Tài liệu môn Quản lý nhà nước về kinh tế
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu môn Quản lý nhà nước về kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_lieu_mon_quan_ly_nha_nuoc_ve_kinh_te.pdf
Nội dung text: Tài liệu môn Quản lý nhà nước về kinh tế
- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA KHOA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TS.LƯƠNG MINH VIỆT 1
- QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Phần thứ nhất NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNGVỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ I-SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Vì sao ở mọi quốc gia Nhà nước đều phải can thiệp vào nhiều mặt hoạt động của nền kinh tế quốc dân? Đó là một câu hỏi, cần được mọi cán bộ-công chức tự đặt ra cho mình và phải có được lời giải có sức thuyết phục cao. Bởi lẽ, sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh tế không phải bao giờ cũng cũng làm cho các đối tượng bị Nhà nước can thiệp cảm thấy dễ chịu. Trong trường hợp ấy, phản ứng tất nhiên của đối tượng là sự chất vấn công chức, chất vấn người thi hành công vụ về nguyên cớ mà họ bị cản trở. Sự đối lại tốt nhất của người thi hành công vụ là thuyết phục, trước khi phải dùng quyền cưỡng chế. Muốn thuyết phục phải hiểu lý do can thiệp của Nhà nước. Tình huống trên càng trở nên phổ biến khi nền kinh tế ngày nay đang từng bước chuyển thể sở hữu, từ chủ yếu là công hữu, không chỉ ở các nước XHCN, mà còn ở rất nhiều nước tư bản chủ nghĩa, sang nền kinh tế đa sở hữu, trong đó ở nhiều nước, phần chủ yếu lại là của tư nhân. Điều đó diễn ra ngay trong các nước xã hội chủ nghĩa, nơi đã từng có một nền kinh tế chủ yếu là của Nhà nước, nhưng do sự đổi mới tư duy, nền kinh tế của các nước này cũng đã chuyển dần theo hướng tăng cường kinh tế của tư nhân. Chẳng hạn, ngay ở nước ta hiện nay, nếu tính theo kết quả đầu ra, gần hai phần ba GDP do khu vực phi nhà nước làm ra. Nhưng, mặc dù có sự biến động theo hướng giảm tỷ trọng kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng kinh tế không của Nhà nước như vậy, sự can thiệp của Nhà nước vào các mặt hoạt động của nền kinh tế quốc dân vẫn không hề giảm đi, trái lạo, có mặt còn cần tăng thêm. T ại sao? Sở dĩ Nhà nước ta, cũng như mọi Nhà nước trên thế giới, đều phải quan tâm đến việc quản lý nền kinh tế nước mình là vì các lý do sau đây: 1-Kinh tế là lĩnh vực hoạt động xã hội chứa đựng mâu thuẫn giai cấp trực tiếp và sâu sắc nhất. Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp được phân hoá và hình thành trong lĩnh vực kinh tế. Chỉ khi nào xem xét con người trong quá trình tái sản xuất xã hội, người ta mới có khái niệm về giai cấp. Giai cấp là một tập hợp những con người cùng vị trí trong nền kinh tế quốc dân. Vị trí của con người trong nền kinh tế được xem xét trên ba mặt: vị trí của họ đối với tư liệu sản xuất (tức TLSX thuộc về ai), vị trí của họ trong quá trình quản lý nền kinh tế (tức, ai là chủ thể quản lý, ai là đối tượng quản lý) và vị trí của họ trong quá trình phân chia thành quả lao động (tức, ai là người có quyền phân chia thành quả lao động và quyết định hưởng thụ). Vậy, chính trên lĩnh vực kinh tế lúc nào cũng có cuộc đụng độ giai cấp giữa một bên là giới chủ với một bên là giới thợ. Cuộc đấu tranh này đương nhiên là khốc liệt. Thông thường, trong quan hệ chủ-thợ, luôn có sự bóc lột quá mức của chủ, sự thiếu sót của chủ trong việc bảo hộ và bảo hiểm lao động. Ngược lại, giới thợ thuyền cũng đấu 2
- tranh với chủ để bảo vệ lợi ích của mình, trong đó đôi khi cũng xảy ra sự đấu tranh quá mức của thợ thuyền. Khi một xã hội còn cần đến cả hai giai cấp trên, xã hội đó không thể để cho sự mâu thuẫn trên dẫn đến sự huỷ diệt tính mạng và tài sản của cả đôi bên. Cũng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Nhà nước là công cụ của giai cấp, có chức năng , nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi giai cấp. Do đó, Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế mới có thể bảo vệ quyền lợi kinh tế của giai cấp được Nhìn vào nền kinh tế nước ta chúng ta cũng có thể thấy rất rõ lý do đó. Trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có hai thành phần sở hữu là quốc doanh và tập thể. Do đó không có bóc lột. Nhưng sau khi thực hiện đa dạng hoá sở hữu về tư liệu sản xuất và mở cửa ra quốc tế, cho du nhập tư bản nước ngoài vào nước ta, vấn đề giai cấp lập tức xuất hiện. Trong hàng loạt doanh nghiệp đã nẩy sinh mâu thuẫn chủ thợ. Nếu trước kia cần đến quản lý nhà nước về kinh tế là vì những lý do nào khác, thì ngày nay, ngoài các lý do kia, còn có thêm một lý do mới, thậm chí là lý do hàng đầu, là vấn đề bảo vệ quyền lợi giai cấp. Sự bảo vệ này của Nhà nước được hướng vào giai cấp chủ, giai cấp thợ hoặc cả hai. Nhưng dù trên hình thức, sự bảo vệ được hướng vào cả hai, về bản chất, bao giờ cũng hướng vào giai cấp mà Nhà nước từ đó sinh ra. 2-Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nhân có thể có những hành vi tiêu cực, gây thiệt hại cho người khác hoặc cho xã hội, chỉ có Nhà nước mới có thể ngăn chặn được. Bản chất của hoạt động kinh tế là kiếm lời. Việc con người mưu lợi cho bản thân không phải là việc xấu. Vấn đề là ở chỗ, họ mưu lợi cho bản thân bằng cách nào?. Để có lợi cho bản thân, có doanh nhân áp dụng các biện pháp tích cực, như cải tiến thiết bị và công nghệ, hợp lý hoá tổ chức lao động sản xuất. Nhưng cũng không ít doanh nhân vì ích kỷ mà làm điều hại nhân. Đó là cái đáng chống và cũng chính là lý do cần đến sự can thiệp của Nhà nước vào đời sống kinh tế. Các hoạt động tiêu cực cụ thể của doanh nhân thường có nhiều. Dưới đây là một vài biểu hiện thường thấy: a-Các doanh nhân vì lợi nhuận tối đa mà bất chấp đạo lý, nguyên tắc, tuỳ tiện sản xuất và cung ứng những hàng hoá và dịch vụ có hại cho người tiêu dùng. Tác hại của chúng có thể là về thể chất hoặc tinh thần, tác động nhanh chóng hoặc di hại dài lâu, dễ nhận thấy hoặc khó nhận ra đối với một số người nào đó hoặc toàn xã hội, hại trong sinh họat hàng ngày hoặc trong sản xuất, khi hàng hoá được dùng làm tư liệu sản xuất, v.,.v Ví dụ, cung ứng những thực phẩm chứa nhiều vi trùng, vi khuẩn, hoá chất độc, cung ứng những dịch vụ văn hoá phản văn hoá, hướng con người đi theo những dục vọng tầm thường, cung ứng những máy móc thiết bị kém độ bền an toàn, kém chính xác, khiến cho người sử dụng nó có thể bị sự cố về lao động hoặc tiêu tốn nguyên liệu, nhiên liệu, gây ô nhiễm môi trường, làm ra sản phẩm kém chất lượng, v v b-Các doanh nhân sử dụng tài nguyên và môi trường một cách bất lợi cho cộng đồng. Không phải mọi doanh nghiệp đều dùng tài nguyên quốc gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, mà chỉ những doanh nghiệp khai thác tài nguyên, như khai thác 3
- khoáng sản, lâm thổ sản, đánh bắt thuỷ sản, v v mới động chạm đến tài nguyên quốc gia. Nhưng không có đơn vị sản xuất kinh doanh nào không động chạm đến môi trường sinh thái thông qua việc thải loại các cặn bã của sản xuất và đời sống của doanh nghiệp ra bên ngoài. Do vậy có thể nói rằng, hoạt động của mọi doanh nghiệp đều ảnh hưởng đến tài nguyên và môi trường sinh thái của quốc gia. Theo đúng đạo lý và pháp lý, tài nguyên và môi trường là tài sản chung của quốc gia, do đó mọi người sử dụng tài nguyên và môi trờng đều phải có nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ tài nguyên và môi trường, đóng góp kinh phí cho việc bảo vệ tài nguyên, khôi phục môi trường, tái tạo thiên nhiên. Nhưng trên thực tế thường có nhiều doanh nhân chốn tránh trách nhiệm, nghĩa vụ trên, chốn thuế tài nguyên, chốn nộp phí môi trường, không áp dụng các biện pháp chống ô nhiễm môi trường do sản xuất của mình gây ra. Vì lẽ đó cần có quản lý nhà nước, với địa vị pháp lý và quyền uy của mình, Nhà nước mới có thể ngăn chặn hoặc trừng trị làm răn đối với bất kỳ doanh nhân nào có hành vi chống lại lợi ích chung. c-Các doanh nhân có thể tuỳ tiện trong việc chiếm dụng địa điểm xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh của mình, không biết hoặc cố tình không biết “ ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Địa điểm xây dựng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp công nghiệp có ảnh hưởng xấu đến môi trường, như tiếng ồn lớn, chất thải độc, vận hành cao tốc, toả nhiệt cao, v v là mối quan tâm lớn của cộng đồng. Thông thường, các doanh nghiệp trên phải được cách ly dân cư và một số cơ sở sản xuất nhất định. Thế nhưng, không doanh nhân nào muốn bị đẩy ra xa các trung tâm kinh tế-xã hội. Từ đó tình trạng lấn chiếm trái phép vị trí địa lý thường xảy ra. d-Các doanh nhân có thể xử sự không công bằng, văn minh, nhân đạo trong việc phân chia kết quả sản xuất kinh doanh. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp nhỏ, là kết quả chung của một tập thể. Tập thể đó trước hết là tập thể người lao động, bao gồm chủ và nhiều người thợ. Tập thể đó còn là tập thể chủ sở hữu về vốn của doanh nghiệp. Do đó, trong mọi doanh nghiệp đều có việc chia kết quả lao động. Đây là việc không dễ làm được một cách công bằng, văn minh, do sự hạn chế của tính cách con người. Vì thế, sự sai lầm trong phân chia kết quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp là chuyện thường ngày. Trên đây chỉ là đơn cử một số hành vi sai trái của các doanh nhân. Trên thực tế, sự sai trái còn đa dạng, phong phú hơn gấp bội. 3-Các doanh nhân không tự giải quyết nổi nhiều vấn đề của quá triình sản xuất kinh doanh, mà chỉ có nhờ Nhà nước họ mới có khả năng quyết định đúng hoạt động của doanh nghiệp mình. Có rất nhiều vấn đề cụ thể mà một doanh nhân phải quyết định để doanh nghiệp của mình thịnh vượng, nhưng không phải doanh nhân nào và bao giờ các doanh nhân đó cũng có thể xử lý được mọi vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp của mình. Có thể đơn cử một số vấn đề như; 4
- a-Vấn đề phương hướng đầu tư, phương hướng sản xuất cụ thể, đặc biệt là những doanh nghiệp tham gia thị trường quốc tế hoặc thị trường toàn quốc. Để giải quyết vấn đề này mỗi doanh nhân phải có nhiều thông tin, đôi khi là những thông tin cơ mật quốc gia hoặc quốc tế. Đương nhiên, cá nhân doanh nhân không thể có nổi các thông tin đó, cũng không đủ tầm tư tưởng để dự đoán. b-Vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp đều cần có cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh của mình. Đương nhiên, doanh nhân phải tự đầu tư để tạo ra cơ sở đó. Tuy nhiên, có những bộ phận cơ sở vật chất kỹ thuật không thể do từng doanh nhân xây dựng riêng lẻ được. Ví dụ, các trung tâm mua bán (gọi đơn giản là các chợ), hệ thống giao thông, hệ thống thoát nước thải tại các cụm công nghiệp, v v. Đó là những việc chỉ có thể do Nhà nước làm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới hình thức cho tư nhân thầu, Nhà nước đóng vai trò gạch nối cung-cầu. c-Vấn đề tìm đối tác đáng tin cậy và có hiệu quả, nhất là đối tác của các doanh nhân thuộc các ngành công nghệ cao, có tầm quan hệ rộng, có lượng quan hệ lớn, v v Giới làm kinh tế ai cũng biết, ”buôn có bạn, bán có phường”. Có nghĩa là, làm kinh tế phải có đối tác. Nhưng không phải doanh nhân nào cũng dễ dàng tìm ra đối tác đáng tin cậy và hợp ý. Nếu thực hiện quan hệ rộng ra cả nước hoặc quốc tế thì việc tìm ra đối tác đạt yêu cầu càng khó khăn hơn. Các doanh nhân kém kiến thức, thiếu kinh nghiệm rất dễ bị lừa hoặc nhầm. Trên đây chỉ là đơn cử một số vấn đề khó xử lý của doanh nhân, khiến phải có Nhà nước can thiệp. 4-Trong nền kinh tế quốc dân có một phần là của Nhà nước, gọi là kinh tế nhà nước nên Nhà nước phải quản lý chúng a-Nội dung kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước là toàn bộ lực lượng của cải vật chất và những vật có giá thuộc quyền sở hữu của Nhà nước. Nó gồm: -Toàn bộ tài nguyên quốc gia -Toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, được xây dựng bằng ngân sách nhà nước -Toàn bộ dự trữ quốc gia, bao gồm hiện vật, nội ngoại tệ, vàng bạc, đá quý -Ngân sách nhà nước -Toàn bộ vốn nhà nước trong các doanh nghiệp, bao gồm DNNN (Có 100% vốn là của Nhà nước), vốn nhà nước trong các công ty các loại Riêng về DNNN mỗi nước có định nghĩa riêng. Mọi định nghĩa đều chỉ là tương đối và không phải là vấn đề quan trọng. Điều căn bản thống nhất trong mọi định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là ở chỗ, các doanh nghiệp này có vốn nhà nước. Được gọi là DNNN khi vốn này bằng 100% (như quy định của Nhà nước Việt nam) hoặc là một số bất kỳ nào đó, lớn hơn không (>0) b-Sự cần thiết khách quan của kinh tế nhà nước Mỗi nước có lý do riêng, nhưng nhìn chung, có một số lý do chính sau đây: 5
