Tài liệu về môn học Kinh tế quốc tế

pdf 80 trang vanle 2990
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu về môn học Kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_ve_mon_hoc_kinh_te_quoc_te.pdf

Nội dung text: Tài liệu về môn học Kinh tế quốc tế

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA - QUAN HỆ DOANH NGHIỆP THS. TRẦN THỊ HOÀNG MAI ===  === KINH TẾ QUỐC TẾ VINH, NĂM 2011 =  = 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA - QUAN HỆ DOANH NGHIỆP TH.S TRẦN THỊ HOÀNG MAI ===  === KINH TẾ QUỐC TẾ (Giáo trình đào tạo từ xa) VINH, NĂM 2011 =  = 2
  3. CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI Xin chào các Anh/chị học viên! Chúng tôi rất hân hạnh được gặp các Anh/chị trong môn Kinh tế quốc tế. Chương 1 sẽ nghiên cứu những lý thuyết về nền kinh tế thế giới, các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới. Những lý thuyết này không chỉ cung cấp cho người học những kiến thức quan trọng mà còn liên hệ với những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam nhằm phát triển kinh tế đối ngoại, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặc biệt là trong giai đoạn nền “kinh tế mở” hiện nay. Chương 1 gồm các nội dung sau: 1. Nền kinh tế thế giới và cơ cấu nền kinh tế thế giới 2. Nền kinh tế thế giới hiện đại 3. Cơ sở hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế 4. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế đối ngoại Mục tiêu chung Sau khi học xong chương này, học viên sẽ hiểu được những vấn đề về khái niệm và các vấn đề liên quan đến nền kinh tế thế giới, nền kinh tế thế giới hiện đại và các quan hệ kinh tế quốc tế. Từ đó, Học viên có thể nắm được các xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới hiện nay và liên hệ với thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế đối ngoại – một trong những mục tiêu quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu cụ thể Sau khi học xong Chương 1, Học viên sẽ: - Nắm vững các khái niệm về nền kinh tế thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế, - Hiểu được cơ cấu, cơ sở hình thành và phát triển, tính chất của nền kinh tế thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế - Hiểu được khái niệm về các nước công nghiệp phát triển cao, các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển dưới góc độ môn học Kinh tế quốc tế. - Nắm vững xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới liên hệ với các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại, từ đó có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm phát triển kinh tế đối ngoại, phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội quốc gia. 1.1. NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ CƠ CẤU NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI Giới thiệu Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự mở rộng của nhu cầu xã hội, các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, việc nghiên cứu các nội dung liên quan đến nền kinh tế thế giới đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong mục này chúng ta sẽ nghiên cứu các nội dung của nền kinh tế thế giới, cơ 3
  4. cấu nền kinh tế thế giới, nền kinh tế thế giới hiện đại với những xu hướng vận động của nó do tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Nội dung Phần này trình bày các vấn đề cơ bản về nền kinh tế thế giới như khái niệm, cơ cấu của nền kinh tế thế giới. Đây cũng là những kiến thức cơ bản liên quan đến phương pháp luận nghiên cứu và phân tích bản chất của các quan hệ kinh tế quốc tế. Ngoài ra, còn trình bày các xu thế lớn của sự vận động của nền kinh tế thế giới hiện đại. Trên cơ sở đó có thể dự báo về tương lai của nền kinh tế thế giới và việc điều chỉnh chính sách của các quốc gia để có thể thích nghi có hiệu quả với xu thế lớn của nền kinh tế thế giới hiện đại. 1.1.1 Khái niệm Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua phân công lao động quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động quốc tế và của việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Nền kinh tế thế giới là một thực thể kinh tế đặc thù, duy nhất, có cơ cấu nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ quan hệ với những phạm vi hoạt động khác nhau, được cấu thành bởi nhiều bộ phận đa dạng, không ngừng vận động và tác động lẫn nhau cả về mặt lượng và mặt chất. 1.1.2 Cơ cấu nền kinh tế thế giới - Về mặt hệ thống, nền kinh tế thế giới bao gồm các chủ thể kinh tế quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế. Các chủ thể kinh tế quốc tế ra đời trên cơ sở sự tách biệt về sở hữu và địa vị pháp lý trong các quan hệ kinh tế quốc tế, bao gồm: + Các nền kinh tế quốc gia độc lập và các vùng lãnh thổ: là bộ phận chủ thể đầy đủ nhất về các mặt kinh tế, pháp lý và chính trị, thực hiện việc ký kết các hiệp định kinh tế, văn hoá và khoa học công nghệ giữa 2 quốc gia hay từng nhóm quốc gia, theo các điều khoản của công ước quốc tế. Căn cứ vào trình độ phát triển, các chủ thể này thường được chia thành các nước phát triển, các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển. + Các chủ thể kinh tế ở cấp độ quốc gia: Đây là những công ty, xí nghiệp hoặc đơn vị kinh doanh tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế thông qua các hợp đồng thương mại, đầu tư trong khuôn khổ các hiệp định được ký kết giữa các quốc gia; do đó mức độ tham gia của các chủ thể này thường thấp hơn và có phạm vi hẹp hơn. + Các chủ thể ở cấp độ quốc tế: Đây là các tổ chức quốc tế có địa vị pháp lý rộng hơn cấp quốc gia, xuất hiện do quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế và sự phát triển của liên kết kinh tế quốc tế. Ví dụ như: Liên hợp quốc và các tổ chức chuyên môn của liên hợp quốc, các liên kết kinh tế quốc tế khu vực (ASEAN, EU, NAFTA, ) các hiệp hội ngành hàng (hiệp hội cà phê thế giới, hiệp hội chè thế giới ), + Các công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia và công ty siêu quốc gia: 4
  5. Công ty xuyên quốc gia là những công ty có trụ sở chính ở một quốc gia nào đó nhưng mạng lưới hoạt động được mở rộng sang nhiều quốc gia khác Các công ty này thường có tiềm lực kinh tế lớn, giữ vai trò chi phối một lĩnh vực thị trường liên quan đến nhiều quốc gia, do đó có thể vượt ra khỏi tầm kiểm soát của một chính phủ. Công ty đa quốc gia là các công ty mà vốn của nó thuộc sở hữu của các doanh nghiệp hoặc cá nhân thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, do đó phạm vi hoạt động kinh doanh của nó cũng diễn ra ở trên lãnh thổ nhiều quốc gia khác nhau. Công ty siêu quốc gia là những công ty mà tầm hoạt động của nó vượt ra ngoài lãnh thổ của một quốc gia, có sức mạnh kinh tế và tầm ảnh hưởng lớn đến nỗi người ta không quan tâm đến việc hình thành và tổ chức bộ máy của nó. Các loại công ty nói trên được coi là một loại chủ thể kinh tế quốc tế đặc biệt và quan trọng vì nó chiếm tỷ trọng lớn trong các hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ. * Các quan hệ kinh tế quốc tế: là bộ phận cốt lõi của nền kinh tế thế giới, ra đời trên cơ sở phát triển các hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ, tài chính và tín dụng quốc tế với các nội dung ngày càng phong phú và đa dạng. Các quan hệ kinh tế quốc tế thường bao gồm: + Các quan hệ về di chuyển quốc tế hàng hoá và dịch vụ: là việc trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia, thường gọi là hoạt động thương mại quốc tế. + Các quan hệ về di chuyển quốc tế vốn tư bản: là việc các nguồn vốn được đưa từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm thực hiện các hoạt động đầu tư, thường gọi là hoạt động đầu tư quốc tế. + Các quan hệ về di chuyển quốc tế sức lao động: là việc di cư tạm thời một bộ phận dân cư của quốc gia này sang quốc gia khác nhằm điều chỉnh quan hệ cung cầu về sức lao động theo trình độ chuyên môn khác nhau giữa các quốc gia, thường gọi là hoạt động xuất nhập khẩu sức lao động. + Các quan hệ về di chuyển quốc tế các phương tiện tiền tệ: là việc di chuyển các loại tiền, kim khí quý, các giấy tờ có giá trị như trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu giữa các quốc gia để thực hiện các hoạt động như thanh toán quốc tế, đầu tư quốc tế, tín dụng quốc tế Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự mở rộng của nhu cầu xã hội, các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Đây chính là yếu tố cốt lõi tạo nên trình độ phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thế giới là một thực thể thống nhất hữu cơ của hai bộ phận nói trên, vận động theo những quy luật khách quan của quá trình phân công lao động quốc tế, của hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế. Cơ cấu của nền kinh tế thế giới biến đổi gắn liền với các cuộc cách mạng công nghiệp. Ngày nay, xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá đang làm các mối quan hệ kinh tế thế giới trở nên đa dạng và phức tạp hơn. - Theo trình độ phát triển kinh tế, nền kinh tế thế giới được chia thành 3 nhóm quốc gia: 5
  6. + Các nước công nghiệp phát triển cao: là những nước đã hoàn thành quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân, đạt được cơ cấu kinh tế hiện đại và có mức GDP bình quân đầu người một năm hàng chục ngàn USD (ví dụ như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Italia, ). + Các nước đang phát triển: chiếm đại bộ phận số lượng các quốc gia trong nền kinh tế thế giới, đang tiến hành công nghiệp hóa đất nước và bước đầu cũng đạt được những kết quả nhất định trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Theo số liệu thống kê của Liên hợp quốc, thế giới hiện đang có khoảng 140 quốc gia đang phát triển. Trong đó, một số nước đạt được thành công với sự tăng trưởng kinh tế cao trong những thập kỷ gần đây và được xếp thành nhóm các nước công nghiệp mới (NICs), đó là: Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan. + Các nước chậm phát triển (LCDs): là các quốc gia do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và tự nhiên không thuận lợi nên mặc dù đã giành được độc lập dân tộc nhưng vẫn ở tình trạng nghèo đói và có tốc độ phát triển kinh tế thấp. Số liệu của Liên hợp quốc cho biết, số nước LDCs đã tăng gấp đôi kể từ khi thể chế đa phương này phân loại các nước năm 1971, trong đó châu Phi có 33 nước, châu Á và Thái Bình Dương: 15 nước và Mỹ La-tinh: 1 nước. Từ năm 1971 đến nay, mới chỉ có 3 nước là Bốt-xoa-na và Cáp-ve và Mau-ri-ti-út được ra khỏi danh sách này. - Theo hệ thống kinh tế - xã hội, nền kinh tế thế giới có thể chia thành 3 hệ thống: hệ thống kinh tế TBCN, hệ thống kinh tế XHCN và hệ thống kinh tế của các nước thuộc thế giới thứ ba. Tuy nhiên, sự phân chia này ngày nay chỉ mang tính chất tương đối và ý nghĩa chính trị là chủ yếu do sự biến đổi và sự đan xen giữa các mô hình kinh tế xã hội khác nhau đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Ngoài ra, kết cấu của nền kinh tế thế giới còn được xem xét theo nhiều tiêu thức khác nhau như theo khu vực địa lý, theo trình độ công nghệ, theo đặc điểm dân tộc - văn hóa - lịch sử 1.1.3 Các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới Nền kinh tế thế giới ban đầu chỉ là những mối quan hệ buôn bán có tính chất tự nhiên giữa các quốc gia, phân công lao động quốc tế còn mang tính tự phát, dựa trên sự khác biệt về điều kiện tự nhiên. Từ sau phát kiến địa lý vĩ đại của Christoph Colombo tìm ra Châu Mỹ năm 1492, sự giao thương giữa quốc gia được đẩy mạnh, hình thành nên các trung tâm thương mại quốc tế lớn trên thế giới. Phân công lao động quốc tế đã dần chuyển từ tự phát sang tự giác trên cơ sở lợi thế so sánh của từng quốc gia. Cơ cấu sản xuất và trao đổi quốc tế dần thay đổi dưới tác động của các cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN). CMCN lần 1 (1820-1870) đã thúc đẩy giao thông vận tải phát triển nhanh chóng, công thương nghiệp được mở rộng và hình thành nên một thị trường thế giới rộng lớn. CMCN lần 2 (1870-1913) đã làm cho các ngành điện lực, hóa chất, luyện kim phát triển nhanh tạo nên những thay đổi cơ bản trong thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế được đẩy mạnh và các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng bền vững hơn. Đây là thời kỳ nền kinh tế thế giới xuất hiện, một thực thể thống nhất hữu cơ bao gồm cả hoạt động sản xuất, buôn bán, đầu tư, tài chính – tín dụng diễn ra giữa các quốc gia chủ đạo và các khu vực kinh tế chủ yếu trên thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần 3 (1913-1950) làm xuất hiện và phát triển nhanh chóng các ngành năng lượng, hạt nhân, hóa dầu, công nghệ vũ trụ và khai thác 6
