Bài giảng môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ

pdf 45 trang vanle 2630
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_ly_thuyet_tai_chinh_tien_te.pdf

Nội dung text: Bài giảng môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ

  1. LỜI NÓI ĐẦU Lĩnh vực Tài chính - tiền tệ là lĩnh vực vô cùng nhạy cảm trong quá trình điều hành nền kinh tế. Các chính sách tài chính - tiền tệ luôn có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế mỗi nước mỗi quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, lĩnh vực tài chính tiền tệ có khả năng tiềm ẩn biến cả khu vực thành một làng không biên giới (đồng EURO xuất hiện ở Châu Âu từ đầu năm 2002 là một ví dụ điển hình). Đồng thời, lĩnh vực tài chính - tiền tệ rất dễ biến thành con dao hai lưỡi, và thực tế đã là con dao hai lưỡi rất nghiệt ngã với nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Môn học Lý thuyết tài chính – tiền tệ được hình thành trên cơ sở tổng hợp có chọn lọc những nội dung chủ yếu của tài chính học và lưu thông tiền tệ - tín dụng. Những kiến thức của môn học này mang tính tổng hợp, có liên quan trực tiếp đến điều kiện kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết. Môn học này nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức, những khái niệm và những nội dung chủ yếu về Tài chính, Tiền tệ, Tín dụng và Ngân hàng. Nó có tác dụng làm cơ sở bổ trợ cho việc nghiên cứu các môn kinh tế ngành. Tập bài giảng Lý thuyết tài chính – tiền tệ được thiết kế thành 9 chương: Chương 1:Đại cương về tài chính tiền tệ Chương 2: Tổng quan về hệ thống tài chính Chưong 3: Ngân sách nhà nước Chương 4: Tài chính doanh nghiệp Chương 5: Thị trường tài chính Chương 6: Một số vấn đề cơ bản về lãi suất Chương 7: Ngân hàng thương mại Chương 8: Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ quốc gia Chương 9: Lạm phát tiền tệ Mặc dù đã cố gắng rất nhiều để hoàn thành tập bài giảng, nhưng trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những thiếu sót, mong nhận được các ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp và các bạn đọc. Chủ biên 1
  2. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 MỤC LỤC 3 Chương 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 7 1.1. BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ 7 1.1.1. Sự ra đời của tiền tệ 7 1.1.2. Bản chất của tiền tệ 7 1.1.3. Các định nghĩa về tiền tệ 7 1.2. CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ 8 1.2.1. Đơn vị đo lường giá trị 8 1.2.2. Chức năng phương tiện trao đổi 9 1.2.3. Chức năng phương tiện dự trữ giá trị 9 1.3. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI TIỀN TỆ 10 1.3.1. Tiền tệ bằng hàng hóa 10 1.3.2. Tiền giấy (giấy bạc ngân hàng) 10 1.3.3. Tiền ghi sổ (tiền quan ngân hàng) 11 1.4. KHỐI TIỀN TỆ 11 1.4.1. Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn) 11 1.4.2. Khối lượng tiền trong lưu thông (Ms) 11 CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ 12 1.5.1. Chế độ song bản vị 12 1.5.2. Chế độ bản vị tiền vàng 13 1.5.3. Chế độ bản vị vàng thỏi 13 1.5.4. Chế độ bản vị vàng hối đoái 13 1.5.5. Chế độ bản vị ngoại tệ 13 1.5.6. Chế độ bản vị tiền giấy không chuyển đổi ra vàng 14 1.6. BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH 14 1.6.1. Sự ra đời của phạm trù tài chính 14 1.6.2. Bản chất của tài chính 14 1.7. CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH 15 1.7.1. Chức năng phân phối 15 1.7.2. Chức năng giám đốc 15 Chương 2 TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 17 2.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 17 2.2. CẤU TRÚC CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH 17 2.3. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH QUỐC GIA 20 2.3.1. Mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia 20 2.3.2. Những quan điểm cơ bản 20 2.3.3. Nội dung của chính sách tài chính quốc gia 21 Chưong 3 NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 26 3.1. VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NUỚC 26 3.1.1. Bản chất của ngân sách nhà nước 26 3.1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước 26 3.2. THU VÀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 28 3.2.1. Thu ngân sách nhà nước 28 3.2.2. Chi ngân sách Nhà nước 31 3.2.3. Bội chi ngân sách Nhà nước và nợ công 34 3.3. TỔ CHỨC HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN CẤP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 35 3.4. NĂM NGÂN SÁCH VÀ CHU TRÌNH NGÂN SÁCH 36 Chương 4 TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 38 3
  3. 4.1. NGUỒN VỐN VÀ PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP 38 4.1.1. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp 38 4.1.2. Vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại 38 4.1.3. Nguồn vốn phát hành cổ phiếu 39 4.1.4. Phát hành trái phiếu công ty 40 4.1.5. Nguồn vốn nội bộ 42 4.2. QUẢN LÝ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP 42 4.2.1. Cơ cấu tài sản cố định 42 4.2.2. Quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp 43 4.3. QUẢN LÝ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP 43 4.3.1. Đặc điểm 43 4.3.2. Quản lý tài sản lưu động 44 Chương 5 THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 46 5.1. CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 46 5.2. CHỦ THỂ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 48 5.2.1. Chủ thể đi vay 48 5.2.2. Chủ thể cho vay hay đầu tư 48 5.3. CẤU TRÚC CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 48 5.3.1. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần 48 5.3.2. Thị trường cấp một và thị trường cấp hai 49 5.3.3. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn 50 5.4. CÁC CÔNG CỤ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 50 5.4.1. Các công cụ của thị trường tiền tệ 50 5.4.2. Các công cụ trên thị trường vốn 51 5.5. ĐIỀU HÀNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 52 5.6. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM 52 5.6.1. Các công cụ trên thị trường tài chính Việt Nam 52 5.6.2. Điều kiện để phát triển thị trường tài chính Việt Nam 52 Chương 6 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT 53 6.1. CÁC LÃI SUẤT CƠ BẢN VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG 53 6.2. MỘT SỐ PHÂN BIỆT VỀ LÃI SUẤT 54 6.2.1. Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa 54 6.2.2. Lãi suất và tỷ suất lợi tức 54 6.2.3. Lãi suất cơ bản của ngân hàng 54 6.3. CẤU TRÚC KỲ HẠN VÀ CẤU TRÚC RỦI RO CỦA LÃI SUẤT 55 6.3.1. Cấu trúc rủi ro của lãi suất 55 6.3.2. Cấu trúc thời hạn của lãi suất 55 6.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT 56 6.4.1. Ảnh hưởng của cung cầu của quỹ cho vay 56 6.4.2. Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng 56 6.4.3. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách 56 6.4.4. Những thay đổi về thuế 56 6.4.5. Những thay đổi trong đời sống xã hội 56 6.5. LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM 57 Chương 7 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 58 7.1. BẢNG CÂN ĐỐI TÀI SẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM) 58 7.1.1. Nguồn vốn 58 7.1.2. Tài sản 59 7.2. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NHTM 60 7.2.1. Thay đổi tiền dự trữ 60 4
  4. 7.2.2. Tạo lợi nhuận từ việc cho vay 61 7.3. NHỮNG NGUYÊN LÝ CHUNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ TÀI SẢN VÀ NGUỒN VỐN CỦA NHTM 62 7.3.1. Vai trò của tiền dự trữ và việc quản lý dòng tiền rút ra 62 7.3.2. Quản lý tài sản 65 7.3.3. Quản lý nguồn vốn 65 Chương 8 NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA 67 8.1. QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 67 8.1.1. Quá trình hình thành 67 8.1.2. Đặc thù của Ngân hàng Trung ương 68 8.2. CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 68 8.2.1. Phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung ứng 68 8.2.2. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng 69 8.2.3. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của Nhà nước 70 8.3. MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA 70 8.3.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ 70 8.3.2. Tạo việc làm 71 8.3.3. Tăng trưởng kinh tế 72 8.3.4. Quan hệ giữa các mục tiêu 72 8.4. CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 73 8.4.1. Nghiệp vụ thị trường mở 73 8.4.2. Chính sách chiết khấu 73 8.4.3. Dự trữ bắt buộc 74 8.4.4. Kiểm soát hạn mức tín dụng 75 8.4.5. Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại 75 8.5. NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 76 8.5.1. Quá trình hình thành và phát triển 76 8.5.2. Tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước 77 8.5.3. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam77 8.5.4. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 77 Chương 9 LẠM PHÁT TIỀN TỆ 80 9.1. NGUYÊN NHÂN GÂY LẠM PHÁT 80 9.1.1. Khái niệm về lạm phát 80 9.1.2. Phân loại lạm phát 80 9.1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát 81 9.2. TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT 85 9.2.1. Lạm phát và lãi suất 85 9.2.2. Lạm phát và thu nhập thực tế 85 9.2.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng 86 9.2.4. Lạm phát và nợ quốc gia 86 9.3. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LẠM PHÁT 86 9.3.1. Những biện pháp tình thế 86 9.3.2. Những biện pháp chiến lược 87 5
  5. Chương 1 ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Mục tiêu của chương này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về: - Bản chất, chức năng của tài chính, tiền tệ - Sự phát triển của các hình thái tiền tệ - Các chế độ tiền tệ 1.1. BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ 1.1.1. Sự ra đời của tiền tệ Kinh tế học đã chỉ ra rằng, tiền tệ là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Khi nghiên cứu về quá trình ra đời của tiền tệ, C.Mác kết luận: “Trình bày nguồn gốc phát sinh của tiền tệ, nghĩa là phải khai triển cái biểu hiện của giá trị, biểu hiện bao hàm trong quan hệ giá trị của hàng hóa, từ hình thái ban đầu giản đơn nhất và ít thấy rõ nhất cho đến hình thái tiền tệ là hình thái mà ai nấy đều thấy (C.Mác – Tư Bản – Quyển I, Tập I, trang 75 – Nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội 1963) Trong quan hệ trao đổi, hình thức giá trị được biểu hiện qua 4 hình thái: - Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. - Hình thái giá trị toàn bộ hay mở rộng. - Hình thái giá trị chung. - Hình thái tiền tệ. Từ hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên đến hình thái tiền tệ là một quá trình lịch sử lâu dài, nhằm giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong bản thân hàng hóa. Tiền tệ ra đời đã làm cho việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ được dễ dàng, nhanh chóng hơn. Nghiên cứu về lịch sử tiền tệ, các giáo sư PAUL A.SAMUELSON (Viện Dự trữ liên bang và ngân khố Mỹ) và WILLIAM D. NORDHAUS (Trường Đại học Yale Mỹ) cũng kết luận rằng: “Do các xã hội có sự mua bán rộng rãi không thể vượt qua được các cản trở quá lớn của hình thức trao đổi hiện vật, nên việc sử dụng một vật trung gian làm phương tiện trao đổi được mọi người chấp nhận. Đó là tiền tệ” (Kinh tế học – Tập I, trang 332 – Viện quan hệ quốc tế Việt Nam biên dịch năm 1989). Như vậy, tiền tệ ra đời từ sự phát triển của nền sản xuất và sự phân công lao động xã hội. 1.1.2. Bản chất của tiền tệ Tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Theo Frederic S.Mishkin – trường Đại học Columbia (Mỹ) thì “tiền tệ là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hóa, dịch vụ, hoặc trong việc trả nợ” (Kinh tế tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính của Frederic S.Mishkin – trường Đại học Columbia xuất bản năm 1992). Tuy nhiên, để có một định nghĩa chính xác về tiền tệ là điều không đơn giản. Giáo sư Milton Spercer (trường Đại học quản lý kinh doanh Mỹ) cũng thừa nhận rằng: “Nếu bạn cho rằng, bạn hiểu một cách chính xác tiền tệ là gì thì bạn còn giỏi hơn nhiều nhà kinh tế” (kinh tế học hiện đại – Phần III). Như vậy, thực chất tiền tệ là trung gian môi giới trong trao đổi hàng hóa, dịch vụ và là phương tiện giúp cho quá trình trao đổi được thực hiện dễ dàng hơn. Bản chất của tiền tệ được thể hiện rõ hơn qua hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị của tiền. 7