- -Nhà nước cần tập trung hoá vốn quốc dân để đủ lượng cần thiết gây dựng những cơ sở kinh tế ban đầu cho quốc gia, khi nền móng kinh tế của quốc gia còn ở giai đoạn sơ khai, non yếu. -Nhà nước không thể để xã hội thiếu sản phẩm hoặc dịch do khu vực tư, vì những lý do chủ quan và khách quan nào đó, không được làm, không làm được hoặc không muốn làm. Trong trường hợp đó Nhà nước phải trực tiếp thành lập các DNNN để chúng sản xuất và cung ứng các hàng hoá và dịch vụ thay cho khu vực tư. -Nhà nước cần nắm một lực lượng kinh tế để Nhà nước có thực lực, từ đó có thể gây áp lực kinh tế đối với các đối tượng quản lý của mình, khi không muốn sử dụng công cụ cưỡng chế hoặc không thể chỉ dựa vào tuyên truyền, thuyết phục. - Nhà nước cần nắm một lực lượng kinh tế để có thực lực , từ đó có thể thực hiện các ý đồ nhân văn, nhân đạo đối với xã hội -Nhà nước cần nắm giữ tài nguyên quốc gia vì đó là nguồn sống còn của quốc dân. -Nhà nước phải có ngân sách để chi tiêu cho các nhu cầu công cộng, công ích. -Nhà nước phải có dự trữ quốc gia để phòng ngừa rủi ro thiên tai, địch hoạ c-Vì sao Nhà nước cần quản lý bộ phận kinh tế của mình? -Trước hết, vì những lý do, giống như những lý do, dẫn đến sự cần thiết phải có quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nói chung, đã được nêu ở trên. -Bên cạnh đó, Nhà nước phải quản lý kinh tế nhà nước còn vì các lý do riêng sau đây: +Các cán bộ và công chức, được Nhà nước giao cho quản lý và sử dụng các bộ phận kinh tế nhà nước nói trên, ví dụ các DNNN, các kho bạc nhà nước, v v. có thể, vì những lý do khách quan, chủ quan nào đó, không làm đúng chức năng, nhiệm vụ, sứ mệnh được giao, hoạt động sai vai trò, chức năng của kinh tế nhà nước. +Tệ hại hơn nữa, những con người trên có thể sử dụng một cách lãng phí , thậm chí tham ô công sản, chạy theo lợi ích cục bộ, bản vị, biến công sản thành phương tiện mưu cầu lợi ích riêng cho tập thể mình, thậm chí, cho cá nhân hoặc một nhóm người nào đó. II- CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ 1-Chức năng bảo vệ lợi ích giai cấp trong lĩnh vực kinh tế. Chức năng này được thực hiện thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý cụ thể như: 6
- a-Bảo vệ chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất mà giai cấp thống trị là đại biểu. Đối với Nhà nước tư sản, đó là việc duy trì và phát triển chế độ tư hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất. Đối với Nhà nước ta, đó là việc tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế ra đời trên cơ sở không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể. b-Bảo vệ quyền lợi kinh tế của giai cấp thống trị trong các cơ sở kinh tế. Đối với nhà nước tư sản, đó là việc bảo vệ giới chủ trong các doanh nghiệp, chống lại sự phản ứng của giai cấp công nhân về chế độ ngày công giờ công, thù lao và bảo hiểm do giới chủ áp dụng đối với người lao động. Đối với Nhà nước ta, đó là việc bảo vệ người lao động trước sự bóc lột quá đáng của giới chủ, bảo vệ vị trí nhất định của người lao động trong quá trình lao động tại doanh nghiệp, bảo vệ nhân quyền, nhân phẩm người thợ trước mọi sự ngược đãi của giới chủ. 2-Chức năng điều chỉnh sao cho mọi quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế được thực hiện một cách tối ưu về kinh tế, công bằng, văn minh về xã hội a-Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế có thể chia thành hai nhóm chính sau đây: -Các quan hệ phân công và hiệp tác, gồm: phân công và hiệp tác theo ngành và theo lãnh thổ, nội bộ quốc gia và quốc tế, cả nước hoặc từng địa phương, v v -Các quan hệ lợi ích, gồm: quan hệ lao động và tiền lương giữa chủ và thợ trong mỗi doanh nghiệp, quan hệ thương trường giữa doanh nhân với nhau, quan hệ đồng làm chủ và chia lợi nhuận công ty giữa các cổ đông trong mỗi công ty với nhau, quan hệ tranh chấp môi trường giữa các doanh nhân với nhau và với dân cư, quan hệ giữa người cung bán với người mua xung quan tương quan giữa giá cả và chất lượng, số lượng sản phẩm, dịch vụ, v v b-Mục tiêu điều chỉnh của Nhà nước là: -Đối với loại quan hệ đầu, đó là hiệu quả kinh tế. Tức là, giúp cho các quan hệ lao động, quan hệ phân công và hiệp tác được diễn ra một cách hợp lý nhất, thể hiện ở chỗ, tạo được năng suất lao động xã hội cao nhất -Đối với loại quan hệ thứ hai, đó là làm cho mọi sự phân chia quyền lợi nói trên được thực hiện công bằng, văn minh. Mặt công bằng nói về lý, về tính khoa học của sự phân chia. Mặt văn minh nói về tình, về sự nhân ái giữa những người tham gia chia lợi ích 3-Chức năng hỗ trợ công dân làm kinh tế Nhà nước thực hiện chức năng này thông qua việc thực hiện những nhiệm vụ cụ 7
- thể sau đây: a-Tạo môi trường pháp lý ổn định, chặt chẽ, đủ độ tin cậy để mọi công dân yên chí lập nghiệp, yên chí làm giầu. Biểu hiện của việc thực hiện tốt chức năng này của Nhà nước là sự hiện diện một hệ thống pháp luật nói chung, đặc biệt là pháp luật kinh tế, đầy đủ, khoa học, ít thay đổi, được thực hiện nghiêm minh bởi hệ thống co quan hành pháp và tư pháp mạnh. b-Tạo môi trường vật chất kỹ thuật, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại cho mọi quan hệ hàng hoá được thực hiện an toàn, thuận lợi, có ghiệu quả. Biểu hiện của việc thực hiện tốt chức năng này là xây dựng được hệ thống các “chợ” đủ loại, hiện đại, bao gồm các siêu thị, các trung tâm thị trường chứng khoán, các trung tâm thông tin khoa học kinh tế-kỹ thuật-thương mại, hệ thống giao thông công chính, v v. c-Tạo môi trường xã hội nhân văn cho giới kinh doanh hoạt động. Biểu hiện của việc thực hiện tốt chức năng này của Nhà nước là việc tạo ra được môi trường ngoại giao quốc tế để doanh nhân mỗi nước có cơ sở chính trị-pháp lý-ngoại giao tiến hành hợp tác kinh tế với nước ngoài, tạo được cơ hội giao tiếp giữa các doanh nhân trong nước với nhau, tạo được thị trường đầu vào, đầu ra cho các doanh nghiệp hoạt động. d-Hỗ trợ công dân về tri thức kỹ thuật sản xuất, thông tin thị trường, khoa học quản lý. Mọi công dân khi làm kinh tế trước hết cần có tri thức về khoa học và công nghệ của ngành sản xuất mà mình đầu tư. Kế đến là tri thức kinh tế của ngành đó. Cuối cùng là kiến thức và kinh nghiệm quản lý. Ngoài ra, người làm kinh tế rất cần thông tin thời sự về mọi lĩnh vực, từ chính trị đến an ninh, quốc phòng, lịch sử, địa lý, văn hoá, v v của địa bàn kinh tế mà họ dự định thâm nhập e-Hỗ trợ công dân về vốn. Nhu cầu về vốn không chỉ có ở những người lần đầu lập nghiệp kinh tế, chưa đủ tích luỹ ban đầu. Nhu cầu này có ở cả những doanh nhân giầu có. Tuy giầu, nhưng họ vẫn cần có sự hỗ trợ về vốn vì người giỏi làm kinh tế không khi nào để vốn nhàn rỗi, chờ đầu tư. Do đó, thường xẩy ra sự lệch pha giữa khả năng sẵn sàng của vốn và cơ hội đầu tư. Đó chính là lúc nhà đầu tư cần sự hỗ trợ về vốn của Nhà nước f-Hỗ trợ doanh nhân trong việc bảo vệ tính mạng và tài sản. Mọi công dân đều cần được Nhà nước bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản. Nhưng các công dân làm kinh tế là những người có nguy cơ bị xâm hại tính mạng và tài sản hơn cả, bởi họ có tài sản lớn. Do đó, hơn mọi người, doanh nhân cần sự hỗ trợ đặc biệt này của Nhà nước. 4-Chức năng bảo vệ kinh tế nhà nước và bảo đảm cho kinh tế nhà nước thực sự là công cụ đắc lực cùng với công cụ cưỡng chế, công cụ tuyên truyền thuyết phục, giúp Nhà nước quản lý tốt nền kinh tế quốc dân nói riêng, xã hội nói chung. 8
- Chức năng này được thể hiện qua hai chức năng bộ phận sau đây: a-Bảo vệ công sản, được gọi chung là kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước hay công sản, bao gồm tài nguyên, hệ thống kết cấu hạ tầng do Nhà nước bỏ tiền xây nên, Ngân sách nhà nước, Dự quốc gia, Hệ thống DNNN, toàn bộ vốn nhà nước trong các công ty. Việc bảo vệ này gồm hai nội dung: -Chống tổn thất khách quan. Đó là những tổn thất do thiên tai, địch hoạ gây ra. -Chống tổn thất chủ quan. Đó là các tổn thất do tham ô, lãng phí gây ra. b-Bảo đảm cho kinh tế nhà nước phát huy tác phải có của công cụ kinh tế mà Nhà nước đã tạo dựng nên. Đó là việc Nhà nước định hướng, khuyến khích, bắt buộc, , v v tập thể cán bộ công chức nhà nước, những người được Nhà nước giao quản lý và sử dụng các phần công sản trên, phải dùng các bộ phận đó đúng mục đích, yêu cầu mà Nhà nước đặt ra cho họ III-ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NỘI DUNG CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Trên lĩnh vực kinh tế, Nhà nước quản lý những gì, quản lý tới đâu? Đó thực sự là câu hỏi nghiêm chỉnh đối với mọi Nhà nước, đòi hỏi sự trả lời nghiêm chỉnh từ phía Nhà nước. Nếu không như vậy, Nhà nước sẽ rơi vào một trong hai trạng thái sai lầm sau đây: Hoặc là, mất dân chủ, bao biện làm thay nhân dân, dẫn đến sự trì trệ, kém hiệu quả trong hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hoặc là, bỏ rơi vai trò, vị trí không ai thay thế được của Nhà nước, đẩy nền kinh tế quốc dân vào tình trạng rối loạn. Vậy, Nhà nước quản lý những gì, quản lý tới đâu đối với nền kinh tế quốc dân? Dưới đây sẽ làm rõ vấn đề đó. Đồng thời, đó cũng chính là đối tượng, phạm vi quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. 1-Nhà nước phải quản lý phương hướng đẩu ra của nền kinh tế a-Nội dung của vấn đề đầu ra của kinh tế quốc dân 9
- Đầu ra của nền kinh tế, mà Nhà nước cần phải quản lý, gồm: -Chủng loại sản phẩm và dịch vụ. Đó là vấn đề sản xuất cái gì cho xã hội? Sáng tạo dịch vụ gì cho xã hội? -Chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Đó là vấn đề sản phẩm đó ra sao? -Sản lượng đầu ra của sản phẩm và dịch vụ. Đó là vấn đề sản xuất bao nhiêu? b-Vì sao Nhà nước phải quản lý phương diện nói trên của nền kinh tế Ba vấn đề của đầu ra của nền kinh tế, như đã nêu: Chủng loại sản phẩm và dịch vụ, số lượng sản phẩm và quy mô dịch vụ, chất lượng sản phẩm và dịch vụ là những vấn đề có ý nghĩa to lớn về chính trị, kinh tế và xã hội. Việc giải quyết tốt các vấn đề trên vừa có lợi cho xã hội, cho Nhà nước, cho nhười tiêu dùng, và đấy là lý do đầu tiên khiến Nhà nước phải quan tâm đến đầu ra của nền sản xuất xã hội, vừa có lợi cho chính người sản xuất kinh doanh. Đây là điều cần được cả Nhà nước lẫn doanh nhân nhận thức đầy đủ. Nếu chỉ thấy được động cơ quản lý đầu ra của Nhà nước là bảo vệ lợi ích cộng đồng, lợi ích Nhà nước, lợi ích người tiêu dùng thì trong hoạt động quản lý của cán bộ và công chức sẽ thiên vị, thiếu sáng suốt, thiếu công bằng, khi đó ngay cả lợi ích cộng đồng, lợi ích nhà nước, lợi ích người tiêu dùng cũng không dễ đạt được. Đối với các doanh nhân cũng cần có nhận thức đầy đủ cảc hai mặt động cơ quản lý đầu ra của Nhà nước. Bởi chỉ khi đó các doanh nhân mới thật sự thoải mái, tự nguyện chấp hành các điều chỉnh của Nhà nưóc. Sự cần thiết phải quản lý đầu ra của Nhà nước là ở chỗ, vấn đề chủng loại sản phẩm và dịch vụ chính là vấn đề phương hướng đầu tư sản xuất kinh doanh, vấn đề kế hoạch hoá sản xuất hàng năm, hàng tháng của từng doanh nhân. Nó liên quan đến sự tiêu thụ sản phẩm của từng doanh nghiệp, cũng là liên quan đế doanh thu và lợi nhuận của mọi doanh nghiệp, vấn đề hàng đầu mà doanh nhân nào cũng quan tâm. Vấn đề chủng loại sản phẩm là vấn đề cơ cấu kinh tế, từ đó liên quan đến vấn đề xuất nhập khẩu. Đó vừa là vấn đề kinh tế vừa là vấn đề chính trị quốc tế. Vấn đề số lượng sản phẩm và quy mô dịch vụ tối ưu có ý nghĩa kinh tế rất lớn. Nếu tất cảc các doanh nhân đều mù quáng tăng sản lượng chắc chắn sẽ có sự ế hàng. Nhưng nếu mọi doanh nhân đều không quan tâm đáp ứng nh cầu thì chắc chắn sẽ làm cho xã hội thiếu hàng hoá. Vấn đề chất lượng sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa nhiều mặt: kinh tế, y tế, khoa học, công nghệ, chính trị-xã hội. Đó là vấn đề sức khoẻ nhân dân, cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. c-Nội dung quản lý nhà nước đối với đầu ra củ nền kinh tế 10
- Nhà nước quản lý đầu ra cuả nền kinh tế thông qua các công vụ chủ yếu sau đây: -Thống nhất hoá, tiêu chuẩn hoá chất lượng sản phẩm, hình thành nên các tiêu chuẩn quốc gia hoặc tham gia tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng sản phẩm. -Xác lập danh mục các loại sản phẩm, dịch vụ bị nghiêm cấm sản xuất, tạo dựng. -Xây dựng các mệnh lệnh, các đơn hàng, các hợp đồng hành chính, các hướng dẫn v v tuỳ từng loại đối tượng quản lý để hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vào các mặt hàng, các dịch vụ mà Nhà nước thấy có lợi cho xã hội , cho cộng đồng hoặc cho Nhà nước. -Giám sát sự tuân thủ chất lượng sản phẩm của người sản xuất hàng hoá và dịch vụ, đấu tranh chống việc làm hàng giả, hàng chất lượng kém, hàng chứa độc tố cả về vật chất lẫn tinh thần. 2-Nhà nước phải quản lý mặt sở hữu về tư liệu sản xuất của nền kinh tế a-Nội dung cụ thể của vấn đề Có hai khía cạnh sau đây, thuộc vấn đề sở hữu kinh tế: -Đặt quyền sở hữu của Nhà nước đối với tài nguyên quốc gia. Tài nguyên quốc gia vốn dĩ là của chung, nhưng thông thường, chủ sở hữu được hình thành một cách ngẫu nhiên, tuỳ lịch sử hiện diện của con người tại mỗi vùng đất. Do vậy, có quốc gia coi tài nguyên là công sản 100%, có Quốc gia chỉ quy định những tài nguyên quan trọng là công sản. Vì thế, khi lập quốc, khi thay đổi chính thể, Hiến pháp mở đầu kỷ nguyên mới phải tuyên bố chủ quyền quốc gia về tài nguyên. Sự tuyên bố đó có thể là sự tái định, cũng có thể là sự tân định. Nhưng, dù mới công nhận hay giữ nguyên trạng, công việc quản lý nhà nước về kinh tế, có liên quan đến vấn đề sở hữu phải công bố ý chí của Nhà nước về vấn đề này. -Khẳng định các dạng sở hữu đối với các tư liệu sản xuất, mà thực chất là tuyên bố thừa nhận: +Các loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất +Các loại hình doanh nghiệp b-Vì sao Nhà nước cần quản lý mặt sở hữu của kinh tế? Đó là vì -Ý nghĩa chính trị, giai cấp của vấn đề sở hữu. Với việc tuyên ngôn về vấn đề sở 11
