT NAM KS. Võ Văn Hồng ThS. Trần Văn Hùng KS. Phạm Ngọc Bảy NĂM 2006 1
  2. Mục lục Đặt vấn đề 3 Phần 1: Lịch Sử Điều Tra Rừng Việt Nam 4 1. Điều tra rừng trong giai đoạn trước1945 4 2. Điều tra rừng trong giai đoạn 1945-1954 5 3. Điều tra rừng giai đoạn 1955-1975 5 3.1. Điều tra rừng ở miền Bắc giai đoạn 1955-1975 5 3.2. Điều tra rừng ở miền Nam giai đoạn 1955-1975 8 4. Điều tra rừng từ năm 1975 trở lại đây 8 4.1. Chương trình điều tra, đánh giá rừng toàn quốc lần thứ nhất năm 1981-1983 8 4.2. Chương trình điều tra, đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc 5 năm 1991-1995 9 4.3. Chương trình ĐT, ĐGvà TD diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc 5 năm 1996-2000 .10 4.4. Chương trình tổng kiểm kê rừng toàn quốc năm 1997-1999 11 4.5. Chương trình ĐT, ĐGvà TD diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc 5 năm 2000-2005 .11 Phần 2: Khuôn Khổ Pháp Lý Điều Tra Rừng 13 Phần 3: Nguồn Gốc, Sự Phong Phú và Không Đồng Bộ Của Số Liệu Điều Tra Rừng 15 1. Nguồn gốc số liệu 15 1.1. Số liệu điều tra rừng do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng thu thập và xử lý 15 1.2. Số liệu điều tra rừng do các Đoàn điều tra rừng các tỉnh thu thập 16 1.3. Số liệu điều tra rừng do lực lượng Kiểm Lâm thu thập 16 2. Sự phong phú của tài liệu điều tra rừng 17 3. Sự không đồng bộ của thông tin điều tra rừng 17 Phần 4: Dụng Cụ, Thiết Bị Dùng Trong Điều Tra Rừng 18 1. Hiện trạng thiết bị, dụng cụ điều tra rừng 18 2. Nhu cầu thiết bị dụng cụ tiên tiến 22 Phần 5. Đo Đếm Cây Riêng Lẻ 23 1. Đo cây ngả hoặc bộ phận cây ngả 23 1.1. Mục đích 23 1.2. Nội dung và phương pháp 23 2. Đo đếm cây đứng 24 3. Điều tra tính toán kích thước cây bị mất 35 Phần 6. Các Hệ Thống Điều Tra Rừng Áp Dụng Ở Việt Nam 36 1. Điều tra rừng cục bộ 36 1.1. Mục đích chung của công tác điều tra rừng cục bộ 36 2
  3. 1.2. Mức độ điều tra thiết kế 36 1.3. Bản đồ 36 1.4. Phân chia ranh giới đối tượng điều tra 36 1.5. Phân loại đất đai 37 1.6. Phân loại rừng theo chức năng 38 1.7. Phân chia kiểu trạng thái rừng 39 1.8. Phương pháp khoanh vẽ ranh giới các loại đất đai 48 1.9. Phương pháp kiểm kê trữ lượng 48 2. Điều tra rừng hệ thống 49 2.1. Thiết kế ô mẫu điều tra 50 2.2. Các phương pháp lấy mẫu trong điều tra rừng 53 2.3. Nội dung và phương pháp điều tra đo đếm 56 2.4. Xây dựng bản đồ và xác định diện tích rừng các cấp hành chính theo định kỳ 69 2.5. Điều tra thu thập các nhân tố điều tra rừng theo hệ thống 69 3. Quản lý hệ thống thông tin điều tra rừng 70 3.1. Các bộ phận của hệ thống thông tin điều tra rừng 70 3.2. Các thông tin đầu vào 70 3.3. Lưu trữ, cập nhật, xử lý thông tin 70 3.4. Thông tin đầu ra 70 Phần 7: Tổ Chức Thực Hiện Điều Tra Rừng 73 1. Tổ chức thực hiện điều tra rừng của Viện ĐTQH rừng 73 2. Tổ chức thực hiện điều tra rừng của Cục Kiểm Lâm 74 3. Tổ chức điều tra rừng của các đoàn ĐTQH rừng các tỉnh 75 4. Tổ chức thực hiện điều tra rừng của các lâm trường 75 5. Sự phối hợp giữa các cơ quan trong điều tra rừng 76 6. Những khó khăn trong công tác tổ chức điều tra rừng 76 7. Đề xuất 76 Phụ lục 1: Mẫu biểu điều tra rừng 76 Phụ lục 2: Bản đồ ô sơcấp 87 Phụ lục 3: Cấu trúc báo cáo điều tra rừng 89 Định mức bản đồ 91 Định mức lao động Điều tra ô mẫu 92 Phụ lục 4: Giới thiệu phần mềm VIDAP 95 Tài liệu tham khảo 96 Đặt vấn đề Cẩm nang ngành Lâm nghiệp là một trong bốn công cụ quan trọng hỗ trợ việc thực hiện hiệu quả chương trình Hỗ Trợ Ngành Lâm Nghiệp Việt Nam. Cụ thể, cẩm nang sẽ giúp 3
  4. các đối tác hoạt động trong ngành Lâm nghiệp tìm kiếm thông tin sử dụng trong việc lập kế hoạch, thực hiện và giám sát các hoạt động của dự án riêng lẻ cũng như của toàn bộ Chương trình Hỗ Trợ Ngành. Điều tra rừng là công tác mở đường trong việc xây dựng và phát triển ngành Lâm nghiệp. Đó là cơ sở để triển khai mọi hoạt động kinh doanh sử dụng rừng. Mục tiêu chủ yếu của điều tra rừng là điều tra để đánh giá tài nguyên rừng, điều tra nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, biến động của diện tích và trữ lượng rừng Ngoài ra điều tra rừng giúp đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh sử dụng rừng qua các giai đoạn, cung cấp cơ sở dữ liệu để xây dựng phương án quy hoạch phát triển lâm nghiệp, xắp xếp và quy hoạch một cách hợp lý các mặt xây dựng sản xuất lâm nghiệp, và quan trọng hơn, ngành điều tra rừng còn cung cấp thông tin phục vụ việc xây dựng chính sách và chiến lược phát triển lâm nghiệp quốc gia dài hạn. Do vậy nội dung chương 10 “Điều tra rừng” là một phần không thể thiếu của bộ cẩm nang ngành lâm nghiệp. Để thực hiện bất kỳ một dự án hoặc một chương trình nào của ngành Lâm nghiệp, ngoài việc tham khảo các văn bản luật, chính sách, khuôn khổ pháp lý do Nhà nước Việt Nam ban hành, các chủ dự án, chương trình cần phải hiểu về nguồn, chất lượng và phương pháp thu thập dữ liệu, thông tin sẽ được dùng trong quá trình thực hiện dự án. Trong khuôn khổ cuốn cẩm nang, Chương 10 có nội dung về các hoạt động điều tra rừng, bao gồm có 8 phần, nhằm miêu tả và phân tích đối tượng, phương pháp, thành quả và độ tin cậy của số liệu điều tra rừng. Tuy nhiên, chương này chỉ cố gắng tổng kết các hoạt động điều tra rừng tiêu biểu của Việt Nam từ trước đến nay, mà không phải là tổng kết về khoa học điều tra rừng nói chung. Vì vậy, khuôn khổ Chương 10 không cho phép ban biên tập đi sâu phân tích tất cả các cuộc điều tra rừng đã được thực hiện ở Việt Nam, mà chỉ sàng lọc những công trình điều tra rừng có ý nghĩa lớn trong công tác điều tra rừng nói chung ở Việt Nam Riêng nội dung ứng dụng công nghệ viễn thám và hệ thống thông tin địa lý (GIS) đóng vai trò rất quan trong trong công tác điều tra rừng nhưng trong nội dung chương 10 chưa có điều kiện đề cập. Nội dung điều tra nghiên cứu tăng trưởng rừng sẽ được tách thành chương riêng của bộ cẩm nang này Dựa trên những tài liệu và thông tin hiện có, nhóm biên tập Chương 10 chỉ làm nhiệm vụ chọn lọc, phân tích và sắp xếp các nội dung theo một trình tự lô gích giúp người đọc tiện theo dõi và tham khảo. Trong quá trình chọn lọc tài liệu và biên tập sẽ không tránh khỏi thiếu sót, nhóm biên tập rất mong nhận được các ý kiến góp ý của độc giả để lần tái bản sau, chương 10 sẽ có nội dung đầy đủ hơn. Phần 1: Lịch Sử Điều Tra Rừng Việt Nam 1. Điều tra rừng trong giai đoạn trước1945 Thời xa xưa, chưa có bút tích ghi chép về tài nguyên rừng mà chỉ có truyền thuyết, truyện dân gian hoặc ca dao, tục ngữ truyền miệng để ca ngợi sự giàu có chúng. Vào thế kỷ thứ 18, trong "Vân đài loại ngữ", Lê Quý Đôn đã nói tỷ mỷ đến nhiều loài cây rừng như các cây có hột, các cây có chất thơm, cây có dầu, cây có sợi, cây để làm thuốc, cây có chất nhuộm, cây dùng để thắp sáng, các loài gỗ quý, các loài tre, vầu, các loài chim thú có giá trị. 4
  5. Trong "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn, đã có những đoạn mô tả chi tiết về sự giàu có của rừng núi ở phía Nam Việt nam, nhất là ở vùng Thuận Hoá (nay là tỉnh Thừa Thiên Huế). Một số tài liệu, bút ký vào cuối thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19 của các tác giả trong nước, các nhà hàng hải, các thương nhân, các nhà truyền giáo người nước ngoài đã mô tả đất nước Viêt nam như là một vùng đất giàu có về tài nguyên rừng, là nơi có thể sưu tìm các loại hương liệu, ngà voi, gỗ quý ở rừng. Trong suốt thời gian dài trước năm 1945, chúng ta không có khả năng thực hiện việc điều tra rừng. Thời kỳ này chỉ có số liệu về tài nguyên rừng được công bố trong công trình "Lâm nghiệp Đông Dương" của P. Maurand và số liệu đó thường được xem là tài liệu gốc để so sánh diễn biến rừng ở Việt Nam từ năm 1945 trở về sau. Theo tài liệu và bản đồ của Maurand thì đến năm 1943, rừng Việt nam vẫn còn khoảng 14.352.000 ha, che phủ 43,7% diện tích lãnh thổ. Thời kỳ đó, độ che phủ rừng ở Bắc Bộ vào khoảng 68%, ở Nam Trung Bộ vào khoảng 44%, ở Nam Bộ khoảng 13%. 2. Điều tra rừng trong giai đoạn 1945-1954 Các tài liệu về lịch sử ngành Lâm nghiệp trong giai đoạn 1945-1954 không thấy đề cập đến việc điều tra rừng mà chỉ đi sâu phân tích các hoạt động bảo vệ rừng, khai thác tài nguyên rừng, trồng cây gây rừng và đào tạo cán bộ lâm nghiệp. Trong giai đoạn này, không có bất cứ bộ số liệu tài nguyên rừng nào được công bố. 3. Điều tra rừng giai đoạn 1955-1975 3.1. Điều tra rừng ở miền Bắc giai đoạn 1955-1975 Ngày 1/5/1955 Bộ Nông Lâm đã ra Nghị định số 12 NL-QT/NĐ về cơ cấu của Vụ Lâm nghiệp. Lúc mới thành lập, Vụ Lâm nghiệp chỉ có ba phòng (1) Phòng Khai thác; (2) Phòng Điều tra thiết kế; (3) Phòng Điều tra rừng và bộ phận Văn thư- Tổ chức. Phòng Điều tra thiết kế sau đó được đổi tên thành Phòng Điều tra và kế hoạch, được giao thực hiện các nhiệm vụ hướng dẫn, theo dõi, tổng kết công tác điều tra rừng ở các đội và các tỉnh; nghiên cứu việc điều chế, phân loại rừng và xây dựng kế hoạch cho toàn Vụ. Ngày 20/11/1958 Bộ Nông Lâm đã ban hành Nghị định số 535/ND về việc thành lập Cục Lâm nghiệp trực thuộc Bộ Nông lâm. Theo Nghị định này, một trong những nhiệm vụ Cục lâm nghiệp phải thực hiện là điều tra nắm tình hình rừng để làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách, kế hoạch phát triển lâm nghiệp. Từ năm 1955-1958, tổ chức thực hiện công tác điều tra rừng còn rất sơ khai. Ở Trung ương, Vụ Lâm nghiệp đã thành lập phòng điều tra, điều chế rừng, nhưng mới chỉ có vài cán bộ kỹ thuật chuyên trách để chỉ đạo, hướng dẫn kỹ thuật cho các đội điều tra rừng của Trung ương và các địa phương. Thời kỳ khôi phục rừng kinh tế, ở Trung ương đã thành lập được một số đội điều tra rừng có quy mô nhỏ, trực thuộc Vụ Lâm nghiệp, để sơ thám các khu rừng còn nhiều gỗ và một số vùng đất cát, đồi trọc trọng điểm nhằm xác định địa điểm để thành lập các công trường khai thác gỗ, các Trạm trồng rừng quốc doanh và tổ chức các Hạt Lâm nghiệp. Thời kỳ đó, các đội điều tra rừng của Trung ương bình quân hàng năm đã điều tra được 170.000 ha rừng, tập trung vào các khu rừng có nhiều tài nguyên để tổ chức các chi nhánh quốc doanh lâm khẩn và xác định diện tích rừng và sản lượng gỗ khai thác hàng năm. Vào năm 1957, ở các Ty Lâm nghiệp đều tổ chức các đội điều tra rừng trực thuộc Ty để làm nhiệm vụ phát hiện và sơ 5
