Tài liệu Thông sử Trung Quốc - Phần 2

pdf 162 trang Đức Chiến 03/01/2024 680
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Thông sử Trung Quốc - Phần 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_thong_su_trung_quoc_phan_2.pdf

Nội dung text: Tài liệu Thông sử Trung Quốc - Phần 2

  1. 44. Hạp Lư tiến đánh Ảnh Đô Hạp Lư thấy thực lực nước Ngô đã được tăng cường, lại có hai viên đại tướng là Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ phò tá, sớm đánh vào nước Sở để tranh đoạt bá quyền. Tôn Vũ không đồng ý xuất xuân ngay, ông nói: - Nước Ngô ta mấy năm liền đánh trận liên miên, dân chúng mệt mỏi quá rồi, nên chờ thêm hai năm nữa, để cho dân chúng được nghỉ ngơi đã. Ngũ Tử Tư thì kiến nghị với Ngô Vương phân chia quân đội thành ba loạt. Trước tiên, cử loạt thứ nhất đến quấy phá biên giới nước Sở, chờ cho quân đội kéo ra nghênh chiến, quân Ngô lập tức lùi về, đợi cho quân Sở rút về, quân Ngô lại đổi loạt quân thứ hai tới quấy nhiễu. Như vậy, quân Ngô luân phiên quấy rối, quân Sở tất bật qua lại, không được nghỉ ngơi, thời gian kéo dài, tất nhiên sẽ mệt mỏi rời rã, mất hết ý chí chiến đấu. Tới lúc đó, nước Ngô hội hợp ba loại quân đó lại, tổng tấn công, nhất định sẽ giành được thắng lợi. Ngô Vương tiếp thu kiến nghị của Ngũ Tử Tư, một mặt tiếp tục chỉnh đốn nội chính, tích góp lực lượng; một mặt chia quân đi quấy rối nước Sở. Ngô Vương Hạp Lư lại trải qua sáu năm chuẩn bị, đến năm 14 Chu Kính Vương (năm 506 trước Công Nguyên), liền quyết định đánh Sở Hạp Lư bổ nhiệm Tôn Vũ làm chủ tướng. Ngũ Tử Tư làm phó tướng, người em của mình là công tử Phù Khái làm tiên phong, đích thân làm thống soái, soái lĩnh sáu vạn quân Ngô xuất phát dưới sự chỉ huy của Tôn Vũ, trước tiên quân Ngô theo đường thủy qua sông Hoài, sau đó lại chuyển sang đường bộ, thông qua biên giới hai nước Thái và Đường, lặn lội hơn một nghìn dặm, vu hồi tới miền Đông Bắc nước Sở, tập kích vào mặt sườn, tiến thẳng vào ảnh Đô. Quân Ngô năm lần đánh năm lần thắng, đã đánh cho 25 vạn đại quân nước Sở tơi bời tan tác. Sở Chiêu Vương hoảng sợ quá đã phải bỏ cả ảnh Đô tháo chạy thoát thân. Được Tôn Vũ, Ngũ Tử Tư hộ vệ, Hạp Lư tiến vào ảnh Đô. Ngũ Tử Tư khuyên Hạp Lư tiêu diệt ngay nước Sở. Tôn Vũ không đồng ý, nói: - Vì sao nước Sở lại rơi vào cảnh ngộ như ngày nay? Chính là vì Sở Bình Vương phế bỏ thái tử Kiến, lập con trai của Mạnh Doanh. Nếu chúng ta lập công tử Thắng lên làm vua Sở, khỏi phải nói công tử Thắng sẽ cảm kích chúng ta, sẽ nghe lời chúng ta, mà ngay cả đến dân chúng nước Sở cũng sẽ cảm kích chúng ta. Làm như vậy, ngoài mặt ta biểu thị sự khoan hồng đối với nước Sở, trên thực tế, có khác gì tiêu diệt nước Sở đâu, hơn thế, ta còn giành được tiếng tốt, há chẳng phải là càng tốt hơn hay sao? Hạp Lư không nghe theo lời Tôn Vũ, quyết định phá sạch, đốt sạch tông miếu của nước Sở. Thời cổ, tông miếu là thứ đại biểu cho một quốc gia; hủy hoại hết tông miếu có nghĩa là quốc gia đó đã bị diệt vong. Tiếp đó, Ngô Vương đã bầy đại tiệc ở trên cung điện vua Sở để chúc mừng thắng lợi. Mọi người đều vui mừng sung sướng, riêng chỉ có Ngũ Tử Tư là buồn bã chẳng vui. Ngô Vương hỏi: - Mục đích báo thù huyết hận của ngươi đã đạt được rồi, tại sao lại còn buồn nản như vậy?
  2. Ngũ Tử Tư nói: - Sở Bình Vương đã chết, Sở Chiêu Vương lại chạy trốn, thần không lột sống được da của chúng, không nhai sống được thịt của chúng, có chết thần cũng không nhắm được mắt. Ngô Vương hỏi: - Ngươi muốn được báo thù như thế nào? Ngũ Tử Tư nói: - Xin đại vương cho phép thần được khai quật mộ của Sở Bình Vương lên kéo thi hài của Sở Bình Vương ra, chặt đầu bêu chợ! Hạp Lư đã đồng ý. Ngũ Tử Tư dẫn đầu các binh sĩ dưới quyền tìm được phần mộ của Sở Bình Vương, cho đào lên, bật mở quan quách, kéo thi thể của Sở Bình Vương ra. Với mối thù hận tràn ngập trong lòng Ngũ Tử Tư tay xách roi da, xông tới chỗ thi thể Sở Bình Vương, ra sức quật mạnh, quật một mạch được hơn 300 roi mới dừng tay. Sau đó, Ngũ Tử Tư đã cắt đầu Sở Bình Vương, đem thi thể của Sở Bình Vương chặt thành từng miếng, vất rải rác khắp đồng ruộng. Sự việc Ngũ Tử Tư dùng roi quất vào thi thể Sở Bình Vương để phục thù đã được lan truyền đi rất nhanh. Sau khi người bạn cũ của Ngũ Tử Tư là Thân Bao Tư nghe nói vậy đã sai người đưa tới cho Ngũ Tử Tư một bức thư, đại ý trong thư nói rằng: “Việc báo thù này của ông thật là quá đáng, chỉ dựa vào vũ lực, lẽ dĩ nhiên cũng có thể nhất thời giành được thắng lợi, thế nhưng quá ư tàn bạo, cuối cùng cũng sẽ bị thất bại. Mong ông hãy mau mau rời khỏi nước Sở, nếu không, lời tôi nói là thiêng lắm đó!”. Ngũ Tử Tư đọc xong lá thư của Thân Bao Tư, suy nghĩ rất lâu, cuối cùng đã nói với người đưa thư: - Ngươi hãy thay ta chuyển lời nói với Thân Bao Tư, giữa trung và hiếu không thể trọn vẹn cả hai được. Ta cũng ví như người đi đường, trời đã rất tối rồi, mà đi đường vẫn còn rất xa. Chỉ cần đạt tới mục đích thì còn đếm xỉa gì đến cách đi nữa? Lúc đầu, Thân Bao Tư đã chẳng từng tiết lộ với Ngũ Tử Tư: “Nếu bạn diệt Sở thì tôi nhất định phục Sở”; bây giờ nghe xong câu trả lời của Ngũ Tử Tư, Thân Bao Tử cảm thấy nếu còn khuyên nữa cũng chẳng có ích gì, mà cần phải nhanh chóng nghĩ cách cứu vãn lại nước Sở. Thân Bao Tư nghĩ đến người mẹ của Sở Chiêu Vương là em gái của Tần ái Công; liền tới nước Tần để cầu cầu cứu binh lính. Tấn ái Công thấy nước Ngô cường thịnh, không muốn đắc tội với nước Ngô, nên không chịu xuất binh. Trước tình thế tổ quốc sắp bị diệt vong, nghĩ tới quê hương của cha mẹ bị người dày xéo mà không phương cứu vãn, Thân Bao Tư đau đớn cực độ, đứng ngay giữa triều đình nước Tần khóc lóc thảm thiết. Mọi người đều bỏ đi, ông vẫn đứng yên không động. Ông đã khóc như thế liền suốt bảy ngày, bảy đêm. Người nghe tiếng ông khóc, không ai là không cảm động trước tấm lòng yêu nước của ông. Tần ái Công nói:
  3. - Không ngờ Sở Chiêu Vương u mê ngu muội mà lại có kẻ hạ thần tốt như vậy, thật là hiếm có vậy. Tức thì Tần ái Công cử 500 chiếc binh xa tới cứu viện nước Sở. Quân Tần vừa kéo tới biên giới nước Sở, đã chạm trán ngay với quân Ngô. Lúc này, em trai của Hạp Lư là Phù Khái, tiên phong của quân Ngô đã lén lút chạy về nước Ngô, Phù Khái lừa dối mọi người dân trong nước nói: - Hạp Lư bị quân Tần đánh bại rồi, không biết sống chết thế nào. Sau đó Phù Khái tuyên bố kế thừa ngôi vua. Hạp Lư nhận được tin này vô cùng kinh ngạc. Đang cùng bàn bạc đối sách với Ngũ Tử Tư, lại có tin nước Việt thừa cơ đánh úp nước Ngô; đúng là đợt sóng này chưa yên, đợt sóng khác lại dồn tới. Hạp Lư chờ cho quân Tần vừa rút về, Hạp Lư lập tức hạ lệnh chuyển hướng đầu đoàn quân hỏa tốc trở về nước Ngô, trừng phạt Phù Khái. Phù Khái vốn dĩ chẳng có uy tín gì, các tướng sĩ trong Đô Thành nghe nói Hạp Lư dẫn đầu đại quân trở về, liền hăng hái chạy ra đầu hàng, rồi ngả theo. Phù Khái biết là đại thế đã mất, liền chạy trốn. Cuộc phản loạn đã được dẹp yên, Hạp Lư vẫn tại vị. Thế nhưng, từ đây về sau, nước Ngô và nước Việt đã hóa thành địch thủ của nhau. Ngô Vương đã thề phải trừng phạt nước Việt.
  4. 45. Câu Tiễn đại bại ở núi Cối Kê Ngô Vương Hạp Lư đã đánh bại nước Sở lớn mạnh, một lòng muốn khuếch trương thế lực ở khu vực Trung Nguyên, làm thủ lĩnh các nước chư hầu. Thế nhưng nước Việt ở phương Nam cũng đã ngày một cường thịnh lên, bắt đầu uy hiếp hậu phương của nước Ngô, khiến cho việc Bắc tiến xưng bá bị kiềm chế. Hạp Lư quyết định trước hết phải chinh phục nước Việt. Hạp Lư lấy cớ khi ông tiến đánh nước Sở thì nước Việt đã đánh úp nước Ngô, nên đã chuẩn bị xuất quân trừng phạt nước Việt. Năm 24 Chu Kinh Vương (năm 496, trước Công Nguyên), Việt Vương Doãn Thường qua đời, ông bất cháp sự phản đối của Ngũ Tử Tư, đích thân dẫn quân tiến đánh nước Việt. Việt Vương Câu Tiễn nhận được tin tình báo liền cất quân chống lại quân Ngô, cho bố trí trận địa ở vùng Tuy Lý (phía Tây Nam huyện Gia Hưng, tỉnh Triết Giang ngày nay). Trước thế trận tề chỉnh của quân Ngô, Câu Tiễn phái Đội cảm tử xông lên, thế nhưng binh sĩ của Đội cảm tử hai lần xông lên đều bị quân Ngô bắt sống, trận địa quân Ngô vẫn lặng yên bất động. Câu Tiễn lại nghĩ ra một kế sách: cưỡng bức một toán tù phạm đã bị phán xét xử tử hình, xếp thành ba hàng, mỗi người đặt một lưỡi kiếm lên trên cổ, hướng về phía trận địa quân Ngô, cao giọng nói to: - Hai quân đánh nhau, chúng tôi đã phạm phải quân lệnh, không xứng đáng là quân nhân nữa. Nay không dám trốn tránh hình phạt, xin tình nguyện dùng cái chết để chuộc tội. Nói xong, họ cùng tự vẫn. Hành vi kỳ quái đáng sợ này khiến tướng sĩ quân Ngô bị một cơn sốc kinh hoàng, mắt nhìn trơ trơ, ý chí chiến đấu rời rã, thế trận rối loạn. Chính trong lúc này đã nghe thấy tiếng trống thúc âm vang, tiếng gào thét dậy đất từ trong trại quân Việt phát ra, Câu Tiễn chỉ huy quân việt dùng thế dời núi, lấp biển lao thẳng vào quân Ngô xả thân chém giết. Quân Ngô bị đánh mạnh không kịp trở tay, toàn mặt trận tan vỡ, Hạp Lư bị một mũi giáo vào chân, giầy và nóng chân cái cũng bị chặt đứt, thiếu chút nữa là bỏ mạng. Nước Việt đã giành được một trận đại thắng. Trên mặt tinh thần, Ngô Vương Hạp Lư đã bị đánh một đòn chí mạng, cộng thêm tuổi già suy yếu, vết thương lại nặng, chưa trở về nước thì đã chết. Người kế ngôi vua là Phù Sai, con trai của Hạp Lư. Phù Sai quyết tâm báo thù cho cha. Phù Sai cử người đứng trước cửa cung điện, mỗi lần thấy ông ta ra vào thì không quên nhắc một câu có tính chất khích bác: - Phù Sai! Ngươi đã quên vụ Việt Vương giết chết cha ngươi rồi sao! Phù sai trả lời, nói: - Không! tôi không quên! Phù Sai tăng cường luyện binh, chờ đủ ba năm đoạn tang, sẽ cất quân đi đánh Việt để trả thù rửa nhục. Sau ba năm, Ngô Vương Phù Sai bổ nhiệm Ngũ Tử Tư làm Đại tướng, Bá Phỉ làm phó tướng, dẫn quân đội trong toàn quốc, đánh thẳng vào nước Việt. Việt Vương Câu Tiễn lập tức triệu tập các quan đại thần đến để bàn đối sách. Quan đại phu Phạm Lãi nói:
  5. - Để báo thù, Ngô Vương đã chuẩn bị suốt ba năm trời, binh mạnh, ngựa khỏe, rất khó có thể dịch được. Chúng ta chỉ thể kiên trì giữ, né tránh mũi kích xung phòng của chúng! Một quan đại phu khác là Văn Chủng cũng nói: - Thần nghĩ chi bằng ta cầu hòa, trước mắt cứ để cho nước Ngô rút hết quân rồi sẽ liệu: Câu Tiễn lại không nghĩ như vậy, nói: - Nước Ngô là kẻ thù truyền đời của chúng ta, chúng kéo tới, chúng ta phải ứng chiến, không đánh mà lại cầu hòa, để cho người ta cười cho à? Tức thì Câu Tiễn liền dẫn quân ra nghênh địch. Lần này là thủy chiến, Phù Sai đứng ở đầu thuyền, đích thân thúc trống trợ chiến. Quân Ngô cưỡi gió thuận nước lướt tới, mũi tên bắn vào binh thuyền nước Việt như mưa. Quân Việt phải ngược gió ngược, nước, thuyền không tiến được, mũi tên cũng không tới được chỗ đối phương, hoàn toàn rơi vào thế bị động, quân lính chết và bị thương nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Câu Tiễn đành phải bỏ thuyền trốn lên núi Cối Kê (phía Đông Nam huyện thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang ngày nay). Quân Ngô lên bờ truy đuổi rồi vây chặt Câu Tiễn. Lúc này, Văn Chủng lại nêu kiến nghị giảng hòa với Ngô Vương. Câu Tiễn hỏi: - Quân Ngô đã giành thắng lợi lớn, liệu vua Ngô có bằng lòng không? Văn Chủng nói: - Ngô Thái Tể Bá Phỉ là một kẻ tiểu nhân, tham tiền, háo sắc, lại giỏi đánh vào tâm lý của Phù Sai, cho nên đối với Bá Phỉ, Phù Sai luôn luôn tâm phục. Chỉ cần lôi kéo mua chuộc được hắn, để hắn thay chúng ta nói với vua Ngô, thì tất vua Ngô phải bằng lòng chứ? Câu Tiễn lập tức để cho Văn Chủng đem theo mỹ nữ, vàng bạc, châu báu, ngay đêm đó tới gặp Bá Phỉ. Vừa gặp Bá Phỉ, Văn Chủng bèn dâng lễ lên, nói: - Việt Vương Câu Tiễn tuổi trẻ, không hiểu biết, đã mạo phạm tới quý quốc, bây giờ rất hối hận. Để chuộc lại lỗi lầm. Câu Tiễn tình nguyện làm thần tử hầu hạ nước Ngô, sợ vua Ngô không bằng lòng. Nhờ ngài nói giúp mấy lời vàng ngọc với vua Ngô. Chút lễ mọn này xin ngài nhận cho. Từ nay về sau phàm những gì ngài cần, đại vương chúng tôi nhất định tận lực báo đáp! Bá Phỉ kênh kiệu, cười nhạt nói: - Nước Việt các ngươi sắp tận số rồi, lúc đó, tất cả của cải của các ngươi đều là của nước Ngô chúng ta. Thứ lễ vặt vãnh này khỏi cần phải đưa tới. Văn Chủng nói: - Lời của ngài đương nhiên là có lý, thế nhưng ngài đã nghĩ chưa hết, hiện tại nước Việt có năm nghìn quân tinh nhuệ, có thể quyết một trận sống mái, dù đánh không thắng, chúng tôi chỉ châm một ngòi lửa đốt cháy hết của cải, châu báu của mình thì quý quốc sẽ thu được gì nào? Giả dụ có giành được của cải thì phải ưu tiên cho hoàng cung, bản thân ngài phỏng chừng được bao nhiêu? Nay, nếu ngài giúp đại vương chúng tôi giảng hòa thành công, đại
  6. vương chúng tôi sẽ không quên ân đức của ngài, trong số báu vật hàng năm cung phụng cho quý quốc, nhất định ngài phải được nhận trước tiên. Bá Phỉ vừa nghe Văn Chủng nói vừa ngắm đoàn mỹ nữ đẹp như hoa tựa ngọc, ước lượng số vàng bạc châu báu óng ánh phát quang, chỉ hận là không thể nuốt chửng hết được. Ngày hôm sau Bá Phỉ đem ý kiến xin cầu hòa của Việt Vương nói cho Ngô Vương Phù Sai biết. Lúc đầu, Phù Sai không bằng lòng với những lời nói mặn mà của Bá Phỉ, cuối cùng cũng đành phải đồng ý, không những thế còn yêu cầu áp tải vợ chồng Việt Vương Câu Tiễn sang nước Ngô. Văn Chủng đều bằng lòng cả. Sự việc đang có chiều hướng ổn thỏa, đột nhiên Ngũ Tử Tư ngáng trở, nói: - Hai nước Ngô Việt có mối thù truyền đời, không thể cùng tồn tại được. Bây giờ nước Việt sắp sửa bị tiêu diệt rồi, thế mà đại vương lại đồng ý giảng hòa, chẳng hóa Chúa công đã quên mối thù lớn của tiên Vương, một việc hệ trọng mà ba năm nay mọi người vẫn phải nhắc Chúa công ở cung đình hay sao? Những lời nói của Ngũ Tử Tư đã làm cho Phù Sai ngớ người ra. Nhất thời Phù Sai không dám quyết định, chỉ đưa mắt nhìn Bá Phỉ. Bá Phỉ nhanh chân bước lên trước, nói với Ngũ Tử Tư: - Xin hỏi tướng quốc, năm xưa nước Sở giết chết cha anh của ngài, về sau ngài đánh bại nước Sở, đã báo được thù, ngài đâu có tiêu diệt nước Sở! Nay, cả vua và hoàng hậu nước Việt đều phải sang làm con tin ở nước Ngô, thế thì khác gì đã tiêu diệt nước Việt? Phù Sai vội nói: - Lời nói rất có lý, thôi cứ để vợ chồng Câu Tiễn tới nước Ngô! Vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi đã tới nước Ngô, đem theo mỹ nữ cùng của cải dâng Phù Sai và các quan đại thần khác. Các quan đại thần đều lấy làm hài lòng, riêng Ngũ Tử Tư là lo lắng, vì nếu không tiêu diệt nước Việt, thì một sớm một chiều Câu Tiễn sẽ vùng dậy báo thù. Ngô Vương phạt vua tôi Câu Tiễn phải sống trong một ngôi nhà đá bên cạnh phần mộ Hạp Lư, quản việc chăn nuôi ngựa. Phù Sai thường xuyên cử người tới thám. Thấy vua tôi Câu Tiễn mặc quần áo rách rưới, ăn cháo cám, rau dại cầm hơi, Câu Tiễn thì trông nom tầu ngựa, Phạm Lãi cắt cỏ, đốn củi, Câu Tiễn phu nhân thì giặt quần áo, nấu cơm, ai nấy cực khổ hết chỗ nói, Phù Sai cho rằng bọn người này đã tiêu tan ý chí chiến đấu, nên không để ý phòng bị nữa. Ba năm trôi qua, bất giác Phù Sai cảm thấy thương hại vua tôi Câu Tiễn, lại thêm Bá Phỉ nói đỡ, liền muốn tha cho bọn chúng về nước. Ngũ Tử Tư biết chuyện, chạy tới khuyên can, ông nói: - Bài học lịch sử của Hạ Kiệt, Ân Trụ, xin đại vương chớ quên. Họ bắt được đối thủ là Thương Thang, Văn Vương nhưng không giết, vô hình chung lưu lại hậu hoạn, kết quả là bị Thương Thang, Văn Vương tiêu diệt. Nay kẻ thù Câu Tiễn đang trong tay đại vương, thế mà đại vương lại tha cho về. Đó chẳng phải là thả hổ về rừng, rồi sẽ rơi vào kết cục của Hạ Kiệt và Ân Trụ sao? Phù Sai giật thót mình, quyết không thả Câu Tiễn về nữa.
