Thị trường chứng khoán - Chương 4: Giao dịch chứng khoán đã niêm yết trên sở giao dịch

pdf 86 trang vanle 1220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thị trường chứng khoán - Chương 4: Giao dịch chứng khoán đã niêm yết trên sở giao dịch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfthi_truong_chung_khoan_chuong_4_giao_dich_chung_khoan_da_nie.pdf

Nội dung text: Thị trường chứng khoán - Chương 4: Giao dịch chứng khoán đã niêm yết trên sở giao dịch

  1. Chương 4: GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN ĐÃ NIÊM YẾT TRÊN SỞ GIAO DỊCH Chương 4 gồm các nội dung sau: 4.1. Niêm yết chứng khoán 4.2. Lệnh giao dịch 4.3. Thời gian giao dịch 4.4. Đơn vị giao dịch, đơn vị yết giá và biên độ giao động giá 4.5. Các phương thức khớp lệnh 4.6. Các phương thức giao dịch chứng khoán 4.7. Các giao dịch đặc biệt 4.8. Hướng dẫn học tập Mục tiêu chung: Cung cấp cho học viên các kiến thức về niêm yết chứng khoán; cách thức tiến hành đặt lệnh chứng khoán trên sở giao dịch; các quy định khi tham gia giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán; cách xác định giá khớp trong phiên khớp lệnh định kỳ và khớp lệnh liên tục. Trên cơ sở đó học viên có thể vận dụng vào thực tiễn giao dịch chứng khoán trên các sở giao dịch chứng khoán Việt Nam Mục tiêu cụ thể: Cung cấp kiến thức cơ bản cho học viên về: - Khái niệm, mục tiêu của niêm yết chứng khoán. - Những điểm lợi và bất lợi của việc niêm yết chứng khoán đối với tổ chức phát hành. - Phân loại niêm yết. - Tiêu chuẩn và thủ tục niêm yết. - Quản lý niêm yết - Các loại lệnh giao dich - Thời gian giao dịch - Đơn vị giao dịch, đơn vị yết giá, biên độ giao động giá - Khớp lệnh liên tục, khớp lệnh định kỳ và nguyên tắc khớp lệnh định kỳ. - Phương thức giao dịch thủ công, phương thức giao dịch bán tự động và phương thức giao dịch điện tử. - Giao dịch lô lớn, giao dịch lô lẻ, giao dịch cổ phiếu mới đưa vào niêm yết, tách, gộp cổ phiếu, giao dịch không được hưởng cổ tức và quyền kèm theo, giao dịch cổ phiếu quỹ, giao dịch bảo chứng, giao dịch thâu tóm công ty. 4.1. Niêm yết chứng khoán 4.1.1. Khái niệm, mục tiêu của niêm yết chứng khoán. 4.1.1.1. Khái niệm Niêm yết chứng khoán là quá trình định danh các chứng khoán đáp ứng đủ tiêu chuẩn được giao dịch trên SGDCK. Cụ thể, đây là quá trình SGDCK chấp thuận cho công ty phát hành có chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch trên SGDCK nếu công ty đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về định lượng cũng như định tính mà SGDCK đề ra. Niêm yết chứng khoán thường bao hàm việc yết tên tổ chức phát hành và giá chứng khoán. Hoạt động niêm yết đòi hỏi phải đảm bảo sự tin cậy đối với thị trường cho các nhà đầu tư. Cụ thể, các công ty xin niêm yết phải có đáp ứng được các điều
  2. kiện để niêm yết. Điều kiện này được quy định cụ thể trong quy chế về niêm yết chứng khoán do SGDCK ban hành. Thông thường, có hai quy định chính về niêm yết là yêu cầu về công bố thông tin của công ty và tính khả mại của các chứng khoán. Các nhà đầu tư và công chúng phải nắm được đầy đủ các thông tin và có cơ hội nắm bắt thông tin do công ty phát hành công bố ngang nhau, đảm bảo sự công bằng trong tiếp nhận thông tin, kể cả các thông tin mang tính chất định kỳ hoặc thông tin thức thời có tác động đến giá cả, khối lượng chứng khoán giao dịch. 4.1.1.2. Mục tiêu của niêm yết chứng khoán. - Thiết lập quan hệ hợp đồng giữa SGDCK với tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết, từ đó quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức, phát hành trong việc công bố thông tin, đả bảo tính trung thực, công khai và công bằng. - Nhằm mục đích hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định, xây dựng lòng tin của công chúng đối với thị trường chứng khoán bằng cách lựa chọn các chứng khoán có chất lượng cao để giao dịch. - Cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin về các tổ chức phát hành. - Giúp cho việc xác định giá chứng khoán được công bằng trên thị trường đấu giá vì thông qua việc niêm yết công khai, giá chứng khoán được hình thành dựa trên sự tiếp xúc hiệu quả giữa cung và cầu chứng khoán. 4.1.2. Những điểm lợi và bất lợi của việc niêm yết chứng khoán đối với tổ chức phát hành. 4.1.2.1. Những điểm lợi - Công ty dễ dàng trong huy động vốn: Niêm yết nhằm mục đích huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán. Công ty được niêm yết có thể thu hút vốn dài hạn thông qua phát hành chứng khoán với chi phí thấp. Thông thường, công ty niêm yết được công chúng tín nhiệm hơn công ty không được niêm yết, bởi vậy, khi trở thành một công ty được niêm yết thì họ có thể dễ dàng trong việc huy động vốn và với chi phí huy động thấp hơn. - Tác động đến công chúng: Niêm yết góp phần "tô đẹp" thêm hình ảnh của công ty trong các nhà đầu tư, các chủ nợ, người cung ứng, các khách hàng và những người làm công, nhờ vậy công ty được niêm yết có "sức hút" đầu tư hơn đối với các nhà đầu tư. - Nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán: Khi các chứng khoán được niêm yết, chúng có thể được nâng cao tính thanh khoản, mở rộng phạm vi chấp nhận làm vật thế chấp và dễ dàng được sử dụng phục vụ cho các mục đích về tài chính, thừa kế và các mục đích khác. Hơn nữa, các chứng khoán được niêm yết có thể được mua với một số lượng rất nhỏ, do đó các nhà đầu tư có vốn nhỏ vẫn có thể dễ dàng trở thành cổ đông của công ty. - Ưu điểm về thuế: + Thông thường ở các thị trường chứng khoán mới nổi công ty tham gia niêm yết được hưởng chính những chính sách ưu đãi về thuế trong hoạt động kinh doanh như: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số năm nhất định. + Đối với nhà đầu tư mua chứng khoán niêm yết sẽ được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập (miễn, giảm) đối với cổ tức, lãi hoặc chênh lệch mua bán chứng khoán (lãi vốn) từ các khoản đầu tư vào thị trường chứng khoán.
  3. 4.1.2.2. Những điểm bất lợi - Nghĩa vụ báo cáo như là một công ty đại chúng: Công ty niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời liên quan đến các mặt hoạt động của công ty cũng như các biến động có ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán niêm yết. Nghĩa vụ công bố thông tin đại chúng trong một số trường hợp làm ảnh hưởng đến bí quyết, bí mật kinh doanh và gây phiền hà cho công ty. - Những cản trở trong việc thâu tóm và sáp nhập: Niêm yết bộc lộ nguồn vốn và phân chia quyền biểu quyết của công ty cho những người mua là những người có thể gây bất tiện cho những cổ đông chủ chốt và công việc quản lý điều hành hiện tại của công ty. Công ty có thể gặp nhiều cản trở trong việc thực hiện mục tiêu thâu tóm hay sáp nhập của mình. - Doanh nghiệp tốn chi phí niêm yết và duy trì niêm yết. 4.1.3. Phân loại niêm yết. - Niêm yết lần đầu ( Initial Listing). Niêm yết lần đầu là việc cho phép chứng khoán của tổ chức phát hành được đăng ký niêm yết giao dịch chứng khoán lần đầu tiên sau khi phát hành ra công chúng (IPO) khi tổ chức phát hành đó đáp ứng được các tiêu chuẩn về niêm yết. - Niêm yết bổ sung (Additional Listing) Niêm yết bổ sung là quá trình chấp thuận của SGDCK cho một công ty niêm yết được niêm yết các cổ phiếu mới phát hành với mục đích tăng vốn hay vì các mục đích khác như sáp nhập, chi trả cổ tức, thực hiện các trái quyền hoặc thực hiện các trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu vv. - Thay đổi niêm yết (Change Listing) Thay đổi niêm yết phát sinh khi công ty niêm yết thay đổi tên chứng khoán giao dịch, khối lượng, mệnh giá hoặc tổng giá trị chứng khoán được niêm yết của mình. - Niêm yết lại (Relisting). Là việc cho phép một công ty phát hành được tiếp tục niêm yết trở lại các chứng khoán trước đây đã bị huỷ bỏ niêm yết vì các lý do không đáp ứng được các tiêu chuẩn duy trì niêm yết. - Niêm yết cửa sau (Back door Listing). Là trường hợp một tổ chức niêm yết chính thức sáp nhập, liên kết hoặc tham gia vào hiệp hội với một tổ chức, nhóm không niêm yết và kết quả là các tổ chức không niêm yết đó lấy được quyền kiểm soát tổ chức niêm yết. - Niêm yết toàn phần và niêm yết từng phần (Dual Listing & Partial listing) Niêm yết toàn phần là việc niêm yết tất cả các cổ phiếu sau khi đã phát hành ra công chúng trên một SGDCK trong nước hoặc nước ngoài. Niêm yết từng phần là việc niêm yết một phần trong tổng số chứng khoán đã phát hành ra công chúng của lần phát hành đó, phần còn lại không hoặc chưa được niêm yết. Niêm yết từng phần thường diễn ra ở các công ty lớn do Chính phủ kiểm soát, phần chứng khoán phát hành ra thị trường do các nhà đầu tư cá nhân nắm giữ được niêm yết, còn phần nắm giữ của Chính phủ hoặc tổ chức đại diện cho Chính phủ nắm giữ không được niêm yết.
  4. 4.1.4. Tiêu chuẩn và thủ tục niêm yết 4.1.4.1. Tiêu chuẩn niêm yết Tiêu chuẩn niêm yết thông thường do SGDCK của mỗi quốc gia quy định, dựa trên cơ sở thực trạng của nền kinh tế. Tiêu chuẩn này bao gồm các điều kiện về tài chính của công ty, chính sách khuyến khích hay hạn chế niêm yết Nội dung và sự thắt chặt của các quy định niêm yết của mỗi nước hay mỗi SGDCK được quy định khác nhau. Thông thường, ở các quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển, các tiêu chuẩn niêm yết chặt chẽ hơn các thị trường mới nổi. Tiêu chuẩn về niêm yết được quy định dưới hai hình thức: tiêu chuẩn định lượng và tiêu chuẩn định tính. Tiêu chuẩn định lượng - Thời gian hoạt động từ khi thành lập công ty: công ty niêm yết phải cómột nền tảng kinh doanh hiệu quả và thời gian hoạt động liên tục trong một số năm nhất định tính đến thời điểm xin niêm yết. Thông thường, đối với các thị trường chứng khoán truyền thống công ty niêm yết phải có thời gian hoạt động tối thiểu 3-5 năm, hoặc cổ phiếu đã từng được giao dịch trên thị trường phi tập trung. - Quy mô và cơ cấu sở hữu cổ phần công ty: quy mô của một công ty niêm yết phải đủ lớn để tạo nên tính thanh khoản tối thiểu cho chứng khoán của công ty. - Lợi suất thu được từ vốn cổ phần. Mức sinh lời trên vốn đầu tư (cổ tức) phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng kỳ hạn 1 năm. Hoặc số năm hoạt động kinh doanh có lãi tính đến thời điểm xin niêm yết là 2-3 năm. - Tỷ lệ nợ: có thể là tỷ lệ nợ trên tài sản ròng của công ty, hoặc tỷ lệ vốn khả dụng điều chỉnh trên tổng tài sản nợ của công ty ở mức cho phép, nhằm bảo đảm duy trì tình hình tài chính lành mạnh của doanh nghiệp. - Sự phân bổ cổ đông: là xét đến số lượng và tỷ lệ cổ phiếu do các cổ đông thiểu số nắm giữ (thông thường 1%) và các cổ đông lớn ( 5%); tỷ lệ cổ phiếu do cổ đông sáng lập và cổ đông ngoài công chúng nắm giữ mức tối thiểu. Tiêu chuẩn định tính - Triển vọng của công ty; - Phương án khả thi về sử dụng vốn của đợt phát hành - Ý kiến kiểm toán về các báo cáo tài chính. - Cơ cấu tổ chức hoạt động của công ty (HĐQT và BGĐ điều hành). - Mẫu chứng chỉ chứng khoán. - Lợi ích mang lại đối với ngành, nghề trong nền kinh tế quốc dân - Tổ chức công bố thông tin. Ở Việt Nam, tiêu chuẩn niêm yết cổ phiếu tại Sở GDCK Thành phố Hồ Chí Minh như sau: Là công ty cổ phần có vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán; Hoạt động kinh doanh hai năm liền trước năm đăng ký niêm yết phải có lãi và không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký niêm yết; Không có các khoản nợ quá hạn chưa được dự phòng theo quy định của pháp luật; công khai mọi khoản nợ đối với công ty của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng, cổ đông lớn và những người có liên quan;
  5. Tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất 100 cổ đông nắm giữ; Cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc, Phó Giám đốc hoặc Phó Tổng Giám đốc và Kế toán trưởng của công ty phải cam kết nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 6 tháng tiếp theo, không tính số cổ phiếu thuộc sở hữu Nhà nước do các cá nhân trên đại diện nắm giữ; Có hồ sơ đăng ký niêm yết cổ phiếu hợp lệ. Quy định niêm yết trong những trường hợp đặc biệt: Nhằm bảo vệ các nhà đầu tư, các quy định về niêm yết cũng được quy định cụ thể ở một số ngành, nghề, lĩnh vực nhất định về vốn kinh doanh, thời gian hoạt động, lãi ròng hàng năm và số lượng cổ đông tối thiểu. Ví dụ: các ngành kiến trúc xây dựng và công nghệ cao là lĩnh vực đầu tư có nhiều rủi ro nên tiêu chuẩn niêm yết thường đưa ra cao hơn. Còn các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, công ty chứng khoán, do đặc thù về bản chất của hoạt động tài chính, nên tiêu chuẩn nợ trên vốn thường không xét đến, mà chỉ xét đến yếu tố lợi nhuận trên vốn cổ phần. 4.1.4.2. Thủ tục niêm yết Trình tự các thủ tục với niêm yết lần đầu gồm có: - SGD thẩm định sơ bộ - Đệ trình hồ sơ xin cấp phép niêm yết - Thẩm tra niêm yết chính thức - Phê chuẩn và cấp phép niêm yết - Khai trương niêm yết Bước 1. Sở giao dịch thẩm định sơ bộ Thẩm định sơ bộ là việc vạch ra phương hướng cung cấp cho những người mua cổ phiếu chào bán ra công chúng biết trước được tính khả mại của chứng khoán nhằm rút bớt thời gian thẩm định chính thức. Cho dù việc thẩm định này không được thực hiện một cách chính thức nhưng nó có tác dụng quan trọng trong việc đưa ra quyết định cuối cùng trong việc chấp thuận hay từ chối việc niêm yết. Hầu hết các công ty không đạt tiêu chuẩn bị loại ra ngay khi thẩm định sơ bộ trước khi nộp đơn xin niêm yết chính thức. Khi thẩm định sơ bộ, SGDCK chú trọng đến các vấn đề (1) công tyniêm yết phải có một nền tảng hoạt động có lãi và trong tương lai phải có khả năng sinh lời tốt ; (2) công ty xin niêm yết phải có ban lãnh đạo có cơ cấu của một công ty đại chúng; (3) tổ chức công bố thông tin thường xuyên; (4) các cổ phiếu phải đạt được mức độ thanh khoản nhất định theo thứ bậc do SGD quy định; (5) công ty niêm yết không được vi phạm đến quyền lợi của công chúng đầu tư đại diện cho quyền lợi của các bên tham gia như các cổ đông kiểm soát hay công ty mẹ. Tiến trình thẩm định sơ bộ hồ sơ gồm các bước sau: (1) SGDCK kiểm tra các tài liệu do công ty xin niêm yết nộp. (2) SGDCK đặt các câu hỏi cho công ty xin niêm yết về các tài liệu đã nộp. (3) Công ty xin niêm yết trả lời câu hỏi của SGDCK về các thủ tục từ bước 1 đến bước 3 và lặp đi lặp lại cho đến khi các chi tiết đượ làm sáng tỏ hoàn toàn;