  6. thám các khu rừng còn nhiều gỗ để tổ chức các công trường khai thác trực thuộc Ty. Ở các chi nhánh quốc doanh lâm khẩn đều tổ chức đội điều tra rừng kiêm thiết kế đường lâm nghiệp để thực hiện nhiệm vụ mở các khu khai thác và thiết kế đường vận xuất gỗ. Trong thời kỳ khôi phục kinh tế ở miền Bắc, công tác điều tra rừng đã tập trung ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hà Giang, Tuyên Quang. Đến năm 1956, đã thám sát sơ bộ hơn 650.000 ha rừng ở 20 tỉnh để xác định địa điểm tổ chức các công trường khai thác gỗ, đặt các Trạm quản lý rừng ở các tỉnh này. Năm 1958, đã tăng cường cho phòng điều tra điều chế rừng thuộc Cục Lâm nghiệp một số cán bộ kỹ thuật trung cấp và đại học để chỉ đạo công tác đồ bản, đo đạc, hướng dẫn thống kê tài nguyên rừng toàn quốc, lập các phương án điều chế rừng. Trực thuộc Cục Lâm nghiệp vào thời kỳ này có nhiều đội điều tra rừng, điều tra các khu rừng trọng điểm do Trung ương trực tiếp quản lý. Với sự hợp tác của CHDC Đức, những năm đó chúng ta đã sử dụng ảnh máy bay để điều tra rừng ở vùng Hữu Lũng (tỉnh Lạng Sơn), lập biểu thể tích cây đứng theo 10 cấp chiều cao; áp dụng hệ thống phân loại rừng để phục vụ mục đích kinh doanh. Đó là một bước tiến bộ kỹ thuật rất cơ bản, tạo điều kiện xây dựng các công cụ cần thiết để nâng cao chất lượng công tác điều tra rừng ở nước ta. Vào thời kỳ này, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ điều tra, đo đạc rừng cũng bắt đầu có tiến bộ hơn. Các đội điều tra rừng ở Trung ương và các tỉnh đã được trang bị địa bàn để đo đạc, vẽ bản đồ, có cán bộ kỹ thuật chuyên trách về việc xây dựng bản đồ. Cục Lâm nghiệp đã được trang bị một số máy móc để làm việc đó. Tại các địa phương, các đội điều tra rừng trực thuộc các Ty và các chi nhánh quốc doanh lâm khẩn được tiếp tục bổ sung cán bộ kỹ thuật, tăng cường huấn luyện kỹ thuật nhằm thống nhất phương pháp điều tra rừng trong toàn quốc. Chính nhờ những yếu tố đó nên trong thời kỳ 1958-1960, công tác điều tra rừng đã có nhiều tiến bộ, chất lượng công tác điều tra rừng được nâng cao. Từ cuối năm 1958, bình quân mỗi năm đã điều tra được khoảng 200.000 ha rừng, đã sơ thám được tình hình rừng và đất đồi núi, lập được thống kê tài nguyên rừng đơn giản và vẽ được phân bố tài nguyên rừng ở miền Bắc. Đến cuối năm 1960, tổng diện tích rừng đã điều tra được vào khoảng 1,5 triệu ha. Bộ số liệu này đã được cung cấp cho cơ quan lâm nghiệp các cấp xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) và đó là cơ sở ban đầu để quản lý rừng và xây dựng kế hoạch lâm nghiệp dài hạn. Ngày 29/9/1961 HĐCP đã ban hành Nghị định số 140 CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp. Theo đó, Cục Điều tra quy hoạch rừng được thành lập. Nhiệm vụ của Cục Điều tra rừng là trực tiếp quản lý các đoàn, đội điều tra rừng trực thuộc đặt ở các vùng và chỉ đạo nhiệm vụ kỹ thuật điều tra rừng cho các đoàn điều tra rừng thuộc Ty Lâm nghiệp ở các tỉnh. Thời kỳ này, Tổng cục đã điều động phần lớn các cán bộ kỹ thuật trung cấp và kỹ sư lâm nghiệp tốt nghiệp ở trường Đại học Nông lâm, trường Trung cấp Nông Lâm Trung ương và nhiều cán bộ tốt nghiệp ở các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa để bổ sung cho lực lượng điều tra rừng. Tổng cục chủ trương tập trung lực lượng điều tra quy hoạch rừng do Trung ương quản lý để tiến hành điều tra quy hoạch những khu rừng trọng điểm nhằm nâng cao nhanh chóng trình độ cán bộ công nhân. Trong giai đoạn 1962-1965, dưới sự phối hợp của chuyên gia Trung quốc, Tổng cục Lâm nghiệp đã chỉ đạo Cục Điều tra Rừng thực hiện chương trình điều tra rừng chi tiết tại khu vực Sông Hiếu. Đây là cuộc điều tra rừng lớn nhất từ trước đến nay, có nội dung như sau: Khu rừng Sông Hiếu ở vùng Tây bắc tỉnh Nghệ An có diện tích tự nhiên gần 400.000 ha, đã được lựa chọn để thực hiện chủ trương này. Tháng 5/1962, Tổng cục thành lập Đoàn 6
  7. điều tra quy hoạch rừng Sông Hiếu do ông Nguyễn Đức Khải làm trưởng đòan và ông Hoàng Hòe làm phó đoàn phụ trách kỹ thuật, tập trung gần 450 người, trong đó có 30 kỹ sư, gần 300 cán bộ trung cấp kỹ thuật cùng với 41 chuyên gia Trung Quốc. Tổng cục đã tổ chức đầy đủ các bộ môn để tiến hành điều tra rừng. Thành quả điều tra rừng Sông Hiếu bao gồm (1) báo cáo điều tra rừng Sông Hiếu; (2) báo cáo điều tra các lâm trường khu Sông Hiếu; (3) báo cáo điều tra thực vật rừng và danh lục thụ mộc Sông Hiếu; (4) báo cáo thổ nhưỡng và hệ thống phân loại đất Sông Hiếu; (5) báo cáo điều tra tái sinh rừng Sông Hiếu; (6) báo cáo điều tra lập các biểu đo cây, biểu trữ lượng tiêu chuẩn, biểu thể tích, biểu đẳng cấp xuất gỗ, biểu cấp đất và rất nhiều biểu nhân tố điều tra khác; (7) hệ thống bản đồ gồm bản đồ cơ bản, bản đồ lâm tướng, bản đồ thiết kế kinh doanh lâm trường, bản đồ phân bố thổ nhưỡng lâm trường, bản đồ phân bố rừng toàn khu Sông Hiếu, sơ đồ toàn khu Sông Hiếu và các lâm trường. Biểu 1. Một số nhân tố điều tra bình quân của khu Sông Hiếu Nhân tố điều tra bình quân Loại hình Loại hình Loại hình Táu, Lim Ngát, Ràng ràng Hu Tuổi bình quân (năm) 72 48 6 Cấp đất bình quân IV.2 III 5 0,42 Độ đầy bình quân 0,45 0,35 Độ dốc bình quân (độ) 26 19 19 Trữ lượng bình quân (m3/ha) 212 134 41 Lượng sinh trưởng hàng năm (toàn khu) 285,537 m3 59,198 m3 43,241 m3 Nguồn: Báo cáo tài nguyên rừngkhu Sông Hiếu, 1965 Ghi chú: hiện nay tất cả các tài liệu liên quan đến chương trình điều tra rừng Sông Hiếu đang được lưu trữ tại Viện Điều tra Quuy hoạch Rừng. Những năm tiếp theo, công tác điều tra rừng được tiếp tục phát triển, đã tiến hành điều tra nhiều vùng rừng trọng điểm ở Miền bắc. Trong đó có việc điều tra rừng ở hai huyện Hàm Yên (Tuyên Quang) và Bắc Quang (Hà Giang) được thực hiện từ 10/1971 đến 6/1972 và đây là cuộc điều tra rừng lớn thứ hai ở Miền Bắc nước ta. Sau đó, đã tiến hành điều tra rừng ở vùng trung tâm Bắc bộ, gồm các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Vĩnh Phú phục vụ mục tiêu quy hoạch vùng nguyên liệu cho nhà máy giấy Bãi Bằng. Công tác điều tra quy hoạch rừng vẫn tiếp tục lớn mạnh và phát triển, đã tập trung vào điều tra theo các chuyên đề như lâm học, thực vật, động vật và kinh tế lâm nghiệp. Đầu năm 1965 đã hoàn thành quy trình điều tra quy hoạch rừng Việt Nam và trên cơ sở đó, Sổ tay điều tra quy hoạch rừng đầu tiên đã được xuất bản. Từ năm 1962-1968, công tác điều tra rừng vẫn sử dụng quy trình điều tra rừng của Trung quốc. Năm 1968 đã sử dụng ảnh máy bay trong công tác điều tra rừng cho lâm trường Hữu Lũng, Lạng Sơn. Dựa vào ảnh máy bay, khoanh ra các loại rừng, sau đó ra thực địa kiểm tra và đo đếm cho từng loại rừng, xây dựng bản đồ hiện trạng rừng thành quả. Từ năm 1968 Cục Điều tra Quy hoạch rừng là một trong những cơ quan kinh tế, kỹ thuật khai thác có hiệu quả máy tính điện tử Minsk 22 do Liên Xô cũ trang bị cho Ủy ban khoa học và kỹ thuật nhà nước. Tiếp theo ngành Lâm nghiệp được trang bị riêng máy tính điện tử C8205Z của Đức và giao cho Cục Điều tra Quy hoạch trực tiếp quản lý và sử dụng. 7