  6. 1.1.3. Các định nghĩa về tiền tệ. Từ lúc xuất hiện đến khi phát triển thành một thực thể hoàn chỉnh, bản chất của tiền tệ đã được hiểu không đồng nhất. Tùy theo cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau về công dụng của tiền tệ mà các nhà kinh tế học từ cổ điển đến hiện đại đã đưa ra những định nghĩa về tiền theo quan niệm riêng của mình. Căn cứ vào quá trình phát triển biện chứng của các quan hệ trao đổi, các hình thái giá trị và tư duy logíc về bản chất của tiền tệ, giáo trình này đưa ra các định nghĩa về tiền sau đây: Theo quan điểm của C. Mác cho rằng: Tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo giá trị của các hàng hóa khác và là phương tiện thực hiện quan hệ trao đổi. Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế hàng hóa đã chứng minh rằng tiền tệ là một phạm trù kinh tế - lịch sử, là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tiền tệ xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng với sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Điều đó có nghĩa là ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa, thì ở đó chắc chắn phải có tiền. Quá trình này đã chứng minh rằng “ cùng với sự chuyển hóa chung của sản phẩm thành hàng hóa, thì hàng hóa cũng chuyển hóa thành tiền” (C.Mác, Tư Bản, Quyển I, Tập I, trang 127, NXB Sự thật Hà nội 1963). Tiền tệ – kim loại vàng là sản phẩm của lao động con người có đầy đủ hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng là hàng hóa đặc biệt, bởi lẽ tiền có giá trị sử dụng đặc biệt, dùng nó người ta có thể trao đổi với bất cứ hàng hóa nào. Vấn đề này C. Mác đã chỉ ra: “giá trị sử dụng của hàng hóa bắt đầu từ lúc rút ra khỏi lưu thông còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách là phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó” (C.Mác: “Góp phần phê phán chính trị kinh tế học” NXB Sự thật, Hà Nội 1964) Theo quan điểm các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng: Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội chấp nhận làm phương tiện trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác trong nền kinh tế. Do nền kinh tế hàng hóa là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển bị chi phối bởi nhiều quy luật khách quan. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường được hình thành theo đúng nghĩa của nó thì quá trình phi vật chất của tiền tệ cũng đồng thời diễn ra một các tương ứng. Nghĩa là vai trò của tiền vàng theo xu hướng giảm dần và tăng cường sử dụng các loại dấu hiệu trong lưu thông. Cho nên, định nghĩa trên là phù hợp với lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế thị trường phát triển. 1.2. CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ 1.2.1. Đơn vị đo lường giá trị Tiền tệ là đơn vị đo lường giá trị, nghĩa là nó được dùng để đo lường giá trị các hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện trao đổi. Người ta đo giá trị của hàng hóa và dịch vụ bằng tiền giống như người ta đo trọng lượng của một vật bằng kilogam, đo chiều dài một vật bằng mét. Đơn vị định giá là chức năng đầu tiên và là chức năng quan trọng nhất của tiền tệ. Thực hiện chức năng này, giá trị của tiền tệ được sử dụng làm thước đo để so sánh với giá trị của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ. Chức năng đơn vị định giá được thể hiện: Giá trị hàng hóa. Đơn vị định giá Giá trị dịch vụ (Giá trị của tiền) Giá cả Giá trị sức lao động Khi thực hiện chức năng là đơn vị định giá, tiền đã chuyển giá trị thành giá cả. Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Để thực hiện chức năng đơn vị định giá đòi hỏi tiền phải có đủ những điều kiện sau: 8
  7. - Tiền phải có giá trị danh nghĩa pháp định. - Tiền phải quy định bằng đơn vị (tiền đơn vị): tiền đơn vị là chuẩn mực của thước đo, được biểu hiện bằng 01 đơn vị. Ví dụ: 1USD (Mỹ), 1 AUD (Oxtraylia), 1VND (Việt Nam) - Khi thực hiện chức năng đơn vị định giá chỉ cần tiền tưởng tượng, không phải là tiền thực. Khi thực hiện chức năng đơn vị định giá, tiền tệ có những ý nghĩa quan trọng sau: - Dùng chức năng này xác định được giá cả hàng hoá để thực hiện trao đổi. - Giảm được số giá cần phải xem xét, do đó giảm được chi phí và thời gian trao đổi. - Dùng tiền tệ để xác định các chỉ tiêu giá trị trong công tác quản lý nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp, đơn vị và thu chi bằng tiền của cá nhân. 1.2.2. Chức năng phương tiện trao đổi Tiền tệ làm môi giới trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa (có nghĩa là tiền được dùng để chi trả, thanh toán lấy hàng hóa) Trao đổi có thể xảy ra 2 trường hợp: Lấy tiền ngay: H – T – H Bán chịu hàng hóa, thanh toán tiền sau: H T Khi thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền có những đặc điểm sau: - Có thể sử dụng tiền mặt hoặc thanh toán không dùng tiền mặt (tiền chuyển khoản) - Có thể sử dụng tiền vàng hoặc tiền dấu hiệu. - Chuẩn mực của tiền: + Nó phải được tạo ra hàng loạt. + Phải được chấp nhận một cách rộng rãi. + Có thể chia nhỏ được để đổi chác. + Dễ chuyên chở. + Không bị hư hỏng - Trong lưu thông chỉ chấp nhận một số lượng tiền nhất định. Khi thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền tệ có ý nghĩa sau: - Mở rộng lưu thông hàng hóa. - Kiểm soát tình hình lưu thông hàng hóa. - Trao đổi thuận tiện, nhanh chóng. Do đó giảm được thời gian, chi phí trao đổi. 1.2.3. Chức năng phương tiện dự trữ giá trị. Dự trữ giá trị là tích luỹ một lượng giá trị nào đó bằng những phương tiện chuyển tải giá trị được xã hội thừa nhận . Sau khi bán hàng, người sở hữu hàng hoá trở thành người sở hữu tiền tệ. Nếu họ không thực hiện mua ngay thì lúc này tiền tệ tạm ngừng lưu thông. Chúng tồn tại dưới dạng “giá trị dự trữ”. Tiền là phương tiện chứa giá trị, nghĩa là một phương tiện chứa sức mua hàng theo thời gian. Chức năng này tính thời gian từ lúc người ta nhận được thu nhập tới lúc người ta tiêu nó. Có thu nhập không mua ngay, mà mua sắm sau. Tiền thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị vận động theo công thức: H - T T - H Thực hiện chức năng phương tiện dự trữ giá trị, tiền phải đảm bảo đầy đủ những yêu cầu sau: 9
  8. - Phải dự trữ giá trị bằng tiền vàng. - Có thể dự trữ bằng tiền dấu hiệu hoặc gửi tiền vào ngân hàng với điều kiện đồng tiền ổn định. Chức năng phương tiện dự trữ giá trị có ý nghĩa: - Điều tiết số lượng phương tiện lưu thông. - Tập trung, tích lũy được nhiều vốn cho cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng. 1.3. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI TIỀN TỆ 1.3.1. Tiền tệ bằng hàng hóa Trong thời kỳ đầu lịch sử tiền tệ, tùy theo những điều kiện cụ thể của các dân tộc khác nhau mà vai trò tiền tệ được thể hiện ở các hàng hóa khác nhau. Nhưng thông thường, những hàng hóa đó là những vật dụng quan trọng bậc nhất hay những đặc sản quý hiếm của địa phương. Lịch sử ghi nhận rằng, thời kỳ nguyên thủy của tiền tệ, vai trò của tiền tệ thường được thể hiện ở gia súc (dân tộc cổ đại Slavơ), da thú (ở các dân tộc Scăng – đi – náp và nước Nga cổ đại), vỏ ốc quý (quần đảo Thái Bình Dương và Châu Phi), chè (Tây Tạng và Mông Cổ), muối (ở miền Tây Su Đăng) Cùng với sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, vai trò tiền tệ chuyển dần sang các kim loại. Cuối cùng thời kỳ này, vai trò tiền tệ đã được cố định ở vàng. Bởi vì vàng có nhiều đặc tính ưu việt hơn các hàng hóa khác lúc bấy giờ trong việc thực hiện các chức năng của tiền tệ. Đó là: - Tính đồng nhất của vàng rất cao. Điều đó rất thuận lợi trong việc đo lường, biểu hiện giá cả của các hàng hóa trong quá trình trao đổi. - Dễ phân chia mà không làm ảnh hưởng đến giá trị vốn có của nó. Điều đó có ý nghĩa quan trọng trong việc biểu hiện giá cả và lưu thông hàng hóa trên thị trường. Bởi lẽ, trên thị trường hàng hóa rất đa dạng và giá cả rất khác nhau. - Dễ mang theo, bởi vì một thể tích nhỏ và trọng lượng nhỏ của vàng có thể đại diện cho giá trị một khối lượng hàng hóa lớn. - Thuận tiện trong việc thực hiện chức năng dự trữ giá trị của tiền tệ Trình độ sản xuất ngày càng phát triển, khối lượng hàng hóa và dịch vụ đưa ra trao đổi ngày càng nhiều. Trong khi đó khả năng về vàng lại rất có hạn. Do vậy, theo thời gian, giá trị của vàng lớn đến mức người ta khó có thể chia nhỏ ra để tiến hành những việc mua bán bình thường. Mặt khác, các hàng hóa đóng vai trò tiền tệ trước đây đều có khuynh hướng tự bản thân nó phải có giá trị và phải có một công dụng nhất định nào đó. Còn ngày nay, giá trị của tiền tệ là do tính pháp định của nhà nước. Việc tìm kiếm một loại hình tiền tệ mới thay thế cho vàng trong lưu thông đã trở nên cần thiết. 1.3.2. Tiền giấy (giấy bạc ngân hàng) Sau một thời gian dài, thời đại tiền bằng hàng hóa đã nhường chỗ cho thời đại tiền giấy. Lúc đầu những tờ giấy bạc ngân hàng là dấu hiệu đại diện cho vàng đáng lẽ phải có trong lưu thông. Những giấy bạc ngân hàng đó được tự do chuyển đổi ra vàng theo luật định. Về sau do ngân hàng phát hành ra nhiều giấy bạc hơn so với số vàng dự trữ, làm cho nó không còn được tự do chuyển đổi ra vàng. Thời đại ngày nay, việc sử dụng tiền giấy đã trở thành phổ biến, do tính thuận tiện của nó trong việc làm phương tiện trao đổi hàng hóa. Đó là: - Dễ mang theo để làm phương tiện trao đổi hàng hóa, thanh toán nợ. - Thuận tiện khi thực hiện chức năng dự trữ của cải dưới hình thức giá trị - Bằng cách thay đổi con số trên mặt đồng tiền, một lượng giá trị lớn được biểu hiện. - Bằng chế độ độc quyền phát hành giấy bạc với những quy định nghiêm ngặt của Chính phủ, tiền giấy có thể giữ được giá trị của nó Mầm mống tiền giấy đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử. Tiền giấy xuất hiện ở Trung Quốc đời nhà Tống, ở Việt nam đời Trần và Hồ Quý Ly, ở Châu Âu đầu thế kỷ 17. 10
  9. Cho đến những năm 30 của thế kỷ XX, bản vị giấy bạc không được tự do chuyển đổi ra vàng được áp dụng ở tất cả các nước trên thế giới. 1.3.3. Tiền ghi sổ (tiền quan ngân hàng) Tiền ghi sổ là những khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng (tiền gửi séc). Đó là do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Việc sử dụng đồng tiền ghi sổ được thực hiện bằng các bút toán ghi nợ và có trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng. Cùng với trình độ công nghệ ngân hàng ngày càng hiện đại, đồng tiền ghi sổ đã giữ vị trí chủ yếu trong tổng mức cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Hiện nay ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trình độ công nghệ ngân hàng hiện đại, đồng tiền ghi sổ chiếm từ 90% đến 95% trong tổng lượng tiền cung ứng. Nói chung, hiện nay là thời đại của tiền ghi sổ. Bởi lẽ, tiền ghi sổ có những ưu việt vốn có của nó: - Giảm bớt một cách đáng kể các chi phí lưu thông tiền mặt: in tiền, bảo quản, vận chuyển, đếm, đóng gói - Nhanh chóng và thuận tiện cho các chủ nhân tham gia thanh toán qua ngân hàng. - Bảo đảm an toàn trong việc sử dụng đồng tiền, hạn chế được những hiện tượng tiêu cực. - Tiền ghi sổ tạo ra điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trung ương trong việc quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng 1.4. KHỐI TIỀN TỆ Khi chưa có một định nghĩa chính xác về tiền tệ, thì quan niệm về các khối tiền tệ (cách đo lượng tiền cung ứng) cũng khác nhau. Tuy nhiên, quan niệm về khối tiền tệ mà được nhiều nhà kinh tế thừa nhận hơn cả là: 1.4.1. Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông (Mn) Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông là khối lượng tiền do tổng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân trong mọi thời kỳ quyết định. Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỷ lệ thuận với tổng số giá cả hàng hóa và tỷ lệ nghịch với tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ. P x Q Công thức tính: Mn = V Trong đó: P: Mức giá cả hàng hóa. Q: Tổng khối lượng hàng hóa đưa vào lưu thông. V: Tốc độ lưu thông bình quân của tiền tệ. 1.4.2. Khối lượng tiền trong lưu thông (Ms). Khối lượng tiền trong lưu thông là khối lượng tiền thực có trong lưu thông, do yếu tố chủ quan của con người phát hành để đưa vào lưu thông. Khối lượng tiền trong lưu thông là chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận làm trung gian trao đổi với mọi hàng hóa, dịch vụ và các khoản thanh toán khác tại một thị trường và trong một thời gian nhất định. Các thành phần của khối lượng tiền trong lưu thông: - M1: khối tiền tệ giao dịch Đây là khối tiền tệ theo nghĩa hẹp nhất về lượng tiền cung ứng, nó chỉ bao gồm những phương tiện được chấp nhận ngay trong trao đổi hàng hóa, mà không phải qua một bước chuyển đổi nào. Với khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm: + Tiền đang lưu hành (gồm toàn bộ tiền mặt do Ngân hàng trung ương phát hành đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng). 11
