Lâm nghiệp - Chứng chỉ rừng
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lâm nghiệp - Chứng chỉ rừng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- lam_nghiep_chung_chi_rung.pdf
Nội dung text: Lâm nghiệp - Chứng chỉ rừng
- BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGÀNH LÂM NGHIỆP & ĐỐI TÁC CẨM NANG NGÀNH LÂM NGHIỆP Chương CHỨNG CHỈ RỪNG TS. Phạm Hoài Ðức KS. Lê Công Uẩn GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung KS. Phạm Minh Thoa NĂM 2006 1
- Những cụm từ viết tắt 5 1. Giới thiệu 8 1.1. Định nghĩa chứng chỉ rừng 8 1.2. Tại sao cần chứng chỉ rừng 8 1.3. Vai trò bổ sung chính sách của chứng chỉ rừng 9 1.4. Chứng chỉ rừng làm cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng 13 2. Tổng quan chứng chỉ rừng thế giới 14 2.1. Châu Âu 14 2.2. Bắc Mỹ 14 2.3. Nam Mỹ 15 2.4. Châu Á - Thái Bình Dương 15 2.5. Châu Phi 15 2.6. Phân tích chứng chỉ rừng ở các châu lục 19 3. Những hoạt động chứng chỉ rừng ở Việt Nam 20 3.1. Tổ công tác quốc gia quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng 20 3.2. Xây dựng Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam 21 3.3. Khảo nghiệm tiêu chuẩn và đánh giá quản lý rừng 22 3.4. Các chương trình dự án chứng chỉ rừng đang thực hiện 23 3.5. Những vấn đề của tương lai 24 4. Khuyến khích phát triển chứng chỉ rừng 25 4.1. Khuôn khổ chính sách 25 4.2. Hệ thống tổ chức 26 4.3. Tạo điều kiện thuận lợi 26 4.3.1. Hỗ trợ chủ rừng thực hiện tiêu chuẩn 26 4.3.2. Phê duyệt Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam 27 4.4. Tăng cường hiểu biết 28 4.5. Đào tạo và nâng cao năng lực 28 4.6. Hệ thống thông tin 29 5. Các quy trình chứng chỉ rừng trên thế giới 29 5.1. Loại quy trình 29 5.2. Sở hữu và điều hành quy trình 30 5.3. Tiêu chuẩn của quy trình 30 5.4. Cách tiếp cận 32 5.5. Những yêu cầu cần thực hiện 33 2
- 5.6. Chính sách uỷ quyền 34 5.6.1. Uỷ quyền cho các tổ chức chứng chỉ 34 5.6.2. Uỷ quyền cho các tiêu chuẩn quốc gia 35 6. Thực hiện tiêu chuẩn chứng chỉ rừng 35 6.1. Chọn quy trình chứng chỉ 35 6.2. Tiêu chí lựa chọn 36 6.3. Thực hiện tiêu chuẩn 36 6.3.1 Hiểu biết tiêu chuẩn 37 6.3.2. Xác định khiếm khuyết quản lý rừng so với tiêu chuẩn 37 6.4. Lập kế hoạch khắc phục khiếm khuyết 39 6.4.1. Xác định những việc cần làm 39 6.4.2. Kế hoạch thời gian 39 6.4.3. Người chịu trách nhiệm thực hiện, kinh phí, vật tư 40 6.5. Thực hiện kế hoạch 40 6.6. Giám sát đánh giá 40 7. Quá trình chứng chỉ rừng 41 7.1. Gửi đơn xin chứng chỉ 42 7.2. Chọn tổ chức chứng chỉ 42 7.3. Đánh giá sơ bộ 43 7.4. Khắc phục tồn tại, khiếm khuyết 44 7.5. Tham khảo ý kiến cổ đông 44 7.6. Đánh giá chính 45 7.7. Thực hiện các yêu cầu sửa chữa 47 7.8. Báo cáo và phản biện báo cáo 47 7.9. Cấp chứng chỉ 48 7.10. Giám sát sau chứng chỉ 48 7.11. Giải pháp chứng chỉ theo giai đoạn 48 8. Mặt kinh tế của chứng chỉ rừng 51 8.1. Các tác động của chứng chỉ rừng 51 8.2. Lợi ích thực tế và tiềm năng 53 8.3. Giá thành chứng chỉ rừng 54 8.4. Chứng chỉ rừng theo nhóm để giảm giá thành 54 8.4.1. Thành lập nhóm 55 8.4.2. Những yêu cầu đối với nhóm chứng chỉ rừng 56 8.4.3. Kết nạp, xin ra và khai trừ khỏi nhóm 56 3
- 8.4.5. Tham khảo ý kiến 58 8.4.6. Giám sát đánh giá 58 8.4.7. Lập và lưu giữ thông tin tư liệu 59 9. Chuỗi hành trình sản phẩm 59 9.1. Những dạng chuỗi hành trình 62 9.2. Thực hiện chuỗi hành trình sản phẩm 64 9.2.1. Đào tạo tập huấn 64 9.2.2. Xây dựng hệ thống quản lý bằng văn bản 65 9.2.3. Các hợp phần của một chuỗi hành trình 66 9.2.4. Giám sát việc mua bán, sản xuất và bán hàng 68 9.3. Kiểm tra nội bộ 72 9.3.1. Xác định các khâu quan trọng cần kiểm tra 72 9.3.2. Quản lý kiểm tra các khâu quan trọng 72 9.3.3. Xây dựng hệ thống kiểm tra 73 9.4. Ví dụ về thực hiện chuỗi hành trình của một xưởng xẻ 74 10. Chứng chỉ chuỗi hành trình và đăng ký nhãn 77 10.1. Chuẩn bị và chọn tổ chức chứng chỉ 77 10.2. Tổ chức chứng chỉ khảo sát đánh giá 78 10.3. Kết quả đánh giá và những yêu cầu sửa chữa 79 10.4. Cấp chứng chỉ, giám sát và đăng ký nhãn sản phẩm 80 Phụ lục 1 86 Phụ lục 2 90 Phụ lục 3 92 Phụ lục 4 93 Tài liệu tham khảo 110 4
- Những cụm từ viết tắt AF&PA American Forest & Paper Association - Hiệp hội lâm nghiệp và giấy Mỹ ASEAN Association of Southeast Asian Nations - Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á ASOF ASEAN Senior Officials on Forest - Các chuyên gia cao cấp lâm nghiệp ASEAN BNN & PTNT Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn CCKL Chi cục kiểm lâm CCLN Chi cục lâm nghiệp CCR Chứng chỉ rừng CEPI Confederation of European Paper Industries - Liên đoàn công nghiệp giấy Châu Âu CIFOR Centre for International Forestry Research -Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế CKL Cục kiểm lâm CLN Cục lâm nghiệp C&I Criteria & Indicators - Tiêu chí và chỉ số CoC Chain of Custody - Chuỗi hành trình sản phẩm CSA Canadian Standards Association - Hội Tiêu Chuẩn Canada ĐXCC Đơn xin chứng chỉ ĐVQLR Đơn vị quản lý rừng EU European Union - Liên minh Châu Âu FAO United Nations Food and Agriculture Organization - Tổ chức lương nông của Liên Hợp Quốc FSC The Forest Stewardship Council - Hội đồng quản trị rừng quốc tế FSC P&C FSC Principles & Criteria - Bộ tiêu chuẩn quản lý rừng của Hội đồng quản trị rừng quốc tế FSSP Forest Sector Support Partnership - Chương trình Hỗ trợ ngành lâm nghiệp 5
- GEF Global Environment Facilities - Quỹ môi trường toàn cầu GIS Geographical Information Systems - Hệ thống thông tin địa lý GFTN Global Forest and Trade Network - Mạng lưới rừng và thương mại toàn cầu GTZ Deutsche Gesellschaft fur Technische Zusammenarbeit - Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức Ha Hectare - Héc ta IFF Intergovernmental Forum on Forests - Diễn đàn liên chính phủ về rừng ILO International Labour Organization/Office - Tổ chức lao động quốc tế ISO International Organization for Standardization - Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ITTO International Tropical Timber Organization - Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế IUCN World Conservation Union - Liên minh bảo tồn quốc tế IUFRO International Union of Forest Research Organization - Liên đoàn quốc tế các tổ chức nghiên cứu rừng KHQLR Kế hoạch quản lý rừng KNTC Khiếu nại tranh chấp KTĐG Kiểm tra đánh giá LEI Lembaga Ecolabel Indonesia - Viện nhãn sinh thái Indonexia LNCĐ Lâm nghiệp cộng đồng LTQD Lâm trường quốc doanh MTCC Malaysian Timber Certification Council - Hội đồng chứng chỉ gỗ Mã Lai NGO Non-governmental organization - Tổ chức phi chính phủ NWG National Working Group (on QLRBV) - Tổ công tác quốc gia quản lý rừng bền vững và CCR PEFC Programme for the Endorsement of Forest Certification Schemes - Chương trình phê duyệt các quy trình chứng chỉ rừng 6
- P&C&I VN Vietnam Principles & Criteria & Indicators - Bô tiêu chuẩn FSC Việt Nam QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất QLRBV Quản lý rừng bền vững RBTC Rừng có giá trị bảo tồn cao SCS Scientific Certification Systems - Hệ thống chứng chỉ khoa học SFI Sustainable Forestry Initiative - Sáng kiến lâm nghiệp bền vững Bắc Mỹ SFR Sản phẩm rừng SGS Société Général de Surveillance - Tổ chức chứng chỉ QUALIFOR Nam Phi SNN Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn TCCC Tổ chức chứng chỉ TCQG Tiêu chuẩn quốc gia TFT Tropical Forest Trust - Quỹ Rừng nhiệt đới TP. HCM Thành phố Hồ Chí Minh UBND Uỷ ban nhân dân UNCED United Nations Conference on Environment and Development - Công ước Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển UNDP United Nations Development Programme - Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc UNEF United Nations Environment Programme - Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc USD Đô la Mỹ VIFA Vietnam Forest Science and Technology Association - Hội Khoa học kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam WB World Bank – Ngân Hàng Thế Giới WTO World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới WWF World Wide Fund for Nature - Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên 7
- 1. Giới thiệu Năm 1992 lần đầu tiên Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) đề ra những tiêu chí cho quản lý bền vững rừng nhiệt đới. Những năm sau đó vấn đề quản lý rừng bền vững được quan tâm và thảo luận ở nhiều diễn đàn trên khắp thế giới, dẫn đến việc thành lập một loạt các tổ chức quốc tế và quốc gia khuyến khích quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng như Hội tiêu chuẩn Canada (CSA,1993, quốc gia), Hội đồng quản trị rừng (FSC, 1994, quốc tế), Sáng kiến lâm nghiệp bền vững (SFI, 1994, Bắc Mỹ), Tổ chức nhãn sinh thái Indonesia (LEI, 1998, quốc gia), Hội đồng chứng chỉ gỗ Malaysia (MTCC, 1998, quốc gia), Chứng chỉ rừng Chi lê (CertforChile 1999, quốc gia), và Chương trình phê duyệt các quy trình chứng chỉ rừng (PEFC, 1999, Châu Âu). Chỉ tính từ 1994 đến 2005 trên thế giới đã có trên 300 triệu ha rừng được các quy trình cấp chứng chỉ 1.1. Định nghĩa chứng chỉ rừng Theo ISO (1991) chứng chỉ là sự cấp giấy xác nhận một sản phẩm, một quá trình hay một dịch vụ đã đáp ứng các yêu cầu nhất định. Chứng chỉ rừng có đối tượng chứng chỉ là chất lượng quản lý rừng. Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng đều bao hàm hai nội dung cơ bản là a) đánh giá độc lập chất lượng quản lý rừng theo một bộ tiêu chuẩn quy định, và b) cấp giấy chứng chỉ có thời hạn. Chứng chỉ rừng là sự xác nhận bằng giấy chứng chỉ rằng đơn vị quản lý rừng được chứng chỉ đã đạt những tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững do tổ chức chứng chỉ hoặc được uỷ quyền chứng chỉ quy định. Nói cách khác, chứng chỉ rừng là quá trình đánh giá quản lý rừng để xác nhận rằng chủ rừng đã đạt các yêu cầu về quản lý rừng bền vững. Ba thành phần có vai trò trong việc chứng chỉ rừng: a) Người chứng chỉ: là một tổ chức thứ ba, trung gian, hoàn toàn độc lập. b) Người có lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp từ rừng như Chính phủ, chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư, các tổ chức môi trường, xã hội v.v. gọi chung là các cổ đông. c) Người được chứng chỉ, gồm các lâm trường, công ty hay doanh nghiệp lâm nghiệp, chủ rừng cộng đồng hoặc cá thể. Một trong những động lực quan trọng của chứng chỉ rừng là thâm nhập thị trường tiêu thụ sản phẩm rừng đòi hỏi có chứng chỉ, vì vậy chứng chỉ rừng thường gắn với chứng chỉ chuỗi hành trình (CoC) - xác nhận sản phẩm có nguồn gốc từ rừng được chứng chỉ. 1.2. Tại sao cần chứng chỉ rừng Ngày nay toàn thế giới ngày càng quan tâm đến tình trạng diện tích và chất lượng rừng ngày một suy giảm, ảnh hưởng lớn đến môi trường sống và khả năng cung cấp sản phẩm rừng cho phát triển bền vững cũng như nhu cầu hàng ngày của người dân. Vấn đề cần được giải quyết là làm thế nào quản lý kinh doanh rừng phải vừa đảm bảo tốt lợi ích kinh tế, vừa đem lại lợi ích thiết thực cho các cộng đồng dân cư sống trong rừng, vừa không gây tác động xấu đến môi trường sống, tức là thực hiện được quản lý rừng bền vững (QLRBV, xem Mục 3). Chứng chỉ rừng là cần thiết vì: - Cộng đồng quốc tế, chính phủ, các cơ quan chính phủ, các tổ chức môi trường, xã hội v.v. đòi hỏi các chủ sản xuất kinh doanh rừng phải chứng minh rằng rừng của họ đã được quản lý bền vững. - Người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi các sản phẩm lưu thông trên thị trường phải được khai thác từ rừng đã được quản lý bền vững. 8
- - Người sản xuất muốn chứng minh rằng các sản phẩm rừng của mình, đặc biệt là gỗ, được khai thác từ rừng được quản lý một cách bền vững. Chứng chỉ rừng cần thiết để xác nhận QLRBV của chủ rừng, cũng như chứng chỉ ISO để xác nhận quản lý chất lượng sản xuất công nghiệp. Ngay từ thập kỷ 1990 ITTO đã đề ra mục tiêu đến năm 2000 tất cả các sản phẩm rừng của nhóm các nước sản xuất thành viên phải có nguồn gốc từ rừng được quản lý bền vững. Năm 1998 Liên kết WB -WWF đề ra mục tiêu đến năm 2005 toàn thế giới có 200 triệu ha rừng, gồm 100 triệu ha rừng nhiệt đới và 100 triệu ha rừng ôn đới, được chứng chỉ. Tính đến nay (11/2005), diện tích rừng được chứng chỉ bởi các quy trình chủ yếu trên toàn thế giới là 341,95 triệu ha. Như vậy là tổng số diện tích rừng được chứng chỉ đã vượt chỉ tiêu của Liên kết WB - WWF, nhưng diện tích rừng nhiệt đới được chứng chỉ còn rất nhỏ bé, còn rất xa so với mục tiêu. 1.3. Vai trò bổ sung chính sách của chứng chỉ rừng Quản lý rừng thường chịu các tác động của: - Luật pháp và chính sách về lâm nghiệp thông qua các quyết định, nghị định, thông tư, chỉ thị, hướng dẫn v.v. của nhà nước và các hiệp định, công ước quốc tế, gọi chung là những công cụ cứng. - Cơ chế thị trường, các hình thức khuyến khích vật chất, tuyên truyền vận động, khen thưởng v.v., gọi chung là những công cụ mềm. Chứng chỉ rừng, bao gồm cả gắn nhãn sản phẩm, dựa vào động lực thị trường là một công cụ mềm có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý rừng (xem mục 1.4). Chính sách lâm nghiệp được xây dựng trên cơ sở mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội và những cam kết quốc tế của mỗi quốc gia. Hiện nay chính sách lâm nghiệp của Việt Nam cũng như của các nước khác trên thế giới đều nhằm đạt 3 mục tiêu: - Bảo vệ và phát triển diện tích và chất lượng rừng và bảo tồn đa dạng sinh học, chống suy thoái môi trường sống. - Duy trì và phát triển nguồn cung cấp sản phẩm rừng cho phát triển kinh tế và đáp ứng nhu cầu hàng ngày của nhân dân. - Giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo ở các nước kém phát triển.v.v. 9