  8. Có thể khẳng định Cục Điều tra Quy hoạch là một trong những đơn vị tiên phong ứng dụng có hiệu quả công nghệ tin học vào công tác chuyên môn của ngành lâm nghiệp. Khi kết thúc công tác điều tra rừng ở khu Sông Hiếu, lực lượng cán bộ điều tra rừng có khoảng 2200 người, trong đó khoảng 100 người đã tốt nghiệp đại học, 400 cán bộ đã tốt nghiệp trung cấp. Đây là bước phát triển vượt bậc về lực lượng điều tra rừng so với những thời kỳ trước đây. Trong giai đoạn 1965-1975, lực lượng điều tra quy hoạch rừng đã thực hiện nhiều công tác khác nhau ở miền Bắc và đã tổ chức lại các đội điều tra, bố trí một lực lượng đáng kể, thành lập các đội điều tra rừng chuyên trách thực hiện nhiệm vụ giúp Lào về công tác điều tra quy hoạch rừng . Trong giai đoạn này, dưới sự giúp đỡ của Cục Điều tra rừng còn tiến hành điều tra rừng tại tỉnh Quảng Ninh nhằm xác định khả năng cung cấp gỗ trụ mỏ phục vụ việc khai thác than. Hệ thống phân loại đất rừng được áp dụng theo hệ thống phân loại của Loschau M. 3.2. Điều tra rừng ở miền Nam giai đoạn 1955-1975 Ở Miền Nam ảnh máy bay đã được sử dụng từ năm 1959, đã xác định tổng diện tích rừng miền Nam là 8 triệu ha. Diện tích rừng tính theo đầu người thời kỳ đó là 0,52 ha/người. Nét nổi bật của lâm nghiệp miền Nam thời kỳ trước 1975 là sự huỷ diệt rừng bằng các phương tiện chiến tranh và sự phát triển công nghiệp khai thác, chế biến gỗ và lâm sản một cách tự do, trong tình trạng không kiểm soát được. Vì vậy, sau 1975, gần như việc xây dựng và phát triển lâm nghiệp ở các tỉnh phía Nam phải bắt đầu từ những bước đi đầu tiên. 4. Điều tra rừng từ năm 1975 trở lại đây 4.1. Chương trình điều tra, đánh giá rừng toàn quốc lần thứ nhất năm 1981-1983 Từ trước đến thời điểm này, ở Việt nam đã thực hiện một số công trình điều tra rừng, nhưng chúng được thực hiện trên quy mô nhỏ, thường là cho một địa phương hoặc công trình cụ thể. Sau khi đất nước thống nhất, từ năm 1981 đến năm 1983, dưới sự giúp đỡ của Tổ chức Nông Nghiệp và Lương Thực Liên Hợp Quốc (FAO), lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Viện Điều tra Quy hoạch Rừng đã tiến hành điều tra, đánh giá tài nguyên rừng trên phạm vi toàn quốc. Mục tiêu của chương trình này là điều tra và đánh giá tài nguyên rừng trên phạm vi tòan quốc nhằm cung cấp số liệu, thông tin cho Nhà nước xây dựng chính sách và chiến lược phát triển lâm nghiệp và phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ 1983-1990. Phương pháp thực hiện chương trình này là sự kết hợp giữa điều tra mặt đất và giải đóan ảnh vệ tinh do FAO hỗ trợ. Phương pháp điều tra rừng Sông Hiếu chính là cơ sở, nền tảng của phương pháp điều tra rừng truyền thống (mặt đất). Vào đầu những năm 1980, ảnh vệ tinh và ảnh hàng không còn rất hạn chế, chỉ đáp ứng yêu cầu điều tra rừng ở một số vùng nhất định, mà chưa có đủ cho tòan quốc. Ảnh vệ tinh được sử dụng thời kỳ đó là Landsat MSS. Vì vậy, chương trình điều tra rừng này đã ứng dụng tổng hợp các phương pháp điều tra từ trước đến nay, tùy thuộc vào điều kiện, trang thiết bị, kỹ thuật của từng khu vực. Các nhân tố điều tra được thu thập dựa trên những ô mẫu điển hình, được thiết kế đại diện cho từng kiểu rừng và từng trạng thái rừng. 8
  9. Thành quả của chương trình là bộ số liệu về diện tích, trữ lượng các loại rừng theo từng tỉnh và trên phạm vi tòan quốc và một số chỉ tiêu bình quân. Hiện nay số liệu này vẫn đang được lưu trữ tại Viện Điều tra Quy hoạch Rừng. 4.2. Chương trình điều tra, đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc 5 năm 1991-1995 Chương trình này được thực hiện theo Quyết định số 575/TTg do Phó Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải ký ngày 27/11/1993. Mục tiêu dài hạn của Chương trình là điều tra rừng toàn diện và liên tục trên quy mô toàn quốc. Mục tiêu trước mắt của Chương trình là (a) thống kê, đánh giá tài nguyên rừng toàn diện; (b) phân tích và đánh giá biến động tài nguyên rừng Việt Nam trong những năm trước đây; (c) xây dựng hệ thống ô định vị trên toàn bộ đất lâm nghiệp và lưu trữ dữ liệu trên máy tính; (d) đề xuất những hướng quản lý sử dụng tài nguyên rừng lâu bền và có hiệu quả; (e) hoàn thiện phương pháp điều tra và tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ điều tra rừng. Nội dung của Chương trình là (1) điều tra đánh giá hiện trạng tài nguyên rừng; (2) phân tích diễn biến tài nguyên rừng; (3) xây dựng cơ sở dữ liệu cho một hệ thống điều tra rừng liên tục và lâu dài; (4) đề xuất về hướng quản lý sử dụng và phát triển tài nguyên rừng; (5) xây dựng bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng; (6) điều tra trữ lượng và các nhân tố điều tra khác về tài nguyên rừng; (7) Xử lý số liệu đã thu thập từ ô sơ cấp và ô thứ cấp, đưa ra các nhân tố điều tra bình quân; (8) xây dựng báo cáo các chuyên đề về tài nguyên rừng; (9) xây dựng bộ số liệu tài nguyên rừng. Phương pháp thực hiện chương trình được xác định tuỳ theo nội dung cần điều tra, cụ thể là (1) bản đồ hiện trạng tài nguyên rừng được xây dựng dựa trên những bản đồ hiện trạng rừng hiện có thời kỳ trước năm 1990, sau đó dùng ảnh vệ tinh Landsat MSS và Landsat TM có độ phân giải là 30x30m để cập nhật những khu vực thay đổi sử dụng đất, những nơi mất rừng hoặc những nơi có rừng trồng mới hay mới tái sinh phục hồi . Ảnh vệ tinh Landsat MSS và Landsat TM ở dạng in màu trên giấy (hardcopy), tỷ lệ 1:250.000, và được giải đoán khoanh vẽ trực tiếp trên ảnh bằng mắt thường. Kết quả giải đoán được chuyển hoạ lên bản đồ địa hình tỷ lệ 1:100.000 và được kiểm tra tại hiện trường; (2) các nội dung khác được thực hiện bằng việc thu thập và xử lý số liệu thông qua hệ thống ô sơ cấp, mỗi ô có diện tích 1 km2, được thiết kế theo một hệ thống cách đều nhau 8 km trên toàn phạm vi đất lâm nghiệp. Trong mỗi ô sơ cấp có 20 ô đo đếm, diện tích mỗi ô là 500 m2; (3) Trong ô sơ cấp, các điều tra viện thực hiện việc khoanh các lô trạng thái rừng theo các tuyến điều tra. Các tuyến điều tra được thiết kế song song với nhau, theo hướng Bắc Nam và cách đều nhau 250 m; (4) Số liệu thu thập từ ô sơ cấp được nhập vào máy vi tính, xử lý và tính toán các nhân tố điều tra. Chương trình điều tra rừng toàn quốc do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng thực hiện dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Quốc gia do một Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là Trưởng ban. Thành quả của chương trình rất đa dang và phong phú. Từ năm thứ 4 của chương trình, Viện Điều tra Quy hoạch rừng tiến hành hoàn thiện các loại số liệu, biên tập và in ấn toàn bộ thành quả vào năm thứ năm. Thành quả bao gồm (1) số liệu tài nguyên rừng trong toàn quốc, các vùng và các tỉnh; (2) báo cáo thuyết minh và bản đồ sinh thái thảm thực vật rừng các vùng tỷ lệ 1:250.000; (3) báo cáo và bản đồ dạng đất đai các tỉnh tỷ lệ 1:100.000 và 9
  10. các vùng tỷ lệ 1:250.000; (4) báo cáo lâm học và khu hệ thực vật rừng các vùng; (5) báo cáo về tài nguyên động vật rừng các vùng; (6) báo cáo tình hình sâu bệnh hại rừng trồng các vùng; (7) báo cáo về một số đặc sản chủ yếu rừng Việt Nam. 4.3. Chương trình ĐT, ĐGvà TD diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc 5 năm 1996-2000 Mục tiêu của chương trình là (1) thống kê đánh giá tài nguyên rừng toàn diện phục vụ việc xây dựng và điều chỉnh kế hoạch phát triển lâm nghiệp dài hạn tới năm 2005; (2) phân tích, đánh giá biến động tài nguyên rừng Việt Nam giữa hai thời kỳ 1995-2000; (3) đánh giá xu thế diễn biến tài nguyên rừng. Nội dung của chu kỳ 1996-2000 tương tự như nội dung của chu kỳ 1990-1995, nhưng có điều tra thêm một số ô định vị sinh thái. Phương pháp thực hiện chương trình này cũng tương tự như chương trình 90-95, tuy nhiên, số ô sơ cấp được tăng cường thêm. Bản đồ hiện trạng rừng được xây dựng bằng phương pháp viễn thám. Ảnh vệ tinh đã sử dụng là SPOT3, có độ phân giải là 15mx15m, phù hợp với việc xây dựng bản đồ tỷ lệ 1:100.000. Ảnh SPOT3 được xử lý và tổ hợp màu giả, in trên giấy (hardcopy). So với ảnh Landsat MSS và Landsat TM, ảnh SPOT3 có độ phân giải cao hơn, các đối tượng trên ảnh cũng được thể hiện chi tiết hơn. Ảnh SPOT3 vẫn được giải đoán bằng mắt thường nên kết quả giải đoán vẫn còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của chuyên gia giải đoán và chất lượng ảnh. Điều tra trữ lượng gỗ, tre nứa và các nhân tố điều tra khác được thực hiện thông qua hệ thống ô sơ cấp. Phần lớn số ô sơ cấp trong chương trình 1996-2000 được kế thừa từ chu kỳ I và tiến hành điều tra lần 2, nhằm xác định sự thay đổi các nhân tố điều tra, để từ đó xác định diễn biến tài nguyên rừng. Ngoài ra, còn thiết kế thêm một số ô sơ cấp để tăng cường thêm độ chính xác trong công tác điều tra. Số ô mới được thiết kế hệ thống, nằm giữa bốn ô sơ cấp của chu kỳ I. Ô sơ cấp được thiết kế hệ thống trên bản đồ 1:250.000 và 1:50.000. Diện tích mỗi ô sơ cấp vẫn là 1 km2, và diện tích mỗi ô đo đếm là 500 m2. Các biện pháp kỹ thuật và đo đếm các nhân tố điều tra được thực hiện tương tự như trong chu kỳ I. Phương pháp khoanh lô trong ô sơ cấp cũng được thực hiện tương tự như trong chu kỳ I. Ngoài ra, còn đo đếm, thu thập thông tin từ 74 ô định vị nghiên cứu sinh thái. Chương trình ĐT, ĐG và TD TNR 1996-2000 do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng thực hiện, dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Trung ương do một Thứ trưởng Bộ NN&PTNT làm Trưởng ban. Thành quả của Chương trình 1996-2000 bao gồm (1) báo cáo và số liệu tài nguyên rừng; (2) báo cáo thuyết minh bản đồ phân vùng sinh thái thảm thực vật cấp vùng và toàn quốc; (3) báo cáo thuyết minh và bản đồ phân loại đất cấp tỉnh, vùng và toàn quốc; (4) báo cáo thuyết minh và bản đồ hiện trạng rừng cấp tỉnh, vùng và toàn quốc; (4) báo cáo lâm học cho 15 kiểu rừng; (5) báo cáo khu hệ côn trùng trong rừng tự nhiên; (6) báo cáo tổng quát về hệ sâu bệnh hại rừng trồng; (7) báo cáo sâu bệnh hại rừng của 4 loài Thông phổ biến ở Việt Nam; (8) báo cáo tổng hợp diễn biến tài nguyên rừng thời kỳ 1996-2000; (9) số liệu điều tra ô sơ cấp; (10) hệ thống bảng biểu về tài nguyên rừng; (11) biểu tăng trưởng lâm phần rừng tự nhiên; (12) biểu năng suất các kiểu rừng tự nhiên; (13) biểu tăng trưởng thể tích các loài cây rừng trồng; (13) bản đồ hiện trạng rừng tỷ lệ 1:100.000; 1:250.000; 1:1000.000. Ghi chú: hiện nay tất cả các loại tài liệu này đang được lưu trữ tại thư viện Viện Điều tra Quy hoạch Rừng. 10