  10. + Tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng thương mại (tiền gửu mà chủ sở hữu của nó có thể phát séc để thanh toán tiền mua hàng hay dịch vụ). - M2: Khối tiền tệ giao dịch mở rộng. Khối tiền tệ này, với một cách nhìn rộng hơn về lượng tiền cung ứng. Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm: + Lượng tiền theo M1 + Tiền gửi tiết kiệm ở các ngân hàng thương mại. - M3: Khối tiền tệ tài sản Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm: + Lượng tiền theo M2 + Tiền gửi có kỳ hạn ở ngân hàng thương mại. - Ms: Khối lượng tiền trong lưu thông. Theo khối tiền tệ này, tổng lượng tiền cung ứng bao gồm: + Lượng tiền theo M3 +Chứng từ có giá có tính “lỏng” cao (dễ chuyển thành tiền mặt): Chứng từ chỉ tiền gửi, thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu So sánh giữa Ms và Mn có thể xảy ra một trong ba trường hợp: Ms Tỷ số (1): = 1 -> Tiền và hàng cân đối Mn Ms Tỷ số (2): Hiện tượng thiểu phát Mn Ms Tỷ số (3): > 1 -> Hiện tượng lạm phát Mn Các tỷ số trên được kiểm chứng thông qua “tín hiệu thị trường” như chỉ số giá hàng tiêu dùng, tỷ giá hối đoái, giá vàng để điều chỉnh Ms xích lại gần Mn. 1.5. CHẾ ĐỘ TIỀN TỆ Chế độ tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia, được quy định bằng luật pháp. Chế độ tiền tệ bao gồm các yếu tố: - Bản vị tiền tệ: tức cái gì được dùng làm cơ sở định giá đồng tiền quốc gia. - Đơn vị tiền tệ: mỗi quốc gia đều có đơn vị tiền tệ của riêng mình và được quy định bằng pháp luật. Đơn vị tiền tệ của Việt Nam là “đồng”, ký hiệu quốc tế là “VND”; đơn vị tiền tệ của Mỹ là “đô la”, ký hiệu quốc tế là “USD”;đơn vị tiền tệ của Nhật Bản là “yên”, ký hiệu quốc tế là “JPY” - Công cụ trao đổi: tức là những công cụ được sử dụng để thực hiện mua bán hàng hóa, dịch vụ, thanh toán các khoản nợ như tiền giấy, tiaanf đúc, tiền ghi sổ Nói chung, trong chế độ tiền tệ, yếu tố thường thay đổi là bản vị tiền tệ. Lịch sử tiền tệ phát triển cho thấy rằng, bản vị tiền tệ của các nước do điều kiện cụ thể của mỗi thời kỳ quyết định. Cho đến nay, các chế độ bản vị tiền tệ sau đây đã được sử dụng: 1.5.1. Chế độ song bản vị Dưới chế độ song bản vị, đồng tiền của một nước được xác định bằng một trọng lượng cố định của hai kim loại thường là vàng và bạc. Ví dụ, năm 1972, ở Mỹ 1 đôla vàng = 1,603 gam vàng ròng, 1 đôla bạc = 24,06 gam bạc ròng. Tức trọng lượng 1 đôla bạc nặng gấp 15 lần trọng lượng 1 đôla vàng. Do giá trị thị trường của vàng và bạc thường xuyên thay đổi, đã dẫn đến hiện tượng tiền có giá trị thấp đuổi tiền có giá trị cao khỏi lưu thông. Hiện tượng này được nhà tài chính Anh là Thomas Gresham thế kỷ 16 và là giám đốc sở đúc tiền dưới triều Nữ hoàng Klizabeth I mô tả như sau: Khi hai kim loại có giá trị thị trường khác nhau, nhưng với 12
  11. quyền lực tiền tệ chính thức như nhau, thứ kim loại rẻ hơn trở thành phương tiện lưu thông chủ yếu trong khi thứ kim loại đắt hơn thì biến khỏi lưu thông”. Giả sử rằng, nhà nước ấn định tỷ lệ đúc tiền chính thức của kim loại bạc và vàng là 15/1. Điều đó có nghĩa là, trọng lượng 1 đơn vị tiền tệ bằng bạc gấp 15 lần trọng lượng tiền tệ bằng vàng. Do đó, bất cứ một sự thay đổi trong giá trị thị trường của một kim loại so với kim loại khác, có thể làm cho thứ kim loại có giá trị cao hơn biến khỏi lưu thông. Bởi vì, kim loại rẻ tiền hơn trên thị trường sẽ được đưa tới sở đúc tiền để đúc thành tiền, kim loại đắt hơn trên thị trường được đưa ra khỏi lưu thông để cất trữ hay đúc thành thỏi để bán. Nói cách khác, một tỷ lệ tiền đúc cố định và một tỷ lệ thị trường thay đổi, cho phép người ta giữ lại đồng tiền có giá trị hơn và cho lưu thông đồng tiền có giá trị kém hơn. Trong suốt giai đoạn đầu từ 1792 đến 1834 vàng rút khỏi lưu thông và trên thực tế quốc gia chỉ còn là bản vị bạc. Nhưng từ 1834 – 1893 bạc rút khỏi lưu thông và thực chất quốc gia chỉ còn là bản vị vàng. 1.5.2. Chế độ bản vị tiền vàng Bản vị tiền vàng là đồng tiền của một nước được đảm bảo bằng một trọng lượng vàng nhất định theo pháp luật. Những nhân tố cần thiết của bản vị tiền vàng gồm: Nhà nước không hạn chế việc đúc tiền vàng. Tiền giấy quốc gia được nhà nước xác định bằng một trọng lượng vàng nhất định và được tự do chuyển đổi ra vàng theo tỷ lệ đã quy định. Tiền vàng được lưu thông không hạn chế. Chế độ bản vị tiền vàng được sử dụng phổ biến ở các nước trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. 1.5.3. Chế độ bản vị vàng thỏi Chế độ bản vị vàng thỏi cũng quy định cho đơn vị tiền tệ quốc gia một trọng lượng vàng cố định. Nhưng vàng được đúc thành thỏi mà không đúc thành tiền. Vàng không lưu thông trong nền kinh tế, mà chỉ dự trữ để làm phương tiện thanh toán quốc tế và chuyển dịch tài sản ra nước ngoài. Tiền giấy quốc gia được đổi ra vàng theo luật định, nhưng phải một số lượng tiền giấy nhất định, ít nhất phải tương đương 1 thỏi vàng. Chế độ bản vị thỏi vàng được áp dụng ở Anh năm 1925 và quy định muốn đổi tiền giấy lấy vàng phải đổi ít nhất 1.500 Bảng Anh, áp dụng ở Pháp năm 1928 với số tiền giấy phải đổi ít nhất là 225.000 Francs 1.5.4. Chế độ bản vị vàng hối đoái Chế độ bản vị hối đoái vàng là chế độ bản vị trong đó tiền giấy quốc gia không được trực tiếp chuyển đổi ra vàng, muốn đổi ra vàng phải trực tiếp thông qua một ngoại tệ. Ngoại tệ đó phải được tự do chuyển đổi ra vàng, như đôla Mỹ, bảng Anh Chế độ bản vị hối đoái vàng được áp dụng ở Ấn Độ năm 1898, Đức 1924, Hà Lan 1928 1.5.5. Chế độ bản vị ngoại tệ Dưới chế độ bản vị ngoại tệ, đơn vị tiền tệ quốc gia được xác định bằng đơn vị tiền tệ của nước ngoài (ngoại tệ). Đó phải là các ngoại tệ mạnh và được tự do hóa chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Để khuyến khích thương mại quốc tế và tăng trưởng kinh tế một cách có trật tự, một hình thức biến tướng chế độ bản vị ngoại tệ được hình thành ở các nước tư bản chủ nghĩa. Chế độ bản vị này được thịnh hành từ 1944 đến 1971 và có hai đặc trưng cơ bản: Vào cuối chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ chiếm hữu phần lớn vàng của thế giới. Do đó, Bộ tài chính Mỹ, theo hiệp định quốc tế, đã làm cho vàng và đôla Mỹ có thể chuyển đổi được lẫn nhau, theo tỷ lệ đôla cho một ôngxơ vàng. Như vậy, 1 đồng đôla Mỹ chính thức được xác nhận bằng 35 ôngxơ vàng. 13
  12. Theo đó, các nước khác theo hiệp định quốc tế, Ngân hàng trung ương các nước đó duy trì một tỷ giá cố định đồng tiền của họ so với đồng đôla Mỹ. Chế độ bản vị ngoại tệ biến tướng này đã hoàn thành xứ mệnh của nó là khuyến khích thương mại quốc tế và khôi phục kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng từ những năm 1960 chế độ này bắt đầu sụp đổ, bởi đồng đôla Mỹ lạm phát và dự trữ vàng của Mỹ giảm sút nghiêm trọng. Chế độ bản vị ngoại tệ này đã kết thúc khi Tổng thống Mỹ - Nixơn tuyên bố không đổi đôla giấy ra vàng ngày 15/8/1971. 1.5.6. Chế độ bản vị tiền giấy không chuyển đổi ra vàng Dưới chế độ bản vị tiền giấy không được chuyển đổi, đơn vị tiền tệ của một nước không thể tự do chuyển đổi kim loại quý. Đầu những năm 1930 bản vị chế độ tiền giấy không được chuyển đổi phổ biến. Vàng chỉ được dùng để thanh toán các khoản nợ quốc tế, nó bị rút khỏi lưu thông trong nước vì không dùng làm tiền tệ và không được đổi tiền giấy ra vàng. Từ đây, giá trị thực tế của đồng tiền các nước phụ thuộc vào sức mua của nó, tức là số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà nó có thể mua được. Giá trị của một đơn vị tiền tệ được xác định bằng sức mua của nó và được đo bằng số nghịch đảo của mức giá cả chung. Như vậy, mức giá cả chung càng cao thì giá trị hay sức mua của một đơn vị tiền tệ càng thấp và ngược lại. 1.6. BẢN CHẤT CỦA TÀI CHÍNH 1.6.1. Sự ra đời của phạm trù tài chính Lịch sử xã hội loài người cho thấy, vào thời kỳ công xã nguyên thủy tan dã, xã hội bắt đầu có sự phân công lao động, có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và về sản phẩm lao động. Theo đó, nền sản xuất hàng hóa ra đời và tiền tệ xuất hiện như một tất yếu khách quan. Trong nền kinh tế hàng hóa, việc trao đổi hàng hóa được tiến hành một cách dễ dàng thông qua tiền tệ làm môi giới trung gian. Từ đó, người ta sử dụng tiền tệ với các chức năng phương tiện trao đổi và phương tiện tích lũy để phân phối tổng sản phẩm xã hội, qua đó tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế, nhằm mục đích tiêu dùng và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Các quỹ tiền tệ này được tạo lập và sử dụng bởi các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hay cá nhân. Các quan hệ kinh tế đó đã làm nảy sinh phạm trù tài chính. Lịch sử xã hội loài người còn cho thấy rằng, khi xã hội có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, thì có sự phân chia giai cấp và xuất hiện phạm trù Nhà nước. Nhà nước ra đời, với chức năng và quyền lực của mình đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng phạm vi hoạt động của tài chính. Mặt khác, để duy trì hoạt động của mình, nhà nước đã tạo lập quỹ ngân sách nhà nước thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị và hình thành lĩnh vực tài chính nhà nước. Như vậy, bên cạnh những tiền đề quyết định làm nảy sinh phạm trù tài chính là sản xuất hàng hóa và tiền tệ, nhà nước ra đời làm cho hoạt động tài chính ngày càng phát triển hơn. 1.6.2. Bản chất của tài chính Về bản chất, tài chính là các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, thông qua đó tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm đáp ứng yêu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn bản chất của tài chính, ở đây cần có sự phân biệt tài chính với một số phạm trù kinh tế có liên quan khác. Trước hết cần phân biệt tài chính với tiền tệ. Nhìn bề ngoài, tài chính được người ta cảm nhận như những quỹ tiền tệ của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Nhưng tài chính không phải là tiền tệ. Tiền tệ về bản chất là vật ngang giá chung trong trao đổi hàng hóa với các chức năng vốn có của nó: biểu hiện giá cả hàng hóa, phương tiện trao đổi (gồm phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán) và phương tiện tích lũy. Tài chính là sự 14
  13. vận động tương đối của tiền tệ với phương tiện thanh toán và phương tiện tích lũy trong lĩnh vực phân phối, nhằm tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Giá cả là một phạm trù kinh tế, liên quan đến phân phối dưới hình thức giá trị. Nhưng sự phân phối của giá cả được tiến hành thông qua sự chênh lệch giữa giá trị và giá cả của hàng hóa trong trao đổi. Tài chính là phạm trù phân phối phản ánh sự chuyển dịch giá trị thông qua việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế. Tiền lương cũng là phạm trù phân phối. Đó là một lượng tiền tệ nhất định được trả cho người lao động, theo những nguyên tắc nhất định. Tiền lương muốn được thực hiện phải thông qua tài chính, tức là thông qua các quan hệ kinh tế trong phân phối tổng sản phẩm xã hội, nhằm hình thành và sử dụng quỹ tiền lương trong nền kinh tế. Bản chất của tài chính được thể hiện qua các quan hệ kinh tế chủ yếu trong quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị sau đây: - Quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư. - Quan hệ kinh tế giữa các tổ chức tài chính trung gian với các cơ qian, tổ chức kinh tế phi tài chính, dân cư. - Quan hệ kinh tế giữa các cơ quan, đơn vị kinh tế, dân cư với nhau và các quan hệ kinh tế trong nội bộ các chủ thể đó. - Quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau trên thế giới 1.7. CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH 1.7.1. Chức năng phân phối Phân phối qua tài chính là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị. Thông qua chức năng này, các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được hình thành và sử dụng vào những mục đích nhất định. Phân phối qua tài chính bao hàm cả quá trình phân phối lần đầu và quá trình phân phối lại. Quá trình phân phối lần đầu là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội cho các chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất vật chất và dịch vụ. Trong quá trình phân phối lần đầu, giá trị tổng sản phẩm xã hội sẽ được hình thành các quỹ tiền tệ sau đây: Quỹ bù đắp những chi phí vật chất đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, tiến hành dịch vụ. Phần này hình thành quỹ khấu hao tài sản cố định và khôi phục lại vốn lưu động đã bỏ ra. Quỹ tiền tệ này nhằm đảm bảo sản xuất giản đơn của mọi quá trình sản xuất xã hội. - Quỹ tích lũy nhằm tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế. - Quỹ tiêu dùng, bao gồm tiêu dùng cho cá nhân và cho nhà nước. Quá trình phân phối lại là quá trình tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, những quỹ tiền tệ đã được hình thành trong quá trình phân phối lần đầu ra phạm vi rộng hơn, bao gồm cả lĩnh vực không sản xuất vật chất và dịch vụ. 1.7.2. Chức năng giám đốc Chức năng giám đốc tài chính là nói đến khả năng khách quan của phạm trù tài chính. Nhờ khả năng đó mà người ta có thể tổ chức kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Khả năng đó được biểu hiện ngay trong quá trình thực hiện chức năng phân phối của tài chính. Ở đó, người ta có thể kiểm tra về mục đích, quy mô và hiệu quả của quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Khác với chức năng giám đốc tài chính, công tác kiểm tra tài chính là các hoạt động chủ quan của con người trong việc kiểm tra quá trình phân phối để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đối tượng giám đốc của tài chính là các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế. Thông qua giám đốc tài chính, để kiểm tra và điều chỉnh các quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi thời kỳ. Đồng thời qua đó để kiểm tra việc tạo lập và chấp hành các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế tài chính, quá trình hạch toán kinh tế, việc chấp hành các đạo luật về tài chính, các chính sách chế độ tài chính của nhà nước 15
