Tài chính doanh nghiệp - Chương số 1: Tổng quan về tài chính doanh nghiệp

pdf 53 trang vanle 3010
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài chính doanh nghiệp - Chương số 1: Tổng quan về tài chính doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_chinh_doanh_nghiep_chuong_so_1_tong_quan_ve_tai_chinh_do.pdf

Nội dung text: Tài chính doanh nghiệp - Chương số 1: Tổng quan về tài chính doanh nghiệp

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA VÀ QUAN HỆ DOANH NGHIỆP Ths ĐẶNG THÀNH CƯƠNG (CHỦ BIÊN) – ĐOÀN THỊ NGỌC HÂN Tài chính Doanh nghiệp Vinh, 2011 1
  2. Phân công biên soạn: - Ths ĐẶNG THÀNH CƯƠNG (CHỦ BIÊN) - biên soạn chương 1; chương 4. - ĐOÀN THỊ NGỌC HÂN - Biên soạn chương 2; chương 3. 2
  3. LỜI NÓI ĐẦU Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản nhất về tài chính doanh Doanh nghiệp. Do vậy, giáo trình được biên soạn hết sức cơ bản xuyên suốt từ vai trò của nhà quản lý tài chính, các công cụ tài chính như báo cáo tài chính, giá trị thời gian của tiền, lãi suất, rủi ro đến các quyết định tài chính như quyết định đầu tư vốn, quyết định tài trợ vốn, quyết định phân phối kết quả. Để thuận tiện trong việc giảng dạy và nghiên cứu, cuốn giáo trình được chia thành 4 chương: Chương I: Tổng quan về tài chính Doanh nghiệp Chương II: Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp. Chương III: Chi phí, doanh thu và lợi nhuận của Doanh nghiệp. Chương IV: Đầu tư dài hạn của Doanh nghiệp. Với cách tiếp cận như vậy, tác giả hy vọng rằng cuốn giáo trình này sẽ giúp cho giáo viên, nghiên cứu viên, sinh viên gặp thuận lợi trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu và học tập. Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp là công trình tập thể do các giảng viên của Bộ môn Tài chính Doanh nghiệp thuộc khoa Kinh tế - Đại học Vinh tham gia biên soạn và được phân công như sau: - Thạc sĩ Đặng Thành Cương, chủ biên và viết các chương 1, 4. - Cử nhân Đoàn Thị Ngọc Hân viết các chương 2, 3. Tác giả xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học, cùng tập thể giảng viên của Bộ môn Tài chính Doanh nghiệp, Khoa Kinh tế - Đại học Vinh đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu, góp phần nâng cao chất lượng cuốn giáo trình này. Tác giả 3
  4. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1. VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm Theo Luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp được định nghĩa như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh - Tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. 1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp Theo quy định tại khoản 1, khoản 2, Điều 171 Luật Doanh nghiệp năm 2005, kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2006, Luật Doanh nghiệp sẽ có hiệu lực thi hành. Luật này thay thế Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 166 của Luật này, các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi, bổ sung 1 số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Theo quy định của Luật này, những doanh nghiệp nhà nước được thành lập trước khi Luật này có hiệu lực cần phải được chuyển đổi sang hình thức Công ty cổ phần hoặc Công ty Trách nhiệm hữu hạn, thời hạn chuyển đổi trong vòng 4 năm (bắt đầu từ 1/7/2006 đến 1/7/2010). Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được lựa chọn và đăng ký lại, thời hạn đăng ký trong vòng 2 năm (Theo Luật trước đây chỉ được đăng ký dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, không có hình thức công ty cổ phần. Theo Luật Doanh nghiệp 2005 thì có cả 2). Công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh đã thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 không phải làm thủ tục đăng ký kinh doanh lại. Như vậy, ở nước ta hiện nay nếu căn cứ theo tính chất pháp lý bao gồm có các doanh nghiệp sau: * Công ty cổ phần Là một công ty trong đó các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần để hoạt động. Số vốn điều lệ được chia ra làm nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần. Hoạt động của công ty cổ phần có các đặc điểm sau: Là một thực thể có tư cách pháp nhân, các thành viên góp vốn vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong quá trình hoạt động công ty có quyền phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động thêm vốn. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, tối thiểu là 3, tối đa không giới hạn. 4