  11. 4.4. Chương trình tổng kiểm kê rừng toàn quốc năm 1997-1999 Chương trình này được thực hiện theo Chỉ thị 286/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng. Mục tiêu của Chương trình này là nhằm kiểm kê đánh giá tòan bộ các loại rừng trên phạm vi cả nước nhằm giúp Nhà nước nắm một cách chính xác tòan bộ diện tích các loại rừng tự nhiên, rừng trồng và đất trống hiện có để bàn giao cho các cấp chính quyền từ xã, huyện, tỉnh và các chủ rừng có trách nhiệm quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Nội dung của chương trình này là kiểm kê diện tích các loại rừng theo (1) chủ quản lý, bao gồm (a) tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và địa phương, như lâm trường, xí nghiệp, Tổng công ty, đơn vị Quốc phòng, Nội vụ, Giáo dục và đào tạo, Trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh ; (b) các đơn vị kinh tế tập thể; (c) các hộ gia đình; (d) các tổ chức liên doanh bằng vốn trong và ngoài nước; (e) các đơn vị quản lý rừng trồng bằng vốn của nước ngoài và các tổ chức quốc tế như WB, PAM, SIDA, ADB ; (f) ban quản lý các vườn quốc gia, các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; (g) các ban quản lý rừng theo chương trình 327, 733 và (2) chức năng 3 loại rừng, gồm (a) rừng phòng hộ; (b) rừng sản xuất; (c) rừng đặc dụng. Chương trình được tổ chức thực hiện bằng sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương. Ở Trung ương có Ban chỉ đạo kiểm kê rừng Trung ương do Lãnh đạo Bộ NN&PTNT làm Trưởng ban; Ở các tỉnh có Ban chỉ đạo cấp tỉnh trực thuộc UBND tỉnh; dưới cơ sở, thủ trưởng các đơn vị là chủ quản lý rừng chịu trách nhiệm thống kê diện tích rừng do đơn vị mình quản lý và báo cáo lên cấp trên để tổng hợp. Phương pháp kiểm kê diện tích rừng và đất rừng trong chương trình này là sự kế thừa tài liệu hiện có và phúc tra, điều tra bổ sung thêm ngoài hiện trường. Điều tra rừng lần này được chia thành hai mức độ. Đối với mức độ 1, tiến hành kiểm kê những diện tích rừng có nhiều biến động. Diện tích rừng và đất rừng tối thiểu khoanh vẽ trên bản đồ là 1 ha; Đối với mức độ 2, tiến hành kiểm kê ở những nơi rừng ít bị biến động, thuộc vùng sâu, vùng xa, những nơi rừng đã có quyết định đóng cửa không khai thác. Phương pháp kiểm kê trữ lượng rừng cũng là kế thừa các tài liệu hiện có liên quan của Viện ĐTQH rừng, không tiến hành đo đếm ngoài hiện trường. Thành quả của chương trình kiểm kê này là (1) hệ thống số liệu diện tích các loại rừng và đất rừng cấp xã, cấp huyên, cấp tỉnh và tòan quốc; (2) hệ thống bản đồ hiện trạng rừng cấp xã tỷ lệ 1: 25.000; cấp huyện tỷ lệ 1:50.000; cấp tỉnh tỷ lệ 1:100.000. 4.5. Chương trình ĐT, ĐGvà TD diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc 5 năm 2000-2005 Mục tiêu tổng quát của Chương trình là cung cấp đầy đủ các thông tin về số lượng, chất lượng cũng như đánh giá như xu hướng diễn biến của rừng trong mối quan hệ với các hoạt động kinh tế xã hội, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng chiến lược và kế hoạch sử dụng hợp lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng toàn quốc trong giai đoạn 2005-2010. Nội dung cũng tương tự như chu kỳ II, nhưng có điều tra thêm một số ô định vị nghiên cứu sinh thái. Cự ly giữa các OSC giữ nguyên như trong chu kỳ II là: 5,65 x 5,65 km nhằm bảo đảm tính hệ thống, tính kế thừa để theo dõi liên tục. Hệ thống đơn vị ÔSC được thiết kế, xác định tọa độ trên bản đồ hiện trạng rừng và bản đồ nền địa hình UTM tỷ lệ 1:50.000. 11
  12. Phương pháp xây dựng bản đồ trong chu kỳ III đã được phát triển lên một bước. Lần này, bản đồ hiện trạng rừng được xây dựng từ ảnh số vệ tinh Landsat ETM+. Chất lượng của ảnh lần này vẫn tương tự như ảnh sử dụng trong chu kỳ I. Độ phân giải của nó vẫn là 30m x 30m. ảnh không được in ra dưới dạng giấy in (hardcopy) mà để nguyên ở dạng số, lưu trữ trong đĩa CD. Viện ĐTQH rừng đã ứng dụng công nghệ giải đoán ảnh số với sự trợ giúp của phần mềm chuyên dụng ERDAS IMAGINE 8.5. Việc giải đóan ảnh được thực hiện trong phòng dựa trên những mẫu khóa ảnh đã được kiểm tra ngoài hiện trường. Ưu điểm của phương pháp giải đoán ảnh số là tiết kiệm được thời gian và có thể giải đóan thử nhiều lần trước khi lấy kết quả chính thức. Các nhân tố điều tra khác cũng được thực hiện tương tự như trong các chu kỳ điều tra trước đó, được thu thập thông qua hệ thống ô sơ cấp rải đều trên phạm vị đất lâm nghiệp tòan quốc. Nhưng trong chu kỳ III này, Viện ĐTQH rừng còn thiết kế thêm ô định vị nghiên cứu sinh thái công khai địa chỉ. Số ô định vị điều tra 2 cấp trong chu kỳ này bao gồm toàn bộ số lượng ô đã thiết kế trong chu kỳ II và số ô bổ sung thêm được thiết kế trên diện tích rừng đã tăng lên so với diện tích rừng đã điều tra ở chu kỳ trước. Toàn bộ số ô định vị điều tra hai cấp sẽ được điều tra trong 5 năm, mỗi năm điều tra 1/5 số ô phân bố đều trên phạm vi toàn quốc. Điểm khác biệt giữa ô sơ cấp và ô định vị nghiên cứu sinh thái là chúng được lựa chọn điển hình, được xác lập để theo dõi lâu dài các nhân tố về sinh thái rừng. Mỗi ô đại diện cho một trạng thái thuộc một kiểu của hệ sinh thái rừng ở một vùng sinh thái nhất định. Số lượng ô nghiên cứu sinh thái rừng được dự tính cho 8 vùng lâm nghiệp với 4 kiểu rừng chủ yếu là 100 ô. Căn cứ vào hồ sơ của tất cả các ÔSC trên phạm vi toàn quốc để chọn và lập 100 ô định vị nghiên cứu sinh thái, trong đó có 74 ô đã điều tra trong chu kỳ II và 26 ô bổ sung thêm trong chu kỳ III để nghiên cứu và theo dõi những đặc trưng cơ bản của rừng về các mặt (1) Tổ thành loài và biến động của chúng; (2) Sự tăng trưởng về trữ lượng rừng; (3) Sự tăng trưởng về đường kính bình quân của lâm phần và cá thể loài hoặc nhóm loài ưu thế; (4) Sự biến động chung về tái sinh tự nhiên của rừng theo loài và các nhóm loài ưu thế; (5) Xu hướng phục hồi, phát triển của rừng; (6) Biến động và khả năng phục hồi của hệ động vật rừng. Chương trình 2000-2005 do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng thực hiện, dưới sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Trung ương do một Thứ trưởng Bộ NN&PTNT làm Trưởng ban. Thành quả của chù kỳ III tương tự như của các chương trình điều tra rừng trước đây, nhưng chúng sẽ được cập nhật cho đến thời điểm năm 2005. Tại thời điểm này (2/2005), Viện ĐTQH rừng cũng đã xây dựng được bộ bản đồ hiện trạng rừng năm 2003 từ bộ số liệu ảnh số Landsat ETM có độ phân giải 30m x 30m và đã tiến hành kiểm tra ngoại ngoại nghiệp. Các số liệu khác đang trong quá trình xử lý và hoàn thiện thành quả. 12
  13. Phần 2: Khuôn Khổ Pháp Lý Điều Tra Rừng Từ ngày thành lập ngành Điều tra rừng đến nay, có rất nhiều văn bản pháp luật liên quan đến công tác điều tra rừng đã được Nhà nước ban hành. Nhưng trong số đó, một số văn bản đã lỗi thời và không còn hiệu lực. Trong phần này chỉ nêu một số những văn bản pháp lý trong những năm gần đây có liên quan trực tiếp tới công tác điều tra rừng để bạn đọc tiện tham khảo. Các văn bản bao gồm: - Quyết định số 446/TTg ngày 21/6/1997 của Thủ tướng Chính phủ Về việc phê duyệt Chương trình Điều tra, đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc thời kỳ 96- 2000. - Quyết định số 1996/NN-TCCB/QĐ ngày13 tháng 08 năm 1997 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành danh mục phụ cấp nặng nhọc, độc hại nguy hiểm (cho VQG và Viện Điều tra quy hoạch rừng). - Quyết định số 2010/NN-TCCB/QĐ ngày 15 tháng 08 năm 1997 của Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành định mức lao động điều tra đánh giá và theo dõi biến diễn tài nguyên rừng toàn quốc. 13
  14. - Quyết định số 14/2002/QĐ-BNN, ngày 27/01/2002 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành Danh mục các loại động vật, thực vật hoang dã quy định trong Phụ lục của Công ước CITES. - Quyết định số 03/2001/QĐ-TTg ngày 05-01-2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kết quả tổng kiểm kê rừng tòan quốc. - Quyết định số 10/2002/QĐ-TTg ngày 14 tháng 01 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kết quả Chương trình điều tra đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng tòan quốc thời kỳ 1996-2000 và triển khai thực hiện tiếp tục Chương trình thời kỳ 2001- 2005. - Quyết định số 446/TTg của Thủ tưởng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình điều tra đánh giá vè theo dõi diễn biến tài nguyên rừng tòan quốc thời kỳ 1996-2000. - Quyết định số 575/TTg do Phó Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải ký ngày 27/11/1993 về việc phê duyệt chương trình điều tra, đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng tòan quốc 1991-1995. - Quyết định số 03/2001/QĐ-TTg ngày 05/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kết quả tổng kiểm kê rừng toàn quốc. - Chỉ thị số 32/2000/CT-BNN-KL ngày 27/3/2000 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc tổ chức thực hiện theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp. - Thông tư số 102/2000/TT-BNN-KL ngày 02/10/2000 của Bộ NN&PTNT hướng dẫn lập dự toán cho các dự án theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp. - Quyết định số 78/2002/QĐ-BNN-KL ngày 28/8/2002 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc ban hành quy phạm kỹ thuật theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp trong lực lượng kiểm lâm. - Quyết định số 93/2002/QĐ-BNN, ngày 28/10/2002 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc ban hành Quy chế hoạt động của Ban điều hành Chương trình điều tra đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc thời kỳ 2001-2005. - Vũ Tiến Hinh, Phạm Ngọc Giao - Điều tra rừng – Giáo trình chính thức giảng dạy trong trường Đại học Lâm nghiệp – Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội 1997. - Vũ Tiến Hinh - Sản lượng rừng – Giáo trình chính thức giảng dạy trong trường Đại học Lâm nghiệp – Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội 2003. 14