  7. Đúng lúc đó Phù Sai bị ốm. Phạm Lãi kiến nghị Câu Tiễn nên tới thăm bệnh cho Phù Sai, tỏ lòng trung thành với Ngô Vương, giành lấy tín nhiệm của Ngô Vương. Câu Tiễn nhất nhất bằng lòng. Hôm sau, trước hết Câu Tiễn tới bái kiến, nói rõ ý đồ với Bá Phỉ. Bá Phỉ liền dẫn Câu Tiễn tới thăm Phù Sai. Câu Tiễn thoáng thấy Phù Sai nằm trên giường, liền quỳ mọp xuống nói: - Nghe nói đại vương mắc bệnh, kẻ tôi tớ này rất lo lắng, chỉ hận là Phù Sai đang muốn đi đại tiện nên ngắt lời Câu Tiễn và khoát tay một cái. Mọi người tả hữu đều lui ra, thế nhưng Câu Tiễn vẫn đứng lại, nói với Phù Sai: - Nhà vua có bệnh, cũng coi như thần tử có bệnh. Kẻ tôi đòi này muốn được tận trung hầu hạ đại vương; không những thế, còn có biệt tài phán đoán bệnh tình nặng nhẹ qua phân người Phù Sai đại tiện xong, Câu Tiễn bước lên, đưa mắt nhìn trước, nhìn sau, tự mình nếm thử rồi lại quỳ xuống chúc mừng đại bệnh của Phù Sai sắp qua. Phù Sai cảm động lắm, hứa là sau khi bình phục sẽ tha cho Câu Tiễn về nước. Kỳ thực Phù Sai chỉ mắc chứng thương phong cảm mạo, qua mấy hôm thì dứt. Quả nhiên, Phù Sai vừa khỏi bệnh, thì vợ chồng Câu Tiễn cũng được tha và được trở về nước Việt. Đó là năm 29 Chu Kính Vương (năm 491, trước Công Nguyên).
  8. 46. Nằm gai nếm mật Câu Tiễn đã về đến nước Việt. Để ghi nhớ nỗi đại sỉ nhục ba năm trước bị vây khốn trên núi Cối Kê, ông đã dời quốc đô tới Cối Kê. Để tránh bị sa ngã trước những cám dỗ tầm thường, suy giảm ý chí báo thù, ông đã tự dấn thân vào cảnh sống cực kỳ gian khổ. Buổi tối Câu Tiễn ngủ trên cỏ rơm, lại treo một túi mật đắng ở trong phòng, khi ăn cơm phải nếm mật trước, ý rằng đừng quên đắng cay của quá khứ. Câu tiễn còn đích thân ra đồng cày cấy, để vợ se đay, dệt vải, mục đích là kể kích động dân chúng nỗ lực phát triển sản xuất, tăng thêm của cải cho đất nước. Ông quyết định trong bảy năm liền không thu tô thuế, cốt để tăng thêm tích lũy cho xã hội, nhân dân yên tâm sản xuất. Để tăng thêm nhân khẩu, tăng nguồn lao động, bổ sung binh lính, Câu Tiễn hạ lệnh không cho phép thanh niên lấy vợ già, người già không lấy vợ trẻ. Thanh niên nam nữ đến tuổi xây dựng gia đình mà không chịu thành hôn thì cha mẹ phải chịu xử phạt. Ai sinh con, nuôi được con khôn lớn, quan phủ đều có thưởng. Sinh được từ một con trai trở lên, quan phủ sẽ nuôi dưỡng. Và như vậy, ở nước Việt, vua dân trên dưới, tu chí phấn đấu vươn lên, chỉ trong mấy năm đất nước đã chuyển dần từ yếu sang mạnh, thực lực đã tương đối hùng hậu. Để che mắt Ngô vương Phù Sai, Câu Tiễn thường xuyên sai sứ giả tới nước Ngô triều kiến, tiến cống, hơn thế, còn tăng thêm cống phẩm mà không giảm. Phù Sai rất hài lòng, càng thêm quý trọng sự “trung thành” của Câu Tiễn. Câu Tiễn được biết Phù Sai sắp xây dựng lại Cô Tô Đài, đã sai ngay Văn Chủng đưa gỗ tới. Phù Sai trông thấy những cây gỗ vừa dài vừa lớn, thì vồ vập ra mặt, lập tức hạ lệnh thiết kế lại từ đầu kiểu dáng của cung điện theo kích thước gỗ, cử thêm dân công tới phục vụ lao dịch. Cô Tô Đài được xây dựng suốt tám năm dòng mới xong, hao người, tốn của không biết đâu mà kể. Câu Tiễn lại sai Văn Chủng và Phạm Lãi tuyển chọn được cô gái xinh đẹp nhất nước Việt là Tây Thi và Trịnh Đán đem dâng Ngô Vương. Kể từ khi Phù Sai được hai mỹ nữ, suốt ngày lo hưởng lạc thú, việc quốc sự bỏ bê trễ. Có một năm, nước Việt mất mùa, hỏi vay lương thực nước Ngô, Phù Sai nể tình Câu Tiễn “trung thành” nhất mực, bất chấp sự phản đối của Ngũ Tử Tư, đã bằng lòng cho nước Việt một lượng thóc khá lớn. Nước Việt đem số thóc này chia cho dân chúng. Sang năm sau, mùa màng nước Việt tương đối tốt. Câu Tiễn rất coi trọng chữ tín, lại thấy những hạt thóc mà Câu Tiễn hoàn trả căng mẩy, tròn trịa, bèn đem số thóc này chia cho dân chúng làm thóc giống. Mùa xuân, dân chúng nước Ngô đem thóc gieo trồng, nhưng mãi không thấy mọc mầm, tất nhiên cũng chẳng mọc được thành mạ, hậu quả đã gây ra thất bát thu hoạch một năm. Thì ra số thóc mà nước Việt trả nước Ngô đều đã bị luộc chín. Bọn Phù Sai thì vẫn cho rằng đất đai của nước Ngô không thích hợp với sự sinh trưởng của giống thóc nước Việt. Năm 36 Chu Kính Vương (năm 484, trước Công Nguyên), Ngô Vương Phù Sai cất quân đi đánh Tề. Ngũ Tử Tư lại phản đối: - Thần nghe nói sau khi Câu Tiễn về nước đã cùng đồng cam cộng khổ với dân chúng, lại cử Phạm Lãi đêm ngày luyện binh, mưu đồ phục thù. Đây chính là điều Chúa công lo trước nhất. Thế mà Chúa công lại đi đánh nước Tề. Đó chẳng phải là quá mạo hiểm sao?
  9. Phù Sai không chịu nghe, thân chinh dẫn quân đi đánh Tề. Trận này đã đại thắng. Phù Sai ca khúc khải hoàn trở về, tất cả các quan trong triều đều tới chia vui. Việt Vương Câu Tiễn cũng đích thân tới chúc mừng. Phù Sai vô cùng sung sướng, bày tiệc chiêu đãi Câu Tiễn, rồi ban thưởng tức khắc cho Câu Tiễn một bộ phận đất phong. Ngũ Tử Tư chứng kiến cảnh này, lại đứng ra phản đối, khiến Phù Sai mất vui. Về sau, Phù Sai đã cử Ngũ Tử Tư đi sứ tới nước Tề. Ngũ Tử Tư đã lường trước mối họa mình phó thác cho một vị đại thần nước Tề nuôi dưỡng, đổi họ thành Vương Tôn Thị, sau đó mới trở về Ngô. Phù Sai biết sự việc này, lập tức sai người đưa cho Ngũ Tử Tư một thanh bảo kiếm, bắt phải tự sát. Ngũ Tử Tư bị bức phải tuốt kiếm tự vẫn. Trước lúc chết ông còn căn dặn: - Sau khi tôi nằm xuống, xin hãy trồng lên mộ tôi một cây Thu, khi cây Thu lớn thì nước Ngô cũng sẽ diệt vong. Ngoài ra xin hãy khoét đôi con ngươi mắt của tôi treo lên trên lầu cửa phía Đông Đô Thành. Chả là tôi muốn được tận mắt chứng kiến quân Việt kéo tới! Phù Sai giết chết Ngũ Tử Tư, để cho Bá Phỉ kế nhiệm chức tướng quốc. Năm 38 Chu Kính Vương (năm 482 trước Công Nguyên), Phù Sai cùng các nước chư hầu Tấn, Lỗ tới hội thề lập liên minh ở Hoàng Trì, (phía Tây nam huyện Phong Khưu, tỉnh Hà Nam ngày nay). Câu Tiễn cho rằng cơ hội đã tới, tức thì thống soái 5 vạn đại quân đánh thẳng vào nước Ngô. Qua ba ngày kịch chiến, quân Việt đã đánh hạ được Đô Thành nước Ngô, bắt sống Thái tử nước Ngô. Phù Sai đang ở Hoàng Trì được tin này, vội vàng dẫn quân trở về nước, cử người tới nước Việt cầu hòa. Câu Tiễn hiểu rằng nước Ngô còn thực lực, chưa dễ mà tiêu diệt được, liền bằng lòng giảng hòa, rồi rút quân ra khỏi nước Ngô. Bốn năm sau, Việt Vương Câu Tiễn lại một lần nữa cất quân đi đánh nước Ngô. Ngô Vương nghênh chiến ở Lạp Trạch, quân đội hai bên dàn thế trận cách nhau một dòng sông. Việt Vương chia quân đội ra thành hai đường tả, hữu, lợi dụng đêm tối, luân phiên tấn công, thúc trống la hét tiến quân. Quân Ngô chỉ dám chống cự một cách bị động. Lúc này, Câu Tiễn chỉ huy quân Việt lén lút qua sông, phát động cuộc tiến công mãnh liệt vào đại bản doanh của quân Ngô. Quân Ngô phút chốc rối loạn, nhanh chóng bị đánh tan rã trên toàn tuyến, quân lính đại bại phải chạy trốn. Quân Việt thừa thắng đuổi theo, liên tiếp đánh bại quân Ngô. Phù Sai bị vây khốn ở Dương Sơn (phía Tây huyện Ngô, tỉnh Giang Tô ngày nay), cùng đường hết lối, đành phải cầu hòa với Câu Tiễn. Bá Phỉ sớm đầu hàng. Phạm Lãi và Văn Chủng đều cho rằng trong giờ khắc mấu chốt này không thể mềm lòng được, họ nói: - Đại vương đã nằm gai, nếm mật, gắng sức tự cường, cố sức suốt 22 năm, giờ là lúc phải trừ diệt Phù Sai tận gốc, tiêu diệt nước Ngô, tuyệt đối không để lại hậu họa. Lúc này, Phù Sai mới cảm thấy hối hận vì đã không nghe lời khuyên trung thực của Ngũ Tử Tư. Tự thẹn với đời, ông ta ngậm lời tự sát. Trước khi chết còn dặn dò: - Sau khi ta chết, các ngươi hãy dùng vải che kín mặt ta, bởi ta thực sự không còn mặt mũi nào gặp lại Ngũ Tử Tư! Năm 44 Chu Kính Vương (năm 476, trước Công Nguyên) Việt Vương Câu Tiễn đã tiêu diệt xong nước Ngô, lại giết chết Bá Phỉ. Tiếp đó, Câu Tiễn thống soái quân Việt thừa thắng vượt qua Hoàng Hà tiến lên phía Bắc, tới hội thề liên minh với các nước chư hầu như Tề, Tấn,
  10. Tống, Lỗ ở đất Từ (phía nam huyện Đằng, tỉnh Sơn Đông ngày nay); rồi sai người đem cống phẩm tới cho Thiên Tử nhà Chu. Chu Nguyên Vương sai sứ giả đem thịt đến tế miếu Câu Tiễn, thừa nhận địa vị làm lãnh tụ các nước Chư hầu của Câu Tiễn. Như vậy là Việt Vương Câu Tiễn cũng đã xưng bá, trở thành một bá chủ cuối cùng của thời đại Xuân Thu. Ngô Vương Phù Sai sau khi đánh bại nước Việt, đã bị thắng lợi làm cho mụ mị đầu óc, bị tha hóa trong an nhàn hưởng lạc, buông lỏng cảnh giác, kết quả là đã bị nước Việt tiêu diệt. Còn Việt Vương Câu Tiễn, sau khi bị thảm bại, đã phấn đấu gian khổ, tự lực tự cường, cuối cùng đã tiêu diệt được nước Ngô, hơn thế đã tiến vào xưng bá ở Trung Nguyên.