  7. đáy đại dương, tin học, công nghệ sinh học do đó đầu tư và buôn bán quốc tế được đẩy mạnh, đưa nền kinh tế thế giới về cơ sở vật chất – kỹ thuật phát triển lên một tầm cao mới. Hiện nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần 4 đang diễn ra theo các xu hướng chủ yếu như phát triển ngành vi điện tử, tin học, thông tin viễn thông và tự động hóa, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học đưa đến sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Cuộc cách mạng công nghiệp này đã đưa xã hội loài người bước sang một nền văn minh mới – nền văn minh thứ ba - hậu công nghiệp. 1.1.4 Nền kinh tế thế giới hiện đại 1.1.4.1 Đặc điểm của nền kinh tế thế giới hiện đại a) Sự bùng nổ của khoa học công nghệ Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã làm thay đổi về chất nền kinh tế thế giới. Liên tục có các phát minh đột phá trong các lĩnh vực tin học, sinh học, vũ trụ học, hải dương học, năng lượng, vật liệu, Nền kinh tế tri thức được hình thành – là một nền kinh tế mà dựa vào tri thức con người là chủ yếu thay vì dựa vào các yếu tố sản xuất truyền thống là sức lao động và vốn. Sự phát triển nền kinh tế tri thức cơ cấu kinh tế thế giới thay đổi. Trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, công nghệ thông tin có một bước phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ nhất. Hiện nay, công nghệ thông tin đã được ứng dụng rộng rãi trong mọi mặt hoạt động của con người, từ sản xuất đến đời sống, từ kinh tế đến xã hội, từ công nghiệp đến dịch vụ. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã thu hẹp khoảng cách giữa các quốc gia, do đó nó còn được coi là một phương tiện hay một công cụ để thực hiện quá trình toàn cầu hoá. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, một mặt thúc đẩy nền kinh tế thế giới tăng trưởng, tạo ra cơ hội cho những nước mạnh về tri thức nhưng cũng có thể đào sâu thêm sự bất bình đẳng về kinh tế, đặt những nước chậm phát triển trước nhiều thách thức mới và nguy cơ tụt hậu so với các nước phát triển. b) Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới Quá trình quốc tế hoá kinh tế thế giới ngày nay diễn ra với qui mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng cao trong tất cả các lĩnh vực. Thông qua các hoạt động như thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ, mối quan hệ giữa các quốc gia ngày càng phát triển. Nền kinh tế thế giới trở thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận không tách rời và tuỳ thuộc lẫn nhau. Quá trình quốc tế hoá kinh tế thế giới hiện nay thể hiện rõ nét ở xu hướng toàn cầu hoá. Xét về bản chất, toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự tác động và phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các nước và các khu vực. Thực chất của toàn cầu hoá kinh tế là tự do hoá kinh tế, mà trước hết là tự do hoá thương mại, đầu tư, tài chính Do đó, quá trình toàn cầu hoá đem đến cho các quốc gia cơ hội phát triển kinh tế, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiếp cận với các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế cũng đồng thời tạo ra những thách thức lớn cho các quốc gia như các rủi ro kinh tế hay nguy cơ khủng hoảng tăng lên, mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội, sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo giữa các nước phát triển so với các nước đang phát triển. 7
  8. c) Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại và không ổn định Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, sự phát triển của kinh tế thế giới có thể chia thành bốn thời kỳ: + Giai đoạn 1945-1950: Thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai. + Giai đoạn 1950-1970: Thời kỳ kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh + Giai đoạn 1970-1980: Thời kỳ kinh tế thế giới phát triển chậm chạp và bất ổn. + Giai đoạn từ 1980 đến nay: Thời kỳ điều chỉnh, cải cách và chuyển đổi nền kinh tế. Sự phân chia trên cho thấy rõ tình hình phát triển của kinh tế thế giới trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX. Sau khi nền kinh tế thế giới đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong lịch sử, GDP tăng bình quân 5,9%/năm trong những năm 50, 60, nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn giảm sút từ đầu những năm 70 đến nay. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm tốc độ tăng trưởng, các quốc gia, khu vực trên thế giới đều đi tìm con đường điều chỉnh và cải cách thể chế kinh tế. - Các nước công nghiệp phát triển xúc tiến điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô, giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, tăng cường tác dụng của cơ chế thị trường. - Các nước đang phát triển tiến hành điều chỉnh và cải cách thể chế xí nghiệp, chủ yếu là tăng cường “phi quốc hữu hóa” và áp dụng cơ chế kinh doanh xí nghiệp. - Các nước trong thời kỳ chuyển đổi nhấn mạnh quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch truyền thống sang kinh tế thị trường. Như vậy, làn sóng cải cách kinh tế đã lan rộng khắp thế giới, làm mạnh thêm thể chế kinh tế thị trường, phát triển kinh tế thị trường trở thành trào lưu lịch sử, đồng thời là xu hướng của thế giới. Nền kinh tế kế hoạch tập trung cứng nhắc của các nước XHCN trước đây đã không còn phù hợp, do đó hầu hết các nước này đã chuyển sang nền kinh tế thị trường và đã đạt được những thành công nhất định. Điển hình là Trung Quốc và Việt Nam. Từ sau cải cách kinh tế năm 1978 tới nay Trung Quốc vẫn là nước đứng đầu về tốc độ tăng trưởng kinh tế với tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm đạt trên 9%. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới năm 1986 đã đưa nước ta vượt qua giai đoạn lạm phát cao, ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá hối đoái. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá trong nhiều năm liền, đời sống của người dân đã từng bước được nâng lên. Việt Nam đã và đang chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới với mục tiêu trở thành nền kinh tế công nghiệp vào năm 2020. Năm 1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á đã làm cho tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế năng động Đông Á giảm sút, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, năm 2000, kinh tế châu Á đã hồi phục với mức tăng trưởng 6,7% nhờ vào tăng trưởng xuất khẩu, nhu cầu nội địa và các chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý. Kinh tế Mỹ cũng đạt tốc độ tăng trưởng ấn tượng là 5,2%; EU là 3,4% trong năm 2000, nhờ đó tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2000 đạt gần 4,0%. Tuy nhiên, sự kiện 11/9 đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới giảm hẳn, chỉ còn 1,3% năm 2001 và 2,0% năm 2002. Nỗ lực của chính phủ các nước trong việc gia tăng chi tiêu, kiềm chế lạm phát cùng các chính sách kinh tế hiệu quả đã góp phần tạo nên sự phục hồi của kinh tế thế giới năm 2003 với tốc độ tăng 8
  9. trưởng là 3,2% và năm 2004 là 4,5%. Tuy nhiên, khủng hoảng tín dụng Mỹ năm 2007, kéo theo sự sụp đổ của đế chế Lehman Brothers, cùng khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009 đã làm cho kinh tế thế giới suy giảm nặng nề. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới cho đến nay đã được kiểm soát nhờ các biện pháp can thiệp tích cực và kịp thời của các ngân hàng trung ương và chính phủ. Chính vì thế, nền kinh tế toàn cầu đã dần hồi phục vào cuối năm 2009. Năm 2010, tăng trưởng kinh tế toàn cầu ước đạt 3,9%, trong đó các nước đang phát triển tiếp tục là nhóm có mức tăng trưởng cao nhất trong năm 2010 (7%) gấp hơn 2 lần so với khối các nước phát triển (2,8%). d) Thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài phát triển mạnh Thương mại quốc tế đang tăng lên nhanh chóng cả về thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ với quy mô không ngừng mở rộng. So với năm 1950, tổng khối lượng thương mại thế giới năm 1999 đã tăng lên 17 lần, trong khi đó tổng sản lượng của thế giới chỉ tăng hơn 5,5 lần, còn tỷ lệ xuất khẩu của thế giới trong GDP đã tăng từ 7% lên 15%. Trong khoảng 10 năm, từ 1987 đến 1997, tổng khối lượng thương mại thế giới đã tăng lên gấp hai lần. Đặc biệt với sự phát triển của công nghệ thông tin, thương mại dịch vụ thậm chí còn tăng nhanh hơn so với thương mại hàng hoá. Xuất khẩu dịch vụ của thế giới đã tăng từ 392 tỷ USD năm 1980 lên 1.400 tỷ USD năm 1997, chiếm tới 1/4 tổng xuất nhập khẩu hàng hóa của thế giới năm 1999. Trong ba thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, tốc độ tăng trưởng của thương mại thế giới cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng trưởng sản xuất thế giới. Những năm 70, tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới là 5,8%/năm, cao hơn 1,5 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Những năm 80, chỉ số này là 6,0%/năm, cao gấp hai lần tăng trưởng kinh tế thế giới và những năm 90, tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới là 7,0%/năm, hơn 2,5 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008, nhu cầu giảm sút mạnh, đặc biệt là ở các nước phát triển, đã tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại thế giới. 9
  10. Tổng hoạt động thương mại toàn cầu năm 2009 giảm 14,4% so với năm 2008. Bên cạnh giảm sút nhu cầu, giá cả hàng hóa giảm cũng là một nguyên nhân nữa làm giảm hoạt động thương mại. Giá hàng hóa không phải là năng lượng giảm 21,6% so với năm 2008. Giá dầu mỏ bình quân trong năm 2009 cũng thấp hơn các năm trước đó và giảm 36,3% so với năm 2008. Ngoài ra, giá trị trên một đơn vị hàng sản xuất xuất khẩu trên thế giới cũng giảm 4,9% so với năm 2008. Bảng 2: Giá cả và thương mại thế giới (% thay đổi) Ngày 7/4/2011, trong phân tích triển vọng kinh tế thế giới, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự báo thương mại toàn cầu trong năm 2011 sẽ tăng trưởng 6,5% so với năm ngoái. Tốc độ tăng trưởng này cao hơn mức tăng trưởng trung bình 6% của thương mại toàn cầu trong các năm từ 1990 đến 2008, nhưng thấp hơn tốc độ tăng trưởng ngoạn mục, tới 14,5%, của thương mại toàn cầu trong năm 2010, phần lớn là nhờ sự phục hồi từ mức suy giảm 12% trong năm 2009. Mặc dù thương mại đã giúp nền kinh tế toàn cầu thoát khỏi khủng hoảng năm 2009, tuy nhiên, nhiều nước giàu vẫn đang phải nỗ lực để vượt qua những "di chứng" của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tỷ lệ thất nghiệp cao ở các nền kinh tế phát triển cùng với chính sách “thắt lưng buộc bụng” ở châu Âu đang làm tăng nguy cơ bùng phát chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, làm cho môi trường thương mại toàn cầu kém hấp dẫn. Các nền kinh tế lớn đã tăng thuế và đưa ra một số biện pháp phi thuế quan mới để đối phó với sự giảm sút về sản xuất trong một số ngành công nghiệp. Ngoài ra, nhiều nước cũng đưa ra các biện pháp hỗ trợ hoặc trợ cấp cho các ngành công nghiệp trong nước. Những biện pháp này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động thương mại toàn cầu và gia tăng những sức ép trong nước, chẳng hạn như tình trạng thất nghiệp. Theo số liệu thống kê của WTO công bố ngày 01/6/2011, tổng trị giá thương mại hàng hóa của toàn thế giới trong quý I năm 2011 tăng mạnh 22% so với cùng kỳ năm 2010. 10
  11. Hình 1: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa toàn cầu từ quý I/2008 đến quý I/2011 Đơn vị: Nghìn tỷ USD Nguồn: WTO Cũng theo WTO, căn cứ trên số liệu thống kê hàng tháng sẵn có của 70 nền kinh tế lớn trên thế giới (chiếm hơn 90% thương mại toàn cầu) cho thấy giá trị thương mại hàng hóa tăng mạnh trong tháng 3 năm 2011. Đây là lần đầu tiên trị giá thương mại toàn cầu ở mức cao so với mức đỉnh điểm đạt được trong thời kỳ trước khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ tháng 7/2008. Hình 2: Giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa theo tháng của 70 nền kinh tế, 2008- 2010 Đơn vị: Nghìn tỷ USD Ghi chú: Nhập khẩu tính theo giá CIF và xuất khẩu tính theo giá FOB. Nguồn: WTO Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, đầu tư nước ngoài cũng tăng nhanh. Theo thống kê của UNCTAD, tổng mức đầu tư nước ngoài trên thế giới năm 1967 là 112,4 tỷ USD, năm 1983 là 600 tỷ USD, năm 1990 là 1.700 tỷ USD và năm 1999 tăng tới hơn 4.000 tỷ USD. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng 2008-2009 đã tác 11
  12. động mạnh mẽ đến dòng FDI. Sau khi giảm 17% trong năm 2008 xuống còn 1.720 tỷ USD, so với mức 2.080 tỷ của năm 2007, trong năm 2009, FDI toàn cầu tiếp tục giảm khoảng 41% xuống còn 1.000 tỷ USD. Sự suy giảm này cho thấy nguồn tín dụng sẵn có giảm, mức độ suy thoái nghiêm trọng ở các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển cũng như việc né tránh rủi ro trên quy mô rộng của các nhà đầu tư. Theo số liệu trong nghiên cứu mới nhất của UNCTAD, năm 2010, tổng đầu tư FDI toàn cầu đạt 1.300 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2009, trong đó đầu tư từ các công ty của các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi đạt gần 380 tỷ USD, chiếm 28%. Tổng đầu tư FDI toàn cầu tuy đã phục hồi, nhưng vẫn thấp hơn 10% so với mức trước khủng hoảng và thấp hơn tới 40% so với mức đỉnh điểm của năm 2007. Tuy nhiên, tổng đầu tư FDI từ các công ty của các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi đã tăng 23% so với năm 2009 và gấp đôi so với năm 2007. Do sự phục hồi kinh tế ở châu Á và Mỹ Latin mạnh mẽ hơn các nền kinh tế phát triển ở phương Tây, mô hình đầu tư FDI năm 2010 cũng đã thay đổi. Trên 70% các dự án đầu tư FDI vào các nước đang phát triển đến từ các nước đang phát triển khác. Trong khi FDI của các công ty Mỹ tăng khoảng 30% (đạt 325 tỷ USD), vẫn dẫn đầu thế giới theo truyền thống thì FDI của Anh, trước đây là một trong số ít nước dẫn đầu về FDI, lại giảm tới 44%, tương đương với mức FDI của nước này 18 năm về trước. Ngoài ra, tính quốc tế hóa cao của nền kinh tế thế giới được tăng cường với vai trò ngày càng lớn của các công ty xuyên quốc gia (TNC). Các TNC thực hiện chiến lược kinh doanh toàn cầu với ưu thế to lớn là có khả năng tiến hành hợp lý hơn việc phân bổ các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu, thực hiện cách quản lý kinh doanh khoa học cao độ, từ đó giảm tới mức tối đa giá thành sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Quy mô kinh doanh, mức đầu tư trực tiếp nước ngoài, lĩnh vực hoạt động của các TNC đều không ngừng mở rộng, trình độ “quốc tế hóa” tăng lên. Những năm cuối của thế kỷ XX, các TNC đang bắt đầu hình thành các liên minh chiến lược kiểu mới. Đứng trước sức cạnh tranh, làn sóng tự do hóa và mở cửa các lĩnh vực đầu tư mới, ngày càng nhiều xí nghiệp, kể cả xí nghiệp của các nước đang phát triển, tham gia vào hoạt động toàn cầu hóa kinh tế, tạo thành liên minh thông qua việc sáp nhập, thôn tính và mua lại để thiết lập ở nước ngoài các cớ sở sản xuất của mình. Năm 12