- hữu về tư liệu sản xuất trong Hiến pháp và các đạo luật, có liên quan đến kinh tế, Nhà nước khẳng định hai điều: +Quyền của công dân trong việc có tư liệu sản xuất đến đâu. Đó chính là cơ sở để hình thành nên nền tảng giai cấp, nền tảng chính trị của quốc gia. Nói cách khác là, qua việc thiết lập chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, Nhà nước tạo dựng được cơ sở chính trị từ trong kinh tế, Nhà nước xây dựng được chế độ kinh tế làm nên tảng cho chế độ chính trị. +Ý chí kiểm soát của Nhà nước đối với các sở hữu chủ khác. Nếu tỷ trọng DNNN nói riêng, kinh tế nhà nước nói chung, cao, nếu trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế quốc dân có nhiều công ty cổ phần nhà nước, nếu phần lớn những công ty cổ phần nhà nước là những công ty, trong đó vốn nhà nước chiếm phần chi phối v v, có nghĩa là, lực lượng kinh tế của Nhà nước sẽ giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốcdân, kinh tế nhà nước đang kèm chặt các laọi kinh tế không của Nhà nước trênm thương trường. Nói cách khác là, Nhà nước thực hiện được sự thống trị của mình về kinh tế -Ý nghĩa kinh tế của vấn đề sở hữu. Theo nguyên lý kinh tế, đã được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin phát hiện, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất nói riêng, quan hệ sản xuất nói chung, là một trong những nhân tố, quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất. Theo quy luật đó, quan hệ sản xuất phải phù hợp và thích ứng với trình độ và tính chất cuả sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu không như vậy, hoặc quan hệ sản xuất phải bị thay thế hoặc lực lượng sản xuất bị đình đốn. Vì vậy, trong quản lý nhà nước về kinh tế, nếu giải quyết không tốt vấn đề quan hệ sản xuất sẽ làm đình đốn lực lượng sản xuất. 3-Nhà nước phải quản lý việc xây dựng lực lượng sản xuất về các mặt sau đây: a-Về giải pháp nguyên liệu cho sản xuất hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp -Đối tượng và phạm vi quản lý của Nhà nước về mặt nguyên liệu. Bất kỳ một hoạt động sản xuất nào cũng cần có nguyên liệu. Bảo đảm nguyên liệu cho sản xuất là việc của doanh nhân-chủ nhân trực tiếp của doanh nghiệp. Họ phải làm tất cả mọi việc để có nguyên liệu cho sản xuất của họ. Về phần mình, Nhà nước phải quản lý các mặt sau đây: +Các quá trình sản xuất động chạm đến nguồn tài nguyên nào của quốc gia. Chẳng hạn, sản xuất điện từ năng lượng nào?, sản xuất đồ mộc từ rừng cây nào? các điểm du lịch động chạm đến núi, rừng nào? v v 12
- +Các doanh nhân mua nguyên vật liệu của nước nào để thực hiện quá trính sản xuất của họ? +Các nhà sản xuất chế tạo sản phẩm bằng chất liệu gì?. +Trình độ khai thác, tận dụng của các doanh nghiệp trong việc khai thác và sử dụng các loại tài nguyên, nguyên liệu như thế nào? Chúng có sử dụng tiết kiệm và hợp lý không?, chúng có khai thác một cách khoa học cá nguồn tài nguyên quốc gia không? Có làm cùng kiệt, huỷ hoại các nguồn tài nguyên đó không. -Sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với vấn đề trên. Sở dĩ Nhà nước phải quan tâm tới nhưng khía cạnh nêu trên của vấn đề nguyên liệu là vì +Chúng liên quan đến chất lượng sản phẩm, từ đó ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng, đến đến sực khoe chung của cả dân tộc. +Chúng liên quan đến môi trường sinh thái do tác động vàp tài nguyên khi các doanh nhân khai thác tài nguyên. Đó là tài nguyên rừng, ảnh hưởng đến chế độ thuỷ văn của các dòng sông, đến ôn độ của mỗi vùng hoặc cả nước. Đó là tài nguyên nước ngầm, ảnh hưởng đến địa chất công trình, đến ôn độ của vỏ trái đất. Và v v +Chúng ảnh hưởng đến bản thân quỹ tài sản vô cùng quý gái của quốc gia. Đó là tài nguyên. Sự giầu có của mỗi quốc gia thể hiện ở lượng của cải vật chất do quốc gia đó tạo ra hàng năm. Kết qả này phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó nhân tố hàng đầu là tài nguyên. Một quốc gia không có tài nguyên vẫn có thể trở nên giầu có, nhưng phải là một quốc gia năng động và trí tuệ, có đội ngũ trí thức và những người lao động có khối óc sáng tạo và đôi bàn tay vàng. Những quốc gia như vậy không nhiều. Do vậy, nói chung, mọi quốc gia muốn giầu có phải giầu tài nguyên, bởi vì, mọi của cải vật chất đều được chế tạo từ tài nguyên, không của trong nước thì cũng từ tài nguyên của một nước ngoài nào đó. Do vậy, tiết kiệm tài nguyên là vấn đề sống còn của mọi quốc gia mà Nhà nước không thể bàng quan -Nhiệm vụ, nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên. Quản lý nhà nước về tài nguyên là nội dung lớn, được trình bày trong một chuyên đề riêng. Trên giác độ kinh tế, vấn đề tài nguyên được Nhà nước quản lý với nội dung sau: +Bảo vệ tài nguyên, ngăn chặn mọi hành vi khai thác và sử dụng tài nguyên không được phép Nhà nước. 13
- +Điều tra nắm vững mọi nguồn lợi tài nguyên, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch động dụng tài nguyên vào các quá trình kinh tế một cách tối ưu cho quốc gia. +Xây dựng pháp luật bảo vệ và khai thác, sử dụng các laọi tài nguyên. +Điều khiển việc khai thác tài nguyên quôc gia của các doanh nhân trên mặt trận kinh tế, từ việc cấp phép khai thác đến kiểm tra, giám sát việc chấp hành giấy phép và các quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động khai thác, vận chuyển, bảo quản, sử dụng tài nguyên, nhất là các tài nguyên quý, hiếm, có yếu tố độc hại(các nguyên tố sạ hiếm), giữ vững quyền làm chủ quốc gia về tài nguyên trong việc thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên, thu lợi cho Nhà nước. +Kiểm soát ảnh hưởng của nguyên liệu đối với chất lượng sản phẩm để ngăn ngừa, nghiêm cấm việc sử dụng nguyên liệu bất lợi trong việc chế tạo sản phẩm, kiểm soát việc khai thác, sử dụng tài nguyên có liên quan đến mội trường sinh thái để tiến hành các biện pháp ngăn ngừa ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm, tái tạo môi trường, v v +Kiểm soát đối tác buôn bán nguyên liệu của các doanh nhân, ngăn ngừa việc xuất nhập khẩu nguyên liệu bất lợi cho đất nước, ngăn ngừa mọi rủi ro cho doanh nhân trong quan hệ xuất-nhập khẩu nguyên liệu b-Về các giải pháp thiết bị và công nghệ, được các doanh nhân dùng vào sản xuất, kinh doanh. -Đối tượng,phạm vi quản lý của Nhà nước về mặt thiết bị và công nghệ trong hoạt động inh tế Về mặt này, Nhà nước phải quan tâm đến các khía cạnh sau đây: +Loại thiết bị, công nghệ, trình độ tiêntiến của chúng +Nguồn cung ứng các thiết bị và công nghệ đó -Tầm quan trọng của việc quản lý các hoạt động thuộc lĩnh vực này. Sở dĩ Nhà nước phải quản lý trên các khía cạnh trên là vì: +Chất lượng thiết bị và trình độ hiện đại của công nghệ được áp dụng ảnh hưởng rất lớn chất lượng sản phẩm, được sản xuất theo phương pháp công nghệ và thiết bị đó, ảnh hưởng đến sự an toàn tính mạng của người sử dụng thiết bị trong quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến trình độ tiên tiến và hiệu quả của việc khai thác tài nguyên, ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sinh thái, nơi thiết bị và công nghệ đó được sử dụng, v v +Nguồn cung ứng thiết bị, mà thực chất là vấn đề, thiết bị và công nghệ đó được nhập từ nước nào, là vấn đề có ý nghĩa về mặt chính trị, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế nước nhà khi quan hệ với đối tác đó. 14
- -Nhiệm vụ quản lý của Nhà nước trên phương diện này. Quản lý mặt này, Nhà nước phải: +Kiểm soát và điều khiển các doanh nhân trong việc nhập khẩu thiết bị kỹ thuật và công nghệ từ nước ngoài, ngăn cấm sự du nhập các thế hệ kỹ thuật và công nghệ bất lợi cho quốc gia. +Kiểm soát và ngăn chặn các sơ hở của các doanh nhân về chính trị, về an ninh quốc gia trong khi tiếp xúc với thị trường quốc tế về chất xám. c-Về các giải pháp tổ chức sản xuất của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Về mặt này, Nhà nước phải quan tâm , can thiệp vào các vấn đề sau đây: -Vấn đề phân bố địa lý kinh tế, xác lập địa điểm xây dựng các đơn vị sản xuất kinh doanh. -Vấn đề tổ chức sản xuất xã hội, can thiệp vào các quan hệ hiệp tác giữa các doanh nhân nước nhà với các đối tác nước ngoài, vấn đề quy mô đơn vị sản xuất kinh doanh, vấn đề phân công chuyên môn hoá v v. Tổ chức sản xuất là một vấn đề khó giải, do tầm nhìn vấn đề khá rộng. Vì thế các doanh nhân thường không nhìn thấy hết sự hợp lý trong không gian và thời gian của viêcj phân bố địa lý sản xuất, của việc phân công và hiệp tác, của việc thiết lập các quan hệ thương mai quốc tế. đ-Về mặt bảo vệ môi trường, hạn chế sự tác hại của sản xuất kinh doanh tới môi trường của các doanh nhân. Nhà nước phải quan tâm tới các mặt cụ thể sau đây: -Các độc tố mà các hoạt động sản xuất kinh doanh thải ra môi trường, mức độ độc hại của chúng. -Các biện pháp khoa học-công nghệ xử lý chất thải trước khi cho chúng nhập vào môi trường, trong quy định một cách bắt buộc các biện pháp mà các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thực hiện nhằm xử lý các tác hại của sản xuất kinh doanh tới môi trường. Ví dụ, các biện pháp xử lý nước thải trước khi thải vào hệ thống tiêu thoát chung, chuẩn mực các loại ống khói của nhà máy, các thiết bị giảm thanh, v v 15
- -Quy định các khoản phí phải nộp để Nhà nước khắc phục sự ô nhiễm môi trường. 4-Nhà nước phải quản lý quan hệ giữa người và người trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. a-Những quan hệ con người trong các đơn vị SXKD, cần được Nhà nước quan tâm: -Quan hệ chủ thợ. Trong quan hệ chủ thợ, Nhà nước cần quan tâm đến các khía cạnh sau đây: +Quan hệ tiền công +Thái độ lao động của thợ và quan hệ với chủ +Đối xử của chủ với thợ trong quan hệ điều khiển, quan hệ quản lý. Người chủ có súc phạm thân thể, danh dự người thợ hay không và nược lại. +Quan hệ bảo hộ lao động và bảo hiển xã hội -Quan hệ giữa tầng lớp chủ với nhau, tức quan hệ giữa các cổ đông với nhau, các xã viên HTX với nhau. Quan hệ này thường cần được Nhà nước điều chỉnh ở các khía cạnh sau: +Sự bình đẳng giữa các xã viên, các cổ đông trong quản lý công ty, HTX. Thường xảy ra những tranh chấp quyền lãnh đạo công ty, thiếu dân chủ trong phát biểu và biểu quyết các vấn đề của Đại hội đồng cổ đông hoặc hội đồng quản trị. Nhà nước bằng hoạt động quản lý của mình ngăn ngừa các tình huống đó xảy ra. +Sự công khai công bằng trong phân chia quyền lợi giữa các cổ đông của công ty, các xã viên của HTX. Nhà nước cần bằng ảnh hưởng của mình để trong các HTX, các Công ty không xảy ra tham ô, biển lận quỹ chung. 5-Nhà nước phải quản lý việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đơn vị kinh tế nhà nước và sự toàn vẹn giá trị vốn nhà nước tại các cơ sở này a-Đối tượng quản lý của Nhànức về mặt này là: -Các DNNN, mà cụ thể là các giám đốc DNNN -Các cơ quan Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, được Nhà nước giao trực tiếp quản lý Dự trữ quốc gia, Tài nguyên quốc gia, các công trình kết cấu hạ tầng, Kho bạc nhà nước, các ngân hàng thương mại quốc doanh, v v b-Phạm vi vấn đề cần quan tâm, quản lý 16
- Nhà nước cần quan tâm, quản lý các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp nói trên về các mặt sau đây: -Sự nguyên vẹn của tài sản. Tức là, không để cho các tài nguyên quốc gia, dự trữ quốc gia, ngân sách nhà nước, vốn nhà nước trong các doanh nghiệp, trước hết là DNNN v v bị tham ô, lãng phí -Sự làm tròn vai trò, tác dụng của các đơn vị kinh tế. Tức là các đơn vị nói trên thực hiện được vai trò, chức năng của chúng, mà vì thế, Nhà nước xây dựng nên chúng. Chẳng hạn thực hiện được vai trò chức năng của DNNN, như đã trình bày ở trên. IV-PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ 1-Khái niệm phương thức quản lý. Phương thức quản lý là cách sử dụng các phương pháp quản lý, là phương hướng vận dụng các phương pháp. Phương thức quản lý cũng có thể được hiểu như là nét chung của một hệ thống các phương pháp quản lý cụ thể khác nhau nào đó, dựa theo tính chung của chúng. Tên của phương thức quản lý đó được định ra trên cơ sở khái quát nét chung nhất của của cả hệ thống các phương pháp đó. Chẳng hạn, phương thức kích thích là cách gọi chung của cả loạt các phương pháp cụ thể như, thuế, lãi suất ngân hàng, giá cả, v v. Các phương pháp trên có nét chung là đềudùng lợi ích vật chất để làm cho đối tượng vì ham muốn lợi ích đó mà theo Nhà nước. Phương pháp cụ thể dùng những cái lợi cụ thể, như tiền thưởng, cho vay lãi suất thấp hoặc chậm phải trả, miễn hoặc giảm thuế, khen ngợi, v v. Các phương pháp đó có nét cụ thể khác nhau, nhưng đều cùng là dùng lợi ích làm động lực phấn khích đối tượng. Vì thế, người ta gọi chung các phương pháp đó là phương thức kích thích, khi mỗi cách kích thích cụ thể đã gọi là phương pháp rồi. Đối lại, cưỡng chế là cách gọi chung cho cả loạt pghương pháp cụ thể nào đó, trong đó mọi phương pháp cụ thể khác nhau đều giống nhau ở chỗ dùng thiệt hại để buộc đối tượng quản lý vì sợ thiệt hại mà tuân theo Nhà nước. Đối tượng do sợ bị thiệt hại mà phải theo Nhà nước, chứ không phải vì bị kích thích mà tuân theo Nhà nước. Một phương pháp cụ thể có thể được dùng theo hai phương thức: Kích thích hoặc cưỡng chế. Chẳng hạn, phương pháp thuế. Khi miễn thuế hoặc giảm thuế cho đối tượng quản lý, tác động quản lý theo chiều kích thích. Phương pháp thuế lúc ấy thuộc phương thức kích thích. Nhưng khi tăng thuế, tác động diễn ra theo chiều cưỡng chế. Lúc này đối tượng quản lý vì sợ thiệt mà tuân theo Nhà nước. Như vậy, các phương pháp cụ thể có nhiều, nhưng vận dụng chúng thế nào lại thuộc phạm trù phương thức. 2-Các phương thức QLNN về kinh tế a-Phương thức cưỡng chế -Khái niệm và bản chất của quản lý bằng cưỡng chế Cưỡng chế suy cho cùng là dùng thiệt hại làm áp lực để buộc đối tượng quản lý vì sợ thiệt hại mà tuân theo sự chỉ dẫn, đáp ứng các đòi hỏi, thoả mãn các yêu cầu của Nhà nước. Ví dụ, dùng phạt tiền, giam cầm, tử hình, v v đối với những hành vi của các 17