- Cam kết Chính sách Mục tiêu quốc tế lâm nghiệp phát triển Phong trào Quản lý môi trường rừng Thị trường SFR Hình 1. Các nhân tố tác động vào quản lý rừng Thực tế là nhiều nước đã xây dựng được chính sách lâm nghiệp tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh, nhưng lại không thành công trong việc thực thi các chính sách ấy, chủ yếu do chưa có những công cụ động lực và kiểm tra đánh giá có hiệu quả. Hình thức truyền thống kiểm tra giám sát việc thực thi luật pháp và chính sách chỉ dựa vào các công cụ hành chính như báo cáo, tổng kết, thanh tra.v.v đã tỏ ra kém hiệu quả, nhất là ở các nước có nạn tham nhũng lan tràn, tình trạng “làm láo báo cáo hay” là phổ biến, hối lộ thanh tra v.v khiến Nhà nước không thể đánh giá được thực trạng tình hình thực thi pháp luật về quản lý rừng. Chứng chỉ rừng đã tỏ ra là một công cụ hữu hiệu khắc phục được tình trạng trên. Đối tượng của chứng chỉ rừng là xác nhận QLRBV, trong đó đã bao hàm tất cả các nội dung cơ bản của chính sách lâm nghiệp như đã nêu. Như vậy chứng chỉ rừng là công cụ hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách xây dựng QLRBV, giúp cho các cơ quan Nhà nước kiểm tra việc thực thi các chính sách và pháp luật lâm nghiệp ngay ở cấp hiện trường. Các chủ rừng càng tích cực phấn đấu đạt được chứng chỉ rừng thì Nhà nước càng nhanh đạt được mục tiêu QLRBV. Vị trí của CCR trong hệ thống chính sách lâm nghiệp và bảo vệ tài nguyên rừng được minh hoạ ở Hình 1. Có thể thấy CCR không thể thay thế cho luật pháp và chính sách lâm nghiệp, nhưng là một công cụ rất hiệu quả để thúc đẩy quản lý rừng có trách nhiệm. Bảng 1 dưới đây so sánh lợi thế và yếu điểm của các công cụ khác nhau đối với quản lý rừng. 10
- Bảng 1. So sánh các công cụ quản lý rừng Công cụ Lợi thế Yếu điểm Các công cụ cứng Luật pháp và • Có tính chất bắt buộc dựa • Thường có tính chất chủ chính sách lâm vào hệ thống quyền lực. quan, áp đặt. nghiệp • Có thể huy động những • Có thể xung đột với quyền nguồn lực quốc gia để thực lợi địa phương và cộng hiện đồng. • Được áp dụng ở quy mô • Sự phục tùng bị động. lớn • Khó có thể được điều • Có hệ thống các cơ sở chỉnh, sửa đổi. thực thi rộng khắp • Phương pháp tiếp cận có các bên tham gia bị hạn chế. Các chương • Được ưu tiên cao trong • Thiếu tính chất ràng buộc trình, dự án quốc nước và ngoài nước bởi luật pháp gia và quốc tế • Có cơ sở kỹ thuật tốt để • Phụ thuộc vào nhiều yếu thực thi tố khách quan bên ngoài • Có sự tham gia của các • Khó kiểm soát, giám sát chuyên gia giỏi. • Đòi hỏi nhiều kinh phí, • Được sự tham gia của nguồn lực chính quyền các cấp và cộng đồng Các hiệp định, • Có tính chất pháp lý cao • Phụ thuộc nhiều vào khả công ước quốc tế năng và tiềm lực của mỗi • Mục tiêu rõ ràng, có tính quốc gia chiến lược • Có thể bị giải thích khác • Phạm vi áp dụng rộng nhau • Được sự hỗ trợ, hợp tác • Dễ bị tác động bởi các quốc tế nhân tố như thay đổi chính trị, chiến tranh, thiên tai v.v. • Khó kiểm tra, đánh giá 11
- Các công cụ mềm Chứng chỉ rừng • Có động lực manh mẽ của • Thiếu tính ràng buộc bằng thị trường tiêu thụ sản pháp luật phẩm rừng • Phụ thuộc áp lực thị • Phương pháp tiếp cận trường đồng thuận nhiều bên • Phụ thuộc nhiều vào nhận • Có tính chủ động, tự thức của các bên nguyện nên dễ được chấp • Bị hạn chế bởi năng lực và nhận nguồn lực • Công nhận quốc tế là một • Tốn tiền cho chứng chỉ lợi thế lớn • Sản phẩm chứng chỉ có thể được giá cao hơn trên thị trường Các hình thức • Thực hiện tự nguyện, dễ • Phụ thuộc nhiều vào tự khuyến khích chấp nhận giác của chủ rừng, khó (miễn trừ thuế, đánh giá, kiểm tra • Hình thức linh hoạt, dễ khen, thưởng, điều chỉnh • Khó duy trì lâu dài, liên đầu tư v.v) tục • Ít tốn kém Các phong trào • Nhiều người tham gia tự • Các bên không bị ràng xã hội, quần nguyện buộc, khả năng thực hiện chúng, phi chính kém • Năng động, linh hoạt cao phủ.v.v • Khó kết hợp với các công • Có thể ảnh hưởng đến cụ khác chính sách • Phạm vi tác động thường • Định hướng mạnh về môi hẹp trường • Thiếu động lực mạnh Đối với những nước có nền lâm nghiệp chủ yếu là quốc doanh như Việt Nam thì chính phủ vừa đóng vai trò tạo điều kiện cho CCR vừa là đối tượng tác động của CCR. Các chủ rừng lớn đều là các lâm trường hoặc công ty lâm nghiệp quốc doanh và CCR trước hết nhằm vào các đối tượng này, vì vậy nếu chính phủ không “bật đèn xanh” thì CCR sẽ không thể phát triển. Chính phủ có vai trò đặc biệt quan trọng về các mặt sau đây: - Ban hành các chính sách phù hợp để chủ rừng có thể thực hiện tiêu chuẩn. - Hỗ trợ kỹ thuật và kinh phí cho cải thiện quản lý rừng, nhất là việc xây dựng kế hoạch quản lý dài hạn theo yêu cầu của tiêu chuẩn. - Tăng cường truyền thông nâng cao hiểu biết về QLRBV và CCR. 12
- - Tạo điều kiện xâm nhập thị trường gỗ quốc tế yêu cầu chứng chỉ. - Hỗ trợ nâng cao năng lực cho Tổ công tác quốc gia trong việc xây dựng bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam và các hoạt động khuyến khích CCR. Vai trò của chính phủ trong việc khuyến khích QLRBV và CCR sẽ được thảo luận kỹ ở mục 4. 1.4. Chứng chỉ rừng làm cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng Các sản phẩm rừng, đặc biệt là gỗ, tiêu thụ trên thị trường có thể được sản xuất ra một cách an toàn đối với môi trường như không làm mất rừng hay suy giảm chất lượng rừng, hoặc ngược lại, một cách không an toàn, tức là tác động xấu đến môi trường. Khái niệm thương mại và phát triển bền vững được hình thành trên cơ sở cho rằng có thể sử dụng các biện pháp thương mại để kiểm soát một cách có hiệu quả các tác hại về môi trường: phát triển một hệ thống thị trường chỉ chấp nhận tiêu thụ các sản phẩm có chứng chỉ an toàn môi trường. Cuối những năm 1980 nhiều tổ chức phi chính phủ vận động tẩy chay gỗ rừng nhiệt đới để giảm nhu cầu trên thị trường thế giới. Sau đó chính quyền nhiều thành phố lớn ở Hà Lan, Đức, Hoa Kỳ cũng có lệnh cấm sử dụng gỗ rừng nhiệt đới trong những công trình xây dựng bằng vốn ngân sách. Đến 1990 quốc hội Australia ban hành luật hạn chế nhập khẩu gỗ từ những nước không thực hiện QLRBV. Biện pháp cấm và tẩy chay thương mại và sử dụng gỗ rừng nhiệt đới cũng thường xuyên được thảo luận ở Hội đồng gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTC) trong suốt những năm 1988-1992. Nhiều thị trường rộng lớn Châu Âu và Bắc Mỹ bắt đầu thực hiện chính sách chỉ cho phép gỗ có chứng chỉ được tham gia. Đến đầu những năm 2000 Nhóm G8 (các nước giàu nhất) tuyên bố các chính phủ thành viên cam kết tìm biện pháp đáp ứng những nhu cầu về gỗ và nguyên liệu giấy của mình chỉ từ những nguồn hợp pháp và bền vững. Những cam kết này sau đó đã trở thành chính sách của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Liên minh Châu Âu (EU). Gần đây EU đã đề ra Kế hoạch hành động thi hành Luật lâm nghiệp, Quản trị và Thương mại, trong đó công cụ thương mại được coi là chìa khoá để thực hiện cam kết của các nước thành viên. Trên thị trường nảy sinh vấn đề: người tiêu dùng sản phẩm rừng đòi hỏi sản phẩm mà họ mua phải có nguồn gốc từ rừng đã được quản lý bền vững, người sản xuất muốn chứng minh rừng của mình đã được quản lý bền vững. Chứng chỉ rừng độc lập cung cấp thông tin tin cậy cho người tiêu dùng về những yêu cầu mà họ quan tâm. Vì vậy, đối với chứng chỉ rừng vấn đề quan trọng bậc nhất chính là độ tin cậy về đảm bảo tiêu chuẩn, tính độc lập và khách quan của tổ chức chứng chỉ. Thị trường Rừng có Gắn nhãn chứng chỉ sảnphẩm Chứng chỉ CoC Hình 2. Mối quan hệ giữa CCR và thị trường 13
- Nhằm hỗ trợ cho phát triển chứng chỉ rừng Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) đã thành lập tổ chức gọi là Sáng kiến Rừng toàn cầu và Thương mại với mục đích thúc đẩy thiết lập các Mạng lưới Rừng và Thương mại Toàn cầu (GFTN). Thành viên của mạng lưới gồm các nhóm bảo vệ môi trường, công nghiệp gỗ, và những nhà quản lý rừng cùng cam kết chỉ sản xuất và buôn bán những sản phẩm từ rừng có chứng chỉ QLRBV. Hiện nay GFTN đã có mạng lưới thành viên ở nhiều nước có thương mại gỗ rất phát triển như Australia, Bỉ, Braxin, Pháp, Đức, Hà Lan, Nga, Anh, Italy, Nhật Bản, Mỹ. Để thúc đẩy thương mại sản phẩm rừng có chứng chỉ thì phải tăng cường chứng chỉ rừng và chứng chỉ CoC, nhưng muốn tăng cường chứng chỉ rừng thì quản lý rừng phải được cải thiện để đạt các tiêu chuẩn. Do nhu cầu về sản phẩm có chứng chỉ trên thị trường đang tăng nhanh, thế giới ngày càng tăng cường tẩy chay sản phẩm khai thác bất hợp pháp hay không an toàn môi trường, trong khi đó chứng chỉ rừng tiến triển rất chậm chạp ở nhiều nước đang phát triển nhiệt đới nên các nước này không thâm nhập được các thị trường lớn của thế giới. Đây cũng là tồn tại lớn nhất hiện nay của tất cả các quy trình CCR trên thế giới. 2. Tổng quan chứng chỉ rừng thế giới Hiện nay trên thế giới có một số quy trình cấp chứng chỉ rừng đang hoạt động như Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC), Chương trình phê duyệt các quy trình chứng chỉ rừng (PEFC) của Châu Âu, Sáng kiến lâm nghiệp bền vững (SFI) của Bắc Mỹ, Hội tiêu chuẩn Canada (CSA), Quy trình chứng chỉ quốc gia CertforChile của Chile, Viện nhãn sinh thái Indonesia (LEI), và Hội đồng chứng chỉ gỗ Mã Lai (MTCC). Hai quy trình đang hoạt động ở cấp toàn cầu là FSC và PEFS, trong khi đó các quy trình khác chỉ hoạt động ở cấp vùng hoặc quốc gia. Sau đây là tình hình cấp chứng chỉ rừng và chuỗi hành trình sản phẩm (CoC) ở các châu lục: 2.1. Châu Âu Quy trình FSC: Đến tháng 11 năm 2005 diện tích rừng do FSC cấp chứng chỉ ở Châu Âu đã lên đến 34.150.976 ha với 327 giấy chứng chỉ, chủ yếu là rừng trồng và rừng nửa tự nhiên, trong đó Đức, Lít-va, Thụy sỹ, Anh, Thụy điển là những nước đứng đầu về số diện tích được cấp chứng chỉ. Về chứng chỉ CoC do FSC cấp: hiện có 2.566 giấy chứng chỉ, trong đó Đức, Anh, Ba lan và Hà lan là những nước có số chứng chỉ cao nhất trong các quốc gia Châu Âu. Quy trình PEFC: có 57.804.810 ha rừng được cấp chứng chỉ. Trong đó Phần lan, Đức, Na Uy và Thụy điển là những nước có diện tích rừng được PEFC cấp chứng chỉ cao nhất. 2.2. Bắc Mỹ Quy trình FSC: Châu Mỹ đến thời điểm tháng 12 năm 2005, diện tích rừng được FSC cấp chứng chỉ là 29.252.921 ha với 332 chứng chỉ, trong số này Canada dẫn đầu với 15.231.115 ha và 26 giấy chứng chỉ, tiếp theo là Mỹ với 5.671.251 ha và 97 chứng chỉ và Braxin với 3.455.582 ha và 60 chứng chỉ. Các diện tích được cấp chứng chỉ cũng chủ yếu là rừng trồng và rừng nửa tự nhiên. Về chứng chỉ CoC, hiện Châu Mỹ có 941 giấy chứng nhận trong đó Mỹ dẫn đầu với 475 giấy, tiếp sau đó là Chi Lê và Braxin. Quy trình PEFC: Chỉ có Canada được cấp chứng chỉ với 70.918.506 ha rừng. SFI: Hiện có 56.430.012 ha rừng tham gia chương trình QLRBV SFI để được cấp chứng chỉ tại Mỹ. 14
- 2.3. Nam Mỹ Quy trình FSC: Có tổng số hơn 7 triệu ha rừng được cấp chứng chỉ FSC, trong đó Bolivia, Braixin là 2 quốc gia có diện tích rừng được cấp CCR lớn nhất, chủ yếu là rừng trồng và rừng nửa tự nhiên. Hiện nay Braxin, Bolivia, Costa Rica, Uruguay, Guatêmala là các quốc gia xuất khẩu một khối lượng lớn nhất thế giới gỗ có chứng chỉ FSC, mà Việt Nam là một trong những thị trường nhập khẩu lớn nhất. Quy trình PEFC: Có 1,55 triệu ha rừng ở Chi lê được cấp chứng chỉ PEFC. 2.4. Châu Á - Thái Bình Dương Quy trình FSC: Châu Á - Thái Bình Dương hiện có 2.577.151 ha rừng với 63 giấy chứng chỉ FSC, trong số đó Úc, Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản Australia và New Zealand là những quốc gia dẫn đầu về diện tích và số chứng chỉ được cấp. Số giấy chứng chỉ CoC do FSC cấp tại Châu Á – Thái Bình Dương là 702, trong đó dẫn đầu là Nhật bản với 289 CoC và Việt Nam là 86 giấy chứng chỉ CoC, tiếp đó là Malaysia với 58 chứng chỉ. Một số nước Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia cũng đã xây dựng các quy trình CCR quốc gia, đồng thời họ cũng đã có một số khu rừng tự nhiên được FSC cấp chứng chỉ. Ngoài ra các nước khác như Papua Niu- Ghi nê, Quần đảo Solomon cũng đã có nhiều khu rừng được cấp chứng chỉ, mà hiện cung cấp khá nhiều gỗ có CCR FSC cho các doanh nghiệp sản xuất đồ mộc xuất khẩu của Việt Nam. Các nước khác như Thái Lan cũng có một vài diện tích rừng nhỏ được FSC cấp chứng chỉ gần đây. Cho đến nay chưa có một khu rừng nào tại Việt Nam có chứng chỉ rừng của FSC. Tuy nhiên, có một số lâm trường quốc doanh quản lý rừng tự nhiên, các doanh nghiệp, công ty trồng rừng tư nhân, liên doanh đang trong quá trình tiến tới đánh giá chính để cấp chứng chỉ rừng FSC thông qua các dự án của một số tổ chức như WWF Việt Nam, TFT, GTZ, Nhật Bản. Hiện Việt Nam đã có 86 chứng chỉ CoC tại các doanh nghiệp chế biến hàng mộc xuất khẩu, đại lý nhập khẩu gỗ do các TCCC cấp như SGS Việt Nam, SmartWood. Quy trình PEFC: Chỉ có Úc với 5,166 triệu ha rừng được cấp chứng chỉ PEFC (tính đến tháng 11 năm 2005). 2.5. Châu Phi Ở Châu Phi tính đến tháng 11 năm 2005 mới có 1.690.281 ha được cấp chứng chỉ FSC, với 33 giấy chứng chỉ, chiếm 2% tổng số diện tích rừng được FSC cấp chứng chỉ trên thế giới, trong đó Nam Phi đứng đầu có 1.426.362 ha với 23 chứng chỉ, sau đó là Zim-Ba –Uê với 127 ngàn ha. Về chứng chỉ CoC, ở Châu Phi hiện tại có 120 chứng chỉ, trong đó Nam Phi dẫn đầu với 107 chứng chỉ CoC. Châu Phi cho đến nay không có rừng được chương trình PEFC cấp chứng chỉ. Chi tiết về diện tích rừng do hai quy trình quốc tế FSC và PEFC cấp chứng chỉ được ghi ở Phụ lục 2 và Phụ lục 3. Tình hình chứng chỉ rừng của thế giới được minh họa tại các biểu đồ dưới đây. 15