  13. 1971 tỷ trọng của các TNC trong công nghiệp thế giới là 23%, năm 1980 tăng lên 28%; đến thập niên 90 đã vượt quá 30%. Hiện nay, thương mại bên trong các TNC và thương mại giữa các TNC với nhau chiếm khoảng 2/3 thương mại thế giới; trên 4/5 đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên thế giới do các TNC tiến hành; trên 9/10 thành quả nghiên cứu và triển khai kỹ thuật trên thế giới nằm trong tay các TNC. e) Liên kết kinh tế theo khu vực trở thành mô hình chủ yếu Nửa sau thế kỷ XX, với tính chất phát triển không đều của CNTB, nền kinh tế thế giới đã có nhiều biến động lớn. Một mặt, hiệu quả điều tiết vĩ mô của nhà nước chỉ phát huy tác dụng trong phạm vi của từng quốc gia. Mặt khác, sức mạnh điều tiết đối với thị trường toàn cầu, nhất là đối với thị trường vốn, của các tổ chức quốc tế vẫn còn chưa được thực hiện đầy đủ. Kết quả là tính tự do của cơ chế thị trường, cũng như tầm tác động của thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế đã vượt ra khỏi khuôn khổ điều tiết cục bộ của từng quốc gia và gây ra nhiều biến động lớn cho nền kinh tế thế giới. Trước tình hình đó, ngay cả nước có nền kinh tế phát triển nhất như Mỹ hay các tổ chức tài chính - tiền tệ như IMF, WB, ADB cũng tỏ ra hoàn toàn bất lực trước những rủi ro, biến động thị trường, hoặc những vấn đề toàn cầu khác. Do vậy, cần có sự đồng thuận và hợp tác của các nước trong khu vực, cũng như cộng đồng quốc tế. Đó là chưa kể đến việc phải đối phó với sự cạnh tranh khốc liệt trên quy mô thị trường toàn cầu. Bởi vậy, muốn tạo ra một môi trường an toàn, anh ninh về kinh tế, nhằm tăng cường sức mạnh để tồn tại và phát triển, những nước có điều kiện gần gũi về địa lý, đã liên kết với nhau theo khu vực có tính địa - chiến lược về mặt kinh tế. Kết quả là quá trình khu vực hóa kinh tế cũng đã hình thành và phát triển mạnh mẽ. Trong vòng 50 năm qua, 214 hiệp định thương mại khu vực đã được ký kết giữa các quốc gia và đã được thông báo, đăng ký với GATT/WTO. Trong đó cho tới nay vẫn còn 130 hiệp định thương mại khu vực vẫn còn hiệu lực, bao gồm hầu hết các thành viên của WTO, chỉ trừ có Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông. Hiện nay, ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới đã hình thành từ các nước phát triển nhất trên thế giới là Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu. Mối quan hệ kinh tế giữa các nước phát triển ngày càng chặt chẽ tạo thành quá trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng thống nhất toàn cầu, trong đó sự phân công lao động quốc tế, sư phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Theo số liệu thống kê của Liên Hiệp Quốc, trong những năm 60 có 19 tổ chức kinh tế khu vực, những năm 70 con số này là 28, những năm 80 là 32 và những năm 90 đã lên tới 60 tổ chức, thu hút hơn 160 nước tham gia dưới các loại hình liên kết khác nhau, từ thấp đến cao. Thực tế đã cho thấy rằng liên kết kinh tế theo khu vực không mâu thuẫn với toàn cầu hoá mà tồn tại cùng toàn cầu hoá, như một bộ phận của toàn cầu hoá. Các nước thường có nhu cầu liên kết trong khu vực trước khi tham gia toàn cầu hoá. Do đó, có thể khẳng định rằng khu vực hoá chính là bước quá độ để tiến lên toàn cầu hóa. 1.1.4.2 Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới hiện đại Kinh tế thế giới ngày nay chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau, cả nhân tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị cũng như các nhân tố tự nhiên. Sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu thế khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, bởi vì thế giới là sự thống nhất các mâu thuẫn. a) Cơ cấu các ngảnh sản xuất và dịch vụ thay đổi mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn, thể hiện ở: 13
  14. - Các ngành công nghiệp “cổ điển” giảm dần tỷ trọng và vai trò của nó, trong khi các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất. - Cơ cấu kinh tế trở nên “mềm hóa”, khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nền “kinh tế tượng trưng” có quy mô hớn hơn “nền kinh tế thực” nhiều lần. - Cơ cấu lao động theo ngành nghề có sự thay đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ. b) Quá trình quốc tế hóa nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu trên hai cấp độ toàn cầu hóa và khu vực hóa Do tác động của khoa học - công nghệ, của sự phân công lao động quốc tế, do vai trò và tầm hoạt động của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia, quá trình quốc tế hóa đưa đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới và đưa nền kinh tế thế giới bước vào cạnh tranh toàn cầu bên cạnh việc đẩy mạnh tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh. Thể chế kinh tế thế giới chuyển biến theo hướng thị trường hóa nền kinh tế của từng quốc gia; quốc tế hóa thể chế kinh tế giữa các nước theo hướng mở cửa với sự xuyên suốt của cơ chế thị trường; theo hướng nhất thể hóa và tập đoàn hóa kinh tế khu vực. Đây chính là quá trình các nước tiến hành cùng nhau mở cửa đồng thời diễn ra quá trình hợp nhất các nước với nhau trên cơ sở “hợp tác tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi” để cùng nhau phát triển kinh tế trên góc độ khu vực hoá và dẫn tới xu thế toàn cầu hóa. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt động tài chính - tiền tệ; sự gia tăng của mậu dịch quốc tế nhanh hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng kinh tế; sự gia tăng làn sóng sáp nhập các công ty xuyên quốc gia; vai trò ngày càng quan trọng của tri thức và sự phát triển loại hình kinh tế tri thức. Công nghệ thông tin phát triển làm thay đổi cách thức tổ chức sản xuất và đời sống, đưa đến sự tác động ngày càng lớn của kinh tế đến đời sống chính trị - xã hội. c) Sự phát triển của vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương đang làm trung tâm của nền kinh tế thế giới dịch chuyển dần về khu vực này. Vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương, nơi đã từng có những nền văn minh rực rỡ trong quá khứ, ngày nay đang chứng tỏ một sự phát triển hết sức nhanh chóng, chưa từng có trong lịch sử. Ban đầu là sự xuất hiện 4 con rồng (Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan), rồi tới các nước ASEAN và gần đây là Trung Quốc cùng với sức mạnh tiềm ẩn vốn có của nền kinh tế Nhật Bản. Trong khi trên thế giới, những năm gần đây, nhiều nước có tốc độ tăng trưởng chậm chạp, nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng thì ở nhiều nước thuộc khu vực châu Á - TBD vẫn đạt tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Nhờ có tốc độ tăng trưởng cao và liên tục mà khu vực châu Á - TBD ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nếu 30 năm trước đây, giá trị tổng sản phẩm quốc dân của châu Á - TBD chỉ bằng 1/2 của Mỹ và 2/3 của cộng đồng châu Âu thì đến cuối thế kỷ 20 đã gần bằng Mỹ và lớn hơn Cộng đồng châu Âu. Đến năm 2010, dự tính châu Á - TBD sẽ chiếm 1/3 giá trị tổng sản phẩm quốc dân toàn cầu, vượt cả Mỹ và Tây Âu. Sự trỗi dậy của khu vực này khiến cho cuộc cạnh tranh kinh tế giữa các nước phát triển vốn đã căng thẳng nay lại khốc liệt hơn bởi bắt đầu có sự tham gia của những con rồng châu Á. Người ta dự báo rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của Châu Á - Thái 14
  15. Bình Dương. Điều đó tạo điều kiện cho việc hình thành những mối quan hệ quốc tế mới, tạo nên những khả năng mới cho sự phát triển đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho tất cả các quốc gia. Sự phát triển của vòng cung Châu Á - Thái Bình Dương đòi hỏi mỗi nước phải tính đến trong chiến lược phát triển của mình. d) Xu thế mở cửa kinh tế quốc gia Chính sách đóng cửa là chính sách hạn chế đến mức tối đa những sự trao đổi hàng hóa giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, tận dụng tối đa nguồn lực trong nước để phát triển kinh tế. Chính sách này có những đặc điểm cơ bản như nền kinh tế chủ yếu phát triển theo hướng tự đáp ứng nhu cầu trong nước; chủ trương chỉ xuất khẩu sau khi đã thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, không chủ trương sản xuất hàng hoá để xuất khẩu; không khuyến khích nước ngoài đầu tư vốn để sản xuất trong nước, chủ yếu sử dụng hình thức vay vốn để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu. Do đó, chính sách đóng cửa có các ưu điểm là có thể tránh cho từng quốc gia các ảnh hưởng xấu từ nền kinh tế thế giới tới nền kinh tế trong nước; bảo vệ nền sản xuất trong nước trước những nguy cơ bị cạnh tranh khốc liệt bởi những sản phẩm từ nước ngoài có nhiều lợi thế hơn hẳn; khai thác và huy động cao độ mọi tiềm lực của đất nước; thực hiện được quyền tự quyết về chính trị. Tuy nhiên, chính sách đóng cửa cũng có nhiều nhược điểm như: đi ngược lại với xu thế phát triển của phân công lao động quốc tế; hạn chế khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật từ các nước tiên tiến; gặp khó khăn xuất khẩu, thị trường chật hẹp, không đảm bảo cho quá trình sản xuất với quy mô lớn, thu hút lao động ít, thất nghiệp gia tăng Do đó, chính sách này không còn phù hợp với tình hình phát triển hiện nay. Chính sách mở cửa là chính sách kinh tế nhằm tận dụng triệt để những lợi thế từ nước ngoài để phát triển kinh tế một cách nhanh nhất có thể được. Đặc điểm của chính sách này là các quốc gia chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, trọng tâm là ngoại thương, ưu tiên hàng đầu xuất khẩu, thu hút vốn và kỹ thuật từ nước ngoài kết hợp tối đa nguồn lực trong nước với nguồn lực nước ngoài để phát triển kinh tế. Chính sách mở cửa có nhiều ưu điểm như: nhờ đẩy mạnh xuất khẩu mà tăng thu nhập ngoại tệ, góp phần tăng khả năng nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liệu và công nghệ tiên tiến, thực hiện cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp hóa ở các nước chậm và đang phát triển; cải thiện tình trạng mất cân đối thu chi tài chính quốc tế; đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế; thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, khai thác có hiệu quả hơn các lợi thế của đất nước Bên cạnh những ưu điểm đó, chính sách này cũng có những hạn chế như: nền kinh tế trong nước bị lệ thuộc vào nền kinh tế thế giới, sự lệ thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến sự lệ thuộc về chính trị; do tập trung vào chính sách sản xuất hàng hoá xuất khẩu nên nền kinh tế sẽ phát triển mất cân đối giữa các nghành nghề, các khu vực. Những hạn chế này đòi hỏi chính phủ các nước phải có các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô hợp lý để có được sự phát triển ổn định và bền vững trong tương lai. Ngoài những xu thế nêu trên còn có nhiều xu thế khác chi phối sự vận động của nền kinh tế thế giới, thí dụ xu thế “mềm hóa” cơ cấu kinh tế thế giới, xu thế hình thành các liên kết tiểu khu vưc, xu thế phát huy các nhân tố truyền thống, xã hội và văn hóa cạnh tranh trong kinh tế Tóm lược 15