  6. (4) SGDCK tìm hiểu thêm về công ty niêm yết và có thể đến công ty niêm yết để kiểm tra các tài liệu và thu thập thêm các thông tin cần thiết cho việc thẩm định niêm yết chính thức; (5) Nhân viên SGDCK thảo luận về kết quả của việc thẩm tra trong đó, có các kết quả khi thực hiện tìm hiểu công ty; (6) SGDCK đưa ra quyết định cuối cùng và thông báo quyết định này cho công ty niêm yết. Bước 2: Đệ trình hồ sơ xin cấp phép niêm yết Việc chào bán cổ phiếu ra công chúng quyết định tới sự phân bổ cổ đông trong công ty, do đó công ty muốn niêm yết các cổ phiếu của họ trên SGDCK phải đệ trình bản đăng ký lên UBCK xin chấp thuận cho phép chào bán ra công chúng. Bản thông cáo phát hành sơ bộ là văn bản đính kèm theo bản thông cáo đăng ký này. Bước 3: Thẩm tra niêm yết chính thức Việc thẩm định khi SGDCK chấp nhận sơ bộ là rất quan trọng, do đó việc thẩm tra niêm yết chính thức sẽ không kéo dài. Để việc thẩm định có hiệu quả, các SGDCK thường có một tiểu ban chuyên trách thẩm định và đưa ra các quyết định chấp thuận cuối cùng. Bước 4: Phê chuẩn và cấp phép niêm yết Tổ chức có thẩm quyền sau khi thẩm tra hồ sơ sẽ quyết định phê chuẩn cấp phép niêm yết. Trường hợp từ chối cấp phép phải giải thích rõ lý do bằng văn bản. Bước 5: Khai trương niêm yết Khi SGDCK hoàn tất các thủ tục niêm yết, SGDCK sẽ quy định cụ thể ngày niêm yết. Sau đó SGDCK sẽ mời Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành công ty niêm yết để định ra ngày giao dịch đầu tiên đối với chứng khoán đã niêm yết. Đây là động tác giúp giúp lãnh đạo công ty hiện diện ra công chúng và nhận trách nhiệm của công ty đã được niêm yết. Sau đó, chứng khoán được chính thức đưa ra giao dịch ở Sở giao dịch. 4.1.5. Quản lý niêm yết Việc quản lý các chứng khoán niêm yết là công việc của hệ thống quản lý tại SGDCK với mục đích duy trì một thị trường hoạt động công bằng và trật tự. Giống như một tổ chức tự quản, SGDCK phải đề ra các nghĩa vụ cho các công ty niêm yết và các biện pháp trừng phạt đối với công ty niêm yết không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình. 4.1.5.1. Quy định báo cáo dành cho việc quản lý các cổ phiếu niêm yết Công ty niêm yết có nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ (năm, bán niên, quý); thông tin tức thời và thông tin theo yêu cầu của SGDCK trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên SGDCK các thiết bị đầu cuối và tại trụ sở của tổ chức niêm yết. Công ty niêm yết phải nộp báo cáo cho SGDCK theo đúng thời hạn, nội dung bản báo cáo nộp cho SGDCK phải bao gồm một số hoạt động hay sự kiện nhất định trong việc quản lý và điều hành kinh doanh. Báo cáo phải thoả mãn các yêu cầu quy định của SGDCK trong việc thực hiện chức năng tự quản. Chức năng
  7. đó bao gồm việc đảm bảo cung cấp các chứng khoán của công ty để cho thị trường hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Công ty niêm yết phải đệ trình cho SGDCK bản báo cáo về các vấn đề: (1) các vấn đề gây tác động nghiêm trọng đến giá cả chứng khoán; (2) các vấn đề gây tác động gián tiếp đến giá cả chứng khoán; (3) các vấn đề gây tác động không đáng kể đến giá cả chứng khoán nhưng lại ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến việc quyết định đầu tư. Hai nhóm đầu liên quan đến quy định về nghĩa vụ công bố thông tin, nhóm thứ ba liên quan đến quy định về nghĩa vụ báo cáo trong quy định về niêm yết. Các vấn đề phải báo cáo lên SGDCK có liên quan đến việc quản lý các cổ phiếu niêm yết bao gồm: (a) cuộc họp đại hội đồng cổ đông gồm: ngày họp, ngày đóng sổ chuyển nhượng, các kết quả họp của Hội đồng quản trị; (b) thay đổi về cơ cấu sở hữu cổ phần của các cổ đông chính; (c) thay đổi chủ tịch điều hành,văn phòng chính hoặc tên công ty; (d) thay đổi hợp đồng với cơ quan chuyển nhượng hoặc công ty kiểm toán; (e) SGDCK sẽ sắp xếp kế hoạch cần thiết cho việc tăng vốn, như ngày đóng sổ cổ đông, ngày ghi chép dữ liệu và giá phát hành của các cổ phiếu mới. 4.1.5.2. Tiêu chuẩn thuyên chuyển, chứng khoán bị kiểm soát, huỷ bỏ niêm yết - Tiêu chuẩn thuyên chuyển Một công ty niêm yết sẽ bị thuyên chuyển từ thị trường niêm yết có tiêu chuẩn cao sang thị trường giao dịch có tiêu chuẩn thấp (đối với mô hình thị trường tổ chức thành 2 khu vực: tiêu chuẩn niêm yết cao và tiêu chuẩn niêm yết thấp) hoặc khu vực giao dịch Bảng II (Second Board) nếu công ty không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện niêm yết, như: - Việc chi trả cổ tức thấp hơn tiêu chuẩn quy định. - Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần cao hơn mức tiêu chuẩn quy định. - Phân bổ cổ đông không hợp lý, khi tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các cổ đông sáng lập, hoặc cổ đông ngoài công chúng thấp hơn mức quy định. - Khi công ty niêm yết không nộp đầy đủ các báo cáo theo hạn định. - Khi ý kiến của kiểm toán viên đối với các báo cáo tài chính là "phản đối" hoặc "từ chối cho ý kiến". - Khi giá trị thực (tài sản thuần) của công ty là con số âm. - Khi SGDCK nhận ra rằng công ty niêm yết đã bị đình chỉ các hoạt động kinh doanh theo giấy phép chính. Khi một công ty niêm yết bị thuyên chuyển sang thị trường giao dịch cổ phiếu hoặc sang khu vực bảng II, các giao dịch cổ phiếu của công ty cần phải ngừng lại trong một thời gian nhất định để thông báo cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, thời gian ngừng giao dịch càng ngắn càng tốt cho việc tạo ra tính thanh khoản cho các cổ phiếu. - Chứng khoán bị kiểm soát Khi các chứng khoán không duy trì được các tiêu chuẩn niêm yết song chưa đến mức độ phải huỷ bỏ niêm yết, thì sẽ được đưa vào nhóm chứng khoán bị kiểm soát. Chứng khoán thuộc diện bị kiểm soát được tách riêng và quản lý chặt chẽ theo các quy định riêng của SGDCK về: biên độ giao động giá, giao dịch ký quỹ, tỷ lệ nắm giữ vv.
  8. SGDCK phải đưa ra lời cảnh báo (chứng khoán thuộc diện bị cảnh báo) trước cho công ty niêm yết là chứng khoán của họ có thể bị trục xuất khỏi thị trường giao dịch, trừ khi các nguyên nhân chứng khoán bị liệt vào dạng chứng khoán kiểm soát này được khắc phục trước thời hạn trục xuất. Trong thời gian đó, SGDCK thông báo các vấn đề liên quan đến thời hạn trục xuất và lý do quyết định coi chứng khoán này là chứng khoán thuộc diện bị kiểm soát. Huỷ bỏ niêm yết Tiêu chuẩn huỷ bỏ niêm yết thường được áp dụng cho các công ty phát hành là công ty không thể tiếp tục đáp ứng nổi các quy định về niêm yết. Do đó, tiêu chuẩn huỷ bỏ niêm yết chỉ rõ các trường hợp chứng khoán của các đợt phát hành giao dịch trên thị trường niêm yết bị huỷ bỏ niêm yết. 4.1.5.3. Niêm yết cổ phiếu của các công ty sáp nhập Công ty sáp nhập xuất hiện khi một công ty hợp nhất với một công ty khác nhằm củng cố hoạt động kinh doanh và tăng năng lực cạnh tranh. Thông thường, việc sáp nhập sẽ cải thiện được tình hình tài chính, tăng lợi nhuận và tiềm lực của công ty. Đặc biệt, do sáp nhập của công ty niêm yết có thể gây ảnh hưởng tới lợi ích cho các nhà đầu tư nên công ty sáp nhập phải có những giải pháp nhằm đảm bảo sự cân đối về quyền lợi cho các bên liên quan. Trong trường hợp một công ty niêm yết và một công ty không được niêm yết thực hiện sáp nhập thành một công ty niêm yết khác, các điều kiện sáp nhập phải được quyết định thật chuẩn xác sao cho không gây ảnh hưởng đến nhà đầu tư. Trường hợp một công ty niêm yết sáp nhập vào một công ty không được niêm yết rất ít xảy ra. Kiểu sáp nhập này có thể gây ra một số tác hại đến việc bảo hộ các nhà đầu tư do công ty niêm yết phải thực hiện huỷ bỏ niêm yết. Khi một công ty không niêm yết tiếp tục tồn tại sau khi sáp nhập và vẫn sử dụng tên của công ty niêm yết thì việc niêm yết của công ty được gọi là "niêm yết cửa sau" (back door listing). 4.1.5.4. Ngừng giao dịch Mục đích của ngừng giao dịch là dành thời gian cho các nhà đầu tư có đầy đủ thông tin để đánh giá về thực trạng của chứng khoán và công ty niêm yết giải trình các lý do dẫn dến phải ngừng giao dịch. Giao dịch chứng khoán có thể bị ngừng trong các trường hợp sau: (1) Công ty niêm yết chứng khoán thuộc diện bị thuyên chuyển hay bị huỷ bỏ niêm yết; (2) Khi công ty phát hiện ra các chứng chỉ giả mạo hay có sửa chữa; (3) Công ty yêu cầu các cổ đông phải đệ trình các chứng chỉ cổ phần nhằm mục đích chia nhỏ hay gộp cổ phiếu; (4) SGDCK thấy rằng cần phải bảo vệ quyền lợi cho công chúng các nhà đầu tư. Về nguyên tắc, thời gian ngừng giao dịch càng ngắn càng tốt. Tuy nhiên, trong trường hợp chia nhỏ hay gộp cổ phiếu, thời gian ngừng giao dịch kéo dài từ khi thu hồi xong các chứng chỉ cổ phiếu cũ đến khi các cổ phiếu mới thay thế được niêm yết. Ngoài ra, việc ngừng giao dịch chỉ kéo dài cho đến khi các nguyên nhân ngừng giao dịch được giải quyết. 4.1.5.5. Phí niêm yết Là các khoản phí liên quan đến niêm yết và duy trì các tiêu chuẩn niêm yết mà các công ty niêm yết phải trả cho SGDCK để được niêm yết và giao dịch chứng
  9. khoán của mình trên SGDCK. Phí này là một trong những nguồn thu chủ yếu của SGDCK và được chia làm 2 loại: Phí đăng ký niêm yết lần đầu là mức thu phí tiếp nhận hồ sơ, thẩm định quá trình niêm yết lần đầu của tổ chức phát hành khi tham gia vào SGDCK và được thu một lần khi tham gia niêm yết; phí quản lý niêm yết hàng năm nhằm duy trì các tiêu chuẩn về quản lý niêm yết trong suốt quá trình tồn tại của cổ phiếu được niêm yết trên SGDCK và được thu hàng năm. Mức thu phí cũng phụ thuộc vào từng thị trường hoặc nhóm ngành nghề ưu tiên hay không ưu tiên và tính trên tổng giá trị cổ phiếu niêm yết. Hiện nay, mức thu phí về niêm yết trên các SGDCK quốc tế chiếm khoảng 22% trên tổng thu nhập của SGDCK. Trong đó mức thu phí niêm yết của SGDCK NewYork chiếm khoảng 38%; SGDCK Tokyo khoảng 16%; SGDCK Hàn Quốc khoảng 4%; SGDCK Thái Lan khoảng 21%; SGDCK Luân đôn 15%. 4.1.5.6. Mã chứng khoán Để nhận biết các chứng khoán một cách dễ dàng và quản lý chúng có hiệu quả, cần phải dùng loại chứng khoán có mã số. Ngoài ra, việc dùng các mã số chứng khoán cũng tạo điều kiện thuận tiện cho việc điện toán hoá các giao dịch và quản lý các chứng khoán niêm yết . Việc sử dụng hệ thống nhận diện chứng khoán bằng mã số quốc tế (ISIN) có giá trị rất quan trọng đối với việc quản lý có hiệu quả mã chứng khoán và tiện dụng đối với các thành viên trên TTCK quốc tế. 4.1.5.7. Quản lý niêm yết chứng khoán của các công ty nước ngoài Các SGDCK thường quy định các công ty nước ngoài có thể phát hành và niêm yết chứng khoán trên SGDCK của mình và thường đề ra các tiêu chuẩn quy định cho việc niêm yết này. Thông thường, các tiêu chuẩn niêm yết đối với các công ty nước ngoài ít chặt chẽ hơn so với các công ty trong nước, phí niêm yết thường ở mức thấp hơn so với công ty trong nước. Các chứng khoán của công ty niêm yết nước ngoài được giao dịch trên một khu vực riêng. Phương thức giao dịch, ngày thanh toán, giờ giao dịch, đơn vị giao dịch và giới hạn thay đổi giá trong ngày tương tự như đối với các công ty trong nước. Tuy nhiên, thông thường chứng khoán nước ngoài niêm yết trên SGDCK trong nước phải có ít nhất một người trong nước đại diện cho công ty phát hành nước ngoài giải quyết các vấn đề phát sinh giữa tổ chức niêm yết và SGDCK. Ngoài ra, tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán của nước nguyên xứ phải được chấp nhận, nếu có sự khác biệt thì cần được làm rõ. 4.2. Lệnh giao dịch Lệnh giao dịch là một chỉ thị của khách hàng cho nhà môi giới để mua hoặc bán chứng khoán theo yêu cầu mà khách hàng đặt ra. Trên các thị trường chứng khoán quốc tế, có rất nhiều loại lệnh giao dịch được sử dụng. Ở Việt Nam hiện nay đang sử dụng lệnh giới hạn, lệnh ATO và lệnh ATC.