  14. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Sự ra đời và bản chất của tiền tệ? 2. Quá trình phát triển các hình thái tiền tệ? 3. Các chức năng của tiền tệ? 4. Lượng tiền cung ứng và cách đo lường lượng tiền cung ứng? 5. Chế độ tiền tệ và các bản vị tiền tệ? 6. Sự ra đời và bản chất của tài chính? 7. Chức năng của tài chính? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C.Mác, Tư Bản, Quyển I, Tập I, Nhà xuất bản Sự thật 1963 2. Viện quan hệ quốc tế Việt Nam (biên dịch), Kinh tế học, Tập I, 1989 3. Sử Đình Thành và TS Vũ Thị Minh Hằng, Giáo trình Nhập Môn Tài Chính Tiền Tệ, NXB Tài chính năm 2008. 4. Giáo trình Lý thuyết tài chính, NXB Tài chính, 2001 16
  15. Chương 2 TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Mục tiêu của chương này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức: - Vai trò và cấu trúc của hệ thống tài chính - Mục tiêu, quan điểm và những nội dung cơ bản trong chính sách tài chính quốc gia hiện nay. 2.1. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối, gắn liền với quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, đó không phải là những hoạt động hỗn loạn mà ngược lại, chúng tuân thủ những nguyên tắc, những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng buộc lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài chính. Do vậy, hệ thống tài chính là tổng thể của các bộ phận khác nhau trong một cơ cấu tài chính, mà ở đó các quan hệ tài chính hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau nhưng có mối liên hệ tác động lẫn nhau theo những quy luật nhất định. Các bộ phận trong hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực: tạo ra các nguồn lực tài chính, thu hút các nguồn tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính (dẫn vốn). Với các lĩnh vực hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. 2.2. CẤU TRÚC CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và bộ phận dẫn vốn, được tổ chức theo sơ đồ sau: Tài chính doanh Ngân sách nghiệp nhà nước Thị trường tài chính và tổ chức tài chính trung gian Tài chính dân cư, Tài chính tổ chức đối ngoại xã hội Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó nguồn tài chính được tạo ra, đồng tời cũng là nơi thu hút trở lại các nguồn vốn, tuy nhiên ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Trong hoạt động kinh tế, các tụ điểm vốn này có mối quan hệ thường xuyên với nhau thông qua những mối quan hệ nhất định. 17
  16. + Tài chính doanh nghiệp Chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời đây cũng là nơi thu hút trở lại phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Trong hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy nó có tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất. Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính trong quá trình hình thành và sử dụng vốn cho các nội dung khác nhau, quá trình kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Mỗi quan hệ đều có những nét khác biệt và có những tác động khác nhau đến tài chính doanh nghiệp. Chính sự đa dạng này phản ánh mối quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các bộ phận khác trong hệ thống tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng cơ bản của bộ phận tài chính doanh nghiệp thể hiện ở chỗ: nó bao gồm những quan hệ tài chính vận hành theo cơ chế kinh doanh hướng tới lợi nhuận cao. Chính nhờ cơ chế này mà nguồn tài chính được tăng cường và mở rộng không ngừng, đáp ứng tốt nhất nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. + Ngân sách nhà nước Ngân sách nhà nước gắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; đồng thời là phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước còn có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Đó là vai trò định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội Để thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các nguồn vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu thích hợp. Ngân sách nhà nước thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên và chi đầu tư kinh tế. Việc cấp phát vốn ngân sách Nhà nước cho các mục đích khác nhau này sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn. Như vậy hoạt động thu – chi ngân sách Nhà nước đã làm nảy sinh các mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp dân cư, Nhà nước với các nhà nước khác; các mối quan hệ kinh tế giữa một tụ điểm vốn quan trọng: ngân sách nhà nước với các bộ phận khác của hệ thống tài chính. + Tài chính dân cư (tài chính hộ gia đình) và các tổ chức xã hội. Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Hoạt động tài chính của các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài chính ở nước ta những năm gần đây đã chỉ ra rằng: nếu có những biện pháp thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượng vốn đáng kể từ các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn góp phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướng tích lũy và tiêu dùng của Nhà nước. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng: tính chất phân tán và đa dạng là đặc điểm nổi bật của tài chính hộ gia đình. Nguồn lực tài chính không quy tụ vào những tụ điểm lớn mà phân bố rải rác, không đồng đều trong hàng triệu tế bào nhỏ của nền kinh tế: đó là các hộ gia đình. Nhưng tổng quy mô của nguồn vốn tiềm tàng trong các hộ gia đình rất lớn và cần phải có các biện pháp lưu tâm thích đáng. Tài chính hộ gia đình có thể có quan hệ thường xuyên hoặc không thường xuyên với tất cả các tụ điểm và các bộ phận trong hệ thống tài chính. + Tài chính đối ngoại Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ kinh tế đã quốc tế hóa thì hệ thống tài chính cũng là một hệ thống mở với những quan hệ tài chính đối ngoại hết sức phong phú. Trên thực tế, những quan hệ này không tập trung vào một tụ điểm nhất định mà chúng phân tán, đan xen vào các quan hệ tài chính khác. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và vị trí đặc biệt quan trọng của các quan hệ tài chính đối ngoại cho nên người ta thừa nhận nó hình thành một bộ phận tài chính có tính chất độc lập tương đối. 18
  17. Những kênh vận động của tài chính đối ngoại gồm có: Quan hệ nhận viện trợ hoặc vay vốn nước ngoài cho quỹ NSNN hoặc cho các doanh nghiệp, thậm chí cho cả dân cư. Quan hệ về tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài giữa các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Quá trình thanh toán xuất – nhập khẩu giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Việc thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm, chuyển phí bảo hiểm và thanh toán bảo hiểm đối với các pháp nhân nước ngoài hoặc ngược lại, thu nhận phí bảo hiểm và nhận bồi thường từ các tổ chức nước ngoài. Quá trình chuyển tiền và tài sản giữa các cá nhân ngoài nước cho thân nhân trong nước và ngược lại. Với những kênh vận động của tài chính đối ngoại như vậy, nếu chỉ đứng trên góc độ của từng tụ điểm vốn ở trong nước để xem xét thì hoạt động tài chính đối ngoại được xem như một trong các biện pháp để huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước (qua vay nợ, viện trợ nước ngoài), huy động vốn của các doanh nghiệp (qua liên doanh, góp vốn cổ phần) Đối với hoạt động tài chính đối ngoại phải đứng trên góc độ tổng hợp, toàn cục để xem xét, nghiên cứu. Khi đó các mối quan hệ cụ thể, cục bộ sẽ hòa nhập vào một tụ điểm duy nhất và quan hệ tài chính sẽ xảy ra giữa hai tụ điểm lớn, đó là quan hệ giữa tài chính quốc gia và tài chính quốc tế, tức là quan hệ giữa các bộ phận tài chính trong nước với các bộ phận tài chính quốc tế. Hoạt động của tài chính đối ngoại cũng có những nét đặc thù riêng và chịu sự tác động của những quy luật biến động tài chính quốc tế. + Bộ phận dẫn vốn thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ thống tài chính bao gồm thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian. Hoạt động của thị trường tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ những người có vốn sang những người cần vốn thông qua hoạt động tài chính trực tiếp. Hoạt động dẫn vốn trực tiếp được thực hiện bằng cách những người cần vốn bán ra thị trường các công cụ nợ, các cổ phiếu hoặc thực hiện các món vay thế chấp. Những người có vốn sẽ sử dụng tiền vốn của mình để mua vào các công cụ nợ hoặc các cổ phiếu đó, như vậy vốn đã được chuyển từ người có vốn sang người cần vốn một cách trực tiếp. Với chức năng này, thị trường tài chính có tác dụng thu hút mọi nguồn vốn cần thiết cho đầu tư phát triển kinh tế, làm nâng cao hiệu quả chung cho toàn bộ nền kinh tế và cải thiện mức sống của người tiêu dùng ngay cả khi khả năng thực tế về tài chính của họ chưa cho phép. Trong hệ thống tài chính, các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn thông quan hoạt động tài chính gián tiếp. Trước hết các trung gian tài chính huy động vốn từ những người có vốn (người tiết kiệm) bằng nhiều hình thức để tạo thành vốn kinh doanh của mình. Sau đó, họ sử dụng vốn kinh doanh này để cho những người cần vốn vay lại hoặc thực hiện các hình thức đầu tư khác nhau. Bằng cách này, các trung gian tài chính đã tập trung được các nguồn vốn nhỏ từ các hộ gia đình, các tổ chức kinh tế thành một lượng vốn lớn, đáp ứng nhu cầu của người cần vốn từ những khối lượng vay nhỏ đến những khối lượng vay lớn, từ những cá nhân chưa từng được ai biết đến tới những công ty lớn có tiếng trên thị trường. Chính vì vậy, các trung gian tài chính đáp ứng được những nhu cầu mà thị trường tài chính không giải quyết được, hoặc giải quyết không có hiệu quả. Tùy theo lĩnh vực và phạm vi hoạt động, các trung gian tài chính được chia ra thành: - Các ngân hàng thương mại. - Các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng: công ty bảo hiểm, quỹ trợ cấp, công ty tài chính, quỹ đầu tư 19
  18. 2.3. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH QUỐC GIA Tài chính có tác động trực tiếp và ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vì lẽ đó, để điều hành sự hoạt động thống nhất và có hiệu quả của toàn bộ hệ thống tài chính, ở mỗi quốc gia. Chính phủ cần phải đề ra các chủ trương, chính sách, đường lối và biện pháp về tài chính trong một thời kỳ tương đối lâu dài, tức là cần phải hoạch định và thực thi chính sách tài chính quốc gia. Đối với một nước đang phát triển như nước ta, chính sách tài chính quốc gia có vai trò quyết định đến quy mô và tốc độ phát triển kinh tế, đến cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư thông qua việc phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài sản xã hội, các nguồn vốn trong nước, ngoài nước cho từng ngành, từng thành phần kinh tế, từng vùng lãnh thổ, nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển đã được xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. 2.3.1. Mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia Thực hiện chính sách tài chính quốc gia ở nước ta nhằm đạt được những mục tiêu cơ bản sau đây: - Xây dựng chính sách tài chính quốc gia nhằm tăng cường tiềm lực tài chính đất nước, đặc biệt, tăng cường tiềm lực tài chính nhà nước và tài chính doanh nghiệp. Đảm bảo các nhu cầu vốn đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nước cũng như vốn vay nước ngoài. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (từ 7 – 10%/năm) với cơ cấu kinh tế hợp lý, thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, cải thiện rõ rệt cán cân thanh toán quốc tế. - Kiểm soát lạm phát: Bằng việc cải thiện chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách thuế và cơ cấu thu chi ngân sách, loại bỏ nguy cơ tái lạm phát tiến tới kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả và sức mua đồng tiền, tạo điều kiện, môi trường cho sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. - Tạo công ăn việc làm cho người dân, mở rộng ngành nghề, giải quyết thỏa đáng nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống vật chất văn hóa của nhân dân để vượt qua ngưỡng cửa đói nghèo, thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Hiện nay, tiến trình đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta diễn ra khá nhanh, trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, nguồn tài chính còn hạn hẹp nhưng lại phải chịu những thách thức lớn và tất yếu của các yếu tố thời đại, nên chính sách tài chính quốc gia cần được xây dựng trên nền tảng của những nhận thực mới về kinh tế học, xã hội học và những tri thức mới về quản lý tài chính, tiền tệ của loài người. Sự thận trọng trong việc ;ựa chọn các hình thức tài chính thích hợp, các bước đi vững chắc là rất cần thiết, nhưng phải kiên quyết chống mọi chủ trương bảo thủ, trì trệ hoặc tự do vô chính phủ, buông trôi quản lý tài chính. Trên cơ sở đó, việc xây dựng và thực hiện chính sách tài chính quốc gia phải quán triệt những quan điểm co bản sau đây: 2.3.2. Những quan điểm cơ bản - Tập trung sức chuyển hướng cơ chế quản lý chính sách tài chính - tiền tệ kiểu “động viên tập trung” sang chính sách tài chính phân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính của các doanh nghiệp, thuộc mọi thành phần kinh tế, theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo bình đẳng về lợi ích giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc hiệu quả kinh tế. - Phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của tài chính nhà nước và tài chính doanh nghiệp, trong đó, tài chính nhà nước thực hiện chức năng xã hội, an ninh quốc phòng là chủ yếu và thông qua các hoạt động thu chi của mình mà điều tiết lợi ích, định hướng và thúc đẩy phát triển sản xuất theo yêu cầu của thị trường và định hướng của nhf nước trên nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của sản xuất kinh doanh. 20