  5. Các chủ sở hữu có quyền tự do chuyển nhượng những cổ phần của mình cho người khác và quyền lợi hợp pháp được pháp luật thừa nhận (Như quyền được biểu quyết, quyền được hưởng lợi tức ) Chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên vốn mà đã góp vào công ty. Có 3 loại hình: Công ty cổ phần nội bộ: loại công ty mà cổ phiếu của nó chỉ được phát hành cho các sáng lập viên, công nhân và những người quen thuộc với công ty. Công ty cổ phần đại chúng: loại công ty mà cổ phiếu của nó được phát hành rộng rãi ra công chúng (cổ phiếu lưu hành thông qua thị trường phi chính thức OTC). Công ty cổ phần đại chúng đã niêm yết Chú ý: - Điều kiện phát hành cổ phiếu lần đầu: Vốn điều lệ tại thời điểm đăng ký phát hành cổ phiếu phải lớn hơn hoặc bằng 5 tỷ đồng, hoạt động kinh doanh năm liền trước năm đăng ký phải có lãi, có phương án khả thi từ việc sử dụng số vốn đã huy động được - Điều kiện niêm yết cổ phiếu: Vốn điều lệ từ 5 tỷ trở lên, tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh 2 năm liên tục liền trước đó phải có lãi. - Điều kiện phát hành trái phiếu ra công chúng theo NĐ 144/2003/NĐ- CP: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp nhà nước có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành tối thiểu là 10 tỷ đồng Ưu điểm: Cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn. Thời gian hoạt động không bị giới hạn bởi tuổi thọ của chủ sở hữu Dễ dàng chuyển nhượng quyền sở hữu. Nhược điểm: Việc thành lập đòi hỏi nhiều thủ tục và báo cáo phức tạp hơn so với DNTN và công ty hợp danh. Bị đánh thuế 2 lần (Trả cổ tức bị đánh thuế 1 lần và lợi nhuận sau thuế) Những nhà sáng lập có nguy cơ mất khả năng kiểm soát công ty. * Doanh nghiệp tư nhân Là một đơn vị kinh doanh do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ số tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Trong khuôn khổ của pháp luật chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh. Có thể huy động thêm vốn từ bên ngoài dưới hình thức đi vay nhưng doanh nghiệp không được phép phát hành bất cứ loại chứng khoán nào ra thị trường để tăng thêm vốn. Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình tức là phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Đây cũng chính là điều bất lợi của doanh nghiệp này. Ưu điểm: Thủ tục thành lập đơn giản, dễ dàng. Không đòi hỏi nhiều vốn khi thành lập, lệ thuộc số ít các quy định điều tiết của chính phủ. Chủ doanh nghiệp nhận toàn bộ lợi nhuận kiếm được và có toàn quyền quyết định kinh doanh. Nhược điểm: 5
  6. Chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm cá nhân vô hạn. Hạn chế về kỹ năng và chuyên môn quản lý. Quy mô của loại hình doanh nghiệp này thường nhỏ (phụ thuộc vào khả năng tài chính và vay mượn của chủ doanh nghiệp). Không liên tục hoạt động khi chủ doanh nghiệp qua đời (Đời sống của doanh nghiệp phụ thuộc vào cuộc đời của chủ doanh nghiệp). * Công ty hợp danh Là doanh nghiệp trong đó có ít nhất 2 thành viên hợp danh, ngoài ra còn có thể có thành viên góp vốn. Các thành viên hợp danh là các cá nhân có trình độ chuyên môn, uy tín nghề nghiệp và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của công ty. Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty, nhân danh công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh, liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty, các thành viên góp vốn không được tham gia quản lý công ty song có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp vào công ty. Công ty hợp danh không được quyền phát hành bất kỳ chứng khoán nào để huy động vốn. Ưu điểm: Dễ thành lập, chi phí thấp. Có thể thu hút các thành viên có kỹ năng chuyên môn và quản lý cao. Nhược điểm: Chịu trách nhiệm vô hạn. Khó khăn trong việc huy động vốn lớn và chuyển nhượng quyền sở hữu Chứa đựng nhiều mâu thuẫn tiềm tàng về quyền lực giữa các thành viên. Khó giải quyết khi có mâu thuẫn lợi ích giữa các thành viên. * Công ty trách nhiệm hữu hạn Là một loại công ty do thành viên góp vốn để thành lập và họ cũng chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn góp đã góp vào công ty. Đây cũng là ưu thế của công ty trách nhiệm hữu hạn so với loại hình tư nhân. Thành viên có thể là cá nhân, tổ chức số lượng không vượt quá 50 người. Vốn điều lệ của công ty do các thành viên đóng góp, có thể bằng tiền, bằng tài sản hoặc bằng sở hữu công nghiệp và các phần vốn góp có thể không bằng nhau và trong quá trình hoạt động công ty có thể thực hiện tăng vốn bằng cách kết nạp thêm thành viên mới. Ngoài vốn góp của các thành viên công ty có thể sử dụng các hình thức để huy động vốn từ bên ngoài như vay, phát hành trái phiếu nhưng không được quyền phát hành cổ phiếu. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được thực hiện tự do, còn việc chuyển nhượng phần vốn góp của cho người không phải là thành viên của công ty phải được sự nhất trí của của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất 3/4 số vốn điều lệ công ty. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế do các thành viên quyết định. Việc phân chia lợi nhuận cho các thành viên tuỳ thuộc vào số vốn đóng góp của các thành viên đó. Chú ý: Công ty chịu trách nhiệm hữu hạn thì được phép phát hành chứng khoán để huy động vốn (Công ty trách nhiệm hữu hạn được phát hành trái phiếu nhưng cổ phiếu thì không). Công ty chịu trách nhiệm vô hạn thì không được phép phát hành chứng khoán. 6
  7. * Doanh nghiệp nhà nước ( Là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ) Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối. Được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước được ngân sách nhà nước đầu tư vốn toàn bộ, ngoài số vốn đầu tư doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới hình thức khác, nhưng không được thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp. Việc phân phối lợi nhuận sau thuế được thực hiện theo quy định của chính phủ. Vậy đã có sự thay đổi về quan niệm về bản chất của doanh nghiệp nhà nước đó là: Trước đây doanh nghiệp nhà nước là 1 tổ chức kinh tế mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ và hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công cộng. Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước có thể sở hữu 100% vốn hoặc chỉ chiếm vốn cổ phần hoặc vốn góp chi phối. Hình thức tổ chức có thể là công ty Nhà nước, công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiêm hữu hạn. Doanh nghiệp nhà nước có các loại hình sau: + Công ty Nhà nước: là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, Nhà nước thành lập, tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo luật doanh nghiệp. + Công ty cổ phần Nhà nước: là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty Nhà nước hoặc tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn, hoạt động theo luật doanh nghiệp. + Công ty trách nhiêm hữu hạn Nhà nước 1 thành viên là công ty trách nhiêm hữu hạn do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước hình thành do một số tổ chức, doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước lập nên (Ví dụ: bộ đội có các sở sản xuất, trường học có nhà trẻ ), hoạt động và hạch toán phụ thuộc, được gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên. + Công ty trách nhiệm hữu hạn có 2 thành viên trở lên là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty Nhà nước hoặc có thành viên là công ty Nhà nước và các thành viên khác là tổ chức được Nhà nước ủy quyền góp vốn; hoạt động theo luật doanh nghiệp. + Doanh nghiệp có cổ phần hoặc vốn góp chi phối của Nhà nước là doanh nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ, hoạt động theo luật doanh nghiệp. + Công ty Nhà nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác là công ty sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chiếm >50% vốn điều lệ của doanh nghiệp khác. Ưu điểm: Được sự quan tâm và đầu tư của Nhà nước. Có điều kiện để thực hiện kế hoạch hóa kinh doanh theo định hướng của Nhà nước. Là nền tảng kinh tế để Nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế - chính trị mang tính chiến lược. Nhược điểm: Hoạt động chưa thực sự đặt trên nền tảng các nguyên tắc của cơ chế thị trường. Không có tính cạnh tranh cao. Không có động lực đầu tư chiều sâu để hoạt động hiệu quả và rất nhiều doanh nghiệp đang là gánh nặng của Nhà nước. 7
  8. 1.1.2. Tài chính doanh nghiệp Xét về hình thức, tài chính doanh nghiệp phản ánh sự vận động và chuyển hóa các nguồn lực tài chính trong quá trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Xét về bản chất, tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Hình thức biểu hiện và bản chất của tài chính doanh nghiệp Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào như nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu và sức lao động để tạo ra yếu tố đầu ra là hàng hóa và tiêu thụ hàng hóa đó để thu lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường để có các yếu tố đầu vào đòi hỏi doanh nghiệp phải có lượng vốn tiền tệ nhất định. Với từng loại hình pháp lý tổ chức, doanh