Tài chính doanh nghiệp - Phần: Thị trường chứng khoán
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài chính doanh nghiệp - Phần: Thị trường chứng khoán", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tai_chinh_doanh_nghiep_phan_thi_truong_chung_khoan.pdf
Nội dung text: Tài chính doanh nghiệp - Phần: Thị trường chứng khoán
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA VÀ QUAN HỆ DOANH NGHIỆP ThS. NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY (CHỦ BIÊN) – ThS. TRẦN THỊ LƯU TÂM Thị trường chứng khoán Vinh, 2011
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA VÀ QUAN HỆ DOANH NGHIỆP ThS. NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY (CHỦ BIÊN) – ThS. TRẦN THỊ LƯU TÂM Thị trường chứng khoán (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh, 2011
- Phân công biên soạn: - ThS. NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY (CHỦ BIÊN) - biên soạn chương 1, chương 3, chương 4, chương 5. - ThS. TRẦN THỊ LƯU TÂM – biên soạn chương 2, chương 6.
- LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán ra đời từ thế kỷ XV và giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của các nước có lực lượng sản xuất phát triển nhất hiện nay như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Nhật Bản Cùng với sự hình thành của các thị trường khác, sự hình thành của thị trường chứng khoán ở Việt Nam sẽ làm cho bộ khung của nền kinh tế thị trường nước ta trở nên đầy đủ và hoàn thiện hơn. Từ trước năm 1975, Việt Nam đã có những bản phúc trình về thiết lập thị trường chứng khoán. Tuy nhiên sau một thời gian dài chuẩn bị và nghiên cứu, đến năm 2000 thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời và phát triển. Cho đến nay, hoạt động của thị trường ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Về mặt lí luận, nhiều vấn đề về thị trường chứng khoán được nhận thức sâu hơn và rõ hơn. Chính vì vậy, việc biên soạn giáo trình thị trường chứng khoán này nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng về đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường Đại học Vinh cũng như yêu cầu của xã hội. Giáo trình thị trường chứng khoán được biên soạn một cách hệ thống và khoa học nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán sơ cấp, thị trường chứng khoán thứ cấp, cách xác định giá chứng khoán để đầu tư chứng khoán và các tổ chức liên quan đến thị trường chứng khoán. Nội dung của cuốn sách gồm có: Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán. Chương 2: Thị trường chứng khoán sơ cấp. Chương 3: Thị trường chứng khoán thứ cấp. Chương 4: Giao dịch chứng khoán đã niêm yết trên sở giao dịch. Chương 5: Phân tích và đầu tư chứng khoán Chương 6: Hệ thống thông tin và quản lý giám sát trên thị trường chứng khoán Giáo trình là công trình tập thể do giảng viên Nguyễn Thị Bích Thủy làm chủ biên với sự tham gia biên soạn của giảng viên Trần Thị Lưu Tâm. - ThS. Nguyễn Thị Bích Thủy, tổ bộ môn tài chính ngân hàng viết chương 1, chương 2, chương 3, chương 4. - ThS. Trần Thị Lưu Tâm, tổ bộ môn tài chính ngân hàng viết chương 5 và chương 6. Giáo trình được biên soạn lần này là kết quả của sụ kế thừa những giáo trình thị trường chứng khoán từ các trường đại học hàng đầu Việt Nam và làm phong phú thêm nội dung về lí luận và thực tế của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên ở Việt Nam, thị trường chứng khoán là một phạm trù kinh tế hết sức mới mẻ và rất phức tạp, do vậy mặc dù tập thể tác giả đã cố gắng để hoàn thành giáo trình với chất lượng cao, song giáo trình sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tập thể tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp quý báu của bạn đọc để giáo trình được hoàn thiện hơn. Tập thể tác giả xin trân trọng cảm ơn các giảng viên trong tổ bộ môn tài chính ngân hàng gồm: TS. Nguyễn Thị Thu Cúc, TS. Đặng Thành Cương đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu trong quá trình nghiệm thu và hoàn thiện giáo trình này. Vinh, tháng 11 năm 2011.
- Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Chương 1 gồm các nội dung sau: 1.1. Đại cương về thị trường tài chính. 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán 1.3. Khái niệm, đặc điểm, chức năng của thị trường chứng khoán 1.4. Các công cụ của thị trường chứng khoán 1.5. Cấu trúc, mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 1.6. Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán 1.7. Hướng dẫn học tập Mục tiêu chung: Giúp học viên có thể hình dung tổng quan về thị trường chứng khoán, tính tất yếu khách quan của sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán, đặc điểm của chứng khoán và thị trường chứng khoán, các công cụ trên thị trường chứng khoán. Trên cơ sở đó học viên có thể hiểu được chứng khoán là gì, nắm được những đặc điểm của chứng khoán để phân tích thực tiễn, hiểu được sự vận hành của thị trường chứng khoán và xác định được vị trí, vai trò của mỗi chủ thể khi tham gia thị trường chứng khoán. Mục tiêu cụ thể: Cung cấp kiến thức cơ bản cho học viên về: - Khái niệm, chức năng, cấu trúc, các công cụ của thị trường tài chính. - Lịch sử ra đời của thị trường chứng khoán thế giới và thị trường chứng khoán Việt Nam. - Khái niệm, đặc điểm, chức năng của thị trường chứng khoán. - Khái niệm, đặc điểm và phân loại chứng khoán. - Cấu trúc, mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. - Các tổ chức và cá nhân tham gia trên thị trường chứng khoán. 1.1. Đại cương về thị trường tài chính 1.1.1. Khái niệm thị trường tài chính Nhu cầu về vốn để tiến hành đầu tư và các nguồn tiết kiệm có thể phát sinh từ các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Trong đó, thường xảy ra tình huống: những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi lại không có cơ hội đầu tư hoặc không biết đầu tư vào đâu. Từ đó hình thành nên một cơ chế chuyển đổi từ tiết kiệm sang đầu tư. Cơ chế đó được thực hiện và điều chỉnh trong khuôn khổ một thị trường đó là thị trường tài chính. Trên thị trường tài chính, những người thiếu vốn huy động vốn bằng cách phát hành ra các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu Những người có vốn dư thừa, thay vì trực tiếp đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng để sản xuất hàng hóa hay cung cấp dịch vụ, sẽ đầu tư (mua) các công cụ tài chính được phát hành bởi những người cần huy động vốn. Vậy, thị trường tài chính là nơi diễn ra sự chuyển vốn từ những người dư thừa vốn tới những người thiếu vốn. Thị trường tài chính cũng có thể được định nghĩa là nơi phát hành, mua bán, trao đổi và chuyển nhượng các công cụ tài chính theo các quy tắc, luật lệ đã được ấn định. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài chính là tất yếu khách quan. Hoạt động trên thị trường tài chính có những tác động, hiệu
- ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. 1.1.2. Chức năng của thị trường tài chính - Huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn Thị trường tài chính có chức năng cơ bản là dẫn vốn từ những người dư thừa vốn sang những người cần vốn. Với những người dư thừa vốn, thu nhập lớn hơn chi tiêu, những người này có thể là Chính phủ, các tổ chức hoặc cá nhân. Trong khi đó, do chi tiêu lớn hơn thu nhập, chính phủ, các tổ chức và cá nhân khác lại cần vốn. Sự chuyển dịch vốn này được thực hiện theo sơ đồ sau: Sơ đồ: Chức năng dẫn chuyển vốn của thị trường tài chính Tài chính gián tiếp CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH vốn vốn vốn Người cho vay vốn: THỊ Người đi vay vốn: 1. Hộ gia đình. TRƯỜNG 1. Hộ gia đình. vốn 2. Doanh nghiệp. vốn TÀI CHÍNH 2. Doanh nghiệp. 3. Chính phủ. 3. Chính phủ. 4. Nước ngoài. 4. Nước ngoài. Tài chính trực tiếp Qua sơ đồ trên ta thấy, sự chuyển dịch vốn được thực hiện qua hai con đường, tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Trong tài trợ trực tiếp, những người cần vốn huy động trực tiếp từ những người có vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Các chứng khoán này là các công cụ tài chính, nó cung cấp quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản và các quyền khác cho chủ sở hữu đối với người phát hành. Các chứng khoán được mua bán rộng rãi trên thị trường cấp một và thị trường cấp hai. Cách thức thứ hai để dẫn vốn là tài trợ gián tiếp thông qua các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính như các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các tổ chức bảo hiểm và các trung gian khác có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, đồng thời các tổ chức này cũng có vai trò quan trọng trong việc cấp vốn và hỗ trợ cho dòng tài chính trực tiếp như thông qua các hoạt động: đại lý, bảo lãnh, thanh toán v.v Như vậy, thông qua việc dẫn chuyển vốn, thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, trên cơ sở đó làm tăng năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính trực tiếp cải thiện mức sống cho cả những người có vốn và những người cần vốn. - Xác định giá cả của các tài sản tài chính
- Thông qua quan hệ giữa người mua và người bán (quan hệ cung cầu trên thị trường) giá cả của các tài sản tài chính được xác định, hay nói cách khác, lợi tức yêu cầu của tài sản tài chính được xác định. Vì vậy, thị trường tài chính là nơi hình thành nên giá cả của các tài sản tài chính - các "hàng hoá" trên thị trường. - Tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính Thị trường tài chính cung cấp một một cơ chế để các nhà đầu tư có thể trao đổi, mua bán các tài sản tài chính của mình trên thị trường thứ cấp, như vậy thị trường tài chính tạo ra tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Nếu thiếu tính thanh khoản, người đầu tư sẽ buộc phải nắm giữ các công cụ nợ cho tới khi đáo hạn, hoặc nắm giữ các công cụ vốn cho tới khi công ty phá sản hoặc giải thể phải thanh lý tài sản. Mức độ thanh khoản của các thị truờng tài chính là khác nhau, nó phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường. - Giảm thiểu chi phí cho các chủ thể tham gia trên thị trường Để cho các giao dịch có thể diễn ra, những người mua và những người bán cần phải bỏ ra các chi phí như chi phí tìm kiếm đối tác và tìm kiếm thông tin trong quá trình trước, trong và sau khi ra các quyết định đầu tư. Nhờ tính tập trung, các thông tin phục vụ quá trình đầu tư được cung cấp đầy đủ, chính xác và nhanh chóng trên thị trường tài chính, từ đó cho phép giảm thiểu những chi phí đối với các bên tham gia giao dịch và góp phần tăng hiệu quả đối với các chủ thể trên thị trường cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. - Khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh Thị trường tài chính là thị trường định giá các công cụ tài chính, vì vậy, sẽ khuyến khích quá trình phân phối vốn một cách có hiệu quả, góp phần tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và từ đó đặt ra cho các doanh nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển. - Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ. Thị trường tài chính có một chức năng quan trọng là ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Chức năng này được thể hiện thông qua việc mua bán các trái phiếu, tín phiếu và các giấy tờ có giá khác của Ngân hàng Trung ương trên thị trường tài chính và thị trường tiền tệ. Thông qua đó, Chính phủ có thể huy động được nguồn vốn lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách và kiểm soát lạm phát. Ngoài ra, Ngân hàng Trung ương cũng có thể mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh lượng cung và cầu ngoại tệ nhằm giúp Chính phủ ổn định tỷ giá hối đoái. Như vậy, thị trường tài chính có chức năng hết sức quan trọng không những đối với nền kinh tế mà cả đối với từng cá nhân, tổ chức kinh tế. Thị trường tài chính tạo điều kiện cho phép vốn được chuyển từ người có tiền nhàn rỗi và không có cơ hội đầu tư hiệu quả sang cho người có cơ hội đầu tư, có khả năng sản suất, giúp nâng cao năng suất và hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, thị trường tài chính cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm tốt hơn. Thị trường tài chính hoạt động hiệu quả sẽ trực tiếp cải thiện đời sống kinh tế xã hội.