- 300 250 200 150 1.000.000 ha 100 50 0 1994 1996 1998 2000 2002 2004 Hình 3. Tổng diện tích rừng thế giới có chứng chỉ giai đoạn 1994-2005 Nguồn: WWW.certified-forest.org Hình 4. Diện tích rừng ôn đới có chứng chỉ FSC từ 6-1999 đến 11-2005. 16
- Nguồn: WWW.certified-forest.org Hình 5. Diện tích rừng nhiệt đới có chứng chỉ FSC từ 6-1999 đến 11-2005 Diện tích rừng do các Chương trình chứng chỉ cấp tính đến tháng 11/2005 • Chương trình cây Nông nghiệp Mỹ (AFTS) 56,430,012 13,354,626 4% 17% • Hiệp hội chứng chỉ rừng của 79,746,761 Canada (CSA) 23% Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) Chương trình phê duyệt các 133,889,563 67,207,566 quy trình chứng chỉ rừng 38% 20% (PEFC) Chương trình lâm nghiệp bền vững (SFI) Nguồn: http//www. coford.ie Hình 6. Diện tích rừng có chứng chỉ bởi các quy trình tính đến tháng 11/2005 17
- Chứng chỉ CoC phân loại theo châu lục Tháng 11 năm 2005 3000 2566 Chứng chỉ CoC phân loại 2500 theo châu lục 2000 1500 941 1000 636 500 119 66 0 Châu Âu Châu Mỹ Châu Á Châu Phi Châu Đại dương Hình 7. Chứng chỉ CoC phân theo châu lục, tính đến tháng 11 năm 2005 Diện tích rừng do FSC cấp theo châu lục tháng 12 năm 2005 (ha) 1,290,748 , 2% 1,690,281 , 2% Châu  u Châu Á 29,252,921 , 34,987,327 , Châu Mỹ 43% 51% Châu Phi Châu Đại dương 1,077,470 , 2% Hình 8. Diện tích rừng có chứng chỉ FSC theo châu lục, tính đến 12-2005 18
- Diện tích các loại rừng được FSC chứng chỉ - tính đến 31/12/2005 40,000,000 35,000,000 30,000,000 25,000,000 ha 20,000,000 15,000,000 10,000,000 5,000,000 0 Rừng tự nhiên Rừng trồng Rừng hỗn giao giữa rừng tự nhiên và rừng trồng Nguồn: Hình 9. Diện tích các loại rừng có chứng chỉ FSC tính đến 12-2005 2.6. Phân tích chứng chỉ rừng ở các châu lục Qua các số liệu thống kê về diện tích các loại rừng và các quốc gia ở các châu lục được cấp chứng chỉ, chúng ta có thể có các nhận xét sau đây: a) Trong các châu lục thì Châu Âu, nhất là Tây và Bắc Âu, có diện tích rừng được cấp chứng chỉ nhiều và nhanh nhất, tiếp đó là Bắc Mỹ; những nguyên nhân chính là: - Các nước ở hai châu lục này hầu hết là những nước đã phát triển, chất lượng quản lý rừng đã đạt trình độ cao, hầu như đã đạt tiêu chuẩn CCR của các quy trình ngay từ trước khi có tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững của CCR hầu như chỉ là vấn đề thủ tục. - Quy mô quản lý rừng thường là rất lớn, hàng trăm nghìn ha hay hơn nữa, phần lớn là rừng trồng, nên việc đánh giá cấp chứng chỉ dễ dàng và ít tốn kém hơn nhiều so với rừng tự nhiên nhiệt đới. - Do sản xuất lâm nghiệp ở các quốc gia này có quy mô rất lớn, mỗi năm khai thác hàng chục triệu m3 gỗ, nhu cầu thâm nhập thị trường có chứng chỉ rất lớn, làm cho động lực thị trường của CCR rất lớn. - Quyền sở hữu rừng tại các quốc gia này chủ yếu là sở hữu tư nhân, do vậy tính tự chủ, độc lập của chủ rừng trong mọi hoạt động về quản lý, tái đầu tư, sử dụng tài chính trong kinh doanh và quản lý rừng rất cao, tạo điều kiện quan trọng cho việc nâng cao và duy trì quản lý rừng đạt được yêu cầu của chứng chỉ rừng. - Ở các quốc gia đã phát triển chi phí cho CCR không phải là một yếu tố hạn chế. b) So sánh diện tích rừng được cấp chứng chỉ giữa các quy trình CCR thì quy trình PEFC của Châu Âu và quy trình CSA của Canađa có tổng diện tích rừng được cấp chứng chỉ cao nhất, chiếm tương ứng là 38 % và 23% tổng diện tích rừng được chứng chỉ của thế giới, trong khi quy trình FSC mới đứng thứ 3 với khoảng 20%. Nguyên nhân là số diện tích rừng được PEFC và CSA cấp chứng chỉ hầu hết thuộc các quốc gia đã phát triển ở Bắc và Tây Âu (PEFC), và Bắc Mỹ (CSA), việc thực hiện chứng chỉ hầu như “tại chỗ” là chính. Quy trình FSC tuy chứng chỉ được ít diện tích hơn, nhưng có tầm hoạt động rộng lớn hơn nhiều, hầu như khắp toàn cầu. 19
- c) CCR ở khu vực Nam Mỹ, Châu Á – Thái Bình Dương và Châu Phi tiến rất chậm, diện tích được chứng chỉ mới chỉ chiếm khoảng 8% tổng diện tích đã được chứng chỉ của thế giới, chủ yếu là chứng chỉ FSC. Nguyên nhân là các nước trong các khu vực này phần lớn là kém phát triển, quản lý rừng còn ở trình độ thấp, các chủ rừng không có đủ nguồn lực cải thiện quản lý rừng để đạt tiêu chuẩn CCR, và chi phí cho CCR cũng là một yếu tố hạn chế (chi tiết về vấn đề này được trình bày ở mục 7.11). 3. Những hoạt động chứng chỉ rừng ở Việt Nam 3.1. Tổ công tác quốc gia quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng Ngay khi Việt Nam gia nhập khối ASEAN từ 1995 nhu cầu hợp tác về QLRBV trong khối trở thành một trong các nội dung chính của các cuộc họp hàng năm của các chuyên gia cao cấp về lâm nghiệp (ASOF). Qua nhiều cuộc thảo luận về việc làm sao xây dựng được một bộ tiêu chuẩn QLRBV cho ASEAN và đẩy mạnh việc QLRBV trong mỗi nước thành viên, thì nhu cầu hình thành một tổ chức để xúc tiến quá trình này ở Việt Nam trở nên bức xúc, đặc biệt là giai đoạn 1990-1995, đất nước vừa trải qua một thời gian dài 40-50 năm vừa chiến tranh, vừa quản lý rừng còn ở trình độ rất thấp, khiến cho diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng (từ 14,3 triệu ha rừng, độ che phủ 43% năm 1945, xuống còn 9,2 triệu ha, độ che phủ chỉ còn 28% giai đoạn 1990-1995). Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 12/1998 một hội thảo quốc gia về QLRBV do Bộ NN & PTNT, WWF Đông Dương, Đại sứ quán vương quốc Hà Lan tại Hà Nội và Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) đồng tài trợ và tổ chức tại TP.HCM. Tham gia hội thảo gồm đại diện các cơ quan như Văn phòng Chính phủ, các bộ ngành, các cục, vụ, viện trường, sở, chi cục, công ty, lâm trường, xí nghiệp, đại diện Hội lâm nghiệp, Hội nông dân, Hôi phụ nữ và nhiều nhà khoa học trong các lĩnh vực lâm nghiệp, kinh tế, xã hội, dân tộc miền núi, môi trường, các tổ chức phi chính phủ quốc tế tại Việt Nam. Trong hội thảo đã có nhiều báo cáo, thảo luận về khái niệm QLRBV, đánh giá hiện trạng về rừng và quản lý sản xuất lâm nghiệp tại Việt Nam. Hội thảo đã thành lập một Tổ công tác quốc gia về QLRBV và CCR (NWG) và đề xuất một chương trình hoạt động trong 5 năm đầu tiên. Các đại biểu đã đi tham quan tình hình sản xuất và quản lý của Lâm trường Tân Phú, Vườn quốc gia Nam Cát Tiên và khu rừng phòng hộ Cần Giờ. NWG ban đầu do Cục Phát triển lâm nghiệp quản lý, nhưng từ năm 2001 do Hội KHKTLN quản lý. NWG liên tục mở rộng và củng cố về tổ chức phù hợp với hướng dẫn của FSC, gồm 3 ban: kinh tế, môi trường và xã hội, với sự tham gia rất rộng rãi của các thành viên từ các cơ quan, đoàn thể và nhiều nhà khoa học, nhà quản lý ở Trung ương và địa phương đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu. NWG là tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, tập hợp những người tự nguyện hoạt động thường xuyên là 20-22 người, có ưu tiên tuyển thành viên là người dân tộc thiểu số, nữ và người địa phương. Từ năm 2002, 10 người trong 3 ban của NWG đã trở thành thành viên của FSC quốc tế. FSC cũng đã cử 1 thành viên làm Đại diện cho FSC quốc tế ở Việt Nam, gọi là Đầu mối quốc gia (Contact Person). Kinh phí hoạt động của NWG thu hút từ các nguồn tài trợ không cố định như hỗ trợ ban đầu của Đại sứ quán Hà Lan, FSC quốc tế, dự án cải cách hành chính lâm nghiệp (REFAS), WWF Đông Dương, và 1 dự án nhỏ thực hiện trong 2 năm 2002 – 2003 do Quỹ Ford (The Ford Foundation Representative Office for Vietnam and Thailand)) tài trợ. Giai đoạn 5 năm vừa qua các hoạt động của NWG tập trung vào các nội dung sau đây: a) Tuyên truyền, phổ cập, giới thiệu về QLRBV. b) Xây dựng Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam về QLRBV và CCR. 20
- c) Khảo sát tình hình QLR tại các đơn vị và đánh giá tính khả thi của các chỉ số của Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam do NWG dự thảo trên cơ sở 10 tiêu chuẩn và 56 tiêu chí của FSC. d) Củng cố tổ chức của tổ công tác, tăng cường năng lực hoạt động và hợp tác với các đơn vị hữu quan trong nước và quốc tế. Ở Việt Nam giai đoạn 1998 – 2003 hoạt động thúc đẩy QLRBV chủ yếu là do NWG cùng với sự phối hợp của các tổ chức khác như TFT, dự án REFAS, WWF Đông Dương đã góp phần đẩy mạnh quá trình cải thiện quản lý rừng thông qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật cho một số chủ rừng xây dựng mô hình CCR. Từ năm 2004, các tổ chức này đã đẩy mạnh các hoạt đông theo từng chương trình riêng trong việc hỗ trợ các đơn vị quản lý rừng (thường là đơn vị lâm trường) tiếp cận các tiêu chuẩn QLRBV của FSC, trong khi NWG gặp khó khăn về nguồn tài trợ nên phải giảm thiểu hoạt động để tổ chức lại. NWG đã liên tục tổ chức một loạt hoạt động tuyên truyền phổ cập về QLRBV như: - Các hội nghị, hội thảo về nhận thức và lập kế hoạch quản lý rừng: Vùng miền Trung, Huế 12-1999; tỉnh Nghệ An – Vinh 2000; QLR và chế biến gỗ Miền Nam Trung bộ - Quy Nhơn 2001; Tây Nguyên - Buôn Mê Thuột 2001; Tây Nguyên, Gia Lai 2002; Hội thảo quốc gia chỉnh sửa tiêu chuẩn lần 7- Hà nội 2003; và lần 8 - Hà nội 2005. - Tuyên truyền phổ cập QLRBV và CCR trên các phương tiện truyền thông như báo chí, Radio, TV, và trong nhiều hội nghị hội thảo về nông nghiệp, lâm nghiệp, môi trường, dân tộc, miền núi v.v - Nói chuyện ngoại khoá và phổ cập kiến thức quản lý rừng cho các lớp cao học của Đại học lâm nghiệp Xuân Mai, Đại học Tây Nguyên, và cùng chuyên gia GFA Terra phổ cập kiến thức cho các dự án trồng rừng do KfW tài trợ. 3.2. Xây dựng Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam Ngay sau khi được thành lập, NWG đã ưu tiên việc dự thảo Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam (P&C&I VN) để làm căn cứ đánh giá và cấp chứng chỉ rừng cho các đơn vị QLR tại Việt Nam. Có hai hoạt động được thực hiện song song: - Phối hợp với các nước ASEAN xây dựng bộ tiêu chuẩn chung cho các nước ASEAN trên cơ sở 7 tiêu chí của ITTO, trong các năm 1998 – 2000. Tại TP HCM tháng 12/2000 hội nghị ASOF do Việt Nam làm chủ luân phiên, bộ tiêu chuẩn QLRBV vùng đã được hoàn tất và trình ban thư ký ASEAN, và tại Hội nghị cấp bộ trưởng Nông nghiệp ASEAN 2001 ở Phnom-penh bộ tiêu chuẩn này đã được phê duyệt. Song bộ tiêu chuẩn này kém khả thi trong thực tế vì ITTO chỉ đề xuất 7 tiêu chí QLRBV mà không phải là quy trình chứng chỉ nên chỉ có thể áp dụng để thẩm định, đánh giá mức độ QLRBV mà không có hiệu lực CCR quốc tế. - Quá trình dự thảo P&C&I VN trên cơ sở các tiêu chuẩn và tiêu chí của FSC cũng được tiến hành ngay từ khi thành lập NWG Việt Nam tháng 2/ 1998 bằng cách hàng năm vừa dự thảo, vừa khảo sát áp dụng thử và chỉnh sửa trong 8 lần, trong đó lần thứ 4 năm 2000 có sự tham gia của chuyên gia tiêu chuẩn QLRBV Indonesia (ngài Harrianto, LEI),năm 2003 lần thứ 7 có sự tham gia của chuyên gia FSC (ngài Matthew W.S. Trưởng phòng chính sách và tiêu chuẩn). - Bản dự thảo được chỉnh sửa lần thứ 8 cũng đã nhận được nhận xét đánh giá bằng văn bản của các cơ quan chính phủ, các đoàn thể, và các tổ chức quốc tế liên quan đang hoạt động tại Việt Nam như Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Viện Điều tra quy hoạch rừng, Công ty tư vấn luật, Tổng công ty Lâm nghiệp VN, Trường Đại học lâm nghiệp, 21
- Cục Lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm, Vụ chính sách NN & PTNT, Hội Nông dân Việt Nam, Hội phụ nữ Việt Nam, WWF Đông Dương, IUCN Việt Nam. P&C&I VN dự thảo tuân thủ 10 tiêu chuẩn, 56 tiêu chí của FSC và đã có 147 chỉ số được đề xuất để thể hiện các tiêu chí và để kiểm tra đánh giá mức độ phù hợp của tiêu chuẩn đối với thực tiễn QLR ở Việt Nam. Các chỉ số đề xuất này đã xem xét tới tính phù hợp với các cơ sở pháp luật, chính sách và điều kiện thực tiễn VN. Mặc dù bộ tiêu chuẩn dự thảo lần cuối cùng đã kết thúc năm 2004 và được sự nhận xét và đồng tình từ 14 cơ quan tổ chức hữu quan nói trên, nhưng nó chưa được trình FSC để xem xét và phê duyệt. Tuy vậy P&C&I VN đã được WWF Đông Dương, TFT, Viện Điều tra quy hoạch rừng và dự án REFAS tham khảo sử dụng khi hỗ trợ các lâm trường thực hiện QLRBV và cũng đã được NWG sử dụng để đánh giá QLR ở 4 chủ rừng (Lâm trường Con Cuông, Công ty Lâm công nghiệp Long Đại, Công ty lâm nghiệp và dịch vụ Hương Sơn, Xí nghiệp trồng rừng tư nhân 327 Đỗ Thập, Yên Bái) được chọn để xây dựng mô hình QLRBV. 3.3. Khảo nghiệm tiêu chuẩn và đánh giá quản lý rừng Hoạt động của NWG về khảo sát đánh giá thực tế quản lý rừng có 2 nội dung: a) Nắm được tình hình, trình độ quản lý, điểm mạnh, điểm yếu của từng đơn vị quản lý , từng vùng, và tổng hợp chung tổ chức sản xuất, thể chế chính sách, khoa học kỹ thuật, và 3 khía cạnh QLRBV quan tâm (kinh tế, môi trường, xã hội). b) Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của các chỉ số mà NWG đề xuất cho mỗi tiêu chí của P&C&I VN để áp dụng hoặc bổ sung sửa đổi bộ tiêu chuẩn quốc gia ngày một phù hợp với cả các tiêu chuẩn tiêu chí của FSC và hoàn cảnh, tập quán, chính sách của Việt Nam. Các năm 1998 – 2000, các cuộc khảo sát cũng nhằm phổ cập nhận thức cho các thành viên của NWG và các cổ đông như chủ rừng, quan chức quản lý lâm nghiệp cấp trung ương và cấp tỉnh (nội dung a), như: 1998: - Thăm quan trang trại rừng Phát Ngân (Đồng Nai). - Thăm quan Lâm trường Tân Phú (Đồng Nai). 1999 - Thăm quan Lâm trường Hương Thuỷ (Thừa Thiên- Huế). - Thăm quan Chi nhánh thuôc Công ty chế biến gỗ Thừa Thiên Huế. Từ cuối năm 2000 trở đi, việc khảo sát thực tế các đơn vị quản lý rừng và các cơ sở chế biến thường kết hợp cả hai mục tiêu là chỉnh sửa P&C&I VN dự thảo và nâng cao nhận thức về QLRBV và CCR, gồm: Năm 2000: Khảo sát tình hình QLR và áp dụng thử các chỉ số QLRBV tại lâm trường Dak N’tao (Đắc lắc). Các năm 2001 – 2004: Khảo sát tình hình QLR và tính khả thi của các chỉ số của P&C&I VN dự thảo do NWG đề xuất tại một loạt các tỉnh và các vùng: - Tỉnh Gia Lai: Các lâm trường Hà Nừng, Trạm Lập, DakRong, Sơ Pai. - Tỉnh Nghệ An: Lâm trường Con Cuông. - Tỉnh Kon Tum: Lâm trường Măng Cành, Công ty công nghiệp KonPlong. - Tỉnh Lâm Đồng: Các lâm trường Bảo Lâm, Đa Tẻ, Công ty lâm sản Đức Trọng. - Tỉnh Quảng Bình: Công ty Lâm nghiệp Long Đại. - Tỉnh Hà Tĩnh: Công ty lâm nghiệp và dịch vụ Hương Sơn. 22