  11. 47. Tử Sản đúc đỉnh hình Mấy chuyện trên kể về các sự việc xảy ra ở nước Ngô và nước Việt ở phương Nam. Bây giờ lại kể một vài câu chuyện về Tử Sản ở nước Trịnh, thuộc phương Bắc. Tử Sản, tên gọi là Kiều, là cháu của Trịnh Mục Công, cho nên gọi là Công Tôn Kiều, nguyên là nhà chính trị nổi tiếng của nước Trịnh ở cuối thời Xuân Thu. Cha của ông là Tử Quốc làm qua chức Tư Mã; các anh em của cha Tử Sản có bảy người, trước sau đều chịu ảnh hưởng của gia đình, từ lúc còn trai trẻ đã có những kiến giải chính trị rõ ràng, Trịnh Giản Công nguyên niên (565, trước Công Nguyên), Tử Quốc, Tử Nhĩ dẫn quân đi đánh nước Thái, đã thu được thắng lợi một cách dễ dàng. Người nước Trịnh đều rất vui, khen ngợi Tử Quốc có bản lĩnh. Chỉ có Tử Sản không cho là như vậy, Tử Sản nói với cha rằng: - Trịnh là một nước nhỏ. Một nước nhỏ không dốc sức vào việc cai trị tốt nội chính, mà cứ ham hố đi đánh trận ở bên ngoài thì đó là điều nguy hiểm bậc nhất. Nước Thái là thuộc quốc của Sở, nếu nước Sở tới báo thù thay nước Thái, liệu chúng ta có thể đánh nổi họ không? Đánh không nổi thì phải đầu hàng. Như vậy thì nước Tần ở phương Bắc lại sẽ kéo quân tới hỏi tội. Nước Tấn, nước Sở đánh qua đánh lại, con cho rằng trong vòng bốn năm năm, nước Trịnh ta không thể yên ổn được. Tử Quốc nghe xong bực tức, chửi: - Con thì hiểu được cái gì? Việc quốc gia đại sự có quan chính khanh (chức quan tương đương với Tề Tướng) làm chủ. Trẻ con mà nghị luận tùy tiện sẽ bị chặt đầu đó! Chính vào mùa đông năm ấy, nước Sở lấy cớ nước Trịnh xâm lược nước Thái, đã cất quân đánh vào nước Trịnh. Nước Trịnh không đủ sức chống cự, đã bị khuất phục. Trịnh Giản Công lại sợ nước Tấn tới hỏi tội, vội vàng cử người tới nước Tấn để giải thích. Tấn Điệu Công bực tức nói: - Nước Sở tới đánh các người, các người cũng chẳng thèm sai lính tới báo cho ta biết. Các người đã đầu hàng nước Sở rồi, ta cũng chẳng quản được công việc của các người, ta sẽ đem các nước chư hầu tới gặp vua các người ngay dưới chân Đô Thành đó! Mùa đông năm sau, nước Tấn tới đánh nước Trịnh, nước Trịnh lại phải cầu hòa. Nước Tấn vừa rút quân, nước Sở tới hỏi tội. Kẻ đi, người tới, nước Trịnh mấy năm liền không được yên ổn, thật đúng như Tử Sản đã dự đoán. Năm thứ hai Chu Cảnh Vương (năm 543, trước Công Nguyên), Tử Sản làm quan chính khanh của nước Trịnh. Nước Trịnh lúc đó là một quốc gia có nền thương nghiệp tương đối phát đạt, thế nhưng thế lực của các quý tộc cũ còn rất mạnh, có thực quyền, tùy tiện dùng tội hình để áp bức thương nhân và những người chống đối. Viên quan tiền nhiệm là Tử Tứ, vì chỉnh đốn địa giới đất đai, đã chiếm dụng một số ruộng đất của quý tộc. Số quý tộc này liền nổi loạn, giết chết Tử Tứ, Tử Quốc và Tử Nhĩ. Tử Sản không hề khiếp sợ, vì mục đích làm cho nước giàu, binh mạnh, ông đã mạnh dạn thực hành một số cải cách xã hội. Ông hạ lệnh đem ruộng đất phân vạch rõ địa giới, đào mương ngòi, công nhận quyền tư hữu ruộng
  12. đất. Ruộng tư thì thu thuế theo mẫu, nông dân được biên chế theo quy định. Điều này đã hạn chế hành vi tùy tiện cướp đoạt, thôn tính của giới quý tộc cũ, Tử Sản còn quy định: những người nông dân có chiến công, có thể được làm giáp sĩ, tức là nhân viên quân sự chủ yếu ở trên chiến xa khi tác chiến. Thời bình, giáp sĩ đảm nhiệm chức quan nhỏ của nước chư hầu. Cho nên giáp sĩ thuộc hàng ngũ giai cấp thống trị. Việc những người nông dân có chiến công có thể được làm giáp sĩ đã phá vỡ sự hạn chế về thân phận đối với giáp sĩ từ trước, thúc đẩy sự biến hóa của quan hệ giai cấp. Đối với một số quý tộc trung thành, sống giản dị, chất phác sẽ được khen thưởng. Đối với những người coi thường pháp luật, sống xa xỉ, lãng phí thì sẽ bị trừng phạt. Số quý tộc cũ không dám làm mưa làm gió như trước nữa. Tử Sản, một mặt cho phép dân chúng được nghị luận chính trị, mặt khác ông rất lắng nghe và tiếp thu những ý kiến của mọi người. Để bảo đảm cho việc tiến hành cải cách xã hội, Tử Sản đã tăng cường pháp chế. Để khiến cho đất nước có pháp luật làm căn cứ, ông đã chủ trì đặt ra một hệ thống pháp luật nhà nước - đó là hình thư, ghi chép các điều luật hình sự. Bộ hình thư này thoạt đầu được viết trên những thanh trúc mộc, do quan chức nhà nước thi hành. Năm thứ 9 Chu Cảnh Vương (năm 536, trước Công Nguyên), Tử Sản hạ lệnh đem hình thư đúc lên trên đỉnh, đặt ở trước cửa cung vua, sao cho dân chúng cả nước đều có thể thực mục sở thị. Đây chính là đỉnh hình nổi tiếng. Pháp luật vừa được công bố, dân chúng đã tranh nhau tới xem đỉnh hình đặt ở trước cung vua, nhờ vậy mà họ hiểu rõ hơn việc quốc sự. Các quý tộc cũ càng không dám tùy tiện giải thích pháp luật theo ý mình, càng không thể tùy tiện xử phạt người như trước. Tử Sản tiến hành cải cách chính trị được đúng một năm, thì vấp phải sự phản đối của các quý tộc cũ, trước hết là một bài ca dao nguyền rủa. Bài ca dao có đoạn: Bắt ta cởi áo mũ Thu cất ở trong nhà, Rồi đo lại điền sản Tính toán và khảo ra. Ai đi giết Tử Sản? Ta nhất định tham gia! Tử Sản nghe hát mà không hề nao núng. Ông nói: - Chỉ cần có lợi cho đất nước, dẫu chết ta cũng chẳng từ nan. Việc thi hành thiện chính không thể thay đổi giữa chừng được. Ta sẽ kiên trì tới cùng. Đối với những lời phê phán thiện ý, Tử Sản đều khiêm tốn lắng nghe. Sau khi ông chấp chính không lâu, có một số người thường xuyên tụ tập ở hương hiệu (trụ sở của làng) để phê phán chế độ chính trị của nhà nước đương thời. Có một người tên gọi Nhiên Minh, không chấp nhận hiện tượng này, đã kiến nghị với Tử Sản: - Hãy cho đóng chặt cửa các hương hiệu lại, đừng để họ làm rối lòng dân. Tử Sản trả lời, nói:
  13. - Tại sao lại phải đóng cửa hương hiệu? Khi mọi người nhàn rỗi tới đây vui chơi, bàn bạc về sự được mất của các nhà chấp chính, có gì là không tốt? Điều họ cho là tốt thì ta phải làm theo. Điều họ cho là không tốt, thì ta phải sửa chữa. Họ chính là thầy của ta đó. Tử Sản lại nói: - Bịt chặt miệng người đời, không cho nói, khác nào chặn đứng dòng nước, một khi vỡ đê, nước ào tới thì mối nguy càng lớn, chi bằng cứ để lại một lỗ cửa nhỏ, cho nước từ từ chảy qua; nói trắng ra là, ta cứ coi những lời phê bình lọt tai như thang thuốc thần trị bệnh! Nhiên Minh nghe xong rất bái phục. Năm thứ ba, kể từ khi Tử Sản nắm chính quyền, nước Trịnh lại lưu truyền một câu ca dao. Ca dao hát rằng: Chúng ta có con em Được Tử Sản dạy dỗ, Chúng ta có ruộng vườn Được Tử Sản giúp đỡ Sản lượng thóc nâng cao Sống no đủ dồi dào Trên đời có người nào Tốt bằng Tử Sản được? Lúc này, một loạt biện pháp cải cách của Tử Sản đã thu được hiệu quả tốt đẹp, được mọi người ủng hộ. Về mặt ngoại giao, Tử Sản tiến hành đấu tranh thuyết lý với các nước lớn và đã giành được thành công rất to lớn, mang lại sự tôn nghiêm cho nước Trịnh. Có một lần, Tử Sản tháp tùng Trịnh Giản Công tới nước Tấn, Tấn Bình Công vốn coi khinh nước Trịnh, cố ý không hội kiến, cũng không cử quan đại thần chiêu đãi, cứ để mặc họ ở trong quán khách. Cánh cửa quán khách rất nhỏ, xe ngựa không vào được, đành phải cho xe đỗ ở bên ngoài. Tử Sản dặn dò các nhân viên uy tùy tùng phá vỡ một đoạn tường vây của quán khách nước Tấn, để cho toàn bộ xe ngựa của mình vào được phía trong. Quan đại phu nước Tấn là Sĩ Văn Bá trách móc Tử Sản không được phá đổ tường vây. Tử Sản trả lời: - Nước Trịnh là một nước nhỏ, nhất nhất phải theo sự chỉ bảo của đại quốc, không dám chểnh mảng. Lần này, vua chúng tôi đích thân đem lễ vật tới thăm viếng quý quốc. Không ngờ, các ông vẫn không hội kiến và cũng không biết bao giờ mới có thể hội kiến được. Chúng tôi cũng chẳng dám mạo muội đưa lễ vật tới, sợ cứ để mãi bên ngoài, dãi giàu mưa gió, sẽ bị hư hỏng hết. Còn quán xá đón khách thì sơ sài, hệt như phòng ở của kẻ nô bộc; cửa vào thì thấp bé, ngay đến xe cũng chẳng qua được. Nếu chúng tôi không phá tường vây cho xe ngựa vào trong sân quán khách, vạn nhất có thể xảy ra sự cố gì, hẳn là các ông sẽ buộc tội cho chúng tôi?
  14. Lời của Tử Sản đã buộc Sĩ Văn Bá câm miệng. Sĩ Văn Bá đem những lời nói của Tử Sản báo cáo lại cho quan đại thần chấp chính nước Tấn là Triệu Văn Tử biết. Triệu Văn Tử nghe xong, vội vàng bắt Sĩ Văn Bá thay mình đón tiếp và xin lỗi Tử Sản. Sau đó, Tấn Bình Công đã hội kiến với Trịnh Giản Công và Tử Sản rất long trọng; lại còn cử hành yến tiệc rất thịnh soạn tiễn họ trở về nước. Từ năm thứ 2 đến thứ 23 Chu Cảnh Vương (năm 522 trước Công Nguyên), Tử Sản đã chấp chính được trên 20 năm. Trong thời gian này, về đối nội, ông đã tăng cường được khối đoàn kết, xúc tiến phát triển kinh tế; về đối ngoại, ông đã duy trì được sự tôn nghiêm của quốc gia, khiến các nước lớn không dám khinh thường nước nhỏ. Tử Sản quả đã giành được những thành tựu to lớn: quốc gia ổn định, sản xuất phát triển, dân chúng thu được rất nhiều lợi ích. Truyền thuyết kể rằng, khi Tử Sản qua đời, người nước Trịnh đau buồn giống như mất một người thân. Thời kỳ Xuân Thu (từ năm 770 đến năm 476, trước Công Nguyên) là thời kỳ có nhiều biến động xã hội lớn. Một số người yêu cầu tiến hành cải cách. Tử Sản cai trị nước Trịnh và Quản Trọng cai trị nước Tề đã kể ở trên, Yến Anh cai trị nước Tề sẽ kể ở chương dưới, tất cả đều là những cải cách có cùng một nội dung, nghĩa là có lợi cho sản xuất và và đời sống của nhân dân. Đến cuối thời kỳ Xuân Thu, loại cải cách này là manh nha cuộc cải cách chế độ xã hội - từ chiếm hữu nô lệ sang phong kiến. Công cuộc cải cách kéo dài hơn 200 năm, ở một quốc gia cá biệt vào cuối thời kỳ Xuân Thu (ví dụ như nước Trịnh) đến cuối thời kỳ Chiến Quốc mới hoàn thành được ở một khu vực rộng lớn trên đất Trung Quốc lúc đó.
  15. 48. Yến Tử làm tướng nước Tề Năm 14 Chu Cảnh Vương (năm 531, trước Công Nguyên) người cháu của Sở Trang Vương là Sở Linh Vương cất quân tấn công nước Trần và nước Thái. Hai nước vội vàng cầu cứu nước Tấn. Tấn Bình Công sợ không địch nổi nước Sở, nên không dám xuất quân. Các nước ở Trung Nguyên thấy nước Tấn suy yếu, đã dần dần xa lánh nước Tấn. Sau vài năm, Tấn Bình Công muốn chỉnh đốn lại nghiệp bá, dự định bắt đầu khai đao từ nước Tề tương đối mềm yếu, liền sai quan đại phu là Phạm Chiêu đi sứ nước Tề do thám thực hư. Phạm Chiêu tới nước Tề, Tề Cảnh Công sai quan thượng đại phu là Yến Tử bày tiệc chiêu đãi. Trong yến tiệc, Phạm Chiêu nói với Tề Cảnh Công: - Xin hãy đem cốc rượu của nhà vua cho tôi dùng. Tề Cảnh Công lập tức dặn dò, nói: - Hãy rót đầy cốc rượu của Tề Cảnh Công lên uống. Yến Tử nhìn vậy, rất không vui, nghĩ thầm, làm một thần tử mà lại vô lễ, dám đụng đến cả cốc của hoàng thượng? Liền sai tên lính hầu nói: - Rút bỏ cốc rượu này đi, thay cho nhà vua một cốc rượu sạch khác. Phạm Chiêu biết Yến Tử không hài lòng, bèn vờ say, đứng dậy khiêu vũ. Phạm Chiêu nói với nhạc sư: - Xin ngài hãy tấu một khúc nhạc của Thành Chu để ta khiêu vũ (Thành Chu là địa danh, thời Đông Chu đã từng coi Thành Chu là Đô Thành, bởi Đô Thành là nơi Thiên tử ở, cho nên nhạc Thành Chu là chỉ âm nhạc chuyên dùng để hầu hạ Thiên tử nhà Chu). Nhạc sư nghiêm khắc cự tuyệt, nói: - Xin thứ lỗi, hạ thần không thể Phạm Chiêu thấy thần tử của nước Tề rất khó chơi vội vàng bỏ dở buổi tiệc, trở về quán khách. Tề Cảnh Công biết đã đắc tội với sứ giả nước Tấn, liền nói với Yến Tử: - Tấn là một nước lớn, họ cử sứ giả tới để giao thiệp với chúng ta, lẽ ra phải chiêu đãi làm vừa lòng sứ giả, thế mà ngươi lại đắc tội, bây giờ còn biết làm thế nào? Yến Tử nói: - Phạm Chiêu không phải là người không biết lễ tiết, thần hiểu rằng ông ta muốn thử thăm dò thái độ của chúng ta, cho nên phải để cho ông ta nếm thử một đòn lợi hại. Tề Cảnh Công lại hỏi nhạc sư, nhạc sư nói:
  16. - Âm nhạc Thành Chu là dùng cho Thiên tử. Người khiêu vũ nhất định phải là nhà vua thì nhạc ấy mới được tấu. Phạm Chiêu chỉ thần tử, lại muốn dùng nhạc của Thiên tử, cho nên thần không thể tấu cho ông ta được. Phạm Chiêu trở về nước Tấn, báo cáo lại trung thực mọi tình hình mà ông ta quan sát được trong khi ở nước Tề cho Tấn Bình Công nghe, rồi nói: - Bây giờ không phải là lúc đánh nước Tề. Thần muốn làm nhục Vua nước họ. Yến Tử tử đã hiểu rõ dụng tâm của thần. Thần cố ý buộc họ diễn tấu âm nhạc của thiên tử, song, nhạc sư của họ đã cự tuyệt. Nước Tề có những nhân tài tuyệt vời, sao có thể coi thường mà tấn công họ được? Tấn Bình Công đành phải hủy bỏ ý định của mình. Một thời gian sau, Tề Cảnh Công thấy nước Tấn bề ngoài tỏ ra mạnh, nhưng bên trong thì trống rỗng, chẳng có gì ghê gớm cả. Nhìn lại nước Tề của mình thì thấy có rất nhiều hy vọng, liền nảy ra ý nghĩ khôi phục lại nghiệp bá của thời Hoàn Công. Tề Cảnh Công cho rằng, muốn xây dựng lại nghiệp bá từ đầu, nhất định phải có quan hệ tốt với nước Sở nhằm lôi kéo họ, liền cử Yến Tử đi sứ sang nước Sở. Yến Tử họ Yến tên gọi là Anh. Yến Tử là tiếng gọi tôn trọng của mọi người đối với ông. Ông học rộng, lắm tài, thông minh, giàu trí tuệ, là nhà chính trị nổi tiếng của nước Tề, đã làm được rất nhiều việc khiến nước Tề được giàu mạnh. Ông quan tâm tới nỗi khổ của nhân dân, thường xuyên dùng phương pháp khéo léo để khuyên can Tề Cảnh Công, do đó đã để lại rất nhiều chuyện cảm động lòng người. Chuyện đối phó với sứ giả nước Tấn là Phạm Chiêu vừa kể trên, chỉ là một ví dụ. Sở Linh Vương được tin Yến Tử sắp tới, liền nói với các quan đại thần: - Yến Tử là một quan đại thần giỏi nói năng, tài biện luận của nước Tề, tiếng tăm vang dội, uy tín lẫy lừng. Thế nhưng ông ta thân cao chưa đầy năm thước (một thước trong thời Xuân Thu ước khoảng 7 tấc Trung Quốc hiện nay), ta muốn hạ nhục hắn một trận, và cũng để dạy cho hắn biết oai phong của nước Sở chúng ta. Các ngươi có diệu kế gì không? Có một viên quan đại thần ghé sát vào tai Sở Linh Vương lầm bầm hồi lâu, Sở Linh Vương hớn hở nheo mắt cười, liên tục nói: - Hay, hay lắm! Cứ làm như vậy nhé! Sở Linh Vương ra lệnh cho quân lính ngay đêm đó khoét một lỗ nhỏ chỉ cao khoảng năm thước bên cạnh cửa thành, rồi dặn dò bọn lính canh cổng: - Chờ khi sứ thần nước Tề tới nơi, thì khóa chặt cửa lớn lại, để hắn phải chui qua lỗ nhỏ này mà vào. Sau đó không lâu Yến Tử xuất hiện. Thấy cửa lớn chưa mở, liền cho xe dừng lại, rồi cho người tới gọi cửa. Các binh sĩ canh cửa nói: - Nghe nói sứ thần nước Tề thân hình thấp bé, có thể chui qua lỗ nhỏ mà vào thành, cần gì phải mở cửa lớn nữa. Yến Tử nghiêm khắc nói:
  17. - Đây là lỗ chó chui, không phải dành cho người. Chỉ có người đi sứ nước chó mới vào thành qua lỗ chó chui. Lẽ nào ta lại đi sứ tới nước chó hay sao? Bọn lính canh chưng hửng, đành phải mở cử thành, nghênh đón Yến Tử. Yến Tử báo kiến Vua Sở. Sở Linh Vương cười khà khà nói: - Sao? Nước Tề hết người rồi sao? Yến Tử trả lời: - Không! Chỉ riêng Đô Thành Lâm Truy của nước Tề chúng tôi đã có mấy vạn, nếu mọi người cùng dơ ống tay áo lên thì có thể che kín được cả mặt trời. Mỗi người chỉ hà một hơi thì bầu trời liền xuất hiện ngay một đám mây đen. Mỗi người chỉ nhỏ một giọt mồ hôi, lập tức sẽ có mưa to. Người đi đường vai sát vai thì năm đầu ngón chân của người đi sau sẽ dẫm lên gót chân của người đi trước. Sao lạ dám nói nước Tề hết người được? Sở Linh Vương nói: - Vậy cớ sao lại cử một mẩu người như ngươi làm sứ giả. Yến Tử nhếch mép cười, nói: - Nước Tề chúng tôi có một quy định rõ ràng về sứ giả: Những người có đức, có tài thì được đi sứ những nước có người hiền tài làm vua. Những người chẳng ra gì thì đi sứ những nước có người ngu muội làm vua. Tôi là người chẳng ra gì, chỉ có thể được đi sứ tới nước Sở của các ngài thôi. Sở Linh Vương cảm thấy Yến Tử quả thật lợi hại, không dám tiếp tục biện luận nữa, liền cung kính mời Yến Tử ngồi vào bàn rượu. Khi mọi người đang uống rượu vui vẻ, bỗng nhiên có hai tên lính áp giải một tên tù phạm bước qua dưới điện. Sở Linh Vương hỏi: - Tên tù phạm này người ở đâu? Phạm tội gì? Tên lính trả lời: - Người nước Tề, phạm tội ăn cắp ạ. Sở Linh Vương cảm thấy Yến Tử quả thật lợi hại, không dám tiếp tục biện luận nữa, liền cung kính mời Yến Tử ngồi vào bàn rượu. Khi mọi người đang uống rượu vui vẻ, bỗng nhiên có hai tên lính áp giải một tên tù phạm bước qua dưới điện. Sở Linh Vương hỏi: - Tên tù phạm này người ở đâu? Phạm tội gì? Tên lính trả lời: - Người nước Tề, phạm tội ăn cắp ạ. Sở Linh Vương đưa mắt nhìn thẳng vào Yến Tử, rồi cười khì khì nói: - Người nước Tề đều giỏi trộm cắp à? Các đại thần nước Sở cùng ngồi dự tiệc nghe vậy, liền cười ầm lền. Yến Tử rời chỗ ngồi, ung dung trả lời, giọng đĩnh đạc:
  18. - Tôi nghe nói, cây quýt sinh trưởng ở vùng Nam Hoài Hà, quả mọc ra vừa lớn lại vừa ngọt, nếu đem cây quýt ấy trồng ở những nơi thuộc phía Bắc Hoài Hà thì chỉ có thể sinh ra những quả quýt hôi vừa bé lại vừa chua. Tại sao quýt ngọt lại có thể biến thành hôi được? Chính vì thủy thổ ở Hoài Nam và Hoài Bắc không giống nhau! Cũng như vậy thôi, người nàyở nước Tề thì không trộm cắp, vừa mới tới nước Sở đã biến thành kẻ trộm rồi. Có lẽ là do thủy thổ nước Sở không tốt, nên cho dân chúng dễ dàng biến thành những kẻ trộm cắp chăng? Sở Linh Vương lại bị nếm một đòn đau, đành phải nói: - Ta chỉ muốn đùa tiên sinh một chút thôi, chẳng ngờ lại bị tiên sinh biến thành trò cười. Tức thì Sở Linh Vương càng thêm cung kính đối với Yến Tử. Khi Yến Tử sắp đi, Sở Linh Vương đã biếu ông tất nhiên nhiều đồ vật, hơn nữa còn đích thân tiễn Yến Tử về. Yến Tử đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh đi sứ nước Sở. Tề Cảnh Công thấy Yến Tử đã giành lại vẻ vang cho đất nước, rất hài lòng liền đề bạt ông làm Tướng Quốc. Khi đó, ở nước Tề có ba đại lực sĩ, một người gọi là Công Tôn Tiệp, một người là Điền Khai Cương, còn một người nữa là Cổ Dã Tử, cùng hiệu xưng là “Tề quốc tam kiệt”. Do có sức mạnh phi thường nên họ rất được Tề Cảnh Công sủng ái. Yến Tử gặp ba người này bao giờ cũng cung kính lễ phép bước nhanh đi qua. Ngược lại, ba người này thì chẳng bao giờ chịu dừng lại, vì trong thâm tâm, họ đã rất coi thường Yến Tử. Họ ỷ thế được Tề Cảnh Công sủng ái, nên mặc sức làm mưa làm gió. Khi đó họ Điền Thị ở nước Tề, thế lực ngày càng lớn, đã liên hiệp được với mấy nhà đại quý tộc trong nước, đánh bại họ Loan và họ Cao nắm giữ thực quyền, nhờ thế mà uy vong càng ngày càng cao, trực tiếp uy hiếp nền thống trị của nhà vua. Điền Khai Cương thuộc một tộc của họ Điền. Yến Tử rất lo “Tam Kiệt” sẽ dốc sức vì họ Điền, làm nguy hại đến đất nước, muốn trừ bỏ họ, lại sợ nhà vua không những không nghe, ngược lại, còn làm hỏng việc. Tức thì Yến Tử ngấm ngầm sắp đặt mưu kế diệt trừ. Một hôm, Lỗ Chiêu Công tới thăm nước Tề. Tề Cảnh Công bày tiệc chiêu đãi. Nước Lỗ do Thúc Tôn Nhược chấp hành nghi lễ, nước Tề do Yến Tử chấp hành nghi lễ. Vua tôi bốn người ngồi trên sảnh đường. “Tam Kiệt” đeo kiếm đứng dưới sảnh đường, thái độ vô cùng ngạo mạn. Chính giữa lúc hai vị vua đã ngà ngà say, Yến Tử nói: - Kim Đào trong vườn đã chín, xin cho ngắt mấy quả đem về mời hai vị vua thưởng thức của lạ. Tề Cảnh Công truyền lệnh sai người đi ngắt đào. Yến Tử nói: - Kim Đào là của hiếm, xin cứ để tự thần ngắt đem về. Lát sau, Yến Tử dẫn quan coi vườn bưng một khay ngọc trên đựng sáu quả đào, mỗi quả to bằng miệng bát, sắc bóng mỡ, hương thơm sực nức, đưa tới. Cảnh Công hỏi: - Chỉ kết được có mấy quả thôi à? Yến Tử nói: - Vẫn còn mấy quả nữa, nhưng còn xanh nên chỉ ngắt sáu quả này.
  19. Nói xong, bèn cung kính hiến dâng lên Lỗ Chiêu Công, Tề Cảnh Công mỗi người một quả. Lỗ Chiêu Công vừa ăn vừa khen Kim Đào có mùi thơi vị ngọt. Tề Cảnh Công nói: - Loại Kim Đào này không dễ dàng có được đâu. Quan Thúc Tôn đại phúc nổi tiếng trong thiên hạ, nên ăn một quả. Thúc Tôn Nhược khiêm tốn nói: - Thần đâu dám sánh với Yến tướng quốc! Tướng quốc hợp sức giúp nhà vua quản lý việc triều đình, công trạng lẫy lừng, chư hầu bái phục, đào này phải để mời tướng quốc ăn. Tề Cảnh Công nói: - Thúc Tôn Đại Sư đã nhường nhịn tướng quốc, thì xin mời hai vị mỗi người ăn một quả Kim Đào vậy! Hai vị đại thần tạ ơn Cảnh Công. Yến Tử nói: - Trong khay vẫn còn hai quả, xin nhà vua truyền lệnh cho các vị thần tử kể công trạng của mình, ai có công lớn thì thưởng Kim Đào. Tề Cảnh Công nói: - Như vậy rất tốt! Rồi liền truyền lệnh xuống. Lời nói chưa dứt thì Công Tôn Tiệp đã bước tới, dương dương tự đắc nói: - Tôi đã theo chúa Công lên núi săn bắn, đột nhiên có một con Hổ lớn đeo kính xộc tới vồ Chúa công, tôi đã đem toàn bộ sức lực đánh chết ác thú, cứu được Chúa công. Công lao to lớn như vậy, lại không được ăn quả đào sao? Yến Tử nói: - Liều chết cứu chúa, công tựa thái sơn, đáng được ăn một quả đào. Công Tôn Nhược tiếp nhận một quả đào rồi bước đi. Cổ Dã Tử gào to: - Đánh chết một con hổ thì có chi là tài! Khi tôi hộ tống Chúa công qua Sông Hoàng Hà, có một con ba ba cắn chặt chân ngựa của Chúa công, chỉ thiếu chút nữa là lôi ngựa xuống giữa dòng chảy xiết. Tôi đã nhảy xuống sông giết chết con ba ba đó, cứu được Chúa công. Công lao lớn như vậy, có đáng mặt ăn Kim Đào không? Cảnh Công nói: - Khi đó sông Hoàng Hà cuồn cuộn, nếu không phải là tướng quân chém ba ba trừ quái, hẳn mạng sống của trẫm khó có thể bảo toàn được. Đây chính là kỳ công cái thế, theo lý trí thì nên được ăn Kim Đào. Yến Tử vội vàng đưa cho Cổ Dã Tử một quả Kim Đào.
  20. Điền Khai Cương nhìn thấy Kim Đào đã phân phát hết, vội vã nhảy ra thét lớn: - Tôi đã từng phụng mệnh đi đánh nước Từ, giết chết chủ tướng của chúng, bắt được trên 500 tù binh, vua nước Từ hoảng sợ đã phải xưng thần, nạp cống, mấy nước nhỏ lân cận cũng hăng hái quy thuộc vào nước Tề chúng ta. Công lao to lớn như vậy, lẽ nào lại không được ăn một quả đào? Yến Tử vội vàng nói: - Công lao của Điền tướng quân gấp 10 lần công lao của Công Tôn tướng quân và Cổ Dã tướng quân, thế nhưng Kim Đào đã chia hết rồi, xin mời tướng quân uống tạm một cốc rượu vậy, chờ Kim Đào trên cây chín, sẽ mời tướng quân ăn trước. Tề Cảnh Công cũng nói: - Công lao người lớn nhất, chỉ tiếc là xưng ra muộn quá! Điền Khai Cương tay cầm đốc kiếm thở hổn hển nói: - Giết ba ba, đánh hổ thì có gì là ghê gớm! Tôi lăn lội hàng ngàn dặm, ra sống vào chết, thế mà không được ăn đào, đã vậy lại phải chịu hổ nhục nhã ngay trước ngai rồng nhà Vua hai nước, tôi còn mặt mũi nào để mà sống nữa. Nói rồi đột nhiên vung lưỡi kiếm tự vẫn. Công Tôn Tiệp giật mình kinh sợ, liền tuốt kiếm ra nói: - Tôi có công lao nhỏ bé mà lại được ăn đào, công lao của Khai Cương to lớn lại không được ăn, tôi thật chẳng còn mặt nào để mà sống nữa! Nói rồi liền tự sát. Cổ Dã Tử không kìm nổi tức giận gào to: - Ba người chúng tôi là anh em kết nghĩa. Hai người anh em tôi đều đã chết, sao tôi có thể sống một mình được? Nói xong cũng tuốt kiếm ra tự vẫn. Tề Cảnh Công vội vàng ngăn cản thì đã không kịp nữa rồi. Lỗ Chiêu Công nhìn thấy cảnh tượng này, luyến tiếc nói: - Tôi nghe nói ba vị tướng công đều là dũng sĩ, vạn người không địch nổi, tiếc là chỉ vì một quả đào mà phải chết uổng. Tề Cảnh Công yên lặng không nói, sắc mặt buồn thảm. Lúc này Yến Tử bình thản nói: - Họ đều là những kẻ thất phu hữu dụng, vô mưu, tuy có công lao nhưng cũng chẳng vì thế tiếc rẻ. Lỗ Chiêu Công lại hỏi: - Những dũng sĩ như thế này của quý quốc còn có mấy người nữa? Yến Tử nói:
  21. - Những người văn võ toàn tài, thực sự túc trí đa mưu, dũng mạnh thiện chiến, có tới mấy chục. Những kẻ vũ phư như ba người bọn họ đây lại càng nhiều. Có điều là nhiều hơn vài người hoặc ít hơn vài người thì có gì là ghê gớm đâu. Các vị khỏi cần bận tâm, xin cứ uống rượu đi. Nói xong Yến Tử lại chuốc rượu nhà vua của hai nước. Sau khi Lỗ Chiêu Công về rồi, Tề Cảnh Công hỏi Yến Tử: - Trong tiệc rượu nhà ngươi ứng đáp trôi chảy, đúng là đã bảo toàn được thể diện của nước Tề, chỉ e rằng khó có thể tìm được những nhân tài giống như “Tam Kiệt” thế này. Yến Tử nói: - Thần xin tiến cử với Chúa công một người, sợ rằng tam kiệt gặp lại cũng chẳng thể dịch được nổi. Tề Cảnh Công vội hỏi: - Người đó là ai? Mau mời lại đây! Thì ra con người này chính là Điền Nhương Thư, Đại tướng nước Tề, về sau nổi tiếng khắp thiên hạ. Từ đó, nước Tề văn có Yến Tử, võ có Điền Nhương Thư, đã trở thành một quốc gia nước giàu, binh mạnh, tuy uy phong không bằng thời Tề Hoàn Công, nhưng không kẻ nào dám ức hiếp.