- 1.1.3. Cấu trúc của thị trường tài chính Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta phân loại thị trường tài chính thành các thị trường bộ phận. * Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần Căn cứ vào phương thức huy động vốn của tổ chức phát hành, thị trường tài chính được phân thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần. Thị trường nợ là thị trường mà hàng hoá được mua bán tại đó là các công cụ nợ. Thực chất của việc phát hành các công cụ nợ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc và lãi. Người cho vay không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Các công cụ nợ có thời hạn xác định, có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Tín phiếu và trái phiếu là hai ví dụ điển hình của các công cụ nợ. Khác với thị trường nợ, thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ phiếu, giấy xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty. Cổ phiếu là vô thời hạn vì chúng không xác định cụ thể ngày mãn hạn. Người sở hữu cổ phiếu chỉ có thể lấy lại tiền bằng cách bán lại cổ phiếu đó trên thị trường thứ cấp hoặc khi công ty tuyên bố phá sản. * Thị trường tiền tệ và thị trường vốn Căn cứ vào thời hạn luân chuyển của vốn, thị trường tài chính được chia thành thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường tiền tệ là thị trường tài chính trong đó các công cụ ngắn hạn (có kỳ hạn dưới một năm) được mua bán, còn thị trường vốn là thị trường giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn (gồm các công cụ vay nợ dài hạn và cổ phiếu). Vốn ngắn hạn chủ yếu do các ngân hàng cung cấp, còn thị trường chứng khoán là đặc trưng cơ bản của thị trường vốn. Các hàng hoá trên thị trường tiền tệ có đặc điểm là thời gian đáo hạn ngắn hạn nên có tính lỏng cao, độ rủi ro thấp và ổn định. Thị trường tiền tệ bao gồm: thị trường liên ngân hàng, thị trường tín dụng, thị trường ngoại hối. Thị trường vốn là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ dài hạn. Thị trường vốn được phân thành 3 bộ phận: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu dài hạn và các khoản cho vay dài hạn. * Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp Căn cứ vào tính chất của việc phát hành các công cụ tài chính, thị trường tài chính được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp. Thị trường sơ cấp hay còn gọi là thị trường phát hành là thị trường trong đó các công cụ tài chính được mua bán lần đầu tiên. Do là thị trường phát hành lần đầu nên thị trường này còn được gọi là thị trường cấp một. Thị trường sơ cấp ít quen thuộc với công chúng đầu tư vì việc bán chứng khoán tới những người mua đầu tiên được tiến hành theo những phương thức và đặc thù riêng, thông thường chỉ giới hạn ở một số thành viên nhất định. Thị trường thứ cấp. Thị trường thứ cấp là thị trường giao dịch các công cụ tài chính sau khi chúng đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường cấp hai. Hoạt động trên thị trường thứ cấp diễn ra trong phạm
- vi rộng hơn với tổng mức lưu chuyển vốn lớn hơn nhiều so với thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, việc mua bán chứng khoán trên thị trường này không làm thay đổi nguồn vốn của tổ chức phát hành mà thực chất chỉ là quá trình chuyển vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác hay nói cách khác trên thị trường thứ cấp diễn ra việc trao đổi, mua bán các "quyền sở hữu công cụ tài chính". Thị trường thứ cấp làm cho các công cụ tài chính có tỉnh lỏng và tính sinh lợi cao hơn và do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trên thị trường sơ cấp. Vì vậy, có thể nói thị trường thứ cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường sơ cấp. Mối quan hệ giữa thị trường tài chính sơ cấp và thứ cấp là mối quan hệ nội tại, hữu cơ và biện chứng. Thị trường sơ cấp đóng vai trò là cơ sở, tiền đề cho thị trường thứ cấp và ngược lại thị trường thứ cấp đóng vai trò là động lực, thúc đẩy thị trường sơ cấp phát triển. 1.1.4. Mối quan hệ giữa các thị trường bộ phận cấu thành thị trường tài chính. Các bộ phận của thị trường tài chính (thị trường bộ phận) có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời. Mối quan hệ của chúng được hình thành từ các luồng chu chuyển về vốn giữa các bộ phận, biến động trên thị trường này sẽ tạo ra các luồng vốn chu chuyển, từ đó tác động đến quan hệ cung cầu, làm thay đổi những chỉ số phản ánh hoạt động của thị trường khác. Về mặt thời gian, thị trường tiền tệ xuất hiện trước thị trường vốn nhưng chúng đều là những mắt xích trong một dây chuyền hoàn chỉnh - hệ thống tài chính quốc gia và quốc tế. Theo sự phát triển của nền kinh tế, thị trường tài chính ngày càng trở nên linh hoạt, tinh vi và phức tạp hơn, ranh giới giữa các công cụ, giữa các thị trường bộ phận ngày càng mang tính tương đối. Các công cụ tài chính được lưu thông đan xen giữa các loại thị trường và được chuyển hoá lẫn nhau. Những công cụ mới xuất hiện liên tục, trong đó có những công cụ mang tính hỗn hợp với những đặc tính vốn tồn tại tách rời nhau. Các thị trường bộ phận do đó càng trở nên gắn bó với nhau chặt chẽ hơn. Mối quan hệ giữa các thị trường bộ phận thông qua công cụ lãi suất và được phản ánh bởi sự biến động của các chỉ số khác như giá chứng khoán, tỷ giá hối đoái. Sự thay đổi của lãi suất chắc chắn sẽ dẫn đến những biến động về giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái. Ngược lại, những biến động này sẽ cân bằng trở lại dưới tác dụng của việc điều chỉnh lãi suất. Có thể nói, lạm phát và lãi suất là hai nhân tố vĩ mô ảnh hưởng tới giá cả trên thị trường chứng khoán, trong đó lãi suất là nhân tố gây tác động trực tiếp tới giá chứng khoán thông qua việc thay đổi lợi suất yêu cầu của nhà đầu tư. Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu thay đổi lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu từ ngân hàng trung ương lập tức sẽ ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Tóm lại, các thị trường bộ phận có mối quan hệ khăng khít, biện chứng và tác động lẫn nhau, ảnh hưởng và chi phối đến nhau. Đây chính là một yếu tố tạo nên tính đồng bộ của thị trường tài chính.
- 1.1.5. Các công cụ của thị trường tài chính 1.1.5.1. Các công cụ của thị trường tiền tệ Do có thời gian đáo hạn là ngắn hạn, những công cụ tài chính trên thị trường tiền tệ có đặc điểm là có tính rủi ro, mức độ dao động giá thấp và do đó đầu tư vào các công cụ này sẽ có ít rủi ro nhất. - Tín phiếu kho bạc Là công cụ vay nợ ngắn hạn của Chính phủ thường được phát hành với kỳ hạn thanh toán là 3, 6 và 12 tháng. Chúng được trả lãi với mức lãi suất cố định và được hoàn trả vốn khi đến hạn thanh toán hoặc được thanh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá, tức là, với giá thấp hơn so với khoản tiền đã định được thanh toán khi hết hạn (hình thức chiết khấu). Tín phiếu kho bạc là loại có tính lỏng và an toàn nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ, do vậy, chúng được ưa chuộng và mua bán nhiều nhất trên thị trường. Sở dĩ tín phiếu kho bạc là loại công cụ an toàn nhất trong tất cả các loại công cụ ở thị trường tiền tệ vì được sự bảo đảm chi trả của Chính phủ. Tín phiếu kho bạc là công cụ được nắm giữ chủ yếu bởi các ngân hàng thương mại, ngoài ra cũng có một lượng nhỏ các hộ gia đình, các công ty và các trung gian tài chính khác nắm giữ tín phiếu kho bạc. Các ngân hàng thương mại nắm giữ tín phiếu kho bạc ngoài mục đích đầu tư nguồn vốn đang bị đóng băng để hưởng lợi tức còn sử dụng tín phiếu kho bạc như là khoản tiền dự trữ cấp hai. Ngoài ra, ngân hàng trung ương có thể sử dụng công cụ tín phiếu kho bạc để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nhằm điều chỉnh lượng tiền cung ứng ra lưu thông và kiểm soát thị trường tiền tệ. - Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng Giấy chứng nhận tiền gửi (CDs) là một công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi tiền. Người gửi được thanh toán lãi hàng năm theo một tỷ lệ nhất định và khi đến kỳ hạn thanh toán, thì hoàn trả gốc theo giá mua ban đầu. Hiện nay, công cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được thành công to lớn, với tổng số dư gần đây vượt quá tổng số dư của tín phiếu kho bạc. Các chứng chỉ tiền gửi có thể được bán lại trên thị trường thứ cấp. - Thương phiếu Thương phiếu hay còn gọi là kỳ phiếu thương mại là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các công ty phát hành. Trước đây các công ty thường vay vốn ngắn hạn ở các ngân hàng thương mại, nhưng sau đó họ dựa chủ yếu vào việc bán thương phiếu cho các trung gian tài chính và các công ty khác để vay vốn tức thời. Thương phiếu bao gồm: * Hối phiếu: Là một giấy ghi nợ do người bán ký phát trao cho người mua, trong đó yêu cầu người mua phải trả một số tiền nhất định khi đến hạn cho người bán hoặc bất kỳ người nào thụ hưởng hối phiếu. * Lệnh phiếu: Là một giấy nhận nợ do người mua ký phát trao cho người bán, trong đó người mua cam kết trả một số tiền nhất định khi đến hạn thanh toán cho người thụ hưởng lệnh phiếu. - Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận là một hối phiếu ngân hàng (sự hứa hẹn thanh toán tương tự một tấm séc) do một công ty phát hành, được thanh toán trong tương
- lai và được ngân hàng bảo đảm với một khoản lệ phí bằng cách ngân hàng đóng dấu "đã chấp nhận" lên hối phiếu. Công ty phát hành hối phiếu phải gửi một khoản tiền bắt buộc theo thoả thuận vào tài khoản của mình tại ngân hàng đủ để trả cho hối phiếu. Nếu công ty không có khả năng thanh toán ngân hàng buộc phải thanh toán theo số tiền đã ghi trên hối phiếu cho người thụ hưởng. Các hối phiếu "đã chấp nhận" này thường được mua đi bán lại ở thị trường thứ cấp và như vậy, nó có tác dụng tương tự như tín phiếu kho bạc. Ngoài ra, người sở hữu hối phiếu cũng có thể chiết khấu lại trên thị trường để thu tiền trước. Đặc điểm của loại công cụ này là lãi suất thấp và có độ an toàn cao. 1.1.5.2. Các công cụ trên thị trường vốn Các công cụ trên thị trường vốn là các công cụ nợ và công cụ vốn với thời gian đáo hạn (kỳ hạn thanh toán) trên một năm hay vô hạn. Khác với các công cụ trên thị trường tiền tệ, các công cụ trên thị trường vốn có mức độ biến động giá mạnh hơn và tính thanh khoản thấp hơn so với các các công cụ trên thị trường tiền tệ, do vậy các công cụ này có mức độ rủi ro do lớn và lợi tức thường cao hơn. Cổ phiếu Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Trái phiếu Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Trái phiếu quy định trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi của tổ chức phát hành cho người sở hữu trái phiếu khi đến thời điểm đáo hạn. Các khoản cho vay dài hạn Là các khoản cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty tài chính cho người tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. Thông thường, các khoản tín dụng này không được giao dịch, mua bán trên thị trường thứ cấp do đó chúng có tính thanh khoản thấp. 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên thị trường chứng khoán. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán. Các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước. Hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Vào khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây, trong các chợ phiên hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ 15, "khu chợ riêng" đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc thương