- doanh nhân trái với các quy định của Nhà nước. -Các lực cưỡng chế Lực cưỡng chế, được hiểu theo bản chất cuả cưỡng chế như trên, bao gồm: -Thiệt hại về tài sản. -Thiệt hại về thân thể, trong đó lại chia ra: +Thiệt tự do, dưới hình thức tù đày, từ hữu hạn tới vô hạn (Tù chung thân), trong hữu hạn có nhiều hạn dài ngắn khác nhau, tuy tội trạng. +Thiệt mạng, dưới hình thức tử hình. Ai cũng biết, con người ta trong lúc bình thường, có hai cái quan trọng nhất, quý giá nhất. Đó là tính mạng và tài sản. Do vậy, thông thường, ai cũng sợ thiệt hại tài sản hoặc thiệt hại tự do và tính mạng. Đo đó, tài sản và tính mạng được Nhà nước dùng làm áp lực để buộc công dân phải theo Nhà nước. -Khi nào cần sử dụng phương thức cưỡng chế Nói chung, đó là khi các hành vi sai trái của đối tượng quản lý so với sự quy định của Nhà nước sẽ gây tác hại nghiêm trọng cho xã hội. Chính vì thế phương thức cưỡng chế là dùng thiệt hại để ngăn chặn thiệt hại.Tính nghiêm trọng của thiệt hại mà hành vi trái pháp luật gây ra là một quan niệm tương đối, xét về mức độ. Có nghĩa là, quan niệm như thế nào là thiệt hại nghiêm trọng do hành vi trái pháp luật gây ra cho cộng đồng để từ đó mà điều chỉnh bằng cưỡng chế, là một vấn đề khó giải. Do vậy, việc đưa một hành vi sai trái nào vào diện điều chỉnh cưỡng chế, cưỡng chế pháp luật hay cưỡng chế hành chính v v là một vấn đề, được thường xuyên đặt ra cho hoạt động lập pháp của mỗi quốc gia. b-Phương thức kích thích -Khái niệm và bản chất của kích thích Kích thích suy cho cùng là dùng lợi ích làm động lực để làm cho đối tượng quản lý vì muốn được lơị mà tuân theo Nhà nước. Ví dụ, cho vay lãi suất thấp, miễn giảm thuế, được bán giá cao, được mua giá hạ, v v nếu thực hiện theo sự chỉ dẫn, yêu cầu của Nhà nước -Phương pháp kích thích-Các lực kích thích 18
- Gần giống như lực cưỡng chế, lực kích thích bao gồm: -Các giá trị tinh thần, tình cảm, như tuyên dương, khen, tôn vinh, v v với các danh hiệu vẻ vang, huân huy chương, các hội nghị biểu dương, v v -Dùng tiền, của, các giá trị đặc ân khác để thưởng, như cho vay lãi suất thấp, miễn giảm thuế, gia ân mua hoặc bán cho Nhà nước, v v Cần phân biệt hai hướng tác động của vật chất trong hai trường hợp : cưỡng chế và kích thích. Cả hai phương thức đều dùng vật chất làm lực tác động. Tuy nhiên, khi cưỡng chế, đối tượng phải trao vật chất của mình cho Nhà nước, dưới hình thức nộp phạt. Còn khi kích thích, đối tượng được nhận vật chất từ phía Nhà nước. Do đó sẽ là không chính xác khi nói rằng việc dùng lợi ích vật chất là phương pháp kích thích. Nó chỉ đúng một nửa mà thôi. -Khi nào cần áp dụng phương thức kích thích Đó là khi các hành vi trái ngược của đối tượng quản lý so với ý định của Nhà nước không thuộc diện gây tác hại, chỉ thuộc loại không có lợi mà thôi. Chính vì vậy, các hành vi đó không thuộc diện ngăn cấm, mà chỉ thuộc diện cách ly bằng cách lôi kéo đối tượng về mình. Muốn vậy, phải giành cho đối tượng quản lý những món lợi thay thế, hơn hẳn lợi ích mà trứoc đó họ theo đuổi. Được như vậy, họ sẽ theo Nhà nước. c-Phương thức thuyết phục -Khái niệm và bản chất của quản lý bằng thuyết phục Thực chất của thuyết phục là giúp đối tượng quản lý tính toán hết những lợi, hại mà họ có thể nhận được khi thực hiện các phương án hành vi khác nhau trong sản xuất kinh doanh của họ, giúp họ nhận ra con đường duy nhất đúng để từ đó mà chủ động tiến thân theo chân lý đã được nhận thức -Nội dung thuyết phục Đối tượng quản lý cần được thuyết phục về những điều sau đây: -Pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật kinh tế, trong đó có ba yếu tố quan trọng nhất là: +Nội dung của quy phạm pháp luật để đối tượng hiểu được những gì bị 19
- cấm, những gì được phép. +Lý lẽ của quy định để đối tượng hiểu được vì sao Nhà nước yêu cầu, cho phép hoặc nghiêm cấm công dân tiến hành một số hành động nào đó. +Sự trừng phạt của Nhà nước đối với các hành vi chống lại các quy phạm nói trên nhằm làm cho đối tượng thấy trước tính nghiêm minh, cẩn mật của sự giám sát của các cơ quan bảo vệ pháp luật, khiến không ai có thể thoát nổi sự trừng trị của pháp luật, từ đó mà tuân phục. -Nội dung thứ hai cần đưa vào chương trình thuyết phục là kế hoạchnhà nước, bao gồm cả phần bắt buộc lẫn phần hướng dẫn, trong đó có các yếu tố cần được làm cho đối tượng rõ như sau: +Nội dung kế hoạch nhà nước, bao gồm những chương trình chung về phát triển kinh tế, các dự án đầu tư phát triển, trong đó đặc biết không thể thiếu được phần nói về các nghĩa vụ kinh tế mà đối tượng cần thực hiện. +Lý lẽ của việc cần làm theo kế hoạch đó. Lý lẽ này bao gồm cả cơ sở khoa học lẫn căn cứ pháp lý. Tức là phải chỉ ra cho đối tượng rõ những định hướng, những chỉ tiêu, những nghĩa vụ mà Nhà nước đề ra trong kế hoạch nhà nước và kêu gọi, hướng dẫn hoặc bắt buộc công dân làm là xuất phát từ nguyên lý khoa học kinh tế nào, từ tình hình thực tiễn nào của đất nước và từ quy định nào của pháp luật. +Lợi hoặc hại nếu làm theo hoặc không theo kế hoạch nhà nước. Những lợi hại này có thể là kết quả tất yếu theo quy luật cũng có thể là lợi hại nằm trong chế tài và chính sách kích thích kinh tế của Nhà nước. -Lý thuyết kinh tế và đạo lý làm kinh tế. Lý thuyết kinh tế chính là các nguyên lý kinh tế , như các quy luật vận động vĩ mô, vi mô của kinh tế, các quy tắc tổ chức sản xuất, kinh doanh, các thuật quản trị doanh nghiệp v v. Đạo lý làm giầu là lý lẽ của các phương châm xử thế trong hoạt động thương trường như, hiều được thế nào là “làm phúc cũng như làm giầu”, vì sao phải “ buôn có bạn, bán có phường”, phải “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, phải biết gắp bỏ cho người khi muốn ăn theo tinh thần câu nói “muốn ăn gắp bỏ cho người” v v. -Khi nào cần áp dụng phương thức thuyết phục? Với thực chất và nội dung thuyết phục như trên, phương thức này chính là một phần của phương thức cưỡng chế và phương thức kích thích. Nói cách khác là, không có sự tuyên truyền, thuyết phục suông, thuần tuý tách rời các phương thức trên, và cũng không thể thực hiện cưỡng chế hay kịch thích kinh tế mà không thực hiện việc 20
- thuyết phục. Do đó, nói chính xác thì, không có phương thức thuyết phục độc lập mà nó bao giờ cũng gắn với một trong hai phương thức: cưỡng chế hoặc kích thích. V-CÔNG CỤ QUẢN LÝ 1-Khái niệm công cụ quản lý Công cụ quản lý là tất cả những gì, mà nhờ nó hoặc qua nó, Nhà nước thực hiện được phương pháp quản lý. Ví dụ: Thuế, lãi suất ngân hàng, giá v v. là công cụ để thực hiện phương pháp kích thích bằng lợi ích vật chất. Pháp luật, Nhà tù v v là công cụ để thực hiện phương pháp cưỡng chế Công cụ cũng có thể được hiểu như là một hệ thống hương pháp nhỏ để thực hiện một phương pháp lớn, hoặc một biện pháp để thực hiện một phương pháp, một phương pháp để thực hiện một phương thức, như trong cặp khái niệm “ phương thức- phương pháp”, đã được đề cập ở phần trên. Chẳng hạn, để thực hiện phương pháp kích thích phải có công cụ thuế, công cụ lãi suất, công cụ giá. Trong trường hợp này, thuế suất, lãi suất, giá cả vừa được gọi là công cụ để thực hiện phương pháp kích thích, vừa được gọi là phương pháp cụ thể, cấu thành phương thức chung trong quản lý: Phương thức kích thích. 2-Các loại công cụ quản lý nhà nước về kinh tế a-Chiến lược. Chiến lược là một công cụ lớn trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy, tính công cụ của chiến lược phát triển kinh tế xã hội và các nội dung cụ thể của công cụ này sẽ được đề cập trong một chuyên mục ở phần tiếp theo. b-Kế hoạch Tính công cụ quản lý của kế hoạch là ở chỗ, thông qua kế hoạch, Nhà nước bày tỏ cho đối tượng quản của mình biết mục tiêu hành động mà Nhà nước mong muốn đối tượng quản lý của mình phải đi tới. Nó góp phần cùng với công cụ pháp luật để giúp Nhà nước dẫn dắt hành vi của đối tượng quản lý đi tới mục tiêu mà Nhà nước trông đợi. b-Pháp luật Tính công cụ của pháp luật là ở chỗ: 21
- Một mặt, nó là phương tiện để thể hiện trước tính cưỡng chế của Nhà nước về mục tiêu hành động trong tương lai của đối tượng, còn nhiệm vụ tương lai đó sẽ được thể hiện trong kế hoạch nhà nước. Chẳng hạn, các sắc luật thuế cụ thể là loại công cụ như vậy. Bản thân từng đạo luật thuế, dù cụ thể vẫn chỉ là quy định chung, nói trước rằng, ai, làm việc gì, trong hoàn cảnh nào thì phải chịu thuế gì, thuế suất bao nhiêu?. Bản thân các sắc thuế này chưa có đối tượng cụ thể, nhiệm vụ cụ thể cho đối tượng đó thi hành. Chỉ đến hi lập xong kế hoạch thu hàng năm, ai là người phải nộp thuế gì, nộp bao nhiêu lúc đó mới rõ ràng, sắc thuế kia mới biến thành công cụ cưỡng chế trên thực tế. Nhưng bản kế hoạch thu này không thể là công cụ cưỡng chế nếu trước đó không có sắc thuế tương ứng được ban hành. Đối tượng thi hành sẽ chất vấn người cưỡng chế họ rằng, căn cứ vào đâu mà bổ lên đầu tôi các khoản phảo nộp đó? Mặt khác, tính công cụ của pháp luật trong cưỡng chế thể hiện ở chỗ, nó chứa đựng các chuẩn mực, các giới hạn hành vi của đối tượng. Đặc biệt hơn, nó chứa đựng các chế tài, tức sự báo trước về hình phạt để đối tượng dè chừng c-Thuế Thuế là cái có tính công cụ khá đặc trưng. Thật vậy! Thông qua Thuế, Nhà nước thực hiện được ý đồ hạn chế hoặc khuyến khích hành vi kinh tế của công dân. Thuế vừa là công cụ vừa là mục tiêu theo nghĩa sau đây: -Một là, khi nó được dùng như là chất kích thích đối tượng quản lý, chúng là công cụ. Nhà nước tăng giảm thuế sẽ làm cho đối tượng giảm hoặc tăng cường hoạt động nào đó trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. -Hai là, khi nó được dùng làm nghĩa vụ, buộc công dân-doanh nhân phải thực hiện cho Nhà nước, chúng là mục tiêu. Chính vì thế, khi bàn về thuế không thể đơn giản kết luận rằngthuế là công cụ hay mục tiêu, là công cụ cưỡng chế hay kích thích. đ-Lãi suất ngân hàng Khi nói đến lãi suất ngân hàng là công cụ của quản lý nhà nước về kinh tế phải hiểu rằng đó là laĩ suất của ngân hàng thương mại quốc doanh, lãi suất mà Nhà nước có thể quy định được. Lãi suất tiền vốn vay là một yếu tố cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh, qua đó tác động mạnh đến chiều hướng phát triển quy mô sản xuất kinh doanh của các 22
- doanh nghiệp. Tính công cụ của lãi suất ngân hàng chính là ở chỗ, thông qua việc tăng, giảm lãi suất ngân hàng có thể điều chỉnh chiều hướng hoặc mức độ hạot động của các doanh nhân. Chính vì vậy, Nhà nước chỉ đạo các DNNN trên lĩnh vực tín dụng, tức các ngân hàng thương mại quốc doanhthay đổi lãi suất tiền gưỉ, lãi suất cho vay để điều chỉnh cường độ hoạt động của các doanh nhân trên thương trường. e-Tỷ giá hối đoái Sự thẩm thấu ngoại tệ vào mỗi quốc gia là điều không tránh được. Sự hiện diện của ngoại tệ trong nền kinh tế quốc nội ít nhiều đã làm giảm giá trị nội tệ. Bơẻi vì, sự hiện diện ngoại tệ không khác gì việc in và phát hành thêm nội tệ khi chưa có cầu. Kết quả tất yếu là giá cả hàng hoá trong nước tăng lên. Vì thế, quốc gia nào cũng phải can thiệp vào sự vận động của ngoại tệ trên thương trường quốc nội, thông qua tỷ giá hối đoái của chính hoạt động thu đổi ngoại tệ của các trung tâm thu đổi ngoại tệ của Nhà nước. Khi trên thương trường gia tăng ngoại tệ, Nhà nước phải mua vào với tỷ giá cao (Tỷ giá được tính bằng số đồng nội tệ trên một đồng ngoại tệ). Hành vi đó của Nhà nước đương nhiên làm tăng lượng nội tệ trong lưu thông, tuy qua đó có thu bớt lượng ngoại tệ trên thương trường. Liệu đó có phải tình trạng “đánh bùn sang ao” không?, tình trạng tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa không?. Bởi vì, cứ nhìn vào hình thức thì thấy, rút được ngoại tệ trên thị trường thì lại tăng nội tệ. Nhưng thực chất không phải thế. Việc mua vào ngoại tệ của Nhà nước là một bước loại trừ một địch thủ gom hàng trên thị trường, trả lại vị trí mua hàng cho đồng nội tệ. Mặt khác, bằng ngoại tệ mua được, Nhà nước nhập khẩu hàng hoá để cân bằng hàng-tiền và thu nội tệ về theo kênh mới này. Đó là một kênh chuyển động, nhờ tác động của tỷ giá hối đoái, do Nhà nước tạo nên. Ngược lại, khi khan hiếm hàng hoá hoặc khi số lượng nội tệ dư thừa trong lưu thông, Nhà nước hạ tỷ giá hối đoái, nhờ đó, nội tệ rút khỏi lưu thông, ngoại tệ tham gia lưu thông nhưng sớm chuyển thành cất trữ, căng thẳng cung cầu hàng hoá giảm đị. f-Các phương tiện vật chất khác, để thực hiện trực tiếp sự cưỡng chế, kích thích hoặc thuyết phục Đó là công cụ theo nghĩa đen hoàn toàn của chúng, như hàng hoá dự trữ, tài nguyên quốc gia, các DNNN trên mọi lĩnh vực, các phương tiện truyền thông, nhà tù, còng số 8, dùi cui, roi điện, xe hòm v v Ngoài những gì được gọi một cách dễ dàng là công cụ, như đã trình bày ở trên, trong một góc nhìn rộng, người ta còn gọi cả các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng là công cụ cưỡng chế. Tuy nhiên, cách nhìn đó không thật khoa học. Nếu gọi con người bảo vệ pháp luật là công cụ thì công cụ đó trong tay ai? Chỉ có thể gọi một cách trừu tượng rằng, Nhà nước là công cụ cưỡng chế khi đặt Nhà nước trong mối quan hệ với giai cấp. 23