  16. Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua phân công lao động quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế. Nền kinh tế thế giới phát triển qua nhiều giai đoạn phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử và chịu sự tác động của rất nhiều các nhân tố khác nhau, cả nhân tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị cũng như các nhân tố tự nhiên. Câu hỏi tự luận Câu 1: Trình bày khái niệm, cơ cấu và các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới? Câu 2: Trình bày những xu hướng vận động chính của nền kinh tế thế giới hiện đại và tác động của xu hướng này đến nền kinh tế của các quốc gia cũng như việc hoạch định chính sách hội nhập kinh tế quốc tế? 1.2 CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ Giới thiệu Trong mục này chúng ta sẽ nghiên cứu khái niệm quan trọng của môn kinh tế quốc tế đó là quan hệ kinh tế quốc tế, cơ sở hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế, tính chất của các quan hệ kinh tế quốc tế. Từ đó hiểu được mối quan hệ vật chất, tài chính, kinh tế, khoa học công nghệ của các quốc gia trên thế giới. Nội dung Các quốc gia trên thế giới có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, sự phát triển không đồng đều về khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như sự khác biệt về nguồn nhân lực và trình độ phát triển nguồn nhân lực, sự đa dạng hóa về nhu cầu tiêu dùng Cho nên muốn phát triển kinh tế tất yếu phải hình thành quan hệ kinh tế quốc tế. Điều này liên quan đến phần nội dung của quan hệ kinh tế quốc tế,cơ sở hình thành và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, tính chất của quan hệ kinh tế quốc tế. 1.2.1 Khái niệm và nội dung của quan hệ kinh tế quốc tế Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ vật chất và tài chính, các quan hệ về kinh tế và khoa học - công nghệ có liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất diễn ra giữa các quốc gia cũng như với các tổ chức kinh tế quốc tế. Nội dung của quan hệ kinh tế quốc tế bao gồm: + Thương mại quốc tế: Là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế quốc tế có quốc tịch khác nhau thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới. Thương mại quốc tế bao gồm xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình và vô hình; gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công; tái xuất khẩu, chuyển khẩu và xuất khẩu tại chỗ. + Hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học công nghệ: là sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các tổ chức kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau trong việc sản xuất một loại sản phẩm nào đó hay sự hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, thiết kế, sáng chế, đào tạo cán bộ + Hợp tác đầu tư quốc tế: Bao gồm việc đưa vốn ra nước ngoài và tiếp nhận vốn từ nước ngoài vào trong nước với các mục tiêu đem lại lợi ích cho các bên tham gia. + Các dịch vụ thu ngoại tệ: Bao gồm các hoạt động như du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, bảo hiểm quốc tế, 16
  17. Quan hệ kinh tế quốc tế ngày nay không chỉ là những quan hệ kinh tế vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia mà còn có thể diễn ra ở mọi địa phương, mọi doanh nghiệp, mọi ngành nghề. Các quan hệ kinh tế quốc tế sẽ được mở rộng hơn, đa dạng và phong phú hơn tuỳ theo sự phát triển của khoa học và công nghệ và sự đa dạng hoá trong nhu cầu của con người. 1.2.2 Cơ sở hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế - Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, ) giữa các quốc gia là nguyên nhân chủ yếu làm cho mỗi quốc gia có lợi thế trong việc sản xuất một số loại sản phẩm nào đó và họ phải trao đổi cho nhau để cân bằng phần dư thừa về loại sản phẩm này với sự thiếu hụt các loại sản phẩm khác. Có những quốc gia rất nhỏ nhưng lại sản xuất ra một khối lượng khá lớn một loại sản phẩm. Chẳng hạn, Ả Rập và Kuwest chỉ chiếm 0,3% dân số thế giới nhưng lại sản xuất ra 11% dầu; Cuba và Brazil chỉ chiếm 3% dân số nhưng lại chiếm tỷ trọng tới 18% sản lượng đường thế giới - Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và khoa học kỹ thuật là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa các quốc gia về điều kiện tái sản xuất như: nguồn vốn, nhân lực, trình độ kỹ thuật, bí quyết công nghệ, trình độ quản lý, từ đó nảy sinh nhu cầu mở rộng phạm vi trao đổi quốc tế sang các yếu tố nói trên. - Sự khác nhau về nguồn nhân lực và trình độ nguồn nhân lực giữa các quốc gia: Không một quốc gia nào có nguồn nhân lực đủ để sản xuất tất cả các loại hàng hoá hoặc giả sử nếu cố gắng sản xuất cũng không đạt hiệu quả cao ở trong tất cả các ngành. Thương mại quốc tế dựa trên cơ sở phân công lao động giữa các quốc gia, cho phép mỗi quốc gia phát huy được tối đa lợi thế của nước đó và kết quả là lực lượng sản xuất của thế giới sẽ được sử dụng một cách hiệu quả hơn. Nói cách khác, quá trình phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến sự phát triển phân công lao động vượt ra ngoài biên giới quốc gia, dẫn đến sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lẫn nhau, làm mở rộng đối tượng và phạm vi trao đổi quốc tế. - Sự tăng lên nhanh chóng về dung lượng của thị trường thế giới đòi hỏi mỗi quốc gia phải tập trung vào một số ngành và sản phẩm nhất định mà họ có lợi thế để đạt tới quy mô sản xuất tối ưu. Do đó, quá trình phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến một yêu cầu khách quan là phải tiến hành chuyên môn hoá giữa các quốc gia. Đây cũng chính là động lực quan trọng thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phát triển về bề sâu. - Sự đa dạng hoá trong nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia: Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có những sở thích tiêu dùng riêng của mình mà vì những lý do khác nhau phải được đáp ứng thông qua thương mại quốc tế, ví dụ như người Việt Nam ưa chuộng đồ điện tử (ti vi, máy giặt, tủ lạnh ) của Nhật Bản, người Anh thích uống rượu vang của Pháp Mặt khác, khi đời sống được nâng lên, người tiêu dùng sẽ tìm đến những hàng hoá phù hợp với thị hiếu và khả năng thanh toán của họ. Thực tế cho thấy quy mô trao đổi thương mại giữa các nước công nghiệp phát triển là rất lớn, chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch thương mại quốc tế. 1.2.3 Tính chất của quan hệ kinh tế quốc tế - Quan hệ kinh tế quốc tế là các mối quan hệ tự nguyện, phát triển trên cơ sở giữ vững chủ quyền quốc gia, theo nguyên tắc cùng có lợi. Quan hệ kinh tế quốc tế chịu sự chi phối rất lớn của quan hệ chính trị quốc tế và ngược lại. 17
  18. - Sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế tuân theo các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh Do đó trong quá trình phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế phải tôn trọng và biết cách vận dụng các quy luật kinh tế. - Quan hệ kinh tế quốc tế chịu sự tác động của các hệ thống quản lý như: chính sách, luật pháp, thể chế của các quốc gia, điều ước quốc tế. Vì vậy, để phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế, cần phải am hiểu luật pháp và tích cực đóng góp xây dựng các điều ước quốc tế. - Sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế gắn liền với sự chuyển đổi các loại đồng tiền và sự vận động của quan hệ tiền tệ quốc tế là một bộ phận quan trọng của quan hệ kinh tế quốc tế. - Quá trình phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế chịu sự tác động trực tiếp bởi khoảng cách về không gian vì nó liên quan đến thời gian và chi phí vận tải. Tóm lược Phần này trình bày khái niệm, nội dung, cơ sở hình thành và phát triển, tính chất của các quan hệ kinh tế quốc tế. Câu hỏi tự luận Câu 3: Tại sao các quốc gia cần phải giao thương với nhau? 1.3 NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Giới thiệu Các quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại là nền tảng tư tưởng quan trọng trong việc hoạch định các chính sách phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại phù hợp với nguồn lực quốc gia và bối cảnh kinh tế thế giới trong từng giai đoạn phát triển khác nhau Nội dung Quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam gồm các quan điểm sau: Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Quan điểm “mở cửa”, xây dựng hệ thống kinh tế mở,Phát huy ý chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tận lực khai thác những lợi thế của đất nước trong sự trao đổi và sự phân công lao động quốc tế, mở rộng diện bạn hàng, đối tượng hợp tác, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại phù hợp với cơ chế thị trường, trên nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.3.1 Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Thế giới ngày nay là một thể thống nhất. Các quốc gia là những đơn vị độc lập tự chủ nhưng đang dần trở thành một phần không thể tách rời khỏi thể thống nhất đó. 18
  19. Lịch sử phát triển của thế giới đã chứng minh rằng không quốc gia nào, chính phủ nào có thể phát triển được nếu thực hiện chính sách đóng cửa, tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều là những nước có nền kinh tế “mở”, dựa vào kinh tế đối ngoại để tận dụng nguồn lực trong và ngoài nước nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Việt Nam là nước đang phát triển với nền kinh tế nông nghiệp còn lạc hậu, trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội còn thấp, hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế chưa cao. Do đó, để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế theo định hướng XHCN, giảm bớt khoảng cách tụt hậu so với các quốc gia khác thì việc phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan. 1.3.2 Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị Kinh tế và chính trị là hai mặt có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Mối quan hệ chính trị- ngoại giao phát triển sẽ góp phần đẩy mạnh mối quan hệ thương mại- kinh tế và ngược lại. Do đó, xử lý hợp lý mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị có ý nghĩa rất quan trọng. Khi xử lý mối quan hệ này cần dựa trên quan điểm đảm bảo lợi ích dân tộc bao gồm cả lợi ích kinh tế lẫn lợi ích chính trị của đất nước trong trước mắt và về lâu dài. 1.3.3 Quan điểm “mở cửa”, xây dựng hệ thống kinh tế mở. Từ sau đổi mới kinh tế năm 1986, Đảng ta đã xác định “mở cửa” là tất yếu khách quan và là một điều kiện bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước. Do đó, cần phải dự kiến, đánh giá chính xác các tác động tích cực lẫn tiêu cực của chính sách “mở cửa”, trên cơ sở đó mạnh dạn áp dụng nó nhằm phát triển và mở rộng kinh tế đối ngoại, đồng thời đảm bảo ổn định chính trị, an ninh quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ gìn bản sắc văn hoá và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. 1.3.4 Phát huy ý chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, tận lực khai thác những lợi thế của đất nước trong sự trao đổi và sự phân công lao động quốc tế. Trong bối cảnh mới hiện nay, việc phát huy mạnh mẽ ý chí tự lực tự cường, không ỷ lại vào bên ngoài, khai thác và sử dụng tốt mọi tiềm lực và lợi thế của một đất nước có ý nghĩa cực kỳ to lớn. Bên cạnh đó, cần tích cực khai thác sức mạnh của thời đại về mọi mặt: thành tựu khoa học công nghệ, nguồn vốn to lớn bên ngoài, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, thị trường rộng lớn Trong điều kiện tình hình thế giới diễn biến phức tạp, việc mở rộng hợp tác với nước ngoài với các tổ chức quốc tế để khai thác sự giúp đỡ của quốc tế cần phải có những chính sách mềm dẻo khôn khéo, điều chỉnh kịp thời và phải có cách làm thông minh sáng tạo. Nước ta có những lợi thế nhất định trong sự trao đổi và phân công lao động quốc tế. Vì vậy cần vận dụng tốt quy luật lợi thế so sánh, khai thác có hiệu quả nhất các lợi thế đó để phát triển mạnh mẽ kinh tế đối ngoại, đưa nước ta nhanh chóng hòa nhập vào nền kinh tế thế giới. 1.3.5 Mở rộng diện bạn hàng, đối tượng hợp tác, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại phù hợp với cơ chế thị trường, trên nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. 19
  20. Việc mở rộng diện đối tác ở cấp nhà nước và mở rộng diện bạn hàng đối với các tổ chức kinh doanh có quan hệ mật thiết với nhau. Trong điều kiện ngày nay, thị trường thế giới vừa là đầu vào vừa là đầu ra của nước ta. Mở rộng thị trường sẽ kích thích sản xuất phát triển và tạo cho nền kinh tế phát triển ổn định. Mặt khác, hoạt động kinh tế đối ngoại rất phong phú đa dạng nên muốn khai thác được cao nhất tiềm năng không thể không thực hiện phương thức đa dạng hoá. Ngày nay tình hình thế giới có nhiều biến đổi, cần phải thay đổi cả về nhận thức lẫn hành động. Muốn mở rộng, phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại cần phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi tuân theo những quy luật của nền kinh tế thị trường nhưng phải đảm bảo không đi chệch mục tiêu, con đường dân tộc đã chọn. 1.3.6 Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội Trong nền kinh tế quốc dân, kinh tế đối ngoại là một bộ phận cấu thành quan trọng. Hiệu quả kinh tế đối ngoại không ngừng nâng cao sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh. Nội dung hoạt động kinh tế đối ngoại phong phú và đa dạng: xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, đầu tư quốc tế, các hoạt động dịch vụ ngoại tệ chúng có tác động lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế – xã hội vừa là mục tiêu vừa là thước đo kết quả của hoạt động kinh tế đối ngoại. Do vậy việc nâng cao hiệu quả của từng hoạt động kinh tế đối ngoại đồng thời phải chú trọng nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại một cách tổng thể, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các mối quan hệ kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. 1.3.7 Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại cần thực hiện theo một số hướng sau: - Mở rộng quyền quan hệ với nước ngoài cho các cơ quan và tổ chức trong nước, mở rộng quyền kinh doanh quốc tế cho các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế và tư nhân. Trong khuôn khổ luật pháp, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế trong từng giai đoạn - Xác định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. - Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế nhà nước quản lý kinh tế đối ngoại bằng công cụ quản lý vĩ mô - Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh, tài chính của các tổ chức kinh doanh đối ngoại, đi đôi với việc quản lý thống nhất của nhà nước về kinh tế đối ngoại. - Nhà nước chỉ thực hiện các chức năng quản lý như tạo môi trường pháp lý kinh tế thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đối ngoại, hướng dẫn các các tổ chức kinh doanh đối ngoại hoạt động theo pháp luật và có hiệu quả cao mà không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân. Tóm lược Phần 3 trình bày các quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về việc phát triển Kinh tế đối ngoại như phát triển kinh tế đối ngoại nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế đất nước, xây dựng nền “nền kinh tế mở” phù hợp với xu thế quốc tế hóa, 20