  15. Phần 3: Nguồn Gốc, Sự Phong Phú và Không Đồng Bộ Của Số Liệu Điều Tra Rừng 1. Nguồn gốc số liệu 1.1. Số liệu điều tra rừng do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng thu thập và xử lý Tài liệu điều tra rừng do Viện ĐTQH rừng thu thập và xử lý có hai mảng chính, đó là (1) Các loại bản đồ và (2) Số liệu, các nhân tố điều tra và báo cáo. Bản đồ: bao gồm các loại bản đồ hiện trạng sử dụng đất và tài nguyên rừng; bản đồ thảm thực vật rừng; bản đồ phân bố động vật rừng; bản đồ phân bố thực vật rừng, bản đồ đất; bản đồ dạng đất; bản đồ lập địa; Những bản đồ này được xây dựng ở các tỷ lệ khác nhau. Đối với cấp tỉnh, các loại bản đồ được xây dựng theo tỷ lệ 1:100.000; đối với cấp vùng, tỷ lệ 1:250.000; đối với toàn quốc, tỷ lệ 1:1000.000. Riêng bản đồ đất, Viện VĐTQH rừng chưa xây dựng được cho toàn quốc, mà chỉ xây dựng được bản đồ đất cho một số khu vực, một số tỉnh hoặc một số vùng của dự án cụ thể. Tuỳ theo giai đoạn lịch sử, sự phát triển của khoa học công nghệ và năng lực của Viện ĐTQH rừng, các loại bản đồ được xây dựng theo những phương pháp khác nhau. Trước 15
  16. những năm 1980, hầu hết tất cả các loại bản đồ đều được xây dựng bằng phương pháp điều tra mặt đất, bằng các phương pháp đo đạc truyền thống và sử dụng ảnh máy bay. Sau những năm 1980, với sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ, cụ thể là công nghệ viễn thám và hệ thống thông tin địa lý (GIS), Viện VĐTQH rừng đã áp dụng chúng trong công tác xây dựng bản đồ. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1980-1990, là giai đoạn chuyển tiếp giữa phương pháp điều tra truyền thống và phương pháp hiện đại, vì vậy Viện VĐTQH rừng đã kết hợp cả phương pháp điều tra, đo đạc mặt đất kết hợp với phương pháp viễn thám, ảnh hàng không để xây dựng bản đồ. Từ năm 1990 đến năm 2000, tức là từ khi bắt đầu triển khai chương trình điều tra, đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc lần thứ nhất, các loại bản đồ hiện trạng rừng và sử dụng đất, và bản đồ thảm thực vật rừng chủ yếu được xây dựng bằng phương pháp viễn thám, nhưng áp dụng phương pháp giải đoán ảnh bằng mắt thường cho đến hết chu kỳ II (năm 2000). Từ năm 2002 trở lại đây, Viện VĐTQH rừng đã ứng dụng công nghệ giải đoán ảnh số để xây dựng hai loại bản đồ này. Còn các loại bản đồ đất, bản đồ lập địa, bản đồ dạng đất vẫn được xây dựng theo phương pháp truyền thống là sử dụng tài liệu hiện có kết hợp với điều tra hiện trường. Các số liệu, báo cáo bao gồm (1) số liệu diện tích ba loại rừng; diện tích các trạng thái rừng; diện tích các kiểu rừng; diện tích ba loại rừng phòng hộ, rừng sản xuất và rừng đặc dụng phân theo cấp độ cao; diện tích các trạng thái rừng phân theo cấo độ cao, độ dốc; Những số liệu này được tính toán và tổng hợp từ các loại bản đồ tương ứng nêu trên; (2) số liệu về các nhân tố điều tra như đường kính, chiều cao, thể tích, trữ lượng, tăng trưởng, cấu trúc rừng, tái sinh, số liệu về động vật, thực vật, côn trùng. Những số liệu phi không gian được thu thập bằng phương pháp điều tra mặt đất, thông qua hệ thống các ô sơ cấp, ô định vị và ô đo đếm được phân bố trên toàn bộ diện tích đất lâm nghiệp. Kể từ năm 1961, khi bắt đầu thành lập ngành điều tra, phương pháp điều tra mặt đất đã bắt đầu được áp dụng và chúng tồn tại cho đến ngày nay, nhưng khác nhau về kỹ thuật thiết kế, kích thước và mật độ của ô đo đếm. 1.2. Số liệu điều tra rừng do các Đoàn điều tra rừng các tỉnh thu thập Trước kia, hầu hết ở những tỉnh có diện tích đất rừng tương đối lớn, đều có Đoàn điều tra rừng. Những đoàn này có nhiệm vụ thực hiện điều tra rừng ở quy mô nhỏ, cho các xã, huyện, lâm trường trong phạm vi của tỉnh. Những công việc này thường nhỏ lẻ như điều tra đất trống để trồng rừng; điều tra, thiết kế khai thác gỗ cho lâm trường. Những việc này mang tính thời vụ và chỉ phục vụ cho những mục tiêu cụ thể và khi cần mới điều tra, chứ không mang tính hệ thống và không theo chu kỳ. Kỹ thuật của các đoàn điều tra rừng của các tỉnh còn yếu, trang thiết bị sử dụng rất đơn giản, chỉ có địa bàn cầm tay, địa bàn ba chân, thước dây, ô đo đếm cũng đơn giản; bản đồ được khoanh vẽ tại hiện trường và đều được làm bằng tay. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, do cơ cấu tổ chức thay đổi, chính sách giảm biên chế và khối lượng công việc ngày càng ít nên nhiều đoàn điều tra rừng cấp tỉnh đã bị giải tán hoặc bị sát nhập vào các Đoàn điều tra thiết kế nông lâm nghiệp hoặc các cơ quan khác. Những Đoàn điều tra rừng cấp tỉnh còn tồn tại đến ngày nay đều gặp rất nhiều khó khăn, cả về tài chính, kỹ thuật và nhân lực. Chính vì những lý do nêu trên, các Đoàn điều tra rừng cấp tỉnh hầu như khó có điều kiện tham gia thu thập và xử lý số liệu điều tra rừng tòan quốc. 1.3. Số liệu điều tra rừng do lực lượng Kiểm Lâm thu thập Trước kia, nhiệm vụ và chức năng củc ngành Kiểm lâm chỉ là quản lý bảo vệ rừng. Nhưng từ khi có Chỉ thị số 32/2000/CT-BNN-KL ngày 27/3/2000 của Bộ trưởng Bộ NN & PTNT về việc tổ chức thực hiện theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp, ngành Kiểm lâm đã tham gia thu thập số liệu điều tra rừng. Thành quả chính là số liệu diện tích về 16
  17. các trạng thái rừng ở cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh, vùng và toàn quốc. Số liệu và bản đồ hiện trạng rừng cơ sở ngành Kiểm lâm dùng để theo dõi là kết quả kiểm kê tài nguyên rừng năm 1999 theo Chỉ thị 286-TTg ngày 2/5/97. Dựa trên số liệu này, hàng năm Cục kiểm lâm đã chỉ đạo lực lượng Kiểm lâm các cấp thu thập và tổng hợp những thay đổi về diện tích rừng theo các nguyên nhân như khai thác; cháy rừng; sâu bệnh hại; phá rừng; chuyển đổi mục đích sử dụng; trồng mới; khoanh nuôi và nguyên nhân khác. Đến nay, Cục Kiểm lâm đã công bố số diện tích rừng và đất lâm nghiệp cấp tỉnh của các năm 2002, 2003, 2004. Cục Kiểm lâm hoàn toàn không thu thập số liệu về các nhân tố điều tra rừng như đường kính, chiều cao cây rừng, trữ lượng, tăng trưởng rừng, tổ thành loài cây, tái sinh rừng, cấu trúc rừng 2. Sự phong phú của tài liệu điều tra rừng Tài liệu điều tra rừng do Viện ĐTQH rừng thu thập, xử lý và phân tích là tương đối đầy đủ, đa dạng. Chương trình điều tra rừng toàn quốc đã cung cấp bản đồ hiện trạng rừng, bản đồ thảm thực vật rừng từ cấp tỉnh đến cấp quốc gia trên phạm vi toàn quốc. Ngoài ra còn cung cấp các loại bản đồ chuyên đề khác như đã đề cập trong phần thành quả của mỗi chương trình. Bên cạnh những chương trình lớn, Viện ĐTQH rừng còn thực hiện những cuộc điều tra nhỏ hơn, cho các công trình, dự án cụ thể như xây dựng bản đồ hiện trang rừng hoặc thảm thực vật rừng cho vườn quốc gia, khu bảo vệ thiên nhiên, khu phòng hộ đầu nguồn; bản đồ phụ vụ cho quy hoạch của huyện, xã; hoặc cung cấp bản đồ để thực hiện dự án trồng rừng trên phạm vị nhỏ; hoặc gần đây, Viện ĐTQH rừng đã ứng dụng sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ Viễn thám, sử dụng ảnh vệ tinh có độ phân giải cao như SPOT5, IKONOS, QUICKBIRD để xây dựng bản đồ hiện trang rừng và sử dụng đất tỷ lệ từ 1/50.000-1/10.000. Như vậy, về mặt bản đồ, Viện ĐTQH rừng phục vụ cho rất nhiều đối tượng, từ trung ương đến cấp tỉnh, huyện, xã và đã thoả mãn được tương đối đầy đủ những thông tin không gian cho người sử dụng ở cấp vĩ mô và vi mô. Các chương trình điều tra đánh giá rừng toàn quốc còn đưa ra số liệu của các nhân tố điều tra cho từng loại rừng, đã xây dựng biểu tăng trưởng, biểu thể tích cho nhiều loài cây riêng lẻ, giúp cho người sử dụng có thể tra cứu nhanh để đạt được mục tiêu của mình. Ngoài ra còn có rất nhiều thông tin, báo cáo, số liệu khác về sự đa dạng động thực vật, cấu trúc rừng của các kiểu rừng khác nhau thuộc nhiều vùng trong cả nước và qua nhiều thời kỳ khác nhau. 3. Sự không đồng bộ của thông tin điều tra rừng Hiện nay bản đồ hiện trạng rừng cấp huyện, cấp xã còn thiếu hụt nghiêm trọng. Các công trình, dự án về lâm nghiệp thường được thực hiện ở cấp xã, cấp làng bản nhưng các chương trình điều tra lại chưa có sẵn bản đồ chính xác và kịp thời có thể đáp ứng những yêu cầu này. Các bản đồ hiện trạng rừng và sử dụng đất ở cấp huyện, xã cũng được xây dựng tại các thời điểm khác nhau và đã sử dụng nhiều nguồn thông tin tư liệu, nhiều nguồn ảnh, từ ảnh vệ tinh Landsat Mss, TM, Spot, Aster, Rada, ảnh máy bay và hệ thống phân loại đất lâm nghiệp rất khác nhau qua các thời kỳ, nên đã tạo ra nhiều loại số liệu không đồng bộ, gây khó khăn cho người sử dụng, đặc biệt trong việc theo dõi biến động về diện tích của rừng qua các thời kỳ. Một số mô hình tăng trưởng cây rừng đã được xây dựng, nhưng chủ yếu áp dụng cho các loài cây rừng trồng như Keo, Bạch đàn, Thông, Bồ đề nhưng lại thiếu mô hình sinh trưởng cho nhiều loài cây rừng tự nhiên khác. 17