  10. 4.2.1. Lệnh thị trường (market order) Lệnh thị trường là lệnh mua hoặc bán chứng khoán của khách hàng yêu cầu thực hiện ngay tại mức giá tốt nhất hiện có trên thị trường khi lệnh được chuyển đến sàn giao dịch. Lệnh thị trường là loại lệnh được sử dụng rất phổ biến trong các giao dịch chứng khoán. Khi sử dụng loại lệnh này, nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận mua hoặc bán theo mức giá của thị trường hiện tại và lệnh của nhà đầu tư luôn luôn được thực hiện. Tuy nhiên, mức giá do quan hệ cung - cầu chứng khoán trên thị trường quyết định. Vì vậy, lệnh thị trường còn được gọi là lệnh không ràng buộc. Lệnh thị trường là một công cụ hữu hiệu có thể được sử dụng để nâng cao doanh số giao dịch trên thị trường, tăng cường tính thanh khoản của thị trường. Lệnh thị trường cũng tỏ ra thuận tiện cho người đầu tư vì họ chỉ cần chỉ ra khối lượng giao dịch mà không cần chỉ ra mức giá giao dịch cụ thể và lệnh thị trường được ưu tiên thực hiện trước so với các loại lệnh giao dịch khác. Ngoài ra, nhà đầu tư cũng như công ty chứng khoán sẽ tiết kiệm được các chi phí do ít gặp phải sai sót hoặc không phải sửa lệnh cũng như huỷ lệnh. Tuy nhiên, lệnh thị trường cũng có hạn chế nhất định là dễ gây ra sự biến động giá bất thường, ảnh hưởng đến tính ổn định giá của thị trường, do lệnh luôn tiềm ẩn khả năng được thực hiện ở một mức giá không thể dự tính trước. Vì vậy, các thị trường chứng khoán mới đưa vào vận hành thường ít sử dụng lệnh thị trường và lệnh thị trường thông thường chỉ được áp dụng đối với các nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp, đã có được các thông tin liên quan đến mua bán và xu hướng vận động giá cả chứng khoán trước, trong và sau khi lệnh được thực hiện. Lệnh thị trường được áp dụng chủ yếu trong các trường hợp bán chứng khoán vì tâm lý của người bán là muốn bán nhanh theo giá thị trường và đối tượng của lệnh này thường là các chứng khoán "nóng”, nghĩa là các chứng khoán đang có sự thiếu hụt hoặc dư thừa tạm thời. 4.2.2. Lệnh giới hạn (limit order) Lệnh giới hạn là loại lệnh giao dịch trong đó người đặt lệnh đưa ra mức giá mua hay bán có thể chấp nhận được. Lệnh giới hạn mua chỉ ra mức giá cao nhất mà người mua chấp nhận thực hiện giao dịch; lệnh giới hạn bán chỉ ra mức giá bán thấp nhất mà người chấp nhận giao dịch. Một lệnh giới hạn thông thường không thể thực hiện ngay, do đó nhà đầu tư phải xác định thời gian cho phép đến khi có lệnh huỷ bỏ. Trong khoảng thời gian lệnh giới hạn chưa được thực hiện, khách hàng có thể thay đổi mức giá giới hạn. Khi hết thời gian đã định, lệnh chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đủ mặc nhiên sẽ hết giá trị. Khi ra lệnh giới hạn, nhà đầu tư cần phải có sự hiểu biết, nhận định chính xác, vì vậy thường các lệnh giới hạn được chuyển cho các chuyên gia hơn là cho các nhà môi giới hoa hồng. Lệnh giới hạn có những ưu điểm và nhược điểm. Về ưu điểm, lệnh giới hạn giúp cho nhà đầu tư dự tính được mức lời hoặc lỗ khi giao dịch được thực hiện. Tuy nhiên, lệnh giới hạn có nhược điểm là nhà đầu tư khi ra lệnh giới hạn có thể phải nhận rủi ro do mất cơ hội đầu tư, đặc biệt là trong trường hợp giá thị trường bỏ xa mức giá giới hạn (ngoài tầm kiểm soát của khách hàng). Trong một số trường hợp, lệnh giới hạn có thể không được thực hiện ngay cả khi giá giới hạn được đáp ứng vì không đáp ứng được các nguyên tắc ưu tiên trong khớp lệnh.
  11. 4.2.3. Lệnh ATO Là lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán tại mức giá mở cửa. Lệnh ATO không ghi mức giá cụ thể và được ưu tiên trước lệnh giới hạn trong khi so khớp lệnh. Lệnh ATO được nhập vào hệ thống giao dịch trong thời gian khớp lệnh định kỳ để xác định giá mở cửa và sẽ tự động bị hủy bỏ sau thời điểm xác định giá mở cửa nếu lệnh không được thực hiện hoặc không thực hiện hết. 4.2.4. Lệnh ATC Là lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán tại mức giá đóng cửa. Lệnh ATC không ghi mức giá cụ thể và được ưu tiên trước lệnh giới hạn trong khi so khớp lệnh. Lệnh ATC được nhập vào hệ thống giao dịch trong thời gian khớp lệnh định kỳ để xác định giá đóng cửa và sẽ tự động bị hủy bỏ sau thời điểm xác định giá mở cửa nếu lệnh không được thực hiện hoặc không thực hiện hết 4.2.5. Lệnh dừng (stop order) Lệnh dừng là loại lệnh đặc biệt để bảo đảm cho các nhà đầu tư có thể thu lợi nhuận tại một mức độ nhất định (bảo vệ lợi nhuận) và phòng chống rủi ro trong trường hợp giá chứng khoán chuyển động theo chiều hướng ngược lại. Sau khi đặt lệnh, nếu giá thị trường đạt tới hoặc vượt qua mức giá dừng thì khi đó lệnh dừng thực tế sẽ trở thành lệnh thị trường. Có hai loại lệnh dừng: Lệnh dừng để bán và lệnh dừng để mua. Lệnh dừng để bán luôn đặt giá thấp hơn thị giá hiện tại của một chứng khoán muốn bán. Ngược lại, lệnh dừng để mua luôn đặt giá cao hơn thị giá của chứng khoán cần mua. Lệnh dừng trở thành lệnh thị trường khi giá chứng khoán bằng hoặc vượt quá mức giá ấn định trong lệnh - giá dừng. Lệnh dừng thường được các nhà đầu tư chuyên nghiệp áp dụng và không có sự bảo đảm nào cho giá thực hiện sẽ là giá dừng. Như vậy, lệnh dừng khác với lệnh giới hạn ở chỗ, lệnh giới hạn bảo đảm được thực hiện với giá giới hạn hoặc tốt hơn. Có bốn cách cơ bản sử dụng lệnh dừng, trong đó có hai cách có tính chất bảo vệ và hai cách khác dùng để phòng ngừa đối với nhà đầu tư. * Hai cách sử dụng lệnh dừng có tính chất bảo vệ. Thứ nhất: bảo vệ tiền lời của người kinh doanh trong một thương vụ đã thực hiện. Thứ hai: bảo vệ tiền lời của người bán trong một thương vụ bán khống. Ví dụ 1: Ông A có mua được lô chẵn 100 cổ phiếu xyz vào ngày 1/1 với giá 150.000 đồng/cổ phiếu. Ngày 5/1 thị giá cổ phiếu này là 180.000 đồng. Ông A nhận định giá cổ phiếu còn tăng nữa. Tuy vậy, để đề phòng nhận định đó là sai, giá cổ phiếu xyz sẽ hạ, ông ta ra một lệnh dừng bán ở giá 170.000 đồng, nghĩa là nếu giá cổ phiếu xyz hạ tới giá 170.000 đồng sẽ được bán ra. Nhưng cũng có thể cổ phiếu xyz hạ nhưng không có ở điểm 170.000 đồng mà chỉ ở mức xấp xỉ (169.000 đồng hoặc 171.500 đồng chẳng hạn) thì cổ phiếu đó cũng được bán ra và lúc này lệnh đó trở thành lệnh thị trường. Ngày 10/1 thị giá cổ phiếu tăng lên 205.000 đồng/cổ phiếu. Ông A đạt được một mức lợi nhuận mới, tuy nhận định giá cổ phiếu tiếp tục tăng đến đỉnh của trào lưu, nhưng ông không thể không nghi ngờ là cổ phiếu tất yếu sẽ phải giảm giá vào một thời điểm trong tương lai, nên lại đặt một lệnh dừng để bán tại một mức giá mới là 195.000 đồng.
  12. Như vậy, lệnh dừng để bán luôn luôn đặt giá thấp hơn thị trường. Đây là cách mà các nhà đầu cơ lên giá ngắn hạn thường làm trong giao dịch chứng khoán. Ví dụ 2: Ngược lại với ông A, ông B thấy giá thị trường của cổ phiếu abc là 100.000 đồng/cổ phiếu vào ngày 1/1. Ông ta nhận định nó sẽ giảm mạnh trong tương lai, nên đã đến công ty chứng khoán vay 1000 cổ phiếu abc và ra lệnh bán ngay, hy vọng trong thời gian tới giá sẽ hạ, khi đó ông ta sẽ mua lại để trả cho công ty chứng khoán. Giả sử đến ngày 5/1 giá cổ phiếu abc hạ xuống ở mức 80.000 đồng, ông ta ra lệnh cho công ty chứng khoán mua 1000 cổ phiếu abc để trả nợ. Như vậy, ông ta kỳ vọng lời được 20.000 đồng do chênh lệch giá mua bán. Nhưng để đề phòng sau khi đã bán khống (bán thứ mình đi vay) giá cổ phiếu abc không hạ mà tăng lên ông ta ra một lệnh dừng để mua 110.000 đồng. Nghĩa là nếu giá lên thì khi lên đến mức 110.000 đồng lập tức nhà môi giới phải thực hiện mua vào tại Sở giao dịch để không lỗ vượt quá 10.000 đồng/1 cổ phiếu. * Hai cách sử dụng lệnh dừng có tính chất phòng ngừa. 1. Phòng ngừa sự thua lỗ quá lớn trong trường hợp mua bán ngay. 2. Phòng ngừa sự thua lỗ quá lớn trong trường hợp bán trước mua sau. Ví dụ 1: Ông A vừa mua một lô chẵn 100 cổ phiếu X với giá 100.000 đồng/cổ phiếu. Một thông tin làm cho ông ta tin rằng giá cổ phiếu X sẽ lên trong một tương lai gần. Tuy nhiên, vì sự thận trọng của người kinh doanh chứng khoán ông ta ra một lệnh dừng để bán dưới giá 100.000 đồng, ví dụ là 95.000 đồng. Lúc ra lệnh này ông A chưa có lời mà cũng chưa bị lỗ vì lệnh của lệnh ông ta chưa được "châm ngòi”, đang chỉ là sự phòng ngừa. Giả sử trong thực tế, nhận định của ông ta là sai, giá cổ phiếu X hạ nhanh. Khi giá hạ tới mức 95.000 đồng nhà môi giới lập tức bán ra. Như vậy, ông A chỉ bị lỗ 5.000 đồng/ cổ phiếu. Sự thua lỗ sẽ lớn hơn nhiều nếu ông tác không dùng lệnh dừng để bán. Ví dụ 2: Ông B là người kinh doanh chứng khoán, ông ta bán 100 cổ phiếu Y với giá 100.000 đồng/cổ phiếu vì cho rằng giá sẽ giảm. Nhưng để đề phòng sự thua lỗ quá lớn do giá lên, ông B ra lệnh mua ở giá 110.000 đồng. Nếu nhận định của ông tác là sai, giá không giảm mà tăng, người môi giới sẽ mua 100 cổ phiếu Y ngay khi nó lên đến mức 110.000 đồng hoặc xấp xỉ với giá đó. Như vậy lệnh dừng mua có tác dụng rất tích cực đối với nhà đầu tư trong việc bán khống. Lệnh dừng bán có tác dụng bảo vệ khoản lợi nhuận hoặc hạn chế thua lỗ đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, lệnh dừng cũng có nhiều nhược điểm. Khi có một số lượng lớn các lệnh dừng được "châm ngòi”, sự náo loạn trong giao dịch sẽ xảy ra khi các lệnh dừng trở thành lệnh thị trường, từ đó bóp méo giá cả chứng khoán và mục đích của lệnh dừng là giới hạn thua lỗ và bảo vệ lợi nhuận không được thực hiện. Để hạn chế nhược điểm trên, người ta tiến hành kết hợp giữa lệnh dừng và lệnh giới hạn thành lệnh dừng giới hạn. 4.2.6. Lệnh dừng giới hạn (stop limit order) Lệnh dừng giới hạn là loại lệnh sử dụng để nhằm khắc phục sự bất định về mức giá thực hiện tiềm ẩn trong lệnh dừng. Đối với lệnh dừng giới hạn, người đầu tư phải chỉ rõ hai mức giá: một mức giá dừng và một mức giá giới hạn. Khi giá thị trường đạt tới hoặc vượt qua mức giá dừng thì lệnh dừng sẽ trở thành lệnh giới hạn thay vì thành lệnh thị trường.