  19. - Phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của tài chính nhà nước và ngân hàng, trong đó tài chính nhà nước (ngân khố quốc gia) là khách hàng của ngân hàng; đồng thời, ngân hàng là đối tượng quản lý về mặt tài chính nhà nước trong khuôn khổ các luật lệ về tài chính. - Thực hiện cơ chế tài chính mở lành mạnh, không đơn thuần coi cân bằng ngân sách là mục tiêu của chính sách tài chính. Một ngân sách thiếu hụt hay dư thừa không phải là kém quan trọng so với một ngân sách cân bằng và đều là những công cụ tài chính ứng với từng hoàn cảnh cụ thể mà nhà nước có thể sử dụng để tác động đến quy mô và phương pháp phát triển kinh tế - xã hội (kích thích hay hạn chế tăng trưởng ). Chẳng hạn như việc duy trì một ngân sách thiếu hụt “vừa phải” có thể là nguy cơ lạm phát, nhưng lại tạo điều kiện tăng tích tụ cho các cơ sở kinh tế, tăng cầu cho người tiêu dùng, trên cơ sở đó, mở rộng thị trường tiêu thụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. - Chính sách tài chính phải phải giải phóng triệt để mọi nguồn vốn trong nước, của các thành phần kinh tế và của toàn dân để phát triển kinh doanh, hình thành thị trường vốn trong nước để đảm bảo huy động vốn nhanh, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, đồng thời, mở rộng hoạt động kinh tế tài chính đối ngoại thu hút mạnh các nguồn vốn nước ngoài, vừa tranh thủ kỹ thuật tiên tiến vừa gắn thị trường vốn trong nước với thị trường vốn quốc tế, trên cơ sở đó, tham gia ngày càng sâu sắc vào phân công lao động quốc tế. - Để phân phối và sử dụng các nguồn tài chính đảm bảo tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả, chính sách tài chính của nhà nước cần xác định rõ các mục tiêu ưu tiên phát triển, nhằm vào các khu vực cho phép tăng thu ngoại tệ, đảm bảo khả năng trả nợ, thu hút nhiều nhân lực (vố là một thế mạnh của nước ta) và thúc đẩy phát triển công nghệ mới và kỹ thuật tiên tiến. - Việc xây dựng và thực hiện chính sách tài chính cần đứng trên quan điểm hệ thống, đặt trong mối quan hệ với việc đổi mới các chính sách, công cụ khác như: chính sách tiền tệ - tín dụng, chính sách giá cả và thu nhập, chính sách ngoại hối nhằm tạo sức mạnh tổng hợp và chuyển biến đồng bộ trong các hoạt động kinh tế, tránh tình trạng chồng chéo, triệt tiêu lẫn nhau. - Việc xây dựng và thực hiện chính sách tài chính quốc gia ở nước ta trong điều kiện còn thiếu kiến thức đầy đủ và thiếu kinh nghiệm về quản lý tài chính, vốn là lĩnh vực hết sức phức tạp trong cơ chế kinh tế thị trường, vì vậy, phải chú trọng nghiên cứu khảo sát, đúc kết các kinh nghiệm, tổ chức đào tạo và thử nghiệm các phương thức phù hợp; tránh tình trạng bảo thủ, do dự hoặc chủ quan nóng vội, gây trở ngại đến nền tài chính đất nước. - Coi trọng việc củng cố và nâng cao tính pháp lệnh của hoạt động tài chính, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy về tài chính, khuyến khích các thể nhân, pháp nhân tham gia vào các hoạt động kinh tế trong khuôn khổ pháp luật. Tăng cường vai trò kiểm soát và thanh tra tài chính, giám đốc, việc thu chi là nội dung quan trọng của chính sách tài chính quốc gia. 2.3.3. Nội dung của chính sách tài chính quốc gia Với những phạm vi và mục tiêu đã nêu trên, chính sách tài chính quốc gia ở nước ta có những nội dung chủ yếu sau: - Chính sách về vốn Trước hết, vốn là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sản xuất, đồng thời là cơ sở để phân phối lợi nhuận và đánh giá hiệu quả các hoạt động kinh tế, nó bao gồm những nguồn vật tư và tài sản trong các doanh nghiệp, nguồn tiền mặt hoặc các tài sản khác dự trữ trong dân. Vì vậy, chính sách tạo vốn cơ bản phải tuân thủ nguyên tắc lợi ích của người có vốn và do đó, việc sử dụng vốn nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Nói cách khác, chính sách tạo vốn và sử dụng vốn phải được xây dựng và thực hiện theo quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường và góp phần đắc lực vào việc hình thành thị trường vốn, thị trường tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tạo vốn trước hết chủ yếu là tạo ra môi trường kinh tế và tiền đề pháp lý để biến mọi nguồn tiền tệ thành tư bản sinh lợi và tăng trưởng trong quá 21
  20. trình tái sản xuất xã hội. Các nguồn chủ yếu bao gồm: vốn đầu tư kinh tế của nhà nước, vốn tự do của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền và tiền nhàn rỗi của dân cư và vốn của các doanh nghiệp và tổ chức tài chính quốc tế Để huy động được mọi nguồn vốn của xã hội phục vụ phát triển kinh tế đòi hỏi phải thực hiện các chủ trương, biện pháp lớn sau đây: Trách nhiệm tạo vốn để phát triển sản xuất kinh doanh trước hết thuộc về các doanh nghiệp. Vì vậy, phải kiên quyết khắc phục tình trạng cấp phát vốn tràn lan; buộc các xí nghiệp phải tích tụ vốn hoặc tìm các nguồn vốn, các phương thức huy động thích hợp tạo nên sức mạnh tài chính cần thiết (mà thông thường một xí nghiệp không thể có được) cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm theo pháp luật đối với chủ nhân của các nguồn huy động và lợi ích của họ. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng có quyền đầu tư vốn của mình vào các doanh nghiệp khác với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và phân tán rủi ro trong kinh doanh. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhất quán và được thể chế hóa (Luật đầu tư trong nước, luật thừa kế, luật phá sản, ) nhằm giải phóng mọi tiềm năng về vốn của các thành phần kinh tế và dân cư, tiết kiệm tiêu dùng xa xỉ, tập trung hướng vào đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Nhà nước từng bước cổ phần hóa một bộ phận các doanh nghiệp Nhà nước mà trước hết là lĩnh vực thương mại, dịch vụ và một số bộ phận xí nghiệp sản xuất, hình thành các công ty cổ phần, công ty hợp doanh. Đây là vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhằm đảm bảo cho Nhà nước nắm các ngành kinh tế then chốt, vừa có ý nghĩa tạo vốn, bảo tồn và tăng hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước. Phát triển kinh tế thị trường tài chính. Các hình thức tạo vốn dù là sơ khai, dù là qua hệ thống ngân hàng thương mại hay ngoài ngân hàng (tín dụng thương mại, tín dụng hùn vốn đầu tư cổ phần, ) đều được tạo điều kiện phát triển, đặc biệt là các luật tín dụng ngoài ngân hàng. Trên cơ sở đó, cho phép các công ty, xí nghiệp phát hành các loại trái phiếu, hối phiếu, cổ phiếu và được mua bán, chuyển nhượng trên thị trường. Việc làm đầu tiên, có ý nghĩa thúc đẩy các hoạt động của thị trường vốn là việc phát hành chứng khoán nhà nước, đảm bảo uy tín của nhà nước. Cho phép các ngân hàng thương mại và toàn dân mua bán, chuyển nhượng các chứng khoán, tạo nên sự tin cậy trong các hoạt động kinh doanh tiền tệ, từng bước hình thành các thị trường chứng khoán thứ (dạng sơ khai, đơn giản) nhằm đáp ứng nhanh, nhạy với khối lượng lớn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp. Có chiến lược kinh tế đối ngoại đúng đắn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng đặc biệt cho việc phát triển kinh tế với phần lớn các nước đang phát triển và là điều kiện để nhanh chóng thiết lập các quan hệ kinh tế quốc tế, gắn thị trường nội địa với thị trường thế giới trên cả bốn mặt: thị trường hóa, thị trường tài chính, thị trường lao động và thị trường thông tin. Vì vậy, phải xây dựng một chiến lược kinh tế đối ngoại đúng đắn, phù hợp với những chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị - xã hội và khoa học hiện nay. Tư tưởng chỉ đạo chiến lược của chính sách kinh tế đối ngoại là dân tộc, dân chủ, phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa, với phương pháp chủ đạo là quan hệ kinh tế đa phương mở cửa và cùng có lợi. Cần có chính sách tài chính thích hợp để khuyến khích đầu tư nước ngoài dưới hình thức vay nợ, đầu tư tài chính, đầu tư trực tiếp, mở chi nhánh kinh doanh, thuê chuyên gia Thực hiện chế độ tài chính ưu tiên như thuế nhập khẩu vật tư kỹ thuật, dịch vụ thông tin, thuế xuất khẩu thành phẩm, thuế thu nhập, quyền được đảm bảo tài sản, điều kiện chuyển lợi nhuận và vốn về nước và các dịch vụ đầu tư ưu đãi khác. Khuyến khích đặc biệt đối với đầu tư nước ngoài cho các công trình cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, công nghệ mũi nhọn, các ngành sử dụng nhiều lao động và những dự án khai thác tài nguyên có số vốn khổng lồ. Cho phép mọi đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế có tư cách pháp nhân, đủ điều kiện về nghiệp vụ kinh doanh được trực tiếp liên doanh, gọi vốn của nước ngoài và chịu trách nhiệm trả nợ và các khoản thanh toán khác, tự thỏa thuận lựa chọn ngân hàng bảo lãnh theo luật pháp các nhà nước. Mở rộng thị trường hối đoái bằng cách cho phép nhiều ngân hàng thương mại có đủ điều kiện về vốn và nghiệp vụ, 22
  21. được kinh doanh ngoại hối và thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế nhằm đảm bảo bằng luật pháp các điều kiện di chuyển vốn, lợi nhuận, thanh toán ngoại thương nhanh chóng, thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tạo điều kiện ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội, đặc biệt là hệ thống pháp lý kinh tế đầy đủ, nghiêm chỉnh, giá cả ổn định, chính sách tiền lương và điều tiết thu nhập hợp lý. Tóm lại, việc kết hợp giữa “khơi trong” và “hút ngoài”; giữa vốn tập trung của nhà nước và vốn doanh nghiệp (có được từ mọi nguồn) theo một định hướng đầu tư đúng đắn trong một cơ chế hoạt động tài chính thích hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với việc củng cố và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, đồng thời cũng là nhân tố tạo nên bước chuyển biến có ý nghĩa cơ bản của công cuộc đổi mới cơ chế kinh tế. - Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp Phát triển doanh nghiệp sẽ tập hợp có hiệu quả các nguồn lực phân tán nhưng rất to lớn và phù hợp với đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy đay là chính sách quan trọng có tầm chiến lược lâu dài. Về chính sách đầu tư, nguồn vốn đầu tư của nhà nước tập trung chủ yếu vào phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện các yêu cầu công cộng. Các doanh nghiệp nhà nước thuần túy kinh doanh tự huy động nguồn vốn trong xã hội hoặc tín dụng ngân hàng để đảm bảo được điều kiện đầu tư bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi sẽ cho vay đối với các đề án thỏa mãn được mục tiêu cần khuyến khích của nhà nước, không phân biệt quy mô của doanh nghiệp và thành phần kinh tế của doanh nghiệp. Về chính sách ưu đãi về thuế và các chi phí, ngoài việc thực hiện chính sách theo luật khuyến khích đầu tư trong nước, cần áp dụng chế độ ưu đãi hơn về giá điện nước, và thuê đất cho các doanh nghiệp. Khuyến khích lựa chọn công nghệ tiến bộ, quy mô vừa và nhỏ, sử dụng nhiều lao động nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của thị trường bằng cách cung cấp các dịch vụ thông tin kỹ thuật, miễn hoặc giảm thuế cho các doanh nghiệp chế tạo thiết bị trong nước hoặc nhập khẩu từ nước ngoài, đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thực hiện cơ chế giám sát nhà nước về giá cả, mức tiêu thụ và dự trữ kinh doanh. Có quy chế phân biệt về quyền lợi, nghĩa vụ và điều kiện hoạt động kinh doanh giữa doanh nghiệp hoạt động công ích và doanh nghiệp thuần túy kinh doanh, giữa doanh nghiệp kinh doanh độc quyền với doanh nghiệp cạnh tranh. Tiến đến ban hành luật kiểm tra độc quyền, duy trì cạnh tranh lành mạnh. Tiếp tục cải cách và hướng dẫn thực hiện các thể chế quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tiến hành cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước trừ các doanh nghiệp trong các ngành then chốt. - Chính sách đối với ngân sách nhà nước Từng bước giảm chi phí kinh tế (cho tăng tài sản cố định, tăng vốn lưu động, tăng dự trữ quốc gia) và tăng chi ngoài kinh tế mà bố trí nguồn thu, rà soát lại các khoản chi. Để kiểm soát lạm phát có hiệu quả và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, cần chấm dứt việc cho vay trực tiếp từ Ngân hàng trung ương đối với ngân sách nhà nước dưới mọi hình thức. Thiếu hụt ngân sách nhà nước cần được hạn chế nhất định (khoảng 5% GDP), và phải giảm dần, tiến tới cân bằng thu chi ngân sách. Phương thức xử lý nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách theo hướng vay trên thị trường vốn hoặc thị trường tiền tệ thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ (vay trung và dài hạn) và tín phiếu kho bạc (vay ngắn hạn). Ngân hàng nhà nước phối hợp với Bộ tài chính trong việc tiến hành đấu giá tín phiếu kho bạc, sử dụng công cụ này nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời cho ngân sách nhà nước. Các chính sách về ngân sách nhằm huy động vốn dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội cần thường xuyên đổi mới cải tiến các hình thức huy động, đặc biệt là hệ thống thuế. Thuế không những là nguồn thu ngân sách mà còn là công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước. Do vậy, cùng với việc thực hiện đường lối đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, Đảng 23