  21. toàn cầu hóa, phát huy tối đa nguồn lực Việt Nam Việt Nam có nhiều nguồn lực để phát triển kinh tế đối ngoại. Để khai thác hiệu quả các nguồn lực đó cần các điều kiện và giải pháp phù hợp. Câu hỏi tự luận Câu 4: Trình bày các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về việc phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại? Câu 5: Hãy phân tích các nguồn lực và lợi thế của Việt Nam khi mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại và khuyến nghị một số giải pháp khai thác hiệu quả? PHẦN KẾT Chúc mừng các Anh/chị đã hoàn thành nghiên cứu chương 1. Các Anh/chị đã tiếp cận và nắm được lý thuyết nền kinh tế thế giới, cơ cấu nền kinh tế thế giới, nền kinh tế hiện đại và những xu hướng vận động, các quan hệ kinh tế quốc tế - cơ sở hình thành, phát triển và tính chất của nó, liên hệ thực tiễn với quan điểm và đường lối phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Đây là những tri thức quan trọng làm nền tảng để nghiên cứu các chương học tiếp theo. Chúc các Anh/chị thành công! TÓM TẮT CHƯƠNG Chương 1 nghiên cứu những lý thuyết về nền kinh tế thế giới như khái niệm, cơ cấu, quá trình hình thành và phát triển của một nền kinh tế thế giới. Đây chính là những kiến thức cơ bản liên quan đến phương pháp luận nghiên cứu và phân tích bản chất của các quan hệ kinh tế quốc tế. Chương này còn trình bày các xu thế lớn của sự vận động nền kinh tế thế giới. Trên cơ sở đó dự báo xu thế tương lai của nền kinh tế thế giới Chương này còn nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới, phân tích những vấn đề toàn cầu liên quan đến mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, trình bày cụ thể nội dung và phân tích tính chất của các quan hệ kinh tế thế giới Những lý thuyết này không chỉ cung cấp cho người học những kiến thức quan trọng mà còn liên hệ với những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam nhằm phát triển kinh tế đối ngoại, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặc biệt là trong giai đoạn nền “kinh tế mở” hiện nay. Việt Nam có nhiều nguồn lực để phát triển kinh tế đối ngoại. Để khai thác có hiêụ quả các nguồn lực này thì Đảng và Nhà nước Việt Nam cần có những giải pháp nhất định HỆ THỐNG CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Trình bày khái niệm, cơ cấu và các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới? Câu 2: Trình bày những xu hướng vận động chính của nền kinh tế thế giới hiện đại và tác động của xu hướng này đến nền kinh tế của các quốc gia cũng như việc hoạch định chính sách hội nhập kinh tế quốc tế? Câu 3: Tại sao các quốc gia cần phải giao thương với nhau? 21
  22. Câu 4: Trình bày các quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về việc phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại? Câu 5: Hãy phân tích các nguồn lực và lợi thế của Việt Nam khi mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại và khuyến nghị một số giải pháp khai thác hiệu quả? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.GS.TS . Đỗ Đức Bình, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Giáo trình Kinh tế quốc tế.NXB Đại học kinh tế quốc dân. Hà nội -2008. 2. PGS.TS. Đỗ Đức Bình, TS. Bùi Anh Tuấn (chủ biên): Kinh tế học quốc tế. NXB Thống kê. Hà nội -2002 3. Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, Học viện Quan hệ quốc tế 4. Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế, Học viện Quan hệ quốc tế 5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X. 22
  23. CHƯƠNG 2. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Xin chào các Anh/chị học viên! Chúng tôi rất hân hạnh được gặp các Anh/chị trong môn Kinh tế quốc tế. Chương 2 sẽ cung cấp một khối lượng lớn kiến thức liên quan đến Thương mại quốc tế đó là khái niệm và vai trò của Thương mại quốc tế và các vấn đề có liên quan đến thương mại quốc tế đi từ các quan điểm cổ điển đến các quan điểm hiện đại. Bên cạnh đó, đưa ra các chính sách Thương mại quốc tế và cho biết những chính sách Thương mại được thực hiện thông qua những công cụ nào. Đồng thời, cũng đưa ra một số nguyên tắc điều chỉnh Thương mại quốc tế và liên hệ với thực tiễn phát triển thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam. Chương 2 gồm các nội dung sau: 1. Lý luận chung về Thương mại Quốc tế 2. Lý thuyết cổ điển về Thương mại Quốc tế 3. Một số lý thuyết hiện đại về Thương mại quốc tế 4. Chính sách Thương mại Quốc tế 5. Các công cụ chủ yếu của Chính sách Thương mại Quốc tế 6. Một số nguyên tắc điều chỉnh Thương mại Quốc tế 7. Thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam Mục tiêu chung Sau khi học xong chương này, học viên sẽ hiểu được những vấn đề liên quan đến Thương mại quốc tế và chính sách Thương mại quốc tế. Từ đó, Học viên có thể nắm được các nội dung liên quan đến Thương mại quốc tế như các quan điểm cổ điển và hiện đại về Thương mại quốc tế, chính sách và công cụ của chính sách Thương mại quốc tế và liên hệ với thực tiễn Việt Nam Mục tiêu cụ thể Sau khi học xong Chương 2, Học viên sẽ: - Nắm vững các khái niệm, nội dung, đặc điểm của Thương mại quốc tế, chính sách Thương mại - Ưu và nhược điểm của các loại chính sách thương mại. - Các công cụ như thuế quan, hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu - Hiểu được chiến lược hàng hóa quốc tế của Việt Nam và các hoạt động quản lý Nhà nước về Thương mại quốc tế ở Việt Nam 2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Giới thiệu Thương mại quốc tế vừa là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, vừa là một lĩnh vực kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của các nước, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Hiểu được lý luận chung về thương mại quốc tế có thể giúp các quốc gia có chính sách phát triển thương mại phù hợp với nguồn lực quốc gia. 23
  24. Nội dung Phần này chủ yếu trình bày khái niệm và nội dung thương mại quốc tế, chức năng của thương mại quốc tế, hình thức và đặc điểm của thương mại quốc tế. 2.1.1 Khái niệm và nội dung thương mại quốc tế Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá (bao gồm hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) giữa các quốc gia, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên tham gia. Khác với hoạt động trao đổi hàng hoá thông thường, thương mại quốc tế mang những đặc điểm cơ bản sau: - Hoạt động thương mại quốc tế diễn ra trên thị trường thế giới, thị trường khu vực hoặc thị trường của nước xuất khẩu hay nước nhập khẩu. - Các bên tham gia có quốc tịch khác nhau, có thể là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể hoặc tư nhân. - Phương tiện thanh toán thương mại quốc tế giữa người mua và người bán là đồng tiền có khả năng chuyển đổi. - Luật pháp áp dụng trong thương mại quốc tế có nhiều nguồn khác nhau, có thể là luật các quốc gia, luật khu vực hoặc các văn bản luật và các điều ước quốc tế, các tập quán thương mại. Ra đời sớm nhất trong các nội dung của quan hệ kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế bao gồm các nội dung cơ bản sau: + Xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình: máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng + Xuất nhập khẩu hàng hoá vô hình: bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát minh, phần mềm máy tính, thiết kế kỹ thuật, dịch vụ vận tải, dịch vụ du lịch + Gia công quốc tế: bao gồm gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công. Thông thường, các quốc gia có trình độ phát triển thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ nhận gia công thuê cho các nước có trình độ phát triển cao hơn. + Tái xuất khẩu và chuyển khẩu Tái xuất khẩu là hoạt động nhập khẩu tạm thời hàng hoá từ bên ngoài vào sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang một nước thứ ba. Như vậy, ở đây có cả hành động mua và bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao. Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản Bởi vậy mức độ rủi ro của hoạt động chuyển khẩu có thể thấp nhưng đồng thời lợi nhuận cũng không cao. + Xuất khẩu tại chỗ Là hoạt động xuất khẩu mà hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Ví dụ như việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh trong khi lại thu được ngoại tệ. 24
  25. 2.1.2 Chức năng của thương mại quốc tế Thương mại quốc tế vừa là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, vừa là một lĩnh vực kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, do đó nó có các chức năng cơ bản sau: - Chuyển hóa giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và thích ứng chúng với nhu cầu tiêu dùng và tích lũy. Nói cách khác, thương mại quốc tế mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước. Từ đó, góp phần thỏa mãn nhu cầu của nhân dân về hàng hóa theo số lượng, chất lượng, mặt hàng, địa điểm và thời gian với chi phí thấp nhất. - Thương mại quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của các nước, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Thương mại là động lực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bằng việc tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh; nối liền thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, khai thác triệt để lợi thế của nền kinh tế trong nước trên cơ sở phân công lao động quốc tế, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành. Như vậy, các nước có nền kinh tế quy mô nhỏ có thể và có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế. 2.1.3 Các hình thức thương mại quốc tế a) Thương mại hàng hóa quốc tế Hàng hóa trong trao đổi thương mại quốc tế là hàng hóa vật chất, hàng hóa dịch vụ Trao đổi quốc tế về hàng hóa vật chất gọi là thương mại hàng hóa quốc tế, ở phạm vi một quốc gia gọi là ngoại thương. Do có sự cách biệt về địa lý, hàng hóa vật chất có sự di chuyển qua biên giới từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu cùng các nghiệp vụ mua bán hàng hóa có cả dịch vụ kèm theo như vận chuyển, bảo quản, bảo hiểm, thanh toán quốc tế b) Thương mại dịch vụ quốc tế Trao đổi quốc tế về hàng hóa dịch vụ gọi là thương mại dịch vụ quốc tế, ở phạm vi một quốc gia gọi là dịch vụ thu ngoại tệ. Hàng hóa dịch vụ là những hàng hóa tồn tại dưới dạng phi vật chất, khó định lượng được, không dự trữ được hay không có hàng tồn kho. Quá trình cung cấp dịch vụ diễn ra đồng thời với quá trình tiêu thụ. Hàng hóa dịch vụ có thể di chuyển hoặc không di chuyển qua biên giới. c) Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại Đó là sự trao đổi quốc tế về một số các hàng hoá vô hình như các bí quyết công nghệ, bằng phát minh sáng chế, quyền sở hữu công nghiệp, chỉ dấu địa lý, thương hiệu Đây cũng chính là những hợp đồng kinh tế mang tính thời đoạn, hiệu quả kinh tế phụ thuộc vào sự phát huy và mức độ bản quyền của công nghệ đó. Tính chất này tạo sự khác biệt giữa hình thức này với tính chất mua bán đứt đoạn của các hình thức thương mại quốc tế khác. d) Mua sắm hàng hóa của chính phủ Hầu hết các nước trên thế giới, chính phủ và các cơ quan thuộc chính phủ là người mua hàng hóa lớn nhất bao gồm đủ loại từ những hàng hóa cơ bản nhất tới các thiết bị máy móc công nghệ cao. Đây là một hoạt động trong trao đổi hàng hóa hữu hình, nhưng chủ thể tiến hành trao đổi là các chính phủ hoặc được chính phủ ủy quyền. 2.1.4 Đặc điểm phát triển của thương mại quốc tế hiện nay 25