  18. Biểu thể tích đã được lập cho một số nhóm loài cây bản địa và lập ở dạng chung cho vùng hoặc toàn quốc. Ngày nay, các công trình, dự án cần đưa ra hoặc xây dựng những phương án điều chế rừng bền vững cho cấp lâm trường, cho từng xã hoặc cho những khu vực có diện tích nhỏ nên người sử dụng cần những thông tin chi tiết và cụ thể hơn, thậm chí cần thông tin cho từng loài cây bản địa riêng lẻ nhưng chưa được đáp ứng đầy đủ. Từ trước đến nay, công tác điều tra rừng mới chỉ tập trung vào việc điều tra rừng tập trung mà chưa chú trọng đến điều tra cây phân tán ngoài rừng. Đối tượng này đóng vai trò khá quan trọng trong việc cung cấp gỗ, cải thiện môi trường sinh thái, cảnh quan nhưng chúng ta lại chưa có thông tin về đối tượng này, hoặc thông tin rất manh mún, phiến diện. Sự thiếu hụt thông tin còn thể hiện ở sự thiếu nhất quán trong việc công bố số liệu. Hiện nay, số liệu về diện tích rừng do nhiều cơ quan đưa ra như: (1) Bộ Tài nguyên và Môi trường; (2) Bộ NN&PTNT; (3) Cục Thống Kê đồng thời công bố. Nhưng các nguồn số liệu này chênh lệch nhau rất lớn, điều này gây lên sự lúng túng cho người sử dụng. Sự thiếu hụt thông tin còn thể hiện trong sự thiếu gắn kết giữa người sử dụng thông tin và người cung cấp thông tin. Người sử dụng thông tin rất đa dạng, nhưng thường chỉ có một số đối tượng chính là người sử dụng ở cấp trung ương, cấp địa phương và cấp dự án. Người cung cấp thông tin ở đây chính là những cơ quan thực hiện điều tra rừng. Hiện nay, thông tin điều tra rừng tương đối đa dạng, nhưng những thông tin thực sự cần thiết nhiều khi chưa đáp ứng được yêu cầu cho người sử dụng. Các cơ sở dữ liệu chưa được tổ chức thành một hệ thống mạnh và thực sự có hiệu quả trong cập nhật và cung cấp thông tin. Chưa tổ chức được mạng trao đổi thông tin trong hệ thống cơ sở dữ liệu. Phần 4: Dụng Cụ, Thiết Bị Dùng Trong Điều Tra Rừng 1. Hiện trạng thiết bị, dụng cụ điều tra rừng Điều tra rừng là công việc nặng nhọc và khó khăn, do vậy công cụ thiết bị tiên tiến sử dụng trong công tác điều tra rừng có vai trò quan trọng trong việc giảm nhẹ sức lao động, nâng cao độ chính xác. Ngoài ra các đội điều tra rừng thường phải làm lán ở trong rừng xa dân cư nên ngoài các dụng cụ chuyên môn, cần chuẩn bị chu đáo các dụng cụ tư trang cần thiết khác cũng như chuẩn bị công tác hậu cần chu đáo mới hoạt động độc lập có hiệu quả. Sau đây là một số loại dụng cụ thường được sử dụng trong điều tra rừng hiện nay. -Dụng cụ đo đường kính thân cây thường được sử dụng gồm: (1)Thước kẹp: Đo đường kính theo hai chiều vuông góc với nhau và lấy trị số bình quân .(2) Thước dây: Dùng thước dây có ghi sẵn giá trị đường kính khi đo thân cây theo chu vi cây ở vị trí 1,3m. Đường kính được tính qua chu vi và được ghi sẵn lên thước để người sử dụng đọc trực tiếp giá trị đường kính cây; (3) Một số dụng cụ khác được chế tạo theo nguyên lý hình học như thước Ruler, thước Relascope có thể đo được đường kính các phần trên cao của cây 18
  19. Hình 1: Đo đường kính bằng thước kẹp. -Dụng cụ đo nhanh tổng tiết diện ngang thân ccây/ha : Thước Bitteclich -Dụng cụ đo chiều cao thân cây đứng thường được sử dụng gồm các nhóm : Thước sào khắc vạch đo trực tiếp (áp dụng cho các cây thấp dưới 10m) và các thước đo theo nguyên lý hình học hoặc lượng giác như thước Blume- leiss, thước Sunto, thước đo cao Christen Ảnh 1: Thước đo cao Blume-leiss - Dụng cụ đo tăng trưởng đường kính (hoặc bề rộng vòng năm) thân cây: Khoan tăng trưởng, đục tăng trưởng. 19
  20. -Dụng cụ đo chiều dài trong đo đạc tuyến, lập ô mẫu, thiết kế trồng rừng phổ biến nhất là (1) Thước dây, các loại dây đo có độ dài và độ bền cần thiết. (2) Ngoài ra một số nơi có điều kiện có thể dùng các máy đo quang học như địa bàn ba chân; máy bàn đạc, máy kinh vĩ (3) Những nơi có điều kiện có thể đo đạc các điểm bằng máy định vị vệ tinh GPS có độ chính xác cao, sau đó kết nối với máy tính có thể dễ dàng khoanh lô (polygon), tính chiều dài tuyến, tính diện tích lô trên máy. -Các dụng cụ ghi chép-lưu trữ như: Bảng biểu điều tra in sẵn; sổ tay điều tra; cặp tài liệu; bút chì; bút mực; bút xóa; tẩy; thước kẻ; giấy bóng can; giấy kẻ ly; giấy quì thử độ pH đất; máy ảnh số; máy tính xách tay; ổ đĩa USB -Các dụng cụ đánh dấu: Cọc tiêu; cọc mốc; sơn đánh dấu -Các dụng cụ định vị-định hướng gồm Bản đồ địa hình; địa bàn; ống nhòm; máy định vị vệ tinh GPS Ảnh 2: Một số loại máy định vị vệ tinh GPS -Dụng cụ phục vụ đi rừng thường được sử dụng như : dao phát; liều bạt; võng; thuốc chống muỗi vắt; thuốc phòng bệnh; lương thực thực phẩm đủ dùng trong thời gian dự kiến; dụng cụ nấu bếp 20
  21. Ảnh 3: Lán trại cho nhóm điều tra rừng. -Các dụng cụ bảo hộ gồm quần áo giày tất đi rừng; áo mưa; chăn màn; võng -Các máy móc phục vụ công tác nội nghiệp như: Máy tính số học; Máy tính điện tử; máy quét ảnh; máy in màu (để in bản đồ, báo cáo); máy photocoppy -Các máy móc chuyên dụng khác như; Máy đoán đọc ảnh máy bay; máy vẽ bản đồ địa hình; bàn số hoá bản đồ; máy tính chuyên dụng; mạng máy tính -Các phần mềm chuyên dụng để vẽ bản đồ, xử lý ảnh số và GIS như: Map/info; Micro/Station; ILWIS; Arc/View; Arc/GIS; ERDAS/IMAGINE Các ảnh máy bay, ảnh vệ tinh có chất lượng cao của khu vực điều tra 21
  22. Ảnh 4 : ảnh vệ tinh Arster độ phân giải 15m khu vực tỉnh Khánh Hoà 2. Nhu cầu thiết bị dụng cụ tiên tiến Hiện nay, các công cụ phục vụ điều tra rừng ở trong nước còn rất đơn giản và thiếu thốn. Trong thời gian tới ngành điều tra rừng cần trang bị các dụng cụ tiên tiến như các máy tính và mạng máy tính mạnh có khả năng xử lý khối lượng ảnh vệ tinh, bản đồ và các số liệu điều tra rừng nhanh chóng; Các máy định vị GPS có độ chính xác cao; các bản đồ địa hình số; các loại ảnh vệ tinh có độ phân giải cao; Các phần mềm lưu trữ và xử lý dữ liệu điều tra rừng 22
  23. Phần 5. Đo Đếm Cây Riêng Lẻ 1. Đo cây ngả hoặc bộ phận cây ngả 1.1. Mục đích Việc đo cây ngả hoặc bộ phận cây ngả là để nắm được kích thước như đường kính, chiều cao, chiều dài, thể tích (D, L, V ) và các sản phẩm của cây ngả, làm cơ sở để phân chia sản phẩm gỗ tròn, tính giá trị của sản phẩm và sử dụng chúng trong nghiên cứu như giải tích thân cây, tính độ thon, chỉ số hình dạng, lập biểu thể tích, biểu quá trình sinh trưởng 1.2. Nội dung và phương pháp a) Đo đường kính, chiều dài Cây ngả hoặc bộ phận cây ngả được xem như có dạng hình học tròn xoay, do vậy để xác định thể tích của nó cần đo đường kính và chiều dài. Để đo chiều dài dùng thước mét hoặc thước dây có khắc vạch tới mm hoặc cm. Để đo đường kính thường dùng thước kẹp, hoặc dùng thước dây đo đường kính trực tiếp hoặc đo chu vi để tính ra đường kính. b) Đo tính thể tích Khi đo và tính thể tích khúc gỗ tròn, công thức tính thể tích theo tiết diện bình quân thường được áp dụng: L/2 Gb Gm Gu L Hình 2: Sơ đồ cách đo tính thể tích khúc gỗ tròn Gu + Gb Công thức đơn tiết diện bình quân (công thức Smalian): V =[ ].L (1) 2 Công thức đơn tiết diện giữa (công thức Huber): V= Gm.L (2) Gu + 4Gm + Gb Công thức đơn Newton: V= [ ].L (3) 6 Trong đó: V là thể tích khúc gỗ Gu là tiết diện đầu lớn khúc gỗ 23
  24. Gm là tiết diện giữa khúc gỗ Gb là tiết diện đầu nhỏ khúc gỗ L là chiều dài khúc gỗ Công thức (3) dùng khi khúc gỗ có chiều dài lớn, hình dạng phức tạp. Để tăng độ chính xác, có thể chia khúc gỗ thành nhiều đoạn ngắn và tính thể tích từng đoạn, sau đó cộng lại sẽ được thể tích chính xác hơn. Nếu đo và tính thể tích cả cây ngả thì phần ngọn cây được coi như hình nón và thể tích 1 Π 2 đoạn này được tính theo công thức thể tích hình nón: Vngọn = . . .L (4) 3 4 d ng Trong đó: dng là đường kính đầu ngọn cây; lng là chiều dài đoạn ngọn với quy định: 1m ≤ lng ≤ 3m. 2. Đo đếm cây đứng Mục đích đo đếm cây đứng là nhằm nắm được kích thước của cây làm cơ sở tính toán thể tích, trữ lượng, phân chia sản phẩm gỗ tròn và tính toán giá trị của cây rừng và lâm phần. Nội dung và phương pháp đo đếm một số chỉ tiêu cơ bản a) Đo Đường kính Đường kính là chỉ tiêu điều tra quan trọng, nó phản ánh kích thước cây, là một nhân tố để tính thể tích cây, để phân chia sản phẩm gỗ. Dụng cụ đo đường kính là thước kẹp kính, thước dây đo đường kính. Dùng thước kẹp kính đo theo 2 chiều ĐT-NB và tính trị số bình quân. Dùng thước dây đo theo chu vi thân cây. Trên thước chuyên dụng đã tính toán sẵn từ chu vi ra đường kính. Nếu dùng thước dây khắc vạch cm thông thường thì tính đường kính bằng cách lấy chu vi chia cho 3,1416. Vị trí thường cần đo đường kính bao gồm đường kính gốc (D0), Đường kính ngang ngực (D1,3), Đường kính ở vị trí một phần mười chiều cao cây (D01) 24
  25. 1.3m 1.3m 1.3m 1.3m SPZ DIST 1.3m 1.3m 1.3m 1.3m SPZ SPZ 1.3m d d d d + d d = 1.3m 2 d 1.3m 1.3m a c b d 2.0m d d d d = = 100 q d d 1.3m 1.3 1.3m m 1.3m d e f Hình 3: Các vị trí đo đường kính (D1.3) thân cây (Zingg 1988; ) 25
  26. b) Đo chiều cao. Chiều cao là chỉ tiêu điều tra quan trọng, nó phản ánh kích thước cây, là một nhân tố để tính thể tích cây, để phân chia sản phẩm gỗ h h h Hình 4 : Chiều cao vút ngọn cây đứng (h) Với các cây thấp hơn 5m, dụng cụ đo chiều cao là thước làm bằng sào tre hoặc nứa có khắc vạch đến dm . Hình 5: Đo chiều cao cây bằng thước sào có khắc vạch 26