- Khi đó, Nhà nước chính là công cụ của giai cấp mạnh về kinh tế, chính trị, xã hội, được giai cấp đó dùng để cưỡng chế giai cấp đối kháng tuân theo ý chí của nó. VI-CÔNG CỤ CHIẾN LƯỢC TRONG QLNN VỀ KINH TẾ 1-Một số khái niệm cơ bản 1.1-Khái niệm và thực chất của chiến lược Chiến lược phát triển của bất kỳ một sự vật nào đều là sự tiền định về trạng thái tương lai của sự vật đó, các trạng thái chuyển tiếp, động lực và cơ chế chuyển hoá để đưa sự vật từ hiện trạng qua các trạng thái chuyển tiếp để cuối cùng, đạt đến trạng thái tương lai đó. Nhìn từ góc độ khác, người ta còn hiểu chiến lược như là một "chuỗi mục tiêu", "chuỗi biện pháp", liên kết với nhau như là một "chuỗi nhân quả", trong đó "quả cuối cùng" là cái đích của sự phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một dạng của chiến lược phát triển, trong đó lĩnh vực phát triển là lĩnh vực kinh tế - xã hội. Do đó nói chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là nói đến một sự tiền định trạng thái tương lai của một nền kinh tế nói riêng, tổng thể kinh tế - xã hội nói chung và động lực cùng cơ chế chuyển hoá động lực đó đến sự vận động và chuyển hoá của toàn bộ hiện trạng kinh tế - xã hội thành trạng thái tương lai, đã được định ra lúc đầu. Do đó, chiến lược phát triển kinh tế xã hội hàm chứa nội dung sau đây: -Chuỗi các trạng thái kinh tế xã hội nối tiếp nhau trong tương lai, trong đó, mỗi trạng thái được coi là một mức phát triển, có những dấu hiệu đặc trưng cho sự phát triển về chất của xã hội ở trạng thái đó. -Những biện pháp tạo ra sự phát trển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của tiến trình nhiều giai đoạn nói trên Dưới giác độ triết học có thể xem chiến lược phát triển kinh tế xã hội như là một phản ánh chủ quan của tiến trình biện chứng khách quan của sự vận động và phát triển của nền kinh tế quốc dân. 1.2-Khâu đột phá. Khâu đột phá là khâu: -Sẽ chịu sự tác động đầu tiên của chiến lược. -Có khả năng gây ra sự chuyển động của toàn hệ thống khi bị tác động. Để tạo nên sự chuyển động của toàn hệ thống bao giờ cũng phải biết bắt đầu từ đâu. Khâu được chọn làm khâu đột phá thường là khâu then chốt của nền kinh tế quốc dân hoặc khâu yếu, đang đòi được giải quyết trước. 1.3-Cú hích ban đầu Cú hích ban đầu là lực tác động đầu tiên vào đối tượng phát triển, gây chấn động đặc biệt cho đối tượng, phá vỡ thể ổn định cũ của đối tượng khiến đối tượng rơi vào trạng thái có thể dễ chuyển hoá theo hướng mới do nhà chiến lược vach ra. Động lực khởi đầu có thể là một, cũng có thể là một số. Ví dụ, có thể chỉ là "cú hích tài chính" lớn mà đủ tạo đà cho phát triển, cũng có khi phải là cả "cú hích" tài chính, chính trị, pháp luật v.v mới đủ mở ra một quá trình phát triển. 1.4-Cơ chế phát triển chiến lược 24
- Cơ chế phát triển chiến lược là con đường chuyển hoá các tác động chiến lược vào nền kinh tế, trong đó có "cú hích ban đầu” thành sự vận động của nền kinh tế tiến tới mục tiêu. Mọi quá trình phát triển đều diễn ra theo quy luật phủ định. Cơ chế phát triển chiển có tính chiến lược chính là sự dự đoán chiến lược quá trình phủ định đó trên con đường đi đến mục tiêu của sự vật. Đối với nhà điều tiết vĩ mô nền kinh tế, việc nhận rõ cơ chế phát triển có tính chiến lược của các tác động quản lý có ý nghĩa, tác dụng vô cùng to lớn. Bởi chính sự hiểu biết này giúp cho nhà điều tiết vĩ mô dự đoán đúng các kết quả tương lai của sự phát triển đất nước. 2-Sự cần thiết khách quan của chiến lược Chiến lược cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội là vì những lý do sau đây: -Phát triển kinh tế xã hội là một sự phát triển của nhiều phân hệ, có mối quan hệ tương hỗ dày đặc và phức tạp, trong đó, điển hình là các quan hệ sau đây: Quan hệ giữa kinh tế và các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế Quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, Quan hệ giữa tiến bộ khoa học công nghệ với sự tiến bộ về tổ chức sản xuất xã hội, Quan hệ liên ngành kinh tế kỹ thuật với nhau, -Chu kỳ phát triển của mỗi chủ thể quan hệ, mỗi mặt quan hệ nói trên tương đối dài và không đồng mức. Chu kỳ tiến bộ khoa học công nghệ khoảng 10 năm. Đó là nhìn tổng thể. Nhưng tuỳ ngành, có ngành chỉ sau mỗi tiết đoạn 5 năm đã có sự cách mạng về khoa học và công nghệ của ngành, như ngành công nghệ thông tin. Trong việc phát triển con người, chu kỳ không phải là 10 năm, mà là trăm năm, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Muốn có hạnh phúc trăm năm phải trồng người” -Tính giao động khá lớn của hướng phát triển trong quá trình phát triển của từng mặt nói trên. Có nghĩa là, các chủ thể phát triển nói trên có nhiều hướng có thể phát triển, nếu không có sự định hướng, kiểm soát, kiềm chế của nhà quản lý. -Phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi phải đầu tư lớn và lâu dài mới cho kết quả. -Phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi sự đồng bộ liên ngành, liên vùng. -Phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ -Những lý do trên đòi hỏi nhà quản lý phải có tầm nhìn xa trong định hướng sự phát triển kinh tế xã hội, dự định được các giai đoạn đổi lượng đổi chất của xã hội theo quy luật lượng đổi chất đổi của sự vận động của sự vật, có những biện pháp lớn, đồng bộ trong không gian, kế tiếp một cách hợp lý trong thời gian. 3-Vai trò của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nhờ có chiến lược PTKTXH mà toàn dân nói chung, Nhà nước nói riêng -Có được các quyết định đúng đắn về đường lối giai cấp. -Có được các quyết định đúng đắn về quan hệ quốc tế. -Có được các quyết định đúng đắn về chuẩn bị nguồn lực. -Có được các quyết định đúng đắn về đầu tư xây dựng cơ bản. -Có được các quyết định đúng đắn về phát triển khoa học, giáo dục. -Để có được sự chỉ đạo cụ thể đối với sự phát triển một số ngành kinh tế cụ thể, như nông nghiệp, xây dựng cầu, đường, phà, cảng, v v Để phát triển những ngành này cần có chương trình dài nhiều năm. Việc xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ 25
- tầng cũng đòi hỏi có nhiều thời gian. -Riêng đối với công dân, chiến lược phát triển kinh tế xã hội là chỗ dựa vô cùng quan trọng để công dân lượng định cuộc sống và làm việc của cá nhân họ, từ việc chọn hướng lập thân, lập nghiệp đến việc chuẩn bị các yếu tố cho mỗi chương trình cá nhân cụ thể. 4-Các bộ phận cấu thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. 4.1-Phần bối cảnh phát triển. -Khái niệm bối cảnh phát triển. Bối cảnh phát triển là toàn bộ các yếu tố tác động lên đối tượng phát triển, tạo nên yêu cầu, sức ép, thuận lợi, động lực cùng những cản trở sự phát triển. Bối cảnh phát triển thể hiện thành hệ thống các thông tin làm nên câu trả lời cho câu hỏi: -Việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước hoặc của một vùng nào đó cần thiết như thế nào. Chẳng hạn, đối với nước ta, sự phát triển kinh tế xã hội vượt bậc trong một thời gian ngắn là cần thiết và có ý nghĩa như thào?. -Những nhân tố thuận lợi, khó khăn cho sự phát triển như thế nào. Những nhân tố cần được trình bày trong mục này, chính là những nhân tố đã được nêu trong phần nói về các nhân tố cần cho sự phát triển kinh tế-xã hội đất nước. -Những trở lực chính đối với sự phát triển là gì? -Tính chất thách thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước hoặc của vùng đó như thế nào. Tính chất thách thức của sự phát triển cũng có nghĩa là những vấn đề, những mâu thuẫn mà công cuộc phát triển phải đưong đầu giải quyết. -Vai trò, tác dụng của phần bối cảnh trong chiến lược. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, phần bối cảnh giúp giải quyết các vấn đề lớn sau đây: -Tạo cơ sở đề có quyết tâm của Nhà nước, của toàn dân trong đầu tư phát triển, khẳng định được về chủ trương là phải phát triển. -Chuẩn bị cơ sở thực tiễn cho việc đề ra các mục tiêu phát triển. Thực chất của phần bối cảnh là những thông tin nói lên sự cần thiết (nhu cầu) phát triển và điều kiện (khả năng) để phát triển. Cân đối hai mặt nói trên, nhà chiến lược tất yếu sẽ đề ra được các mục tiêu phát triển vừa phù hợp với mong muốn tối đa của cộng đồng, vừa có tính hiện thực. 4.2-Phần mục tiêu phát triển - Mục tiêu chính trị, mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu chính trị chính là mục đích cuối cùng mà sự phát triển kinh tế xã hội phải đạt tới. Sở dĩ gọi đó là mục tiêu chính trị vì các mục tiêu này mang tính chất chính sách của Nhà nước trong việc đáp ứng các nguyện vọng của cộng đồng. Thông qua mục tiêu này, Nhà nước thể hiện rõ động cơ thúc đẩy Nhà nước trong việc làm chiến lược là gì?, vì ai ?, về mặt nào của đời sống xã hội?. Gọi chúng là mục tiêu cuối cùng, bởi vì, suy cho cùng, phát triển kinh tế là để làm gì nếu không phải là để đem lại hạnh phúc cho nhân dân, giầu mạnh cho đất nước. Sự phát triển kinh tế có thể thể hiện ở những đỉnh cao về sản lượng, về quy mô lực lượng công nghiệp, nông nghiệp hoặc các ngành kinh tế mũi nhọn nào đó, nhưng sự phát triển đó có nghĩa lý gì khi hạnh phúc nhân dân không được bảo đảm, lợi ích quốc 26
- gia không được coi trọng. - Mục tiêu tự thân Mục tiêu tự thân chính là hiện thân cụ thể của nền kinh tế cần phát triển. Mục tiêu tự thân cũng có thể được gọi là các định hướng phát triển, qua đó nền kinh tế tương lai hoặc lực lượng sản xuất được thể hiện qua các chỉ tiêu sau đây: -Năng lực kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thể hiện qua chỉ tiêu số lượng, như GDP, GNP, Y(thu nhập quốc dân ròng), YD (Thu nhập quốc dân khả dụng). Chỉ tiêu này cho thấy sơ bộ quy mô của tổng lực lượng kinh tế của xã hội ở thời điểm mà chiến lược dự định đạt tới. -Cơ cấu các ngành kinh tế quốc dân. Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, cơ cấu này phản ảnh: • Các ngành kinh tế sẽ có trong tương lai mà chiến lược dự định phát triển. • Năng lực kinh tế của các ngành kinh tế quốc dân đó, được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: Giá trị sản lượng, quy mô năng lực sản xuất của ngành, các công trình kinh tế chủ chốt của ngành. -Quy mô tương lai của lực lượng các ngành y tế, văn hoá, giáo dục, nghiên cứu khoa học v v cuả xã hội -Diện mạo phân bố lực lượng kinh kinh tế, văn hoá, khoa học lớn của đất nước thể hiện thành các vùng -Trình độ khoa học công nghệ của nền kinh tế quốc dân. Tóm lại, qua phần mục tiêu tự thân, chiến lược phát triển kinh tế xã hội thể hiện một cách toàn diện nhưng sơ bộ một nền kinh tế tương lai, nền kinh tế có nội dung và hình thức, chất lượng và số lượng đủ để tạo ra những kết quả như đã trình bày trong phần mục tiêu chính trị. 4.4-Phần tư tưởng, quan điểm chiến lược. -Khái niệm về tư tưởng chiến lược Tư tưởng chiến lược là những mưu kế lớn, thể hiện dưới dạng các phương châm, nguyên tắc, có giá trị định hướng cho việc hình thành các giải pháp cụ thể. Vì mới chỉ là những phương châm, những nguyên tắc nên đượoc gọi là tư tưởng. Các tư tưởng này ra đời từ một hệ quan điểm, nhận thức về sự vận động tự nhiên và xã hội. -Vai trò, vị trí của phần tư tưởng, quan điểm trong chiến lược phát triển. Đây là phần đầu não của chiến lược, rất quan trọng là vì: -Toàn bộ tinh tuý của mưu lược nằm ở phần này. Các tư tưởng chiến lược chính là sự tiền định con đường vận động đến tương lai của sự vật mà nhà chiến lược đang điều khiển. Về một góc nhìn khác, tư tưởng chiến lược đúng có nghĩa là, nhận thức và tiền định của nhà chiến lược về con đường vận động của sự vật ophù hợp với qu luật vận động khách quan của sự vật. Khi một tư tưởng chiến lựợc không biện chứng thì mọi kế hoạch hành động cụ thể đều trở thành vô ích. -Tư tưởng chiến lược là cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp cụ thể. Do đó phải có tư tưởng chiến lược mới có thể xây dựng được một hệ thống gải pháp đồng bộ, đồng quan điểm. Ngược lại, các giải pháp sẽ chống nhau, nội bộ sẽ mâu thuẫn, sự nghiệp sẽ không thành. 27