- lượng. Những quy ước này dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia. Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành phố Bruges (Vương quốc Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ Bourse. Ba túi da tượng trưng cho ba nội dung của thị trường: Thị trường hàng hoá; Thị trường ngoại tệ và Thị trường chứng khoán động sản; còn chữ Bourse có nghĩa là "mậu dịch thị trường" hay còn gọi là "nơi buôn bán chứng khoán". Đến năm 1547, thị trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ do cửa biển Evin - nơi dẫn các tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố bị cát biển lấp mất. Tuy nhiên, vào năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành phố cảng Anvers (Bỉ), từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Một thị trường như vậy cũng được thành lập ở London (Vương quốc Anh) vào thế kỷ 18 và sau đó là một loạt thị trường tại Pháp, Đức, ý và một số nước Bắc Âu và Mỹ cũng được thành lập. Sau một thời gian hoạt động, thị trường đã chứng tỏ khả năng không đáp ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hoá được tách ra thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát triển thành thị trường hối đoái. Thị trường chứng khoán động sản trở thành thị trường chứng khoán. Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái. Quá trình phát triển của thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã ghi nhận hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào "ngày thứ năm đen tối", 29/10/1929 và "ngày thứ hai đen tối", 19/10/1987. Song, trải qua các cuộc khủng hoảng, cuối cùng thị trường chứng khoán lại được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc tăng cường vai trò của thị trường chứng khoán đối với đời sống kinh tế, thị trường chứng khoán đã được tạo mọi điều kiện phát triển. Các chính sách của Chính phủ các nước đã góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thể hiện: Thứ nhất, Chính phủ các nước đã cải cách mạnh hệ thống thuế nhằm kích thích tiết kiệm và đầu tư. Các khoản thuế đối với thu nhập từ đầu tư cổ phiếu giảm đáng kể đã khuyến khích các doanh nghiệp tăng vốn chủ sở hữu. Với các doanh nghiệp Hàn Quốc, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu đã giảm từ khoảng 500% vào đầu những năm 80 xuống còn 250% vào cuối những năm 90. Chính phủ Anh và Mỹ đã khuyến khích quá trình sáp nhập các doanh nghiệp nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của chính các doanh nghiệp này. ở nhiều nước, số lượng các công ty cổ phần mới ngày càng gia tăng. Đồng thời với các chính sách khuyến khích phát triển, Chính phủ các nước cũng tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường. Uỷ ban chứng khoán - cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán được thành lập. Ví dụ, Uỷ ban chứng khoán Anh được thành lập năm 1968, Uỷ ban các nghiệp vụ chứng khoán Pháp được thành lập năm 1967, Uỷ ban chứng khoán Thái Lan thành lập năm 1992. Hệ thống các văn bản pháp luật cũng được hoàn thiện hơn
- để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư và chống lại các hành vi phi đạo đức trong kinh doanh chứng khoán. Thứ hai, một loạt các công cụ tài chính mới được tạo ra nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của nhà phát hành và các nhà đầu tư. Các công cụ này được hình thành từ việc lai ghép các công cụ sẵn có, nhằm tận dụng các lợi thế về pháp lý hoặc kết hợp giữa các lợi thế của vốn chủ sở hữu với lợi thế của vốn vay. Điều này không chỉ giúp cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn với chi phí thấp hơn, dễ thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, mà còn tạo nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho các nhà đầu tư. Hàng loạt các công cụ phòng vệ cũng xuất hiện như các hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn và các công cụ dẫn suất mới. Các công cụ này vừa làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư, vừa tăng tính lỏng của tài sản, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho nhà phát hành. Thứ ba, các nước tiến hành thành lập các thị trường giao dịch qua quầy với các yêu cầu niêm yết ít chặt chẽ hơn nhằm tạo điều kiện cho các công ty mới và các doanh nghiệp có tầm cỡ trung bình có thể tham gia thị trường. Bởi vậy, cơ hội huy động vốn cho các doanh nghiệp cũng như khả năng đa dạng hoá danh mục đầu tư cho các nhà kinh doanh chứng khoán được gia tăng đáng kể. Thứ tư, thị trường chứng khoán đã có sự đổi mới mạnh mẽ về kỹ thuật. Các thị trường được tin học hoá triệt để, đồng thời với các cải cách về nghiệp vụ giao dịch, nghiệp vụ lưu ký và thanh toán, cải cách về tiền hoa hồng v.v đã làm giảm chi phí trung gian, giảm thời gian và tăng khối lượng giao dịch qua thị trường. Điều này được đặc biệt ghi nhận tại thị trường chứng khoán London qua cải cách có tên gọi "Big Bang" năm 1986. Nhờ những tiến bộ khoa học kỹ thuật đó, thị trường chứng khoán ngày nay phát triển mạnh mẽ với mức độ quốc tế hoá ngày càng cao. Sự thống nhất Châu Âu đã hợp nhất hàng loạt các thị trường chứng khoán, tạo cơ hội mới cho việc phát triển thị trường. Thứ năm, thành lập thị trường các công cụ dẫn suất (Derivatives Markets). Năm 1986, Pháp thành lập thị trường MATIF (Marché à Terme International de France) và đến năm 1987, thành lập thêm thị trường MONEP (Marché d’Options Négociables de Paris). Các thị trường này được thành lập để tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế và các nhà kinh doanh chứng khoán có khả năng phòng ngừa các rủi ro liên quan đến các biến động về giá cổ phiếu, về lãi suất và tỷ giá hối đoái, đồng thời làm tăng vốn khả dụng trên thị trường giao ngay, thông qua khả năng kinh doanh chênh lệch giá. Chính các thị trường này cũng thúc đẩy hiện đại hoá thị trường tài chính Pháp và giúp cho thị trường này cạnh tranh được với trung tâm tài chính London. Thứ sáu, đẩy mạnh sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán, đặc biệt sau khủng hoảng tài chính năm 1987, người ta đã nhận ra rằng, các thành viên lớn nhất của Sở giao dịch chứng khoán London không thể có đủ lượng vốn cần thiết để cạnh tranh với các nhà kinh doanh chứng khoán của Mỹ và Nhật Bản. Vì thế, các nhà quản lý vốn bảo thủ của Anh đã phải nới rộng các điều kiện cho phép các trung gian tài chính, trong đó có các ngân hàng thương mại, tham gia vào thị trường, và chính điều đó đã làm tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán. Thứ bảy, sự hiện đại hoá thị trường vay nợ của Chính phủ tạo điều kiện cho Nhà nước có thể tăng cường huy động các nguồn tài chính trên thị trường với các chi phí
- thấp hơn, tránh nguy cơ lạm dụng phát hành để tài trợ cho Ngân sách và tạo điều kiện thực hiện chính sách tiền tệ. Với những cải cách đó, thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng, một thực thể không thể thiếu được đối với nền kinh tế hiện đại. 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có một quá trình chuẩn bị lâu dài và chu đáo. Từ tháng 7 năm 1963 GS. Vũ Quốc Thúc, trưởng khoa Luật Viện Đại học Sài Gòn đã có soạn thảo bản phúc trình về thiết lập thị trường chứng khoán tại Sài Gòn. Đến ngày 16 tháng 2 năm 1973, Thủ tướng Chính phủ Sài Gòn đã ký sắc lệnh số 027SL/ThT/PC2 về thị trường chứng khoán và các quy định có liên quan. Ngày 2/1974, các ý tuởng về vấn đề thành lập thị trường chứng khoán lại được đề cập bởi bản phúc trình về thị trường chứng khoán Việt Nam của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1990, Chính phủ đã giao đồng thời cho Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu xây dựng đề án hình thành thị trường chứng khoán. Năm 1995: Chính phủ đã thành lập Ban chuẩn bị tổ chức thị trường chứng khoán. Ngày 28 tháng 11 năm 1996, Chính phủ Ban hành nghị định số 75 NĐ/CP về việc thành lập Ủy ban chứng khoán. Sau đó là quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11tháng 7 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán Sau 15 năm trải qua chặng đường thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 10 tháng 7 năm 2000, Việt Nam đã khai trương Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên đã được thực hiện tại trung tâm là ngày 28 tháng 7 năm 2000. Ngày 8 tháng 3 năm 2005, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội chính thức khai trương, đánh dấu bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam. 1.3. Khái niệm, đặc điểm, chức năng của thị trường chứng khoán 1.3.1. Khái niệm thị trường chứng khoán Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán (TTCK) và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: " Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một". Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ
- phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK. Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở giao dịch chứng khoán lại cho rằng "Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu", hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu. Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay, được trình bày trong giáo trình là: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, dữ liệu điện tử, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over - The Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá 1.3.2. Đặc điểm thị trường chứng khoán Thứ nhất, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp. Người cần vốn và người có khả năng cung ứng vốn đều trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có các trung gian tài chính. Thứ hai, thị trường chứng khoán là thị trường gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tất cả mọi người đều được tự do tham gia vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường chứng khoán mà giá cả ở đây được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản ánh các thông tin liên quan đến chứng khoán. Thứ ba, thị trường chứng khoán là một thị trường hoạt động liên tục. Sau khi chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp nó có thể được mua bán nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Thị trường chứng khoán đảm bảo cho những người đầu tư có thể chuyển chứng khoán họ nắm giữ thành tiền mặt bất cứ lúc nào họ muốn. 1.3.3. Chức năng của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán thực hiện các chức năng chủ yếu sau đây:
- 1.3.3.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Sự hoạt động của thị trường chứng khoán tạo ra một cơ chế chuyển các nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Thị trường chứng khoán cung cấp phương tiện huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư cho các công ty sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất mới, Chức năng được thực hiện khi công ty phát hành chứng khoán và công chúng mua chứng khoán. Nhờ vào sự hoạt động của thị trường chứng khoán mà các công ty có thể huy động được một số lượng lớn vốn đầu tư dài hạn. Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Trong quá trình này, thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng trong việc đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế quốc dân bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của các công ty. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. 1.3.3.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng. Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn, khả năng đưa lại lợi tức và mức độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn được loại chứng khoán phù hợp với khả năng, sở thích và mục đích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán có tác điộng quan trọng trong việc khuyến khích tiết kiệm đầu tư. 1.3.3.3. Cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán. Nhờ có thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt của chứng khoán. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán là chức năng quan trọng đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động một cách năng động, có hiệu quả và khi thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. 1.3.3.4. Đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị doạnh nghiệp và tình hình của nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thi trường. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cái tiến sản phẩm 1.3.3.5. Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Các chỉ báo của thị trường chứng khoán phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá cả các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng và ngược lại khi giá cả chứng khoán giảm sẽ
- cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, thị trường chứng khoán được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối nền kinh tế. Việc tổ chức tốt thị trường và tạo điều kiện cho thị trường phát huy được chức năng của nó sẽ làm cho thị trường hoạt động lành mạnh và có hiệu quả, từ đó tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại khi thị trường không được tổ chức tốt, sự vận hành của nó không được đảm bảo bằng một khung pháp lý đủ hiệu lực và một bộ máy điều hành có năng lực thì thị trường chứng khoán có thể rơi vào tình trạng trục trặc, rối loạn. Từ đó gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ, đe dọa sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, làm thiệt hại đến lợi ích của đông đảo công chúng. 1.4. Các công cụ của thị trường chứng khoán. 1.4.1. Khái niệm chứng khoán Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. 1.4.2. Đặc điểm chứng khoán Chứng khoán là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản: - Tính thanh khoản (Tính lỏng): Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với các tài sản khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung, các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau. - Tính rủi ro. Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất v.v. Rủi ro không hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản. Loại rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành. Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức - người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi người ta kỳ vọng được bù đắp bằng lợi tức tăng thêm. - Tính sinh lợi. Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý - mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ
- vọng càng lớn. Hình thức của chứng khoán. Hình thức của các loại chứng khoán có thu nhập (cố định hoặc biến đổi) thường bao gồm phần bìa và phần bên trong. Ngoài bìa ghi rõ quyền đòi nợ hoặc quyền tham gia góp vốn. Số tiền ghi trên chứng khoán được gọi là mệnh giá của chứng khoán. Đối với giấy tờ có giá với lãi suất cố định bên trong có phiếu ghi lợi tức (Coupon) - ghi rõ lãi suất hoặc lợi tức sẽ được hưởng. Đối với giấy tờ có giá mang lại cổ tức (cổ phiếu) bên trong chỉ ghi phần thu nhập nhưng không ghi xác định số tiền được hưởng, nó chỉ đảm bảo cho người sở hữu quyền yêu cầu về thu nhập do kết quả kinh doanh của công ty và được phân phối theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Ngoài phiếu ghi lợi tức còn kèm theo phiếu ghi phần thu nhập bổ sung (xác nhận phần đóng góp luỹ kế) 1.4.3. Phân loại các chứng khoán Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể phân loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, trong giáo trình này, chứng khoán được chia theo bốn tiêu thức chủ yếu, đó là theo tính chất của chứng khoán, theo khả năng chuyển nhượng, theo khả năng thu nhập và theo chủ thể phát hành. Cách phân chia này tạo điều kiện cho người đầu tư nhận biết dễ dàng các loại chứng khoán đang lưu thông và giúp họ lựa chọn cách thức đầu tư phù hợp. 1.4.3.1. Phân loại chứng khoán theo tính chất Theo tính chất của chứng khoán, các loại chứng khoán được phân hành: Chứng khoán vốn; Chứng khoán nợ; Các chứng khoán phái sinh. Chứng khoán vốn Chứng khoán vốn là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu hần vốn góp và các quyền hợp pháp khác đối với tổ chức phát hành. ại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. ổ phiếu là một loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng hỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với ài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ tài chính có hời hạn thanh toán là vô hạn. Khi tham gia mua cổ phiếu, các nhà đầu tư trở thành các cổ đông của công ty cổ phần (CTCP). Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. Chứng khoán nợ Chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu, tín phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong những khoảng thời gian cụ thể. Chứng khoán phái sinh Trên các thị trường chứng khoán phát triển, ngoài hoạt động các giao dịch chứng khoán thông thường như các loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ đầu tư, còn xuất hiện một số loại chứng khoán phái sinh khác như quyền mua cổ phiếu (Rights) , chứng quyền(Warrants), hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Nó không có vai trò tạo vốn cho nền kinh tế, nhưng nó làm cho thị trường chứng khoán giao dich sôi động, làm tăng
- thêm tính hấp dẫn cho các loại chứng khoán phát sinh ra nó.Có thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các loại như sau: + Quyền mua cổ phần Trong kinh doanh, những công ty thành đạt luôn có nhu cầu phát hành thêm cổ phiếu thường bổ sung vốn để mở rộng kinh doanh. Nhưng khi phát hành cổ phiếu bổ sung sẽ ảnh hưởng đến quyền sơ hữu đối với công ty của các cổ đông hiện hữu. Nghĩa là quyền sở hữu, quyền kiểm soát đối với công ty của cổ đông hiện hành bị “pha loãng”. Để khắc phục nhược điểm này, công ty cổ phần đã cho phép các cổ đông hiện hành được hưởng quyền ưu tiên: quyền được mua trước cổ phiếu thường mới phát hành với giá thấp hơn giá thị trường và với số lượng tỉ lệ với cổ phần mà cổ đông đang nắm giữ.Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần hát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu thường bổ sung và được phát hành cho cổ đông hiện hành, sau đó chúng có thể được đem ra giao dịch Mỗi cổ phần thường đang lưu hành được xác định có một quyền mua. Số lượng quyền cần thiết để mua một cổ phiếu thường mới sẽ được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành. Các công ty thường xác định số lượng quyền cần Nếu các cổ đông thực hiện quyền mua cổ hiếu mới sẽ duy trì được tỉ lệ sở hữu với công ty. để mua cổ phiếu mới như sau: số lượng cổ phiếu cũ đang lưu hành Số lượng quyền cần để mua 1 cổ phiếu mới = số lượng cổ phiếu mới phát hành Trong đó : mức vốn cần huy động Số lượng cổ phiếu mới phát hành = giá ghi bán một cổ phiếu Nếu không thực hiện quyền mua cổ phiếu mới thỉ họ có thể bán quyển đó trên thị trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền mua có thể tăng hoặc giảm trong thời gian chào bán, tuỳ thuộc vào giá thị trường của cổ phiếu. + Chứng quyền Chứng quyền (Warrants) là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, trong đó xác nhận quyền được mua một số cổ phiếu theo những điều kiện nhất định. Thông thường chứng quyền được phát hành cùng với đợt phát hành các trái phiếu hay cổ phiếu ưu dãi để giúp cho việc chào bán lần đầu các chứng khoán này trở nên hấp dẫn hơn. Chằng hạn, một công ty có thể phát hành dưới hình thức thông thương, có chứng quyền được phát hành nhằm giúp cho việc chào bán trái hiếu hấp dẫn hơn. Nếu công ty có chiều hướng phát triển tốt, thì chứng quyền sẽ hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư. Chứng quyền cho phép người nắm được mua cổ phiếu thường với một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định. Giá định trước trên chứng quyền cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường và chứng quyền có thời hạn dài hơn quyền mua cổ phiếu. Ví dụ: Công ty cổ phần X có cổ phiếu thường đang lưu hành trên thị trường với giá 30.000 đồng mỗi cổ phiếu vào ngày 29/09 năm N, tại thời điểm này công ty phát hành chứng quyền cho phép nguời sở hữu nó được quyền mua cổ phiếu thường với giá 35.000 đồng
- mỗi cổ phiếu vào bất cứ thời điểm nào cho đến ngày 31/12 năm N+1.Công ty x có triển vọng phát triển tốt và công chúng cho rằng các cổ phiếu thường không chỉ đạt tới giá 35.000 đồng mỗi cổ phiếu vào năm N+1 mà còn có thể mua bán trên mức giá đó thì chứng quyền sẽ hấp dẫn các nhà đẩu tư. Chứng quyền có thể được giao dịh tách biệt hoặc kèm theo với chứng khoán gốc của chứng quyền đó.Nếu giá thị trường thường của cổ phiếu thường cao hơn múc giá được quyền mua của chứng quyền thì chứng quyền sẽ có giá trị, còn ngược lại chứng quyền sẽ không có giá tri Giá trị của chứng quyền được quyết định bởi giá trị nội tại và độ dài thời hạn của chứng quyền. Nhìn chung, thời gian cho tới khi hết hạn càng dài thì giá trị của chứng quyền càng cao.Tuy nhiên, nếu giá trị của 1 cổ phiếu thấp hơn mức giá thực hiên, nhưng thời hạn còn lại của chứng quyền là dài thỉ giá trị thời gian sẽ gáp phần đáng kể vào giá trị thị trường của chứng quyền. Về cơ bản, các giá chứng quyền sẽ có xu hướng tăng trong một thị trường giá tăng lên và giảm trong một thị trường giá xuống thấp. + Hợp đồng kỳ hạn Hợp đòng kỳ hạn là 1 thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện 1 giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại 1 thời điềm xác định trong tương lai với 1 mức giá được ấn định vào ngày hôm nay Điểm khác biệt giữa 1 hợp đồng kỳ hạn và giao dịch ngay là thời điểm thanh toán giao dịch. Trong phần lớn các giao dịch giao nay, hàng hoá được trao đổi và việc thanh toán được tiến hành ngay lập tức(nếu trả bằng tiền mặt) hoặc trong vòng 2 ngảy giao dịch kể từ khi ký hợp đồng đói với hợp đồng kỳ hạn, thời hạn kết thúc giao dịch được để lùi lại 1 khoảng thời gian trong tương lai. Các hợp đồng kỳ hạn xác định 1 ngày thanh toán cụ thể hoặc 1 thời điểm tiến hành giao dịch trên thực tế. Khi ngày thanh toán tới, người mua phải trả tiền dể mua hành hoá tại mức giá thoả thuận ban dầu và người bán chuyển giao hàng với số lượng ấn định ban đầu Trong hợp đồng kỳ hạn chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên thoả thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính cá nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng có sự thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua hoặc bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết được mức giá thấp hơn (đối với bên bán) hoặc cao hơn (đối với bên mua) giá thị trường Như vậy,bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, ca hai bên đều giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay đổi giá cả trên thị trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ gia tăng lên khi một trong hai bên không thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì giá cả đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên rất có thể không chính xác + Hợp đồng tương lai Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán của loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai. Trước kia, loại hợp đồng này sứ dụng chủ yếu trong giao dịch hàng hoá, đến nay các hợp đồng chứng khoán tương lai được tiêu chuẩn hoá theo lô và đua vào sứ dụng rộng rãi tại nhiều sở giao dịch