  26. Thương mại quốc tế trong những năm gần đây có một số đặc điểm như sau: Một là, thương mại quốc tế trong những năm gần đây có xu hướng tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng của sản xuất, do đó tỷ trọng của kim ngạch ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc dân của mỗi quốc gia ngày càng lớn, thể hiện mức độ mở cửa nền kinh tế mỗi quốc gia ra thị trường thế giới ngày càng gia tăng . Hai là, tốc độ tăng trưởng của thương mại vô hình tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của thương mại hữu hình, thể hiện sự biến đổi sâu sắc trong cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia. Ba là, cơ cấu mặt hàng trong thương mại quốc tế có những thay đổi sâu sắc với những hướng chính sau đây: - Giảm đáng kể tỷ trọng của nhóm hàng lương thực và thực phẩm. - Giảm mạnh tỷ trọng của nhóm hàng nguyên liệu, tăng nhanh tỷ trọng của dầu mỏ và khí đốt. - Tăng nhanh tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp chế biến, nhất là máy móc thiết bị. Bốn là, sự phát triển của nền thương mại thế giới ngày càng mở rộng phạm vi và phương thức cạnh tranh với nhiều công cụ khác nhau, không những về mặt chất lượng, giá cả mà còn về điều kiện giao nhận, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng Năm là, chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng được rút ngắn, việc đổi mới thiết bị, đổi mới công nghệ, đổi mới mẫu mã hàng hóa diễn ra liên tục, đòi hỏi các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp phải năng động, nhạy bén khi tham gia vào thị trường thế giới. Các sản phẩm có hàm lượng khoa học khoa học và công nghệ cao hiện đang có sức cạnh tranh mạnh mẽ hơn so với các sản phẩm nguyên liệu thô. Sáu là, sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc đẩy tự do hóa thương mại, song mặt khác, giữa các liên kết kinh tế quốc tế cũng hình thành những hàng rào mới, yêu cầu bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi hơn. Tóm lược Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá (bao gồm hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) giữa các quốc gia, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên tham gia. Nó bao gồm thương mại hàng hóa quốc tế, thương mại dịch vụ quốc tế, sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại và mua sắm hàng hóa của chính phủ. Thương mại quốc tế ngày nay đã có những xu hướng phát triển riêng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của các nền kinh tế trên thế giới. Câu hỏi tự luận Câu 1: Phân tích đặc điểm của thương mại quốc tế của các quốc gia trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế? Câu 2: Đặc điểm của thương mại quốc tế hiện nay và những tác động cuả nó đối với kinh tế Việt Nam? 2.2 LÝ THUYẾT CỔ ĐIỂN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Giới thiệu 26
  27. Trong mục này, chúng ta sẽ nghiên cứu cách nhìn nhận của các nhà kinh tế học cổ điển và hiện đại về thương mại quốc tế. Nội dung Cụ thể, chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu quan điểm về mậu dịch quốc tế của Trường phái Trọng thương, Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, Lý thuyết về Lợi thế so sánh của David Ricardo, Lý thuyết chi phí cơ hội – Haberler, Lý thuyết Nguồn lực sản xuất vốn có của Heckscher – Ohlin và một số lý thuyết hiện đại. Từ những quan điểm này sẽ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về nội dung, đặc điểm, vai trò của Thương mại quốc tế. 2.2.1 Trường phái trọng thương (Mercantilism) về mậu dịch quốc tế: a) Hoàn cảnh ra đời: Trường phái trọng thương là một trào lưu tư tưởng kinh tế học chính trị tư sản và chính sách kinh tế của các nước châu Âu, ra đời từ cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI. Thời kỳ này, thương mại bắt đầu phát triển do nhiều nguyên nhân như: các phát kiến địa lý tạo điều kiện cho sự hình thành các tuyến đường vận tải thương mại, sự gia tăng dân số tạo nên thị trường lao động, thị trường tiêu thụ, làm tăng doanh lợi của các nhà sản xuất và thương gia. Ngoài ra, phải kể đến những nguyên nhân khác như: vai trò của các thương gia được nâng cao, sự hình thành ngày càng nhiều các quốc gia độc lập cả về chính trị, vàng bạc từ Tân thế giới đổ về Thời kì đầu, đại diện phái trọng thương là Xtafơt (W. Stafford) với thuyết cân đối tiền tệ, chủ trương cấm xuất khẩu tiền ra nước ngoài và phải nhập siêu tiền tệ. Đến thời kì cuối, đại diện là Mun (T. Mun) với thuyết cân đối mậu dịch, chủ trương phải xuất siêu trong cán cân thương mại. Từ giữa thế kỉ 17, CNTT bắt đầu tan rã. Sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển buộc các nhà kinh tế chuyển trọng tâm chú ý sang lĩnh vực sản xuất. b) Những nội dung cơ bản: - Coi trọng xuất nhập khẩu, cho rằng đây là con đường mang lại sự phồn thịnh cho đất nước; tuy nhiên với phương châm là phải xuất siêu: “Một quốc gia chỉ có thể thu lợi do ngoại thương nếu xuất khẩu vượt nhập khẩu”. Các học giả trọng thương lập luận rằng, đối với một quốc gia, xuất khẩu là rất có ích vì nó kích thích sản xuất trong nước đồng thời dẫn đến dòng kim loại quý đổ vào bổ sung cho kho của cải của quốc gia đó. Ngược lại, nhập khẩu là gánh nặng cho quốc gia vì làm giảm nhu cầu đối với hàng sản xuất trong nước, và hơn nữa dẫn tới sự thất thoát của của cải quốc gia do phải dùng vàng bạc chi trả cho nước ngoài. Như vậy sức mạnh và sự giàu có của quốc gia sẽ tăng lên nếu quốc gia đó xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. - Vàng bạc được coi trọng quá mức: Các nhà trọng thương đo lợi ích của dân tộc bằng kho dự trữ quý kim mà họ sở hữu: “Thà quốc gia có nhiều vàng bạc hơn là nhiều thương gia và hàng hoá”. Vào thời gian đó, vàng và bạc được sử dụng với tư cách là tiền tệ và tạo nên kho của cải của các quốc gia. Một quốc gia được coi là giàu có và hùng mạnh hơn nếu như có được càng nhiều vàng bạc. Với tư duy đó, các nhà trọng thương đã đề nghị nhà nước can thiệp vào nền kinh tế thông qua luật pháp và các chính sách kinh tế. Cụ thể là, về mặt chính sách, các học giả trọng thương kiến nghị nhà nước phải thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch, theo đuổi chủ nghĩa dân tộc về kinh tế. Theo đó, nhà nước phải hạn chế tối đa nhập khẩu, 27
  28. đồng thời khuyến khích sản xuất và xuất khẩu thông qua các công cụ chính sách thương mại như thuế quan, trợ cấp c) Nhận xét Các lý lẽ của trường phái trọng thương là có cơ sở thực tiễn. Trên thực tế, khi năng lực sản xuất trong nước vượt quá mức cầu thì việc khuyến khích xuất khẩu và hạn chế bớt nhập khẩu là điều đúng đắn. Các quốc gia khi gặp khó khăn trong thanh toán với nước ngoài thường mong muốn tạo ra được mức thặng dư trong hoạt động ngoại thương để bù đắp thiếu hụt đó. Thậm chí ngay cả khi chưa có nhu cầu tức thời về ngoại tệ nhưng quốc gia vẫn có thể mong muốn tích lũy càng nhiều ngoại tệ càng tốt để đề phòng những bất trắc trong tương lai. Mặt khác, vào thế kỷ XVIII tích lũy đươc nhiều vàng bạc còn giúp quốc gia có được nguồn lực cần thiết để tiến hành chiến tranh. Trong bối cảnh đó việc bảo hộ các ngành công nghiệp có tầm quan trọng chiến lược cũng là điều hợp lý. Các học giả trọng thương còn có lý khi cho rằng sự gia tăng lượng vàng bạc (tức mức cung tiền tệ) trong nền kinh tế sẽ có tác dụng kích thích hoạt động sản xuất. Tuy nhiên, lập luận của các học giả trọng thương còn có những hạn chế nhất định. Chẳng hạn như việc coi vàng bạc như là hình thức của cải duy nhất của các quốc gia, gắn mức cung tiền tệ cao với sự thịnh vượng của quốc gia. Coi thương mại là một trò chơi có tổng bằng không là sai lầm. Các học giả này chưa giải thích được cơ cấu hàng hóa trong thương mại quốc tế, chưa thấy được tính hiệu quả và lợi ích từ quá trình chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi, đặc biệt họ chưa nhận thức được rằng các kết luận của họ chỉ đúng trong một số trường hợp nhất định (thực tiễn thương mại của Anh, Pháp thời bấy giờ) chứ không phải đúng cho mọi trường hợp. 2.2.2 Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối- Adam Smith a) Sơ lược về tác giả và hoàn cảnh ra đời: * Giới thiệu về Adam Smith (1723-1790): - Xuất thân là viên chức thuế quan - 1751 – 1764: Giảng dạy tại Edinburgh và Glassgow - 1765: Du lịch châu Âu và tiếp xúc với những người theo chủ nghĩa trọng nông. - 1766 - 1778: Chuần bị và viết tác phẩm “Sự giàu có của các quốc gia” (The wealth of Nations). * Hoàn cảnh ra đời: Học thuyết ra đời từ giữa thế kỷ 18, khi nền kinh tế các nước Tây Âu có những thay đổi đáng kể như: từ một xã hội nông nghiệp đơn giản phát triển thành một xã hội kinh tế phức tạp; công nghiệp phát triển đặc biệt là ở nước Anh, từ sau cuộc cách mạng công nghiệp vị trí của tư sản công nghiệp trở nên rất quan trọng, thay thế cho vị trí của thương nhân trước đây; thương mại được mở rộng, các mặt hàng xuất khẩu đa dạng hơn; hệ thống ngân hàng phát triển, vai trò của các doanh nghiệp được đề cao, b) Quan điểm cơ bản của Adam Smith: - Khẳng định vai trò của cá nhân và hệ thống kinh tế tư doanh: Theo ông, mỗi một người khi làm một việc gì thì chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân nhưng nếu anh ta làm tốt thì điều đó có lợi cho cả tập thể, xã hội, quốc gia. Như vậy sẽ có một bàn tay vô hình dẫn dắt mỗi cá nhân hướng đến lợi ích chung ngoài ý mong đợi của anh ta. 28
  29. Hệ quả của tư tưởng này là chính quyền mỗi quốc gia không cần can thiệp vào cá nhân và các doanh nghiệp, cứ để họ tự do hoạt động. Ông cho rằng: “Sự giàu có của mỗi quốc gia đạt được không phải do những quy định chặt chẽ mà do bởi tự do kinh doanh”. Quan điểm này ngược lại với quan điểm của trường phái trọng thương cho rằng cần có sự can thiệp của chính phủ vào các hoạt động thương mại quốc tế. - Khẳng định nguyên tắc phân công lao động giúp tạo ra nhiều lợi nhuận. Nếu thương mại không bị hạn chế thì lợi ích của thương mại quốc tế thu được do thực hiện nguyên tắc phân công. Mậu dịch giúp cả hai bên tham gia giao dịch gia tăng sản lượng qua việc thực thi nguyên tắc cơ bản: Phân công lao động. Nếu quốc gia chuyên môn hóa và những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí hiệu quả hơn nước khác. Lý do là chuyên môn hóa giúp người lao động lành nghề hơn, thành thạo hơn trong các thao tác, giảm thời gian chuyển công đoạn từ đó nâng cao năng suất lao động, tăng sáng kiến, đề xuất phương pháp làm việc tốt hơn. Chuyên môn hóa còn giúp doanh nghiệp tập trung vào một lĩnh vực, đầu tư công nghệ và mở rộng quy mô, nhờ đó đạt được lợi ích kinh tế về quy mô. - Quan niệm về lợi thế tuyệt đối: Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” xuất bản lần đầu tiên năm 1776, Adam Smith đã đưa ra ý tưởng về lợi thế tuyệt đối để giải thích nguyên nhân dẫn đến thương mại quốc tế và lợi ích của nó đối với các quốc gia. Nếu quốc gia A có thể sản xuất mặt hàng X rẻ hơn (có hiệu quả hơn) so với nước B và nước B có thể sản xuất mặt hàng Y rẻ hơn so với nước A, thì lúc đó, mỗi quốc gia nên tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có hiệu quả hơn và xuất khẩu mặt hàng này sang quốc gia kia. Trong trường hợp này, mỗi quốc gia được coi là có lợi thế tuyệt đối về sản xuất từng loại mặt hàng cụ thể. Đây là lợi thế mà quốc gia có được khi chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu mặt hàng có chi phí sản xuất thấp hơn hoặc năng suất lao đông cao hơn một cách tuyệt đối so với quốc gia khác và nhập khẩu mặt hàng có đặc điểm ngược lại. Nhờ có chuyên môn hóa sản xuất và trao đổi thương mại mà cả hai quốc gia đều trở nên giàu có hơn. Tóm lại, một quốc gia được cho là có lợi thế tuyệt đối (LTTĐ) về một mặt hàng nếu với cùng một đơn vị nguồn lực, quốc gia đó có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn (có năng suất cao hơn). Nguồn gốc của lợi thế tuyệt đối là từ lợi thế tự nhiên (điều kiện khí hậu và tự nhiên) và lợi thế do nỗ lực (là lợi thế có được do sự phát triển của công nghệ và sự lành nghề hay việc chuyên môn hóa). Thương mại quốc tế có thể làm tăng khối lượng sản xuất và tiêu dùng của toàn thế giới do mỗi nước thực hiện chuyên môn hóa sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế tuyệt đối. c) Ví dụ minh hoạ về lợi thế tuyệt đối: * Các giả thiết: Mô hình được xây dựng với các giả thiết sau đây: - Thế giới chỉ bao gồm hai quốc gia và hai mặt hàng. - Thương mại hoàn toàn tự do. - Chi phí vận chuyển là bằng không. - Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành sản xuất trong nước nhưng không di chuyển được giữa các quốc gia. - Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên tất cả thị trường. - Công nghệ sản xuất ở các quốc gia là như nhau và không đổi. * Mô hình: 29