  22. 49. Điền Nhương Thư chấp pháp Như Sơn Về Điền Nhương Thư, từ xưa tới nay người đời vẫn truyền tụng câu chuyện không né tránh quyền quý, chấp pháp như sơn của ông. Từ khi nước Tề bị mất địa vị bá chủ thì thế nước dần dần suy yếu. Thời Tề Cảnh Công luôn bị nước Tấn và nước Yên thường xuyên xâm phạm biên giới. Tề Cảnh Công lên ngôi được vài năm, thành Đông A và một vùng đất rộng lớn phía nam sông Hoàng Hà của nước Tề đều bị mất. Tề Cảnh Công rất lo lắng Yến Anh biết Điền Nhương Thư tinh thông binh pháp, là một người văn võ toàn tài, liền tiến cử với Tề Cảnh Công, rồi kiến nghị Tề Cảnh Công trọng dụng ông. Tề Cảnh Công hiềm nỗi Điền Nhương Thư xuất thân thấp hèn, sợ không làm nổi việc đại sự, còn đang do dự chưa dám quyết. Chẳng ngờ, nước Tấn nghe nói “Tam Kiệt” của nước Tề đều đã chết cả, liền móc nối với nước Yên, lại tới xâm phạm nước Tề và nhân cơ hội này cướp lấy một ít địa bàn. Tình thế vô cùng nguy cấp, Tề Cảnh Công đành phải vội vã triệu kiến Điền Nhương Thư, cử ông làm đại tướng, dẫn đầu 500 binh xa, nhanh chóng xông ra đối địch. Điền Nhương Thư thầm nghĩ, bản thân mình xuất thân thấp hèn, bỗng chốc lên làm đại tướng, chưa chắc các tướng chịu phục, vạn nhất khi lâm trận họ không nghe theo sự chỉ huy, để hỏng việc lớn thì sẽ xử sao đây? Điền Nhương Thư liền nói với Tề Cảnh Công: - Thần may mắn được Chúa công đề bạt làm Đại tướng, thống soái quân đội toàn quốc, thần vô cùng cảm kích. Thần muốn Chúa công cử một viên quan đại thần được Chúa công tín nhiệm nhất, có địa vị tôn quý, cho làm giám quân. Tề Cảnh Công đồng ý, liền bổ nhiệm quan đại phu mà mình sủng ái nhất là Trang Cổ làm giám quân. Điền Nhương Thư gặp Trang Cổ, bàn việc xuất quân, lúc chia tay ước hẹn với Trang Cổ: - Ngày mai đại quân tập hợp, mời giám quân đúng giờ ngọ có mặt tại doanh trại. Trang Cổ vừa gật đầu đồng ý, vừa giơ tay tạm biệt. Điền Nhương Thư vội trỏ về doanh trại, lệnh cho một tên lính chôn một cột gỗ thẳng đứng trên bãi trống ngoài cửa doanh trại, để hôm sau quan trắc bóng của cây gỗ đổ dưới ánh nắng mặt trời mà đoán định thời gian Trang Cổ sẽ tới doanh trại. Trang Cổ là một sủng thần của Tề Cảnh Công, địa vị cao sang hiển hách, thường ngày vẫn ỷ quyền thế nhà vua, quen thói ngang tàng, lúc này càng chẳng coi Điền Nhương Thư rra gì. Buổi trưa hôm sau, các bè bạn thân thiết của Trang Cổ, các quan viên trong triều đình đều tới tiễn Trang Cổ đi. Trang Cổ mở yến tiệc trong phủ, tận tình mời rượu những người tới đưa tiễn. Trang Cổ say túy lúy, quên hẳn việc hẹn định phải có mặt tại doanh trại quân đội vào buổi trưa. Tiệc rượu tàn, mặt trời đã sắp sửa khuất núi Trang Cổ mới khệnh khạng ngồi xe tới doanh trại. Điền Nhương Thư đã chỉnh đốn xong quân đội từ lâu, chỉ còn chờ giám quân Trang Cổ tới. Thế nhưng giờ ngọ đã qua, Trang Cổ vẫn chưa hiện diện. Điền Nhương Thư ra lệnh cho
  23. tên lính hạ đổ cây cột gỗ xuống, chứng tỏ Tề Cảnh Công đã thất hẹn, sau đó bước vào quân doanh tuyên bố kỷ luật binh lính. Thời gian cứ trôi qua, trời đã sắp tối, Trang Cổ mới có mặt ở quân doanh. Điền Nhương Thư hỏi: - Tại sao bây giờ giám quân mới tới? Trang Cổ cho là chuyện vặt, liền cười khì khì nói: - Bạn bè đến tiễn đưa, mải vui một trận, uống thêm mấy bát rượu, hỏi sao không muộn? Thôi được, bây giờ thì cũng xuất phát! Điền Nhương Thư nghiêm khắc nói: - Ngươi biết không, người làm tướng, kể từ phút nhận mệnh lệnh xuất chinh, phải có gan vứt bỏ gia đình, một lòng vì nước, chấp hành kỷ luật, phải dám rũ bỏ việc riêng, xung phong hãm trận, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nay quân địch đang ở trước mặt, dân chúng kinh hoàng, vua ăn ngủ không yên, sự an nguy của đất nước đều đặt trên vai chúng ta. Tại sao ngươi có thể mải nhậu nhẹt với lũ người đưa tiễn, để đến nỗi lỡ hết thời gian? Trang Cổ thấy Điền Nhương Thư tỏ ra quá cẩn trọng, nghiệt ngã, trong lòng không vui, đã toan nổi cáu. Chợt Điền Nhương Thư quát hỏi: - Quan quân pháp đâu? Quan quân pháp hấp tấp bước ra. Điền Nhương Thư hỏi: - Quá giờ không tới, theo quân pháp phải xử tội gì? Quan quân pháp nói: - Chém đầu! Trang Cổ vừa nghe thấy chữ “chém” thì hoảng sợ nhẩy cẫng lên, sai thuộc hạ chạy về cầu cứu Tề Cảnh Công. Thế nhưng, người đi cầu cứu chưa kịp quay lại, thì cái đầu Trang Cổ đã rụng. Tướng sĩ ba quân đều bàng hoàng kinh động. Tề Cảnh Công nghe nói Điền Nhương Thư sẽ xử tử Trang Cổ, vội phái sứ giả cầm phù tiết tới miễn tội cho Trang Cổ. Sứ giả được phụng mệnh vua, hăng máu phóng xe như bay xông vào trong quân doanh, hét lớn: - Người kia, mau hạ đao xuống, hoàng thượng đã miễn tội cho Trang giám quân rồi đó! Điền Nhương Thư quát sứ giả phải dừng lại, nói: - Tướng ở trong quân, có thể không phục tùng mệnh lệnh nhà vua! Sau đó lại hỏi quan quân Pháp: - Với những người dám xông vào doanh trại quân đội nên trừng trị như thế nào? Quan quân pháp nói: - Cần chém đầu!
  24. Sứ giả nghe thấy chứ “chém”, bỗng chốc mặt biến sắc, run rẩy cầu xin tha tội. Điền Nhương Thư nói: - Sứ giả của triều đình phái đến, không thể giết được. Thế nhưng quân pháp như sơn, không thể không chấp hành. Nói rồi, ông hạ lệnh chém đầu tên tùy tùng của sứ giả, chặt đứt thanh gỗ đứng bên ngoài thùng xe mà sứ giả ngồi, chém chết con ngựa kéo xe bên tả, thay cho việc thụ hình của sứ giả. Sau đó, thông báo sự kiện này cho ba quân biết, hơn thế còn bắt sứ giả trở về bẩm cho Tề Cảnh Công biết. Việc xử lý xong, Điền Nhương Thư hạ lệnh cho toàn thể tướng sĩ sẵn sàng chuẩn bị xuất phát. Trước thời gian quân Tề xuất phát mấy hôm, Điền Nhương Thư đã tới tuần tra các quân doanh. Khi tới chỗ đặt nồi nấu cơm, ông vào hẳn trong nhà bếp kiểm tra chất lượng bữa ăn của binh sĩ. Buổi tối, ông tự tay bưng canh phục thuốc cho binh sĩ bị ốm, chăm sóc an ủi họ. Ông đã chọn ra các binh sĩ sức khỏe yếu cho phép rời khỏi doanh trại để nghỉ ngơi. Là thống soái, khẩu phần lương thực và vật tư của Điền Nhương Thư so với một binh sĩ đã nhiều gấp bội, nhưng ông đã đem tiêu chuẩn của mình chia hết cho đồng đội, ngoài ra ông còn động viên các tướng lĩnh khác làm theo. Cứ như vậy ba ngày trôi qua. Điền Nhương Thư phát lệnh: toàn quân hỏa tốc ra tiền tuyến, đánh cho quân địch đại bại, thu hồi đất đai đã mất. Các tướng sĩ trong toàn quân thấy Điền Nhương Thư chấp pháp như sơn, không sợ quyền uy, lại hết lòng yêu thương, đồng cam cộng khổ với binh sĩ như vậy, thì đều cảm động. Quân Tề trên dưới một lòng, thề chết báo đền ơn nước. Đến cả những binh sĩ đang bị ốm đau cũng xin ra tiền tuyến đánh giặc, không cam tâm ở lại hậu phương. Những thông tin khả quan ấy đã được lan truyền rất nhanh chóng. Viên thống soái của quân đội hai nước Tấn Yên nắm được, không dám giao phong với quân Tề, phải mau rút quân. Quân Tề dũng cảm truy kích, chẳng bao lâu đã thu phục lại được toàn bộ đất đai đã bị mất trong mấy năm qua. Điền Nhương Thư cầm đầu quân đội nước Tề ca khúc khải hoàn trở về nước. Tề Cảnh Công vô cùng sung sướng đích thân dẫn các quan đại thần trong triều ra ngoại ô nghênh đón Điền Nhương Thư, úy lạo tam quân. Sau đó Tề Cảnh Công chính thức bổ nhiệm Điền Nhương Thư làm Đại Tư Mã nắm giữ quân quyền toàn quốc. Do vậy, về sau mọi người lại gọi Điền Nhương Thư là Tư Mã Thượng thư.
  25. 50. Khổng Tử và Lão Tử Khổng Tử, nhà tư tưởng lớn, nhà giáo dục lớn trong thời cổ đại Trung Quốc, nguyên là người nước Lỗ trong thời kỳ Xuân Thu. Ông họ Khổng, tên Khưu, tự là Trọng Nê, sinh năm 551 trước Công Nguyên. Tư tưởng và học thuyết của ông đã có ảnh hưởng cực kỳ to lớn trong lịch sử Trung Quốc. Tổ tiên của Khổng Tử là quý tộc nước Tống, đời cụ nội của ông vì lánh nạn nên chạy sang nước Lỗ, cha ông là quan đại phu ở ấp Châu, nước Lỗ. Khi Khổng Tử còn nhỏ, thì cha đã qua đời, người mẹ đem theo Khổng Tử dời tới đô thành Khúc Phụ nước Lỗ, cách Châu ấp không xa, sống cuộc sống nghèo khổ. Nước Tống là con cháu đời sau của Ân Thương, nước Lỗ lại là đất phong cảnh của Chu Công vào đầu nhà Chu, cả hai nước này đều bảo tồn được rất nhiều văn hóa Thượng Chu cổ xưa; nước Lỗ lại là trung tâm văn hóa được công nhận ở thời đó. Từ nhỏ Khổng Tử đã được hấp thụ nền văn hóa cổ lão này, hiểu được rất nhiều lễ giáo cổ đại, thích dùng các mảnh gỗ nhỏ làm đồ cúng bái, nặn đất làm đồ cúng phẩm, diễn tập các nghi lễ cổ. Lễ giáo thời đó có rất nhiều loại. Kết hôn, người chết, cũng lễ tổ tiên đều có một loạt nghi thức rất rườm rà, phức tạp. Lẽ dĩ nhiên, người nghèo không thể màng tới những lễ nghĩa này, nhưng từ vua, chư hầu, quan đại phu đến các chủ nô, các nhà quý tộc nói chung đều rất coi trọng thứ này. Họ cho rằng đây chính là cơ hội tốt để khuyếch trương thế lực và của cải. Mỗi khi gặp chuyện đại sự, tang lễ họ thường thuê một số người tới cử hành các hình thức nghi lễ. Những người làm nghề này gọi là “Nho”. Khổng Tử cũng đã làm qua nghề này cho nên đời sau gọi học thuyết mà Khổng Tử đề xướng là “Nho giáo”. Lúc Khổng Tử còn nhỏ đã thông thuộc một số hệ thống Chu Lễ, nhưng trong suốt cuộc đời bôn ba của mình ông vẫn không ngừng đào sâu nghiên cứu. Một lần, bước vào miếu đường tế lễ Chu Công của nước Lỗ, trông thấy từng hạng mục lễ tiết, mỗi đồ vật cúng tế, đều khiêm tốn thỉnh giáo những người thành thạo nghề. Có người cười mỉa ông mà rằng: - Ai bảo con cháu đời sau của quan đại phu Trâu ấp này hiểu được nghi lễ nhỉ? Cứ xem ra ông ta mê mải hỏi như vậy, chứng tỏ ông ta chẳng hiểu gì cả. Khổng Tử thản nhiên nói: - Không hiểu thì hỏi, đó chính là lễ vậy! Khổng Tử lại còn nói: - Biết thì thưa thớt, không biết dựa cột mà nghe, như vậy mới là người thông minh. Do khiêm tốn, ham học hỏi, Khổng Tử đã tinh thông Chu lễ. Năm ông 30 tuổi đã có người chuyên tới thỉnh giáo ông về Chu lễ. Trình độ, học thức về các phương diện khác của Khổng Tử cũng rất phong phú, danh tiếng cũng dần được nâng cao. Tại sao Khổng Tử lai hứng thú với Chu lễ? Vốn là, vào thời đỉnh thịnh của Vương thất nhà Chu, Thiên Vương đã có uy quyền tuyệt đối, tất cả các nước chư hầu đều phải nghe theo sự
  26. điều khiển của nhà vua, Chu Công lại dùng hình thức “Đặt ra lễ làm ra nhạc” để phân định sự khác biệt của vua tôi, cha con, cao thấp, sang hèn, củng cố trật tự chính trị. Đến thời kỳ Xuân Thu, Vương thất nhà Chu chỉ còn là một bộ khung trống rỗng, suy vong, hữu danh vô thực, các nước chư hầu đều tranh nhau làm bá chủ. Những vụ việc làm loạn, phạm thượng, hại cha, giết vua thường xuyên xảy ra, chiến tranh thôn tính lẫn nhau liên miên không dứt. Đến Vương thất nhà Chu cũng bị coi thường, dĩ nhiên trong tình hình ấy thì Chu lễ càng chẳng có ai tuân thủ nữa. Khổng Tử cho rằng sự biến động xã hội là kết quả của việc Chu lễ bị phá hoại, cho nên ông muốn thông qua việc phục hưng Chu lễ, hy vọng khôi phục nền thống tri của nhà vua, ổn định xã hội. Do bảo thủ, Khổng Tử rất có ác cảm với một số hành vi “vượt lễ” lúc đó. Năm 35 tuổi, Khổng Tử nghe nói nhà Lý Thị có tổ chức đội ca múa gồm 64 người hợp thành, ông rất bực. Vì sao vậy? Bởi, theo quy định của Chu lễ, đội múa gồm 8 người được gọi là một dật (hàng người đứng múa) chỉ Thiên tử mới được sử dụng đội múa 8 dật do 64 người hợp thành, chư hầu dùng 6 dật, quan đại phu như Lý Thị chỉ được phép sử dụng một đội múa 4 dật do 32 người hợp thành. Hiện tại Lý Thị ngang nhiên bắt chước quy cách mua vui của Thiên tử, há chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? Cho nên Khổng Tử kinh ngạc kêu to: “Một việc vượt lễ như thế mà họ còn làm, hỏi còn việc gì họ không dám?”. Về sau, Khổng Tử lấy việc dạy học để hành nghề. Khi ông 51 tuổi đã làm tới chức Trung Đô Tể (Trung Đô là huyện Vấn Thượng, tỉnh Sơn Đông ngày nay) của nước Lỗ, sang năm đã thăng lên làm chức Tư Không (chủ quản việc tư pháp). Khổng Tử làm việc rất có hiệu quả, nghe nói thời đó các nước chư hầu đều bắt chước cách làm của ông. Nước Lỗ và nước Tề là hai quốc gia láng giềng, ngoài mặt và trong lòng đều bất hòa, luôn luôn đề phòng lẫn nhau, không muốn đối phương vượt lên. Hiện tại, về nhiều mặt, nước Lỗ đã khởi sắc, danh tiếng cũng đã được đề cao, nước Tề liền xem đó là sự uy hiếp đối với mình. Tề Cảnh Công phái sứ giả sang nước Lỗ mời Lỗ Định Công tới Hiệp Cốc (huyện Lai Vu, tỉnh Sơn Đông ngày nay) để tiến hành hội thề, điều chỉnh lại mối quan hệ đôi bên. Lỗ Định Công nhận được lời mời rất vui vẻ, đã toan tới dự. Khổng Tử nói: - Chúa công không nên vội vàng như vậy, lần này Chúa công tới hội thề với nước Tề, tuy nói là chấn chỉnh lại giao hảo, nhưng cũng cứ mang theo võ tướng, đề phòng bất trắc mới được. Lỗ Định Công tiếp thu ý kiến của Khổng Tử, đem theo các quan tả hữu tư mã, hơn thế, còn chỉ định riêng Khổng Tử làm Tán Lễ quan, rồi kéo tới địa phương Hiệp Cốc. Tề Cảnh Công cũng dùng lễ nghênh tiếp. Sau khi hai bên tặng lễ phẩm cho nhau, đã cử hành yến tiệc thịnh soạn. Trong yến tiệc, Tán Lễ quan nước Tề tấu “Nhạc tứ phương” cho Lỗ Định Công nghe. Chỉ thấy từng đội võ sĩ tay cầm qua, mâu, kiếm, kích, xông ào lên như ong vỡ tổ trong tiếng âm nhạc đệm; nói là nhảy múa nhưng sao sát khí đằng đằng, khiến Lỗ Định Công mặt mày tái xám. Quan tả hữu tư mã phụ trách hộ giá cầm kiếm bảo vệ ở hai bên Lỗ Định Công. Lúc này, Khổng Tử đã thoăn thoắt bước lên trên bậc đài nhìn thẳng vào Tán Lễ quan nước Tề, phẩy ống tay áo, cao giọng quát: - Vua hai nước đang hội nghị hữu hao, sao lại cho múa qua múa kiếm? Sao ông không đuổi hết bọn chúng đi?