- chứng khoán. Các hợp đồng tương lai liên quan đến hàng hoá nông sản như ngũ cốc, gia súc, thực phẩm nhập khẩu (cà phê, cao su ) hay các hàng công nghiệp được giao dịch gọi chung là các hợp đồng tương lai hàng hoá. Các hợp đồng tương lai dựa trên một công cụ tài chính hay một chỉ số tài chính được gọi là hợp đồng tương lai tài chính Về cơ bản, đối với việc mua và bán trong tương lai cần phải chú ý rằng: khi người mua một hợp đồng tương lai, người đó đang ở trạng thái “dư thừa” . Để làm như vậy người mua chỉ cần đồng ý nhận hàng, thanh toán đầy đủ một số tiền xác định và mẫu hàng nhất định được giao cho người mua tại thời điểm xác định trong một tháng nào đó được xác định trong tương lai. Ngược lai, khi người đó bán một hợp đồng tương lai, người đó đang ở trạng thái “ thiếu hụt “ người đó đang chấp nhận giao một số lượng hàng nhất định và một mẫu hàng xác định tại một thời điêmt nhất định trong một tháng nào đó trong tương lai, vào thời điểm đó người bán sẽ được thanh toán đầy đủ Các điều khoản và điều kiện của hợp đồng tương lai được thống nhất vể số lượng, chất lượng phải giao, địa điểm giao hạn và nhiều quy định cụ thể khác. Tất cả được xác định trước và được quy định cụ thể theo các nguyên tắc giao dịch. Nếu một hợp đồng tương lai được thảo thuận, người mua và người bán cần phải quyết định tháng giao hàng, số liệu trên hợp đồng và giá cả. Giá cả trên hợp đồng là giá cả thoả thuận giữa người mua và người bán bằng đấu giá công khai trong phong giao dịch của Sở gia dịch các hợp đồng tương lai có tổ chức Các hợp đồng tương la dược thực hiện thông qua giao hàng hoặc bù đắp (hay được thanh lý) . Thực hiện bằng giao hàng có nghĩa là ạn phải hoặc là nhận hoặc là giao hàng theo như hợp đồng đã ký. Tuy nhiên, số các hợp đồng tương lai được thực hiện băng giao hàng là rất ít, còn hầu hết chúng được thanh lý ( bù đắp) trước tháng giao hàng. Cho dù có hợp đồng nhưng việc giao hàng không nhất thiết phải được thực hiện. Các thành viên tham gia thị trường này không phải giao hoặc nhận hàng trừ khi họ có khả năng hoặc mong muốn thực hiện điều đó. Người chủ một hợp đồng dù là người mua hay người bán có quyền lựa chọn việc bù đặp hợp đồng. Việc bù đắp hợp đồng được thực hiện bằng cách bán hoặc mua một hợp đồng có cùng số lượng trong cùng tháng giao hàng đó. Chẳng hạn, một nhà đẩu tư đã mua, giả sử một hợp đông chỉ số cổ phiếu X, có thể bù đắp hợp đồng này bằng việc bán một hợp đồng khác vào cùng tháng giao hàng. Tương tự, một người đã bán một hợp đồng có thể bù đắp hợp đồng đó bằng một hợp đòng khác có cùng số lượng và cùng tháng giao hàng. Nói khác đi, một trạng thái này có thể bù đắp trạng thái kia và chênh lệch giữa giá của hai giao dịc thể hiện khoản lợi nhuận hoặc lỗ của nhà đầu tư + Quyền lựa chọn (hay quyền chọn) Là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn quyền mua và quyền bán một số lượng chứng khoán được xác định trước trong một khoản thời gian nhất định và một mức giá đã được xác định trước. Quyền lựa chọn là một bản hợp đồng mang tính thoả thuận nhưng rành buộc về mặt pháp lý, trong đó có ba bên tham gia: Bên thứ nhất : người mua quyền lựa chọn (người chủ ) trả một khoản tiền mua quyền để được thực hiện một giao dịch loại chứng khoán nào đó với số lượng và giá cả đã ấn định trong một thời hạn nhất định
- Bên thứ hai : người viết quyền lựa chọn đồng thời là người bán quyến ( gọi là người thụ trái ) thu một khoản tiền từ người mua để có nghĩa vụ thực hiện giao dịch đã nêu trong hợp đồng Bên thứ ba : cơ quan quản lý , dảm bảo cho giao dịch trong hợp đồng sẽ được thực hiện đúng Một quyền lựa chon có những đặc điểm cơ bản sau : Loại quyền: Quyền lụa chọn bao gồm quyền chọn mua và quyền chọn bán. Quyền chọn mua là một hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên cho bên kia được quyền mua một khối lượng nhát định hàng hoá tại một mức giá xác định trong một thời gian nhất định. Người mua quyền chọn mua phải trả cho ngưoif bán một khoản tiền gọi là tiền cược thuận hay trị giá quyền chọn mua. Quyền chọn bán là hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên cho bên kia được quyền bán một số lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định trong một thời hạn nhất định. Người mua quyền chọn bán phải trả cho người bán quyền một khoản tiền được gọi là giá quyền hoặc phí quyền Tên hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua hoặc được bán theo quyền: Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, hợp đồng tương lai Ngày hết hạn: Ngày mà sau đó quyền hết giá trị gọi là ngày hết hạn. Quyền lựa chọn kiểu Mỹ có thể thực hiện bất kỳ lúc nào trong hạn định. Quyền lựa chọn kiểu chau Âu chỉ có thể thực hiện vào cuối hạn định Giá thực hiện: Mức giá mà tại đó công cụ này có thể được mua hoặc bán gọi là mức giá thực hiện quyền. Mức giá liên quan tới một quyền lựa chọn là mức giá thị trường hiện hành của hàng hoá cơ sở, giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền và giá của bản thân quyền lựa chon. Các bộ phận cấu thành nên giá quyền bao gồm giá trị nội tại và giá trị thời gian của quyền : Giá nội tại của quyển : Giá trị nội tại của một quyền lựa chọn là giá trị mà người nắm giữ quyền lụa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện quyền ngay lập tức do người mua quyền không bắt buộc phải thực hiện quyền và trong thực tế họ sẽ không làm điều đó nếu như không thu được hiệu quả kinh tế nào từ việc thực hiện quyền nên giá trị nội tại của một quyền thấp nhất sẽ bằng 0. Đối với một quyền lựa chọn mua, nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá cỉa chứng khoán cơ sở, quyền lựa chọn mua đó được coi là lãi. Một quyền lụa cho có mức giá thực hiện ngang bằng với giá hiện hành của chứng khoán cơ sở được coi la hoà vốn, nếu thấp hơn giá hiện hành của chứng khoán bị coi là lỗ. Cả hai loại quyền lỗ và hoà vốn đều có giá trị nội tại bằng 0. Đối với quyền chọn bán thì ngược lại người thực hiện quyền sẽ có lãi nếu giá thực hiện quyền cao hơn giá hiện hành cua chứng khoán cơ sở và sẽ bị lỗ nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của chứng khoán cơ sở. Giá trị thời gian của quyền: Giá trị thời gian của quyền lựa chọn là khoản trội ra của một quyền so với giá trị nội tại của nó. Mức phụ trội cao hơn giá trị nội tại được gọi là giá trị thời gian
- Quyền lựa chọn hết giá trị vào ngày kết thúc thời hạn của nó. Nếu trong thời hạn hiệu lực người chủ hợp đồng thực hiện hợp đồng thì người viết quyền lựa chọn phải có nghĩa vụ thực hiện các điều khoản trong hợp đồng mà khồng được từ chối hoặc trì hoãn vì bất kỳ lý do gì. Nếu không muốn thực hiện quyền, người chủ có thể bán quyền lựa chọn trên thị trường chứng khoán. Vì vậy, quyền lựa chọn cũng được coi là một loại chứng khoán của thị trường chứng khoán. Hiện nay, ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, giao dịch về quyền lựa chọn trên thị trường chứng khoán cũng táp nập như giao dich cổ phiếu và trái phiếu. 1.4.3.2. Phân loại chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng Theo cách thức này chứng khoán được phân thành chứng khoán ghi danh (ghi tên) và chứng khoán vô danh (không ghi tên). Chứng khoán vô danh (giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ không ghi tên chủ sở hữu). Loại chứng khoán này được chuyển nhượng dễ dàng, không cần những thủ tục xác nhận của công ty hoặc cơ quan công chứng. Người mua có trách nhiệm chi trả cho người bán theo giá cả đã được xác định. Chứng khoán ghi danh (giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ có ghi tên chủ sở hữu). Loại chứng khoán này được phép chuyển nhượng nhưng phải tuân theo những qui định pháp lý cụ thể. Nếu muốn chuyển nhượng, người sở hữu phải chứng minh mình là người được phép và có quyền chuyển nhượng (xác nhận chữ ký, chứng minh thư, tên trong danh sách cổ đông). Ví dụ : Cổ phiếu ghi danh và trái phiếu ghi danh là những loại chứng khoán mà tên và những thông tin cần thiết của người sở hữu được ghi trên phần bìa của những chứng khoán này. Qua cách phân loại này chúng ta thấy chứng khoán vô danh được lưu thông dễ dàng hơn chứng khoán ghi danh hoặc đích danh. 1.4.3.3. Phân loại chứng khoán theo thu nhập Tuỳ theo từng loại thu nhập, chứng khoán được chia thành các loại sau : - Chứng khoán có thu nhập cố định. - Chứng khoán có thu nhập biến đổi. - Chứng khoán hỗn hợp. Chứng khoán có thu nhập cố định Chứng khoán có thu nhập cố định là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của nhà phát hành. Nó có thể là chứng khoán vô danh hoặc là chứng khoán đích danh, có thể là tín phiếu, trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Thông thường, việc phát hành các loại chứng khoán có thu cố định phải kèm theo những qui định pháp lý cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Khi phân tích chứng khoán có thu nhập cố định để quyết định đầu tư, thông thường, người ta xét trên hai khía cạnh đó là "khả năng sinh lợi" và "thời hạn thanh toán". Nhờ việc phát hành chứng khoán có thu nhập cố định mà Chính phủ, các tổ chức công cộng (có tư cách pháp nhân), các công ty cổ phần tạo ra được nguồn vốn ổn định. Với loại chứng khoán này, do rủi ro thấp hơn so với chứng khoán có thu nhập biến đổi nên sự thay đổi về giá là thấp hơn, tỷ lệ lợi tức quyết định chủ yếu tới khả năng sinh lời của chứng khoán. Bị ảnh hưởng của rủi ro lãi suất, cả người mua và người bán đều quan tâm tới tỷ lệ lợi tức vào từng thời điểm.