  30. Giả sử 1 giờ lao động ở Mỹ sản xuất được 6 giạ lúa mỳ hoặc 4 mét vải còn ở Anh sản xuất được 1 giạ lúa mỳ hoặc 5 mét vải. Theo lý thuyết về LTTĐ của Adam Smith thì Mỹ sản xuất lúa mỳ có hiệu quả hơn Anh hay có LTTĐ so với Anh và Anh có LTTĐ so với Mỹ trong sản xuất vải. Vì vậy, Mỹ sẽ chuyên môn hoá lúa mỳ còn Anh chuyên môn hoá vải và đem trao đổi cho nhau: Mỹ xuất lúa mì, nhập vải còn Anh thì xuất vải, nhập lúa mì. Giả sử tỉ lệ trao đổi là 1:1 tức Mỹ đổi 6 giạ mì lấy 6 m vải => Mỹ lợi được 2 m vải (tức 1/2 giờ công) và Anh lợi được 4,8 giạ mỳ (tức 4,8 giờ công). Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ nằm ở khoảng giữa của các tỷ lệ trao đổi nội địa: 6/4 >tỷ lệ trao đổi qtế mì/vải > 1/5. Thực tế là Anh có lợi nhiều hơn so với Mỹ nhưng quan trọng hơn cả là cả hai đều có lợi nhờ chuyên môn hoá và thương mại quốc tế. d) Nhận xét: - Đây là học thuyết đầu tiên nghiên cứu về các quy luật kinh tế một cách khoa học và đưa ra cơ sở để các quốc gia xác định hướng chuyên môn hóa và trao đổi các mặt hàng. Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật của ông còn tự phát, máy móc, xa lạ với phép biện chứng. - Học thuyết đã đề cao vai trò của cá nhân và doanh nghiệp, ủng hộ thương mại tự do, không có sự can thiệp của chính phủ; đồng thời giải thích được một phần nhỏ của thương mại quốc tế và cung cấp cơ sở để xác định hướng chuyên môn hóa, trao đổi hàng hóa trên thị trường thế giới. - Lý thuyết này không giải thích được trường hợp một nước có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất tất cả sản phẩm hoặc không có lợi thế tuyệt đối nào và tại sao thương mại vẫn có thể diễn ra khi một quôc gia có lợi thế tuyệt đối (hoặc có mức bất lợi thế tuyệt đối) về tất cả các mặt hàng. - Về mặt phương pháp luận, Adam Smith còn dao động giữa phương pháp khoa học và phương pháp tầm thường. 2.2.3 Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo a) Sơ lược về tác giả và hoàn cảnh ra đời: * Giới thiệu về David Ricardo (1772-1823): - Xuất thân trong gia đình thương gia giàu có làm nghề chứng khoán, một nhà tư bản có địa vị trong số các gia đình giàu có ở Châu Âu. Ông có địa vị quan trọng trong sở giao dịch châu Âu, là một trong những người giàu nhất nước Anh lúc bấy giờ. - Ông rất ham mê nghiên cứu khoa học, đặc biệt sở trường của ông là môn Kinh tế chính trị. Phần lớn các lý thuyết của ông tập trung vào lĩnh vực thị trường tiền tệ, và chứng khoán, bao gồm: Giá vàng cao, một bằng chứng xuống giá của giấy nợ ngân hàng (1810); Trả lời các quan sát của Bosanquet về báo cáo của Bullion Committee (1811); Đề xuất về đồng tiền an toàn và tiết kiệm (1816); Tác phẩm quan trọng về kinh tế học thị trường: Luận văn về ảnh hưởng của giá ngô thấp và lợi nhuận của cổ phiếu (1815); Các nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khoá (1817). - Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa” xuất bản năm 1817, trong đó ông có nói về lợi thế so sánh (LTSS), coi đó là cơ sở để các quốc gia giao thương với nhau. * Hoàn cảnh ra đời: 30
  31. Học thuyết ra đời khi cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành, phân công lao động xã hội phát triển, các mâu thuẫn xã hội đã bộc lộ một cách rõ rệt ở các nước. b) Quan điểm cơ bản của David Ricardo: - Quy luật về lợi thế so sánh: “Một quốc gia sẽ xuất khẩu những mặt hàng có giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia kia”. Cơ sở để xác định lợi thế so sánh: hiệu quả/năng suất cao tương đối so với quốc gia khác. Cụ thể, quốc gia A sẽ xuất khẩu X khi và chỉ khi: - D. Ricardo chỉ ra rằng nếu một quốc gia sản xuất hàng hoá ở chi phí cơ hội thấp hơn, thì nên chuyên môn hoá vào đó và tham gia trao đổi hàng hoá quốc tế với quốc gia chuyên môn hoá ngành hàng khác. Lý thuyết này vẫn đúng ngày nay. Nếu tất cả các quốc gia đều chuyên môn hoá vào các lĩnh vực họ có lợi thế so sánh, mức phúc lợi toàn cầu sẽ tăng lên đáng kể. c) Ví dụ minh hoạ về lợi thế tuyệt đối: Nội dung của quy luật có thể minh hoạ bằng số liệu cho ở bảng như sau: Sản phẩm Mỹ Anh Lúa mì (giạ/giờ) 6 1 Vải (m/giờ) 4 2 Trong trường hợp này, Mỹ có LTTĐ cả hai sản phẩm còn Anh thì không có LTTĐ nào. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa lúa mỳ và vải của Anh thì ta thấy năng suất lao động trong sản xuất vải của Anh chỉ bằng nửa của Mỹ (2 so với 4) trong khi đó năng suất lao động trong sản xuất lúa của Anh lại nhỏ hơn những 6 lần so với của Mỹ (1 so với 6). Còn Mỹ thì mặc dầu có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả lúa mì và vải nhưng khi so sánh giữa chúng với nhau thì ta thấy rằng năng suất lao động trong sản xuất lúa mì của Mỹ lớn hơn 6 lần so với của Anh trong khi năng suất lao động trong sản xuất vải của Mỹ chỉ lớn hơn 2 lần của Anh. Ta nói rằng Anh có lợi thế so sánh về vải còn Mỹ có lợi thế so sánh về lúa mì. Cụ thể, ta có: Tỷ lệ của lúa mì của Mỹ/ lúa mì của Anh (6/1) > tỷ lệ của vải của Mỹ/vải của Anh (4/2) => Mỹ có lợi thế so sánh về lúa mì. Tỷ lệ của vải của Anh/vải của Mỹ (2/4) > tỷ lệ của lúa mì của Anh/lúa mì của Mỹ (1/6)=> Anh có lợi thế so sánh về vải. Như vậy, một quốc gia dù không có lợi thế tuyệt đối nào nhưng vẫn có lợi thế so sánh trong sản xuất một mặt hàng nhất định. Đó là mặt hàng mà quốc gia đó có lợi thế hơn trong sản xuất khi so với mặt hàng còn lại. Theo quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo thì cả 2 quốc gia đều có lợi nếu ở trong trường hợp này mỗi quốc gia chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm mà quốc gia đó có lợi thế so sánh và tiến hành trao đổi cho nhau. Lợi ích của mỗi quốc gia khi tham gia trao đổi được tính như sau: 31
  32. Giả sử tỉ lệ trao đổi là 1:1 tức 6 giạ mì lấy 6 m vải, Mỹ CMH lúa mì còn Anh CMH vải. Mỹ bỏ ra 6 giạ mì nhưng thu về được 6 m vải, lợi được 2 m vải và Anh bỏ ra 6 m vải (3 h công) nhưng thu về được 6 giạ mì (6 giờ công) lợi 3 h công tức 6 m vải. Như vậy, cả Anh và Mỹ đều có lợi trong trường hợp này. Tỷ lệ trao đổi quốc tế sẽ nằm ở khoảng giữa của các tỷ lệ trao đổi nội địa: 6/4 >tỷ lệ trao đổi qtế mì/vải > 1/2. Trong khoảng này thì cả hai nước đều có lợi. d) Nhận xét: - Quy luật LTSS của D. Ricardo là một trong những quy luật quan trọng nhất của kinh tế quốc tế, đặt cơ sở nền móng cho TMQT. Lý thuyết này rộng hơn quan niệm của A. Smith về căn bản của mậu dịch quốc tế, cắt nghĩa cả trường hợp Smith thiếu sót. D. Ricardo đã đi xa hơn A. Smith ở chỗ chứng minh được rằng tất cả các quốc gia đều có lợi khi giao thương với nhau bất kể là có LTTĐ hay không. - Tuy nhiên, vào thời kỳ đó, Ricardo chưa giải thích được trường hợp không quốc gia nào có lợi thế so sánh. Ví dụ: Sản phẩm Mỹ Anh Lúa mì (giạ/giờ) 6 3 Vải (m/giờ) 4 2 Như vậy tỉ số lúa mì/vải ở cả 2 quốc gia là bằng nhau = 1/2. Trong trường hợp này, không có nước nào có LTSS và không có trao đổi thương mại. Mỹ chỉ đồng ý trao đổi khi nào 6 giạ mì đổi được nhiều hơn 4 m vải. Nhưng Anh lại không chịu bỏ một số lớn hơn 4 m vải để lấy 6 giạ mì vì ngay trong nước, Anh có thể sản xuất được 6 giạ mì mà chỉ mất có 4 m vải. Do đó, thương mại quốc tế sẽ không diễn ra. Tất nhiên, trong thực tế rất hiếm xảy ra trường hợp này. - Theo Mác, về mặt phương pháp luận, David Ricardo đã nhất quán kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất: thời gian lao động quyết định giá trị, tức là lấy giá trị lao động làm cơ sở cho toàn bộ học thuyết kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong chi phí sản xuất, ông mới chỉ tính đến yếu tố duy nhất là chi phí lao động còn các yếu tố khác như vốn, kỹ thuật, đất đai và cả trình độ người lao động chưa được đề cập. Do đó không thể tìm ra nguyên nhân tại sao năng suất lao động của nước này lại cao hay thấp hơn so với năng suất lao động của nước khác. - Học thuyết này dù chứng minh được lợi ích của TMQT nhưng vẫn không xác định được giá cả quốc tế, căn bản vẫn là hàng đổi hàng. Một sản phẩm đem trao đổi không chỉ phụ thuộc vào chi phí sản xuất ra nó mà còn phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng sản phẩm đó ở trong nước. D.Ricardo chỉ nhìn lợi thế so sánh từ phía tổng cung mà chưa nhìn trên mặt tổng thể cả tổng cung và tổng cầu. Do đó, không xác định được giá cả tương đối của sản phẩm dùng để trao đổi giữa các nước với nhau. - Ngoài ra, mô hình của ông dự đoán một mức độ chuyên môn hóa hoàn toàn, nghĩa là mỗi nước sẽ tập trung vào một mặt hàng mà mình có lợi thế. Nhưng trên thực tế, mỗi nước sản xuất không phải một mà là nhiều mặt hàng trong đó có cả những mặt hàng cạnh tranh với hàng nhập khẩu. 2.2.4 Lý thuyết chi phí cơ hội – Haberler a) Lý thuyết chi phí cơ hội: 32
  33. Như trên đã nói, một trong những hạn chế của quy luật lợi thế so sánh của Ricardo là ông đã vận dụng lý thuyết tính giá trị bằng lao động trong mô hình thương mại quốc tế. Tức là xem xét giá trị hoặc giá cả của sản phẩm chỉ dựa trên số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Điều đó chỉ đúng khi: - Lao động là yếu tố duy nhất để sản xuất ra sản phẩm và - Lao động là đồng nhất trong sản xuất ra tất cả các loại sản phẩm Trên thực tế, lao động không phải là yếu tố duy nhất để tạo ra sản phẩm, vì bên cạnh lao động còn có vốn, kỹ thuật đất đai Lao động cũng không phải đồng nhất mà có sự khác nhau rất lớn về kinh nghiệm, trình độ tay nghề, năng suất lao động Như vậy, lý thuyết tính giá trị bằng lao động là không phù hợp với thực tế, cần bác bỏ. Như thế, cũng có nghĩa là cần phải bác bỏ sự giải thích của Ricardo về lợi thế so sánh nhưng không có nghĩa là bác bỏ chính quy luật lợi thế so sánh của ông. Vậy thì dựa vào đâu để giải thích quy luật lợi thế so sánh? Vào năm 1936, Gottfried Haberler đã dựa trên lý thuyết chi phí cơ hội để giải thích quy luật lợi thế so sánh. Theo lý thuyết này thì chi phí cơ hội của một sản phẩm là số lượng của một sản phẩm khác mà người ta phải hy sinh để có đủ tài nguyên làm tăng thêm một đơn vị sản phẩm thứ nhất. Ví dụ: Nếu không có thương mại thì Mỹ cần phải bỏ ra 2/3 mét vải để có đủ tài nguyên sản xuất một giạ lúa mì. Như vậy, chi phí cơ hội để sản xuất ra một đơn vị lúa mì sẽ là 2/3 m vải. Còn ở Anh chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị lúa mì là 2 m vải. Như thế, chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị lúa mì của Mỹ thấp hơn của Anh và Mỹ sẽ có lợi thế so sánh so với Anh về lúa mì. Cũng tương tự, chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị vải của Mỹ là 3/2, của Anh là 1/2 giạ mì. Do đó, Anh sẽ có lợi thế so sánh thấp hơn so với Mỹ về vải. Kết quả này cũng đúng như trước đây đã nghiên cứu qua quy luật lợi thế so sánh của Ricardo, nhưng chỉ khác ở chỗ thay vì giải thích bởi lý thuyết tính giá trị bằng lao động, chúng ta đã giải thích bằng lý thuyết chi phí cơ hội, tránh được giả thiết cho rằng lao động là yếu tố duy nhất hay đồng nhất để tạo ra sản phẩm. Về thực chất, chi phí cơ hội chính là phát biểu khác của giá cả hàng hóa tương quan. Quan điểm của Haberler ưu việt hơn của David Ricardo ở chỗ không cần phải dựa trên bất kỳ giả định nào về lao động. b) Giới hạn khả năng sản xuất với chi phí cơ hội không đổi: Chi phí cơ hội có thể được minh hoạ bằng giới hạn khả năng sản xuất (PPF – the production possibility frontier). Khi chi phí cơ hội không đổi thì đó là một đường thẳng chỉ ra sự kết hợp thay thế nhau của 2 sản phẩm mà quốc gia có thể sản xuất khi sử dụng toàn bộ tài nguyên với kỹ thuật là tốt nhất. Đường giới hạn khả năng sản xuất của Mỹ và Anh trong ví dụ trên được minh hoạ bằng bảng và biểu đồ sau: 33
  34. Mỹ Anh Lúa mì Vải Lúa mì Vải 180 0 60 0 150 20 50 20 120 40 40 40 90 60 30 60 60 80 20 80 30 100 10 100 0 120 0 120 Giả sử nếu tập trung toàn bộ yếu tố sản xuất để sản xuất lúa mì thì Mỹ một năm sẽ sản xuất được 180 triệu giạ lúa mì. Nếu chỉ tập trung để sản xuất vải thì được 120 triệu mét vải. Còn ở giữa hai thái cực đó tồn tại một loạt các khả năng khác. Nếu bớt đi 30 lúa mì chúng ta sẽ có thêm được 20 mét vải, tức là 30 mì = 20 vải (cũng chính là chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị lúa mì là 2/3 mà chúng ta đã biết). Như vậy, chi phí cơ hội là bất biến (constant opportunity costs). Do đó, đường giới hạn khả năng sản xuất ở đây là đường thẳng có nghĩa là với bất cứ một sự phối hợp nào thì chi phí cơ hội để sản xuất thêm một đơn vị lúa mì đều bằng 2/3. Trong trường hợp với Anh cũng vậy, chi phí cơ hội để sản xuất một đơn vị lúa mì bất biến, bằng 2 (1 mì = 2 vải). Ta có thể biểu diễn giới hạn khả năng sản xuất của Mỹ và Anh qua biểu đồ sau. Mỗi một điểm trên đường giới hạn khả năng sản xuất biểu hiện một sự phối hợp giữa mì và vải mà mỗi quốc gia có thể sản xuất. 120 Vải Khi không có mậu dịch 120 Vải B’ 100 100 Mỹ 80 80 E Anh 60 60 E’ A’ 40 A 40 20 20 B 30 60 90 120 140 160 20 40 60 Lúa mì Lúa mì 34
  35. Những điểm nằm trong đường giới hạn khả năng sản xuất biểu thị nguồn tài nguyên không được sử dụng hoàn toàn, không hiệu quả. Còn những điểm bên ngoài đường PPF là không thể đạt tới bằng tài nguyên và kỹ thuật hiện có của quốc gia. Trong khi chi phí cơ hội là không đổi trong mỗi quốc gia thì nó lại khác nhau giữa các quốc gia và chính điều này làm cơ sở để sinh ra mậu dịch. Nếu không có mậu dịch, một quốc gia chỉ có thể tiêu dùng những gì mà họ tự sản xuất. Kết quả là giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó cũng là giới hạn tiêu dùng của họ. Khi không có mậu dịch, giả sử Mỹ chọn sự kết hợp sản xuất và tiêu dùng tại điểm A (90 giạ lúa và 60 m vải) trên đường giới hạn khả năng sản xuất của họ còn Anh có thể chọn sự kết hợp tại điểm A’ (40 giạ lúa và 40 m vải). Khi mậu dịch được mở ra, Mỹ sẽ chuyên môn hoá sản xuất lúa mì và sản xuất tại điểm B (180 giạ lúa và 0 m vải). Tương tự, Anh chuyên môn hoá sản xuất vải và sản xuất tại điểm B’ (0 giạ lúa và 120 m vải). Khung tỷ lệ trao đổi giữa hai quốc gia là 1/2 < Lúa mì/vải < 6/4. Giả sử tỷ lệ trao đổi là 1:1, Mỹ sẽ trao đổi 70 giạ lúa lấy 70 m vải. Bây giờ tiêu dùng của Mỹ đã chuyển đến điểm E (110 giạ lúa và 70 m vải), tiêu dùng của Anh chuyển đến điểm E’ (70 giạ lúa và 50 m vải). Nếu so sánh điểm E với điểm A và điểm E’ với điểm A’ thì ta thấy rõ ràng tiêu dùng của 2 nước đã tăng lên, biểu hiện lợi ích do mậu dịch mang lại, mà nguyên nhân sâu xa chính là mỗi nước đã đi vào chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh. Thật vậy, Mỹ đã tiêu dùng nhiều hơn 20 giạ lúa và 10 m vải còn Anh đã tiêu dùng nhiều hơn 30 giạ lúa và 10 m vải so với trước. Sở dĩ có sự gia tăng tiêu dùng cả 2 loại sản phẩm ở cả 2 quốc gia là vì có sự gia tăng tổng sản lượng. Khi không có mậu dịch, Mỹ chỉ sản xuất được 90 giạ lúa và Anh là 40 giạ lúa, tổng cộng là 130 giạ lúa. Với chuyên môn hoá, 180 giạ lúa được sản xuất tập trung hoàn toàn ở Mỹ. Tương tự, khi không có mậu dịch, Mỹ chỉ sản xuất được 60 m vải và Anh sản xuất được 40 m vải, tổng cộng là 100 m vải. Với chuyên môn hoá, 120 m vải đã được sản xuất tập trung hoàn toàn ở Anh. Như thế, nhờ chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm có lợi thế so sánh mà sản lượng đã gia tăng 50 giạ lúa và 20 m vải, làm gia tăng tiêu dùng ở mỗi quốc gia. Đây chính là lợi ích từ thương mại. Nếu không có thương mại, Mỹ không thể chỉ chuyên môn hoá sản xuất lúa mì và Anh không thể chỉ chuyên môn hoá sản xuất vải vì dân chúng cần phải sử dụng cả 2 sản phẩm. 2.2.5 Lý thuyết Heckscher – Ohlin – Nguồn lực sản xuất vốn có Trong các phần trước, chúng ta thấy rằng sự khác nhau về giá cả sản phẩm so sánh giữa hai quốc gia là bằng chứng của lợi thế so sánh và trên cơ sở đó hình thành mậu dịch có lợi cho đôi bên. Tuy nhiên, tại sao lại có sự khác nhau đó thì các nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith, David Ricardo đã không thể giải thích được. Theo họ, chỉ có một yếu tố duy nhất, đó là lao động và sự khác nhau về năng suất của các yếu tố đó là lý do cho mậu dịch giữa các quốc gia. Còn tại sao lại có sự khác nhau về năng suất lao động và các yếu tố sản xuất khác thì phải đợi đến Heckscher và Ohlin (sau này có thêm Samuelson là nhà kinh tế học người Mỹ) là các nhà kinh tế học người Thuỵ Điển mới giải thích được nguồn gốc. So với lý thuyết cổ điển, lý thuyết H – O không những giải thích được bản chất của lợi thế so sánh mà còn cho phép phân tích được tác động của thương mại quốc tế 35