  27. Viên Tán Lễ quan lệnh cho các võ sĩ lui ra. Các võ sĩ không nghe, đưa mắt thăm dò thái độ của Tề Cảnh Công. Tề Cảnh Công đuối lý, đành phải khoát tay bắt bọn chúng lui về, hạ lệnh tấu “nhạc trong cung”. Lát sau, một bọn người lùn bé, nom gớm ghiếc, cợt nhả uốn éo những tiết mục hạ lưu, chướng tai, gai mắt. Khổng Tử lại một lần nữa bước nhanh lên đài, nghiêm khắc chất vấn Tán Lễ quan nước Tề: - Những thằng oắt này ngang nhiên bỡn cợt chư hầu, làm rối mắt của mọi người, dựa theo luật cần phải chém đầu, ngài còn chờ gì nữa? Tán Lễ quan đành phải hạ lệnh đem giết chết hết đám người lùn tí hon này. Yến tiệc mất vui, đến đây phải giải tán. Đây chính là Hội Hiệp Cốc nổi tiếng. Sau cuộc hội thề, Tề Cảnh Công biết vua tôi nước Lỗ không chịu tỏ ra yếu thế, đành phải nhượng bộ, đem các đất Vận, Vấn Dương, Quy Âm đã xâm chiếm, trả cho nước Lỗ để tỏ ý cáo lỗi. Khổng Tử có công bảo toàn nhà vua, nên càng được Lỗ Định Công tín nhiệm. Nước Lỗ lúc này là thiên hạ của “Tam Hoàn” - Mạnh Tôn, Thúc Tôn và Lý Tôn, ngay cả đến nhà vua cũng phải nghe theo sự sắp đặt của họ. Khổng Tử lại rất khó chịu, đã nêu kiến nghị tước bỏ “Tam Hoàn”, tăng cường địa vị nhà vua với Lỗ Đình Công, ông nói: - Chu lễ quy định, trong nhà quan đại phu không được tàng trữ vũ khí, tường thành đất phong không được dài quá 300 trượng. Hiện tại các nhà “Tam Hoàn” đã phá hoại các quy củ, uy hiếp sự an tòan của Chúa Công. Chúa Công nên hạ lệnh bắt họ phá bỏ tường thành trên đất phong, giải trừ võ trang, có thể mới mong trị nước được yên ổn lâu dài. Lỗ Trang Công cảm thấy rất có lý, vội vàng nói: - Ta mong sao được như vậy, chỉ sợ “Tam Hoàn” không bằng lòng. Khổng Tử nói một cách chắc chắn: - Thần nghĩ chẳng có gì khó. Tức thì bắt đầu từ gia thần Lý Tôn Thị, rồi móc với hai nhà kia, thế là cả ba đều đồng ý dỡ bỏ tường thành trên đất phong của mình. Tại sao “Tam Hoàn” đồng ý tước bỏ và làm suy yếu thế lực của mình? Thì ra, suốt một thời kỳ dài “Tam Hoàn” chia nhau nắm giữ đại quyền nhà nước, tiến hành nhiều hoạt động ở đô thành, giao mọi việc ở trên đất phong của mình cho gia thần quản lý. Như vậy là, gia thần đã trở thành người khống chế thực tế ở đất phong, “Tam Hoàn” thực sự cũng không thể chi phối được. Dỡ bỏ tường thành, ngoài mặt là “Tam Hoàn” tước bỏ và tự làm suy yếu thế lực, kỳ thực là tước bỏ và làm suy yếu gia thần, khôi phục lại thế lực của mình. Bởi vậy mà họ đã ra tay? Thế nhưng, các gia thần của “Tam Hoàn” đều kịch liệt phản đối. Gia thần của hai nhà Thúc tôn lần lượt dùng vũ trang làm phản loạn, thậm chí đã đánh vào Đô Thành Khúc Phụ, bao vây chặt Lỗ Định Công. Khổng Tử, một mặt thu hồi vũ trang của “Tam Hoàn”, một mặt lo điều binh khiển tướng, mới tạm gọi là dẹp yên được cuộc phản loạn, rồi thừa thế bỏ hết tường thành của hai nhà. Cuối cùng chỉ còn lại tường thành của Thành Thành trên đất phong thuộc Mạnh tôn, gia thần Công Liếm Dương kiên quyết không chịu dỡ bỏ. Công Liếm Dương cho rằng tường
  28. thành thì không thể dỡ bỏ, sở dĩ hai nhà Thúc Tôn và Lý Tôn phải dỡ bỏ là vì gia thần gây chuyện phản loạn; nếu ta cũng dỡ theo, há chẳng là a tòng với phản thần hay sao? Có điều, dỡ bỏ tường thành là mệnh lệnh của nhà vua, không dễ gì trực tiếp phản đối được. Công Liếm Dương bèn đi tìm Mạnh Tôn Thị, bảo ông ta tới thuyết phục Khổng Tử. Khổng Tử nghe nói Công Liếm Dương kiên quyết như vậy, bèn thuận nước đẩy thuyền, nói: - Không dỡ bỏ cũng chẳng sao. Một là, ba thành đã phá hai, Thành Thành đã rơi vào thế cô lập. Hai là, Công Liếm Dương từ trước vẫn trung thành với vua Lỗ, không thể làm những việc trái phép như gia thần của hai nhà kia. Ba là, Thành Thành ở phía Bắc gần nước Tề, bảo vệ cửa lớn phía Bắc, thiết nghĩ, giữ lại tường thành của Thành Thành cũng là điều rất cần thiết. Thúc Tôn và Lý Tôn nghe Khổng Tử giảng giải có lý, lại thấy được thực lợi là tước bỏ và làm yếu thế lực của gia thần, nên không có ý kiến gì nữa. Mạnh Tôn và gia thần của ông ta cũng được bảo đảm thể diện, cuối cùng tường Thành Thành đã được giữ lại. Vậy thì sao Khổng Tử lại thay đổi chủ ý, đồng ý giữ lại tường thành của một nhà? Đó là vì mục đích chính trị hủy hoại Tam Đô đã đạt được, địa vị của nhà vua được tăng cường, “Tam Hoàn” đã phải giải trừ vũ trang, sự uy hiếp đối với nhà vua đã giảm bớt, đồng thời còn khống chế được thế lực của gia thần, thực quyền của “Tam Hoàn” cũng đã được khôi phục. Dỡ bỏ tường thành đã đưa tới sự phản loạn của gia thần hai nơi, khó khăn lắm mới có thể dập tắt được. Nếu lại bức cho Công Liếm Dương làm loạn thì cục diện sẽ càng khó tháo gỡ. Hơn thế, nước Tề ở phía Bắc đang như hổ khát nước, việc giữ lại tường thành của Thành Thành quả thực cũng là cần thiết. Do vậy, Khổng Tử mới quay ngoắt 180 độ. Hành động hủy hoại Tam Đô của Khổng Tử đã bảo vệ được lợi ích của bọn thống trị nước Lỗ, do đó đã được vua tôi nước Lỗ tôn trọng. Thế nhưng, Lỗ Định Công tham lam, quen hưởng lạc, không nghĩ gì đến việc triều chính, Khổng Tử tự thấy nếu cứ ở nước Lỗ thì cũng làm nên công trạng gì, bèn dẫn một số học sinh rời khỏi nước Lỗ, tới nơi khác thực hành chủ trương chính trị dùng lễ trị quốc của mình. Khổng Tử chủ trương tích cực nhập thế, nhiệt thành hoạt động chính trị. Ông đi chu du các nước suốt 14 năm trời, phần lớn thời gian sống ở nước Vệ (trước sau gần 10 năm và nước Tần (ba năm), thời gian còn lại thì bôn ba ở các nước như Tống, Thái, Sở kể cũng đáng thương, Khổng Tử dẫn một số học sinh chạy Đông, chạy Tây, tiến hành du thuyết với vua các nước tuyên truyền chủ trương chính trị, nhưng chủ trương của ông lại quá thủ cựu, kết quả là không được người đời tiếp thu hoặc kính nhi viễn chi, tôn kính ông nhưng không trọng dụng ông. Đi tới đâu Khổng Tử cũng đụng phải chướng ngại, cuối cùng đành phải trở về nước Lỗ. Từ đó, ông chuyên tâm một dạ ở nhà dạy học, nghiên cứu học vấn. Cho đến năm 73 tuổi (năm 479 trước Công Nguyên), thì ông qua đời. Cống hiến nổi bật nhất của Khổng Tử vẫn là về mặt giáo dục. Trước đây, trường học đều do quan phủ mở, chỉ có con em quý tộc mới được tới học. Khổng Tử đã sáng lập ra “Tự học”, tự thu nạp các học trò lại để dạy. Như vậy, sự lũng đoạn về giáo dục của giới quý tộc đã bị phá tan. Khổng Tử đề xuất ra khẩu hiệu “Hữu giáo vô loại”, thu nhận học sinh không hạn chế bởi môn đệ, đẳng cấp, cho nên trong đám học sinh không hạn chế bởi môn đệ, đẳng cấp,
  29. cho nên trong đám học sinh của ông vừa có con em quý tộc vừa có con em dân nghèo, vừa có người nước Lỗ lại có người của các quốc gia khác. Ông đã mở ra khóa trình bốn môn học là đức hạnh, ngôn ngữ, chính trị và văn học; còn dạy dỗ cho học sinh kỹ năng của “Lục nghệ” là lễ tiết, âm nhạc, bắn nỏ, đánh xe, viết chữ, toán học Khổng Tử coi câu nói “Học nhi bắt yến, hối nhân bất quyền” là châm ngôn luôn luôn treo trước mặt, có nghĩa là, việc học tập không bao giờ được coi là đầy đủ, việc dạy dỗ cho con người cũng không biết mệt mỏi. Ông động viên học sinh kết hợp, thống nhất giữa học tập và suy nghĩ, cho rằng chỉ đọc sách một cách cứng nhắc mà không suy xét đúng mức thì sẽ có thể bị mê hoặc; chỉ suy đi nghĩ lại mà không chăm chỉ học tập thì sẽ có thể bước lệch lạc, nếu vậy thì càng nguy hiểm. Những phương pháp và thái độ dạy học của Khổng Tử được người đời rất ca tụng. Khổng Tử làm giáo dục đã giành được thành tích rất to lớn. Truyền thuyết kể rằng học sinh của ông trước sau đã có tới ba nghìn người, trong số học sinh có thành tích nổi trội có tới 72 người, hiện tượng này vào thời đó là điều đáng kinh ngạc! Trong số học sinh của Khổng Tử có nhiều nhân tài xuất sắc, như Nhan Uyên, Mẫn Tổn nổi tiếng về phẩm đức tốt; như Tử Lộ, Nhiễm Hữu trội hẳn lên về chính trị; như Tử Cống, Công Tây Hoa ngôn luận, trí tuệ vượt người; còn có Tử Hạ, Tử Du, Tể Ngã được Khổng Tử rất yêu quý. Có một lần, Tử Lộ hỏi Khổng Tử: - Một người nếu đã nghe hiểu được chủ trương, có nên lập tức thi hành ngay không? Khổng Tử bình tĩnh trả lời: - Trước hết nên hỏi ý kiến người khác, sau đó sẽ quyết định có nên thực hành hay không? Khổng Tử bình tĩnh trả lời: - Trước hết nên hỏi ý kiến người khác, sau đó sẽ quyết định có nên thực hành hay không? Khổng Tử bình tĩnh trả lời: - Trước hết nên hỏi ý kiến người khác, sau đó sẽ quyết định có nên thực hành hay không? Sau khi Tử Lộ đi rồi, Nhiễu Hữu cũng tới hỏi thầy: - Nếu cho rằng làm một việc tốt, liệu có nên làm ngay không? Khổng Tử lập tức nói: - Điều đó thì tất nhiên rồi, cần phải lập tức làm ngay! Công Tây Hoa có mặt ở đó rất buồn bực, hỏi Khổng Tử” - Tử Lộ và Nhiễu Hữu hỏi cùng một sự việc, tại sao câu trả lời của thầy lại không giống nhau? Khổng Tử nói:
  30. - Bình thường Tử Lộ làm việc gan dạ, thế nhưng rất thô lộ, dễ khinh xuất, thì ta khuyên hắn phải lắng nghe ý kiến của người khác. Nhiễu Hữu làm việc vững vàng thận trọng, nhưng không đủ dũng khí, còn nghi ngại, thì ta động viên hẳn làm việc phải quyết đoán. Phương pháp “giáo dục theo đối tượng” này của Khổng Tử thực sự rất cao minh. Ngoài ra, ông còn có một số câu nói như: “Tam nhân hành tất hữu ngã sư”, “Ôn cố như tri tân”, “Tri tri vi tri tri, bất tri vi bất tri, thị tri dã”(1) cũng rất được mọi người tín phục. Những năm cuối đời, Khổng Tử tập trung tinh thần và sức lực chỉnh lý các điểm tích văn hóa cổ đại. Truyền thuyết kể rằng Ngũ Kinh bao gồm “Dịch”, “Lễ”, “Thượng Thư”, “Thi Kinh” “Nhạc” đều do ông chỉnh lý và sửa chữa. Ông còn chỉnh lý và sửa chữa Xuân Thu, bộ sách lịch sử theo thể biên niên đầu tiên của Trung Quốc. Những điển tích văn hóa cổ điển này được lưu truyền đến ngày nay, có tác dụng to lớn đối với việc truyền bá học thuyết của Nho gia, được tôn thờ là bộ sách “kinh điển” của Nho gia. Đó là công lao vĩ đại của Khổng Tử. Sau khi Khổng Tử qua đời, các đệ tử của ông đã đem những lời nói và việc làm của ông ghi chép, chỉnh lý lại, biên tập thành bộ Luận ngữ. Đây là bộ sách ghi chép những tư tưởng chủ yếu của Khổng Tử. ở thời Xuân Thu, một tư tưởng khác cũng nổi tiếng không kém Khổng Tử, đó là Lão Tử. Lão Tử là người huyện Khổ, nước Sở (phía Đông huyện Lộc ấp, tỉnh Hà Nam ngày nay), họ Lý, tên Nhĩ, từng làm quan viên của nhà tàng thư triều Chu, sau vì chiến tranh loạn lạc và thế nước suy yếu, ông đã rời bỏ triều Chu, đi nơi khác. Truyền thuyết kể rằng Khổng Tử đã từng thỉnh giáo qua Lão Tử, còn ca tụng Lão Tử là “con rồng” bay vút lên trời cao. Thế nhưng tư tưởng của Lão Tử và Khổng Tử không giống nhau. Lão Tử cho rằng trời là vật chất, chính là nói trời là thứ không có ý chí, không thể chi phối họa phúc cát hung của con người trong thế gian. Chỉ có “Đạo” mới là nền tảng của vạn vật. Đạo đã tồn tại từ trước trời đất, chính là Đạo sản sinh ra vạn vật, mà con người không nhìn thấy và sờ thấy. Đồng thời, Đạo lại lấy tự nhiên làm căn cứ, thế giới vạn vật chính là chịu sự ràng buộc của các quy luật tự nhiên. Tư tưởng này của Lão Tử đã phủ định sự tồn tại và quyền uy của thiên thần. Điều đặc biệt quý là Lão Tử có tư tưởng biện chứng phong phú. Ông cho rằng sự vật có liên hệ với nhau và chuyển hóa lẫn nhau. Ví dụ, ông nói: “Hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh”, “Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục”.(2) Trước tình trạng chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân khổ sở, Lão Tử cực kỳ bất mãn, phê phán không tiếc lời bọn thống trị bóc lột nhân dân, chủ trương quan tâm đến nỗi đau khổ của dân chúng, nỗ lực giúp đỡ họ, thế nhưng đồng thời ông lại chủ trương “Vô vi tri nhi tri”(3) để cho dân chúng “vô tri vô dục”(4), theo ông, có như vậy xã hội mới được yên ổn. Tư tưởng này của Lão Tử hoàn toàn khác với tư tưởng tích cực nhập thế của Khổng Tử, có mặt hợp lý, nhưng cũng có mặt không chính xác. Khi Lão Tử đi khỏi triều Chu, qua Hàm Cốc Quan. Viên Lệnh doãn của Hàm Cốc Quan biết ông có học vấn cao sâu, khuyên ông: - Ngài sắp ra đi rồi, xin ngài hãy viết cho tôi một bộ sách.
  31. Lão Tử bèn viết ra một bộ sách Đạo đức kinh, còn có tên là Lão Tử. Hiện tại chúng ta tìm hiểu tư tưởng Lão Tử, chủ yếu là căn cứ vào bộ sách này. Lão Tử được người đời sau gọi là cụ Tổ của “Đạo gia”. Đạo gia và nho gia chủ trương tuy không giống nhau, nhưng đều là lưu phái tư tưởng quan trọng trong thời cổ đại Trung Quốc, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế.