- Đối với chứng khoán có thu nhập cố định, lợi tức thường được trả theo quý, theo kỳ hạn nửa năm, hoặc là một năm. Mỗi loại chứng khoán có qui định thời hạn trả lợi tức khác nhau. Nếu trong khoảng thời gian trả lợi tức có sự thay đổi quyền sở hữu đối với các chứng khoán này thì phần lợi tức sẽ được thanh toán cho người thụ hưởng tuỳ thuộc thời điểm mua bán và thời điểm trả lợi tức theo quy định của pháp luật. Kỳ hạn của các chứng khoán có thu nhập cố định rất khác nhau. Nói chung, tín phiếu có kỳ hạn ngắn (nhỏ hơn hoặc bằng một năm), trái phiếu là trung hạn và dài hạn (2 - 30 năm), cổ phiếu ưu đãi là vô thời hạn. Kỳ hạn này có thể bị thay đổi do hoạt động chuộc lại chứng khoán của nhà phát hành. Chứng khoán có thu nhập biến đổi Cổ phiếu thường đại diện cho loại chứng khoán có thu nhập biến đổi. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức (hay lợi tức cổ phần), nó biến động theo kết quả kinh doanh của công ty. Hình thức khác của loại chứng khoán này là phiếu tham gia hay chứng chỉ đầu tư. Loại này khác với cổ phiếu thông thường ở chỗ, nó không được quyền tham gia giám sát hoạt động của công ty. Khi phát hành chứng chỉ đầu tư, công ty có thể huy động được vốn vô thời hạn, không chịu rủi ro về chi trả lợi tức cố định như cổ phiếu ưu đãi hay trái phiếu, song không bị pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông. Hình thức hỗn hợp của chứng khoán Hình thức hỗn hợp của chứng khoán vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập cố định, vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập biến đổi. Việc phát hành loại chứng khoán này nhằm để thích ứng với nhu cầu đặc biệt của thị trường vốn. Chứng khoán hỗn hợp có những loại chủ yếu sau : Trái phiếu công ty có khả năng chuyển đổi: Loại trái phiếu này cũng có một mức lãi suất cố định, ngoài ra nó còn bảo đảm cho người sở hữu quyền đổi trái phiếu thành cổ phiếu trong một thời hạn với những điều kiện đã xác định. Giá trị của quyền chuyển đổi không chỉ phụ thuộc vào điều kiện chuyển đổi mà còn phụ thuộc vào chất lượng cổ phiếu của công ty. Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu: Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu tương tự như trái phiếu nói chung nhưng ngoài khoản lợi tức cố định được nhận, nó còn có quyền được mua một số lượng cổ phiếu nhất định của công ty đang phát hành với một tỷ lệ và thời hạn ưu đãi như đối với các cổ đông thực thụ. Loại trái khoán này có một "chứng chỉ quyền mua" riêng rẽ tách khỏi khoản vay. Về nguyên tắc "chứng chỉ quyền mua" được tách ra sau khi phát hành chứng khoán sau một thời gian và được lưu thông độc lập trên thị trường. Trái phiếu có thu nhập bổ sung: Loại chứng khoán này đảm bảo một khoản lợi tức cố định nhưng người sở hữu có thể nhận được một khoản thu nhập bổ sung theo sự dao động tăng của cổ tức mà các cổ đông được hưởng. 1.4.3.4. Phân loại chứng khoán theo chủ thể phát hành Căn cứ vào chủ thể phát hành có thể phân loại thành ba nhóm lớn: Chứng khoán chính phủ và chính quyền địa phương Là các chứng khoán do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành. Các chứng khoán này thường là các trái phiếu được chính phủ hoặc chính quyền địa phương đảm bảo thanh toán tiền gốc và tiền lãi. Chứng khoán doanh nghiệp
- Là các chứng khoán do doanh nghiệp phát hành bao gồm cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp. Chứng khoán của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng Là các chứng khoán do các ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng phát hành nhằm phục vụ các hoạt động nghiệp vụ của mình. Các chứng khoán này thường là trái phiếu, cổ phiếu hay một số hình thức khác. 1.5. Cấu trúc, mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 1.5.1. Cấu trúc của thị trường chứng khoán Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem xét ba cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn. Các phân tích sau đây sẽ thể hiện từng cách thức phân loại đó. a. Phân loại theo hàng hoá Theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, người ta có thể phân thị trường chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ dẫn suất. Thị trường trái phiếu (Bond Markets) là thị trường mà hàng hoá được mua bán tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài hạn. Khác với thị trường nợ, thị trường cổ phiếu (Stock Markets) là nơi giao dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu có thời gian đáo hạn là không xác định. Thị trường các công cụ dẫn suất (Derivative Markets) là nơi các chứng khoán phái sinh được mua và bán. Tiêu biểu cho các công cụ này là hợp đồng tương lai (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn (Options). Thị trường này ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính. Nó cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý tưởng cho các nhà đầu tư. b. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market) là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
- Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội. Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên các giác độ sau: Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã phát hành. Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn, thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc huy động và sử dụng vốn. Việc tăng tính lỏng của tài sản sẽ tạo điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý, làm cơ sở cho việc tăng hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Việc tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn hạn sang trung hạn và dài hạn, đồng thời, tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả. Sự di chuyển vốn đầu tư trong nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế "bàn tay vô hình", cơ chế xác định giá chứng khoán và thông qua hoạt động thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp. Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty. Thứ ba, thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Thông qua cơ chế bàn tay vô hình, vốn sẽ được chuyển tới những công ty nào làm ăn có hiệu quả cao nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội. Tóm lại, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp sẽ không có thị trường thứ cấp, đồng thời, thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn. c. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường Thị trường chứng khoán có thể được tổ chức theo hai cách sau: Cách thứ nhất là tổ chức thành các Sở giao dịch (Stock Exchange), tại đây, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Chính vì vậy, người ta còn gọi Sở giao dịch chứng khoán là thị trường tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán. Những thị trường chứng khoán tập trung tiêu biểu được biết đến là Sở giao dịch chứng khoán Luân đôn (London Stock Exchange), Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American Stock Exchange), Sở giao dịch chứng khoán Pari (Paris Stock Exchange).
- Cách thứ hai, khác với thị trường tập trung, thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC: Over -The – Counter Market) là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường (Market Makers). Các nhà buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như các nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. ở thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại tất cả các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với thị trường Sở giao dịch. Ngoài hai loại thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC. Ngoài ra, người ta còn phân loại thị trường chứng khoán thành thị trường mở và thị trường đàm phán, thị trường giao ngay (Spot Markets) và thị trường kỳ hạn (Future Markets). Việc phân loại thị trường chứng khoán sẽ giúp phân tích cụ thể hơn vai trò của thị trường chứng khoán. 1.5.2. Mục tiêu của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán luôn hướng tới những mục tiêu nhất định. Nhìn chung có ba mục tiêu cơ bản được đặt ra đối với thị trường chứng khoán ở các nươc, đó là: hoạt động hiệu quả, điều hành công bằng và phát triển ổn định. 1.5.2.1. Hoạt động có hiệu quả Một thị trường chứng khoán có hiệu quả là một thị trường có tính hiệu quả về mặt thông tin và cơ chế giao dịch. Để đạt được điều này thị trường chứng khoán cần phải đảm bảo: Giá cả được hình thành trên thị trường phải là giá cân bằng giữa cung và cầu và phải phản ánh được tức thời các thông tin có liên quan có thể ảnh hưởng tới giá cả. Điều quan trọng nhất là phải thiết lập được một cơ chế giao dịch nhạy bén có khả năng xác định giá cả thị trưởng của các chứng khoán một cách chính xác nhất. Cơ chế và thủ tục giao dịch chứng khoán cần phải được tiêu chuẩn hóa để có thể thực hiện được một số lượng lớn các giao dịch một cách thông suốt. Thị trường chứng khoán phải đảm tính thanh khoản cao giúp cho các nhà đầu tư có thể mua và bán chứng khoán bất kỳ lúc nào họ muốn. Chi phí giao dịch trên thị trường phải được tối thiểu hóa, đảm bảo những lợi ích thu được từ đầu tư vào chứng khoán không bị chi phí giao dịch ăn mòn. Muốn vậy, hệ thống giao dịch chứng khoán phải được tổ chức sao cho tiết kiệm nhất về mặt chi phí. Thị trường chứng khoán phải được tổ chức một cách thuận tiện cho những người sử dụng, có như vậy mới thu hút được nhiều người đầu tư tham gia vào thị trường. 1.5.2.2. Điều hành công bằng Điều hành công bằng thị trường chứng khoán là việc đảm bảo sự bình đẳng giữa những người tham gia vào thị trường. Muốn thực hiện điều hành công bằng thị trường chứng khoán cần đảm bảo: Các cơ quan điều hành thị trường chứng khoán phải xác lập các quy chế đảm bào sự cạnh tranh tự do, bình đẳng trên thị trường. Các nhà đầu tư và các tổ chức có
- liên quan đến chứng khoán được tự do tham gia và rút khỏi thị trường. Mọi giao dịch không bình đẳng như giao dịch tay trong đều bị nghiêm cấm. Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư thông qua việc duy trì thị trường hoạt động lành mạnh, chống lại các trường hợp lũng đoạn thị trường, bóp méo giá thiệt hại cho nhà đầu tư. 1.5.2.3. Phát triển ổn định thị trường chứng khoán Để đảm bảo thị trường phát triển ổn định và lành mạnh cần chú trọng phát hiện và loại trừ các khả năng xảy ra khủng hoảng thị trường do mất khả năng thanh khoản hoặc do biến động của giá cả quá lớn. Trên thị trường chứng khoán, do nhiều người mua không biết rõ về người bán và khả năng thanh toán của họ, nên có thể có lúc một vài chứng khoán mất khả năng thanh khoản sẽ làm cho nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường, dẫn tới phản ứng dây chuyền và gây ra khủng hoảng của toàn bộ thị trường. Để giải quyết được vấn đề này cần có một cơ chế giao dịch đảm bảo thông suốt, thành lập các tổ chức tài trợ chứng khoán hỗ trợ thị trường nhằm ngăn ngừa khả năng mất thanh khoản đối với các chứng khoán của các công ty vẫn hoạt động tốt. Các biến động lớn về giá cả chứng khoán xảy ra khi cung và cầu tạm thời không cân bằng. Sự biến động quá mức của giá cả chứng khoán gây ra nỗi lo sợ cho các nhà đầu tư và cản trở sự hoạt động của thị trường. Để khắc phục những trường hợp này, cần có các công cụ nhằm thực hiện ổn định giá cả trên thị trường chứng khoán như thông qua hoạt động của các công ty hỗ trợ thị trường và việc đưa ra các giới hạn về thay đổi giá trong ngày tại sở giao dịch. 1.5.3. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán Để đạt được những mục tiêu trên, thị trường chứng khoán phải hoạt động dựa trên những nguyên tắc nhất định. Nhìn chung có một số nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán như sau: 1.5.3.1. Nguyên tắc cạnh tranh tự do Thị trường chứng khoán phải hoạt động trên cơ sở cạnh tranh tự do. Các nhà phát hành, nhà đầu tư tự do tham gia và rút khỏi thị trường. Giá cả trên thị trường phản ánh mối quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn chứng khoán mà họ muốn đầu tư vào. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một mức lợi nhuận cao nhất. 1.5.3.2. Nguyên tắc công khai Chứng khoán là hàng hóa trừu tượng – hàng hóa vốn, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hóa thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy, để đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và công bằng thì các tin tức có tác động đến sự thay đổi giá cả của chứng khoán cần phải công khai cung cấp cho các nhà đầu tư nhằm tạo cho họ có cơ hội đầu tư như nhau, đồng thời là biện pháp quan trọng để ngăn chặn các hành vi gian lận trong kinh doanh chứng khoán, lũng đoạn thị trường. Các