nghiệp có phương thức thích hợp tạo lập số vốn tiền tệ ban đầu, từ số vốn tiền tệ đó doanh nghiệp mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu Sau khi sản xuất xong, doanh nghiệp thực hiện bán hàng hóa và thu được tiền bán hàng. Với số tiền bán hàng, doanh nghiệp sử dụng để bù đắp các khoản chi phí vật chất đã tiêu hao, trả tiền công cho người lao động, các khoản chi phí khác, nộp thuế cho Nhà nước và phần còn lại là lợi nhuận sau thuế, doanh nghiệp tiếp tục phân phối số lợi nhuận này. Như vậy, quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, làm phát sinh, tạo ra sự vận động của các dòng tiền bao hàm dòng tiền vào, dòng tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường xuyên hàng ngày của doanh nghiệp. Căn cứ vào phạm vi hoạt động bao gồm các mối quan hệ : + Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước: Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước, khi nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp. + Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính: Quan hệ này được thực hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường này doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn. Và các doanh nghiệp phải trả lãi vay vốn cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp có thể đầu tư vốn vào ngân hàng, đầu tư mua chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa dùng đến. + Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác và các tổ chức xã hội. Như quan hệ về mặt thanh toán và thưởng phạt vật chất trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ; quan hệ vay hoặc cho vay vốn; quan hệ thanh toán trong việc doanh nghiệp đầu tư vốn vào doanh nghiệp hoặc các tổ chức khác; doanh nghiệp ủng hộ người nghèo hoặc tài trợ cho các tổ chức xã hội. + Mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp: Được thể hiện qua việc thanh toán tiền lương, tiền công và thực hiện các khoản tiền thưởng, tiền phạt với công nhân viên của doanh nghiệp, quan hệ thanh toán giữa 8
  9. các bộ phận trong doanh nghiệp, trong việc phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, phân chia lợi tức cho cổ đông, việc hình thành quỹ của doanh nghiệp Căn cứ vào nội dung kinh tế: + Các mối quan hệ nảy sinh trong lĩnh vực khai thác, thu hút vốn: Vay các ngân hàng thương mại, nhận góp vốn liên doanh liên kết, phát hành cổ phiếu, trái phiếu + Các mối quan hệ nảy sinh trong lĩnh vực đầu tư và sử dụng vốn: Đầu tư bên trong doanh nghiệp: Hình thành cơ cấu vốn lưu động, vốn cố định. Đầu tư vốn bên ngoài: góp vốn liên doanh liên kết, mua chứng khoán. 1.1.3. Vai trò của tài chính doanh nghiệp Tài chính luôn luôn giữ một vị trí trọng yếu trong hoạt động quản lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh. Đặc biệt trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, hoạt động quản trị tài chính trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Bất kỳ ai liên kết, hợp tác với doanh nghiệp cũng sẽ được hưởng lợi nếu như quản trị tài chính của doanh nghiệp có hiệu quả, ngược lại, họ sẽ bị thua thiệt khi quản trị tài chính kém hiệu quả. Quản trị tài chính là sự tác động của nhà quản lý tới các hoạt động tài chính của doanh nghiệp, Nó được thực hiện thông qua một cơ chế. Đó là cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp. Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp được hiểu là một tổng thể các phương pháp, các hình thức và công cụ được vận dụng để quản lý các hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm: quản lý tài sản, quản lý huy động vốn, quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận, kiểm soát tài chính của doanh nghiệp. Trong các quyết định của doanh nghiệp, vấn đề cần được quan tâm giải quyết không chỉ là lợi ích của cổ đông và các nhà quản lý mà còn cả lợi ích của người làm công, khách hàng, nhà cung cấp và Nhà nước. Đó là nhóm người có nhu cầu, tiềm năng về các dòng tiền của doanh nghiệp. Giải quyết vấn đề này liên quan tới các quyết định đối với bộ phận trong doanh nghiệp và các quyết định giữa doanh nghiệp với các đối tác ngoài doanh nghiệp. Do vậy, nhà quản trị tài chính, mặc dù có trách nhiệm nặng nề về hoạt động nội bộ của doanh nghiệp vẫn phải lưu ý đến sự nhìn nhận, đánh giá của người ngoài doanh nghiệp như cổ đông, nhà cho vay, nhà đầu tư, khách hàng, nhà cung cấp, Nhà nước Do quản trị tài chính có thể được nhìn nhận trên giác độ của nhà quản trị bên ngoài đối với doanh nghiệp và trên giác độ của nhà quản trị trong