  13. Ví dụ: Ông A ra một lệnh dừng bán 100 cổ phiếu X, giá dừng 55, giá giới hạn 54. Điều này có nghĩa là lệnh trên sẽ được kích hoạt tại mức giá 55 hay thấp hơn, tuy nhiên vì có lệnh giới hạn 54 nên lệnh này không được thực hiện tại mức giá thấp hơn 54. Quá trình thực hiện lệnh dừng bán sẽ gồm 2 bước: Bước 1: lệnh dừng được châm ngòi; Bước 2: thực hiện lệnh tại mức giá giới hạn hoặc tốt hơn. Hạn chế của lệnh dừng giới hạn là không được áp dụng trên thị trường OTC vì không có sự cân bằng giữa giá của nhà môi giới và người đặt lệnh. 4.3. Thời gian giao dịch Các giao dịch chứng khoán trên SGDCK thường được tổ chức dưới dạng phiên giao dịch (sáng; chiều) hoặc phiên liên tục (từ sáng qua trưa đến chiều). Yếu tố quyết định thời gian giao dịch là quy mô của thị trường chứng khoán, đặc biệt là tính thanh khoản của thị trường. Ngày nay, xu thế quốc tế hoá thị trường chứng khoán phát triển đã cho phép nhà đầu tư mua, bán chứng khoán thông qua hệ thống giao dịch trực tuyến, và do các múi giờ chênh lệch nhau, nên các SGDCK đang có xu hướng giao dịch 24/24h trong ngày. Tại hầu hết các SGDCK trên thế giới, giao dịch chứng khoán thường diễn ra trong các ngày làm việc trong tuần. Cũng có nơi, do thị trường nhỏ bé và kém tính thanh khoản nên thực hiện giao dịch một phiên hoặc giao dịch cách ngày. Tuy nhiên, việc giao dịch cách ngày cùng với chu kỳ thanh toán kéo dài có thể ảnh hưởng lớn đến tính thanh khoản của thị trường, làm chậm cơ hội đầu tư và vòng quay tài chính. 4.4. Đơn vị giao dịch, đơn vị yết giá và biên độ giao động giá 4.4.1. Đơn vị giao dịch Trên thị trường chứng khoán, chứng khoán được giao dịch không theo từng chứng khoán riêng lẻ mà theo đơn vị giao dịch hay còn gọi theo lô (lot) chứng khoán. Căn cứ vào lô chứng khoán để có thể phân chia thành các khu vực giao dịch khác nhau. Việc quy định đơn vị giao dịch lớn hay nhỏ sẽ có ảnh hưởng đến khả năng tham gia của nhà đầu tư cũng như khả năng xử lý lệnh của hệ thống thanh toán bù trừ trên thị trường. Đơn vị giao dịch được quy định cụ thể cho từng loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phái sinh ). - Lô chẵn (round- lot). Một lô chẵn đối với chứng khoán thông thường là 100 chứng khoán hoặc 10 chứng khoán. - Lô lẻ (odd- lot) là giao dịch có khối lượng dưới lô chẵn (dưới 100 chứng khoán hoặc dưới 10 chứng khoán). - Lô lớn (block -lot) là giao dịch có khối lượng tương đối lớn, thông thường từ 10.000 cổ phiếu trở lên. Tuy nhiên, tùy từng thị trường mà quy định lô lớn là khác nhau. 4.4.2. Đơn vị yết giá Đơn vị yết giá (quotation unit) là các mức giá tối thiểu trong đặt giá chứng khoán (tick size). Đơn vị yết giá có tác động tới tính thanh khoản của thị trường cũng như hiệu quả của nhà đầu tư. Trường hợp đơn vị yết giá nhỏ, sẽ tạo ra nhiều mức giá lựa chọn cho nhà đầu tư khi đặt lệnh, nhưng các mức giá sẽ dàn trải, không tập trung, và ngược lại đơn vị yết giá lớn sẽ tập trung được các mức giá, nhưng sẽ làm hạn chế
  14. mức giá lựa chọn của nhà đầu tư, từ đó không khuyến khích các nhà đầu tư nhỏ tham gia thị trường. Đơn vị yết giá được tính riêng cho từng loại chứng khoán khác nhau (cổ phiếu, trái phiếu) và có thể áp dụng theo mức thang luỹ tiến với thị giá chứng khoán. 4.4.3. Biên độ giao động giá Việc quy định biên độ giao động giá chứng khoán nhằm hạn chế những biến động lớn về giá chứng khoán trên thị trường trong ngày giao dịch. Đây là một trong nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn biến động giá chứng khoán trên thị trường. Các nhà đầu tư có thể đặt lệnh của họ giữa giá trần (ceiling price) và giá sàn (floor price), bất kỳ lệnh mua hay bán chứng khoán nào nằm ngoài giới hạn trên đều bị loại ra khỏi hệ thống. Giới hạn thay đổi giá hàng ngày được xác định dựa trên giá cơ bản và thông thường là giá đóng cửa ngày hôm trước, mức giá đó gọi là giá tham chiếu. Giới hạn thay đổi giá có thể quy định theo một tỷ lệ cố định hoặc mức cố định theo giá cơ bản. Dải biên độ giao động giá cao, thấp có tác động ảnh hưởng rất lớn đến thị trường, một mặt có tác dụng bảo đảm sự ổn định của thị trường, nhưng đồng thời nó cũng giảm tính thanh khoản của chứng khoán và trong một chừng mực nào đó sẽ làm suy yếu thị trường. Thông thường, các thị trường mới đưa vào vận hành đều quy định biên độ giao động giá thấp, sau đó nâng dần lên. Biên độ giao động dùng để xác định giá trần và giá sàn. Giá trần (giá tối đa) = Giá tham chiếu + (Giá tham chiếu x Biên độ giao động giá) Giá sàn (giá tối thiểu) = Giá tham chiếu - (Giá tham chiếu x Biên độ giao động giá) Giá tham chiếu (Reference price) là mức giá cơ bản để làm cơ sở tính toán biên độ giao động giá hoặc các giá khác trong ngày giao dịch. Việc xác định giá tham chiếu trong từng trường hợp phù thuộc vào quy định của từng thị trường. 4.5. Các phương thức khớp lệnh Có hai phương thức ghép lệnh trên hệ thống đấu giá theo lệnh, đó là khớp lệnh liên tục và khớp lệnh định kì. 4.5.1. Khớp lệnh liên tục (continuous auction) Khớp lệnh liên tục là phương thức giao dịch được thực hiện liên tục khi có các lệnh đối ứng được nhập vào hệ thống. Ưu điểm của hình thức khớp lệnh liên tục: - Giá cả phản ánh tức thời các thông tin trên thị trường. Hệ thống cung cấp mức giá liên tục của chứng khoán, từ đó tạo điều kiện cho nhà đầu tư tham gia thị trường một cách năng động và thường xuyên vì nhà đầu tư có thể ngay lập tức thực hiện được lệnh hoặc nếu không cũng sẽ nhận được phản hồi từ thị trường một cách nhanh nhất để kịp thời điều chỉnh các quyết định đầu tư tiếp sau. - Khối lượng giao dịch lớn, tốc độ giao dịch nhanh, vì vậy, hình thức khớp lệnh này phù hợp với các thị trường có khối lượng giao dịch lớn và sôi động. - Hạn chế được chênh lệch giữa giá lệnh mua và lệnh bán, từ đó thúc đẩy các giao dịch xảy ra thường xuyên và liên tục. Nhược điểm của hình thức khớp lệnh liên tục:
  15. Hình thức khớp lệnh liên tục chỉ tạo ra mức giá cho một giao dịch điển hình chứ không phải là tổng hợp các giao dịch.
  16. Bài tập ví dụ Phiên khớp lệnh liên tục, giả sử có các lệnh giao dịch của cổ phiếu X như sau: KL Mua Giá mua Giá bán KL Bán 1500 100 (C) ATO 2000 (B) 99 2000 (A) Do khớp lệnh liên tục thì các lệnh giao dịch sẽ lập tức so khớp ngay khi có các lệnh đối ứng được nhập vào hệ thống. Do đó, ông B sẽ bán được cho ông A với giá 100 đơn vị; khối lượng chứng khoán giao dịch là 1500 đơn vị. Sau giao dịch, bảng lệnh còn dư là: KL Mua Giá mua Giá bán KL Bán ATO 500 (B) 99 2000 (A) 4.5.2. Khớp lệnh định kỳ (call auction) Khớp lệnh định kỳ là phương thức giao dịch dựa trên cơ sở tập hợp tất cả các lệnh mua và bán trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó khi đến giờ chốt giá giao dịch, giá chứng khoán được khớp tại mức giá đảm bảo thực hiện được khối lượng giao dịch là lớn nhất (khối lượng mua và bán nhiều nhất). Trong trường hợp có nhiều mức giá cho khối lượng giao dịch là lớn nhất và bằng nhau thì sẽ lựa chọn mức giá gần với mức giá đóng cửa của phiên giao dịch ngày hôm trước làm giá giao dịch. Trường hợp đặc biệt, khi có 2 mức giá cho khối lượng giao dịch là lớn nhất và giá đóng cửa của phiên giao dịch trước ở giữa 2 mức giá thì tuỳ theo từng SGDCK sẽ lựa chọn mức giá cao hơn hoặc mức giá có chênh lệch khối lượng mua bán thấp nhất làm giá giao dịch. Việc lựa chọn mức giá giao dịch như trên nhằm đảm bảo tính ổn định và liên tục theo đúng nguyên tắc, mục đích tổ chức và vận hành của thị trường chứng khoán. Khớp lệnh định kỳ là phương thức phù hợp nhằm xác lập mức giá cân bằng trên thị trường. Do lệnh giao dịch của nhà đầu tư được tập hợp trong một khoảng thời gian nhất định nên khớp lệnh định kỳ có thể ngăn chặn được những đột biến về giá thường xuất hiện dưới ảnh hưởng của lệnh giao dịch có khối lượng lớn hoặc thưa thớt. Phương thức này cũng rất hữu hiệu trong việc giảm thiểu những biến động về giá nảy sinh từ tình trạng giao dịch bất thường, tạo sự ổn định giá cần thiết trên thị trường. Tuy nhiên, giá chứng khoán được xác lập theo phương thức khớp lệnh định kỳ không phản ánh tức thời thông tin thị trường và hạn chế cơ hội tham gia giao dịch của người đầu tư. Khớp lệnh định kỳ thường được các SGDCK sử dụng để xác định giá mở cửa, đóng cửa hoặc giá chứng khoán được phép giao dịch lại sau một thời gian tạm ngưng giao dịch. Trong thực tế, các SGDCK áp dụng hệ thống giao dịch ghép lệnh thường kết hợp cả 2 hình thức: khớp lệnh định kỳ và khớp lệnh liên tục. Khớp lệnh định kỳ được áp dụng để xác định giá mở cửa, giá giữa các phiên (quy định thời điểm nhất định) và giá đóng cửa. Trong khoảng thời gian từ mở cửa đến đóng cửa sẽ áp dụng hình thức khớp lệnh liên tục. Nguyên tắc khớp lệnh định kỳ
  17. Trong khớp lệnh định kỳ, mỗi lần khớp lệnh sẽ hình thành một mức giá thực hiện duy nhất - là mức giá thoả mãn điều kiện thực hiện được một khối lượng giao dịch lớn nhất. Để xác định những lệnh được thực hiện trong mỗi lần khớp lệnh, phải sử dụng nguyên tắc của ưu tiên khớp lệnh theo trật tự sau: Thứ nhất: Ưu tiên về giá Lệnh nào có giá tốt hơn sẽ ưu tiên được thực hiện trước. Lệnh mua có mức giá cao hơn được ưu tiên thực hiện trước. Lệnh bán có mức giá thấp hơn được ưu tiên thực hiện trước. Thứ hai: Ưu tiên thời gian. Nếu các lệnh giao dịch có cùng mức giá thì lệnh giao dịch nhập trước vào hệ thống giao dịch sẽ được ưu tiên thực hiện trước. Thứ ba: Ưu tiên khách hàng Nếu các lệnh giao dịch có cùng mức giá và cùng thời gian nhập lệnh thì lệnh của khách hàng sẽ được ưu tiên thực hiện trước lệnh giao dịch có tính chất tự doanh của công ty chứng khoán. Thứ tư: Ưu tiên khối lượng Nếu các lệnh giao dịch đều là của khách hàng hoặc đều là lệnh tự doanh có cùng mức giá và cùng thời gian thì lệnh nào có khối lượng lớn hơn sẽ được ưu tiên thực hiện trước. Bài tập ví dụ. Xác định giá khớp của cổ phiếu X trong phiên khớp lệnh định kỳ. Biết giá tham chiếu của cổ phiếu X là 23000 và sở giao dịch nhận được các lệnh về cổ phiếu X như sau: Số hiệu Khối Khối lượng Giá Khối lượng Khối lượng Số hiệu lượng cộng dồn cộng dồn M1 10000 ATO 14000 20000 10000 10000 B1 M2 1000 14000 21000 11000 1000 B2 13000 22000 13000 2000 B3 M3 3000 13000 23000 16000 3000 B4 10000 24000 20000 4000 B5 Có 2 mức giá đều cho khối lượng giao dịch lớn nhất là 22000 và 23000. Ta chọn giá khớp là 23000 vì gần giá tham chiều hơn. 4.6. Các phương thức giao dịch chứng khoán 4.6.1. Giao dịch mua bán thủ công tại sàn giao dịch Sàn giao dịch là một phòng rộng, xung quanh có nhiều bảng đen và ngày nay các bảng này được thay thế bởi các bảng điện tử giao dịch cỡ lớn. Những người môi giới khi nhận được lệnh mua bán từ khách hàng sẽ liên hệ với các chuyên gia chứng khoán chuyên về loại chứng khoán giao dịch để biết được các mức giá tốt nhất và khối lượng tại các mức giá. Sau đó, nhà môi giới sẽ tiến hành thương lượng với các nhà môi giới khác. Ban đầu họ thương lượng và thoả thuận với nhau theo các ký
  18. hiệu tay đã quy ước (theo bảng dưới), tuy nhiên các giao dịch tay chỉ tồn tại đến cuối thập niên 1980 do có sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống máy tính điện tử thay thế. 4.6.2. Phương thức giao dịch bán tự động Đây là hệ thống kết hợp giao dịch thủ công với giao dịch qua máy tính điện tử. Theo phương thức này, một số khâu trong công đoạn giao dịch được thực hiện bằng phương thức thủ công còn các khâu khác được thực hiện với sự trợ giúp của máy tính điện tử. Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đang áp dụng phương thức giao dịch này. 4.6.3. Giao dịch mua bán qua máy tính điện tử Giao dịch điện tử tự động hoá hoàn toàn là hệ thống giao dịch trong đó tất cả các khâu đều thông qua hệ thống máy tính. Các SGDCK không còn khái niệm Sàn giao dịch, tại đó chỉ có hệ thống các máy móc vi tính. Phương thức này đang được phát triển mạnh mẽ trở thành xu thế của hầu hết các thị trường chứng khoán trên thế giới. 4.6.4. Quy trình thực hiện giao dịch ở Sở giao dịch chứng khoán Bước 1: Mở tài khoản giao dịch Nhà đầu tư muốn mua hoặc bán chứng khoán phải tiến hành mở tài khoản tại một công ty chứng khoán (CTCK) là thành viên của SGDCK. Phòng tiếp thị đại diện cho CTCK sẽ ký hợp đồng uỷ thác với nhà đầu tư để mở tài khoản giao dịch. Thủ tục mở tài khoản cũng tương tự như mở tài khoản ngân hàng, trong đó chủ tài khoản cần phải cung cấp các thông tin thiết yếu để phục vụ cho mục đích quản lý của CTCK. Tài khoản giao dịch hiện nay có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau. Về nội dung sử dụng tài khoản có hai tài khoản chính là Tài khoản tiền mặt (Cash account). Đây là loại tài khoản mà các khoản thanh toán phát sinh sẽ được thực hiện bằng tiền mặt. Để mở tài khoản này khách hàng phải xuất trình giấy tờ tùy thân hợp lệ để công ty có thể hợp thức hóa chuyển sở hữu cho khách hàng. Đối với tài khoản này thường các công ty chứng khoán yêu cầu khi mua chứng khoán, khách hàng phải thanh toán bằng tiền mặt không chậm hơn ngày thanh toán (thường là trong vòng T+x ngày làm việc kể từ khi diễn ra giao dịch). Do đó khi thực hiện nghiệp vụ mua chứng khoán, khách hàng phải chuẩn bị đủ tiền trên tài khoản để thanh toán trước hoặc phải trả đúng vào thời điểm trong ngày thanh toán theo quy định của công ty chứng khoán. Tài khoản bảo chứng (Margin account). Khi mua với một tài khoản bảo chứng, khách hàng chỉ phải trả một phần tiền và công ty chứng khoán sẽ cho vay phần còn lại. Để được mở tài khoản này, khách hàng phải ký quỹ một tỷ lệ nhất định. Khi mở tài khoản bảo chứng để giao dịch giữa khách hàng và công ty chứng khoán cần thỏa thuận một số điều khoản. - Khách hàng đồng ý giao cho công ty chứng khoán một số chứng khoán để làm đảm bảo tiền vay mà công ty sẽ dành cho khách hàng. - Khách hàng cho phép công ty chứng khoán đem số chứng khoán này gửi vào ngân hàng như là vật đảm bảo cho khoản vay.