- thông tin được công khai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. 1.5.3.3. Nguyên tắc trung gian mua bán Trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian để đảm bảo cho các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và hợp pháp, tránh sự giả mạo, lừa đảo trong giao dịch. Các công ty chứng khoán, bằng việc thực hiện các nghiệp vụ của mình đảm nhận vai trò trung gian cho cung và cầu chứng khoán gặp nhau. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua bán chứng khoán giúp các nhà đầu tư hoặc kết nối các nhà đầu tư với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. 1.6. Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành 3 nhóm sau: chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. 1.6.1. Chủ thể phát hành Chủ thể phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hóa của thị trường chứng khoán. Các chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác như: các Quỹ đầu tư; tổ chức tài chính trung gian Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các chứng khoán: Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu địa phương; Trái phiếu công trình; Tín phiếu kho bạc. Công ty là chủ thể phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ hưởng thụ phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với đặc thù hoạt động của họ theo Luật định. 1.6.2. Nhà đầu tư Chủ thể đầu tư là những người có tiền, thực hiện việc mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. Các nhà đầu tư cá nhân Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong đầu tư thì lợi nhuận lại luôn gắn với rủi ro, kỳ vọng lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro phải càng lớn và ngược lại. Chính vì vậy các nhà đầu tư cá nhân luôn phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng cũng như mức độ chấp nhận rủi ro của mình. Các nhà đầu tư có tổ chức Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên thị trường chứng khoán là các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty
- đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ, các quỹ lương hưu và các quỹ bảo hiểm xã hội khác. Đầu tư thông qua các tổ chức đầu tư có ưu điểm là có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có chuyên môn và có kinh nghiệm. 1.6.3. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 1.6.3.1. Cơ quan quản lý và giám sát hoạt động TTCK Lịch sử hình thành và phát triển TTCK đã cho thấy, đầu tiên thị trường chứng khoán hình thành một cách tự phát khi có sự xuất hiện của cổ phiếu và trái phiếu và hầu như chưa có sự quản lý. Nhưng nhận thấy cần có sự bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư và đảm bảo sự hoạt động của thị trường được thông suốt, ổn định và an toàn, bản thân các nhà kinh doanh chứng khoán và các quốc gia có thị trường chứng khoán hoạt động cho rằng cần phải có cơ quan quản lý và giám sát về hoạt động phát hành và kinh doanh chứng khoán. Chính vì vậy, cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán đã ra đời. Cơ quan quản lý và giám sát thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình tổ chức hoạt động khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực thuộc Chính phủ, nhưng có nước lại có sự kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và Nhà nước. Nhưng tựu chung lại, cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK do Chính phủ của các nước thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, an toàn và phát triển bền vững Cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK có thể có những tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc từng nước và nó được thành lập để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Tại Trung Quốc, ban đầu Ngân hàng nhân dân Trung Quốc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của TTCK. Cùng phối hợp thực hiện chức năng quản lý với Ngân hàng nhân dân còn có cơ quan Hội đồng Nhà nước trong lĩnh vực cổ phần hóa các doanh nghiệp. Do không nằm cùng trong một tổ chức độc lập nên việc quản lý thị trường không được chặt chẽ, kém hiệu quả. Ngày 29/12/1998, Luật chứng khoán Trung Quốc được thông qua đã tập trung việc giám sát, quản lý TTCK vào một cơ quan duy nhất đó là Uỷ ban giám quản chứng khoán của Quốc vụ viện Trung Quốc. Tại Anh cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK là Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB – Securities Investment Board). Uỷ ban này là một tổ chức được thừa nhận trong đạo luật về các dịch vụ tài chính ban hành năm 1986. Tại Mỹ, Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán (SEC – Securities anh Exchange Commision) là một cơ quan của liên bang có tư cách pháp lý thực hiện việc quản lý thị trường chứng khoán. Tất cả các tổ chức hoạt động trong ngành chứng khoán đều phải đăng ký, báo cáo và chịu sự kiểm tra, giám sát của Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán. Tại Nhật Bản, năm 1992, Uỷ ban giám sát chứng khoán và giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange Surveillance Commission) được thành lập, năm 1998 đã đổi tên thành Financial Supervision Agency (FSA) với chức năng cơ bản là tiến hành điều tra và xử lý các giao dịch gian lận trên thị trường chứng khoán. Các chức năng quản lý thị trường chứng khoán chung do Tổng cục chứng khoán thuộc Bộ Tài chính Nhật Bản đảm nhiệm. Tại Hàn Quốc, quản lý Nhà nước về TTCK có Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán (SEC - Securities Exchange Commission) và Uỷ ban giám sát chứng
- khoán (SSB - Securities Supervise Board) (từ năm 1998 đổi tên thành Financial Supervision Commision) được đặt dưới sự quản lý của Bộ Kinh tế - Tài chính. Ban giám sát chứng khoán là cơ quan chấp hành của Uỷ ban Chứng khoán và giao dịch chứng khoán thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Từ những kinh nghiệm học tập được ở những nước có thị trường chứng khoán phát triển, với sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế, Việt Nam đã thành lập cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và TTCK trước khi ra đời thị trường chứng khoán Việt Nam, đó là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, thành lập theo Nghị định số 75 CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ. Theo đó, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước là một cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 1.6.3.2. Sở giao dịch chứng khoán Sở giao dịch chứng khoán thực hiện vận hành TTCK thông qua bộ máy tổ chức và hệ thống các quy định, văn bản pháp luật về giao dịch chứng khoán trên cơ sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán. 1.6.3.3. Công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian đặc biệt, thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán như: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. 1.6.3.4. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là tổ chức tự quản của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các thành viên và các nhà đầu tư trên thị trường. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức tự quản, thực hiện một số chức năng chính như sau: - Đào tạo, nghiên cứu trong lĩnh vực chứng khoán. - Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán - Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành. - Giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên. - Tiêu chuẩn hóa các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán - Hợp tác với Chính phủ và các cơ quan khác để giải quyết các vấn đề có tác động đến hoạt động kinh doanh chứng khoán. 1.6.3.5. Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán Là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán. Các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán đáp ứng đủ các điều kiện của Uỷ ban chứng khoán sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
- 1.6.3.6. Các tổ chức hỗ trợ Là các tổ chức được thành lập với mục đích khuyến khích mở rộng và tăng trưởng của thị trường chứng khoán thông qua các hoạt động như: cho vay tiền để mua cổ phiếu và cho vay chứng khoán để bán trong các giao dịch bảo chứng. Các tổ chức hỗ trợ chứng khoán ở các nước khác nhau có đặc điểm khác nhau, có một số nước không cho phép thành lập các loại hình tổ chức này. 1.6.3.7. Các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và tiềm lực tài chính của tổ chức phát hành (TCPH) theo những điều khoản đã cam kết của TCPH đối với một đợt phát hành cụ thể. Hệ số tín nhiệm được biểu hiện bằng các chữ cái hay chữ số, tuỳ theo quy định của từng công ty xếp hạng. Ví dụ, hệ thống xếp hạng Moody,s sẽ có các hệ só tín nhiệm được ký hiệu là aaa, aa1, Baa1, hay B1 ; hệ thống xếp hạng của S&P, có các mức xếp hạng AAA, AA+, AA, AA-, A+, A Các nhà đầu tư có thể dựa vào các hệ số tín nhiệm về TCPH do các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm cung cấp để cân nhắc đưa ra quyết định đầu tư của mình. Các công ty đánh giá (xếp hạng) hệ số tín nhiệm có vai trò quan trọng trong việc phát hành các chứng khoán, đặc biệt là phát hành các chứng khoán quốc tế. 1.7. HƯỚNG DẪN HỌC TẬP Tóm tắt chương 1. Thị trường tài chính là nơi dẫn chuyển vốn từ những người có vốn sang những người cần vốn. Do đó, thị trường tài chính có những chức năng sau: huy động và dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn, xác định giá cả của các tài sản tài chính, tạo tính thanh khoản cho tài sản tài chính, giảm thiểu chi phí cho các chủ thể tham gia trên thị trường, khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh và ổn định, điều hoà lưu thông tiền tệ. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại thị trường tài chính thành các thị trường bộ phận: thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần, thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Các bộ phận của thị trường tài chính có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời. Mối quan hệ của chúng được hình thành từ các luồng chu chuyển về vốn giữa các bộ phận, biến động trên thị trường này sẽ tạo ra các luồng vốn chu chuyển, từ đó tác động đến quan hệ cung cầu, làm thay đổi những chỉ số phản ánh hoạt động của thị trường khác. Để thực hiện được các chức năng của mình, thị trường tài chính sử dụng các công cụ trên thị trường tiền tệ (tín phiếu kho bạc, giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng, thương phiếu) và các công cụ trên thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản cho vay dài hạn. 2. Thị trường chứng khoán ra đời đầu tiên vào thế kỷ XV tại Bỉ, sau đó đã xuất hiện tại các nước châu Âu, châu Mỹ, châu Á Cho đến nay, thị trường chứng khoán đã có mặt ở hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan của nền kinh tế. Năm 2000, trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức khai trương và đưa
- vào hoạt động, đánh dấu một mốc quan trọng của thị trường chứng khoán Việt Nam sau quá trình chuẩn bị lâu dài từ năm 1963. Năm 2005, trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội khai trương và đưa vào hoạt động. Cho đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước hoàn thiện và phát triển cả về số lượng và chất lượng. 3. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán có những đặc điểm sau: thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp; thị trường chứng khoán là thị trường gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo; thị trường chứng khoán là một thị trường hoạt động liên tục. Các chức năng của thị trường chứng khoán gồm có: huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng khoán, đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. 4. Để thực hiện các chức năng của mình, thị trường chứng khoán sử dụng các công cụ hay còn gọi là các chứng khoán. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Chứng khoán có ba đặc điểm sau: tính thanh khoản, tính rủi ro, tính sinh lợi. Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể phân loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Chứng khoán được chia theo bốn tiêu thức chủ yếu, đó là theo tính chất của chứng khoán, theo khả năng chuyển nhượng, theo khả năng thu nhập và theo chủ thể phát hành. Nếu phân loại chứng khoán theo tính chất gồm có chứng khoán vốn, chứng khoán nợ và chứng khoán phái sinh. Nếu phân loại chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng gồm có chứng khoán vô danh và chứng khoán ghi danh. Nếu phân loại chứng khoán theo thu nhập gồm có chứng khoán có thu nhập cố định, chứng khoán có thu nhập biến đổi và chứng khoán hỗn hợp. Nếu phân loại chứng khoán theo chủ thể phát hành gồm có chứng khoán chính phủ và chính quyền địa phương, chứng khoán doanh nghiệp, chứng khoán của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. 5. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem xét ba cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn. Nếu phân loại theo hàng hoá thì TTCK gồm có thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ dẫn suất. Nếu phân loại theo quá trình luân chuyển vốn gồm có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Nếu phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường gồm có thị trường chứng khoán tập trung và thị trường chứng khoán phi tập trung Mục tiêu của thị trường chứng khoán là hoạt động có hiệu quả, điều hành công bằng và phát triển ổn định thị trường chứng khoán Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là cạnh tranh tự do, công khai và trung gian mua bán.