- -Là người nghiên cứu, việc nắm vững các tư tưởng chiến lược cho phép họ tiếp cận các giải pháp cụ thể được nhanh chóng, chân xác hơn, nắm được đúng thực chất hơn, từ đó mà có khả năng quán triệt sâu sắc các giải pháp trong thực thi chiến lược. -Những tư tưởng, nguyên tắc cần có trong một chiến lược phát triển kinh tế xã hội. -Tư tưởng về mối quan hệ hệ thống giữa kinh tế với các mặt khác của đời sống xã hội trong quá trình vận động tiến lên của xã hội: Quan hệ hạ tầng-thượng tần kiến trúc, quan hệ kinh tế với chính trị, kinh tế với văn hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng, -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề sở hữu về tư liệu sản xuất. -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề quan hệ kinh tế đối ngoại. -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề phân bố lực lượng sản xuất -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề tiến bộ khoa học công nghệ -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề chuyển đổi cơ chế kinh tế -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề huy động nguồn lực trong nước. -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề tích luỹ-tiêu dung, phân phối thu nhập quốc dân -Tư tưởng chỉ đạo việc giải quyết vấn đề thích ứng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế phát triển 4.5-Phần giải pháp chiến lược -Quan niệm về giải pháp chiến lược Giải pháp chiến lược là loại giải pháp có đặc trưng sau đây: -Mới chỉ dừng lại ở mức phương hướng, đường lối, chỉ ra cách thức chung nhất để giải quyết vấn đề, mâu thuẫn. -Thường chỉ đề ra cho các vấn đề có tính thách đố cao, những vấn đề khó giải hoặc có thể có nhiều lối giải, cần tỉnh táo trong lựa chọn. -Có giá trị chỉ đạo lâu dài -Các vấn đề chiến lược cần có giải pháp: a-Xét theo phạm vi nguồn lực, có -Giải pháp cho việc phát huy nội lực vào phát triển kinh tế-xã hội. -Giải pháp cho việc thu hút ngoại lực vào việc phát triển kinh tế xã hội. b-Xét theo nội dung vấn đề cần có giải pháp, có -Giải pháp để giải quyết khó khăn về vốn, -Giải pháp để giải quyết khó khăn về nguyên liệu -Giải pháp để giải quyết khó khăn về phát triển khoa học-công nghệ -Giải pháp để giải quyết khó khăn về việc làm. -Giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội khác -Giải pháp cho việc phát huy nội lực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế. -Giải pháp để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền và của Nhà nước 28
- đối với sự phát triển kinh tế xã hội. c-Xét theo quy mô, thứ bậc hệ thống của giải pháp có giải pháp và giải pháp của giải pháp. Có nghĩa là, trong phần giải pháp, các giải pháp có nhiều tầng, nhiều lớp. 4.6-Phần kế hoạch thực thi chiến lược -Khái niệm về kế hoạch thực thi chiến lược. Kế hoạch thực thi chiến lược là kế hoạch biến chiến lược thành hành động tiếp theo của Nhà nước và công dân. Chiến lược là dự định toàn diện, xa rộng nhưng rất sơ bộ. Dựa vào chiến lược chưa thể hành động kinh tế được. Từ chiến lược phải làm tiếp nhiều việc. Muốn các việc sau đó triển khai được phải có kế hoạch triển khai thực thi chiến lược. -Nội dung của kế hoạch triển khai thực thi chiến lược. a-Những việc cần làm để đưa chiến lược vào nhân dân. b-Những việc cần làm tiếp của Nhà nước sau khi có chiến lược c-Cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện và thời hạn hoàn thành 5-Các loại chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5.1-Xét theo phạm vi phát triển mà chiến lược được vạch ra. Theo giác độ nghiên cứu này, chiến lược được phân thành chiến lược tổng thể và chiến lược bộ phận. Chiến lược tổng thể là một cách gọi có so sánh, trong đó, bên cạnh cái được gọi là chiến lược tổng thể còn có các chiến lược bộ phận. Khi đó chiến lược tổng thể là chiến lược phát triển của một hệ thống nào đó, còn chiến lược bộ phận là chiến lược phát triển của các bộ phận cấu thành hệ thống đó. Chiến lược tổng thể không phải là số cộng của các chiến lựợc bộ phận. Trong chiến lược tổng thể có mục tiêu chung của cả hệ thống, có mục tiêu riêng của từng phân hệ, được đặt ra với một ý đồ nhất định. Ý đồ đó chính là nhằm đạt được mục tiêu chung. Chiến lược bộ phận, về hình thức, là một phần của chiến lược tổng thể, về nội dung, là biện pháp để thực hiện chiến lược tổng thể. 5.2-Xét theo ý nghĩa triết học của chiến lược Ý nghĩa triết học của chiến lược là tính hướng nội hay hướng ngoại trong việc huy động nguồn lực để phát triển. Triết học duy vật biện chứng coi động lực phát triển của mọi vật là mâu thẫn bên trong, đồng thời chịu sự tác động quan trọng của nhân tố bên ngoài. Theo cách phân loại này có Chiến lược hướng nội, chiến lược hướng ngoại và chiến lược phối hợp Bản chất của chiến lược hướng nội trong phát triển kinh tế quốc dân là chỉ dựa vào sự nỗ lực bên trong, dựa vào việc khai thác và huy động mọi nhân tố bên trong vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Ưu điểm dễ thấy của chiến lược này là độ an toàn cao cho sự độc lập, tự chủ của đất nước, độ an toàn cao cho việc bảo vệ truyền thống văn hoá dân tộc, sự an toàn về một số mặt khác do cách ly được các độc tố ngoại lai. Nhược điểm lớn nhất của nó là để đất nước phát triển trong điều kiện thiếu thốn nhiều điều kiện(nguyên liệu, chất xám, vốn), đồng thời bỏ phí nhiều tiềm năng, cơ hội. 29
- Bản chất của chiến lược hướng ngoại là dựa vào bên ngoài đề phát triển. Ưu điểm căn bản của chiến lược hướng ngoại là tranh thủ được ngoại lực mạnh để phát triển. Nhược điểm căn bản của chiến lược này là những hậu quả tiêu cực do bên ngoài đưa đến cho đất nước. Bản chất của chiến lược phối hợp là tạo ra sự phát triển kinh tế đất nước trên cơ sở phát huy thế mạnh nội lực, tranh thủ ngoại lực, đồng bộ hoá lực lượng nội ngoại dưới sự chủ động của nội lực tạo nên cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh cho nước nhà Một chiến lược phối hợp có các đặc trưng sau: +Theo đuổi một hệ mục tiêu chính trị toàn diện, vừa có tính dân tộc, vừa có tính nhân loại, tính văn minh hiện đại. +Xây dựng một cơ cấu kinh tế mở, trong đó có những ngành mũi nhọn xuất khẩu, được xây dựng trên cơ sở khai thác thế mạnh của đất nước về tài nguyên, về nguồn nhân lực, về vị trí địa lý, v v đồng thời nhập khẩu những hàng hoá, vật tư mà đất nước chưa có điều kiện tự sản xuất một cách có hiệu quả. +Kinh tế quốc nội có thể có cơ cấu hoàn chỉnh, nhưng trong đó bao gồm cả kinh tế dân tộc (GNP) cả phần đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), sao cho GDP tăng trưởng không ngừng và bền vững. + Bước đi của quá trình phát triển thể hiện rõ ý đồ tự chủ, từng bước đưa nền kinh tế nước nhà voà thế hoàn chỉnh. Ưu điểm của chiến lược phối hợp chính là các ưu điểm của hai loại chiến lược cực đoan nói trên cộng lại. Nhờ khắc phục được nhược điểm do cự đoan gây ra, phối hợp được thế mạnh trong nhoài, chiến lược phối hợp được coi là chiến lược khôn ngoan nhất. 5.3-Xét theo tiêu chí tốc độ phát triển, có chiến lược thần tốc và chiến lược khoan hoà Chiến lược thần tốc là cách phát triển cấp tập, tạo sự đột biến, bao gồm những ý tưởng chủ yếu như quyết tâm "thắt lưng buộc bụng", tất cả để đầu tư phát triển, là "khổ trước, sướng sau", v.v Chiến lược “khoan hoà” là đường lối, chiến lược mềm dẻo trong xử lý quan hệ tích luỹ và tiêu dùng - đường lối khoan sức dân. Tinh thần cơ ản của nó là từng bước tăng trưởng kinh tế phù hợp với khả năng tích có thể, không hy sinh quá mức cuộc sống trước mắt để có cuộc sống cao trong thời gian ngắn 5.4-Xét theo yếu tố phát triển Có rất nhiều yếu tố, cần có chiến lược phát triển. Tuỳ hoàn cảnh mỗi quốc gia trong tiến trình phát triển mà có những chiến lược cụ thể cho những yếu tố cụ thể. Không nhất thiết mọi quốc gia đều có những chiến lược cho mọi yếu tố như nhau. Thông thường có các -Chiến lược làm chủ khoa học và công nghệ. -Chiến lược sử dụng tài nguyên. -Chiến lược tạo vốn -Chiến lược quản lý nền kinh tế quốc dân. 30
- 6-Phương pháp luận hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội Quá trình chunh của việc hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế xã hội về đại thể như sau: 6.1-Đánh giá tình hình kinh tế-xã hội của đất nước, phân tích môi trường phát triển, dự báo sự phát triển của môi trường tự nhiên-kinh tế-xã hội của đất nước. -Đánh giá thực trạng kinh tế-xã hội của đất nước. -Chỉ rõ những nguyên nhân của thực trạng. -Chỉ ra những khó khăn, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế-xã hội và dự báo sự biến động trong tương lai của các khó khăn, thuận lợi đó. 6.2-Xác lập hệ thống chỉ tiêu tăng trưởng và phát triển Mục đích của việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu này là định lượng rõ ràng cho sự phát triển, trên cơ sở đó mới có thể tính toán các yếu tố tham gia vào quá trình phát triển. Thông qua việc định lượng sự phát triển có thể kiểm tra được khả năng thoả mãn các yêu cầu, đặt ra cho sự phát triển kinh tế phải giải quyết. 6.3-Phác hoạ những giải pháp lớn, nhằm giải quyết các vấn đề, tương ứng với những "khó khăn", đã nêu ở mục "1". Đây là "linh hồn" của toàn bộ chiến lược. Do đó phần này phải được nghiên cứu, thể hiện một cách tường tận, cụ thể. Về nội dung, phần này được trình bày dưới dạng: -Danh mục các giải pháp lớn, được sắp xếp theo thế chiến lược, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong thế trận chung hướng về mục tiêu chiến lược đã nêu ở trên. -Phương hướng và biện pháp cụ thể phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã hội, như về công nghiệp, về nông nghiệp, về giáo dục, y tế, v v -Các chương trình mục tiêu, cụ thể hoá thêm một bước các phương hướng nói trên. VII-ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở NƯỚC TA 1-Sự cần thiết khách quan phải đổi mới QLNN về kinh tế Một cách chung nhất có thể nói, sở dĩ phải đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế là vì nền kinh tế quốc dân nước ta đã thay đổi.Theo nguyên lý của khoa học quản lý, khi đối tượng quản lý thay đổi, chủ thể quản lý cũng phải thay đổi về tổ chức và phương thức, phương pháp quản lý cho thiích hợp với đối tượng hơn. Song, vấn đề được đặt ra là, đối tượng quản lý đã đổi mới như thế nào? những đổi mới như thế của đối tượng qủan lý có ý nghĩa gì đối với chủ thể quản lý?, chúng làm thay đồi gì về tổ chức và quản lý của chủ thể. Cụ thể ở đây là, nền kinh tế quốc dân đã có những đổi mới gì?, sự đổi mới đó ảnh hưởng gì và đòi hỏi gì ở sự thay đổi tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế?. Vì sao? Dưới đây sẽ lần lượt làm rõ các vấn đề trên. 31
- a-Nội dung đổi mới nền kinh tế của nước ta và lý do đổi mới. -Trước hết nói về nội dung đổi mới kinh tế Mặc dù hiện nay còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi nhiều công trình nghiên cứu thực tiễn và học thuật để làm rõ nhiều vấn đề của công cuộc xây dựng kinh tế XHCN của nước ta trong thời đại ngày nay, song, bước đầu có thể khẳng định một cách tương đối toàn diện con đường xây dựng kinh tế của nước ta phù hợp với hoàn cảnh mới trong và ngoài nước, về đại thể, có những nét lớn sau đây: -Một là, về mục tiêu, nền kinh tế mới phải kiên trì mục tiêu cuối cùng là phụng sự cho Dân giầu, Nước mạnh, Xã hội công bằng, văn minh. Dân giầu được thể hiện ở mức GDP bình quân đầu người tăng hàng năm với tốc độ phi thường (khoảng 8-9%) và có khoảng cách giầu nghèo không quá đáng. Trong hai khía cạnh trên, liên quan đến mục tiêu dân giàu, Đảng ta coi trọng đặc biệt khía cạnh thứ hai. Thực ra, khía cạnh thứ nhất chưa thể nói là giầu được. Trong lúc càng cường quốc kinh tế đang có mức GDP đầu người năm chữ số, việc chúng ta đạt mức 3000 USD/đầu người đâu đã gọi được là giầu. Chưa nói rằng, đó mới chỉ là mục tiêu, phải 20-25 năm sau mới đạt được. Khi đó, chỉ số bình quân của các cường quốc kinh tế về GDP đầu người chắc phải thể hiện bằng sáu chữ số. Lúc đó con số 3000 USD/đầu người VN chẳng còn giá trị gì. Nhưng nếu khoảng cách giầu nghèo không quá lớn thì chính đó là một bộ phận của công bằng, văn minh, là một tiêu chí hiện đại. Nó hoàn toàn không có nghĩa là lý tưởng “cào bằng, bình quân chủ nghĩa”. Trái lại, đó là tinh thần của lối sống “Phải trái phân minh, nghĩa tình đầy đủ”. Hơn ở đâu hết, kinh tế phải thể hiện đạo lý đó. Thực hiện được phải trái phân minh nghĩa tình đầy đủ trong phân phối lợi ích kinh tế chính là thực hiện được khoảng cách giầu nghèo hợp lý. Nền kinh tế tạo nên một Nước mạnh thể hiện ở sự đóng góp to lớn của kinh tế vào các mặt sau đây: -Đóng góp lớn và ổn định cho ngân sách nhà nước. Từ ngân sách mạnh, Nước sẽ mạnh lên nhiều mặt: Nhà nước có đủ sức xây dựng quốc phòng hùng mạnh, có khả năng thực hiện sự cải thiện phúc lợi công cộng, từ đó làm yên dân, ổn định đời sống nhân dân, cơ sở để ổn địng chính trị. Có ngân sách mạnh, Nhà nước sẽ dễ dàng thiết lập quan hệ quốc tế trên thế bình đẳng, không bị lép vế, lệ thuộc quốc gia nào v v. -Tạo thế mạnh trên thương trường quốc tế của nền kinh tế nước nhà. Thế mạnh này thể hiện trước hết ở hàng hoá xuất khẩu qua chất lượng cao, uy tín lớn, giá cả hợp lý, khiến cho bạn hàng quốc tế sẵn sàng trả giá nhiều mặt để mua được hàng hoá của ta. Đây là một nét mạnh của quốc gia mà chỉ có sức mạnh kinh tế mới đem lại được cho đất nước. -Trong việc sử dụng một cách khôn ngoan, tiết kiệm nguồn tài nguyên quốc gia 32