  19. - Bằng cách ký một thỏa thuận, khách hàng cho phép công ty chứng khoán lấy số chứng khoán này đem cho khách hàng khác vay để thực hiện nghiệp vụ bán khống (mượn chứng khoán bán khi giá lên, sau đó mua lại với giá thấp để trả lại). Sau khi mở tài khoản xong, CTCK sẽ cung cấp cho khách hàng (nhà đầu tư) một mã số tài khoản và mã truy cập vào tài khoản để kiểm tra sau mỗi lần giao dịch. Bước 2: Đặt lệnh giao dịch Việc ra lệnh có thể được thực hiện theo hình thức ra lệnh trực tiếp hoặc gián tiếp qua điện thoại, telex, fax, hệ thống máy tính điện tử tuỳ thuộc vào sự phát triển của thị trường. Khi nhận được lệnh, nhân viên môi giới phải kiểm tra tính chính xác của các thông số trên lệnh. Phiếu lệnh mua và lệnh bán thông thường được in bằng hai màu mực khác nhau để dễ phân biệt, trên phiếu lệnh thông thường bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Phiếu lệnh Mua hay Bán; Các thông tin về khách hàng (Họ và tên, mã số tài khoản, Số chứng minh nhân dân, Số hộ chiếu ); Loại chứng khoán mua hoặc bán (thường ghi mã chứng khoán đang yết trên SGDCK); Khối lượng; Giá; Loại lệnh và định chuẩn lệnh; Số hiệu lệnh ban đầu; Thời gian nhận lệnh; Đợt giao dịch; Ngày giao dịch; Ký tên khách hàng; Ký tên nhân viên nhận lệnh và kiểm soát; Ký tên trưởng phòng giao dịch. Bước 3: Chuyển phiếu lệnh đến phòng giao dịch CTCK Phòng giao dịch có trách nhiệm xem xét các thông số trên phiếu lệnh, nếu thấy hợp lí thì chuyển lệnh đến người đại diện công ty tại SGDCK và ghi thời gian chuyển lệnh vào phiếu lệnh. Bước 4: Chuyển lệnh đến người đại diện công ty tại SGDCK Phiếu lệnh được chuyển tới người đại diện công ty tại Sàn giao dịch, nội dung bao gồm các thông số: Mua/Bán; loại chứng khoán; số lượng; loại lệnh và định chuẩn lệnh; số hiệu lệnh; thời gian; mã số tài khoản khách hàng. Bước 5: Nhập lệnh vào hệ thống giao dịch Đại diện công ty tại Sàn giao dịch sau khi nhận được lệnh từ CTCK phải thực hiện nhập lệnh vào hệ thống giao dịch của SGDCK. Bước 6: Khớp lệnh và thông báo kết quả giao dịch Đến giờ ra giá chốt giao dịch, SGDCK sẽ thông báo kết quả giao dịch của từng loại chứng khoán niêm yết trên SGD. Đồng thời kết quả giao dịch sẽ được chuyển đến trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán cũng như tại các CTCK thành viên. Kết quả giao dịch được SGDCK thông báo trên màn hình thành viên tại SGDCK gồm các nội dung chính: Số hiệu của lệnh giao dịch; Số hiệu xác nhận giao dịch; Mã số chứng khoán; Giá thực hiện; Số luợng mua hoặc bán; Thời gian giao dịch được thực hiện; Lệnh mua hay bán; Ký hiệu của lệnh; Số hiệu tài khoản của khách hàng; Số hiệu đại diện giao dịch (nhà môi giới tại Sàn) của thành viên. Bước 7: Báo kết quả giao dịch về CTCK Nhà môi giới tại Sàn sau khi nhận được kết quả giao dịch sẽ báo về cho Phòng giao dịch CTCK với các nội dung chính: số hiệu nhà môi giới tại Sàn; Số hiệu lệnh; Đã mua/bán; Mã chứng khoán; Số lượng; Giá; Số hiệu nhà môi giới đối tác; thời gian. Phòng giao dịch sẽ ghi vào phiếu lệnh của các khách hàng có giao dịch ở phần kết quả giao dịch nội dung: số lượng, giá cả và thời gian. Bước 8: Xác nhận giao dịch và làm thủ tục thanh toán
  20. Phòng giao dịch chuyển các phiếu lệnh có giao dịch đến Phòng thanh toán (thường là bộ phận Kế toán). Cuối buổi giao dịch, Phòng thanh toán căn cứ vào các kết quả giao dịch lập báo cáo kết quả giao dịch và chuyển kết quả đến trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán để tiến hành quá trình thanh toán. Đồng thời, sau khi đã có kết quả giao dịch, CTCK gửi cho khách hàng một phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh. Xác nhận này có vai trò như một hoá đơn hẹn ngày thanh toán với khách hàng. Bước 9: Thanh toán và hoàn tất giao dịch Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán tiến hành so khớp kết quả giao dịch do SGDCK cung cấp và báo cáo kết quả giao dịch của các CTCK để tiền hành thanh toán bù trừ. Trong thời gian T+x ngày, trung tâm lưu ký và thanh toàn bù trừ chứng khoán sẽ thực hiện việc chuyển quyền sở hữu chứng khoán từ người bán sang người mua và Ngân hàng chỉ định thanh toán sẽ thanh toán bù trừ tiền từ người mua sang người bán thông qua hệ thống tài khoản của các CTCK tại ngân hàng. Việc bù trừ các kết quả giao dịch sẽ kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh toán. Các chứng từ này được gửi cho các CTCK và là cơ sở để thực hiện thanh toán và giao nhận giữa các CTCK. Do đặc điểm là trong giao dịch chứng khoán, các chứng khoán được lưu ký 2 cấp. Tức là các khách hàng có chứng khoán sẽ lưu ký chứng khoán tại CTCK hoặc NHTM được cấp phép thực hiện nghiệp vụ lưu ký, sau đó các CTCK sẽ tái lưu ký số chứng khoán trên vào Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán của SGDCK. Vì vậy, sau khi các CTCK hoàn tất các thủ tục thanh toán bù trừ tại SGDCK, CTCK sẽ thanh toán tiền và chứng khoán cho các khách hàng thông qua hệ thống tài khoản mà khách hàng mở tại CTCK. 4.7. Các giao dịch đặc biệt 4.7.1. Giao dịch lô lớn Trong giao dịch chứng khoán, nếu có nhiều lệnh với khối lượng lớn đưa vào giao dịch thì có thể giá chứng khoán sẽ biến động theo những chiều hướng không tốt. Do đó, cần tách biệt hệ thống giao dịch khớp lệnh với giao dịch khối để giảm thiểu sự tác động của thị trường phát sinh từ những lệnh có khối lượng giao dịch lớn.Việc quy định các giao dịch khối riêng rẽ không chỉ để bảo vệ những nhà đầu tư nhỏ, không có sức cạnh tranh mà còn tạo cơ hội cho các nhà đầu tư giao dịch thông qua hệ thống giao dịch của SGDCK khi các giao dịch này không thoả thuận được trên thị trường OTC. Tiêu chí của giao dịch khối được quy định dựa trên khối lượng giao dịch (khối lượng cổ phiếu) hoặc dựa trên giá trị giao dịch (tính theo thị giá). Các tiêu chí này được thiết lập phụ thuộc vào quy mô của thị trường, quy mô công ty và tính thanh khoản của từng thị trường. (Hàn Quốc quy định là 50.000 CP hoặc 01 tỷ Won; Thái Lan: 100 lô chẵn hoặc 01 triệu Bath; Đài Loan: 500 lô CP hoặc 05 triệu Đài tệ; Việt Nam: 10.000 CP hoặc 300 triệu VNĐ). Các giao dịch khối được thực hiện theo hai phương thức: (1) Phương thức báo cáo, theo đó nhà đầu tư muốn thực hiện giao dịch khối phải xin phép SGDCK, vì khối lượng giao dịch lớn sẽ tác động tới giá chứng khoán trên thị trường, do đó đòi hỏi phải công bố thông tin công khai;
  21. (2) Phương thức ngoài giờ, theo đó các giao dịch khối diễn ra sau khi thị trường đóng cửa, mức giá do các đối tác thoả thuận, nhưng lấy giá đóng cửa làm giá tham chiếu cộng với một số đơn vị yết giá. 4.7.2. Giao dịch lô lẻ Giao dịch lô lẻ (odd-lot trading) là các giao dịch có khối lượng nhỏ hơn một đơn vị giao dịch. Lô lẻ thường phát sinh do việc trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành cổ phiếu thưởng, tách cổ phiếu hoặc thực hiện quyền mua cổ phiếu vv. Để đảm bảo tính hiệu quả của thị trường, các SGDCK đều quy định đối với giao dịch lô lẻ. Các giao dịch này diễn ra trên SGDCK hoặc thị trường OTC thông qua cơ chế giao dịch thương lượng và thoả thuận giữa nhà đầu tư với công ty chứng khoán. Giá thực hiện trong các giao dịch lô lẻ có thể được xác định trên cơ sở: lấy giá giao dịch của loại chứng khoán đó trên SGDCK chiết khấu theo một tỷ lệ thoả thuận so với thị giá hoặc do CTCK thoả thuận với khách hàng. 4.7.3. Giao dịch cổ phiếu mới đưa vào niêm yết Sau khi hoàn tất quá trình chào bán chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên SGDCK, các cổ phiếu mới niêm yết bắt đầu chính thức đưa vào giao dịch. Vì vậy, vấn đề đặt ra là xác định mức giá cho phiên giao dịch đầu tiên như thế nào? Khi phát hành cổ phiếu ra công chúng, giá chào bán được xác định dựa trên điều kiện và tình hình thực tiễn tài chính của công ty và mức giá này thường được chiết khấu nhằm đảm bảo sự thành công cho các đợt phát hành IPO, do đó khi đưa vào giao dịch, nhu cầu giao dịch cổ phiếu này rất lớn làm cho giá cổ phiếu tăng cao. Vì vậy, đối với cổ phiếu mới đưa vào niêm yết, cần phải xác định giá tham chiếu một cách hợp lý. Thông thường có 3 cách xác định giá tham chiếu cho cổ phiếu mới đưa vào niêm yết: - Giá chào bán ra công chúng. - Giá mở cửa thị trường theo quan hệ cung -cầu cổ phiếu, không giới hạn biên độ. - Giá trung bình của các lệnh đặt mua. Ngoài ra, trên thực tế nhiều SGDCK còn vận dụng phối hợp cả 3 cách xác định giá tham chiếu nói trên, hoặc xây dựng giá tham chiếu theo mức trần để khống chế. 4.7.4. Tách, gộp cổ phiếu Tách, gộp cổ phiếu là việc chia nhỏ hoặc gộp nhiều cổ phiếu lại với nhau thành một cổ phiếu mới. Việc tách, gộp cổ phiếu sẽ không làm thay đổi vốn của tổ chức phát hành, nhưng lại tăng, giảm số lượng cổ phiếu lưu hành, do đó dẫn đến thay đổi giá cổ phiếu sau khi quá trình tách, gộp hoàn tất. Vì vậy, việc tách, gộp cổ phiếu phải được Hội đồng quản trị thông qua và báo cáo UBCK, đồng thời phải công bố thông tin về việc tách, gộp. SGDCK tạm ngừng giao dịch để thực hiện tách, gộp cổ phiếu. Sau đó, phải xác định lại giá tham chiếu cho phiên giao dịch đầu tiên. Về nguyên lý, giá cổ phiếu sau khi thực hiện tách, gộp được xác định dựa trên căn cứ giá giao dịch trước khi thực hiện tách, gộp nhân với tỷ lệ tách, gộp cổ phiếu.
  22. 4.7.5. Giao dịch không được hưởng cổ tức và quyền kèm theo Theo định kỳ hàng năm (3 tháng hoặc 6 tháng) công ty cổ phần thực hiện chi trả cổ tức (bằng tiền mặt hoặc cổ phiếu) cho các cổ đông. Do cổ phiếu được mua đi bán lại thường xuyên trên thị trường nên tổ chức phát hành phải xác định những cổ đông hiện hành của mình để chi trả cổ tức, hay còn gọi là ngày chốt danh sách cổ đông. Ngoài ra, do quy trình giao dịch cổ phiếu không đồng thời xảy ra giữa ngày giao dịch và ngày thanh toán (T+x), do đó chỉ có các cổ đông có tên trong danh sách đăng ký danh sách sở hữu mới được nhận cổ tức, hoặc các quyền kèm theo. Theo chu kỳ thanh toán T+x, người đầu tư mua cổ phiếu (x-1) ngày trước ngày đăng ký sở hữu sẽ không có tên trong sổ cổ đông vì giao dịch chưa được thanh toán, nên không được nhận cổ tức. Khi đó, ngày T+1; T+2 và T+x được SGDCK công bố là ngày giao dịch không được hưỏng cổ tức (ex-dividend date), hoặc ngày giao dịch không được hưởng quyền (ex-right date). Vào những ngày giao dịch không được hưởng cổ tức và chứng quyền, SGDCK sẽ công bố trên hệ thống công bố thông tin để nhà đầu tư biết và xác định lại giá tham chiếu để giao dịch. Về nguyên tắc giá tham chiếu trong những ngày giao dịch không được hưởng cổ tức và chứng quyền sẽ bằng giá giao dịch trước đó (được nhận cổ tức và quyền) trừ đi giá trị cổ tức và quyền được nhận. 4.7.6. Giao dịch cổ phiếu quỹ Cổ phiếu quỹ (treasury stocks) là cổ phiếu đã phát hành và được mua lại bởi chính tổ chức phát hành. Việc mua lại cổ phiếu quỹ do tổ chức phát hành thực hiện phải được sự chấp thuận của SGDCK. Mục tiêu mua lại cổ phiếu quỹ: ngăn chặn khả năng thao túng công ty từ bên ngoài; làm cổ phiếu dự trữ hoặc để phát hành cổ phiếu thưởng, hoặc công ty mua lại để điều chỉnh lại cơ cấu tài chính của công ty (nợ/vốn cổ phần); ngăn chặn giá chứng khoán giảm sút mạnh trên thị trường. Nguồn vốn để mua cổ phiếu lấy từ quỹ thặng dư của công ty (capital supplus). Công ty niêm yết muốn mua lại cổ phiếu quỹ phải xin phép SGDCK và nêu rõ: nguồn vốn thực hiện mua lại; khối lượng và thời gian thực hiện mua lại; công ty chứng khoán được uỷ thác thực hiện lệnh. Thông thường, để hạn chế tác động tới giá cổ phiếu trên thị trường, SGDCK quy định khối lượng cổ phiếu mà công ty niêm yết được mua lại qua các phiên giao dịch, và sau khi mua lại công ty niêm yết phải nắm giữ trong vòng 06 tháng không được phép bán ra. 4.7.7. Giao dịch bảo chứng Giao dịch bảo chứng (margin trading) hay còn gọi là giao dịch ký quỹ, đó là việc mua hoặc bán chứng khoán trong đó nhà đầu tư chỉ có một phần tiền hoặc chứng khoán, phần còn lại do công ty chứng khoán cho vay. Bằng cách sử dụng giao dịch ký quỹ, những người đầu tư có thể gia tăng lợi nhuận đầu tư do giao dịch này có tác dụng đòn bẩy tài chính rất mạnh đối với nhà đầu tư, đồng thời giao dịch ký quỹ có thể mang lại những tác động tích cực như ổn định giá chứng khoán và tăng cường tính thanh khoản của thị trường. Tuy nhiên, giao dịch ký quỹ cũng ẩn chứa mức độ rủi ro cao có khả năng làm tổn hại đến hoạt động của thị trường. Do vậy, giao dịch ký quỹ chỉ được thực hiện ở các thị trường đã phát triển đến một mức độ nhất định, và tỷ lệ ký quỹ cũng được nâng
  23. dần lên song song với tiến trình phát triển của thị trường. Giao dịch ký quỹ có hai loại: mua ký quỹ và bán khống. - Mua ký quỹ (margin purchase) là việc mua chứng khoán bằng tài khoản ký quỹ; nhà đầu tư chỉ cần có một số tiền nhất định trong tổng giá trị chứng khoán đặt mua, phần còn lại sẽ do công ty chứng khoán cho vay. Sau khi thực hiện giao dịch, chứng khoán mua được sẽ do công ty nắm giữ để làm vật thế chấp. Khi nhà đầu tư có nhu cầu bán chứng khoán, công ty chứng khoán sẽ thực hiện lệnh bán chứng khoán và thu về phần vốn đã cho nhà đầu tư vay (gồm cả gốc và lãi cho vay). Nhà đầu tư tiến hành giao dịch mua ký quỹ khi kỳ vọng giá chứng khoán sẽ tăng lên. Muốn thực hiện giao dịch mua ký quỹ, nhà đầu tư phải mở một loại tài khoản đặc biệt đó là tài khoản ký quỹ. Trong hợp đồng mở tài khoản ký quỹ quy định rõ, chủ tài khoản phải đảm bảo được tỷ lệ ký quỹ bắt buộc. Trong đó, tỷ lệ ký quỹ bắt buộc do UBCK quy định và tỷ lệ này càng cao thì giá trị chứng khoán hoặc tiền mà nhà đầu tư đi vay từ CTCK sẽ càng nhỏ. Trong quá trình giao dịch bằng tài khoản ký quỹ, nhà đầu tư phải luôn đảm bảo tỷ lệ ký quỹ (tính bằng cách lấy giá trị chứng khoán sở hữu chia cho tổng giá trị chứng khoán trên tài khoản) ở trên mức tỷ lệ ký quỹ duy trì do CTCK quy định. Trường hợp tỷ lệ ký quỹ trên tài khoản nhỏ hơn tỷ lệ ký quỹ duy trì, CTCK sẽ phát lệnh ký quỹ (margin call) yêu cầu nhà đầu tư bổ sung thêm tiền hoặc chứng khoán vào tài khoản để đảm bảo tỷ lệ ký quỹ ở trên tỷ lệ ký quỹ duy trì. Nếu như nhà đầu tư không thực hiện lệnh gọi ký quỹ, CTCK có thể sẽ bán số chứng khoán ký quỹ của nhà đầu tư trên tài khoản. - Bán khống (short sale) là việc bán chứng khoán không thuộc sở hữu của nhà đầu tư tại thời điểm bán; hay nói khác bán khống là việc nhà đầu tư vay chứng khoán của công ty chứng khoán để bán vào thời điểm giá cao, sau đó sẽ mua chứng khoán khi giá giảm xuống để trả lại cho công ty chứng khoán. Vì vậy, khi áp dụng nghiệp vụ bán khống, nhà đầu tư ký vọng giá chứng khoán sẽ giảm, điều này ngược lại đối với trường hợp mua ký quỹ. 4.7.8. Giao dịch thâu tóm công ty Giao dịch thâu tóm công ty (take- over) được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu mua cổ phiếu (tender offer) trên thị trường thứ cấp. Mục tiêu của nhà đầu tư khi thực hiện giao dịch thâu tóm công ty là nắm giữ, kiểm soát một khối lượng lớn cổ phiếu có quyền biểu quyết, nhằm nắm quyền kiểm soát công ty, hoặc sáp nhập công ty. Do tác động của việc mua một khối lượng lớn cổ phiếu của công ty (các nước thường quy định từ 20% cổ phiếu trở lên) làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường, nên UBCK các nước thường quy định giao dịch thâu tóm sẽ thực hiện thông qua phương thức đấu thầu mua lại cổ phiếu. Nhà đầu tư muốn thực hiện giao dịch đấu thầu cổ phiếu phải xin phép UBCK và phải nêu rõ: mục tiêu mua cổ phiếu; khối lượng mua; nguồn tiền để thực hiện mua; thời gian thực hiện mua lại; giá chào thầu dự kiến trên thị trường. Khi được UBCK chấp thuận cho phép giao dịch đấu thầu, nhà đầu tư phải công bố công khai thông tin trên phương tiện đại chúng; tổ chức chào thầu; thông báo cho công ty niêm yết mà mình dự kiến mua lại cổ phiếu biết để công ty đó không được phép phát hành cổ phiếu bổ sung, tách, gộp cổ phiếu trong suốt thời gian thực hiện mua đấu thầu.