- - Tỉnh Quảng Ninh: Lâm trường Cẩm Phả. - Tỉnh Yên Bái: Xí nghiệp trồng rừng tư nhân Đỗ Thập. - Tỉnh Phú Thọ: Công ty nguyên liệu giấy Phù Ninh, Lâm trường Thanh Sơn. - Tỉnh Hoà Bình: Công ty Lâm nghiệp Hoà Bình. Các cuộc khảo sát này cho thấy một ưu điểm rất cơ bản là hầu hết các chủ rừng quốc doanh hoặc tư nhân đều mong muốn tiến tới QLRBV trong đơn vị mình và được cấp chứng chỉ rừng và chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm (CoC). Những bất cập đầu tiên là thể chế chính sách, đặc biệt ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Các lâm trường, công ty, liên hiệp lâm công nghiệp khi được thành lập đều có chức năng kinh tế, an ninh, xã hội. Sau 15 năm thống nhất đất nước (1975-1990), tại các vùng rừng núi này đã có các cơ quan, tổ chức an ninh xã hội đảm nhiệm các chức năng này. Các lâm trường, liên hiệp, công ty lâm nghiệp (gọi chung là doanh nghiệp) nay đảm nhiệm chức năng kinh tế là chính, và hầu hết đều đăng ký trở thành doanh nghiệp (quyết định 388/CP). Nhưng thực tế các lâm trường ở Miền Nam Việt Nam chưa được quản lý theo luật doanh nghiệp, chủ rừng nhà nước chưa được tự chủ về kế hoạch tài chính, tổ chức nhân sự. Tuỳ từng tỉnh mà mức độ can thiệp của cơ quan Nhà nước chủ quản vào kinh doanh nhiều hay ít, kể cả thị trường lâm sản cũng còn bị chỉ đạo phân phối do cung không đủ cầu. Chức năng xã hội và môi trường thường chưa được chủ rừng quan tâm đúng mức, chính sách về bảo tồn rừng và đa dạng sinh học của Nhà nước là chỉ tập trung vào các khu riêng biệt gọi là rừng đặc dụng, do Nhà nước quản lý bao cấp như vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, mà chưa chú ý đến bảo tồn trong các rừng sản xuất. Mặt khác, về chủ quan doanh nghiệp ít quan tâm tới việc xây dựng cơ sở dữ liệu về khoa học, kinh tế của việc kinh doanh rừng, kế hoạch sản xuất dài hạn, trung hạn thường gọi là phương án điều chế rừng chỉ được xây dựng khi cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu để phân bổ chỉ tiêu khai thác gỗ. Các hoạt động xây dựng cơ bản, khai thác chế biến lâm sản và gây trồng rừng rất ít được đánh giá tác động môi trường. Tuy nhiên, ở các tỉnh nghèo rừng hơn như ở bắc Trung bộ (Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An) các lâm trường, trang trại được quản lý theo luật doanh nghiệp là chính, được tự chủ về kế hoạch, tài chính, tổ chức, trừ chỉ tiêu khai thác gỗ. Kết quả khảo sát 6 Lâm trường, xí nghiệp của NWG trong các năm 2000-2003 cũng giống như đánh giá của Smartwood trên 4 lâm trường ở Tây Nguyên cho thấy có yếu kém chung là lợi nhuận thấp, tái đầu tư ít, hạ tầng cơ sở nghèo nàn (đường xã 1- 4m/ha) và nhân lực quá thiếu để tổ chức sản xuất và bảo vệ rừng. Các cuộc khảo sát đã giúp cho NWG sửa đổi, điều chỉnh các chỉ số đã đề xuất để phù hợp hơn với thực tiễn sản xuất và chính sách của Việt Nam như đã nói trên. Song, áp dụng P&C&I VN chắc chắn sẽ nâng cấp quản lý cho các doanh nghiệp lâm nghiệp Việt Nam, tạo nhiều động lực kinh tế thúc đẩy quá trình bảo vệ phát triển rừng không chỉ về số lượng, chất lượng, mà cả về chức năng xã hội, môi trường. 3.4. Các chương trình dự án chứng chỉ rừng đang thực hiện Song song với các chương trình hoạt động về tuyên truyền phổ cập, dự thảo P&C&I VN, khảo sát đánh giá hiện trạng năng lực QLR, NWG còn hướng dẫn Công ty lâm công nghiệp Long Đại (Quảng Bình), Công ty Lâm nghiệp và dịch vụ Hương Sơn (Hà Tĩnh), Lâm trường Con Cuông (Nghệ An), Xí nghiệp trồng rừng 327 tư nhân Đỗ Thập (Yên Bái), là các đơn vị quản lý rừng khá tốt, tự đánh giá QLR của mình để có kế hoạch nâng cấp quản lý; cung cấp cho họ thông tin, biểu mẫu về một số tổ chức chứng chỉ rừng (Woodmark và SGS 23
- (Qualifor) để liên hệ về CCR. Hiện nay đã hoặc đang thực thi một số chương trình hỗ trợ chứng chỉ rừng sau đây: - Dự án điều tra xây dựng kế hoạch QLRBV tại huyện Kon-Plong (Kontum) 2000- 2002 do JICA tài trợ trên 2 triệu USD, đã kết thúc năm 2003. Hiện nay giai đoạn 2 nhằm tăng cường các hoạt động khuyến nông khuyến lâm và xây dựng mô hình quản lý rừng cho cộng đồng, đã bắt đầu triển khai từ 2005 với kinh phí trên 1 triệu USD. - Dự án hỗ trợ cải thiện quản lý rừng ở lâm trường Hà Nừng và lâm trường Sơ pai (Gia Lai) do WWF Đông dương tiến hành 2003 – 2005 với số vốn 490 nghìn USD do Thuỵ Sĩ tài trợ. - Chương trình hỗ trợ QLRBV và CCR của dự án GTZ/REFAS đối với 2 lâm trường Ma- Drak và NamNung (Đắc Lắc) 2005. Từ 2006 mở rộng ra Quảng Bình, Ninh Thuận, Yên Bái với kinh phí 4,5 triệu Euro cho 4 hợp phần, trong đó có hợp phần hỗ trợ QLRBV và CCR mà chưa xác định vốn cho mỗi hợp phần. - Một phong trào rộng rãi các cơ sở chế biến lâm sản xuất khẩu, đặc biệt là tại các tỉnh Nam bộ, các tỉnh duyên hải Nam trung bộ và Tây Nguyên đã tự nâng cấp quản lý dây chuyền công nghệ từ nguyên liệu gỗ đến sản phẩm cuối cùng. Từ 2002 đến nay đã có 84 cơ sở đạt chứng chỉ CoC. - Kế hoạch hỗ trợ CCR và tiếp thị của Quỹ rừng nhiệt đới (TFT) tại Việt Nam không công bố thành một chương trình mà chỉ hỗ trợ từng phần và cho từng đơn vị QLR như tại Lâm trường Trường Sơn (Long Đại, Quảng Bình), Công ty lâm nghiệp và dịch vụ Hương Sơn (Hà Tĩnh). 3.5. Những vấn đề của tương lai Một chương trình trọng điểm trong chiến lược lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 – 2020 đang trình Chính phủ phê duyệt và bắt đầu thực hiện từ 2006, đó là chương trình QLRBV. Song, với khái niệm mở rộng, Nhà nước không chỉ quan tâm tới việc nâng cấp năng lực quản lý rừng đối với từng khu rừng cụ thể, từng chủ rừng cụ thể để đạt tới hiệu quả cao và bền vững về kinh tế, môi trường, xã hội theo chuẩn mực quốc tế, mà còn quan tâm xây dựng các điều kiện, các cơ sở vật chất kỹ thuật và nhận thức của xã hội cho quá trình này. Đó là việc cải cách thể chế chính sách, quy hoạch lâm phận ổn định vĩ mô và vi mô, xây dựng cơ sở khoa học công nghệ, và thông tin dữ liệu để tạo dựng các khu rừng chất lượng cao, các kế hoạch quản lý tốt, đội ngũ nhân sự tổ chức có kỹ năng tốt, có cơ chế giám sát đánh giá và luôn đựơc đào tạo cập nhật. Chương trình này đặt mục tiêu phấn đấu tới năm 2020 sẽ tạo ra một lâm phận ổn định gồm các khu rừng chất lượng cao, phân bố hợp lý, trong đó 30% diện tích rừng sản xuất đạt được tiêu chuẩn QLRBV và được cấp chứng chỉ, với tổng kinh phí chương trình dự toán là 23.000 tỷ đồng, tương đương 1,5 tỷ USD và được phân kỳ thành 3 kế hoạch 5 năm. Tuy nhiên việc phát triển QLRBV và CCR ở Việt Nam đang có những trở ngại như sau: - Trình độ quản lý rừng ở Việt Nam đang còn rất thấp so với tiêu chuẩn QLRBV quốc tế. Việc cải thiện quản lý rừng để đạt tiêu chuẩn cần những nguồn lực lớn và thời gian dài. Nhiều vấn đề xã hội như nghèo đói, xâm lấn tranh chấp đất, khai thác trái phép, cháy rừng .v.v ngoài tầm giải quyết của chủ rừng. - Các chủ rừng Việt Nam phần lớn nhỏ bé, phân tán, hoạt động ở địa bàn khó khăn hẻo lánh nên giá thành chứng chỉ có thể sẽ rất cao, ngoài khả năng của rất nhiều chủ rừng. Việc hỗ 24
- trợ chủ rừng tiếp cận tiêu chuẩn QLRBV để được chứng chỉ được trình bày chi tiết ở mục 4.3.1. - Chưa có một tổ chức đủ mạnh để đảm đương trách nhiệm thúc đẩy QLRBV và CCR, Tổ công tác quốc gia hầu như không còn hoạt động, việc hỗ trợ cải thiện quản lý rừng chỉ dựa vào một số hoạt động hay dự án nhỏ lẻ của WWF, TFT v.v. - Lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên ở Việt Nam quá nhỏ bé, không đủ làm động lực thị trường cho CCR, trong khi đó các động lực khác như thu hút hỗ trợ, đầu tư, hưởng lợi ích từ các chính sách ưu đãi hay miễn giảm thuế của Nhà nước, phát triển du lịch sinh thái.v.v cũng chưa xuất hiện hoặc chưa có tác dụng. - Sự hiểu biết về QLRBV và CCR còn rất hạn chế cả ở cấp trung ương và địa phương, đa số chủ rừng vẫn chưa hiểu về tiêu chuẩn QLRBV, mục tiêu và lợi ích và quá trình của CCR. Do đó, chương trình quản lý rừng bền vững của Nhà nước 2006-2020 chỉ có thể đạt được mục tiêu khi các thách thức trên được quan tâm giải quyết một cách đồng bộ. 4. Khuyến khích phát triển chứng chỉ rừng 4.1. Khuôn khổ chính sách Như đã nói ở mục 1.3, quản lý rừng chịu tác động của các công cụ cứng như luật pháp, chính sách, quy chế v.v. và các công cụ mềm như vận động, khen thưởng, chứng chỉ, miễn giảm thuế, đầu tư .v.v. Để CCR có thể phát triển ở Việt Nam thì chính phủ cần ban hành các chính sách mới có tác dụng thúc đẩy CCR, nghiên cứu sửa đổi các chính sách cũ, loại bỏ các chính sách gây cản trở cho thực hiện tiêu chuẩn QLRBV, cụ thể gồm các vấn đề sau: - Chính sách đất đai cần tạo điều kiện cho các chủ rừng được cấp sổ đỏ với quyền sử dụng đất lâu dài, ổn định. Sổ đỏ hay quyền sử dụng đất lâu dài hợp pháp là một đòi hỏi bắt buộc trong tiêu chuẩn của tất cả các quy trình CCR. - Các chủ rừng cần có quy hoạch sử dụng đất lâu dài ổn định được cấp có thẩm quyền phê duyêt. Chính sách quy hoạch sử dụng đất phải phù hợp với tiêu chuẩn, nghĩa là không được chuyển rừng tự nhiên thành rừng trồng, đồng thời có giành một phần diện tích rừng trồng để phục hồi thành rừng tự nhiên (chưa có trong chính sách lâm nghiệp hiện nay của Việt Nam). - Kiểm soát có hiệu quả di dân tự do lấn chiếm đất rừng. Hiện nay đây là một trong những lỗ hổng quản lý lớn nhất của quản lý rừng. Ở những nơi có di dân tự do thường xẩy ra tranh chấp đất đai và lấn chiếm đất rừng mà chủ rừng không đủ khả năng và thẩm quyền giải quyết. Tranh chấp lấn chiếm đất là một lỗi lớn trong việc thực hiện tiêu chuẩn CCR. - Trao quyền tự chủ rộng rãi cho các chủ rừng quốc doanh như lâm trường, công ty lâm nghiệp.v.v bao gồm tự chủ về kế hoạch quản lý rừng, tài chính, khai thác, tiêu thụ sản phẩm, tái đầu tư.v.v. Không có quyền tự chủ thì chủ rừng không có động lực phấn đấu đạt CCR. - Ban hành các chính sách về bảo vệ, bảo tồn rừng và đa dạng sinh học cả đối với rừng sản xuất cho tương đồng với quốc tế (tiêu chuẩn QLRBV của quốc tế quy định rừng sản xuất cũng phải làm nhiệm vụ bảo tồn, nhưng ở Việt Nam chỉ có rừng đặc dụng mới có nhiệm vụ này). - Có chính sách khuyến khích chủ rừng phấn đấu đạt tiêu chuẩn QLRBV và CCR như cho phép khai thác bền vững, kế họach khai thác được xây dựng trên cơ sở tăng trưởng của rừng, bỏ chế độ cấp phép (côta) khai thác như hiện nay. Các lâm trường đã bị “đóng cửa rừng tự nhiên”, nếu được cấp chứng chỉ thì được mở cửa rừng trở lại cho khai thác. 25