- của những doanh nhân sao cho, trước hết kho tàng tài nguyên quốc gia luôn đầy đặn, bởi nó là nguồn sống của cả dân tộc không chỉ hôm nay mà cả mai sau. Sau nữa, các doanh nhân phải biết làm cho mọi nguồn tài nguyên được biến thành vũ khí chiến lược kinh tế của đất nướ, qua xuất khẩu tài nguyên đất nước có thể thực hiện được những lợi ích tối đa trên thế chủ động. -Trong việc gìn giữ môi trường, bởi môi trường bị ô nhiễm chủ yếu do hoạt động kinh tế gây ra và bảo vệ môi trường chính là bảo vệ con người, mà bảo vệ con người chính là bảo vệ nhân tố hàng đầu làm nên nước mạnh. -Trong việc bảo mật quốc gia về kinh tế, không để các thông tin kinh tế, thông tin về các thành tựu khoa học-công nghệ, thông tin về tài nguyên,môi trường, địa chất, thuỷ văn, v v của nước nhà lọt ra bên ngoài. Bởi vì tất cả các thông tin này đều có trong hoạt động kinh tế hoặc hàng hoá, mà chúng lại liên quan đến khả năng phòng thủ quốc gia về nhiều mặt, không thể để tiết lộ ra nước ngoài. Nếu nền kinh tế góp phần bảo mật các thông tin đó chính là nó đã làm cho nước mạnh. -Ở sự cung ứng hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao, làm tăng sức khoẻ vật chất và tinh thần, trí tuệ, văn hoá của con người Việt nam. Chất lượng hàng hoá là cái ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ tinh thần và vật chất của con người Việt nam. Nếu nền kinh tế cung ứng được càng hàng hoáe có chất lượng bảo đảm về mặt này chính là kinh tế đã góp phần tạo nên sức mhnạu cơ bản cho đất nước: Đó là Dân mạnh. - Ở một nền kinh tế rất “kinh tế “ trong thời bình và uyển chuyển theo tình hình chiến tranh, nếu chẳng may tổ quốc lâm nguy, v v. Tức là, nền kinh tế được xây dựng sao cho, trong thời bình chúng có thể là những cơ sở cung ứng các phương tiện sinh sống cho con người, nhưng chiến tranh xảy ra, chúng có thể trở thành các cơ sở sản xuất các phương tiện chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Một nền kinh tế góp phần xây dựng một Xã hội công bằng, văn minh, phải thể hiện ở sự phân chia một cách công bằng, văn minh các thành quả kinh tế giữa các thành viên thuộc các mối quan hệ sau đây: -Quan hệ giữa các doanh nhân với nhau trên thương trường trong việc trao đổi hàng hoá, giữa các cổ đông trong mỗi công ty với nhau trong việc làm chủ công ty và phân chia lợi tức. -Quan hệ giữa giới doanh nhân với xã hội nói chung trong việc họ thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội, sao cho họ xử sự theo đạo nghĩa “Phải trái phân minh, nghĩa tình đầy đủ”. Sự văn minh xã hội do kinh tế phát triển đem lại còn thể hiện tính hiệu quả xã hội cao, ở giá trị văn hoá, trí tuệ của hàng hoá và dịch vụ mà nền kinh tế tạo ra -Hai là, về thực thể nền kinh tế phải có, cơ sở để từ đó tạo ra mục tiêu- kết quả cuối cùng, như đã nêu ở trên. Thực thể đó, theo định hướng của Đảng CSVN phảicó diện mạo như sau: +Về quan hệ sản xuất, nền kinh tế mới là một hợp thể đa chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, đa dạng loại hình doanh nghiệp. Về sở hữu chủ có Nhà nước, tập thể, tư nhân. Về loại hình doanh nghiệp có các doanh nghiệp đơn chủ, ứng với các loại sở hữu 33
- chủ vừa nêu. Đồng thời có sự đan xen có tính toán của sở hữu nhà nước, sao cho, vừa giải phóng lực lượng sản xuất vừa giữ thế chủ động của Nhà nước trên mặt trận này. Điều đó được thực hiện thông qua các loại hình doanh nghiệp có vốn nhà nước, với tỷ trọng cao, thấp đều được tính toán có chủ đích rõ ràng. Trong các công ty cổ phần nhà nước đó, đại diện vốn nhà nước chính là nhân tố chủ đạo các công ty mà vốn nhà nước là cơ sở để Nhà nước ddưa cán bô-công chức của mình vào tham gia quản trị kinh doanh của công ty theo ý đồ của nhà nước. +Về lực lượng sản xuất, nền kinh tế mới sẽ được công nghiệp hoá, hiện đại hoá, theo đó trình độ trang thiết bị, công nghệ và tổ chức sản xuất sẽ được nâng cao.Bên cạnh đó, nét đổi mới rất đáng kể là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mở cửa. Sự mở cửa này làm biến đổi về quan hệ sản xuất như đã nêu ở trên. Về mặt lực lượng sản xuất, sự mở cửa cũng tạo nên sự đổi mới đáng kể, ở chỗ, nó làm cho nền kinh tế nước ta được đặt trong hệ thống xã hội hoá lớn hơn phạm vi một quốc gia. Trong nền kinh tế quốc dân sẽ có kinh tế quốc nội và quốc tê, sẽ có các dòng chu chuyển vật chất qua biên giới. Quá trình cân đối kinh tế không diễn ra trong phạm vi nền kinh tế quốc dân nước ta nữa, mà có sự can thiệp của quốc tê. Khả năng biến động kinh tế sẽ lớn hơn. Ngoài ra, do mở cửa mà vấn đề phát huy nội lực để thu hút tối đa ngoại lực và làm chủ ngoại lực, hướng ngoại lực phục vụ việc xây dựng một nền kinh tế vì dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh của nước ta cũng được đặt ra. -Lý do đổi mới nền kinh tế Nền kinh tế nước ta sở dĩ phải đổi mới vì những lý do sau đây: -Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã kết thúc, giặc ngoại xâm đã bị đẩy lùi, nước nhà đã độc lập hoàn toàn, thống nhất trọn vẹn. Có nghĩa là, những lý do của cuộc chiến tác động đến cách làm kinh tế của nước ta về căn bản đã không còn như trước. Mọi quá trình kinh tế đều có quy luật vận động của nó. Tuy nhiên, chiến tranh có thể buộc kinh tế phải tuân theo quy luật của nó. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đã buộc chúng ta phải làm kinh tế theo theo những cách thức nhất định, khác quy luật chung. Giờ đây, lý tưởng độc lập tự do đã đạt, việc làm kinh tế phải theo quy luật phổ biến của nó. -Tình hình quốc tế đã có những biến động căn bản. Liên xô và phần lớn phe xã hội chủ nghĩa đã không còn, trong khi đó thế giới chuyển từ đối đầu là chủ yếu sang đối thoại là chủ yếu, tuy có diễn biến rất phức tạp. Chúng ta đều biết, theo nguyên lý chủ nghĩa Lênin, một nước nông nghiệp, nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu, có thể tiến thăng lên CNXH không qua con đường tư bản chủ nghĩa, nếu trong nước có Đảng CS lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, ngoài nước có phe XHCN, thậm chí chỉ cần một nước XHCN, nhưng hùng cường, làm hậu 34
- thuẫn. Nhiều năm trước, con đường tiến thẳng đã được vạch ra trên cơ sở đó. Ngày nay, điều kiện thứ hai không còn, con đường tiến thẳng phải được điều chỉnh là lẽ tất nhiên. Chúng ta đều biết, đường lối xây dựng kinh tế của nước ta, được vạch ra từ Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng, là sự vận dụng nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa MácLênin với hoàn cảnh đặc thù trong và ngoài nước của nước ta thời bấy giờ. Đường lối đó tính đến sự cần thiết phải huy động toàn lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tính đến sự thuận lợi bên trong và bên ngoài, khiến cho nước ta có khả năng từ một nước nông nghiệp nhỏ bé, nghèo nàn và lạc hậu vẫn có thể tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, không cần kinh qua chủ nghĩa tư bản, thậm chí, cả những hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng không cần áp dụng. Nhưng, chiến tranh kết thúc, nền kinh tế bị tàn phá sau 30 năm chiến tranh không những không hơn lúc xây dựng đường lối vừa nêu, mà còn kiệt quệ hơn Trong khi đó, một trong hai tiền đề để bỏ qua những hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa, là sự có một phe XHCN hùng mạnh làm hậu thuẫn về tinh thần và vật chất, lại không còn trên thực tế, tuy danh nghĩa có thể nói là còn. Rõ ràng là, ít ra là về kinh tế, chúng ta không thể tiến nhanh, tiến mạnh lên CNXH một cách vững chắc theo con đường cũ. Có nghĩa là phải đổi mới. Rất có thể, nếu còn Liên xô, còn phe XHCN hùng hậu, công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta vẫn cần hoàn thiện, đổi mới. Nhưng đó chắc chắn không phải là một bước ngoặt. Mặt khác, khi Liên xô và phần lớn các nước XHCN không còn, nhưng công cuộc phát triển kinh tế không thể thực hiện được nếu đóng cửa, không tham gia thị trường quốc tế. Do đó, khi Liên xô mất, thế giới lại tạm thời hoà hoãn, thì dù sự hoà hoãn, đối thoại đó có phức tạp đến đâu, chúng ta vẫn phải tranh thủ hoà bình để phát triển. Vì thế, việc Việt nam muốn là bạn của tất cả cá nước cũng là lẽ tất nhiên để tồn tại và phát triển. Mà một khi đã muốn là bạn của tất cả các nước thì không thể không chấp nhận các hình thức sở hữu của họ, nếu họ chỉ duy nhất có hình thức sở hữu đó mà thôi. Do vậy, hội nhập tức là chấp nhận các hình thức kinh tế tư bản, dù mức độ có bị không chế tới đâu. -Tình hình nội bộ đất nước đòi hỏi phải đổi mới. Tình hình đó thể hiện ở Một mặt, đó là sự không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của sự phát triển lực lượng sản xuất. Sự chênh lệch này thể hiện trong mọi ngành kinh tế, điển hình là trong nông nghiệp, trong tiểu thủ công nghiệp và trong nhiều ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm. Tình trạng đó đã làm cho sức sản xuất trì trệ, không phát triển. Mặt khác, cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta quá thấp, lại bị đặt tương phản với cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân các nước trên thế giới, trước hết là trong khu vực, đã sinh ra sức ép tâm lý, tình cảm đến một bộ phận không 35
- nhỏ nhân dân ta, gây bất ổn cho sự an cư lạc nghiệp của số này, có nguy cơ lây lan, làm bất ổn chính trị. b-Ý nghĩa của các đổi mới trên đây của nền kinh tế đối với Nhà nước Câu hỏi được đặt ra là, những thay đổi của đối tượng quản lý như trên có liên quan gì đến những đổi mới trong QLNN về kinh tế sau này?. Để thấy được mối liên hệ nhân quả đó cần biết rõ ý nghĩa của những thay đổi trong nền kinh tế quốc dân vừa qua đối với quản lý nhà nước. Dưới đây chúng ta sẽ phân tích để làm rõ cơ chế tác động của sự đổi mới đối tượng quản lý đến việc tổ chức sự quản lý của Nhà nước đối với một đối tượng, đã có sự thay đổi như thế. Cơ chế đó như sau: Hệ quả cấp một của sự đổi mới kinh tế, có liên quan đến đổi mới về QLNN về kinh tế, là: -Sự gia tăng khối lượng đối tượng quản lý của Nhà nước. Trong nền kinh tế thời bao cấp, với hai thành phần sở hữu về tư loệu sản xuất, chỉ có khoảng 6.000 doanh nghiệp nhà nước, khoảng một vạn hai ngàn hợp tác xã nông nghiệp (Cả nước có khoảng 12.000 xã, mà hợp tác xã thì phần lớn ở quy mô toàn xã, nên số HTX cũng gần ngang số xã là thế). Ngoài ra còn có một số HTX tiểu thủ công nghiêp, nên toàn thể trên “sân chơi kinh tế” thời đó chỉ có khoảng hơn hai vạn “tay chơi”, hơn hai vạn doanh nhân. Còn giờ đây, sau khi thực hiện đa dạng hoá sở hữu về tư liệu sản xuất, thực khoán triệt để trong nông nghiệp, cả nước có khoang 8 triệu đơn vị kinh tế lớn, nhỏ. Rõ ràng thị trường lúc này đông đối tượng quản lý hơn trước gấp biết bao lần. Hệ quả này có được là do sự bung ra của các thành phần kinh tế không của nhà nước. -Sự gia tăng tính đối kháng của đối tượng quản lý đối với Nhà nước. Thật vậy! Thay đổi lớn nhất của nền kinh tế hiện nay so với nền kinh tế trước đây là sự tái hiện kinh tế tư bản và kinh tế cá thể và sự xuất hiện của tư bản nước ngoài trong nền kinh tế quốc dân nước ta do đường lối đa dạng hohình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và mở cửa sang các nước khu vực và thế giới không xã hội chủ nghĩa. Những đối tượng này khác về chất so với đối tượng của quản lý nhà nước vè kinh tế thời bao cấp. Nếu trước đây, trên thương trường chỉ có những người, đại diện cho sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, hoạt động, thì giờ đây, các doanh nhân loại trên giảm đi đáng kể. Bên cạnh đó xuất hiện những gương mặt mới, đại diện không cho ai khác ngoài lợi ích của chính mình, trung thành quyết liệtvới lợi ích cá nhân, đồng thời lại vừa có hiểu biết, có tri thức cao. Nét mới về chất của đối tượng quản lý còn ở khía cạnh, họ là người nước ngoài. -Sự xuất hiện những việc mới trong quản lý nhà nước về kinh tế mà trước đây không có, do xuất hiện những sở hữu chủ mới. Chẳng hạn, sự tranh chấp tài nguyên, 36
- môi trường, tranh chấp sở hữu công nghiệp v v là những sự việc không có trong nền kinh tế hai hình thức sở hữu. Hệ quả cấp hai của sự đổi mới kinh tế, có liên quan đến đổi mới về QLNN về kinh tế, là -Làm thay đổi hẳn chức năng, nhiệm vụ của quản lý nhà nước về kinh tế. Đây là hệ quả trực tiếp của việc xuất hiện các sở hữu chủ tư nhân và tư nhân tư bản. Từ sự xuất hiện kinh tế tư nhân và tư nhân tư bản mà một mặt làm xuất hiện nhu cầu của công dân đối với Nhà nước trong việc hỗ trợ họ lập thân lập nghiệp khihọ phải tự thân vận động, không còn được nhà nước bao cấp, mặt khác làm xuất hiện sự tranh chấp tài nguyên, môi trường, sở hữu công nghiệp, tranh giành thị trường một cách quyết liệt do chỗ giờ đây, họ phải chiến đấu cho lợi ích của chính họ. Hoặc, do sự xuất hiện kinh tế tư bản mà có vấn đề giai cấp trong kinh tế, do có tư nhân tư bản nước ngoài mà có vấn đề an ninh quốc gia, độc lập, tự chủ trong kinh tế. Và đến lượt nó, vì xuất hiện các vấn đề trên mà chức năng của QLNN trở nên đa diện, đa dạng hơn. Chẳng hạn, phải tăng cường chức năng bảo vệ giai cấp, chức năng hỗ trợ công dân lập nghiệp, chức năng điều chỉnh các lợi ích, v v -Làm thay đổi hẳn khối lượng công tác quản lý, từ ít lên nhiều, từ giản đơn lên phức tạp. Sự thay đổi này do sự gia tăng số lượng đơn vị sản xuất kinh doanh trên thị trường (10 triệu đơn vị hiện nay so với khoảng 2 vạn đơn vị quốc doanh và hợp tác xa thời bao cấp), gia tăng loại hình công vụ mới, những công vụ chưa từng được biết tới trong quản lý thời bao cấp, gia tăng sự chống đối của đối tượng quản lý, điều không xẩy ra trong nền kinh tế đơn thành phần sở hữu trước kia (hành vi chốn lậu thuế, hành hung người thi hành công vụ, mua chuộc công chức với giá cực cao, c v.) -Làm tăng sự phản kháng, chống đối của đối tượng quản lý đối với Nhà nước. Nguyên nhân dẫn đến hệ quả này chính là sự xuất hiện của kinh tế cá thể, kinh tế tư bản và kinh tế của tư bản nước ngoài. c-Những đòi hỏi đối với Nhà nước Trước những thay đổi như trên của đối tượng quản lý, Nhà nước phải như thế nào mới có thể quản lý nổi đối tượng mới của mình. Đó chính là vấn đề đặt ra ở đây. Yêu cầu đặt ra cho Nhà nước là: -Phải có sức làm việc nhiều hơn để gánh nổi khối lượng công tác quản lý đã gia tăng, như đã phân tích ở trên. -Phải có tri thức mới hơn để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ quản lý mới, mà trước đây chưa hoặc ít phải làm. 37