  24. 4.8. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Tóm tắt chương 1. Niêm yết chứng khoán là quá trình định danh các chứng khoán đáp ứng đủ tiêu chuẩn được giao dịch trên SGDCK. Khi niêm yết chứng khoán công ty dễ dàng trong huy động vốn, giúp nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán và có thể hưởng các ưu đãi về thuế. Nhưng doanh nghiệp có thể gặp các bất lợi như phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin, doanh nghiệp tốn kém chi phí niêm yết và có thể gặp rủi ro trong việc thâu tóm và sáp nhập. Phân loại niêm yết gồm niêm yết lần đầu; niêm yết bổ sung; thay đổi niêm yết; niêm yết lại; niêm yết cửa sau; niêm yết toàn phần và niêm yết từng phần. Niêm yết toàn phần là việc niêm yết tất cả các cổ phiếu sau khi đã phát hành ra công chúng trên một SGDCK trong nước hoặc nước ngoài. Niêm yết từng phần là việc niêm yết một phần trong tổng số chứng khoán đã phát hành ra công chúng của lần phát hành đó, phần còn lại không hoặc chưa được niêm yết. Để chứng khoán của doanh nghiệp được niêm yết trên sở giao dịch, doanh nghiệp cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn định lượng và tiêu chuẩn định tính mà luật quy định. Quy trình các bước đối với niêm yết lần đầu gồm có sở giao dịch thẩm định sơ bộ, đệ trình hồ sơ xin cấp phép niêm yết, thẩm tra niêm yết chính thức, phê chuẩn và cấp phép niêm yết, khai trương niêm yết 2. Lệnh giao dịch là một chỉ thị của khách hàng cho nhà môi giới để mua hoặc bán chứng khoán theo yêu cầu mà khách hàng đặt ra. Các lệnh giao dịch thường được sử dụng là lệnh thị trường, lệnh giới hạn. Ngoài ra còn có các loại lệnh khác, ở các thị trường khác nhau sẽ áp dụng khác nhau. Lệnh thị trường là lệnh mua hoặc bán chứng khoán của khách hàng yêu cầu thực hiện ngay tại mức giá tốt nhất hiện có trên thị trường khi lệnh được chuyển đến sàn giao dịch. Lệnh không ghi mức giá cụ thể và được ưu tiên trước lệnh giới hạn Lệnh giới hạn là lệnh mua hoặc bán chứng khoán tại mức giá chỉ định hoặc tốt hơn. Lệnh này có ghi mức giá cụ thể. Lệnh ATO là lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán tại mức giá mở cửa. Lệnh ATC là lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán tại mức giá đóng cửa. Hai lệnh này có đặc điểm giống lệnh thị trường song được áp dụng trong phiên khớp lệnh định kỳ. Lệnh dừng được dùng để bảo vệ lợi nhuận và phòng chống rủi ro. Lệnh dừng giới hạn giúp khắc phục nhược điểm của lệnh dừng vì nó chỉ rõ hai mức giá: một mức giá dừng và một mức giá giới hạn. 3. Đơn vị giao dịch là khối lượng chứng khoán tối thiểu được quy định là đơn vị chuẩn trong giao dịch. Đơn vị yết giá là đơn vị tiền tệ tối thiểu được quy định đối với việc đặt giá chứng khoán. Biên độ giao động giá là khoảng dao động giá chứng khoán cho phép được quy định trong ngày giao dịch được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) so với giá tham chiếu. 4. Phương thức khớp lệnh định kỳ là phương thức giao dịch dựa trên cơ sở tập hợp tất cả các lệnh mua và bán trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó khi đến giờ chốt giá giao dịch, giá chứng khoán được khớp tại mức giá đảm bảo thực hiện được khối lượng giao dịch là lớn nhất. Khác với khớp lệnh định kỳ, đối với phương thức khớp lệnh liên tục thì các lệnh giao dịch sẽ lập tức được so khớp ngay khi nhập vào hệ thống và có lệnh đối ứng.
  25. 5. Quá trình phát triển của các Sở giao dịch chứng khoán trên thế giới đã ghi nhận có 3 phương thức giao dịch gồm: Giao dịch mua bán thủ công tại sàn giao dịch, phương thức giao dịch bán tự động và phương thức giao dịch mua bán qua máy tính điện tử. Quy trình các thực hiện giao dịch ở Sở giao dịch chứng khoán gồm có: Mở tài khoản giao dịch; Đặt lệnh giao dịch; Chuyển phiếu lệnh đến phòng giao dịch CTCK; Chuyển lệnh đến người đại diện công ty tại SGDCK; Nhập lệnh vào hệ thống giao dịch; Khớp lệnh và thông báo kết quả giao dịch; Báo kết quả giao dịch về CTCK; Xác nhận giao dịch và làm thủ tục thanh toán; Thanh toán và hoàn tất giao dịch. 6. Một số giao dịch đặc biệt trên Sở giao dịch gồm có: Giao dịch lô lớn; Giao dịch lô lẻ; Giao dịch cổ phiếu mới đưa vào niêm yết; Tách, gộp cổ phiếu; Giao dịch không được hưởng cổ tức và quyền kèm theo; Giao dịch cổ phiếu quỹ; Giao dịch bảo chứng; Giao dịch thâu tóm công ty. Các giao dịch đặc biệt này cần phải tách biệt và giao dịch riêng để ổn định thị trường nói chung tránh, tránh các tác động lớn đến giá chứng khoán đó. Hệ thống câu hỏi và bài tập A. Câu hỏi lý thuyết 1. Tại sao cần thiết phải niêm yết chứng khoán? Bình luận về các điều kiện được phép niêm yết chứng khoán trên TTCK Việt Nam. 2. Phân tích ưu điểm và hạn chế của việc niêm yết chứng khoán đối với tổ chức phát hành và đối với cơ quan quản lý thị trường. 3. Trình bày ưu và nhược điểm của hệ thống giao dịch đấu giá theo lệnh và đấu giá theo giá. 4. Trình bày nội dung của các phương thức khớp lệnh, ưu nhược điểm. Liên hệ thực tiễn TTCK Việt Nam? 5. Trình bày nội dung, tích chất, điều kiện áp dụng và lấy ví dụ minh hoạ các loại lệnh cơ bản trong giao dịch chứng khoán? Liên hệ thực tiễn đối với TTCK Việt Nam. 6. Trình bày nội dung các bước trong giao dịch mua bán chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán? 7. Các giao dịch đặc biệt trên TTCK. Liên hệ thực tiễn và triển vọng áp dụng đối với TTCK Việt Nam. 8. Tại sao lại cho rằng mua bán chứng khoán bằng tài khoản ký quỹ có tác dụng đòn bẩy tài chính đối với nhà đầu tư? Theo Anh (Chị) thị trường chứng khoán Việt Nam có nên áp dụng mua bán chứng khoán bằng tài khoản ký quỹ không? Vì sao? 9. Bán khống có tác dụng thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Hãy bình luận trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. 10. Bình luận về nhận định sau: “Lệnh ATO và lệnh ATC thực chất là lệnh thị trường được sử dụng trong phương thức khớp lệnh định kỳ” B. Bài tập vận dụng 1. Giá đóng cửa chứng chỉ quỹ VFMVF1 ngày 14/10/N là 12.000 đồng. Vào phiên giao dịch xác định giá mở cửa từ 8h30 đến 8h45 ngày 15/10/N, Hose tập hợp các lệnh mua bán cổ phiếu VFMVF1 như sau: Lnh mua Giá Lnh bán S hiu Khi lng (1000) Khi lng S hiu
  26. M1 5000 ATO 3000 B1 M2 2500 14.000 1500 B2 M3 4000 13.000 4000 B3 M4 3000 12.000 5000 B4 M5 1500 11.000 2500 B5 M6 2000 10.000 6000 B6 a, Xác định giá mở cửa của cổ phiếu VFMVF1. b, Xác định các lệnh giao dịch được thực hiện và không thực hiện. 2. Tại phiên giao dịch xác định giá mở cửa, Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh nhận được các lệnh mua bán cổ phiếu VNM của khách hàng như sau. Lnh mua Giá Lnh bán S hiu Khi lng (1000) Khi lng S hiu M1 3000 45.000 2000 B1 M2 9000 44.000 4500 B2 M3 5000 43.000 6500 B3 M4 6000 42.000 1000 B4 M5 1000 41.000 7000 B5 M6 2000 40.000 8000 B6 a, Xác định giá mở cửa của cổ phiếu VNM biết giá tham chiếu là 43.000 đồng. b, Xác định các lệnh giao dịch được thực hiện và không thực hiện.
  27. Chương 5: PHÂN TÍCH VÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN Chương 5 gồm các nội dung sau: 5.1. Giới thiệu chung về phân tích và đầu tư chứng khoán 5.2. Nội dung phân tích chứng khoán 5.3. Lãi suất và các vấn đề liên quan đến lãi suất 5.4. Phân tích trái phiếu 5.5. Phân tích cổ phiếu 5.6. Các chỉ số của thị trường chứng khoán 5.7. Hướng dẫn học tập Mục tiêu chung: Cung cấp cho học viên các kỹ năng về phân tích và đầu tư chứng khoán. Cách xác định giá trị tương lai; giá trị hiện tại; định giá cổ phiếu và trái phiếu; cách tính các chỉ số giá chứng khoán. Ngoài ra, học viên còn tiếp cận các trường phái phân tích và đầu tư chứng khoán để có thể vận dụng vào thực tiễn, lựa chọn cho mình một phương pháp đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Mục tiêu cụ thể: Cung cấp kiến thức cơ bản cho học viên về: - Khái niệm, phân loại đầu tư chứng khoán. - Các rủi ro khi đầu tư chứng khoán. - Phân tích vĩ mô, phân tích ngành và phân tích công ty. - Trường phái phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. - Xác định giá trị hiện tại, giá trị tương lai. - Định giá trái phiếu, các đại lượng chủ yếu đo lường mức sinh lời của trái phiếu. - Mối quan hệ giữa lãi suất thị trường, giá trái phiếu và các lãi suất của trái phiếu đang lưu hành. - Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị thị trường của trái phiếu. - Định giá cổ phiếu, đánh giá hiệu quả đầu tư vào cổ phiếu. - Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng giá cổ phiếu trên thị trường. - Các chỉ số của thị trường chứng khoán Việt Nam và thế giới. 5.1. Giới thiệu chung về phân tích và đầu tư chứng khoán 5.1.1. Khái niệm phân tích và đầu tư chứng khoán Phân tích chứng khoán là hoạt động quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc ra quyết định đầu tư. Mục tiêu của quá trình phân tích chứng khoán là giúp cho nhà đầu tư ra các quyết định mua bán chứng khoán một cách có hiệu quả nhất, tức là mang lại lợi nhuận và sự an toàn về vốn cho nhà đầu tư. Phân tích chứng khoán được nhà đầu tư tiến hành nhằm trả lời các câu hỏi trước khi đưa ra các quyết định đầu tư như: khi nào là thời điểm thuận lợi để đầu tư, khi nào cần phải rút ra khỏi thị trường; đầu tư vào loại chứng khoán nào để phù hợp với mục tiêu đề ra;?.v.v. Trong hoạt động đầu tư chứng khoán có hai phương pháp phân tích chủ yếu được sử dụng là phương pháp Phân tích cơ bản (Phân tích tài chính) và Phân tích kỹ thuật. Phân tích cơ bản giúp cho doanh nghiệp có thể lựa chọn được kết cấu danh mục đầu tư phù hợp. Phân tích kỹ thuật giúp cho các nhà quản lý có thể lựa chọn
  28. được thời điểm và chiến lược mua bán chứng khoán tuỳ theo diễn biến của thị trường. 5.1.2. Phân loại đầu tư chứng khoán Tuỳ theo mục đích quản lý, hoạt động đầu tư chứng khoán có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau. Nếu căn cứ vào loại công cụ đầu tư, có thể phân loại đầu tư chứng khoán thành đầu tư trái phiếu Chính phủ, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và đầu tư cổ phiếu. Việc phân loại này có thể giúp các nhà quản lý xây dựng danh mục đầu tư với mức độ rủi ro phù hợp, trên cơ sở đó, dễ dàng thay đổi kết cấu danh mục đầu tư. Nếu phân loại theo mục đích đầu tư, có thể phân loại đầu tư chứng khoán thành đầu tư nhằm hưởng lợi tức và đầu tư nhằm nắm quyền quản lý, kiểm soát tổ chức phát hành. Trong hoạt động đầu tư nhằm hưởng lợi tức, nhà đầu tư có thể mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu và cổ phiếu do doanh nghiệp phát hành. Khi đầu tư chứng khoán với mục đích nắm quyền sở hữu, nhà đầu tư có thể vừa đa dạng hoá tài sản, vừa phát triển lĩnh vực kinh doanh mới thông qua thâu tóm và sáp nhập. Việc phân loại này giúp cho các nhà quản lý có thể kiểm soát được hoạt động đầu tư theo các mục đích đã được xác định. 5.1.3. Các rủi ro khi đầu tư chứng khoán Có rất nhiều loại rủi ro là nguồn gốc khiến mức sinh lời trong đầu tư chứng khoán không xảy ra đúng như dự đoán của nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong đầu tư chứng khoán người ta thường phân rủi ro thành rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ thị trường hoặc hầu hết các loại chứng khoán. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất v.v., đó là các yếu tố nằm ngoài công ty, không thể kiểm soát được. Rủi ro không hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một chứng khoán hoặc một nhóm nhỏ các chứng khoán. Loại rủi ro này do các yếu tố nội tại của công ty gây ra và nó có thể kiểm soát được. 5.1.3.1. Rủi ro hệ thống - Rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất là khả năng biến động của mức sinh lời do những thay đổi của lãi suất trên thị trường gây ra. Trong thực tế các nhà đầu tư thường coi tín phiếu kho bạc là không có rủi ro, vì vậy lãi suất của tín phiếu thường dùng làm mức chuẩn để xác định lãi suất của các loại trái phiếu công ty có kỳ hạn khác nhau. Quan hệ giữa lãi suất với giá của trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu thường (cổ phiếu phổ thông) là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là luồng thu nhập từ cổ phiếu thường có thể thay đổi theo lãi suất, nhưng ta không thể chắc chắn được sự thay đổi đó là cùng chiều hay ngược chiều với sự thay đổi của lãi suất. Phân tích mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu thường là một vấn đề đòi hỏi nhà đầu tư phải có kinh nghiệm và cần được xem xét theo từng thời kỳ. - Rủi ro thị trường
  29. Rủi ro thị trường là sự thay đổi mức sinh lời do sự đánh giá và ra quyết định của các nhà đầu tư trên thị trường. Trên thị trường, giá cả các loại chứng khoán có thể dao động mạnh mặc dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân là do cách nhìn nhận, phản ứng của các nhà đầu tư có thể khác nhau về từng loại hoặc nhóm cổ phiếu. Các nhà đầu tư thường quyết định việc mua bán chứng khoán dựa vào 2 nhóm sự kiện: Một là nhóm các sự kiện hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội; Hai là nhóm các sự kiện vô hình do yếu tố tâm lý của thị trường. - Rủi ro sức mua Rủi ro sức mua là rủi ro do tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. Yếu tố lạm phát hay giảm phát sẽ làm thay đổi mức lãi suất danh nghĩa và từ đó sẽ tác động đến giá của các chứng khoán trên thị trường. - Rủi ro tỷ giá. Rủi ro tỷ giá là rủi ro do tác động của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi nhà đầu tư cho rằng đồng nội tệ có thể bị giảm giá trong tương lai thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ vì khi đó giá trị chứng khoán sẽ bị giảm. 5.1.3.2. Rủi ro không có hệ thống - Rủi ro kinh doanh: Là rủi ro do sự thay đổi bất lợi về tình hình cung cầu hàng hoá hay dịch vụ của doanh nghiệp hay là sự thay đổi bất lợi môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. - Rủi ro tài chính: Là rủi ro về khả năng thanh toán trái tức, cổ tức và hoàn vốn cho người sở hữu chứng khoán. Rủi ro tài chính liên quan đến sự mất cân đối giữa doanh thu, chi phí và các khoản nợ của doanh nghiệp. - Rủi ro quản lý. Là rủi ro do tác động của các quyết định từ nhà quản lý doanh nghiệp. 5.2. Nội dung phân tích chứng khoán 5.2.1. Phân tích vĩ mô, phân tích ngành và phân tích công ty 5.2.1.1. Phân tích vĩ mô Trong phân tích vĩ mô cần quan tâm đến tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trong phạm vi quốc tế và quốc gia. - Phân tích tình hình kinh tế - chính trị - xã hội quốc tế Môi trường kinh tế quốc tế có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của quốc gia, có những tác động trực tiếp đến hoạt động của thị trường chứng khoán. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, yếu tố quốc tế cần được xem xét trong quá trình phân tích đầu tư chứng khoán. Các vấn đề có tính quốc tế cần lưu ý trong quá trình phân tích chứng khoán là: mức tăng trưởng kinh tế; các vấn đề chính trị nhạy cảm; chính sách bảo hộ; chính sách tự do hoá tài chính; chính sách tiền tệ - Phân tích tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của quốc gia bao gồm: + Môi trường chính trị - xã hội. Môi trường chính trị và xã hội có những tác động nhất định đến hoạt động của TTCK nước đó, thậm chí có thể tác động đến hoạt động TTCK trên phạm vi toàn cầu.