- - Có chính sách miễn trừ thuế, khen thưởng vật chất, thu mua giá cao, tạo điều kiện thâm nhập thị trường đòi hỏi chứng chỉ v.v. đối với các chủ rừng được cấp chứng chỉ rừng hoặc cam kết thực hiện CCR theo giai đoạn. - Cho phép và tạo điều kiện cho các chủ rừng tham gia các chương trình CCR theo giai đoạn do các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức thương mại gỗ như WWF, TFT, GFTN.v.v thực hiện (hiện đang có các chương trình như vậy ở Gia Lai, Quảng Bình, Hà Tĩnh). - Cung cấp thông tin và dịch vụ đào tạo về QLRBV và CCR cho các chủ rừng, kể cả quốc doanh, tư nhân, doanh nghiệp, cộng đồng. Tổ chức các hội thảo quốc gia và vùng. 4.2. Hệ thống tổ chức Hệ thống tổ chức sẵn có của ngành lâm nghiệp như các trường, viện nghiên cứu, cục, sở v.v. cần được giao nhiệm vụ tham gia phát triển CCR tuỳ theo chức năng nhiệm vụ của mỗi tổ chức cơ quan như sau: - Các viện nghiên cứu và Trường đại học lâm nghiệp: tham gia đào tạo, huấn luyện, và tăng cường nguồn lực về QLRBV và CCR, cung cấp thông tin tư liệu và dịch vụ về điều tra rừng làm cơ sở cho xây dựng kế hoạch quản lý rừng. - Cục Lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm: Xây dựng và đề xuất điều chỉnh chính sách lâm nghiệp, soan thảo các văn bản hướng dẫn thực hiện tiêu chuẩn QLRBV và CCR, xem xét lại cách tính chỉ tiêu khai thác để chủ rừng có động lực thực hiện tiêu chuẩn QLRBV. - Hội Khoa học kỹ thuật lâm nghiệp: Xây dựng tiêu chuẩn quốc gia , tuyên truyền phổ biến thông tin nâng cao hiểu biết về QLRBV và CCR, cung cấp tư vấn về thực hiện tiêu chuẩn, xây dựng mô hình, và trở thành tổ chức thành viên của FSC quốc tế. - Tổng công ty lâm nghiệp: cung cấp thông tin và hỗ trợ thâm nhập thị trường gỗ có chứng chỉ, hỗ trợ việc xây dựng và thực hiện các hệ thống chuỗi hành trình ở các xí nghiệp chế biến. - Các sở nông nghiệp và phát triển nông thôn: Xem xét đề nghị sửa đổi các chính sách của địa phương không phù hợp với việc thực hiện tiêu chuẩn CCR (nhất là chính sách khai thác và tiêu thụ gỗ), hỗ trợ các chủ rừng (lâm trường, công ty lâm nghiệp, lâm nghiệp trang trại v.v) làm các thủ tục nhận sổ đỏ, thực hiện tiêu chuẩn QLRBV và CCR, xây dựng và giám sát các chương trình chứng chỉ rừng theo giai đoạn tại địa phương. Sự phân công như trên chỉ là tương đối, vì mọi hoat động đều cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan. 4.3. Tạo điều kiện thuận lợi Hiện nay trên thực tế, quản lý rừng ở Việt Nam nói chung còn rất yếu kém về nhiều mặt, do đó việc thực hiện tiêu chuẩn QLRBV đòi hỏi đầu tư lớn và thời gian dài, có thể phải nhiều năm. Nhiều chủ rừng có thể phải chọn hình thức CCR theo giai đoạn (xem mục 7.11). 4.3.1. Hỗ trợ chủ rừng thực hiện tiêu chuẩn Ở những nước xuất khẩu gỗ với quy mô lớn hoặc có thị trường nội địa yêu cầu sản phẩm rừng phải có chứng chỉ thì việc thực hiện QLRBV phần lớn do các chủ rừng tự giác làm mà không cần đến sự trợ giúp của Nhà nước. CCR trong trường hợp này gọi là CCR có động lực thị trường. Ở Việt Nam tổng lượng khai thác rừng hiện nay, nhất là khai thác rừng tự nhiên, còn quá nhỏ bé, chưa đủ cung ứng cho thị trường trong nước hay thậm chí thị trường địa phương, do đó chưa có áp lực lớn về thị trường, và CCR chưa có động lực thị trường mà 26
- chủ yếu nhằm đạt mục tiêu QLRBV. Trong trường hợp này rất cần sự hỗ trợ của các cơ quan nhà nước về các mặt: - Xây dựng và thực hiện các dự án cải thiện quản lý rừng theo tiêu chuẩn CCR FSC do nhà nước hoặc quốc tế tài trợ, tập trung trước hết vào những vùng rừng trọng điểm và những hệ sinh thái kém bền vững nhất. - Giúp chủ rừng xây dựng kế hoạch quản lý rừng dài hạn (ít nhất là một chu kỳ khai thác), kể cả phải hỗ trợ kinh phí và nhân lực kỹ thuật cho điều tra rừng và khảo sát xác định các khu rừng có giá trị bảo tồn cao và đa dạng sinh học cần được bảo vệ trên những diện tích rừng do chủ rừng quản lý (đây là một nội dung bắt buộc của tiêu chuẩn CCR). - Giúp các chủ rừng xây dựng các quy chế về mối quan hệ giữa chủ rừng và cộng đồng dân cư, giải quyết mâu thuẫn trên cơ sở hợp tác và bình đẳng. - Đẩy mạnh thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo ở vùng rừng núi vì đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu của khai thác rừng trái phép, cháy rừng, du canh du cư xâm lấn đất rừng v.v. mà chủ rừng không đủ khả năng giải quyết. Giải quyết tốt các mối quan hệ xã hội là một đòi hỏi quan trọng của tất cả các tiêu chuẩn CCR. 4.3.2. Phê duyệt Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam Mỗi quy trình chứng chỉ rừng đều có bộ tiêu chuẩn QLRBV để các tổ chức được uỷ quyền cấp chứng chỉ dựa vào đấy mà đánh giá quản lý rừng. Đối với các quy trình CCR quốc gia như ở Indonesia, Malaysia, Canada, Na Uy, Phần Lan v.v các tổ chức CCR địa phương chủ động trong việc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia (TCQG). Ở Mexico và Nga chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích CCR. Ở các nước này thị trường gỗ trong nước rất lớn và cũng đòi hỏi có chứng chỉ, và CCR quốc gia phần lớn chỉ có giá trị đối với thị trường trong nước. Tuy nhiên, trong trường hợp có động lực thị trường quốc tế (phần lớn CCR trên thế giới hiên nay là thuộc loại này) thì về nguyên tắc phải áp dụng CCR quốc tế, vì chỉ có CCR quốc tế mới có uy tín trên thị trường thế giới. Để đạt được CCR quốc tế thì các chủ rừng phải thực hiện tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, các quy trình chứng chỉ quốc tế chỉ xây dựng tiêu chuẩn chung, áp dụng cho toàn bộ hệ thống, nên nhiều khi không đủ chi tiết (không có các chỉ số đánh giá) phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Vì vậy, các quy trình quốc tế có chính sách phê duyệt (endorse) các tiêu chuẩn quốc gia được xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn quốc tế và theo một quy chế rất chặt chẽ. Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam thực tế chỉ khác tiêu chuẩn quốc tế ở phần các chỉ số đánh giá nên vẫn đảm bảo giá trị tương đương. Khi tiêu chuẩn quốc gia đã được quy trình quốc tế phê duyệt thì các tổ chức cấp chứng chỉ do quy trình đó uỷ quyền phải sử dụng tiêu chuẩn đó để đánh giá cấp chứng chỉ tại quốc gia đó. Trường hợp quy trình FSC thì tiêu chuẩn quốc gia phải do một tổ chức phi chính phủ như sáng kiến quốc gia (National Initiative) hay Tổ công tác quốc gia (National Working Group) , thành viên của FSC, xây dựng. Tuy FSC không yêu cầu chính phủ phê duyệt tiêu chuẩn quốc gia, nhưng ở những nước có lâm nghiệp chủ yếu là quốc doanh như Việt Nam thì sự phê duyệt của chính phủ là rất cần thiết. Nếu nhà nước không phê duyệt thì các chủ rừng quốc doanh sẽ không dám thực hiện tiêu chuẩn. Ở Việt Nam, tổ công tác quốc gia QLRBV và CCR (NWG) còn rất yếu cả về tổ chức và năng lực. Tuy P&C&I VN dự thảo đã được NWG chuẩn bị công phu (xem Phụ lục 4), nhưng chưa được trình Bộ NN& PTNT và FSC phê duyệt. Sự hỗ trợ của chính phủ cho hoàn thiện TCQG để được FSC phê duyệt là cần thiết, tập trung vào mấy vấn đề sau: - Tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan Nhà nước và các tổ chức liên quan cho dự thảo TCQG để NWG có thể sớm hoàn chỉnh TCQG trình Chính phủ phê duyệt. 27
- - Lập và thực hiện đề án hoàn chỉnh các thủ tục trình TCQG để Chính phủ và FSC phê duyệt. Giao cho NWG thực hiện đề án, Bộ Nông nghiệp và PTNT cấp kinh phí. - In ấn, phân phát và tập huấn thực hiện TCQG. 4.4. Tăng cường hiểu biết Tình hình chung hiện nay là hiểu biết về QLRBV và CCR ở tất cả các cấp còn rất yếu, cản trở cho việc phát triển CCR. Trong mấy năm vừa qua NWG (thuộc Hội khoa học kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam) phối hợp với WWF Đông Dương và Dự án REFAS của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có tổ chức một số cuộc họp và hội thảo về chuyên đề này, nhưng mới chỉ tập trung chủ yếu ở cấp trung ương và chỉ ở một vài địa phương như Hà Nội, Nghệ An, Gia Lai, với số người tham dự rất hạn chế. Các cơ quan lâm nghiệp của Nhà nước hầu như chưa vào cuộc. Đa số chủ rừng chưa hiểu khái niệm QLRBV và chưa biết CCR là gì, vì mục tiêu gì, đem lại lợi ích gì, quá trình tiến hành như thế nào. Một số chủ rừng tiên tiến nhất có nguyện vọng được cấp chứng chỉ nhưng cũng không biết phải bắt đầu từ đâu và triển khai ra sao. Do vậy, hoạt động nâng cao hiểu biết là rất cần thiết để CCR thực sự là một công cụ thúc đẩy thực hiện QLRBV ở Việt Nam. Các mặt hoạt động tăng cường hiểu biết bao gồm: - Tổ chức các hội nghị và hội thảo: đây là hình thức hoạt động rất hiệu quả để phổ biến thông tin về tình hình CCR quốc tế và trong nước, xây dựng tiêu chuẩn CCR, các quy trình chứng chỉ, vai trò của các cổ đông khác nhau v.v. Các hội thảo cần được tổ chức ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam và ở những vùng lâm nghiệp tập trung như Đông bắc, Trung du Bắc bộ, Bắc trung bộ, Nam trung bộ, và Tây Nguyên, sao cho những cán bộ lâm nghiệp chủ chốt cấp trung ương, Sở Nông nghiệp và PTNT, lâm trường, đại diện các cổ đông v.v đều có cơ hội tham dự. - In ấn và phân phát tài lỉệu: Phân phát rộng rãi Bộ tiêu chuẩn FSC Việt Nam, các tài liệu hướng dẫn đánh giá QLR, cẩm nang CCR. Tạp chí chuyên ngành thường xuyên có bài và thông tin về CCR. - Đào tạo: Đưa nội dung QLRBV và CCR vào giảng dạy ở các trường nông-lâm nghiệp. - Phổ cập thông tin: Tuyên truyền về CCR bằng các phương tiện truyền thông như TV, đài phát thanh. 4.5. Đào tạo và nâng cao năng lực Chứng chỉ rừng có nhiều điểm về nội dung và hình thức hoàn toàn khác với các loại chứng chỉ khác. Để có thể phát triển và sử dụng thành công công cụ chứng chỉ rừng thì đòi hỏi những người trong cuộc phải được chuẩn bị tương ứng với từng vị trí công tác, cụ thể là: - Ở cấp ban hành chính sách: Tập huấn, hội thảo về sử dụng công cụ CCR như thế nào để đạt mục tiêu QLRBV ở cấp quốc gia cũng như cấp đơn vị quản lý. Những thông tin về các quy trình chứng chỉ, nội dung CCR, tiêu chuẩn QLRBV, các giải pháp khuyến khích CCR đều rất cần thiết cho quá trình ra quyết định và soạn thảo chính sách. - Các cổ đông: Tập huấn, hội thảo về CCR, vai trò và trách nhiệm của các cổ đông, thiết lập mạng phối hợp, tham khảo ý kiến trong qúa trình xây dựng tiêu chuẩn quốc gia. - Ở cấp đơn vị quản lý: Mở lớp đào tạo về thực hiện tiêu chuẩn, xây dựng kế hoạch quản lý, kiểm tra đánh giá, thiết lập và vận hành chuỗi hành trình, thủ tục xin cấp chứng chỉ. - Cấp thôn bản, cộng đồng: Phổ biến về mục đích ý nghĩa và nội dung của CCR, vai trò, nghĩa vụ và quyền lợi của thôn bản, cộng đồng, và người dân trong tiêu chuẩn CCR. Hiện tại rất cần đào tạo cán bộ giám sát đánh giá quản lý rừng theo các tiêu chuẩn và cán bộ xây dựng kế hoạch quản lý, nhất là ở cấp đơn vị quản lý. Các hình thức đào tạo có thể 28
- là mở các lớp đào tạo ngắn ngày, gửi đi tham dự các lớp đào tạo CCR ở nước ngoài (ITTO, FAO, Sida/Orgut Thuỵ Điển, Công ty tư vấn lâm nghiệp ProForest v.v), tham dự các hội nghị hội thảo CCR, nhận tài liệu tham khảo v.v. 4.6. Hệ thống thông tin Thông tin sử dụng cho CCR là thông tin về QLRBV, tức là phải bao gồm những thông tin về các mặt kinh tế, sinh thái, môi trường và xã hội. Hệ thống thông tin sử dụng cho CCR do vậy phải khá toàn diện. Thường thì chủ rừng phải cung cấp cho các đoàn đánh giá các số liệu, thông tin về: - Các tài liệu về luật pháp, chính sách, quy chế v.v liên quan đến quản lý kinh doanh rừng. - Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội. - Các quy trình quy phạm kỹ thuật đang áp dụng. - Số liệu điều tra rừng định kỳ. - Các hệ sinh thái và đa dạng sinh học. - Đất và nguồn nước. - Các báo cáo về giám sát đánh giá. Việc xây dựng các hệ thống thông tin riêng biệt có thể rất tốn kém, do đó cần xem xét sử dụng tối đa khả năng kết hợp các hệ thống thông tin của các cơ quan khác nhau theo cách phát tiển các hệ thống chuyên môn hoá. Sử dụng những kỹ thuật mới như viễn thám, hệ thống thông tin địa lý (GIS), và hệ thống định vị địa lý (GPS) là những giải pháp nâng cao chất lượng giám sát đánh giá quản lý rừng rất có hiệu quả. 5. Các quy trình chứng chỉ rừng trên thế giới 5.1. Loại quy trình Từ khi xuất hiện đến nay CCR đã được hơn 10 năm tuổi, và hiện nay trên thế giới tồn tại nhiều quy trình chứng chỉ rừng khác nhau, và diện tích rừng có chứng chỉ đã vượt con số 300 triệu ha. Xét theo phạm vi áp dụng thì các quy trình CCR được chia thành quốc tế, vùng, và quốc gia, ví dụ: - Hội đồng quản trị rừng (Forest Stewardship Council, FSC) – quy trình quốc tế. - Chương trình phê duyệt các quy trình chứng chỉ rừng (Programme for the Endorsement of Forest Certification Schemes, PEFC) - quốc tế. - Hội đồng chứng chỉ gỗ Malaysia (Malaysian Timber Certification Council, MTCC) - quốc gia. - Sáng kiến lâm nghiệp bền vững (Sustainable Forestry Initiative, SFI) – quy trình vùng (Mỹ và Canada). Những quy trình quốc tế đặc biệt quan trọng cho CCR động lực thị trường, đòi hỏi độ tin cậy cao, trong khi đó những quy trình quốc gia nhằm cả hai mục tiêu là QLRBV và thị trường, nhưng những sản phẩm rừng có chứng chỉ quốc gia thường khó được thị trường quốc tế chấp nhận. Để tăng uy tín trên thị trường quốc tế, một số quy trình quốc gia tìm cách liên kết với các quy trình quốc tế, chẳng hạn MTCC và LEI với FSC, nhưng đến nay vẫn chưa đạt được một cơ chế chính thức. Tất cả những nước có quy trình quốc gia như Canada, Indonesia và Malaysia đều vẫn tìm kiếm chứng chỉ quốc tế và thực tế đều đã có rừng có chứng chỉ quốc tế FSC. Hai quy trình CCR quốc tế có uy tín lớn nhất hiện nay là FSC và PEFC. 29