  27. Với các cây cao trên 5m, đo cao được thực hiện theo nguyên lý hình học hoặc lượng giác. Một số loại thước thường dùng hiện nay là Blume- leiss; Suunto. Hình 6: Đo cao bằng thước Blum-leiss Ảnh 5: Đo chiều cao cây bằng thước Blume-leiss 27
  28. Các cự ly cần đo thường bao gồm chiều cao vút ngọn (Hvn), Chiều cao dưới cành (Hdc); Chiều cao tầng trội (Ho) c) Đo đường kính tán. Tán cây là một trong những chỉ tiêu của cấu trúc lâm phần. Thông qua tán cây có thể đánh giá tình hình sinh trưởng và đề xuất các biện pháp tác động vào rừng. Đường kính tán cây được đo thông qua hình chiếu của nó trên mặt đất. Sử dụng thước dây để đo đường kính hình chiếu theo hai hướng Đông-Tây và Nam-Bắc, sau đó lấy giá trị bình quân. Trong một số trường hợp cần thiết, có thể đo vẽ trắc đồ ngang của tán cây theo đúng hình dạng và phân bố của chúng trong lâm phần. d) Đo tính chỉ số hình dạng thân cây Chỉ số hình dạng thân cây hay hình số (F) là tỷ lệ giữa thể tích thân cây (V) hoặc một bộ phận của nó với thể tích một hình viên trụ có chiều cao (H) bằng chiều cao thân cây, còn tiết diện đáy bằng tiết diện ngang (G) lấy ở độ cao nào đó trên phần gốc cây. Hình số phản ánh một phần hình dạng hay độ thon thân cây. Hình số phụ thuộc chủ yếu vào loài cây và cấp tuổi. Khi biết được chỉ số hình dạng thân cây có thể tính thể tích thân cây riêng lẻ bằng công thức: V=G.H.F (5) Trong đó: V: Thể tích cây G: Diện tích tiết diện ngang thân cây ở vị trí so sánh với hình viên trụ H: Chiều cao thân cây từ gốc đến ngọn. F: Chỉ số hình dạng thân cây (hình số) Sau đây là 2 loại hình số thường được dùng trong điều tra rừng: Hình số thuờng (F1,3): Khi tiết diện hình viên trụ so sánh lấy ở vị trí 1,3 m (g1,3), ta có hình số thường: Vc F 1,3 = (6) g1,3.h Trong đó: Vc: Thể tích cây g1,3: Diện tích tiết diện ngang thân cây vị trí 1,3m. h: Chiều cao vút ngọn. Hình số tự nhiên Hohenadl (F01): Khi tiết diện hình viên trụ so sánh lấy ở vị trí 1/10 chiều cao thân cây (g01) ta có hình số tự nhiên: Vc F 01 = (7) g01.h Trong đó: Vc: Thể tích cây g01: Diện tích tiết diện ngang thân cây vị trí 1/10 chiều cao cây tính từ gốc. h: Chiều cao vút ngọn. Tùy theo loài cây và vùng sinh thái cụ thể, F được tính toán theo trị số bình quân, được xếp theo 5 nhóm hình dạng và được lập thành bảng biểu để sử dụng: 28
  29. Biểu 3. Các tổ hình dạng theo giá trị hình số F01 Bình quân Tổ hình dạng Giới hạn Fo1 Trị số giữa tổ 1 0,4400-0,4699 0,4500 2 0,4700-0,4999 0,4850 3 0,5000-0,5299 0,5150 4 0,5300-0,5599 0,5450 5 0,5600-0,5900 0,5750 e) Đo và tính thể tích (V) cây đứng bằng công thức hình học Thể tích cây bao gồm thể tích cây có vỏ, thể tích cây không vỏ, thể tích các loại sản phẩm Thể tích cây được tính theo công thức: V=G.H.F (8) Trong đó: G là tiết diện ngang thân cây, được tính như sau: G= ∏ D 2 (9) 4 H là chiều cao thân cây F là chỉ số hình dạng thân cây. Chỉ số F1,3 hoặc F 01 thường được sử dụng. Khi dùng chỉ số hình dạng loại nào thì phải sử dụng chỉ số D (hoặc G) tương ứng (D 1,3 và G1,3; D01 và G01). Có thể tra bảng chỉ số hình dạng một số loài cây, nhóm loài cây trong "Sổ tay Điều tra Qui Hoạch rừng", Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội 1995, Trg 118-123. Đây là trị số bình quân Fo1 của các nhóm loài cây. Khi sử dụng bảng F01để tính thể tích cho từng cây riêng lẻ sẽ mắc sai số lớn nhưng nếu tính cho hàng loạt cây đứng thì sai số chung sẽ được giảm xuống. Phương pháp xác định thể tích thân cây đứng hợp lý nhất hiện nay là dùng biểu thể tích hai nhân tố (V xác định qua D và H) hoặc hàm thể tích 2 nhân tố (V=Ψ(d,h)) sẽ được trình bày dưới đây. g) Tính thể tích cây đứng bằng biểu thể tích lập sẵn Dựa vào mối quan hệ chặt chẽ giữa thể tích với các nhân tố tạo thành thể tích như đường kính D, chiều cao H, hình số F, người ta đã lập ra các biểu thể tích khác nhau. Trong đó biểu thể tích hai hoặc ba nhân tố có thể dùng để xác định thể tích một thân cây đứng. Cũng từ mối quan hệ trên, các hàm thể tích cũng được xây dựng cho các loài cây khác nhau và đưa vào bảng biểu để tiện tra cứu khi biết các nhân tố tạo thành thể tích như D, H.  Biểu thể tích theo đường kính D Biểu thể tích theo đường kính là biểu ghi thể tích bình quân của cây gỗ theo cỡ đường kính của 1 loài cây hay nhóm loài cây. Đây là biểu đơn giản, việc tính thể tích chỉ dựa vào đường kính nên độ chính xác thấp. Hiện nay biểu này hầu như không còn được sử dụng. 29
  30.  Biểu thể tích hai nhân tố theo đường kính và chiều cao D, H Biểu thể tích 2 nhân tố là biểu ghi thể tích bình quân của thân cây gỗ ứng với từng cỡ đường kính D và chiều cao H. Thể tích của một cây được tính dựa vào mô hình tương quan V/D; H. Do có 2 nhân tố tham gia nên mô hình có độ chính xác cao hơn. Dưới đây ví dụ một số hàm lập biểu thể tích của một số loài cây tại một số vùng: Hàm lập Biểu thể tích hai nhân tố cho rừng Khộp Tây Nguyên: LnV = 0,00007 + 1,975 LnD + 0,8301LnH (10) Hàm lập Biểu thể tích cho cây Đước vùng Tây Nam Bộ: LnVcóvỏ = -7,61976 + 2,19066LnD1,3 (11) LnVkhôngvỏ = -7,69534 + 2,16434LnD1,3 (12) Tuy nhiên, dùng biểu thể tích hoặc hàm thể tích có thể bị mắc sai số tương đối lớn khi xác định thể tích một thân cây đứng cá biệt nào đó vì hình dạng của nó sai khác đáng kể với hình dạng trung bình tương ứng trong biểu hoặc hàm thể tích đó. Do vậy khi dùng biểu thể tích để tính thể tích cho một cây riêng lẻ cụ thể cần tính toán như sau: d 2 h V= vb (13) D 2 H Với : V là thể tích thực của cây. d là đường kính 1,3m đo ở cây đứng chính xác đến mm h là chiều cao thân cây D là cỡ đường kính chứa đựng d đã ghi trong biểu thể tích H là cỡ chiều cao chứa chiều cao của cây đã ghi trong biểu thể tích vb là thể tích tra ở biểu tương ứng với cỡ D và H nói trên Hiện nay đã có các biểu thể tích hai nhân tố của một số loài cây rừng trồng và rừng tự nhiên được đưa vào "Sổ tay Điều tra Qui Hoạch rừng", Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà nội, 1995, trang 123-236. Sau đây liệt kê một số biểu thể tích đã được lập, kiểm nghiệm và sử dụng: ƒ Một số biểu thể tích r ừng t ự nhiên có sẵn trong Sổ tay điều tra rừng: -Biểu thể tích theo D1,3, H cây đứng toàn quốc tổ hình dạng 1 (F01 từ 0,4400-0,4699) -Biểu thể tích theo D1,3, H cây đứng toàn quốc tổ hình dạng 2 (F01 từ 0,4700-0,4999) -Biểu thể tích theo D1,3, H cây đứng toàn quốc tổ hình dạng 3 (F01 từ 0,5000-0,5299) -Biểu thể tích theo D1,3, H cây đứng toàn quốc tổ hình dạng 4 (F01 từ 0,5300-0,5599) 30
  31. -Biểu thể tích theo D1,3, H cây đứng toàn quốc tổ hình dạng 5 (F01 từ 0,5600-0,5900) -Biểu thể tích theo D1,3, H cây đứng toàn quốc chung cho nhóm loài. -Biểu thể tích theo D1,3, H rừng khộp Tây Nguyên Biểu 4: Ví dụ biểu thể tích hai nhân tố rừng tự nhiên chung cho nhóm loài (trích): H(m) 36 38 40 42 44 46 48 50 D(cm) 28 0,997 32 1,303 1,358 36 1,649 1,719 1,789 40 2,035 2,121 2,207 2,294 Nguồn: Sổ tay điều tra quy hoạch rừng, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1995 Ví dụ khi tra thể tích cây có đừng kính 43cm (thuộc cỡ kính 44cm) và chiều cao 40m thì thể tích của cây là 2,671m3. Để chính xác hơn có thể bình sai thể tích cây trong một cỡ kính theo công thức (13) phần trên. ƒ Một số biểu thể tích rừng trồng có sẵn trong Sổ tay điều tra rừng: -Biểu thể tích theo D1,3, H rừng Bồ đề (Styrax tonkinensis) trồng vùng Trung Tâm -Biểu thể tích theo D1,3, H rừng Mỡ (Mangletia glauca) trồng vùng Trung Tâm -Biểu thể tích theo D1,3, H thân cây có vỏ Thông nhựa (Pinus merkusii) vùng Đông Bắc -Biểu thể tích theo D1,3, H Thông đuôi ngựa (Pinus masoniana) vùng Đông Bắc -Biểu thể tích theo D1,3, H Thông ba lá (Pinus kessiya) -Biểu thể tích cây Đước vùng Tây Nam Bộ -Biểu thể tích rừng trồng Bạch đàn đỏ vùng Trung tâm. -Biểu thể tích rừng trồng Bạch đàn trắng vùng Trung tâm -Biểu thể tích rừng trồng Keo lá to (Acacia mangium) vùng Trung tâm -Biểu thể tích Thông Ca-ri-bê (Pinus caribeae varhondurensis) 31
  32. Biểu 5: Ví dụ biểu thể tích hai nhân tố rừng trồng Bồ đề vùng Trung Tâm (trích) D 2 4 6 (cm) H(m) 2,0 0,00038 0,00138 2,5 0,00048 0,00180 3,0 0,00058 0,00210 0,0046 3,5 0,00069 0,0025 0,0054 4,0 0,00079 0,0029 0,0062 4,5 0,0033 0,0070 Nguồn: Sổ tay điều tra quy hoạch rừng, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1995 Theo biểu trên, khi tra thể tích cây Bồ đề có đường kính 6cm, chiều cao 5m thì thể tích là 0,0079m3 Ngoài ra còn nhiều biểu thể tích và hàm thể tích của các loài cây khác đã được lập và công bố trong các ấn phẩm khác và các báo cáo nghiên cứu, các luận văn của các nghiên cứu sinh mà chưa đề cập ở đây. h) Đo và tính thể tích vỏ cây Thể tích thân cây đứng thường tính cả vỏ, trong khi thể tích gỗ sản phẩm lại không tính phần vỏ của cây. Đối với một số loài cây, sản phẩm vỏ lại rất quan trọng như Quế, Bời lời Đo và tính vỏ cây nhằm xác định thể tích phần vỏ, chuyển đổi kích thước cây có vỏ sang kích thước cây không vỏ. Để đo tính vỏ cây, trước hết cần đo chiều dày của vỏ. Chiều dày vỏ sẽ giảm dần từ gốc đến ngọn. Thường người ta đo chiều dày vỏ cây đứng ở vị trí ngang ngực. Dụng cụ đo vỏ có thể là khoan đo vỏ hoặc dùng thước để đo sau khi đã chặt ra một mảnh vỏ cây. Giữa bề dày vỏ với đường kính D1,3 hoặc giữa đường kính có vỏ và đường kính không vỏ có mối quan hệ mật thiết theo dạng phương trình tuyến tính. Từ phương trình tuyến tính lập sẵn, có thể qui đổi từ đường kính có vỏ sang đường kính không vỏ cho các cây đứng. Từ đường kính cây có vỏ và đường kính không vỏ, có thể tính thể tích (hoặc tra bảng lập sẵn trong Sổ tay Điều Tra Qui hoạch rừng) để biết thể tích cây có vỏ và không vỏ, từ đó tính ra tỷ suất vỏ làm cơ sở qui đổi từ thể tích cây có vỏ sang thể tích không vỏ. i) Đo tính tăng trưởng của cây 32