  30. Tình hình chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán. Các yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về Chính phủ và các hoạt động chính trị kinh tế của nhiều nước. Thay đổi chính trị làm cho nhiều quy định và sự kiểm soát của Chính phủ trong một số ngành được thắt chặt và một số quy định trong các ngành khác lại được nới lỏng, từ đó có những tác động lớn tới kết quả kinh doanh của mỗi ngành, mỗi công ty và rất khó có thể khẳng định việc thắt chặt hay nới lỏng này sẽ tạo ra các tác dụng tích cực hay tiêu cực cho nền kinh tế. Môi trường pháp luật cũng là yếu tố cơ bản gây tác động tới thị trường chứng khoán. Các cơ quan Chính phủ tác động đến thị trường chứng khoán bằng Luật và các văn bản dưới Luật. Chẳng hạn, Luật chống độc quyền thường làm giảm giá chứng khoán của các công ty bị thuộc đối tượng bị Luật điều chỉnh. Luật thâu tóm sáp nhập công ty có thể gây tác động tiêu cực hay tích cực đến một nhóm các công ty. Chính sách tài chính - tiền tệ trực tiếp gây tác động lớn tới thị trường .Do vậy, môi trường pháp lý cần được xem xét theo các góc độ như sau: Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; Tính khả thi của hệ thống pháp luật; Tính hiệu quả của hệ thống pháp luật; Tính quốc tế của hệ thống pháp luật; Tính ổn định của hệ thống pháp luật; + Các điều kiện kinh tế vĩ mô. Như trong phần phân tích rủi ro đầu tư chứng khoán đã chỉ rõ: các điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ quyết định rủi ro chung của thị trường (trong lý thuyết đầu tư gọi là rủi ro hệ thống). Rủi ro này tác động đến toàn bộ thị trường, đến tất cả chứng khoán. Đối với các người đầu tư, hay tổ chức phát hành thì đây được coi là yếu tố "khách quan". Các điều kiện kinh tế vĩ mô cần quan tâm trong phân tích chứng khoán là: tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tỷ lệ thất nghiệp; tỷ lệ lạm phát; lãi suất; tỷ giá; mức thâm hụt ngân sách quốc gia; chính sách của Chính phủ trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Tuy nhiên, có 3 nhân tố vĩ mô cơ bản nhất tác động trực tiếp tới các hoạt động đầu tư trên TTCK, đó là tỷ giá hối đoái, lãi suất và tỷ lệ lạm phát. Dưới đây sẽ phân tích cụ thể ảnh hưởng của chúng. Tỷ giá hối đoái: khi nhà đầu tư nhận định rằng đồng nội tệ có thể bị phá giá trong thời gian tới thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ để phòng ngừa giá trị chứng khoán bị sụt giảm. Lạm phát và lãi suất: đây là hai nhân tố rất quan trọng gây ảnh hưởng lớn tới quyết định đầu tư vào TTCK. Như đã nêu trên đây, lãi suất là nhân tố tác động tới mức giá chứng khoán và lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư khi đầu tư vào chứng khoán. Mức lãi suất này lại bị ảnh hưởng của một số nhân tố sau: * Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty: nếu các công ty hoạt động có hiệu quả thì nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh cao hơn; đồng thời sẽ có nhiều doanh nghiệp mới được thành lập. Vì lý do này, sức cầu về vốn cao, do vậy đẩy mức lãi suất vay vốn cao hơn. * Sức chi tiêu của nhân dân: nếu dự đoán về nền kinh tế có triển vọng phát triển tốt thì nhu cầu tiêu dùng ngày hôm nay của dân cư sẽ cao hơn, do vậy họ sẵn sàng đi vay để chi tiêu, dẫn đến lãi suất có thể tăng. + Các dự đoán về tình hình kinh tế và xu hướng thị trường.
  31. Môi trường kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng quyết định xu thế chung của thị trường chứng khoán. Thông thường, khi nền kinh tế đang ở trong giai đoạn tăng trưởng và thịnh vượng thì thị trường chứng khoán phát triển và ngược lại khi nền kinh tế ở trong giai đoạn suy giảm, suy thoái và khủng hoảng thì thị trường sẽ đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán được xu hướng phát triển của nền kinh tế thì ta có dự báo được xu thế phát triển chung của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế cho thấy quan hệ giữa tình hình kinh tế với diễn biến chung của thị trường chứng khoán không phải lúc nào cũng diễn ra cùng chiều và nếu có thì chúng có thể xảy ra theo các chiều hướng và trật tự khác nhau. Thực tế trên các thị trường chứng khoán thế giới cho thấy có những giai đoạn nền kinh tế phát triển rất mạnh nhưng thị trường chứng khoán lại đi xuống và ngược lại. Lấy ví dụ trường hợp thị trường chứng khoán Mỹ năm 1946. Vào thời điểm đó, các điều kiện kinh tế vĩ mô đang rất thuận lợi: Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tăng; Giá cả hàng hoá tăng ổn định; Thu nhập và cổ tức của các tổ chức phát hành đều tăng song khi đó các nhà đầu tư lại tỏ ra bi quan, thời điểm tháng 8 và tháng 9, giá các cổ phiếu sụt giảm mạnh và năm 1946-1947 là năm suy thoái của thị trường chứng khoán Mỹ. Những năm 1985-1986 thì ngược lại, khi đó nền kinh tế Mỹ trở nên khó khăn, nhiều công ty bị phá sản song giá chứng khoán trên thị trường vẫn tăng và thị trường đang ở trong thời kỳ tăng trưởng. Biến động giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động nền kinh tế, đôi khi xảy ra sau. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn cố gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế và chọn thời cơ tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường chứng khoán. 5.2.1.2. Phân tích ngành Bước thứ hai trong quá trình phân tích chứng khoán là phân tích ngành. Phân tích ngành cũng có vai trò quan trọng như phân tích vĩ mô. Nội dung cần phân tích bao gồm: phân tích chu kỳ sống, chu kỳ kinh doanh của ngành, xác định hệ số rủi ro, mức sinh lời (lợi suất) kỳ vọng và các hệ số tài chính của ngành. 5.2.1.3. Phân tích công ty - Phân tích các báo cáo tài chính Phân tích báo cáo tài chính là việc làm quan trọng đối với các nhà đầu tư, mục đích phân tích các báo cáo tài chính là nhằm đánh giá: Khả năng sinh lợi của tổ chức phát hành; Khả năng thanh toán nợ dài hạn; Khả năng thanh khoản, tức là khả năng chi trả các khoản nợ đặc biệt là nợ ngắn hạn; Tiềm năng phát triển trong tương lai. Việc phân tích các báo cáo tài chính cần tiến hành đồng bộ theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân tích báo cáo tài chính theo chiều dọc nghĩa là tính toán các tỷ lệ của doanh nghiệp và so sánh trong từng thời kỳ để thấy được thực chất của việc tăng, giảm. Phân tích theo chiều ngang là phân tích cần có sự so sánh giữa doanh nghiệp phân tích với các doanh nghiệp ngang hàng nhau trong cùng một ngành. Phương tiện cơ bản của các báo cáo tài chính công ty là báo cáo thường niên bao gồm 3 loại báo cáo chính sau: + Bảng cân đối kế toán
  32. + Báo cáo lưu chuyển tiền tệ + Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh - Phân tích rủi ro Phân tích rủi ro tức là phân tích sự biến động của tổng thể các dòng thu nhập của công ty. Thông thường, rủi ro đối với công ty thường được phân tích trên 2 giác độ: Rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro kinh doanh thường được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Ngoài ra, cần phân tích sự biến động của doanh số bán hàng và đòn bẩy tài chính trong phân tích rủi ro kinh doanh. Rủi ro tài chính được hiểu là sự biến động về lợi nhuận của các cổ đông khi doanh nghiệp vay nợ. Để xác định rủi ro tài chính, các nhà phân tích thường sử dụng hai loại hệ số khác nhau. Thứ nhất là các hệ số trên bảng cân đối kế toán và Thứ hai là nhóm hệ số về các dòng thu nhập hoặc dòng tiền để thanh toán các chi phí. Mục đích của các hệ số là chỉ ra khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cũng như cơ cấu vốn và khả năng thanh toán nợ dài hạn của tổ chức phát hành. 5.2.2. Trường phái phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật 5.2.2.1. Trường phái phân tích cơ bản - Một số khái niệm liên quan đến giá trị Thuật ngữ "giá trị" thường được sử dụng trong những hoàn cảnh khác nhau. Giá trị sổ sách: Là giá trị của một tài sản được ghi trong bảng cân đối kế toán của một công ty. Giá trị sổ sách thể hiện chi phí lịch sử của tài sản hơn là giá trị hiện tại của nó. Ví dụ, giá trị sổ sách của cổ phiếu ưu đãi của một công ty là số tiền mà các nhà đầu tư trả cho TCPH lần đầu tiên và vì vậy đó là số tiền mà công ty nhận được khi cổ phiếu được phát hành. Giá trị thanh lý: là lượng tiền thu được nếu bán một tài sản một cách riêng lẻ chứ không xem như là một phần tài sản của công ty đang hoạt động bình thuờng. Ví dụ, nếu một hoạt động của một công ty bị chấm dứt, tài sản của nó được chia ra và bán đi, giá bán sẽ thể hiện giá trị thanh lý của tài sản. Giá trị thị trường của một tài sản là giá của tài sản đó trên thị trường. Giá trị này được xác định bởi cung và cầu trên thị trường, nơi mà người mua và người bán thương thuyết một giá cả chấp nhận chung cho tài sản đang xét. Giá trị thực hay giá trị kinh tế của một tài sản có thể định nghĩa là giá trị hiện tại của những luồng tiền trong tương lai dự tính thu đươc từ tài sản đó, được chiết khấu về thời điểm hiện tại với tỷ lệ lợi tức yêu cầu thích hợp. Giá trị này là lượng tiền mà nhà đầu tư xem là cân bằng trong điều kiện cho trước về số lượng, thời điểm, mức độ rủi ro của những luồng tiền trong tương lai. Một khi nhà đầu tư đã ước tính giá trị thực của một chứng khoán thì giá trị này có thể so sánh với giá trị thị trường của nó sẵn có. Nếu giá trị thực lớn hơn giá trị thị trường, thì chứng khoán này bị định giá thấp dưới con mắt của nhà đầu tư. Nếu giá thị trường vượt quá giá thực thì chứng khoán này được định giá cao. Lưu ý rằng rằng nếu thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả thì giá trị thị trường và giá trị thực của chứng khoán sẽ bằng nhau. Bất cứ lúc nào, khi giá trị thực của một chứng khoán khác với giá thị trường hiện tại, thì sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư để tìm kiếm cơ hội thu lợi nhuận sẽ nhanh chóng đẩy giá thị trường ngược trở lại giá trị thực. Vì vậy, chúng ta
  33. có thể định nghĩa một thị trường có hiệu quả là một thị trường trong đó, giá trị tất cả các chứng khoán tại bất cứ thời điểm nào đều phản ánh đầy đủ tất cả những thông tin công khai sẵn có. Trong một thị trường như vậy, giá trị thị trường và giá trị thực là như nhau. Nếu các thị trường hoạt động có hiệu quả thì sẽ gây khó khăn cho một nhà đầu tư tạo thêm lợi nhuận từ khả năng phán đoán giá, vì giá cả sẽ phản ứng rất nhanh chóng đối với những thông tin mới cập nhật. - Định giá và lựa chọn trái phiếu Việc tìm giá trị của một tài sản được thực hiện theo ba bước: Bước 1: Đánh giá đặc điểm của tài sản bao gồm độ lớn và thời điểm của những luồng tiền dự tính và mức độ rủi ro của những luồng tiền này. Bước 2: Xác định tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư. Tỷ lệ này biểu hiện thái độ của nhà đầu tư trong việc dự toán rủi ro và nhận biết mức độ rủi ro của tài sản. Bước 3: Chiết khấu những luồng tiền dự tính trở về hiện tại với tỷ lệ lợi tức yêu cầu với tư cách là tỷ lệ chiết khấu. - Định giá và lựa chọn cổ phiếu Định giá cổ phiếu cũng dựa trên những nguyên tắc cơ bản của việc định giá tài sản nói chung, bao gồm việc định giá doanh nghiệp phát hành ra chính cổ phiếu đó. Các phương pháp định giá cổ phiếu có thể được xếp thành 3 nhóm chính sau đây: + Nhóm phương pháp chiết khấu luồng cổ tức hoặc luồng tiền; + Nhóm phương pháp dựa trên giá trị tài sản; + Nhóm phương pháp dựa vào hệ số. Ngoài ra còn có phương pháp kết hợp hoặc so sánh căn cứ vào các phương pháp cơ bản nói trên. 5.2.2.2. Trường phái phân tích kỹ thuật Phân tích ký thuật là quá trình nghiên cứu xu hướng lên xuống của thị trường chứng khoán và khuynh hướng lên xuống giá của một loại chứng khoán nhất định để xem xét thời điểm thích hợp cho việc mua bán chứng khoán. - Cơ sở lý thuyết của phân tích kỹ thuật Các nhà phân tích kỹ thuật thường tuân theo một số lý thuyết nhất định để giải thích các xu hướng biến động của thị trường. Lý thuyết DOW Lý thuyết DOW do Charter H.Dow thể hiện qua các bài viết phân tích thị trường chứng khoán của ông và sau đó William P.Hamilton đã kế thừa và tổng luận thành lý thuyết. Lý thuyết này cho rằng giá chứng khoán do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định và chỉ ra sự biến động giá chứng khoán có 3 xu thế cơ bản: Xu thế cấp 1: Xu hướng biến động chính (kéo dài từ 01 năm đến nhiều năm). Xu hướng tăng giá được gọi là thị trường con bò tót, khối lượng giao dịch tăng lên khi giá tăng và giảm khi giá giảm (cứ sau mỗi đợt tăng giá bao giờ cũng có đợt đảo chiều ngắn hạn trước khi có một giai đoạn tăng giá tiếp theo). Xu hướng giảm giá được gọi là thị trường con gấu, khối lượng giao dịch tăng lên khi giá giảm và giao dịch bị ngưng trệ khi giá hồi phục.