- 6. Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán gồm có chủ thể phát hành, nhà đầu tư, các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán bao gồm cơ quan quản lý và giám sát hoạt động TTCK; sở giao dịch chứng khoán; công ty chứng khoán; hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán; tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán; các tổ chức hỗ trợ; các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm Hệ thống câu hỏi và bài tập 1. Trình bày các chức năng cơ bản của thị trường tài chính. Liên hệ thực tiễn thị trường tài chính Việt Nam? 2. Phân tích các đặc điểm của các công cụ trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam? 3. Tìm hiểu các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam? 4. Một số nhà kinh tế cho rằng: một trong những lý do làm cho các nền kinh tế ở các nước đang phát triển tăng trưởng chậm là do thị trường tài chính chưa mở cửa một cách đầy đủ. Anh (Chị) hãy bình luận về quan điểm trên? 5. Phân tích cấu trúc của thị trường chứng khoán. Từ đó đưa ra các bình luận về quá trình xây dựng và phát triển TTCK ở Việt Nam hiện nay. 6. Chức năng của thị trường chứng khoán? Phân tích các cơ sở khoa học của việc hình thành TTCK ở Việt Nam hiện nay. 7. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán? Liên hệ với thực tiễn TTCK Việt Nam hiện nay.
- Chương 2: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN SƠ CẤP Chương 2 gồm các nội dung sau: 2.1. Khái niệm, đặc điểm thị trường chứng khoán sơ cấp 2.2. Những vấn đề cơ bản về cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ 2.3. Phát hành cổ phiếu mới của công ty cổ phần 2.4. Các phương thức phát hành chứng khoán 2.5. Chào bán chứng khoán ra công chúng 2.6. Quản lý nhà nước đối với phát hành chứng khoán 2.7. Hướng dẫn học tập Mục tiêu chung: Giúp học viên nắm được các kiến thức cơ bản về khái niệm, đặc điểm của thị trường chứng khoán sơ cấp, nhận biết các đặc trưng của cổ phiếu, trái phiếu, các phương thức phát hành chứng khoán và sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này. Trên cơ sở đó, học viên có thể vận dụng vào thực tiễn phát hành chứng khoán dưới sự quản lý của các cơ quan Nhà nước. Mục tiêu cụ thể: Cung cấp kiến thức cơ bản cho học viên về: - Khái niệm, đặc điểm của thị trường chứng khoán sơ cấp. - Các hình thức giá trị và phân loại cổ phiếu. - Các đặc trưng, đặc điểm và phân loại trái phiếu. - Khái niệm, đặc điểm chứng chỉ quỹ. - Phát hành cổ phiếu mới có thu tiền và phát hành cổ phiếu mới không thu tiền của công ty cổ phần. - Phát hành chứng khoán riêng lẻ và phát hành chứng khoán ra công chúng. - Điều kiện, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng. - Các phương thức phát hành chứng khoán ra công chúng. - Quản lý nhà nước đối với phát hành chứng khoán. 2.1. Khái niệm, đặc điểm thị trường chứng khoán sơ cấp Thị trường sơ cấp là một bộ phận cấu thành hữu cơ và không thể tách rời của thị trường chứng khoán. Đồng thời, thị trường sơ cấp là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán.Do đó, để phát triển thị trường chứng khoán, trước hết phải tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thị trường sơ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán được phát hành lần đầu hay còn gọi là thị trường phát hành. Do đó có thể nói rằng, thị trường sơ cấp là thị trường phát hành chứng khoán mới. Hoạt động của thị trường sơ cấp tạo ra một kênh huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Ở thị trường sơ cấp người phát hành nhận được tiền từ việc bán chứng khoán. Qua hoạt động của thị trường sơ cấp, những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế, xã hội có thể được chuyển thành vốn đầu tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán. Đồng thời thị trường sơ cấp còn là một kênh phân bổ vốn có hiệu quả. Vị vậy, thị trường sơ cấp không những đóng vai trò tập hợp các nguồn vốn mà còn là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hoạt động của nền kinh tế. Hoạt động của thị trường sơ cấp có thể tóm tắt qua sơ đồ sau: (1) Người phát hành Người đầu tư (2)
- (1):Người phát hành bán chứng khoán cho người đầu tư. (2): Người đầu tư mua chứng khoán và thực hiện trả tiền cho người phát hành. Thị trường sơ cấp có những đặc điểm chủ yếu sau: - Là thị trường hoạt động không liên tục, nó chỉ hoạt động khi có đợt phát hành chứng khoán mới. - Tham gia vào thị trường chứng khoán sơ cấp chủ yếu là các nhà phát hành, các nhà đầu tư. Trong trường hợp phát hành chứng khoán thực hiện theo phương thức bảo lãnh thì có sự tham gia của các nhà bảo lãnh. - Tiền bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp thuộc các nhà phát hành, do đó hoạt động của thị trường sơ cấp đã làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. - Khối lượng và nhịp độ giao dịch ở thị trường sơ cấp thấp hơn nhiều so với thị trường thứ cấp. 2.2. Những vấn đề cơ bản về cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ 2.2.1. Cổ phiếu 2.2.1.1. Các hình thức giá trị của cổ phiếu Lịch sử ra đời cổ phiếu gắn liền với lịch sử hình thành công ty cổ phần. Hay nói cách khác, cổ phiếu chính là sản phẩm riêng có của công ty cổ phần. Khi một công ty được thành lập, vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy xác nhận quyền sở hữu của cổ đông với công ty cổ phần. Quyền sở hữu của cổ đông trong công ty tương ứng với số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Vì vậy, cổ phiếu là loại chứng khoán vốn xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Các hình thức giá trị của cổ phiếu: - Mệnh giá hay còn gọi là giá trị danh nghĩa là giá trị mà Công ty cổ phần ấn định cho một cổ phiếu và được ghi trên cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu thường được sử dụng để ghi sổ sách kế toán của Công ty. Mệnh giá cổ phiếu không có giá trị thức tế đối với người đầu tư khi đã đầu tư nên nó không liên quan đến giá trị thị trường của cổ phiếu đó, hay nói một cách khác là nó không tác động đến giá thị trường của cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu thường chỉ có ý nghĩa quan trọng vào thời điểm Công ty phát hành cổ phiếu thường lần đầu tiên huy động vốn thành lập Công ty. Lúc đó, mệnh giá thể hiện số tiền tối thiểu Công ty phải nhận được trên mỗi cổ phiếu mà công ty phát hành ra. Luật pháp một sô nước còn cho phép Công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu thường không có mệnh giá. Ưu điểm của việc phát hành loại cổ phiếu thường này là có thể bán chúng với bất kỳ giá nào mà họ tin là có thể bán trên thị trường. Tuy nhiên luật pháp ở một số nước cũng cấm các Công ty cổ phần phát hành cổ phiếu thường không có mệnh giá như ở Anh, Hàn Quốc
- - Thị giá cổ phiếu hay còn gọi là giá trị thị trường của cổ phiếu: Giá thị trường là giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu thường, được thể hiện trong giao dịch cuối cùng đã được ghi nhận. giá trị thị trường hay còn được gọi là giá thị trường. Trên thực tế, giá trị thị trường của cổ phiếu không phải do Công ty ấn định và cũng không do người nào khác quyết định, mà giá trị thị trường của cổ phiếu được xác định bởi sự thống nhất mà người bán sẵn sang bán nó và giá cao nhất mà người mua sẵn sàng trả để mua nó. Hay nói một cách khác, giá thị trường của cổ phiếu được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường. Giá trị thị trường cổ phiếu của Công ty phụ thuộc rất nhiều nhân tố, do vậy nó thường xuyên biến động. - Giá trị sổ sách Giá thị sổ sách của cổ phiếu thường là giá trị của cổ phiếu được xác định dựa trên cơ sở số liệu sổ sách kết toán của Công ty(chủ yếu dựa vào bảng cân đối kế toán) Trường hợp công ty chỉ phát hành cổ phiếu thường thì giá trị sổ sách của một cổ phiếu thường được xác định bằng cách lấy vốn chủ sở hữu hoặc tổng giá trị tài sản thuần (phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tổng tài sản với tổng số nợ) của công ty chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành. Trong trường hợp công ty phát hành cả cổ phiếu ưu đãi thì phải lấy tổng giá trị tài sản thuần trừ đi phần giá trị thuộc cổ phiếu ưu đãi được tính theo mệnh giá hoặc giá mua lại tùy thuộc vào loại cổ phiếu ưu đãi công ty phát hành và cộng với phần cổ tức công ty còn khất lại chưa trả cho cổ đông ưu đãi trong các thời kỳ trước nếu có. Xem xét giá trị sổ sách cho phép cổ đông thấy được số giá trị tăng thêm của cổ phiếu thường sau một thời gian Công ty hoạt động so với số vốn góp ban đầu. 2.2.1.2. Các dạng cổ phiếu Thông thường ở các nước khi xem xét cổ phiếu của một công ty cổ phần, người ta có sự phân biệt cổ phiếu được phép phát hành, cổ phiếu đã phát hành, cổ phiếu quỹ, cổ phiếu đang lưu hành. - Cổ phiếu được phép phát hành: khi một công ty cổ phần được thành lập thì được phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn. Nhưng luật pháp của các nước quy định công ty phải đăng ký tổng số cổ phiếu của công ty va phải ghi trong điều lệ công ty và được và được gọi là cổ phiếu được phép phát hành hay cổ phiếu đăng ký. Như vậy, cổ phiếu được phép phát hành là số lượng cổ phiếu tối đa của một công ty có thể phát hành từ lúc bắt đầu thành lập cũng như trong suốt quá trình hoạt động. Trường hợp cần có sự thay đổi số lượng cổ phiếu được phép phát hành thì phải được đa số cổ đông bỏ phiếu tán thành và phải sửa đổi điều lệ công ty. - Cổ phiếu phát hành: là số cổ phiếu của công ty đã phát hành ra người đầu tư, nó nhỏ hơn hoặc tối đa là bằng với số vốn cổ phiếu được phép phát hành. - Cổ phiếu quỹ: là loại cổ phiếu của công ty đã phát hành ra nhưng với những lý do nhất định công ty bỏ tiền ra mua lại một số cổ phiếu của chính công ty mình. Số cổ phiếu này có thể được công ty lưu giữ một thời gian nào đó lại được bán ra, nhưng cũng có nước, luật pháp quy định số cổ phiếu mà công ty đã mua lại không được bán ra mà phải hủy bỏ. Việc vông ty mua lại cổ phiếu của chính công ty mình phải tuân thủ theo những điều quy định của pháp luật. Cổ phiếu quỹ không phải là cổ phiếu đang lưu hành, không có vốn đàng sau nó, do đó không được tham gia vào việc chia lợi cổ tức cổ phần và không có quyền tham gia bỏ phiếu.