  32. 51. Thư hùng kiếm Trong thời Xuân Thu, nền kinh tế xã hội các nước đã phát triển nhanh chóng. Đồ sắt được sử dụng rộng rãi, kỹ thuật cày bằng trâu được đẩy mạnh thêm một bước, khoa học kỹ thuật được nâng cao lên trình độ mới. Ví dụ, “số học” mà chúng ta nói ngày nay, thời đó gọi là “số”, đã phát triển và trở thành một môn khoa học độc lập. Bài vè về phép nhân mà chúng ta sử dụng hôm nay - bảng cửu chương, chính là do con người từ thời đó tổng kết ra. Khoa học Thiên văn có sự phát triển rất đột xuất, tháng 7 năm 613 (trước Công Nguyên), nhà Thiên văn học nước Lỗ qua quan trắc ngôi Sao Chổi quét qua Bắc Đẩu, đã lưu lại những dòng ghi chép lớn nhất về Sao Chổi Halây ở trên thế giới. Đây là ngôi Sao Chổi nổi tiếng của thời nhà Chu. Nhà Thiên văn học nước Anh Halây trước tiên đã xác định được quỹ đạo và chu kỳ vận hành của Sao Chổi Halây là người thuộc thế kỷ thứ 17 đến thế kỷ 18, thời Xuân Thu của Trung Quốc, đã có được sự ghi chép này, quả là một điều đáng kinh ngạc. Thời Xuân Thu còn xuất hiện rất nhiều nhà khoa học và nhà phát minh, như danh y Biển Thước (chuyện về Biển Thước xin xem phần Chiến Quốc), như danh tượng (thợ mộc bậc thầy nổi tiếng) Lỗ Ban Lỗ Ban (vốn tên gọi là Côn Thân Ban, bởi là người nước Lỗ nên đời sau gọi là Lỗ Ban) được xem là cụ tổ nghề nề, mộc của Trung Quốc với hàng loạt phát minh công cụ, như bàn khoan, cửa, thước gấp Lỗ Ban còn giỏi nghề kiến trúc và điêu khắc, có thể chế ra những đồ dùng và các loại vũ khí, đã thiết kế ra “cậu cự” rất thích hợp cho việc thủy chiến. Trong thời Xuân Thu, Trung Quốc là nước dẫn đầu về kỹ thuật luyện đồng, luyện sắt và vượt xa các nước trên thế giới. Có một truyền thuyết cảm động về một đôi vợ chồng nước Ngô tên gọi Can Tương và Mạc Da, biết rèn kiếm báu, nổi tiếng thiên hạ. Một hôm, Ngô Vương Hạp Lư vào cung tìm Can Tương, dặn Can đánh cho mình một thanh kiếm báu. Để hoàn thành sứ mệnh mà Ngô Vương giao cho Can tương đã trèo đèo, lội suối, tìm khắp bốn phương, mới kiếm được nguyên liệu hảo hạng. Thế nhưng, khi nấu thép lại vấp phải một số khó khăn không ngờ tới, nên đã bị thất bại hết lần này đến lần khác. Thấm thoát đã ba năm trôi qua, kiếm báu vẫn chưa rèn xong. Can Tương vô cùng lo lắng, ông biết rằng nếu không giao kiếm đúng thời hạn thì sẽ bị Ngô Vương xử tử. Người vợ của ông là Mạc Da nhắc nhở ông, nói: - Thiếp nghe nói muốn tạo ra một vật thần diệu, thì cần phải có một sự hy sinh lớn lao. Can Tương nói: - Đúng vậy, ban đầu sư phụ ta rèn kiếm. Rồi, suốt cả một thời gian dài vẫn không thành. Về sau, bản thân thầy phải lao mình vào trong lò lửa mới luyện ra được cái tinh của thép vàng tuyệt diệu và tạo ra một thanh kiếm báu sắc nhọn. Mạc Da nghe chuyện, trong lòng rất cảm kích. Để chồng khỏi bị sát hại, nàng ngang nhiên lao mình vào lò lửa đang cháy rừng rực. Cuối cùng kiếm báu đã được rèn xong. Can Tường lau chùi hai thanh kiếm báu phát hào quang ra bốn phía, màu xanh chói sáng, sắc nhọn vô cùng mà lòng buồn đau. Để kỷ niệm người vợ của mình, ông ta đặt tên cho hai thanh kiến, một thanh gọi là “Can Tương” và một thanh gọi là “Mạc Da”. Đây chính là “thư hùng kiếm”
  33. nổi tiếng. Can Tương đem thư kiếm tiến dâng vua Ngô Vương. Ngô Vương giận dữ, quát chửi Can Tương rằng đã quá thời hạn, việc lớn đã lỡ. Cuối cùng, Ngô Vương đã xử tử Can Tương. Sau này, người con trai của Can Tương, Mạc Da lớn lên, cầm thanh Hùng Kiếm “Can Tương” mà người cha để lại, đã xông thẳng vào hoàng cung, chặt đứt đầu Ngô Vương, báo thù cho cha mẹ. Đây là câu chuyện mang tính truyền thuyết. Sử đã chép, Ngô Vương Hạp Lư đã bị Việt Vương Câu Tiễn đánh bại, bị thương, phát bệnh rồi chết, chứ không phải do con trai của Can Tương. Mạc Da giết chết. Thế nhưng câu chuyện này rất có ý nghĩa, nó đã phản ánh được một số tình hình về sự phát triển của kỹ thuật luyện kim trong thời Xuân Thu, đồng thời còn nói rõ sự tiến bộ về mỗi hạng mục kỹ thuật, sự nỗ lực vượt bậc của nhân dân lao động, thậm chí còn phải trả giá bằng cả tính mệnh mới có thể giành được. Sau ngày giải phóng, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã khai quật hơn mười thanh kiếm của thời kỳ Xuân Thu và đã chứng minh truyền thuyết “Thư hùng kiếm”: không phải là không có căn cứ. Năm 1965, trong một ngôi Sở mộ ở huyện Giang Lăng, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc đã khai quật được thanh kiếm đeo của Việt Vương Câu Tiễn, trên thân kiếm có tám chữ hiện rất rõ ràng, đó là: “Việt Vương Câu Tiễn, tự tác dụng kiếm”. Thanh kiếm đồng đen này được chôn sâu ở dưới đất trên hai nghìn năm, ngày nay vẫn còn cảm giác sắc lạnh rợn người, nếu cầm nó trên tay. Mặt kiếm bóng loáng mịn màng đến nỗi phải là một công nhân mài ngày nay có tay nghề tương đối thành thạo mới hy vọng đạt tới trình độ này. Lưỡi kiếm còn rất sắc, có thể cắt đứt mười lớp giấy một cách rất dễ dàng. Năm 1979, trong một ngôi Sở mộ tìm thấy được ở huyện Hoài Dương, tỉnh Hà Nam, người ta lại khai quật được một thanh “Việt Vương Kiếm” đúc bằng đồng đen. Thanh kiếm hai lưỡi sắc bén, lưng kiếm lồi hẳn lên, chính giữa mặt kiếm khắc chìm hai chữ “Việt Vương” này đã chứng minh rằng đó là kiếm đúc ra ở nước Việt trong thời Xuân Thu. Đấy là sự thật chứng minh kỹ thuật luyện đồng đen ở thời Xuân Thu đã đạt tới trình độ rất cao. Từ triều Thương hơn ba nghìn năm xa xôi về trước, kỹ thuật đồng đen đã rất cao siêu, lại được phát triển vào thời Tây Chu: Thương và Chu đã sáng tạo ra “Nền văn hóa đồng đen” nổi tiếng thế giới. ở thời kỳ Xuân Thu, những người thợ lại sử dụng lò đứng để luyện đồng, kỹ thuật được nâng cao thêm một bước. Năm 1973, từ trong di chỉ cổ khoáng Lục Sơn, một cơ sở luyện đồng lớn, những nhà khảo cổ học đã khai quật ba lò luyện đồng của thời kỳ Xuân Thu còn bảo toàn được tương đối hoàn chỉnh. Đường kính bên trong của lò đứng là 60 centimet, trong khi nồi nấu kim loại Ai Cập cổ đại đường kính chỉ có 13 centimet, dung lượng lại lớn, cũng tiên tiến hơn nhiều. Lò đứng luyện đồng dễ dàng nâng cao nhiệt độ ở bên trong lò, hiệu suất nhiệt cao, tiết kiệm được nhiên liệu. Có thể nói, lò đứng luyện đồng là một sự đột phá của nghề luyện đồng đen, cũng là sự phát triển to lớn của nghề luyện kim trong thời cổ đại Trung Quốc. Đồng đen là hợp kim của đồng và thiếc, tỷ lệ đồng và thiếc có quan hệ rất lớn tới chất lượng của đồ dùng bằng đồng đen. Theo đà nâng cao của kỹ thuật luyện kim, người đời xưa đã có nhận thức tương đối sâu sắc đối với tác dụng của thiếc trong đồng đen, đối với công nghệ đúc kiếm đồng đen càng có sự nghiên cứu kỹ càng hơn. Từng có một câu chuyện thế này: khi người chú Lý Trát của Ngô Vương Hạp Lư đi sứ tới Trung Nguyên, qua nước Từ (phía bắc huyện Tứ, tỉnh An Huy ngày nay) vua nước Từ nhìn thấy thanh kiếm đeo trên
  34. người Lý Trát, thì rất ngưỡng mộ, muốn xin, nhưng lại không dám mở miệng nói ra. Lý Trát đọc được tâm ý của vua Từ, liền muốn tặng cho ông ta, thế nhưng vừa nghĩ đoạn đường phải đi còn rất xa, còn dùng nó để phòng thân, nên lúc đó chưa tặng cho ông ta được. Khi vua Từ qua đời, Lý Trát trở về đã đeo thanh kiếm lên thân cây bên cạnh mộ của vua Từ, rồi bỏ đi. Vì sao vua Từ lại nhắm trúng vào thanh kiếm của Lý Trát? Theo truyền thuyết, thanh kiếm của Lý Trát vừa sắc lại vừa dẻo. Một thanh kiếm đúc đạt được yêu cầu vừa sắc lại vừa dẻo là điều rất khó khăn. Bởi vì, muốn lưỡi kiếm sắc bén thì phải dùng loại đồng có hàm lượng thiếc cao, nhưng nếu vậy, kiếm sẽ giòn, kiếm dễ bị gẫy. Nếu muốn chiếu cố tới sự bền dẻo của lưỡi kiếm thì phải dùng đến loại đồng có hàm lượng thiếc ít, như vậy thì độ cứng của kiếm sẽ không đủ. Nhất định sẽ ảnh hưởng tới sự sắc bén của lưỡi kiếm. Phải làm sao đây? Những người thợ đã có cao kiến dùng đồng đen với hàm lượng thiếc thấp để làm lưng kiếm, dùng đồng đen với hàm lượng thiếc cao để đúc lưỡi kiếm, rồi hợp hai bộ phận lại với nhau chế thành “một thanh kiếm phức tạp” vừa sắc bén lại vừa bền dẻo nổi tiếng trong thiên hạ. Về kỹ thuật phối hợp giữa đồng và thiếc như thế nào đã được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sách cổ có tên gọi là “Khảo Công ký”. Sách “Khảo Công Ký” gọi loại kỹ thuật này là quy luật “lục tề”. Cái gọi là “lục tề” chính là 6 phương pháp phối hợp tỷ lệ khác nhau giữa đồng và thiếc trong đồng đen. Ví dụ, đối với chuông thường xuyên phải gõ và đỉnh thường xuyên phải chịu nhiệt độ cao thì sử dụng phương pháp phối hợp, với hàm lượng thiếc ít để đạt được tính bền dẻo tương đối tốt. Đối với rìu, giáo, mác, kích, đầu mũi tên đòi hỏi tính bền cứng và sắc, thì sử dụng phương pháp phối hợp với hàm lượng thiếc tương đối nhiều Đây chính là những ghi chép sớm nhất về lý luận hợp kim ở trên thế giới. Sự phát triển kỹ thuật luyện và chế tạo đồng đen đã tạo điều kiện tốt cho việc ra đời và phát triển kỹ thuật gang thép. Căn cứ vào ghi chép trong sách cổ, đúc tạo vũ khí dùng “mỹ kim”, còn chế tạo nông cụ thì dùng “ố kim” “mỹ kim” chính là đồng đen. Còn “ố kim” chính là sắt. Đủ thấy, từ thời đó Trung Quốc là quốc gia đã nắm vững được kỹ thuật luyện và chế tạo thép sống rồi. Chuyện “Tử Sản đúc đỉnh hình”, đã từng kể qua, cho biết: để tăng cường nền thống trị. Tử Sản đã đúc ra một chiếc đỉnh hình lớn, trên đỉnh đúc ra những điều khoản luật pháp. Chiếc đỉnh lớn này chính là được đúc ra bằng sắt, mà sắt để đúc đỉnh chính là được trưng thu từ trong dân gian. Đủ thấy đồ sắt đã tương đối phổ biến ở nước Trịnh rồi. So với việc luyện sắt sống thì đúc sắt yêu cầu điều kiện cao, sắt sống được nung chảy, đổ vào trong mô hình, chờ nguội thì lấy ra, sẽ trở thành một đồ vật có hình trạng nhất định. Cho nên việc luyện sắt sống yêu cầu nhiệt độ khá cao, dùng sắt sống đúc tạo đồ vật cũng đòi hỏi kỹ thuật tương đối giỏi. Việc đúc thành chiếc đỉnh sắt lớn phản ánh một cách đầy đủ kỹ thuật đúc sắt lúc đó đã đạt tới trình độ rất cao. Việc luyện thép đòi hỏi kỹ thuật càng cao hơn. Năm 1975, trong một ngôi mộ ở cuối kỳ Xuân Thu, tại thành phố Trường Sa, việc các nhà khảo cổ phát hiện thấy một chiếc kiếm thép, đã đủ để chứng minh rằng ở thời Xuân Thu con người đã nắm vững kỹ thuật luyện thép. Liệu có thể dự đoán được rằng: Thư hùng kiếm trong truyền thuyết, có lẽ không phải là kiếm đồng đen mà là kiếm thép chăng?
  35. Trong lịch sử của nhân loại, việc phát hiện và sử dụng sắt là một việc lớn đáng kinh ngạc. Trong kỹ thuật luyện và đúc sắt, nhân dân lao động thời cổ đại Trung Quốc đã có những cống hiến cực kỳ to lớn đối với nhân loại.
  36. Chiến quốc Từ năm 475 đến 221 trước Công Nguyên là thời kỳ Chiến Quốc. Qua các cuộc tranh bá thời Xuân Thu, cuối cùng đã hình thành được 7 nước lớn: Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tần, hiệu xưng là “Chiến Quốc thất hùng”. Các nước trong thất hùng tiếp tục triển khai các cuộc chiến tranh kịch liệt. Để cho nước giàu, binh mạnh, đánh bại được các quốc gia khác, các nước đều lần lượt thực hành thay đổi pháp luật, tiến hành cải tạo phong kiến hóa đối với nền kinh tế, chính trị, luật pháp của chế độ nô lệ cũ. Xã hội theo chế độ nô lệ cuối cùng đã dần dần quá độ sang xã hội theo chế độ phong kiến. Nước Ngụy đã tín nhiệm và sử dụng biện pháp của Lý Khuy sớm nhất. Tiếp đó, nước Sở đã bổ nhiệm Ngô Khởi chủ trì biện pháp. Triệu Vũ Linh Vương Hồ phục kỵ xạ(1), tiến hành cải cách quân sự. Nước Hàn bổ nhiệm Thân Bất Hại làm tướng, thực hành chế độ luận công hành thưởng. Nước Tề dùng Trâu Kỵ làm tướng. Tôn Tẫn chỉ huy quân đội, tiến hành cải cách chính trị quân sự. Nước Yên dùng Nhạc Nghị làm tướng, tăng cường thực lực quân sự. Công cuộc biến đổi triệt để nhất là biện pháp của Thương ưởng, nước Tần. Nội dung và các bước cụ thể trong việc biến pháp của các nước không hoàn toàn giống nhau, thế nhưng tinh thần chung đều là phải phế bỏ đặc quyền của quý tộc chủ nô, tạo điều kiện khống chế chính quyền của giai cấp địa chủ mới nổi lên, tạo điều kiện tăng cường sức mạnh phát triển sản xuất cho đất nước. Sau khi trải qua việc biến pháp (biến đổi pháp chế, pháp luật) quyền lực của nhà vua các nước đã được tăng cường, chế độ tập quyền phong kiến dần dần hình thành. Chế độ tư hữu về ruộng đất chính thức được xác lập. Giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân, bao gồm nông dân tự cày cấy, nông dân tá điền và nông dân làm thêu, bắt đầu xuất hiện. Chế độ phong kiến thay thế chế độ nô lệ là một thuận lợi đối với việc giải phóng sức lao động. Nông cụ chế bằng sắt và trâu cày đã được mở rộng thêm một bước. Nước Ngụy, nước Tần đã xây dựng những công trình thủy lợi với quy mô lớn như con ngòi Hồng Câu, Tây Môn Báo, bờ đập Đô Giang, con ngòi nước Trịnh khiến cho sản xuất nông nghiệp được phát triển mạnh mẽ. Các nghề thủ công như đúc sắt, nấu muối, dệt vải, đồ gốm, đóng xe, đóng thuyền đều được mở mang. Thương nghiệp cũng dần dần phát triển. Lâm Trung của nước Tề, Hàm Đan của nước Triệu, Hình Dương của nước Hàn, Uyển của nước Sở đều là những thành thị buôn bán phồn vinh. Những đồng tiền kim loại hình dáng khác nhau được chế ra ở nhiều nước cũng đã bắt đầu lưu thông trên thị trường. Nền văn hóa tư tưởng trong thời Chiến Quốc được phát triển rầm rộ chưa từng thấy từ trước tới nay. “Bách gia chư tử” như Nho (Mạnh Tử, Tuân Tử làm đại biểu), Mặc (Mặc Tử làm đại biểu), Đạo (Trang Tử làm đại biểu), Pháp (Hàn Phi Tử làm đại biêu) Mỗi phái đều thể hiện chủ kiến của mình, triển khai luận chiến, đã hình thành cục diện sinh động trăm nhà tranh nhau lên tiếng. Văn học, Sử học, Thiên Văn, Nông học, Y học đều đã giành được những thành tựu ở những mức độ khác nhau, thi ca của Khuất Nguyên chính là một tác phẩm hay lưu truyền thiên cổ.