- -Phải có độ vững vàng cao hơn để chịu được sức phản ứng đa dạng, phức tạp và quyết liệt của đối tượng mới. Từ những đòi hỏi trên chúng ta mới có thể tìm ra phương hướng đổi mới, đáp ứng được đòi hỏi đó 2-Nội dung đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta A-Những nguyên tắc , chỉ đạo công cuộc đổi mới QLNN về kinh tế ở nước ta. Công cuộc đổi mới QLNN về kinh tế ở nước ta trong những năm qua được tiến hành theo phương hướng chung, được thể hiện thành các nguyên tắc sau: a-Tập trung dân chủ -Phương hướng thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong quản lý nhà nước về kinh tế, nguyên tắc tập trung dân chủ được áp dụng vào các trường hợp sau đây: +Vào việc xác định thẩm quyền của Nhà nước trong quản lý nhà nước về kinh tế. Khi Nhà nước can thiệp vào lĩnh vực kinh tế, câu hỏi đầu tiên, cần được đặt ra là, vì sao Nhà nước phải can thiệp vào đó. Lời giải cho câu hỏi đó chính là sự cần thiết khách quan của QLNN về kinh tế, đã được trình bày trong các phần trên. Cũng từ đó, người ta đã xác định được một cách chính xác chức năng của QLNN về kinh tế. Khi đã xác định được sự cần thiết và chức năng QLNN về kinh tế, câu hỏi tiếp theo được đặt ra là, Nhà nươc cần can thiệp tới đâu trong lĩnh vực kinh tế? Can thiệp vào những quan hệ nào trong các quan hệ kinh tế? Giải quyết những vấn đề gì liên quan tới hoạt động kinh tế. Giới hạn được vạch ra đó chính là sự thể hiện sự tập trung dân chủ. Tập trung chỉ phần việc do Nhà nước quyết định. Dân chủ chỉ phần việc do người dân quyết định. Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi sự phân định thẩm quyền giữa Nhà nước và công dân phải có cả phần do dân tự quyết, có cả phần do Nhà nước quyết. Nhưng không đơn giản chỉ có thế, mà còn cần có sự hợp lý trong việc phân định nội dung cụ thể của thẩm quyền thuộc về nhân dân hay về Nhà nước. Sự hợp lý về mặt này là ở chỗ, Nhà nước phải làm những gì mà nhân đân không thể làm được, hoặc không thể được làm. Còn nhân dân thì phải làm những gì mà xét thấy Nhà nước hoàn toàn không cần thiết làm. +Trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý kinh tế của mỗi cấp trong hệ thống các cấp của bộ máy Nhà nước 38
- Nhiệm vụ quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân, phần công việc được gọi là tập trung, bao giờ cũng phải được tổ chức thực hiện trong nội bộ bộ máy Nhà nước, mà thực chất là việc tổ chức lao động quản lý. Như mọi quá trình tổ chức lao động, nếu được thực hiện một cách khoa học, bao giờ cũng phải tiến hành qua việc như, phân chia lực lượng và phân công công việc. Trong tổ chức quản lý nhà nước đó là việc hình thành hệ thống các cấp và phân công, phân nhiệm cho từng cấp. Việc phân công, phân nhiệm giữa các cấp trên- dưới trong hệ thống bộ máy Nhà nước tự nó đã mang tinh thần tập trung dân chủ. Có nghĩa là, có những công tác quản lý do cấp trên làm, có những công tác quản lý lại do cấp dưới làm. Chẳng hạn, việc xây dựng pháp luật kinh tế phải do Quốc hội làm, cụ thể hoá các đạo luật để trở thành những quy chế chấp hành pháp luật lại do Chính phủ hoặc các Bộ trưởng làm, thậm chí, có việc do cấp thấp hơn làm. Tuyvậy, việc phân cấp và phân công quản lý nhà nước về kinh tế giữa các cấp không phải bao giờ cũng tối ưu được ngay và vĩnh viễn. Có nghĩa là, sự phân công, phân cấp nào đó cóa thể chưa tối ưu, hoặc đã tối ưu rồi nhưng cũng chỉ là tạm thời, do sự vận động của đối tợng quản lý và của cả chủ thể quản lý nữa, sự tối ưu trước đó sẽ trở nên không tối ưu trong hiện thời. Vì vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn cần được nêu lên. Trong cả hai trường hợ, vừa được nêu ra trên đây đều có vấn đề phân chia quyền lực, xác định thẩm quyền của các bên cùng quản lý. Ở trường hợp thứ hai, sự phân chia thẩm quyền được tiến hành giữa cấp trên và cấp dưới. Ở trường hợp đầu, sự phân chia thẩm quyền lại diễn ra giữa Nhà nước và nhân dân Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong cả hai trường hợp trên có nghĩa là thẩm quyền phải được phân định cho cả hai phía: trên và dưới, Nhà nước và nhân dân một cách hợp lý, hài hoà. Không thể để xảy ra tình trạng chỉ Nhà nước có quyền, cấp trên có quyền còn dân thì không, cấp dưới thì không, và ngược lại. Cũng không thể phân định tuỳ tiện, dẫn đến sự trái ngược thẩm quyền, việc đáng phân cấp cho dân, cho cấp dưới thì Nhà nước, cấp trên lại giữ lấy làm hoặc ngược lại, tuy về hình thức có thể vẫn có sự phân định thẩm quyền hẳn hoi. Khi đó người ta gọi là tập trung dân chủ hình thức. -Cơ sở khoa học của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nưopức về kinh tế Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định áp dụng vào tổ chức và quản lý nền kinh tế quốc dân xuất phát từ căn cứ sau đây: +Quyền quản lý nền kinh tế quốc dân vừa là quyền của Nhà nước, vừa là quyền của dân. Thật vậy! Bộ phận cơ bản của nền kinh tế quốc dân là các doanh nghiệp tư nhân, tư nhân tư bản, xí nghiệp tập thể. Đó chính là tài sản và sự nghiệp của dân. Do đó dân phải được làm chủ. Dân chủ là vì vậy. Nhưng trong nền kinh tế quốc dân còn có kinh tế nhà nước. Đó là tài nguyên quốc gia, là hệ thống DNNN, là toàn bộ kết cấu hạ tầng, v v. Vì thế Nhà phải có quyền làm chủ. Tập trung là vì vậy. Ngoài ra, ngay đối 39
- với khối kinh tế tư nhân, tập thể và tư bản, Nhà nước cũng có quyền nhất định, với những lý do, đã được trình bày ở mục “I” +Quyền quản lý của Nhà nước không thể thực hiện được nếu không có sự phân cấp, phân công, phân nhiệm. Bởi vì, nhiệm vụ quản lý nhà nước là một nhiệm vụ lớn, phải do một tập thể cán bộ-công chức cùng làm. Nói cách khác, đó là lao động tập thể. Mà lao động tập thể thì phải được phân công. Sự phân công đương nhiên đẻ ra cấp trên cấp dưới và thẩm quyền của từng cấp phải rõ ràng, rành mạch, tạo nên một trật tự, được gọi là tập trung-dân chủ. b-Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ -Phương hướng thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ phải được thể hiện trên thực tế tổ chức và quản lý như sau: +Về tổ chức chủ thể quản lý, có sự tồn tại đồng thời hai hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: Cơ quan quản lý chuyên ngành và cơ quan tổng hợp liên ngành; cơ quan quản lý toàn quốc (cơ quan trung ương) và cơ quan địa phương các cấp. Chẳng hạn, vừa có Bộ, Sở quản lý từng ngành riêng biệt như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, v v vừa có Bộ quản lý liên ngành tổng hợp như Bộ Lao động, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ tài chính, v.v , Vừa có quản lý của chính quyền trung ương, vừa có quản lý của các cấp chính quyền Tỉnh-Huyện -Xã. +Về hoạt động quản lý, có sự phối hợp thường xuyên chặt chẽ giữa các cơ quan theo ngành và theo lãnh thổ khi cùng tiến hành các tác động theo thẩm quyền của mình lên cùng một đối tượng quản lý. Chẳng hạn, một doanh nghiệp có thể đồng thời chịu sự quản lý vừa của cấp trung ương, vừa của cấp địa phương, vừa của cơ quan chuyên ngành, vừa của cơ quan tổng hợp theo lãnh thổ trên các mặt sử dụng tài nguyên, tác động đến môi trường, quan hệ quốc tế, quan hệ với ngân sách, quan hệ lao động, v v. Đó chính là lúc phải thực hiện nguyên tắc kết hợp nói trên trong hành vi quản lý, tránh sự biệt lập, thậm chí công kích nhau giữa các cơ quan nói trên khi thi hành phận sự của mình. -Cơ sở khoa học và thực tiễn của nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ. Nguyên tắc trên đây được đề ra xuất phát những căn cứ sau đây: +Đối tượng quản lý của Nhà nước có nhu cầu được quản lý theo ngành. 40
- Đối tượng quản lý của Nhà nước trong quản lý nhà nước về kinh tế chính là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có mối quan hệ theo ngành và theo lãnh thổ Ngành kinh tế-kỹ thuật như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản v v trong mỗi ngành trên lại chia ra các ngành nhỏ như ngành dệt, ngành điện lực, ngành thực phẩm v v là tổng thể các doanh nghiệp có một vài trong các điểm giống nhau sau đây: Một là, cùng sản xuất một loại sản phẩm có công dụng giống nhau: đồ ăn, đồ mặc, đồ gia dụng, thuốc bệng, công cụ, nông cụ, phương tiện đi lại v v Hai là, cùng sử dụng một loại nguyên liệu, tuy sản phẩm được làm ra không có quan hệ gì với nhau. Chẳng hạn ngành công nghiệp chế biến xenlulo, ngành công nghiệp tổng hợp cácbon v v. Chúng bao gồm các doanh nghiệ cùng sử dụng cỏ cây hoặc than đá, dầu mỏ nhưng để làm ra các sản phẩm khác xa nhau, như bàn ghế và bông sợi, như bông sợi và giấy viết, như cao su với thuốc nhuộm, v v Ba là, cùng sử dụng một hệ thống thiết bị và công nghệ: công nghệ cắt gọt, công nghệ hoá học, công nghệ ví sinh v v dù nguyên liệu đưa vào khác nhau, sản phẩn đưa ra khác nhau. Chẳng hạn cùng là hệ máy tiện, máy phay, máy bào nhưng có thể dùng để chế biến thép hoặc nhôm hoặc đồng hoặc gỗ. Đương nhiên, từ những nguyên liệu khác nhau đó ra đời những sản phẩm cũng rất khác nhau. Như vậy, các doanh nghiệp cùng ngành sẽ có những nhu cầu giống hoặc về nguyên liệu, hoặc về thiết bị, hoặc về công nghệ, hoặc về lao động lành về thị trường tiêu thụ, về thông tin các mặt, v v. Do thế chúng cần có một trung tâm toàn quốc hoặc toàn vùng chuyên quản chúng để thực hiện một số chức năng nhằm đáp ứng các nhu cầu cùng loại nói trên. Đó là cơ sở đẻ ra cơ quan chuyên quản theo ngành toàn quốc hoặc ngành địa phương, tuỳ mức độ rộng hẹp của tầm quan hệ. +Đối tượng quản lý của Nhà nước đồng thời lại có nhu cầu được quản lý theo lãnh thổ, theo địa bàn, dù chúng không cùng ngành. Các doanh nghiệp, dù là của ngành nào, khi cùng tồn tại trên một địa bàn, đều có chung một nhu cầu: Một là, về kết cấu hạ tầng hiện đại, thuận tiện, nhu cầu về dịch vụ công, dịch vụ dân sự, dịch vụ sản xuất kinh doanh, v v. Những nhu cầu này không cần tách bạch theo ngành và cũng không thể đáp ứng theo ngành. Chẳng hạn, các doanh nghiệp tuy cùng ngành nhưng đóng ở hai đầu đất nước, một đất nước dài như đất nước ta, dài và rộng như Trung hoa, Nước Nga hay Ấn độ, sẽ không thể nào cùng chung đáp ứng một nhu cầu về cấp thoát nước, thau dọn rác hay cung ứng bao bì v v. Nhưng trong khi đó, mọi doanh nghiệp, dù là doanh nghiệp thuộc ngành nào, khi ở cùng trên một khu đất 41
- hoặc một vùng, đều có thể phối hợp với nhau để tổ chức đáp ứng các nhu cầu trên. Hai là, về sự thống nhất hành động trên các mặt chiều hướng, nội dung và mức độ phục vụ đối tượng tiêu dùng trên lãnh thổ. Mọi doanh nghiệp dù của ngành nào, khi chúng cùng tham gia phục vụ một đối tượng dân cư, chúng có nhu cầu thống nhất chương trình hành động phục vụ sao cho đối tượng được đáp ứng toàn diện, cân đối, đồng bộ mọi nhu cầu. Vì thế, chúng cần được điều khiển bởi một trung tâm quản lý tại chỗ để tổng hoà hoạt động của chúng. Cơ quan đó không gì hơn, chính là Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn tổng hợp của họ. -Nội dung của quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ. + Nội dung quản lý nhà nước theo ngành Quản lý nhà nước theo ngành gồm các nội dung sau đây: *Quản lý sự phát triển chủng loại và chất lượng sản phẩm và dịch vụ toàn ngành nhằm không ngừng đôỉ mới mặt hàng, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá kiểu dáng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm và dịch vụ để từ đó nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, khả năng mở rộng thị phần của ngành trên thị trường trong và ngoài nước., đồng thời bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng về mặt ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. *Quản lý phương hướng đầu tư phát triển năng lực sản xuất, dịch vụ của ngành sao cho tạo dựng được hệ thống tối ưu các cơ sở sản xuất, dịch vụ trong ngành, tránh mật cân đối cung cầu, tránh sự khủng hoảng, bao gồm cả khủng hoảng thừa và thiếu về sản phẩm của ngành. *Quản lý sự phát triển khoa học, công nghệ và tổ chức sản xuất xã hội trong ngành nhằm tạo dựng được các ngành kinh tế-kỹ thuật có trình độ khoa học, công nghệ, tổ chức sản xuất tối ưu trong điều kiện có thể, giải quyết các vấn đề về khoa học, công nghệ và phân công chuyên môn hoá, hiệp tác hoá, liên hiệp hoá, thống nhất hoá, tiêu chuẩn hoá v v trong nội bộ ngành. *Quản lý sự phát triển nguồn nhân lực trong ngành nhằm bảo đảm cho nhu cầu về lao động của toàn ngành cả về lượng và về chất. *Quản lý việc xây dựng cơ sở nguyên liệu cho toàn ngành nhằm tạo dựng được cơ sở nguyên liệu vững bền cho ngành và tạo được mối quan hệ hiệp tác tối ưu trong khai thác và sử dụng nguyên liệu hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. +Nội dung quản lý nhà nước theo lãnh thổ. Quản lý nhà nước theo lãnh thổ bao gồm các nội dung sau đây: *Quản lý sự phân bố địa lý vĩ mô và vi mô các doanh nghiệp nhằm bảo đảm cho 42