  22. và Chính phủ đã dành nhiều sự quan tâm chú ý lớn cho công tác đổi mới hệ thống thuế. Các sắc thuế trong hệ thống này được áp dụng chung cho các thành phần kinh tế không còn sự phân biệt khu vực quốc doanh và khu vực ngoài quốc doanh như trước đây. Hệ thống thuế đánh dấu một bước tiến bộ trong công tác quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước ta, đống góp tích cực vào sự quản lý kinh tế vĩ mô và tăng thu ngân sách. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện, hệ thống thuế hiện hành vẫn còn thể hiện nhiều hạn chế, không đồng bộ và có những điểm chưa phù hợp với tình hình thực tế trong nước, cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung. Mặt khác, thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước cũng như xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đòi hỏi chúng ta phải có những cải cách mới làm cho hệ thống thuế vừa đáp ứng được nhu cầu quản lý kinh tế trong nước, vừa phù hợp với những luật lệ và thông lệ quốc tế. - Chính sách về tài chính đối ngoại Quán triệt quan điểm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt trong việc phát triển kinh tế đối ngoại, chính sách tài chính cần huy động tối đa nguồn vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời tạo ra và tận thu các nguồn thu ngoại tệ. Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, sản xuất chậm phát triển, tích lũy từ nội bộ chưa đáng kể thì phải triệt để thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, coi đó là nguồn thu quan trọng, không thể thiếu được và có ý nghĩa quyết định đến khả năng và tốc độ phát triển của nền kinh tế nước nhà; nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh tế đối ngoại thể hiện ở mức độ đóng góp của nó vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong nước. Xét hiệu quả kinh tế đối ngoại thì phải gắn xuất khẩu với nhập khẩu, vay nợ với trả nợ. Cụ thể đối với các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ; cần tăng cường đầu tư phát triển các hoạt động xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (du lịch, bảo hiểm, cung ứng và tàu biển, dịch vụ hàng không, ). Nhập khẩu chủ yếu để phục vụ cho đầu tư phát triển sản xuất trong nước, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu. Chủ yếu nhập vật tư, nguyên liệu để phát huy hết năng lực sản xuất hiện có trong nước. Cần tăng tỷ lệ nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, vừa đảm bảo tính hiện đại vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế trong nước. Tất nhiên, hiệu quả các hoạt động kinh tế đối ngoại có thể được đánh giá đúng khi có hệ thống giá và tỷ lệ hợp lý trong một cơ chế quản lý thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải quản lý tốt việc sử dụng ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh. Xóa bỏ độc quyền trong việc tham gia các hoạt động và quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị kinh tế cơ sở. Nâng cao vai trò quản lý tài chính trên cơ sở phân định rõ về quyền lợi và trách nhiệm thông qua các luật lệ tài chính. Bên cạnh việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế để tranh thủ viện trợ cần được nhà nước quản lý thống nhất và phải được sử dụng đúng mục đích. Cải tiến và đơn giản hóa các thủ tục về đầu tư nước ngoài, tạo mọi điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Để thu hút mạnh mẽ nguốn vốn này, phải tạo ra một môi trường chính trị, pháp lý và kinh tế thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. - Các chính sách về tiền tệ và tín dụng Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận cấu thành quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, có vai trò trọng yếu trong việc ổn định nền tiền tệ quốc gia và phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia là kiểm soát chặt chẽ lạm phát, từng bước tăng cường tính ổn định giá cả đối nội và đối ngoại của đồng tiền, tạo điều kiện huy động vốn góp phần cho một mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Đó cũng là điều kiện quan trọng để củng cố uy tín và phát triển hoạt động của hệ thống ngân hàng, nhanh chóng hòa nhập quốc tế, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế, đáp ứng ngày càng cao dịch vụ tài chính của nền kinh tế. Để thực hiện được mục tiêu nêu trên, chính sách tiền tệ cần tập trung vào: 24
  23. Điều hành khối lượng tiền cung ứng. Tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế cần được kiểm soát và điều hành có hiệu lực, bám sát các tín hiệu thị trường để vừa đảm bảo cung ứng đủ phương tiện thanh toán cho nhu cầu đầu tư tăng trưởng kinh tế, đối ứng với luồng đầu tư từ nước ngoài vào vừa không gây cầu quá mức về hàng hóa, kích thích tăng giá trong nước. Khi cần thiết, ngân hàng nhà nước phải áp dụng những biện pháp hữu hiệu để rút tiền lưu thông về, như phát hành tín phiếu ngân hàng nhà nước, mua ngoại tệ, Chính sách tín dụng: Để tạo nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần tiếp tục hoàn chỉnh đưa vào hoạt động có chất lượng các thị trường tiền tệ (như thị trường liên ngân hàng; thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc); và cùng với các ngành đưa vào hoạt động thị trường chứng khoán trong thập kỷ này. Thực hiện chính sách huy động vốn và cho vay vốn tích cực, mạnh mẽ vừa đảm bảo về khối lượng, vừa chú trọng hiệu quả chất lượng sử dụng vốn đảm bảo khả năng hoàn trả. Về huy động vốn, trước hết, cần khẳng định rằng trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp như hiện nay, khả năng tiết kiệm của nhân dân nhìn chung còn hạn hẹp. Bằng các hình thức huy động tiết kiệm phong phú với lãi xuất khá cao hiện nay, hệ thống ngân hàng đã thu hút được phần lớn tiền nhàn rỗi trong dân cư (tiền gửi khách hàng tại các tổ chức tín dụng đã- phương tiện thanh toán của nền kinh tế). Để nền kinh tế có tăng trưởng cao, tín dụng ngân hàng cần được mở rộng đáp ứng các nhu cầu vay vốn có hiệu quả với phương châm không để các dự án đầu tư có hiệu quả cao bị thiếu vốn. Cơ cấu tín dụng cần tiếp tục chuyển dịch có lợi cho đầu tư phát triển, tăng cường cho vay trung và dài hạn. Không ngừng nâng cao chất lượngtín dụng, giảm tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi xuống mức lành mạnh theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng vòng quay và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của xã hội. Tiếp tục mở rộng đối tượng cho vay đến cả các thành phần kinh tế, chú ý thích đáng việc cho vay đối với nông dân và các đối tượng chính sách, mở rộng các hoạt động dịch vụ và phục vụ của hệ thống ngân hàng thương mại, góp phần khuyến khích phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, địa phương. CÂU HỎI ÔN TẬP 1/ Vai trò hệ thống tài chính trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội của các quốc gia. 2/ Cấu trúc hệ thống tài chính và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống tài chính. 3/ Mục tiêu cơ bản của chính sách tài chính quốc gia và mối quan hệ giữa các mục tiêu đó. 4/ Nội dung cơ bản của chính sách tài chính quốc gia Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2007. 2. PGS.TS Nguyễn Thanh Tuyền, Lý thuyết Tài chính, Trường ĐH Tài chính kế toán TP HCM 1994 3. GS.TS Dương Thị Bình Minh, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Giáo dục 2001 25
  24. Chương 3 NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Mục tiêu của chương này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về: - Bản chất, vai trò của ngân sách nhà nước - Nội dung cơ bản của thu –chi ngân sách nhà nước và vấn đề bội chi. - Tổ chức và phân cấp ngân sách nhà nước. 3.1. VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NUỚC 3.1.1. Bản chất của ngân sách nhà nước Theo Luật Ngân sách nhà nước: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong vòng một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước”. Từ định nghĩa trên, có thể rút ra bản chất của ngân sách nhà nước được thể hiện trên các phương diện sau: - Xét về phương diện pháp lý: Ngân sách nhà nước là một đoah luật dự trù các khoản thu, chi của Nhà nước trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Đạo luật này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành. - Xét về bản chất kinh tế: Mọi hoạt động của ngân sách nhà nước đều là hoạt động phân phối các nguồn tài nguyên quốc gia (phân phối lần đầu và phân phối lại).Vì vậy về nội dung kinh tế, ngân sách nhà nước thể hiện các mối quan hệ kinh tế trong phân phối. Đó là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa một bên là nhà nước và một bên là các tổ chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư. - Về tính chất xã hội: Ngân sách nhà nước luôn là một công cụ kinh tế của nhà nước, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Trong cơ chế thị trường, những quan hệ kinh tế thuộc nội dung ngân sách nhà nước chỉ có thể phát sinh, phát triển trên cơ sở vận động không ngừng của các cơ quan tiền tệ trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong mối quan hệ giữa ngân sách nhà nước với sự vận động của các đơn vị tiền tệ nảy sinh trong lĩnh vực sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, các quan hệ tiền tệ thuộc nọi dung ngân sách nhà nước hoàn toàn không mang tính thụ động mà có ảnh hưởng tích cực trở lại. Sự ảnh hưởng đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhà nước sử dụng ngân sách làm công cụ quản lý kinh tế, xã hội như thế nào. 3.1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước - Kích thích sự tăng trưởng kinh tế (vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế). Vai trò này xuất phát từ bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước, để đảm bảo cho hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội đòi hỏi phải có những nguồn tài chính nhất định. Những nguồn tài chính này được hình thành từ các khoản thu thuế và các khoản thu ngoài thuế . Đây là vai trò lịch sử của Ngân sách nhà nước mà trong bất kỳ chế độ xã hội nào, cơ chế kinh tế nào ngân sách nhà nước đều phải thực hiện. Thông qua các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội của Nhà nước tạo ra nhiều cơ hội phát triển. Cùng với ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực này là chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp như đầu tư, trợ giá, hỗ trợ vốn, góp vốn liên doanh, đào tạo nguồn nhân lực đã tác động mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến quá trình công nghiệp hoá đất nước thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững. Cùng với chính sách chi tiêu, chính sách thu của nhà nước, đặc biệt là chính sách thuế có tác động lớn đến định hướng sản xuất và điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua việc Nhà nước xây dựng hệ thống thuế với cơ cấu các loại thuế, sắc thuế hợp lý; 26
  25. thuế suất, miễn giảm phù hợp. Nó không chỉ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút vốn đầu tư, định hướng đầu tư cho các doanh nghiệp mà còn hướng dẫn, khuyến khích, thúc đẩy các thành phần kinh tế mở rộng hoạt động kinh doanh. Ngân sách nhà nước được hình thành và sử dụng vì lợi ích công cộng mà rõ nét nhất là tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định xã hội, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, chống đói nghèo của đất nước. Ngân sách Nhà nước ổn định là điều kiện cơ bản để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế xã hội. Sự hình thành và xây dựng cơ cấu kinh tế cân đối, hợp lý và năng động, những đầu tư đổi mới công nghệ cũng chủ yếu dựa vào nguồn lực tài chính công. - Giải quyết các vấn đề xã hội (vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội) Nền kinh tế thị trường với những khuyết tật của nó sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhà nước phải có một chính sách phân phối lại thu nhập hợp lý nhằm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về thu nhập trong dân cư. Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính hữu hiệu được nhà nước sử dụng để điều tiết thu nhập, với các sắc thuế như thuế thu nhập luỹ tiến, thuế tiêu thụ đặc biệt một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách mặt khác lại điều tiết một phần thu nhập của tầng lớp dân cư có thu nhập cao. Bên cạnh công cụ thuế, với các khoản chi của ngân sách nhà nước như chi trợ cấp, chi phúc lợi cho các chương trình phát triển xã hội: phòng chống dịch bệnh, phổ cập giáo dục tiểu học, dân số và kế hoạch hoá gia đình là nguồn bổ sung thu nhập cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp . Ngân sách nhà nước phân phối các nguồn tài chính đã tập trung được trong các quỹ công cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước theo những quan hệ tỉ lệ phù hợp, đảm bảo duy trì sự tồn tại và tăng cường sức mạnh của bộ máy Nhà nước, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Thị trường không có chức năng tạo ra sự phân phối thu nhập công bằng, Nhà nước cần phải can thiệp để giải quyết sự bất công trong phân phối thu nhập của thị trường. Nhà nước sử dụng chủ yếu qua công cụ thuế và chi tiêu công để tái phân phối thu nhập xã hội theo hướng điều tiết bớt các thu nhập cao và nâng đỡ các thu nhập thấp. Thuế là công cụ động viên, tập trung nguồn thu cho Nhà nước thì chi tiêu công là công cụ chuyển giao thu nhập đó đến những người có thu nhập thấp thông qua chi an sinh xã hội, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo góp phần thực hiện công bằng xã hội. - Góp phần bình ổn thị trường giá cả, chống lạm phát (điều chỉnh trong lĩnh vực thị trường) Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận tối đa, các yếu tố cơ bản của thị trường là cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn nhau và chi phối hoạt động của thị trường. Sự mất cân đối giữa cung và cầu sẽ làm cho giá cả tăng lên hoặc giảm đột biến và gây ra biến động trên thị trường, dẫn đến sự dịch chuyển vốn của các doanh nghiệp từ ngành này sang ngành khác, từ địa phương này sang địa phương khác. Việc dịch chuyển vốn hàng loạt sẽ tác động tiêu cực đến cơ cấu kinh tế, nền kinh tế phát triển không cân đối. Do đó, để đảm bảo lợi ích cho nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng nhà nước phải sử dụng ngân sách để can thiệp vào thị trường nhằm bình ổn giá cả thông qua công cụ thuế và các khoản chi từ ngân sách nhà nước dưới các hình thức tài trợ vốn, trợ giá và sử dụng các quỹ dự trữ hàng hoá và dự trữ tài chính. Đồng thời , trong quá trình điều tiết thị trường ngân sách nhà nước còn tác động đến thị trường tiền tệ và thị trường vốn thông qua việc sử dụng các công cụ tàichính như: phát hành trái phiếu chính phủ, thu hút viện trợ nước ngoài, tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường vốn qua đó góp phần kiểm soát lạm phát. 27