- 5.2. Sở hữu và điều hành quy trình Sở hữu và điều hành quy trình có ảnh hưởng lớn đến một loạt đặc điểm của quy trình như cách thức xây dựng các nhân tố thành phần (tiêu chuẩn, uỷ quyền, vận hành) và nhất là thái độ của thị trường và các cổ đông đối với quy trình đó. Sở hữu Nhà nước chắc chắn không được các bên chấp nhận vì bị ảnh hưởng bởi nhân tố chính trị và thiếu tính khách quan, độc lập, do đó tất cả các quy trình CCR hiện nay đều thuộc sở hữu tập thể các cổ đông hay tổ chức độc lập, phần lớn là phi lợi nhận. Ví dụ sở hữu và điều hành của một số quy trình như sau: FSC Là một hiệp hội quốc tế độc lập phi lợi nhuận của các thành viên tự nguyện từ rất nhiều quốc gia trên thế giới, đại diện cho các nhóm quyền lợi khác nhau như môi trường, xã hội, lâm nghiệp, chế biến và thương mại gỗ, các cộng đồng địa phương, và các tổ chức chứng chỉ sản phẩm rừng. FSC không kết nạp thành viên là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho chính phủ. FSC có hệ thống điều hành thống nhất được xây dựng trên tiêu chuẩn cùng tham gia, dân chủ và bình đẳng giữa mọi thành viên. FSC có 3 ban tương đương nhau là Ban môi trường, Ban xã hội và Ban kinh tế. Cơ quan quyền lực cao nhất là Đại hội thành viên họp hai năm một lần. Văn phòng trung tâm của FSC hiện ở Bonn, Cộng hoà liên bang Đức. PEFC Là một tổ chức phi lợi nhuận, thành lập năm 1999, có trụ sở ở Luxembourg, có thành viên bình thường là 32 hệ thống chứng chỉ rừng độc lập quốc gia, và các thành viên bất thường là các tổ chức quốc tế. Cơ quan quyền lực cao nhất là đại hội thành viên, trong đó quyền bỏ phiếu được chia cho các thành viên quốc gia theo tầm cỡ của ngành lâm nghiệp của quốc gia đó, và được quyết định theo đa số. Đại hội cử ra một Ban giám đốc để điều hành PEFC. Công việc hàng ngày của PEFC do một Tổng thư ký và một Ban thư ký điều hành. SFI Chương trình SFI được Hiệp hội Rừng và Giấy Mỹ (AF&PA) thông qua năm 1994 nhằm chứng tỏ cam kết mạnh mẽ của hiệp hội đối với mục tiêu QLRBV. Hiệp hội là một tổ chức độc lập, tất cả thành viên của AF&PA đều phải tham gia chương trình SFI. Từ năm 2001 việc điều hành xây dựng tiêu chuẩn và quy chế chứng chỉ do một Ban Lâm Nghiệp Bền Vững thực hiện, gồm 15 thành viên thuộc các nhóm quyền lợi khác nhau như môi trường, bảo tồn (1/3), cán bộ chuyên gia các ban ngành của tiểu bang và liên bang (1/3), và thành viên của AF&PA. (công nghiệp rừng) (1/3). SFI có một Giám đốc và một Ban thư ký điều hành công việc hàng ngày. MTCC Là một tổ chức độc lập phi lợi nhuận của Malaysia, được thành lập để điều hành quy trình CCR quốc gia của Malaysia. Quy trình nhằm đảm bảo cho thị trường trong nước là các sản phẩm gỗ của Malaysia có nguồn gốc từ rừng đã được quản lý bền vững. MTCC có một Ban Quản Trị gồm chín thành viên đại diện cho các khối giảng dạy và nghiên cứu, công nghiệp rừng, các tổ chức phi chính phủ, và các tổ chức chính phủ. Công việc hàng ngày của MTCC do một Điều hành trưởng và một Ban thư ký thực hiên. 5.3. Tiêu chuẩn của quy trình Mỗi bộ tiêu chuẩn thường được xem xét đánh giá từ hai góc độ: a) quá trình xây dựng và b) nội dung tiêu chuẩn. 30
- b) Quá trình xây dựng rất quan trọng vì nó quyết định nội dung tiêu chuẩn. Từ quá trình xây dựng có thể thấy những ai đã tham gia xây dựng tiêu chuẩn và quá trình đó đã diễn ra như thế nào. Một thành phần cân bằng giữa các nhóm đại diện khác nhau sẽ đảm bảo một nội dung cân bằng quyền lợi của tiêu chuẩn. c) Nội dung tiêu chuẩn vô cùng quan trọng vì nó quy định những yêu cầu về chất lượng quản lý rừng cần phải thực hiện trong CCR. Các quy trình CCR khác nhau có các quá trình xây dựng tiêu chuẩn khác nhau và nôi dung tiêu chuẩn cũng khác nhau, như bảng so sánh dưới đây: Bảng 2: So sánh quá trình xây dựng tiêu chuẩn của một số quy trình CCR Quy trình Quá trình xây dựng Nội dung tiêu chuẩn FSC FSC thành lập Nhóm làm • FSC P&C gồm phần giới việc có thành phần cân bằng thiệu và 10 tiêu chuẩn thuộc giữa ba Ban (kinh tế, xã hội và ba lĩnh vực: kinh tế, xã hội, và môi trường), đại diện cho tất môi trường, chủ yếu là những cả các nhóm quyền lợi, từ các yêu cầu cụ thể cần phải thực vùng địa lý khác nhau, và có hiện trong quản lý rừng. các chuyên môn khác nhau, để Các tiêu chuẩn FSC quốc gia xây dựng dự thảo tiêu chuẩn chủ yếu chỉ phát triển thêm phần FSC. Dự thảo tiêu chuẩn FSC chỉ số (xem Phụ lục 4). sau đó được trình Ban giám đốc FSC để phê duyệt thành tiêu chuẩn chính thức (FSC Principles and Criteria hay FSC P&C). Các tiêu chuẩn FSC quốc gia được xây dựng trên cơ sở FSC P&C theo những quy định chặt chẽ và phải được FSC quốc tế phê duyệt mới được sử dụng cho CCR ở quốc gia đó. PEFC Tất cả các cổ đông đều • Tiêu chuẩn được xây dựng được mời tham gia diễn đàn dựa trên tài liệu “Những xây dựng dự thảo tiêu chuẩn, hướng dẫn ở cấp thực hiện” tuy nhiên không bắt buộc phải (operational level guidelines) có mặt tất cả. Tiêu chuẩn được của Pan-Europe đồng thời quyết định theo nguyên tắc phải phù hợp với luật pháp đồng thuận nhưng vẫn có thể quốc gia và Công ước quốc tế theo đa số. Bản thảo tiêu về lao động (ILO) chuẩn được gửi lấy ý kiến nhận xét góp ý trong hai tháng trước khi hoàn thiện. SFI • Tiêu chuẩn SFI (SFI • Tiêu chuẩn gồm những tiêu Standards) được xây dựng chuẩn về lâm nghiệp bền bởi một Hội đồng các vững và các mục: quản lý đất, chuyên gia lâm nghiệp và thu mua, nghiên cứu khoa học 31
- khoa học, có tham khảo ý và công nghệ, giáo dục đào kiến của các cổ đông, và tạo, tham gia của cộng đồng, dựa trên các khuyến nghị thực hiện QLRBV, tuân thủ của Hội nghị Liên Hợp luật pháp, và điều chỉnh sửa Quốc về môi trường và đổi. Mỗi mục có một hoặc phát triển 1992. Tiêu một số mục tiêu, mỗi mục tiêu chuẩn sau đó được sửa đổi có các phạm vi thực hiện, mỗi vào năm 2001 và 2002. phạm vi thực hiện có các chỉ số đánh giá. MTCC • Tiêu chuẩn của Malaysia – • Tiêu chuẩn có nội dung cơ MC&I, do Nhóm làm việc bản giống ITTO’s C&I.- gồm kỹ thuật xây dựng với sự 7 tiêu chí trình bày trong một tham gia góp ý của các cơ bảng gồm ba cột, trong đó cột quan nghiên cứu, giảng 1 ghi các chỉ số của tiêu chí, dạy, các cơ quan chính cột 2 là các hoạt động cần phủ và các tổ chức phi thực hiện của chỉ số, cột 3 là chính phủ, các cộng đồng tiêu chuẩn thực hiện. Cả chỉ địa phương, và nhiều cổ số và tiêu chuẩn thực hiện đều đông khác, và dựa chủ yếu là danh mục các hạng mục vào bộ tiêu chuẩn của cần thực hiện mà không được ITTO (ITTO’s C&I) định lượng. Tiêu chuẩn được đính kèm một phụ lục Thông tin bổ xung về tiêu chuẩn thực hiện 5.4. Cách tiếp cận Mỗi quy trình CCR có cách tiếp cận quá trình CCR tương đối khác nhau. Quá trình chứng chỉ rừng chính là khâu then chốt nhất của mỗi quy trình. Có thể thấy các quy trình có những điểm giống nhau và khác nhau trong cách tiếp cận quá trình CCR về các mặt đánh giá, tham khảo ý kiến và quyết định chứng chỉ. Dưới đây là bảng so sánh cách tiếp cận quá trình CCR của một số quy trình. 32
- Bảng 3. So sánh cách tiếp cận quá trình CCR của một số quy trình Quy trình Cách tiếp cận FSC • Việc thực hiện chứng chỉ rừng được uỷ quyền cho 15 tổ chức chứng chỉ (tính đến 11/2005, Phụ lục 1) hoạt động ở khắp các châu lục. Phải có 4 tuần tham khảo ý kiến và thu thập thông tin trước khi thực hiện kiểm tra đánh giá. Báo cáo do đoàn KTĐG chuẩn bị phải được phản biện bởi các chuyên gia độc lập. Quyết định cấp giấy chứng chỉ thuộc quyền một hội đồng độc lập do tổ chức chứng chỉ thành lập, không bao gồm các thành viên của đoàn KTĐG. PEFC • Các quy trình quốc gia của các nước thành viên PEFC uỷ quyền cho các tổ chức chứng chỉ quốc gia thực hiện CCR. Kiểm tra đánh giá bao gồm tham khảo tài liệu, thảo luận phỏng vấn, thăm hiện trường. Báo cáo của đoàn KTĐG không bắt buộc phải qua phản biện chuyên gia. Quyền quyết định cấp giấy chứng chỉ thuộc tổ chức chứng chỉ. MTCC • MTCC xem xét đơn và quyết định có chấp nhận thực hiện chứng chỉ hay không, và thành lập đoàn KTĐG gồm những chuyên gia đã đăng ký để thực hiện việc KTĐG. Báo cáo của đoàn KTĐG được lấy ý kiến nhận xét phản biện, trên cơ sở đó MTCC sẽ làm báo cáo trình lên Hội đồng chứng chỉ để quyết định việc cấp chứng chỉ. SFI • Đoàn đánh giá của SFI thực hiện việc KTĐG. Quá trình đánh giá gồm tham khảo tài liệu, thảo luận phỏng vấn, thăm hiện trường, lấy ý kiến của các cổ đông. Trên cơ sở kết quả đánh giá đoàn tự quyết định việc cấp chứng chỉ. 5.5. Những yêu cầu cần thực hiện Những yêu cầu đối với việc xây dựng tiêu chuẩn đã được trình bày ở mục 5.3. Mục này trình bày về yêu cầu tham khảo ý kiến, mức độ công khai và tính minh bạch của các quy trình. Đối với mỗi quy trình thì hình thức, nội dung và phương pháp tham khảo ý kiến và tính công khai là quan trọng vì các nhân tố này thể hiện tính minh bạch và ảnh hưởng đến độ tin cậy của quy trình. Có thể xem xét tính minh bạch theo ba yêu cầu sau: - Yêu cầu 1: Chủ rừng tham khảo ý kiến và công bố thông tin khi thực hiện tiêu chuẩn. - Yêu cầu 2: Đoàn đánh giá tham khảo ý kiến. - Yêu cầu 3: Công bố công khai các báo cáo kiểm tra đánh giá. Bảng 4. So sánh tính minh bạch của một số quy trình 33
- Quy trình Yêu cầu 1 Yêu cầu 2 Yêu cầu 3 FSC • Chủ rừng phải • Đoàn kiểm tra • Công bố công khai bản tham khảo ý kiến đánh giá phải thực tóm tắt kết quả kiểm tra các cổ đông và hiện tham khảo ý đánh giá trong đó nói rõ phải công bố kiến tất cả các cổ những lỗi không tuân thủ công khai bản đông trước khi nếu có. tóm tắt kế hoạch tiến hành đánh giá quản lý. chính. PEFC • Chủ rừng không • Không có quy • Chỉ yêu cầu công bố tên bắt buộc phải định chính thức, và địa chỉ của chủ rừng tham khảo ý kiến đoàn đánh giá tự được cấp chứng chỉ. các cổ đông. quyết định mức độ tham khảo ý kiến. MTCC • Chủ rừng cần • Đoàn kiểm tra • Một số thông tin về kết tham khảo ý kiến đánh giá phải quả kiểm tra đánh giá của người dân và tham khảo ý kiến được công bố trên trang cộng đồng địa các cộng đồng địa web phương phương trong quá trình đánh giá SFI • Không có yêu • Đoàn KTĐG tự • Chỉ yêu cầu công bố tên cầu chính thức, quyết định mức độ và địa chỉ chủ rừng được chủ rừng tự quyết tham khảo ý kiến cấp chứng chỉ định mức độ tham khảo ý kiến 5.6. Chính sách uỷ quyền Một số quy trình tự thực hiện CCR (nhất là các quy trình quốc gia hay vùng), một số khác thì có chính sách uỷ quyền (accreditation) cho các tổ chức CCR thực hiện đánh giá quản lý rừng và cấp chứng chỉ. Chính sách uỷ quyền FSC bao gồm ba loại sau: - Uỷ quyền cho các tổ chức chứng chỉ. - Uỷ quyền cho các sáng kiến quốc gia. - Uỷ quyền sử dụng tiêu chuẩn quốc gia và khu vực dựa trên cơ sở FSC. 5.6.1. Uỷ quyền cho các tổ chức chứng chỉ Bất kỳ một tổ chức độc lập nào hoạt động trong lĩnh vực chứng chỉ rừng và chứng chỉ chuỗi hành trình sản phẩm tuân thủ các quy chế của FSC đều có thể gửi đơn xin uỷ quyền của FSC. Các tài liệu “Quá trình uỷ quyền FSC đối với tổ chức chứng chỉ” (FSC Accreditation Process for Applicant Certification Bodies) và “Chi phí uỷ quyền” (Accreditation Costs) trên trang web của FSC: sẽ cung cấp thêm thông tin về quá trình uỷ quyền và các chi phí liên quan. Danh sách các tổ chức chứng chỉ được uỷ quyền của FSC cũng được 34
- cập nhật hàng tháng trên trang web này tại mục Certificates Lists của thư mục Document Center. Danh sách 15 tổ chức được FSC uỷ quyền tính đến tháng 10 - 2005 được ghi ở Phụ lục 1. Một số tổ chức chỉ được uỷ quyền chứng chỉ quản lý rừng, số khác được uỷ quyền chứng chỉ CoC, số khác được uỷ quyền chứng chỉ cả quản lý rừng và CoC. Phạm vi được uỷ quyền thường là “toàn thế giới”. Tất cả chứng chỉ do các tổ chức chứng chỉ được FSC uỷ quyền cấp đều được mang nhãn (thương hiệu) FSC. 5.6.2. Uỷ quyền cho các tiêu chuẩn quốc gia Các quy trình chứng chỉ quốc tế chỉ xây dựng tiêu chuẩn chung, áp dụng cho toàn bộ hệ thống, nên nhiều khi không đủ chi tiết (không có các chỉ số đánh giá) phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Vì vậy, các quy trình quốc tế có chính sách phê duyệt các tiêu chuẩn quốc gia được xây dựng trên cơ sở tiêu chuẩn quốc tế và theo một quy chế rất chặt chẽ. Khi tiêu chuẩn quốc gia (TCQG) đã được quy trình quốc tế phê duyệt thì các tổ chức cấp chứng do quy trình đó uỷ quyền phải sử dụng tiêu chuẩn đó để đánh giá cấp chứng chỉ tại quốc gia đó. Điều kiện để TCQG được FSC phê duyệt là Tổ công tác xây dựng TCQG phải được tổ chức theo quy định của FSC (phải có 3 bộ phận cân bằng là kinh tế, môi trường , và xã hội), có ít nhất ½ số thành viên của tổ là thành viên của FSC, và TCQG phải lấy gần như toàn bộ các tiêu chuẩn và tiêu chí của FSC mà chỉ thêm phần chỉ số (indicators); nếu bỏ bất kỳ tiêu chuẩn hay tiêu chí nào của tiêu chuẩn FSC hoặc thêm tiêu chuẩn và tiêu chí mới vào đều phải có giải trình được FSC chấp nhận. Bạn đọc quan tâm đến vấn đề này có thể tham khảo thêm “Cẩm nang sáng kiến quốc gia” của FSC (National Initiative Manual” trên trang web www.fsc.org. Hiện đã có 17 tiêu chuẩn quốc gia và vùng được FSC phê duyệt. 6. Thực hiện tiêu chuẩn chứng chỉ rừng Để được cấp chứng chỉ thì chủ rừng phải đạt các tiêu chuẩn CCR của một quy trình nhất định do mình lựa chọn. Vì vậy trước khi tiến hành thực hiện tiêu chuẩn thì cần phải chọn quy trình chứng chỉ thích hợp cho mục đích của mình. 6.1. Chọn quy trình chứng chỉ Khi chủ rừng có nhu cầu được cấp CCR thì câu hỏi đầu tiên sẽ là chọn quy trình nào là tốt nhất. Để trả lời câu hỏi này thì phải xác định thật rõ mục đích vì sao cần chứng chỉ. Có bốn nhân tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn quy trình là: - Mục đích cần CCR của chủ rừng. Mục đích phổ biến nhất hiện nay là thâm nhập thị trường. Ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đã phát triển, thị trường đòi hỏi là các sản phẩm gỗ, kể cả gỗ nhập khẩu, phải có nguồn gốc từ rừng đã được chứng chỉ đạt tiêu chuẩn quản lý bền vững. Các mục đích khác có thể là để đáp ứng các điều kiện cho phép khai thác, thu hút tài trợ hoặc đầu tư của nhà nước, được hưởng giá bán sản phẩm có ưu đãi, được hưởng các ưu đãi về miễn giảm thuế của nhà nước, hay thu hút du lịch sinh thái v.v. Ví dụ về chọn quy trình theo mục đích của CCR: Nếu cần CCR để thâm nhập thị trường vùng (nước) A thì phải chọn quy trình có uy tín nhất ở vùng (nước) A Nếu cần CCR để thu hút tài trợ, đầu tư, v.v thì phải chọn quy trình do nhà tài trợ hay đầu tư yêu cầu (chỉ định) hoặc chấp nhận. Nếu cần CCR để cải thiện quan hệ với các tổ chức môi trường xã hội ở địa phương, thu hút thăm quan du lịch v.v thì tốt hơn nên chọn quy trình CCR quốc gia được ưa chuộng (nếu có). 35