  36. đến giá cả các yếu tố sản xuất và quá trình phân bổ tài nguyên và phân phối thu nhập giữa các quốc gia, cũng như trong mỗi quốc gia. a) Các giả thiết của mô hình H – O Lý thuyết H – O được xây dựng trên một số giả thiết nhằm làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên đơn giản hơn và trực tiếp hơn. Những giả thiết đó là: - Đối tượng nghiên cứu chỉ bao gồm hai quốc gia (quốc gia 1 và quốc gia 2), hai sản phẩm (sản phẩm X và sản phẩm Y) và hai yếu tố sản xuất (lao động và vốn). í nghĩa của giả thiết này làm cho việc minh họa lý thuyết trên đồ thị hai trục dễ dàng hơn. - Cả hai quốc gia có cùng một trình độ kỹ thuật công nghệ như nhau. Bản chất của giả thiết này là, nếu giá cả các yếu tố sản xuất là giống nhau thì để sản xuất một đơn vị sản phẩm thì các nhà sản xuất ở hai quốc gia sẽ sử dụng cùng một lượng lao động và vốn như nhau. Tuy nhiên, vì giá cả các yếu tố thường là khác nhau trong mỗi quốc gia nên các nhà sản xuất sẽ sử dụng nhiều hơn yếu tố nào rẻ hơn để đạt tới chi phí sản xuất là nhỏ nhất. - Các mặt hàng khác nhau sẽ có hàm lượng các yếu tố sản xuất khác nhau. Trong trường hợp này, sản phẩm X là sản phẩm sử dụng nhiều lao động hơn so với vốn và Y đòi hỏi nhiều vốn hơn là lao động để sản xuất ra nó. Nói một cách chính xác, điều đó có nghĩa là tỷ lệ lao động trên vốn của X cao hơn so với của Y ở cả hai quốc gia tại cùng một giá cả yếu tố. - Hiệu suất theo quy mô không đổi (constant returns to scale) trong sản xuất cả hai sản p hẩm ở hai quốc gia. Giả thiết này có nghĩa là sự tăng lên về số lượng lao động và tư bản để sản xuất bất cứ sản phẩm nào đều làm tăng sản lượng sản phẩm đó đúng như thế. Ví dụ: nếu quốc gia 1 tăng 10% lao động và vốn để sản xuất X thì sản lượng X cũng tăng lên 10%. Nếu tăng gấp đôi thì sản lượng X cũng tăng gấp đôi. Đối với Y cũng tương tự. - Cạnh tranh hoàn hảo tồn tại trên cả thị trường hàng hoá lẫn thị trường yếu tố sản xuất: Mức giá trên thị trường là duy nhất và được xác định bởi cung cầu và về dài hạn giá cả hàng hoá đúng bằng chi phí sản xuất. - Chuyên môn hoá là không hoàn toàn trong sản xuất ở cả hai quốc gia. Giả thiết này có nghĩa là ngay cả khi có trao đổi thương mại, hai quốc gia vẫn tiếp tục sản xuất cả hai sản phẩm. Có nghĩa là không có quốc gia nào là nhỏ. - Các yếu tố sản xuất có thể di chuyển tự do trong mỗi quốc gia nhưng không thể di chuyển giữa các quốc gia. Nghĩa là trong mỗi quốc gia, lao động và vốn là tự do di chuyển từ vùng này sang vùng khác, từ ngành này sang ngành khác, từ nơi có tiền công thấp đến những nơi cao hơn. - Thị hiếu hay sở thích tiêu dùng của hai quốc gia giống nhau. Nếu hai quốc gia có cùng mức thu nhập và mức giá cả hàng hoá thì sẽ có xu hướng tiêu dùng lượng hàng hoá như nhau. Trên đồ thị thì giả thiết này có nghĩa là hình dạng và vị trí của đường bàng quan là đồng nhất ở cả hai quốc gia. - Thương mại quốc tế là hoàn toàn tự do, không tính chi phí vận chuyển, không có thuế quan và những cản trở khác. Giả thiết này là chuyên môn hoá sản xuất cứ tiếp tục cho đến khi mức giá tương quan là như nhau ở hai quốc gia. b) Khái niệm hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào các yếu tố 36
  37. Lý thuyết H – O được xây dựng dựa trên hai khái niệm cơ bản là hàm lượng các yếu tố và mức độ dồi dào của các yếu tố. * Hàm lượng các yếu tố sản xuất: Một mặt hàng được coi là sử dụng nhiều lao động (có hàm lượng lao động cao) nếu tỷ lệ giữa lượng lao động trên vốn sử dụng để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng đó lớn hơn tỷ lệ tương ứng các yếu tố đó để sản xuất ra một đơn vị mặt hàng thứ hai. Tương tự, nếu tỷ lệ giữa vốn trên lao động là lớn hơn thì mặt hàng được coi là có hàm lượng vốn cao (sử dụng nhiều vốn). Ví dụ, mặt hàng X được coi là có hàm lượng lao động cao (sử dụng nhiều lao động) nếu: Lx / Kx > Ly / Ky. Trong đó, Lx và ly là lượng lao động cần thiết để sản xuất một đơn vị X và Y, Kx và Ky là lượng vốn cần để sản xuất ra một đơn vị X và Y. Giả sử muốn sản xuất một X thì phải dùng 1K và 4L, một Y thì 2K và 2L. Như vậy, đối với X K/L = 1/4 và đối với Y thì K/L = 1, tức là Y có hàm lượng vốn cao còn X có hàm lượng lao động cao. Lưu ý, định nghĩa về hàm lượng vốn hay lao động không căn cứ vào số lượng tuyệt đối vốn hay lao động mà được phát biểu dựa trên tương quan tương đối giữa lượng vốn và lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Có khi, mặc dù sử dụng một số lượng tuyệt đối vốn nhiều hơn nhưng sản phẩm đó vẫn có hàm lượng lao động cao và ngược lại, sử dụng một số lượng lao động nhiều hơn nhưng sản phẩm đó vẫn có hàm lượng vốn cao. Thí dụ sau đây minh hoạ điều đó. Giả sử: 1X thì cần 3K và 12L, 1Y cần 2K và 2L. Ta thấy, mặc dù để sản xuất 1X cần 3K trong khi 1Y chỉ cần có 2K nhưng Y vẫn có hàm lượng vốn cao bởi vì K/L đối với Y cao hơn đối với X. * Mức độ dồi dào của các yếu tố sản xuất: Nước A được coi là dồi dào tương đối về lao động nếu: LA / KA > LB / KB . Trong đó, LA và LB là lượng lao động, còn KA và KB là lượng vốn ở các nước A và B. Cũng như trường hợp hàm lượng các yếu tố sản xuất, mức độ dồi dào của một yếu tố sản xuất của một quốc gia được đo bằng tỷ lệ tương đối chứ không phải bằng số lượng tuyệt đối. Khái niệm này chỉ ra sự dồi dào của một quốc gia về một yếu tố sản xuất nào đó, có thể là lao động hay vốn. c) Định lý H – O Năm 1919, Eli Heckscher, nhà kinh tế học Thuỵ Điển đã cho xuất bản một bài báo nhan đề “Tác động của thương mại quốc tế đến phân phối thu nhập”, ở đó ông đã phác hoạ một mô hình mậu dịch mới, làm cơ sở để xây dựng lý thuyết hiện đại về mậu dịch quốc tế sau này. Tuy nhiên, bài báo đó đã không được chú ý lắm trong hơn 10 năm sau. Mãi đầu những năm 30, Bertil Ohlin, nhà kinh tế học Thuỵ Điển, đồng thời là học trò của Heckscher đã phát triển những ý tưởng của thầy để rồi đến năm 1933 xuất bản cuốn sách nổi tiếng “Mậu dịch liên vùng và mậu dịch quốc tế”. Ông là bộ trưởng thương mại Thuỵ Điển trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1977, Ohlin đã được tặng giải Nobel cho các công trình nghiên cứu khoa học của ông về kinh tế quốc tế và kinh tế học. Với các khái niệm cơ bản nêu trên thì nội dung của định lý H - O có thể phát biểu như sau: 37
  38. Một quốc gia sẽ xuất khẩu mặt hàng có hàm lượng cao yếu tố sản xuất mà quốc gia đó dồi dào tương đối và nhập khẩu mặt hàng có hàm lượng cao yếu tố sản xuất mà quốc gia đó khan hiếm tương đối. Trong ví dụ nghiên cứu trước đây của chúng ta, quốc gia 1 xuất khẩu sản phẩm X vì X là sản phẩm có hàm lượng lao động cao mà trong khi đó lao động là yếu tố dồi dào tương đối ở quốc gia 1. Còn quốc gia 2 xuất khẩu sản phẩm Y vì Y là sản phẩm có hàm lượng vốn cao mà vốn là yếu tố dồi dào tương đối ở quốc gia 2. Ngược lại, quốc gia 1 nhập khẩu Y vì Y là sản phẩm có hàm lượng vốn cao trong khi vốn là yếu tố dồi dào tương đối ở quốc gia này. Còn quốc gia 2 sẽ nhập khẩu sản phẩm X vì X là sản phẩm có hàm lượng lao động cao mà lao động là yếu tố khan hiếm tương đối của quốc gia này. (có thể nhắc lại các con số của ví dụ này và tính các tỷ lệ để xác định mặt hàng nào có hàm lượng yếu tố sản xuất nào cao, quốc gia nào có yếu tố nào là dối dào hoặc khan hiếm tương đối để sinh viên dễ hiểu và làm bài tập sau này). Như vậy, lý thuyết H - O đã giải thích sự khác nhau trong mức giá tương quan hay lợi thế so sánh giữa các quốc gia chính là sự khác nhau giữa các yếu tố sản xuất dồi dào hoặc khan hiếm tương đối hay nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi quốc gia. Để hiểu rõ hơn bản chất của lý thuyết H - O, chúng ta minh hoạ nó qua biểu đồ sau: Hình vẽ miêu tả hai đường PPF của quốc gia 1 và quốc gia 2. Vì X có hàm lượng lao động cao và quốc gia 1 dồi dào tương đối về lao động nên đường PPF của quốc gia 1 thoải về trục hoành. Còn Y có hàm lượng vốn cao và quốc gia 2 dồi dào tương đối về vốn nên đường PPF của quốc gia 2 thoải về trục tung. Theo giả thiết, hai quốc gia có thị hiếu như nhau nên họ có đường bàng quan như nhau (tức là cùng một nhóm các đường bàng quan). Đường bàng quan chung I của hai quốc gia tiếp tuyến với đường PPF của quốc gia 1 tại A và quốc gia 2 tại A’. Điểm A và A’ thể hiện những điểm cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng của hai quốc gia khi chưa có trao đổi thương mại. Độ dốc các đường tiếp tuyến với đường bàng quan I tại A và A’ chỉ ra mức giá tương quan giữa X và Y ở hai nước. Rõ ràng tiếp tuyến đi quan A có độ dốc thoải hơn tiếp tuyến đi quan A’ cho nên X ở quốc gia 1 rẻ hơn một cách tương đối so với ở quốc gia do đó quốc gia 1 có lợi thế so sánh về X. Tương tự, quốc gia 2 có lợi thế so sánh về Y. Khi đó, từng quốc gia sẽ thực hiện chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng mà nó có lợi thế so sánh. Y B’ QG 2 A’ E’ C’ E III PB’ II QG 1 I A C B P B X 38
  39. Khi có thương mại, quốc gia 1 chuyên môn hoá sản xuất X và quốc gia 2 chuyên môn hoá sản xuất Y. Quá trình chuyên môn hoá tiếp tục cho đến khi quốc gia 1 đạt tới điểm B và quốc gia 2 đạt tới điểm B’ trên các đường PPF. Tại đây, mức giá tương quan giữa X và Y ở hai nước trở nên cân bằng (PB // PB’). Tiêu dùng của hai quốc gia đã tăng lên và thể hiện tại điểm E và E’ trên đường bàng quan II và III. Tại mức giá cân bằng quốc tế, quốc gia 1 bây giờ sẽ xuất khẩu BC sản phẩm X để đổi lấy EC sản phẩm Y từ quốc gia 2 và quốc gia 2 sẽ xuất khẩu B’C’ sản phẩm Y để đổi lấy E’C’ sản phẩm X từ quốc gia 1. Chú ý rằng xuất khẩu X của quốc gia 1 bằng nhập khẩu X của quốc gia 2 (BC = E’C’), xuất khẩu Y của quốc gia 2 đúng bằng nhập khẩu Y của quốc gia 1 (B’C’ = EC). Do đó, hai tam giác thương mại của quốc gia 1 và quốc gia 2 là bằng nhau. * Cấu trúc cân bằng chung của học thuyết Heckscher – Ohlin. Cấu trúc cân bằng chung của học thuyết Heckscher – Ohlin được hình dung và tóm tắt trong hình 2.5. Bắt đầu tại góc phải phía dưới của sơ đồ, ta thấy rằng sở thích và sự phân phối theo quyền sở hữu các yếu tố sản xuất (nghĩa là phân phối thu nhập) xác định nhu cầu hàng hoá. Nhu cầu hàng hoá xác định nhu cầu dẫn xuất về yếu tố cầu để sản xuất chung. Lượng cầu về các yếu tố sản xuất, cùng với lượng cung sẽ xác định giá cả và yếu tố sản xuất trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo. Giá cả các yếu tố sản xuất cùng với công nghệ sẽ xác định giá cả của hàng hoá cuối cùng. Sự khác biệt về giá tương đối cuối cùng của hàng hoá giữa các nước quyết định lợi thế so sánh và mô hình thương mại (nghĩa là nước nào sản xuất hàng hoá gì). Cấu trúc cân bằng chung của học thuyết Heckscher – Ohlin GIÁ CẢ HÀNG HÓA Giá cả các yếu tố Công nghệ Nhu cầu dẫn xuất về yếu tố Nhu cầu về hàng hoá cuối cùng Cung về yếu tố Phân phối theo sở hữu Sở thích về yếu tố của sản xuất Hình chỉ rõ tất cả các lực lượng cùng với nhau quyết định giá cả hàng hoá như thế nào. Đây chính là cái mà chúng ta nói rằng mô hình Heckscher – Ohlin là mô hình cân bằng chung. Tuy nhiên, trong số tất cả các lực lượng tương tác này, định lý Heckscher – Ohlin tách riêng sự khác biệt về khả năng vật chất hay khả năng cung cấp các yếu tố sản xuất giữa các nước (với sở thích và công nghệ như nhau) để giải thích sự khác biệt về giá tương đối của hàng hoá và thương mại giữa các nước. Đặc biệt Ohlin giải thích sở thích (và phân phối thu nhập) giống nhau giữa các nước. Điều này dẫn đến nhu cầu giống nhau về hàng hoá cuối cùng và yếu tố sản xuất ở các nước khác nhau. Do đó, sự khác biệt về việc cung các yếu tố sản xuất ở các nước khác nhau là 39