  26. Các vai trò trên của Ngân sách nhà nước cho thấy tính chất quan trọng của Ngân sách nhà nước với các công cụ của nó có thể quản lý toàn diện và có hiệu quả đối với toàn bộ nền kinh tế . 3.2. THU VÀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 3.2.1. Thu ngân sách nhà nước Thu ngân sách Nhà nước là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng các yêu cầu chỉ tiêu xác định của Nhà nước. Nguồn tài chính được tập trung vào ngân sách Nhà nước được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Thu ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội để hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước. Sự phân chia đó là tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước. Thu ngân sách Nhà nước rất phong phú, đa dạng gắn liền với các hoạt động kinh tế xã hội. Trình độ phát triển kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP là tiền đề khách quan hình thành các khoản thu ngân sách Nhà nước và quyết định mức độ động viên các khoản thu vào ngân sách Nhà nước. + Thu thuế Thuế là một hình thức huy động nguồn tài chính cho Nhà nước đã có từ lâu đời. Khi Nhà nước ra đời, thuế trở thành công cụ để Nhà nước có được nguồn thu nhằm trang trải các chi tiêu của mình. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, cho đến nay các Nhà nước đều sử dụng thuế để phân phối các khoản thu nhập và huy động nguồn thu cho Nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực của mình ban hành các luật thuế bắt buộc dân cư và các tổ chức đóng góp cho Nhà nước. Các nhà kinh tế học đều khẳng định, một trong những quyền lực công của Nhà nước là thu thuế. Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các pháp nhân và thể nhân cho Nhà nước theo luật định nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế có các đặc điểm: - Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc được thực hiện bằng quyền lực. Đóng thuế là nghĩa vụ bắt buộc được thực hiện thông qua công cụ quyền lực dựa trên hệ thống pháp luật thuế do Nhà nước ban hành. Phân phối các khoản thu nhập qua thuế gắn với quyền lực của Nhà nước. Đối tượng nộp thuế không có quyền từ chối nộp thuế, cũng không có quyền tự ấn định hay thoả thuận mức đóng góp của mình, mà chỉ có quyền chấp hành. Nhờ đó, Nhà nước mới có nguồn thu ổn định thường xuyên đảm bảo tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu công. - Thuế là một khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Nó vận động một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải trả cho Nhà nước do được hưởng các hàng hoá công mà Nhà nước cung cấp. Tại thời điểm nộp thuế, người nộp thuế không được hưởng bất kỳ một lợi ích nào và cũng không được quyền đòi hoàn trả số thuế đã nộp cho Nhà nước. Thuế là một nguồn thu không hoàn trả mà đối tượng thụ hưởng là Nhà nước, các cấp chính quyền địa phương và được sử dụng theo dự toán ngân sách Nhà nước được duyệt. - Thuế là khoản đóng góp được quy định trước và có tính pháp lý cao. Để buộc công dân nộp thuế, Nhà nước phải sử dụng quyền lực của mình được thể hiện bằng luật pháp. Vì vậy, trong các luật thuế thường xác định trước các yếu tố điều chỉnh hành vi nộp thuế như đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, mức thuế phải nộp và những chế tài mang tính cưỡng chế khác. 28
  27. Mặc dù rất đa dạng về hình thức và cơ chế đánh thuế nhưng bất cứ hệ thống thuế của quốc gia nào cũng đều được phân loại để quản lý. Phân loại thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra cách tiếp cận tổng quát cũng như nghiên cứu về cơ cấu của thuế. Cách phân loại này giúp cho việc nghiên cứu và thiết kế các chính sách thuế và có ý nghĩa trong việc hệ thống hoá một cách khoa học các sắc thuế, tìm ra các giải pháp quản lý khai thác, bồi dưỡng từng nguồn thu một cách hiệu quả. + Thu phí và lệ phí Phí và lệ phí là các khoản thu chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước nhưng vẫn được động viên, tập trung vào ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thu phí của ngân sách Nhà nước thực chất là khoản thu mang tính bù đắp một phần chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng cho xã hội và nó cũng là khoản chi phí mà ngưòi dân phải trả khi thụ hưởng các dịch vụ công cộng đó. Phí gồm rất nhiều loại như: Phí giao thông, phí thuỷ lợi, học phí trường công lập, viện phí bệnh viện Nhà nước Thông thường, phí được chia thành: các loại phí mang tính phổ biến và các loại phí mang tính địa phương. Trên cơ sở đó, tuỳ theo tính chất của từng loại phí mà Nhà nước phân cấp cho các ngành, các địa phương ban hành và thực hiện thu cho ngân sách Nhà nước. Lệ phí là khoản thu phát sinh ở các cơ quan của bộ máy chính quyền Nhà nước khi cung cấp các dịch vụ công cộng về hành chính, pháp lý cho dân chúng. Có nhiều loại lệ phí như: Lệ phí hành chính (lệ phí đăng ký hộ khẩu, nhân khẩu, lệ phí sao giấy tờ, ); lệ phí pháp lý (lệ phí cấp phép hành nghề, lệ phí xác nhận quyền sở hữu tài sản ); các loại lệ phí khác (lệ phí được phép bay qua bầu trời, lệ phí được phép khai thác tài nguyên ). Lệ phí thường là các khoản thu nhỏ, rải rác, chủ yếu phát sinh ở các cơ quan chính quyền địa phương. + Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước Thu ngân sách Nhà nước từ các hoạt động kinh tế của Nhà nước là các khoản thu từ lợi tức của các cơ sở kinh tế của Nhà nước, lợi tức liên doanh kinh tế, lợi tức cổ phần của Nhà nước tại các Công ty cổ phần. Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tham gia vào hoạt động kinh tế bằng việc xây dựng các doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư vốn dưới hình thức góp vốn vào các doanh nghiệp, Công ty liên doanh, mua cổ phiếu của các Công ty cổ phần. Số vốn đầu tư của Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh phải được sinh lời và phần lợi tức thu được vào ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn của Nhà nước, hiệu quả sản xuất kinh doanh và cơ chế phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. + Vay nợ của Chính phủ Các nguồn thu của ngân sách Nhà nước nhiều khi không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu buộc Nhà nước phải thực hiện huy động vốn bằng việc vay nợ trong và ngoài nước. Vay nợ để bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước và đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế là giải pháp được nhiều nước thực hiện thông qua phương thức tín dụng Nhà nước. Tín dụng Nhà nước phản ánh mối quan hệ tín dụng trong đó Nhà nước là người trực tiếp vay vốn ở trong nước và từ nước ngoài để đảm bảo các khoản chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Tín dụng Nhà nước luôn gắn liền với hoạt động của ngân sách Nhà nước, trong đó Nhà nước vừa là người đi vay, vừa là người cho vay nhưng Nhà nước xuất hiện với tư cách người đi vay là chủ yếu. Vay nợ của Chính phủ được chia thành: vay nợ trong nước và vay nợ nước ngoài. 29
  28. - Vay nợ trong nước: Chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng này bao gồm: Chính quyền Nhà nước Trung ương, chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính, các tổ chức xã hội và dân cư. Ở Việt Nam. Vay nợ trong nước được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành có thời hạn, có mệnh giá và lãi suất để vay dân cư, các tổ chức kinh tế, xã hội và các tổ chức tài chính. Trái phiếu Chính phủ có các hình thức sau: Tín phiếu kho bạc: Là trái phiếu Chính phủ ngắn hạn, có kỳ hạn dưới 1 năm, được phát hành để huy động vốn nhằm giải quyết mất cân đối tạm thời của ngân sách Nhà nước trong năm tài chính. Trái phiếu kho bạc: Là trái phiếu Chính phủ trung và dài hạn, có kỳ hạn trên 1 năm, được phát hành để huy động vốn nhằm giải quyết bội chi ngân sách Nhà nước đã được quốc hội phê chuẩn. Trái phiếu đầu tư: Là trái phiếu Chính phủ trung và dài hạn, có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, được phát hành để huy động vốn cho các dự án đầu tư cụ thể theo kế hoạch đầu tư đã được phê duyệt nhưng chưa bố trí được vốn ngân sách Nhà nước hoặc tài trợ vốn cho các mục tiêu nhất định. Việc phát hành trái phiếu Chính phủ vào thị trường tài chính có thể được thực hiện bằng các phương thức khác nhau như: Phương thức đấu thầu, phương thức bảo lãnh phát hành, phương thức tiêu thụ qua các đại lý và phương thức phát hành trực tiếp. - Vay nợ nước ngoài: Một trong những trợ ngại của các nước đang phát triển và các nước nghèo là sự thiếu hụt giữa tiết kiệm và nhu cầu đầu tư, thâm hụt ngân sách Nhà nước. Do sự thâm hụt này, thông thường các quốc gia phải dựa vào nguồn vốn từ bên ngoài để hỗ trợ đầu tư trong nước nhằm theo đuổi chính sách tăng trưởng nhanh, trong đó có hình thức vay nợ nước ngoài. Hình thức vay nợ nước ngoài phổ biến là phát hành trái phiếu quốc tế. Trái phiếu quốc tế của Chính phủ là chứng chỉ vay nợ do Chính phủ phát hành trên thị trường vốn quốc tế nhằm huy động vốn của các nhà đầu tư trên thế giới. Đây là hình thức vay trực tiếp từ các nhà đầu tư quốc tế nên tính độc lập về tài chính của Chính phủ khá cao, Chính phủ có thể mở rộng chi ngân sách Nhà nước mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện từ phía người đi vay. Tuy nhiên, phải tuân thủ các thông lệ quốc tế về trình tự, thủ tục phát hành, tính bất khả kháng trong thanh toán gốc và trả lãi trái phiếu khi đến hạn. Phát hành trái phiếu quốc tế đối với Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế, nâng cao uy tín đối với nhà đầu tư nước ngoài và là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển khi ngân sách Nhà nước còn thâm hụt. Viện trợ quốc tế không hoàn lại: Viện trợ quốc tế không hoàn lại là nguồn vốn phát triển của các Chính phủ, các tổ chức liên Chính phủ, các tổ chức quốc tế cấp cho Chính phủ một nước nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế – xã hội. Viện trợ không hoàn lại có thể là song phương hoặc đa phương do các Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế cấp. Các hình thức viện trợ không hoàn lại: Viện trợ của các Chính phủ: Là viện trợ song phương giữa các nước có thoả thuận tay đôi với nhau. Viện trợ của các tổ chức quốc tế: Là viện trợ đa phương giữa các quốc gia được thực hiện thông qua một tổ chức quốc tế nào đó. Ví dụ, các tổ chức của Liên hợp quốc như Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Quỹ hoạt động dân số của Liên hợp quốc (UNFPA) 30