- - Nhận thức, hiểu biết về quy trình: Hiểu biết không đầy đủ về các quy trình có thể dẫn đến chọn phải quy trình không phù hợp. Vì vậy, trước khi chọn chủ rừng cần tìm hiểu kỹ các quy trình về các mặt: loại quy trình (quốc gia hay quốc tế), sở hữu và điều hành quy trình, tiêu chuẩn chứng chỉ, uy tín trên thị trường mục tiêu, vùng hoạt động, loại rừng chứng chỉ (tự nhiên hay rừng trồng v.v), và quá trình chứng chỉ (của những tổ chức chứng chỉ do quy trình đó uỷ quyền). - Thị trường mục tiêu của chủ rừng: Nếu chứng chỉ rừng có động lực chủ yếu là thị trường thì đương nhiên phải chọn quy trình nào có uy tín nhất tại thị trường đó. Chủ rừng cần tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước thì có thể chọn quy trình quốc gia nếu quy trình đó được thị trường trong nước chấp nhận. Có một số thị trường nước ngoài chỉ chấp nhận nhãn sản phẩm chứng chỉ của một quy trình xác định, chẳng hạn như FSC, và trong trường hợp này, nếu muốn thâm nhập thị trường đó, thì cách duy nhất là chọn quy trình đó. - Địa bàn hoạt động của quy trình: Chỉ nên chọn những quy trình có hoạt động chứng chỉ tại nước hay vùng nơi có chủ rừng. Những quy trình quốc gia thì chỉ chứng chỉ trong quốc gia đó, còn những quy trình quốc tế thường cũng không bao phủ hết mọi quốc gia mà chỉ tập trung vào một số vùng tập trung nhiều khách hàng. Ví dụ MTCC chỉ ở Malaysia, SFI chỉ ở Mỹ và Canada, PEFC chủ yếu ở Châu Âu, chỉ có quy trình FSC là bao phủ khắp toàn cầu. 6.2. Tiêu chí lựa chọn Dưới đây là những tiêu chí để lựa chọn quy trình CCR: - Uy tín của quy trình đối với những mục đích cần chứng chỉ của chủ rừng. Uy tín của quy trình thể hiện ở tầm hoạt động, số lượng khách hàng, diện tích và tính đa dạng địa lý và sinh thái của rừng đã chứng chỉ, xu hướng và tốc độ phát triển. - Có hiểu biết và kinh nghiệm về quy trình (thông qua các chủ rừng đã được chứng chỉ khác). Nhiều khi chủ rừng khách hàng gặp nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu một quy trình nào đó. Nếu trong vùng lân cận đã có những rừng do quy trình đó chứng chỉ thì việc tìm hiểu và học hỏi kinh nghiêm sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. - Tiêu chuẩn phù hợp với điều kiện địa phương: Mỗi quy trình đều có bộ tiêu chuẩn của riêng mình. Tuy các bộ tiêu chuẩn đều có những yêu cầu nhằm đạt mục tiêu QLRBV, nhưng nội dung và cách trình bày lại rất khác nhau, dẫn đến có những cách tiếp cận khác nhau (xem mục 5. 4) và quá trình CCR cũng khác nhau. Tiêu chuẩn phù hợp với địa phương (quốc gia) có thể giúp tránh được những xung đột giữa tiêu chuẩn và luật pháp cũng như phong tục tập quán quốc gia. - Dễ tiếp cận về mặt địa lý, ngôn ngữ, văn hoá v.v. Sẽ là thuận lợi hơn nếu quy trình chứng chỉ đã có văn phòng đại diện ở địa phương, có các nhân viên người địa phương. Điều này có thể giúp giảm đáng kể chi phí giao dịch, đi lại, phiên dịch v.v. và các thủ tục cũng được thực hiện nhanh chóng hơn. 6.3. Thực hiện tiêu chuẩn Sau khi đã chọn được quy trình dự định sẽ xin cấp chứng chỉ thì chủ rừng phải thực hiện tiêu chuẩn CCR (cũng đồng thời là tiêu chuẩn QLRBV) của quy trình đó. Đối với những chủ rừng đã có trình độ quản lý cao, gần với tiêu chuẩn, thì việc thực hiện tiêu chuẩn sẽ không mấy khó khăn, nhưng đối với những đơn vị còn xa mới đạt tiêu chuẩn thì việc thực hiện tiêu chuẩn sẽ là cả một quá trình khó khăn và tốn kém. Quá trình thực hiện tiêu chuẩn thông thường có 5 hợp phần sau: 36
- - Hiểu biết tiêu chuẩn. - Xác định khiếm khuyết so với tiêu chuẩn. - Lập kế hoạch khắc phục khiếm khuyết. - Thực hiện kế hoạch. - Kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch. 6.3.1 Hiểu biết tiêu chuẩn Để thực hiện được tiêu chuẩn thì trước hết và rất quan trọng là phải hiểu chính xác tiêu chuẩn. Nhưng nhiều khi đây là công việc không phải dễ vì những nguyên nhân như: - Các bộ tiêu chuẩn thường được trình bày bằng ngôn ngữ chuyên môn sâu, không phổ thông. - Có sự khác biệt về ngôn ngữ chuyên môn giữa các hệ thống giáo dục đào tạo, giữa địa phương này với địa phương kia. - Các yêu cầu của tiêu chuẩn có thể không rõ ràng cụ thể, có thể hiểu theo nhiều cách. - Người đọc chưa được chuẩn bị, đào tạo cần thiết.v.v - Vì vậy chủ rừng nên dành một khoảng thời gian nhất định để tìm hiểu tiêu chuẩn. Dưới đây là một số cách để hiểu tiêu chuẩn. - Cùng đọc và thảo luận giải thích cho nhau có thể giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề. - Hỏi các chủ rừng lân cận đã được chứng chỉ hoặc đang thực hiện tiêu chuẩn để được chứng chỉ bởi chính quy trình mà mình đã chọn. Cách này nhanh gọn dễ hiểu và rất hiệu quả. Ở Việt Nam có các lâm trường Sơ Pai, Hà Nừng (Gia Lai), Hương Sơn (Hà Tĩnh), Long Đại (Quảng Bình) đang thực hiện tiêu chuẩn FSC. - Nhờ chuyên gia địa phương giải thích, nhất là những người đã từng tham gia xây dựng tiêu chuẩn quốc gia theo quy trình mà chủ rừng đã chọn. - Đề nghị chủ quy trình hoặc những tổ chức chứng chỉ của quy trình đó giải thích. Đây là cách tốt nhất nếu tại địa phương có văn phòng đại diện của họ. Cũng có thể hỏi qua thư điện tử (email). - Hỏi các chuyên gia của các tổ chức đang thực hiện các chương trình hay dự án về thực hiện tiêu chuẩn chứng chỉ rừng ở địa phương (như WWF, TFT, VIFA). - Tra cứu tài liệu, sách chuyên môn. 6.3.2. Xác định khiếm khuyết quản lý rừng so với tiêu chuẩn Sau khi đã thật sự hiểu tiêu chuẩn thì bước tiếp theo sẽ là xác định xem đang có những khiếm khuyết gì trong hệ thống quản lý rừng của đơn vị so với yêu cầu của tiêu chuẩn. Tuỳ theo tình hình cụ thể về trình độ, nhân lực, và thời gian, chủ rừng có thể thực hiện công việc trên bằng các hình thức kiểm tra đánh giá trong, kiểm tra đánh giá ngoài, và đánh giá trực diện. Kiểm tra đánh giá trong. Kiểm tra đánh giá trong (nội bộ) được thực hiện bằng cách lập một nhóm chuyên gia nội bộ lớn nhỏ tuỳ theo tầm cỡ của đơn vị để thực hiện việc xác định khiếm khuyết. Trong thành phần nhóm ít nhất phải có cán bộ lâm sinh, cán bộ kế hoạch, và cán bộ bảo tồn rừng. Các khiếm khuyết được xác định bằng cách so sánh các hạng mục trong kế hoạch quản lý với bộ tiêu chuẩn và được trình bày trong báo cáo kết quả kiểm tra. KTĐG trong có ưu điểm là ít tốn kém, chủ động về thời gian, ít phải hội họp tham khảo ý 37
- kiến, nhưng nhược điểm là dễ bỏ sót khiếm khuyết hoặc nặng về nhận xét chủ quan, nhất là khi các kiểm tra viên chưa hoàn toàn hiểu tiêu chuẩn. Kiểm tra đánh giá ngoài. Khi đơn vị quản lý không có chuyên gia hoặc chưa có đủ kinh nghiệm thì có thể thuê chuyên gia ngoài để thực hiện kiểm tra xác định khiếm khuyết, gọi là kiểm tra đánh giá ngoài. KTĐG ngoài là cần thiết khi chủ rừng cảm thấy chưa thật tự tin vào năng lực nội bộ hoặc chưa hoàn toàn hiểu bộ tiêu chuẩn. Kết quả kiểm tra đánh giá ngoài sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng chuyên gia, do đó việc chọn chuyên gia phải hết sức cẩn thận. Nên thuê các chuyên gia đã từng thực hiện công việc này ít nhất là vài lần. Có thể nhờ các tổ chức chứng chỉ hoặc các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực CCR và xây dựng tiêu chuẩn giới thiệu chuyên gia. Dù là kiểm tra đánh giá ngoài thì cũng rất cần có sự phối hợp của các chuyên gia nội bộ vì họ chính là những người sẽ thực hiện sửa chữa những khiếm khuyết đã xác định. Đối với các chủ rừng là doanh nghiệp Nhà nước thì còn cần có sự tham gia của cán bộ Chi cục lâm nghiệp hoặc Sở NN và PTNT, nhất là người có nhiệm vụ theo dõi về quản lý rừng. Đánh giá trực diện. Hình thức đánh giá xác định khiếm khuyết toàn diện dựa trên cơ sở so sánh trực diện quản lý rừng với từng tiêu chuẩn gọi là đánh giá trực diện (baseline assessment). Đánh giá trực diện có thể được thực hiện bởi các chuyên gia nội bộ (đánh giá trong), các chuyên gia tư vấn (đánh giá ngoài), hoặc bởi tổ chức chứng chỉ, tuỳ tình hình cụ thể về nhân lực, tài chính, thời gian của đơn vị và khả năng thuê được tư vấn. Đánh giá bởi các chuyên gia nội bộ đỡ tốn kém nhất và chủ động hơn nhưng kết quả sẽ không tốt nếu chuyên gia thiếu kinh nghiệm về đánh giá CCR. Nếu chọn đánh giá bởi chuyên gia tư vấn thì vấn đề quan trọng nhất vẫn là phải chọn được những chuyên gia giàu kinh nghiệm trong đánh giá trực diện. Ví dụ về đánh giá trực diện theo tiêu chuẩn FSC. Các tiêu chí Các chỉ số Đánh giá thực hiện Tiêu chuẩn 1. Tuân theo pháp luật và P&C&I Việt Nam 1.1 Chủ rừng 1.1.1Chủ rừng lưu giữ Chỉ lưu giữa một số tài liệu sử tuân theo pháp các văn bản pháp luật, dụng hàng ngày, còn thiếu các luật hiện hành những quy định của tài liệu quan trọng như của Nhà nước chính quyền và cộng Chỉ số thực hiện chưa đầy đủ và địa phương đồng địa phương có liên quan đến quản lý rừng: • Luật bảo vệ và phát triển rừng • . 1.1.2 . 1.1.3 Không có các vụ Hoàn toàn không có vụ việc việc vi phạm lớn về nào bị xử lý bằng pháp luật. pháp luật và các quy Chỉ số được thực hiện đầy đủ định khác của chính quyền và cộng đồng địa phương trong ba năm gần đây 1.1.4 38 1.2. Nộp đầy 1.2.1 Có đầy đủ chứng Đã nộp đủ các loại thuế. Chỉ đủ các khoản từ củacơ quan thuế và số đượcthựchiện đầy đủ
- Chỉ thuê tổ chức chứng chỉ đánh giá trực diện khi hai giải pháp trên khó thực hiện và chủ rừng có nguồn kinh phí dồi dào, vì giải pháp này khá đắt do phải thuê chuyên gia người nước ngoài. 6.4. Lập kế hoạch khắc phục khiếm khuyết Sau khi đã xác định được những khiếm khuyết thì công việc tiếp theo là lên kế hoạch khắc phục những khiếm khuyết đó. Bản kế hoạch phải đủ chi tiết, bao gồm các mục: những việc làm cụ thể, thời gian thực hiện, người chịu trách nhiệm thực hiện, và nguồn kinh phí vật tư cần thiết. Một điểm quan trọng cần đặc biệt lưu ý là cần mời những người sẽ trực tiếp thực hiện kế hoạch tham gia xây dựng kế hoạch để đảm bảo rằng kế hoạch sẽ sát với tình hình thực tế, có tính khả thi cao. Nếu chuyên gia tư vấn được thuê để kiểm tra đánh giá quản lý rừng thì họ sẽ cùng với cán bộ của chủ rừng lập kế hoạch này. 6.4.1. Xác định những việc cần làm Chỉ khi xác định được thật rõ cần phải làm gì để khắc phục những khiếm khuyết thì mới có thể lên kế hoạch thực hiện những công việc đó. Khối lượng công việc tuỳ thuộc khiếm khuyết là nhỏ hay lớn, đơn giản hay phức tạp. Những khiếm khuyết nhỏ là những khiếm khuyết chỉ có tính tạm thời, không hệ thống, tác động của nó chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ, và việc khắc phục được tiến hành nhanh gọn ít tốn kém. Ví dụ những việc khắc phục khiếm khuyết nhỏ như bổ xung tài liệu lưu trữ, thực hiện công bố bản tóm tắt kế hoạch quản lý, hay điều chỉnh lại chương trình đào tạo v.v. Những khiếm khuyết lớn là những khiếm khuyết liên tục tiếp diễn trong thời gian dài, có tính hệ thống, ảnh hưởng tới diện lớn, mang tính giả tạo (ví dụ như dùng nhãn mác giả ). Ví dụ, việc khắc phục khiếm khuyết lớn như phải thực hiện xác định các khu rừng có giá trị bảo tồn cao, hay phải xây dựng lại kế hoạch quản lý, phải tiến hành đánh giá tác động môi trường, xã hội v.v. 6.4.2. Kế hoạch thời gian Cố gắng tối đa định lượng công việc để trên cơ cở đó có kế hoạch thời gian hợp lý khi nào bắt đầu khi nào kết thúc. Trường hợp có các khiếm khuyết lớn thì phải xác định các ưu tiên và phân thành các giai đoạn thực hiện như giải pháp CCR theo giai đoạn nói ở mục 7.11. Khi xác định kế hoạch thời gian cần xem xét kỹ những tình huống sau đây: - Có một số công việc chỉ có thể được thực hiện sau khi đã thực hiện xong một hay một số công việc khác. Trường hợp này rõ ràng là phải ưu tiên thực hiện trước những việc khác đó. - Có thể do có khó khăn về nhân lực nên một số người được phân công phải làm nhiều việc trong cùng một khoảng thời gian nào đó. Trong trường hợp này cần bố trí thời gian sao cho phù hợp nhất, tránh tình trạng khi thì quá dồn dập, khi thì ít việc làm. - Cũng cần tính đến những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện công việc như điều kiện thời tiết, những thay đổi về cơ chế, tổ chức .v.v và có giải pháp hạn chế những ảnh hưởng đó. Khi thực hiện kế hoạch thường có thể phát sinh những tình huống mới có thể gây trở ngại, nhất là đối với những công việc phải thực hiện trong thời gian dài, trên địa bàn rộng, vì vậy nên có quy định định kỳ xem xét điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp. Nếu đơn vị đang thực hiện kế hoạch hàng năm hay kế hoạch dài hạn, hoặc những chương trình kinh tế, xã hội, môi trường khác thì có thể lồng ghép kế hoạch khắc phục khiếm khuyết với những chương trình hay kế hoạch đó. 39