  34. Xu thế cấp 2: Trên diễn biến của xu thế cấp 1 có các điểm ngắt quãng đó là xu thế cấp 2. Xu thế này có thể đi ngược chiều với xu thế cấp 1, nhưng nó là sự điều chỉnh của xu thế cấp 1. Xu thế này thường kéo dài tự 3 đến 12 tuần. Xu thế cấp 3: Xu hướng biến động ngắn hạn (khoảng từ vài giờ đến vài ngày) Lý thuyết Dow thường được dùng để xác định thời điểm kết thúc một xu hướng biến động cổ phiếu. Theo lý thuyết Dow, xu hướng biến động chính của thị trường tăng giá là xuất hiện hàng loạt các điểm đỉnh và các điểm đáy cao hơn. Trong thị trường giá giảm, xu hướng biến động chính là những điểm đỉnh và những điểm đáy thấp hơn. Những biến động hàng ngày được coi là không đáng kể. Lý thuyết lô lẻ Giao dịch lô lẻ thường được thực hiện bởi những nhà đầu tư nhỏ. Những người theo lý thuyết lô lẻ hành động trên cơ sở tin rằng những đầu tư nhỏ luôn luôn mua bán không đúng thời điểm, hành động đúng là hành động ngược lại xu thế giao dịch lô lẻ. Khi các nhà giao dịch lô lẻ đang mua vào, những người theo lý thuyết đầu cơ giá xuống (bán ra). Và khi các nhà giao dịch lô lẻ đang bán ra, họ sẽ đầu cơ giá lên (mua vào). Lý thuyết về tổng số hợp đồng bán khống Hợp đồng bán khống ám chỉ số lượng cổ phiếu bán khống và chưa mua được lại. Vì vị thế khống sẽ phải được trang trải bằng việc mua vào cổ phiếu, do vậy một số nhà phân tích tin rằng vị thế khống sẽ tạo lên một áp lực làm giá chứng khoán tăng lên. Tổng số hợp đồng bán khống cao là dấu hiệu thị trường tăng giá và tổng số hợp đồng bán khống thấp báo hiệu thị trường giảm giá. Một thực tế là số lượng hợp đồng bán khống luôn ở mức tương đối thấp làm giảm niềm tin của các nhà đầu tư vào những dự báo mà lý thuyết đưa ra. Lý thuyết chỉ số tin cậy Chỉ số tin cậy Barron là tỉ lệ so sánh về lợi suất giữa các trái phiếu thứ hạng cao và các trái phiếu thứ hạng thấp. Nếu chỉ số tin cậy tăng, các nhà đầu tư sẵn sàng chầp thuận rủi ro và đầu tư vào những trái phiếu có thứ hạng định mức tín nhiệm thấp hơn nhưng có lãi suất cao hơn. Giá cả trái phiếu thứ hạng thấp sẽ tăng lên khi có nhiều người mua. Kết quả là lợi suất của trái phiếu này sẽ giảm. Điều này làm thu hẹp sự chênh lệch giữa trái phiếu có thứ hạng cao và trái phiếu có thứ hạng thấp. Tóm lại, các lý thuyết đưa ra các giả định hỗ trợ cho các nhà phân tích kỹ thuật trong dự đoán xu thế biến động của thị trường như sau: + Thị giá của bất cứ hàng hoá hay dịch vụ nào đều hoàn toàn đựoc xác định bởi mối quan hệ cung cầu. + Cung và cầu được quyết định bởi một số nhân tố, cả logic và phi logic. Những nhân tố này ngoài các biến số kinh tế trong phân tích cơ bản còn bao hàm các yếu tố khác như tâm lý và dự đoán của nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán sẽ phản ánh các nhân tố này một cách đầy đủ và liên tục. + Ngoại trừ một số dao động nhỏ trong ngắn hạn, giá cả các chứng khoán và thị trường nói chúng đều có sự biến động theo các xu thế, các xu thế náy diễn ra trong các khoảng thời gian nhất định. + Các nguyên nhân gây ra các xu thế trội trong giao dịch chứng khoán sẽ được phát hiện nhờ vào phản ứng của thị trường.
  35. Tuy nhiên, các giả định trên đang đặt ra nhiều vấn đề bàn cãi, các nhà phân tích cơ bản và những nhà đầu tư theo trường phái lý thuyết thị trường hiệu quả không đồng ý với các giả định trên. - Vai trò, vị trí của phân tích kỹ thuật trong phân tích đầu tư chứng khoán. Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức đối với cơ sở khoa học của phương pháp, song phương pháp phân tích kỹ thuật cũng có nhiều lợi thế so với phương pháp phân tích cơ bản như: Phương pháp phân tích kỹ thuật không quá phụ thuộc vào các báo cáo tài chính. Trong khi đó các báo cáo tài chính có thể không chứa đựng đầy đủ các thông tin cho việc phân tích. Không mất công sức trong việc xử lí thông tin từ các báo cáo tài chính như các nhà phân tích kỹ thuật, các nhà phân tích kỹ thuật chỉ cần nhận biết được xu thế của thị trường để ra các quyết định đầu tư. Vì vậy, hiện nay phương pháp phân tích kỹ thuật vẫn được sử dụng phổ biến và có vai trò quan trọng trong phân tích đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả trong quá trình đầu tư đòi hỏi các nhà đầu tư phải có sự kết hợp chặt chẽ hai phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật. 5.3. Lãi suất và các vấn đề liên quan đến lãi suất 5.3.1. Lãi đơn, lãi kép và giá trị tương lai Lãi suất là giá cả của khoản cho vay được tính bằng tỷ lệ % trên số tiền cho vay mà người đi vay phải trả cho chủ nợ (người cho vay) để sử dụng số tiền trong một thời gian nhất định. Giá trị tương lai là giá trị có thể nhận được tại một thời điểm trong tương lai bao gồm số vốn gốc và toàn bộ số tiền lãi ở thời điểm đó. Có hai phương pháp tiếp cận là phương pháp lãi đơn và phương pháp lãi kép. - Phương pháp lãi đơn: Số tiền lãi được xác định dựa trên số vốn ban đầu hay gọi là vốn gốc với một lãi suất nhất định. Công thức tính giá trị tương lai. Fn Vo 1 i.n Fn: Giá trị đơn tại thời điểm cuối năm n Vo: Số vốn ban đầu (số vốn gốc) i: Lãi suất của kỳ tính lãi n: Số kỳ tính lãi - Phương pháp lãi kép: Số tiền lãi được xác định dựa trên cơ sở tính gộp số tiền lãi của các thời kỳ trước đó vào vốn gốc để làm căn cứ tính tiền lãi và tính theo một mức lãi suất nhất định Công thức tính giá trị tương lai. FV V 1 i n n o FVn: Giá trị đơn tại thời điểm cuối năm n Vo: Số vốn ban đầu (số vốn gốc) i: Lãi suất của kỳ tính lãi n: Số kỳ tính lãi
  36. Ví dụ Một người gửi tiết kiệm 100000 trong thời hạn 5 năm với lãi suất 4%/ năm theo 2 phương thức tính lãi ở trên. Giải: Số tiền ở cuối năm thứ 5 người đó có thể nhận được: 5 FV5 = 100000(1 + 4%) = 121.670. Nếu số tiền tính theo lãi đơn thì cuối năm người đó nhận được: F5 = 100000(1 + 4%.5) = 120.000. - Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ Chuỗi tiền tệ là một dòng tiền bao gồm các khoản tiền phát sinh ở các thời điểm khác nhau. + Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ đều * Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ đều phát sinh ở cuối mỗi kỳ 0 1 2 3 n-1 n PV PV PV PV PV Với các PV bằng nhau và bằng A thì giá trị tương lai được tính bằng: n n t FVc A 1 i t 1 Trong đó: FV: Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ đều phát sinh ở cuối mỗi kỳ A: Khoản tiền bằng nhau phát sinh ở cuối mỗi kỳ i : Lãi suất t: Thứ tự của các kỳ. 1 i n 1 Hoặc FVc A i * Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ đều phát sinh ở đầu mỗi kỳ n n t 1 FVđ A 1 i t 1 1 i n Hoặc FVđ A 1 i i + Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ không đều nhau Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ không đều nhau phát sinh ở cuối mỗi kỳ n n t FVc PVt 1 i t 1 Giá trị tương lai của chuỗi tiền tệ không đều nhau phát sinh ở đầu mỗi kỳ n n t 1 FV PVt 1 i t 1
  37. 5.3.2. Kỳ hạn tính lãi và giá trị kép Trong trường hợp lãi suất được tính theo năm nhưng người ta lại thực hiện trả lãi làm nhiều kỳ. Lúc đó, giá trị tương lai được xác định theo công thức sau: n*m i FVn V0 1 m Trong đó: FVn: Giá trị tương lai ở cuối năm thứ n Vo: Giá trị gốc i: Lãi suất tính theo năm n: Số năm m: Số lần tính lãi trong năm 5.3.3. Giá trị hiện tại 5.3.3.1. Giá trị hiện tại của một khoản tiền trong tương lai Xem xét trên quan điểm kinh doanh mỗi đồng vốn bỏ ra phải không ngừng vận động và không ngưng sinh lời có thể thấy, một đồng tiền thu được tại một thời điểm tròng tương lai nhỏ hơn một đồng tiền có ở hiện tại. Sự khác nhau đó chính là ở chỗ, giữa chúng có yếu tố thời gian và sự rủi ro. Để đánh giá một cách xác đáng về các khoan thu trong tương lai người ta có thể sử dụng phương pháp tính đổi gía trị của một đồng tiền thu được ở thời điểm trong tương lai về giá trị tại thời điểm hiện tại. giá trị tính đổi về hiện tại của một đồng tiền thu được trong tương lai được gọi là giá trị hiện tại của đồng tiền đó. Để tính đổi giá trị của một đồng tiền trong tương lai về giá trị hiện tại cần sử dụng một lãi suất như một công cụ để chiết khấu giá trị theo thời gian, lãi suất đó được gọi là lãi suất chiết khấu hay tỉ suất tiện tại hoá giá trị. Có thể xem xét một thí dụ đơn giản sau: một người hiện tại có 1 đồng và cho vay sẽ được trả với lãi suất i một năm và như vậy, sau 1 năm người đó sẽ có số tiền là 1+i đồng. Điều đó cũng có nghĩa là giá trị hiện tại của khoản tiền 1+i đồng là 1 đồng. Vậy, nếu sau 1 năm sẽ thu được 1 đồng thì giá trị hiện tại của nó là: Từ đó, có thể rút ra giá trị hiện tại của 1 khoản tiền thu được tại một thời điểm trong tương lai bằng công thức tông quát: 1 PV FVn * n 1 i Hay PV FVn *P i,n Trong đó: PV: Giá trị hiện tại của khoản tiền thu được ở cuối kỳ thứ n trong tương lai FVn: Giá trị khoản thu tại thời điểm cuối kỳ thứ n trong tương lai i: Tỷ lệ chiết khấu n: Số kỳ chiết khấu Như vậy, giá trị hiện tại của một khoản tiền thu được tại một thời điểm trong tương lai là giá trị của khoản tiền đó được tính về hiện tại bằng cách dựa vào một lãi suất chiết khấu nhất định.
  38. Tuỳ theo trường hợp cụ thể, để lựa chọn một lãi suất chiết khấu thích hợp. Phương pháp tính như trên được gọi là phương pháp hiện tại hoá giá trị hay phương pháp chiết khấu giá trị. Xem xét công thức nêu trên có thể rút ra: - Thời điểm nhận được khoản tiền càng xa thời điểm hiện tại thì giá trị hiện tại của nó càng nhỏ. Tỷ suất hiện tại hoá hay lãi suất chiết khấu càng lớn thì giá trị hiện tại của khoản tiền càng nhỏ. 5.3.3.2. Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ không đều nhau trong tương lai - Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ không đều nhau trong tương lai phát sinh ở cuối mỗi kỳ. Trong thực tế, hiện tượng thường gặp là phát sinh nhiều khoản tiền nhận được ở các thời điểm khác nhau trong tương lai. Giá trị hiện tại của các khoản tiền khác nhau nhận được ở các thời điểm khác nhau trong tương lai có thể xã định bằng công thức sau: n 1 PV FV * co  t t t 1 1 i n Hay PVco FVt *P i,t t 1 Trong đó: PVcp: Giá trị hiện tại của các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ. FV1, FV2, , FVn: Giá trị các khoản tiền ở cuối kỳ các thời điểm khác nhau trong tương lai(ở cuối mỗi kỳ). i: Lãi suất chiết khấu của kỳ chiết khấu. - Giá trị hiện tại tại của chuỗi tiền tệ không đều nhau trong tương lai phát sinh ở đầu mỗi kỳ: Được xác định theo công thức: n 1 PV FVt * t 1 t 1 1 i Trong đó: PV: Giá trị hiện tại các khoản tiền phát sinh ở cuối mỗi kỳ i: Lãi suất chiết khấu của kỳ chiết khấu FVt: Giá trị khoản tiền ở cuối thời điểm khác nhau trong tương lai 5.3.3.3. Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ đều nhau - Giá trị hiện tại của chuỗi tiền tệ đều nhau phát sinh ở cuối mỗi kỳ: Trong trườn hợp ở cuối các thời điểm khác nhau trong tương lai đều phát sinh các khoản tiền như nhau thì giá trị hiện tại của các khoản tiền đó có thể được xác định bằng công thức tổng quát: FV1 FV2 FVn PVc 2 n 1 i 1 i 1 i