  29. Viện trợ của các tổ chức Phi Chính phủ: Là viện trợ do các tổ chức phi Chính phủ thực hiện. Viện trợ quốc tế không hoàn lại là nguồn vốn quan trọng bổ sung chồ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Vì vậy Nhà nước cần tranh thủ khai thác nguồn vốn này từ các Chính phủ và các tổ chức quốc tế. 3.2.2. Chi ngân sách Nhà nước a. Đặc điểm của chi ngân sách Nhà nước Chi ngân sách Nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Chi ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào ngân sách Nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng cho từng hoạt động, từng công việc thuộc chức năng của Nhà nước. Nó chính là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý hành chính, các đơn vị sự nghiệp được tài trợ và kiểm soát bởi Chính phủ. Thông qua các khoản chi tiêu, ngân sách Nhà nước cung ứng lại cho xã hội nguồn tài chính đã được thu về từ các khoản nộp thuế, phí, lệ phí bằng việc cung cấp những hàng hoá công cộng cần thiết cho xã hội. Với cơ chế này, Nhà nước thực hiện tái phân phối thu nhập xã hội công bằng hơn, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng bền vững và ổn định, khắc phục các khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Chi ngân sách Nhà nước có các đặc điểm sau: - Gắn liền với bộ máy Nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước đảm nhiệm trong từng thời kỳ; gắn với quyền lực Nhà nước. Quốc hội quyết định qui mô, nội dung, cơ cấu chi ngân sách Nhà nước và phân bổ vốn ngân sách cho các mục tiêu quan trọng của quốc gia. Chính phủ có nhiệm vụ thực hiện, quản lý, điều hành các khoản chi ngân sách Nhà nước. - Mục đích của chi ngân sách Nhà nước là nhằm phục vụ cho lợi ích chung của quốc gia nên hoàn toàn mang tính chất công cộng. Chi ngân sách Nhà nước để mua hàng hoá, dịch vụ, thông qua các đơn đặt hàng của Chính phủ, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng công cộng của các tầng lớp dân cư. - Chi ngân sách Nhà nước có phạm vi rộng và có quy mô lớn. Các khoản chi ngân sách Nhà nước đảm bảo cho Nhà nước cung cấp một lượng hàng hoá công cộng lớn cho nền kinh tế, có liên quan đến mọi lĩnh vực, mọi hoạt động kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng, cả ở trong nước và nước ngoài. - Chi ngân sách Nhà nước có tính chất không hoàn trả trực tiếp. Các khoản cấp phát từ ngân sách Nhà nước cho các ngành, các cấp, cho các hoạt động không phải trả giá hoặc hoàn lại cho Nhà nước. Tuy nhiên, ngân sách Nhà nước cũng có các khoản chi thực hiện chương trình mục tiêu mà thực chất là cho vay ưu đãi có hoàn trả gốc với lãi suất thấp hoặc không có lãi. b. Các hình thức chi ngân sách Nhà nước Chi ngân sách Nhà nước có quy mô lớn, phức tạp, có tác động mạnh mẽ đến môi trường tài chính vĩ mô; đến tổng cung, tổng cầu về vốn tiền tệ. Do tính đa dạng và phức tạp nên chi ngân sách Nhà nước có nhiều nội dung khác nhau. + Chi đầu tư phát triển Chi đầu tư phát triển là việc Nhà nước sử dụng một phần nguồn tài chính đã được tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển sản xuất và dự trữ quốc gia nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. 31
  30. Trong nền kinh tế thị trường, vốn đầu tư phát triển được hợp thành từ nhiều nguồn: vốn ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, vốn đầu tư của cá nhân và hộ gia đình, tín dụng đầu tư và vốn nước ngoài (đầu tư trực tiếp, vay và viện trợ). Trong số các nguồn vốn này, vốn đầu tư phát triển của ngân sách Nhà nước luôn đóng vai trò chủ yếu trong thực hiện chiến lược đầu tư của nền kinh tế. Chi đầu tư phát triển bao gồm: - Chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội: Đây là khoản chi từ ngân sách Trung ương và ngân sách Nhà nước địa phương nhằm xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng như: Cầu cống, đường xá, cảng, sân bay, hệ thống thuỷ lợi, năng lượng, viễn thông ; các công trình có tính chất chiến lược, trọng điểm phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, phúc lợi công cộng. Chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội có tầm quan trọng trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế – xã hội; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng của Nhà nước; hình thành thế cân đối của nền kinh tế cũng như khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là khu vực ngoài quốc doanh đầu tư, giảm chi phí sản xuất, mở rộng thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh, nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế. - Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước: Đây là khoản chi tích luỹ mang tính chất sản xuất hình thành nên vốn cố định, vốn lưu động và là bộ phận vốn kinh doanh của doanh nghiệp đảm bảo yêu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước được hình thành và hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi ngân sách Nhà nước phải cấp phát vốn đầu tư ban đầu cũng như hỗ trợ, bổ sung vốn trong quá trình hoạt động. Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, vừa đảm bảo đầu tư vào một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh then chốt tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế – xã hội, vừa đảm bảo sự phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý cho tăng trưởng kinh tế. - Chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp: Ở nước ta, các Công ty cổ phần được hình thành trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hoặc được thành lập mới theo pháp luật, các doanh nghiệp liên doanh được thành lập trên cơ sở liên doanh, liên kết giữa các tổ chức kinh tế. Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp này trong nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế đã kích thích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế. Để quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước tham gia vào hoạt động của các Công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh bằng việc góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh theo một tỉ lệ nhất định vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết phải có sự tham gia của Nhà nước để hướng dẫn, kiểm soát hay khống chế các hoạt động của những doanh nghiệp này theo định hướng của Nhà nước. - Chi dự trữ Nhà nước: Dự trữ Nhà nước được hình thành bằng nguồn tài chính từ ngân sách Nhà nước và được sử dụng để điều chỉnh các hoạt động của thị trường, điều hoà cung cầu tiền, ngoại tệ và một số mặt hàng chiến lược cũng như giải quyết kịp thời các tổn thất bất ngờ xảy ra đối với nền kinh tế – xã hội. Chi dự trữ Nhà nước góp phần đảm bảo sự hoạt động ổn định và sự vận hành có hiệu quả của nền kinh tế. + Chi thường xuyên Chi thường xuêyn là các khoản chi gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về quản lý kinh tế – xã hội. 32
  31. Các khoản chi thường xuyên mang tính chất là các khoản chi tiêu dùng xã hội. Về nội dung, chi thường xuyên gồm: các khoản chi liên quan đến con người (lương, phụ cấp ) và các khoản chi liên quan đến nghiệp vụ quản lý, công việc chuyên môn. Thông qua các khoản chi thường xuyên, Nhà nước thể hiện sự quan tâm đến nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và Nhà nước thực hiện các chức năng văn hoá, giáo dục, quản lý, an ninh quốc phòng. Chi thường xuyên được chia thành: - Chi sự nghiệp: Là các khoản chi cho các dịch vụ và các hoạt động xã hội phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao dân trí của dân cư. Theo tính chất hoạt động của các ngành, chi sự nghiệp được chia thành: + Chi sự nghiệp kinh tế. + Chi nghiên cứu khoa học và công nghệ. + Chi sự nghiệp giáo dục và đào tạo. + Chi sự nghiệp y tế. + Chi sự nghiệp văn hoá, nghệ thuật, thể thao. + Chi sự nghiệp xã hội. Như vậy, về nội dung, chi sự nghiệp gồm các khoản chi bảo đảm các hoạt động sự nghiệp và các khoản chi có tính chất trợ cấp cho những đối tượng xã hội nhất định. Ngân sách Nhà nước cung cấp nguồn tài chính cho các hoạt động sự nghiệp có ý nghĩa kinh tế – xã hội to lớn. Các khoản chi sự nghiệp tạo ra các điều kiện để nâng cao trình độ văn hoá, kỹ thuật, sức khoẻ của người lao động, phát triển sức sản xuất tác động tới quá trình tái sản xuất xã hội, quá trình tạo ra thu nhập quốc dân. Chi sự nghiệp mặc dù không mang tính chất sản xuất nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ và phát huy tác dụng lâu dài đối với sản xuất xã hội. Các khoản chi sự nghiệp còn góp phần nâng cao mức sống và thu nhập thực tế cho các tầng lớp dân cư làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ dân trí và thu nhập giữa các thành viên trong xã hội. - Chi quản lý Nhà nước Là các khoản chi nhằm đảm bảo hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Các hoạt động quản lý Nhà nước không chỉ thuần tuý mang ý nghĩa cai trịmà còn mang ý nghĩa phục vụ. Các hoạt động này trở thành nhân tố hỗ trợ tích cực cho các chủ thể và các hoạt động kinh tế – xã hội phát triển. Chi ngân sách Nhà nước cho các hoạt động quản lý Nhà nước là đảm bảo cho các cơ quan Nhà nước cung ứng các dịch vụ hành chính công một cách nhanh chóng và thuận lợi. - Chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội Chi quốc phòng để phòng thủ và bảo vệ đất nước, chống lại sự xâm lược, tấn công từ nước ngoài. Chi an ninh và trật tự an toàn xã hội để bảo vệ và giữ gìn chế độ xã hội, an ninh dân cư trong nước. Nguồn tài chính quyết định cho hoạt động quốc phòng và an ninh là từ ngân sách Nhà nước. “Hàng hoá công cộng” này có được là nhờ dựa vào “sản xuất của Chính phủ” mà nguồn trang trải là ngân sách Nhà nước mà không một khâu tài chính nào thay thế được. - Chi trả nợ tiền vay của Chính phủ Ở nước ta, nợ công bắt nguồn từ bội chi của ngân sách Nhà nước và từ nhu cầu chi đầu tư phát triển kinh tế. Tất cả các khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài khi đến hạn, Nhà nước phải thanh toán. Hàng năm số chi trả nợ tiền vay của Nhà nước được bố trí theo một tỉ lệ nhất định trong tổng số chi ngân sách Nhà nước. 33
  32. 3.2.3. Bội chi ngân sách Nhà nước và nợ công + Bội chi ngân sách Nhà nước Bội chi ngân sách Nhà nước là tình trạng chi ngân sách Nhà nước vượt quá thu ngân sách Nhà nước trong một năm. Bội chi ngân sách có thể xảy ra do sự thay đổi chính sách thu – chi của Nhà nước được gọi là bội chi cơ cấu; do sự biến động của chu kỳ kinh tế được gọi là bội chi chu kỳ. Ngày nay, bội chi ngân sách Nhà nước trở thành phổ biến đối với hầu hết các quốc gia, tuy ở những mức độ khác nhau. Bội chi ngân sách biểu hiện cho sự thiếu hụt nguồn tài chính so với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Nguyên nhân có thể là do Nhà nước không sắp xếp được nhu cầu chi tiêu phù hợp với khả năng; cơ cấu chi ngân sách Nhà nước không hợp lý; lãng phí, thất thoát kinh phí; không có biện pháp hiệu quả khai thác đủ nguồn thu và bồi dưỡng nguồn thu hoặc do kinh tế suy thoái hay ảnh hưởng bởi thiên tai, chiến tranh làm nguồn thu ngân sách Nhà nước giảm sút. Bội chi ngân sách Nhà nước với quy mô lớn và kéo dài được coi là nguyên nhân trực tíêp và quyết định gây ra lạm phát, tác hại đến sự phát triển kinh tế, đến đời sống của dân cư. Bội chi cũng làm cho nợ công gia tăng, chèn ép đầu tư của khu vực tư và tạo sức ép đối với chính sách quản lý nợ. Để xử lý bội chi ngân sách Nhà nước, giải pháp mang tính chiến lược lâu dài là phát triển kinh tế, khai thác các tiềm năng kinh tế và phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Mặt khác, Nhà nước cần điều chỉnh các quan hệ phân phối nguồn lực tài chính thông qua biện pháp tăng thuế, giảm chi tiêu, phát hành tiền, vay nợ. Tăng thuế và cắt giảm chi ngân sách Nhà nước đều góp phần cải thiện tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng được thực hiện một cách không giới hạn. Trong bối cảnh mức tăng GDP chưa lớn, tăng thuế sẽ làm giảm sút tiết kiệm của doanh nghiệp và dân cư, đẩy lùi khả năng đầu tư và tiêu dùng của khu vực này làm giảm động lực phát triển kinh tế. Giảm chi công chỉ có tác dụng tích cực khi Nhà nước cắt giảm các khoản chi bao cấp, các khoản chi tiêu bất hợp lý, lãng phí; còn nếu giảm chi vượt quá mức giới hạn sẽ ảnh hưởng không tốt đến kích cầu, đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Phát hành tiền là biện pháp giúp Chính phủ huy động nhanh nguồn vốn để cân đối ngân sách Nhà nước mà không tốn kém nhiều chi phí. Nếu ngân hàng Trung ương phát hành trực tiếp cho Chính phủ vay bù đắp bội chi vượt quá yêu cầu của lưu thông tiền tệ có thể làm cho nền kinh tế phải gánh chịu phí tổn rất lớn do lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế. Tuy nhiên phát hành tiền để bù đắp bội chi, nhất là phát hành gián tiếp – ngân hàng Trung ương thực hiện cơ chế cho Chính phủ vay và được đảm bảo bằng trái phiếu Chính phủ – không phải bao giờ cũng chứa đựng nguy cơ lạm phát, tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế – xã hội. Nếu phát hành tiền ở mức hợp lý và sử dụng tiền phát hành hiệu quả sẽ không làm tăng lạm phát và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Vay nợ trong nước và nước ngoài có thể tránh được phát hành tiền. Nhưng vay nợ thì phải trả nợ, càng vay nợ càng gia tăng gánh nặng nợ của Chính phủ. Bội chi ngân sách Nhà nước dẫn đến gia tăng vay nợ; vay nợ gia tăng buộc Nhà nước phải chi trả lãi nợ nhiều hơn và dẫn đến bội chi ngân sách Nhà nước lớn hơn. Mặt khác, vay nợ tạo ra áp lực buộc Nhà nước phải tăng thuế trong tương lai để trả nợ vay. Vấn đề quan trọng được đặt ra là vay nợ đến mức nào để đảm bảo sự an toàn, tránh được nguy cơ khủng hoảng nợ và nhất là vay nợ phải được sử dụng có hiệu quả để có khả năng trả nợ đúng hạn và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế. Xử lý bội chi ngân sách Nhà nước bằng giải pháp nào cũng phải có sự trả giá, vấn đề là phải lựa chọn giải pháp, cũng như phối hợp giữa các giải pháp thích ứng với bối cảnh kinh tế – xã hội sao cho sự trả giá là ít nhất và có lợi nhất cho đất nước. + Nợ công 34