  33. Tăng trưởng là số lượng biến đổi được của một nhân tố điều tra nào đó của cây rừng trong một đơn vị thời gian. Mục đích của đo và tính tăng trưởng của cây là nhằm xác định tốc độ sinh trưởng, từ đó có thể dự đoán sản lượng và năng suất của rừng phục vụ cho các mục đích khác nhau trong kinh doanh rừng. Phương pháp xác định tăng trưởng của cây trước hết phải dựa vào tuổi cây. Để xác định tuổi cây rừng trồng phải căn cứ vào hồ sơ của lâm phần rừng trồng đó. Để xác định tuổi của các cây rừng tự nhiên, thường sử dụng phương pháp giải tích thân cây hoặc sử dụng khoan tăng trưởng khoan vào phần gốc thân cây để đếm số vòng năm. Ngoài ra có thể dựa vào kết quả đo D1,3 ở 3 định kỳ liên tục để suy luận và ước lượng tuổi dựa vào sự thay đổi tốc độ tăng trưởng đường kính. Một số loài cây có thể ước lượng tuổi cây dựa vào số vòng cành (thông thường mỗi năm có một vòng cành). Tuy nhiên phương pháp này cho độ chính xác thấp. Ngoài tuổi cây, để tính tăng trưởng cho nhân tố nào phải đo đếm nhân tố đó ở các tuổi hoặc giai đoạn tuổi khác nhau. Để làm việc đó, có thể theo dõi và đo lặp nhiều năm trên một cây, hoặc đo các cây ở các tuổi khác nhau hoặc giải tích thân cây để đếm vòng năm và đo các nhân tố đường kính, chiều cao qua các năm sinh trưởng của cây. Phương pháp xác định tăng trưởng trên cây ngả: Tiến hành giải tích cây để đo đếm tuổi, D, H ở các vị trí khác nhau trên thân cây theo các phân đoạn để tính toán tăng trưởng Phương pháp xác định tăng trưởng trên cây đứng: Dùng phương pháp khoan tăng trưởng hoặc đẽo vát vào thân cây để xác định số vòng năm và tăng trưởng đường kính. Ngoài ra có thể đo lặp nhiều năm trên một cây để tính toán tăng trưởng. Có một số loại tăng trưởng thường phải xác định, bao gồm: Tăng trưởng thường xuyên hàng năm: là lượng biến đổi của nhân tố điều tra trong một năm. Công thức để tính tăng trưởng thường xuyên hàng năm: Zt = T(a) -T(a-1) (14) Với T(a) là nhân tố điều tra tại (a) năm. T(a-1) là nhân tố điều tra tại ( a-1) năm. Tăng trưởng thường xuyên định kỳ là lượng biến đổi của nhân tố điều tra trong một định kỳ n năm. Công thức để tính lượng tăng trưởng thường xuyên định kỳ là: Znt = T(a) -T(a-n) (15) Trong đó, T(a) là nhân tố điều tra tại (a) năm; T(a-n) là nhân tố điều tra tại ( a-n) năm. Tăng trưởng bình quân định kỳ là số lượng biến đổi của nhân tố điều tra tính bình quân cho 01 năm trong một định kỳ (n) năm. Công thức tính lượng tăng trưởng bình quân T (a) − T(a − n) Znt định kỳ: Δnt = = (16) n n Tăng trưởng bình quân chung là số lượng biến đổi được của nhân tố điều tra tính bình quân 01 năm trong suốt thời kỳ sinh trưởng của cây rừng (a) năm. Công thức tính lượng tăng trưởng bình quân chung: 33
  34. T(a) Δt = (17) a Dưới đây là ví dụ kết quả tính tăng trưởng bình quân của một số loài cây rừng tự nhiên vùng Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ. Khi tính tăng trưởng cho một loài cây ở giai đoạn tuổi cụ thể sẽ có kết quả khác biệt với số liệu trong biểu. Biểu 6. Tăng trưởng bình quân một số loài cây rừng tự nhiên vùng Tây Nguyên Lượng tăng trưởng bình quân chung (Δ) TT Loài cây Tuổi tính (a) ΔD1,3 ΔH ΔV (cm/năm) (m/năm) (m3/năm) 1 Thông nàng 140 0,43 0,34 0,0145 2 Vối thuốc 121 0,42 0,39 0,0129 3 Giổi 146 0,52 0,35 0,0182 4 Hoàng đàn giả 90 0,55 0,42 0,0151 5 Xoay 145 0,42 0,27 0,0142 6 Trâm 141 0,42 0,30 0,0115 7 Hoa Khế 118 0,43 0,36 0,0112 8 Sồi vàng 70 0,82 0,59 0,0237 9 Re 150 0,51 0,33 0,0176 10 Giẻ 86 0,67 0,43 0,0196 11 Cóc đá 150 0,33 0,21 0,0075 12 Chò đen 120 0,52 0,33 0,0146 13 Kiền kiền 100 0,43 0,38 0,0098 14 Phay vi 80 0,72 0,47 0,0178 15 Cồng 110 0,35 0,28 0,0055 16 Săng mây 50 0,58 0,41 0,0142 17 Gội tía 50 0,62 0,52 0,0143 18 Lát xoan 60 0,69 0,54 0,0204 19 Thạch đảm 90 0,51 0,39 0,0117 20 gộp các loài(* ) 100 0,44 0,33 0,0108 Nguồn: Viện ĐTQH rừng, 1998 (*) Các loài gộp gồm Nhựa, Lòng mang, Sến đất, Ươi, Họ chè, Kháo, Gụ lau, Nhọc. Biểu 7. Tăng trưởng bình quân một số loài cây rừng tự nhiên vùng Bắc Trung Bộ Tuổi tính Lượng tăng trưởng bình quân chung (Δ) TT Loài cây (a) ΔD1,3 ΔH ΔV (cm/năm) (m/năm) (m3/năm) 1 Co lô na 40 1,53 1,07 0,0550 2 Cà ổi Ấn độ 80 0,73 0,63 0,0190 3 Chẹo 45 0,80 0,77 0,0202 4 Chò Chỉ 120 0,47 0,34 0,0177 5 Cứt ngựa 60 0,90 0,84 0,0367 6 Gội 64 0,50 0,47 0,0096 7 Giổi 96 0,71 0,52 0,0216 8 Giẻ 97 0,54 0,44 0,0147 9 Kiền kiền 103 0,47 0,35 0,0113 10 Lim xanh 180 0,43 0,32 0,0116 11 Mỡ 50 1,08 0,75 0,0290 34
  35. Tuổi tính Lượng tăng trưởng bình quân chung (Δ) TT Loài cây (a) ΔD1,3 ΔH ΔV (cm/năm) (m/năm) (m3/năm) 12 Ngát 50 0,74 0,58 0,0140 13 Ràng ràng mít 50 1,01 0,87 0,0303 14 Re 70 0,50 0,45 0,0111 15 Săng lẻ 90 0,47 0,29 0,0089 16 Sụ 60 0,85 0,57 0,0184 17 Táu mật 167 0,37 0,25 0,0105 18 Táu muối 177 0,36 0,26 0,0106 19 Trám 140 0,52 0,37 0,0125 20 Trường 80 0,52 0,44 0,0124 21 Vạng trứng 40 1,42 1,05 0,0614 22 Vên vên 170 0,25 0,15 0,0058 23 Huỷnh 140 0,42 0,21 0,0096 24 Gụ 160 0,33 0,21 0,0076 25 Nhọc 85 0,49 0,39 0,0085 26 Chân chim 60 0,58 0,59 0,0121 27 Trâm tía 50 0,55 0,64 0,0162 28 Xoan đào 50 1,01 0,74 0,0198 29 Lim xẹt 52 0,68 0,63 0,0127 30 14 loài gộp(*) 60 0,64 0,60 0,0192 Nguồn: Viện ĐTQH rừng, 2000 (*) 14 loài gộp bao gồm Ba bét, Bưởi bung, Bời lời, Chua khế, Dền, Dung, Hà nu, Hoa thơm, Côm, Lòng mang, Mò sữa, Sau sau. Suất tăng trưởng là tỷ số phần trăm giữa tăng trưởng thường xuyên hàng năm và tổng tăng trưởng thường xuyên hàng năm của một nhân tố điều tra. Công thức tính suất tăng trưởng như sau: Zt Pt = .100 (18) T (a) Thông qua đo và tính tăng trưởng các cây riêng lẻ, có thể mô hình hóa quá trình sinh trưởng của các loài cây theo các vùng sinh thái khác nhau. Qua đó có thể dự đoán được sinh trưởng và năng suất của rừng phục vụ cho công tác kinh doanh rừng. Chi tiết nội dung này đã được đề cập chi tiết hơn ở Chương “Tăng trưởng rừng”. 3. Điều tra tính toán kích thước cây bị mất Trong thực tế sản xuất, nhiều khi cần tính kích thước một số cây rừng đã bị chặt trước chỉ còn lại gốc (ví dụ đánh giá trữ lượng gỗ bị khai thác trái phép và đã chuyển ra khỏi lâm phần ), có thể sử dụng quan hệ giữa đường kính vị trí 1,3m (D1,3)và đường kính gốc (Do) để tính toán. -Lập quan hệ D1,3 = a+b*Do để tìm D1,3 và LnH = a+bLnDo để tìm H của đối tượng cần điều tra. Các mối quan hệ này thường đã được tính trước trong Sổ tay điều tra qui hoạch rừng và trong các nghiên cứu riêng lẻ khác. 35
  36. -Đo đường kính gốc cây còn lại (Do) và dựa vào phương trình quan hệ với D1,3 để tính D1,3 -Dựa vào phương trình quan hệ H-D1,3 để tính chiều cao cây (H) Ví dụ phương trình quan hệ giữa Do với D1,3 và H của loài Lim xanh: D1,3= 8,8728 + 0,4988Do (19) H= -25,0070 +13,9261LnDo (20) Sau khi đã tính được D1,3; H của cây bị mất, tra bảng thể tích hai nhân tố của loài cây tương ứng trong sổ tay điều tra để biết được thể tích cây bị mất. Phần 6. Các Hệ Thống Điều Tra Rừng Áp Dụng Ở Việt Nam 1. Điều tra rừng cục bộ 1.1. Mục đích chung của công tác điều tra rừng cục bộ Điều tra rừng cục bộ được áp dụng ở cấp xã, làng bản, dự án, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu đầu nguồn nhằm (1) phục vụ mục tiêu nghiên cứu khoa học, hoặc thiết kế sản xuất kinh doanh rừng; (2) thiết lập hồ sơ quản lý rừng có ranh giới rõ ràng và ổn định trên thực địa; (3) cung cấp các căn cứ chủ yếu cho việc lập kế hoạch 10 năm, 5 năm và hàng năm tại địa phương và (4) phục vụ các dự án. 1.2. Mức độ điều tra thiết kế Việc điều tra rừng cục bộ được tiến hành theo hai mức độ sau đây: Mức độ1: áp dụng cho những tiểu khu rừng chưa có điều kiện để tổ chức sản xuất kinh doanh trong thời kỳ đầu (5 hoặc 10 năm đầu). Đối với những tiểu khu này, chỉ điều tra khái quát để lập hồ sơ quản lý rừng Mức độ 2: áp dụng cho những tiểu khu có đủ điều kiện để tổ chức sản xuất trong thời kỳ đầu và những tiểu khu đang được quản lý bảo vệ chuyển sang thời kỳ sản xuất kinh doanh. Sau 10 năm hoặc 5 năm tuỳ theo yêu cầu cụ thể sẽ điều tra lại một lần. 1.3. Bản đồ Trong công tác điều tra rừng cục bộ, người ta sử dụng bản đồ địa hình có tỷ lệ tối thiểu là 1/25.000. Những nơi chưa có các loại bản đồ 1/25.000, tạm thời sử dụng bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000 nhưng phải tiến hành đo đạc bổ sung đầy đủ chi tiết địa hình, địa vật làm căn cứ cho việc phân chia hệ thống đường ranh giới tới phân khoảnh. Bản đồ ngoại nghiệp điều tra cục bộ cho từng khoảnh hoặc nhóm khoảnh có tỷ lệ 1/10.000 được phóng từ các bản đồ trên hoặc dùng bản đồ gốc tỷ lệ 1/10.000 sẵn có. 1.4. Phân chia ranh giới đối tượng điều tra Đối tượng điều tra rừng được phân chia theo đơn vị hành chính đến xã. Mỗi xã lại được chia ra các tiểu khu; Mỗi tiểu khu lại chia làm nhiều khoảnh; Mỗi khoảnh lại chia thành các phân khoảnh; Mỗi khoảnh hoặc phân khoảnh lại chia thành các lô. Các đơn vị tiểu khu, 36