  37. 52. Ba nhà phân chia nước Tấn Sau “Xuân Thu” là thời Chiến Quốc. Theo ý kiến của đại đa số các nhà sử học, thời Chiến Quốc bắt đầu từ Nguyên Vương nguyên niên triều nhà Chu (năm 474 trước Công Nguyên) kết thúc vào năm 26 Tần vương Chính (tức là năm Tần Thủy Hoàng thống nhất toàn quốc, năm 221, trước Công Nguyên), tổng cộng 255 năm. Tại sao thời kỳ này lại gọi là thời đại Chiến Quốc? Đây là một thời đại như thế nào? Cuối thời đại Xuân Thu, quyền lực của thiên vương nhà Chu đã hoàn toàn suy yếu, giữa các nước xảy ra tình trạng mạnh xâm lược yếu, lớn nuốt nhỏ, tranh nhau làm bá chủ. Trong một vài nước chư hầu, một số Khanh đại phu (lúc đó trong các nước chư hầu, dưới nhà vua đặt ra tước vị gồm ba đẳng cấp là Khanh, Đại phu và sĩ) cũng liều lĩnh mở rộng đất phong của mình. Họ cổ vũ nông dân khai hoang, sử dụng phương thức bóc lột phong kiến mới, cho phép nông nô có quyền tự do thân thể ở mức tương đối. Nông dân nhờ họ mà cuộc sống đã khá hơn so với khi ở dưới ách thống trị của nhà vua. Có Khanh đại phu vì muốn mở rộng thế lực của mình còn sử dụng các biện pháp mua chuộc lòng dân, ví dụ như giảm nhẹ tô thuế như vậy, đã đến lúc ngày càng có nhiều nông nô không chịu nổi sự áp bức bóc lột tàn khóc của nhà vua, họ đua nhau chạy trốn tới chỗ Khanh đại phu để làm tá điền. Thế lực của Khanh đại phu do vậy cũng ngày càng lớn, thậm chí đã vượt qua cả nhà vua. Nước Tấn chính là một ví dụ. Ở thời Xuân Thu, nước Tấn là một nước lớn, nhì, thế nhưng đến cuối thời kỳ Xuân Thu, trên thực tế nước Tấn đã trở thành vài ba nước nhỏ, nhà vua chỉ còn là bù nhìn. Một số Khanh đại phu mỗi người cắt cử một địa bàn, lập ra quân đội, tấn công lẫn nhau, tranh giành đất đai của nhau. Về sau, một số nước nhỏ bị nước lớn thôn tính, chỉ còn lại bốn nhà là Trí, Triệu, Ngụy, Hàn. Đại phu của bốn nhà lúc đó là Trí Bá, Triệu Tương Tử, Ngụy Hàn Tử, Hàn Khang Tử, trong đó Trí Bá có thế lực lớn nhất. Trí Bá một lòng muốn phế bỏ vua Ai Công của nước Tấn, tự xưng vua. Thế nhưng Trí Bá sợ ba nhà kia cũng tới tranh giành đòi làm vua bèn nghĩ ra một biện pháp để làm suy yếu ba nhà: Trí Bá mượn cớ nhà vua muốn đi trừng phạt nước Việt, nhưng lực lượng không đủ, bắt bốn nhà mỗi nhà hiến cho nhà vua một khoản đất rộng một trăm dặm vuông. Do Ai Công trên thực tế đã bị Trí Bá khống chế, nên nếu ba nhà tuân theo lệnh thì Trí Bá có thể thu được khoảnh đất rộng ba trăm dặm vuông một cách ngon lành, thanh thế của Trí Bá sẽ càng mạnh hơn; nếu nhà nào không nghe thì Trí Bá sẽ tới hỏi tội vì đã dám cuỡng lệnh nhà vua. Đây chính là sự tính toán như ý của Trí Bá. Trí Bá sai người tới ba nhà đòi đất. Hàn Khang Tử và Ngụy Hàn Tử sợ hãi quyền thế của Trí Bá, đều dâng đất theo con số đã ấn định, duy chỉ có họ Triệu là không tuân lệnh này. Triệu Tương Tử xông tới trước mặt người của Trí Bá cử đến, hét lên: - Đòi đất ư? Đất này là của tổ tiên ta để lại, ta không thể dễ dàng lấy ra để gia ân được. Trí Bá tức tối muốn nổ tung lồng ngực, lập tức mang đội quân liên hợp của hai nhà Hàn Ngụy đến đánh Triệu - trước đó đã thỏa thuận, sau khi thắng lợi đất đai của nhà Triệu sẽ chia đều cho ba nhà. Thế là binh mã của ba nhà rầm rầm rộ rộ kéo thẳng tới Triệu. Triệu
  38. Tương Tử vấp phải thế hùng, không dám liều lĩnh, đành phải lùi về giữ Tấn Dương (thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây ngày nay). Thành Trì Tấn Dương này lần lượt trải qua sự kinh doanh khổ sở vất vả của hai gia thần nhà Triệu, chẳng những đã dựng được Cung điện nguy nga rộng rãi và tường thành vững chắc, mà sản xuất cũng được phát triển mạnh mẽ. Sau khi Triệu Tương Tử tới đó, thấy tường thành kiên cố, lương thảo sung túc, vô cùng sung sướng, thế nhưng lúc nhìn lại quân đội của mình, thấy sự chuẩn bị còn sơ sài, đao kiếm phần lớn đã bị hư hỏng, cũ kỹ, cung nỏ càng ít, lo sợ không chống nổi sự tấn công của Trí Bá, nên rất buồn rầu. Triệu Tương Tử triệu tập các quan đại thần tới bàn bạc. Quan đại thần là Trương Mạnh Đàm nói với Trương Tử: - Thoạt đầu, khi xây dựng tường vây quanh Cung điện Tấn Dương, phòng tương lai sẽ gặp tình thế bất lợi, quanh phía bên trong tường đã chất đầy củi lau và cành gai, những thứ này đều là nguyên liệu tốt để làm cán cung; cột cung điện bằng đồng có thể làm đao, kiếm, giáo, mác. Triệu Tương Tử tức khắc sai người đục tường vây rỡ cột đồng; thoạt nhìn thì thấy còn rất tốt, củi lau và cành gai đều vẫn rất rắn chắc. Tưởng Tử mừng rỡ cười ngoác miệng, nói: - Tốt lắm! Tốt lắm! Giờ thì đã có phương cứu hộ rồi! Tức thì Tương Tử sai người ngay đêm đó chế tạo các loại vũ khí như đao, thương, cung, nỏ tăng cường chuẩn bị phòng thủ, chờ bọn Trí Bá tấn công. Binh mã của ba nhà Trí, Hà, Ngụy vừa kéo đến đã vây chặt thành Tấn Dương tới mức nước không rỉ ra được, gió không thể thổi qua, rồi liều mạng đánh vào. Triệu Tương Tử dựa vào vũ khí tinh nhuệ, lương thảo dồi dào, quân dân anh dũng, kiên định giữ chắc được hơn ba tháng. Trí Bá thấy đánh thành không được, suốt ngày sùng sục như dầu sôi, lửa cháy. Một hôm, Trí Bá trèo lên núi Long Sơn ở phía Tây Bắc thành Tấn Dương quan sát địa hình, nhìn sông Tấn Hà chảy qua góc phía Đông Bắc của thành chợt nghĩ ra một biện pháp phá thành, liền vội vàng mời hai nhà Hàn, Ngụy tới thương nghị, Trí Bá nói: - Tôi nghĩ, thừa lúc này, nước sông không to lắm ta cho đắp một bờ đập lớn ở trong sông, để tích trữ nước, tới lúc đó, bọn trong thành sẽ chạy đi đâu? Nói xong, Trí Bá cười khà khà. Hai nhà Hàn, Ngụy không dám không theo, đều nói đó là một kế hay. Binh lính của ba nhà đều tuân theo mệnh lệnh của Trí Bá lập tức hành động, đắp ngay bờ đập. Đến mùa mua, Trí Bá sai người phá vỡ con đập ở bờ nam, nước lũ cuồn cuộn vây quanh thành Tân Dương, ngay ở trong thành nước cũng đã ngập sâu tới hơn thước. Thế nhưng ở trong thành Tân Dương, trên từ Triệu Tương Tử, dưới tới dân chúng đều thề chết quyết không đầu hàng, ngày đêm phòng thủ, không chút chểnh mảng. Và như vậy, thành bị vây suốt ba năm trời, trong thành không ít nhà đã bị đổ sập, lương thực cũng sắp sửa cạn, binh lính ốm la liệt, trước mặt không thể giữ yên được nữa. Triệu Tương Tử vô cùng lo lắng, lại cùng bàn bạc với các quan đại thần tìm cách giải cứu. Quan đại thần Trương Mạnh Đàm nói: - Thần cho rằng, hai nhà Hàn, Ngụy với nhà họ Trí chỉ bằng mặt mà không bằng lòng. Thần sẽ tới tìm họ để bàn bạc, tranh thủ họ để cùng chúng ta đối phó với nhà họ Trí.
  39. Triệu Tương Tử đồng ý cho Trương Mạnh Đàm đi thử xem. Trương Mạnh Đàm nhân lúc trời tối lẻn trốn vào doanh trại của Hàn, Ngụy, nói với Hàn Khang Tử và Ngụy Hàn Tử: - Tục ngữ nói chẳng sai, “môi hở răng lạnh”. Hiện nay Trí Bá dẫn đầu binh mã của hai nhà các ông tới đánh nhà Triệu chúng tôi. Nếu nhà Triệu mất thì sẽ đến lượt các ông đó! Hai nhà Hàn, Ngụy vốn từ trước vẫn có ý thức cảnh giác đối với Trí Bá, họ nghĩ, dù cho ba nhà có chia nhau họ Triệu, kẻ mạnh vẫn là nhà họ Trí. Trí Bá tâm địa ghê gớm, lòng tham vô đáy, tương lai mình cũng khó tránh khỏi kết cục của nhà họ Triệu. Nghe Trương Mạnh Đàm nói họ càng thêm lo lắng; thế nhưng sợ bắt hổ không thành tất bị hổ cắn, có điều thằng cha Trí Bá này vừa xảo trá lại vừa độc ác, sự việc chúng ta bàn bạc vạn nhất bị tiết lộ ra, thì đại họa sẽ giáng xuống đầu đó. Trương Mạnh Đàm an ủi họ mấy câu, bằng lòng bảo đảm giữ bí mật. Chẳng mấy chốc cả ba cùng thương lượng xong biện pháp tiêu diệt nhà họ Trí. Hôm đó, Trí Bá cùng với Hàn Khang Tử, Ngụy Hàn Tử quan sát thế nước. Trí Bá chỉ xuống thành Tấn Dương đang bị nước lũ vây chặt bốn bề, dương dương tự đắc nói: - Giờ ta mới được biết thế nào là lợi hại của nước: nước có thể làm diệt vong một quốc gia! Các ông nhìn kìa, nước này nếu lại dâng cao thêm một chút nữa thì toàn bộ thành Tấn Dương sẽ bị lấn chìm! Hai người Hàn, Ngụy vừa nghe xong, liền nói: - Đúng vậy! Đúng vậy! Thế nhưng con tim họ hoảng hốt cứ nhảy nhót, phập phồng. Thì ra là đô thành của Ngụy và Hàn đều có sông chảy qua. Nếu trong tương lai Trí Bá cũng dùng nước đối phó với họ thì sẽ ra sao? Họ vội sai người bí mật liên hệ với Triệu Tương Tử, ước định hành động sớm hơn. Nửa đêm hôm đó, hai nhà Hàn, Ngụy phá vỡ con đập ở bờ Bắc, nước liền chảy vào doanh trại của nhà họ Trí. Quân Trí đại loạn, vội vàng đi ngăn nước. Binh mã của Hàn, Ngụy thừa cơ tấn công từ hai bên. Triệu Tương Tử dẫn quân đánh vào doanh trại nhà họ Trí từ mặt chính diện, hét to: - Ai bắt sống được Trí Bá sẽ có trọng thưởng! Trí Bá đang say trong cơn mộng, bừng tỉnh dậy, đã thấy đại quân người ngựa của Hàn, Ngụy đã áp sát, còn quân mình thì đang rối loạn. Biết thế lớn đã mất, đành phải liều mình chạy trốn. Hắn muốn lên thuyền sang bờ bên để lên núi Long Sơn, rồi tới nước Tần cầu viện binh. Chẳng ngờ Triệu Tương Tử đã sai quân mai phục sẵn ở đó, chờ Trí Bá. Hắn vừa lên bờ, quân Triệu đã xông tới như ong vỡ tổ, bắt sống. Trí Bá rồi giết chết ngay. Quân đội nhà họ Trí, đứa chết, đứa bị thương, rất nhiều tên bị bắt làm tù binh. Trí Bá vừa chết, địa bàn của hắn đã bị ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy, chia nhau. Đây là sự kiện xảy ra vào năm 16 Trinh Định Vương nhà Chu (năm 453 trước Công Nguyên).
  40. Chẳng bao lâu, Triệu Tương Tử bị ốm rồi qua đời, người cháu của Trương Tử là Triệu Hoàn trở thành thủ lĩnh của nhà Triệu. Triệu Hoàn thương lượng với hai nhà Ngụy, Hàn nhân lúc vua mới của nước Tấn là U Công vừa lên ngôi, dứt khoát đem địa bàn của hắn chia đều nhau. Như vậy là nước Tấn chỉ còn lại ba nhà Triệu, Hàn, Ngụy mỗi người đứng riêng biệt. Sự kiện này sử sách gọi là “Ba nhà chia nhau nước Tấn”, gọi Hàn, Triệu Ngụy là “Tam Tấn”. Tấn U Công tuy vẫn còn giữ được danh vị của nhà vua, thế nhưng chỉ có dựa vào hai thành nhỏ mà Tam Tấn lưu lại để duy trì cuộc sống, quyền lực chẳng có gì khắp nơi phải làm việc theo sắc mặt của “Tam Tấn”, hệt như được xếp đặt vậy. Từ đấy, nước Tấn chiếm hữu nô lệ đã chuyển hóa thành ba nước Triệu, Hàn, Ngụy theo chế độ phong kiến. “Tam Tấn” tuy là ba quốc gia, nhưng không được kể là chư hầu, danh phận của họ vẫn còn là Khanh, khi trao đổi qua lại với vua các nước chư hầu khác luôn luôn phải chịu thấp hơn người một mức. Nếu muốn được làm chư hầu cần phải được sự bổ nhiệm của Chu Thiên Vương. Năm 23 Chu Uy Liệt Vương (năm 403 trước Công Nguyên), mỗi người “Tam Tấn” đều cử đại biểu của mình cùng tới Vương thất nhà Chu để xin phong. Kỳ thực lúc này Chu Thiên Vương chỉ là một bộ khung trống rỗng, không đủ sức quản công việc của các chư hầu, “Tam Tấn” tới xin phong chẳng qua là để thực hành thủ tục hợp pháp mà thôi. Uy Liệt Vương trước sự việc đã rồi đành phải lỏng tay phong cho thủ lĩnh nhà Hàn là Hàn Kiền làm Hàn Hầu, thủ lĩnh nhà Ngụy là Ngụy Tư làm Ngụy Hầu, thủ lĩnh nhà Triệu là Triệu Tịch làm Triệu Hầu. Từ đây “Tam Tấn” đã chính thức trở thành ba nước chư hầu độc lập. Sự kiện này đánh dấu việc giai cấp địa chủ mới trỗi dậy đã giành được chính quyền của nước Tấn và chế độ phong kiến đã hình thành ở nước Tấn. Trong khi ấy, chế độ nô lệ ở các quốc gia khác cũng đang dần dần tan rã, giai cấp địa chủ mới nổi lên, lần lượt giành được chính quyền ở các nước. Lịch sử Trung Quốc bắt đầu bước vào thời kỳ mới của xã hội phong kiến. Tới lúc này, mười mấy nước lớn ở cuối thời Xuân Thu, trải qua các cuộc chiến tranh và thôn tính kịch liệt, một số quốc gia đã bị diệt vong, số khác thì mạnh lên, chỉ còn lại bảy nước lớn là Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tần và vài nước nhỏ. Bảy nước lớn này được gọi là Chiến Quốc thất hùng. Để bảo tồn và mở rộng thế lực của mình, họ nghĩ kế đi xâm chiếm đất đai, tiêu diệt thực lực của các nước khác, không ngừng gây chiến trên quy mô ngày càng lớn. Các sách sử sau này gọi là thời kỳ chiến tranh triền miên không dứt đó là thời Chiến Quốc.
  41. 53. Ngụy Văn Hầu kén hiền tài Đầu thời kỳ Chiến Quốc, Ngụy là một quốc gia hùng mạnh nhất. Điều này không tách rời khỏi sự tài giỏi, sáng suốt của Ngụy Văn Hầu (Ngụy Tư). Điểm tài giỏi lớn nhất của ông là “Lễ hiền hạ sĩ, tư nhân thiện nhiệm”, chính là nói coi trọng và tôn kính những người có đức hạnh cao thượng, đầu óc sáng suốt, biết chiêu nạp rộng rãi hiền tài, khiêm tốn lắng nghe và tiếp thu ý kiến của họ, biết phát huy một cách tốt nhất uy tín của họ. Do đó rất nhiều hiền sĩ năng nhân tìm đến với Ngụy. Nước Ngụy có một người tên là Đoạn Can Mộc, đức, tài đều giỏi, uy tín rất cao, ở ẩn trong một ngõ nhỏ yên tĩnh, không chịu ra làm quan. Ngụy Văn Hầu muốn gặp mặt, mong được thỉnh giáo về phép trị nước. Một hô, Ngụy Văn Hầu ngồi trên xe đích thân tới nhà Đoạn Can Mộc thăm hỏi. Đoạn Can Mộc nghe tiếng động xe ngựa của Ngụy Văn Hầu, liền vội vàng nhảy qua tường chạy trốn. Ngụy Văn Hầu bị cấm cửa không tiếp, bực bội trở về. Tiếp liền mấy lần tới thăm hỏi, Đoạn Can Mộc đều lảng tránh. Thế nhưng Ngụy Văn Hầu trước sau vẫn vô cùng ngưỡng mộ Đoạn Can Mộc, mỗi lần ngồi xe đi qua cửa nhà ông, đều từ trên ghế ngồi vội đứng dậy, tay vịn vào lan can ngưỡng vọng rất lâu, tỏ lòng rất thành kính. Người phu xe hỏi: - Chúa Công nhìn gì vậy? Ngụy Văn Hầu nói: - Ta nhìn xem Đoạn Can Mộc tiên sinh có nhà hay không? Người phu xe không cho là phải, nói: - Đoạn Can Mộc cũng quá đáng lắm! Mấy lần tới thăm, ông ta đều không cho gặp, Chúa Công còn để ý tới ông ta làm gì? Ngụy Văn Hầu lắc đầu nói: - Đoạn Can Mộc tiên sinh chính là một người giỏi tuyệt vời đó, không xu phụ kẻ có quyền thế, không tham lam mưu đồ phú quý, phẩm đức cao thượng, học vấn uyên bác. Một con người như vậy, sao ta lại có thể không tôn kính được ư? Về sau Ngụy Văn Hầu dứt khoát vứt bỏ bộ khung của nhà vua, không ngồi xe, không đem theo tùy tùng, đi bộ tới nhà Đoạn Can Mộc. Lúc này dù thế nào cũng phải được gặp mặt Ngụy Văn Hầu khiêm nhường cung kính cầu xin được thỉnh giáo Đoạn Can Mộc. Cảm động trước thành ý của Ngụy Văn Hầu. Đoạn Can Mộc đã đưa ra rất nhiều biện pháp hay phò giúp nhà vua, Ngụy Văn Hầu mời Đoạn Can Mộc ra làm tướng quốc (trưởng quan hành chính tối cao của một nước lúc đó); nói thế nào Đoạn Can Mộc cũng không chịu. Ngụy Văn Hầu liền vái lạy nhận ông làm thày, để được thường xuyên tới thăm, lắng nghe cao kiến của ông về một số vấn đề trọng đại. Sự kiện này được lan truyền rất nhanh chóng. Mọi người đều biết Ngụy Văn Hầu “Lễ hiền hạ sĩ”, hạ mình trọng dụng người tài. Một số học rộng, tài cao, như nhà chính trị Trác Hoàng, Lý Khuy, nhà quân sự, Ngô Khởi, Nhạc Dương Vụ đều lần lượt về với Ngụy Văn Hầu, giúp đỡ ông ta cai trị đất nước.