- 6.4.3. Người chịu trách nhiệm thực hiện, kinh phí, vật tư Mỗi công việc đều phải có người chịu trách nhiệm thực hiện. Nếu là công việc liên quan đến nhiều bộ phận, cần nhiều người thực hiện thì phải có người cầm đầu, chịu trách nhiệm chính. Đối với mỗi công việc cần xác định rõ cần bao nhiêu người làm, kể cả thuê chuyên gia, bao nhiêu kinh phí, vật tư, lấy từ nguồn nào, vào thời gian nào, và ai chịu trách nhiệm cung ứng. Chuyên gia ngoài, nhất là những chuyên gia đã từng tham gia các chương trình cải thiện quản lý rừng vì mục tiêu CCR có thể giúp tính toán việc này rất hiệu quả. 6.5. Thực hiện kế hoạch Kế hoạch đã lập xong phải gửi cho các phòng ban liên quan và các cá nhân được giao trách nhiệm thực hiện kế hoạch. Đối với những công việc nhỏ lẻ, do một vài người thực hiện thì thường không gặp trở ngại gì đáng kể, nhưng việc thực hiện những công việc lớn, phức tạp thường liên quan đến nhiều bộ phận khác nhau và nhiều khi phải qua những thủ tục vật tư tài chính phức tạp. Nói chung, khi bắt đầu thực hiện kế hoạch người chịu trách nhiệm chính của những công việc lớn nên gặp thủ trưởng các phòng ban để được cam kết là sẽ được đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về nhân lực, vật tư, kinh phí v.v. Một điểm quan trọng nữa là những người thực hiện kế hoạch phải hiểu thật tốt họ phải làm những việc gì và làm như thế nào, trong thời gian bao lâu. Những công việc cần làm hàng ngày hay hàng tuần và ai làm cần được ghi lên bảng treo trong phòng làm việc, và đánh dấu theo dõi việc gì đã làm việc gì chưa. 6.6. Giám sát đánh giá Giám sát đánh giá rất quan trọng để đảm bảo việc thực hiện kế hoạch đạt được mục tiêu trong khuôn khổ thời gian đã định. Trong mọi trường hợp đều cần có một kế hoạch giám sát đánh giá phù hợp với phạm vi và cường độ hoạt động thực hiện kế hoạch khắc phục khiếm khuyết. Có ba hình thức giám sát đánh giá là không chính thức, chính thức và bất thường. a) Giám sát đánh giá không chính thức: Giám sát đánh giá không chính thức là hình thức kiểm tra bình thường và đơn giản hàng tuần hay hàng tháng tuỳ theo tính chất công việc, và do người nhóm trưởng hay tổ trưởng của nhóm/tổ đó thực hiện, mục đích là để kiểm tra xem công việc có được thực hiện theo đúng yêu cầu không, tiến độ đến đâu, có khó khăn gì v.v. Hình thức giám sát đánh giá này giúp phát hiện kịp thời những sai sót nhỏ để có giải pháp khắc phục. Đối với những đơn vị lâm nghiệp hay chủ rừng quy mô nhỏ và những chủ rừng quy mô lớn nhưng không có những khiếm khuyết lớn phải khắc phục thì chỉ cần giám sát đánh giá không chính thức là đủ. b) Giám sát đánh giá chính thức: Khi chủ rừng phải thực hiện khắc phục những khiếm khuyết lớn, thời gian khắc phục dài, thì thường phải thực hiện giám sát đánh giá chính thức. Có hai hình thức: - Trưởng các tổ nhóm hay người chịu trách nhiệm định kỳ báo cáo bằng văn bản tình hình, tiến độ thực hiện công việc được giao. Hình thức này có ưu điểm là đơn giản, có thể kết hợp với báo cáo chung của đơn vị, nhưng có nhược điểm là độ chính xác không cao do nhiều khi cán bộ thực hiện không muốn báo cáo về thiếu sót hay thất bại. Mẫu biểu báo cáo chi tiết có thể hạn chế được một phần nhược điểm này. - Tiến hành giám sát đánh giá định kỳ nội bộ. Đơn vị tổ chức đoàn đánh giá đến kiểm tra tai chỗ việc thực hiện các công việc được giao, họp với những người tham gia thực hiện công việc để nghe họ trình bày về những việc đã làm được, những việc chưa làm được, những khó khăn tồn tại v.v. Ưu điểm của hình thức này là có thể thu thập được thông tin một cách chính xác hơn, khách quan hơn, và nhiều khi còn phát hiện ra những vấn đề mà những người thực hiện không thấy. Nhược điểm là cồng kềnh và tốn kém, phụ thuộc vào 40
- nguồn nhân lực và quỹ thời gian cho phép. Tuy nhiên, đối với những đơn vị quản lý rừng quy mô lớn đã có nền nếp về đánh giá nội bộ thì hình thức này là hiệu quả nhất. c) Giám sát đánh giá bất thường: Khi việc thực hiện kế hoạch gặp phải một vấn đề nào đó khiến có yêu cầu phải điều chỉnh ngay kế hoạch thì có thể phải thực hiện giám sát đánh giá bất thường. Hình thức này cũng giống như kiểm tra đánh giá trong, nhưng được thực hiện không theo định kỳ để giải quyết những tình huống bất thường. 7. Quá trình chứng chỉ rừng Nếu là CCR quốc gia thì thường chỉ có một quy trình quốc gia và không có vấn đề phải chọn quy trình. Trường hợp CCR quốc tế thì phải chọn quy trình quốc tế thích hợp nhất cho mục tiêu của CCR như đã trình bày ở mục 6. Có hai hình thức chứng chỉ như sau: - Chứng chỉ riêng biệt là hình thức chứng chỉ cho một chủ rừng riêng biệt, - Chứng chỉ theo nhóm là hình thức chứng chỉ đồng thời cho một nhóm chủ rừng (xin xem mục 8.4). Gửi đơn xin chứng chỉ Chọn tổ chức chứng chỉ Đánh giá sơ bộ Khắc phục tồn tại, khiếm khuyết Tham khảo ý kiến của các cổ đông Đánh giá chính Thực hiện các yêu cầu sửa chữa Báo cáo và phản biện báo cáo Cấp chứng chỉ 41
- Giám sát sau chứng chỉ Hình 10. Các bước của một quá trình CCR điển hình. Nói chung quá trình CCR của các quy trình quốc tế đều giống nhau. Quá trình dưới đây được trình bày dựa theo quy trình CCR quốc tế FSC - quy trình đang được áp dụng phổ biến nhất hiện nay. Thông thường một quá trình chứng chỉ rừng thường bao gồm các bước như ở Hình 10. 7.1. Gửi đơn xin chứng chỉ Tuỳ tình hình cụ thể, chủ rừng có thể xin cấp chứng chỉ rừng cho toàn bộ đơn vị (lâm trường, công ty, trang trại lâm nghiệp v.v) hay chỉ cho một số khu rừng nhất định mà mình cho là đã đạt tiêu chuẩn. Trước hết chủ rừng cần phải gửi đơn xin chứng chỉ đến tổ chức chứng chỉ. Tuỳ theo từng tổ chức chứng chỉ mà mẫu ĐXCC có thể khác nhau đôi chút, nhưng thông thường thì trong ĐXCC chủ rừng phải cung cấp những thông tin sau: - Loại chứng chỉ (chứng chỉ quản lý rừng riêng biệt hay theo nhóm). - Tên và địa chỉ, điện thoại, fax, email, website của chủ rừng. - Tên người đầu mối (tốt nhất là thạo tiếng Anh). - Tên người chịu trách nhiệm chính. - Tên khu rừng cần chứng chỉ (nếu là một nhóm chủ rừng thì ghi danh sách từng thành viên trong nhóm). - Loại rừng (hỗn giao nhiệt đới lá rộng, lá kim, ngập mặn v.v, hay rừng trồng). - Sở hữu (quốc doanh, tư nhân, cộng đồng v.v), giấy chứng nhận sở hữu. - Diện tích rừng (ha), nếu là nhiều khoảnh thì ghi diện tích từng khoảnh, - Các hoạt động quản lý hiện nay. - Địa chỉ khu rừng (làng, xã, huyện, tỉnh, vùng v.v). - Điều kiện giao thông (cấp đường, cách tỉnh lỵ, thành phố, sân bay km). - Khoảng cách từ văn phòng đến chỗ xa nhất của khu rừng, km. - Khối lượng khai thác hàng năm (loài cây, con, sản phẩm và khối lượng mỗi tiểu khu). - Số người làm, kể cả hợp đồng. - Thời gian đề nghị tiến hành đánh giá chính (ngày tháng năm). Trên cơ sở những thông tin trên tổ chức chứng chỉ sẽ chuẩn bị và gửi cho chủ rừng một đề xuất trong đó mô tả quá trình chứng chỉ và đưa ra giá thành. Chủ rừng hoàn toàn không phải trả công cho việc chuẩn bị đề xuất trên. 7.2. Chọn tổ chức chứng chỉ Sau khi đã chọn được quy trình chứng chỉ như nói ở mục 6, chủ rừng còn phải chọn một tổ chức chứng chỉ (TCCC), tiếng Anh gọi là certification body, hoặc registration body đã được quy trình đó uỷ quyền. Có thể tìm hiểu về các tổ chức chứng chỉ được uỷ quyền trên trang web của quy trình đã chọn. Danh sách và địa chỉ các tổ chức chứng chỉ do FSC uỷ quyền được ghi ở Phụ lục 1. Nếu trong nước hay vùng lân cận có nhiều tổ chức chứng chỉ (cùng thuộc quy trình chứng chỉ đã chọn) thì nên chọn sơ bộ một số (2- 4 tuỳ tình hình cụ thể) 42
- tổ chức để gửi đơn xin chứng chỉ. Hiện nay trong vùng có các tổ chức chứng chỉ rừng sau đây, đều thuộc quy trình FSC, đang hoạt động. - QALIFOR SGS, Nam Phi, tên tắt là SGS, đã từng thực hiện chứng chỉ rừng và chứng chỉ CoC ở Trung Quốc, Indonessia, Nhật Bản, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam. - SMARTWOOD, Rainforest Alliance, tên viết tắt là SW, đã chứng chỉ rừng ở Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản. - Scientific Certification Systems, tên viết tắt SCS, đã chứng chỉ rừng ở Nhật Bản, Malaysia. - Woodmark, Soil Association, tên viết tắt là SA, đã chứng chỉ rừng ở Nhật Bản. - Tiêu chí để chọn sơ bộ các tổ chức chứng chỉ bao gồm: - Uy tín quốc tế, phạm vi hoat động, danh tiếng v.v. - Kinh nghiệm chuyên môn, xác định theo tài liệu giới thiệu và các nguồn thông tin khác hoặc hỏi các chuyên gia. - Đã có văn phòng đại diện ở Việt Nam hay trong vùng lân cận. Sau khi đã nhận được những đề xuất của các tổ chức đã được gửi đơn chủ rừng sẽ tiến hành chọn một tổ chức thích hợp nhất (gửi đơn chưa phải là đã chọn chính thức) theo các tiêu chí như sau: - Hiệu quả: Mọi việc, từ chuẩn bị đề xuất, đánh giá sơ bộ, lấy ý kiến các cổ đông, đánh giá chính, chuẩn bị báo cáo, cấp giấy chứng chỉ v.v, có được nhanh chóng bắt đầu và thực hiện khẩn trương hay kéo dài quá. Ở đây chỉ xét phần thời gian phụ thuộc vào việc thực hiện các công việc của tổ chức chứng chỉ. - Giá thành: Giá thành thấp là một lợi điểm lớn. Cần xem xét tính hợp lý của chi phí về công chuyên gia, tàu xe, khách sạn, sinh hoạt phí v.v. - Yêu cầu dịch vụ tại chỗ: Những yêu cầu về phiên dịch, thuê xe, khách sạn v.v Nếu đã có những chủ rừng lân cận được chứng chỉ thì nên hỏi kinh nghiệm của họ trong việc chọn tổ chức chứng chỉ. 7.3. Đánh giá sơ bộ Sau khi đã chọn được tổ chức chứng chỉ, hai bên sẽ ký hợp đồng thực hiện chứng chỉ. Đánh giá quản lý rừng để cấp chứng chỉ được bắt đầu bằng việc thực hiện đánh giá sơ bộ, thường gọi là chuyến thăm đầu của vài ba người của TCCC. Mục đích của đánh giá sơ bộ là để: - TCCC gặp gỡ làm quen với người quản lý và các cán bộ liên quan của đơn vị quản lý rừng. - TCCC tìm hiểu thêm về đơn vị quản lý rừng và thu thập thêm những thông tin chưa có trong ĐXCC. - Chủ rừng tìm hiểu thêm về quá trình đánh giá cấp chứng chỉ. - TCCC lập chương trình kế hoạch cho đánh giá chính. - TCCC tìm hiểu về việc thực hiện tiêu chuẩn QLRBV và thông báo cho chủ rừng về những tồn tại, khiếm khuyết cần được sửa chữa. Phần lớn thời gian đánh giá sơ bộ là làm việc tại văn phòng. Trong buổi gặp gỡ đầu tiên này nhóm chuyên gia đánh giá sẽ hỏi nhiều câu hỏi và xem các tài liệu, sổ sách, bảng 43
- biểu do chủ rừng cung cấp. Trong đánh giá sơ bộ vấn đề hết sức quan trọng là chủ rừng phải trả lời trung thực, cung cấp thông tin chính xác thì bên đánh giá mới xác định được những tồn tại, khiếm khuyết trong quản lý rừng để chủ rừng sửa chữa trước khi bước vào đánh giá chính thức. Kinh nghiệm cho thấy nhiều chủ rừng chỉ muốn nói nhiều về ưu điểm, che dấu bớt nhược điểm, và điều này dẫn đến tình trạng là đánh giá sơ bộ không đạt được mục đích. Thực tế cho thấy, nếu những khiếm khuyết bị dấu diếm thì phần lớn sẽ bị phát hiện trong quá trình đánh giá chính, làm cho quá trình chứng chỉ thêm phức tạp hoặc có thể bị đánh trượt. Cũng có những quy trình CCR không đề ra đánh giá sơ bộ, và có vẻ như tiết kiệm được thời gian và tiền. Nhưng thực tế cho thấy vai trò của đánh giá sơ bộ rất quan trọng để giúp tìm ra những tồn tại khiếm khuyết để chủ rừng sửa chữa trước khi đánh giá chính, bởi vì nếu tất cả bị phát hiện trong đánh giá chính thì có nhiều nguy cơ bị đánh trượt. 7.4. Khắc phục tồn tại, khiếm khuyết Trong quá trình đánh giá sơ bộ nhóm đánh giá có thể phát hiện những tồn tại, khiếm khuyết trong các khâu quản lý rừng. Sau đánh giá sơ bộ chủ rừng cần tiến hành khắc phục những tồn tại khiếm khuyết đã phát hiện càng nhanh càng tốt để có thể tiếp tục các bước tiếp theo của quá trình CCR. Đây thực chất vẫn là việc thực hiện tiêu chuẩn như đã trình bày ở mục 6, vì các tồn tại khiếm khuyết được xác định trên cơ sở so sánh với tiêu chuẩn. Có thể thống nhất với nhóm đánh giá về một kế hoạch chi tiết nhằm khắc phục những khiếm khuyết đó. Để việc khắc phục các tồn tại khiếm khuyết được thuận lợi thì có thể phân chúng thành 3 nhóm: kinh tế, xã hội và môi trường, mỗi nhóm do một cán bộ chuyên môn được phân công phụ trách và chịu trách nhiệm. Thời gian khắc phục tồn tại khiếm khuyết có thể dài hay ngắn tuỳ thuộc vào khối lượng công việc cần thực hiện và khả năng đáp ứng các nhu cầu về kinh phí, vật tư và nhân lực của chủ rừng. 7.5. Tham khảo ý kiến cổ đông Hầu hết các quy trình CCR đều yêu cầu tổ chức chứng chỉ phải tiến hành tham khảo ý kiến của các cổ đông bằng nhiều hình thức khác nhau như phỏng vấn trực tiếp, họp hỏi đáp, trao đổi qua thư v.v. Các cổ đông bao gồm mọi thành phần như người dân sống gần rừng, chính quyền và các cộng đồng địa phương, các đoàn thể xã hội và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ đang hoạt động ở địa phương. Diện tích rừng càng lớn và càng phân tán thì diện các cổ đông cần được hỏi ý kiến càng lớn và càng đa dạng. Mục đích của việc tham khảo ý kiến là để tổ chức chứng chỉ rừng nắm được ý kiến, nhận xét của các bên liên quan về các hoạt động sản xuất kinh doanh rừng của chủ rừng. Khi tham khảo ý kiến, các cổ đông có thể nói tất cả những gì họ biết, nhìn thấy, nghe thấy hoặc suy nghĩ theo chủ quan, nhưng những người đánh giá phải xem xét, xác minh từng thông tin để sử dụng cho việc đánh giá quản lý rừng. Có thể xẩy ra các tình huống: - Thông tin chính xác, có liên quan đến việc thực hiện tiêu chuẩn QLR. Ví dụ một tổ chức phi chính phủ cho biết chủ rừng đã phá 2 ha rừng tự nhiên để trồng cà phê, có chỉ rõ thời gian và nơi xẩy ra sự việc, kiểm tra thấy đúng. Trường hợp này, mặc dù đã được cấp có thẩm quyền cho phép, nhưng chủ rừng có thể bị đánh lỗi là đã vi phạm tiêu chuẩn QLR nếu xét thấy việc chuyển đổi như vậy vượt ra ngoài khuôn khổ cho phép nói trong bộ tiêu chuẩn (xem tiêu chí 6.10 bộ tiêu chuẩn FSC). - Thông tin chính xác nhưng không liên quan đến việc thực hiện tiêu chuẩn. Ví dụ: Uỷ ban nhân dân xã cho biết chủ rừng không bán gỗ cho nhân dân trong xã, gây thắc mắc cho dân. Mặc dù đây là tình hình có thực, nhưng trong tiêu chuẩn QLR không đòi hỏi chủ rừng phải làm như vậy, do đó không thể coi là vi phạm tiêu chuẩn. Hoặc có người cho biết là có khu rừng bị khai thác quá mức gây tình trạng sói mòn đất, nhưng kiểm tra cho thấy 44