doanh nghiệp nên có hai cách tiếp cận về cơ chế quản trị tài chính doanh nghiệp: cơ chế quản trị tài chính doanh nghiệp và cơ chế quản trị tài chính trong doanh nghiệp. Quản trị tài chính là một hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với mọi hoạt động khác của doanh nghiệp. Quản trị tài chính tốt có thể khắc phục được những khiếm khuyết trong các lĩnh vực khác. Một quyết định tài chính không được cân nhắc, hoạch định kỹ lưỡng có thể gây nên tổn thất không lường cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế. Hơn nữa, do doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường nhất định nên các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Bởi vậy, quản trị tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả quản trị tài chính quốc gia. 9
  10. Vì vậy, tài chính doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp và được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: a. Huy động và bảo đảm đầy đủ, kịp thời vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường vốn là yếu tố hàng đầu ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Ảnh hưởng tới khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận vừa là mục tiêu số 1 của các doanh nghiệp, lợi nhuận trở thành động lực thu hút thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường đầu tư, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm Chính tình hình trên đã làm gia tăng nhu cầu vốn cho kinh doanh và trở thành một trong những yếu tố quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp. b. Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả Xuất phát từ yêu cầu của hạch toán kinh tế trong nền kinh tế thị trường là lấy thu bù chi và có lãi. Mục tiêu số một trong hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Mục tiêu kinh doanh phù hợp với yêu cầu hoạch toán kinh tế đòi hỏi doanh nghiệp phải đề ra được những biện pháp để sử dụng vốn tiết kiệm nâng cao hiệu quả trong kinh doanh Xét về việc sử dụng vốn tiết kiệm thể hiện: - Mọi chi phí sản sản xuất kinh doanh phải sử dụng đúng định mức và đúng tiêu chuẩn - Cùng một lượng vốn ban đầu nhưng có thể tạo ra được sản phẩm sản xuất nhiều hơn trước đó - Vốn có thể tăng nhưng tốc độ tăng của vốn thấp hơn tốc độ tăng của khối lượng sản phẩm sản xuất. Sử dụng vốn có hiệu quả thể hiện: - Vòng quay vốn tăng hơn trước đó - Trong đồng doanh thu vốn chiếm tỷ lệ ít hơn - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tăng - Chi phí sử dụng vốn thấp hơn c. Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Trong điều kiện kinh tế hiện nay, vấn đề kiểm tra kiểm soát đối với hoạt động tài chính nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung là hết sức quan trọng để phát hiện ra những điều bất hợp lý của doanh nghiệp để điều chỉnh kịp thời các hoạt động của doanh nghiệp. Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày, tình hình tài chính và thực hiện các chỉ tiêu tài chính, lãnh đạo và các nhà quản lý kinh doanh có thể đánh giá tổng hợp và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những tồn tại, khó khăn vướng mắc trong kinh doanh, từ đó có thể đưa ra các quyết định để điều chỉnh các hoạt động phù hợp với diễn biến thực tế kinh doanh. Để phân tích doanh nghiệp có 4 nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu: - Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán - Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính và tình hình đầu tư - Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động - Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời 10
  11. 1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.2.1. Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp Mỗi doanh nghiệp tồn tại dưới một hình thức pháp lý nhất định về tổ chức doanh nghiệp, từ đó tác động đến việc tổ chức tài chính doanh nghiệp cũng khác nhau, ảnh hưởng đến: - Cách thức tạo lập và huy động vốn. - Quyền chuyển nhượng hay rút vốn khỏi doanh nghiệp. - Trách nhiệm của chủ sở hữu đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp. - Việc phân chia lợi nhuận sau thuế 1.2.2. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành kinh doanh. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành có ảnh hưởng rất lớn tới tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về mặt kinh tế và kỹ thuật khác nhau. Những ảnh hưởng đó thể hiện: - Ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh: Tính chất ngành kinh doanh chi phối trực tiếp đến từng phần vốn kinh doanh, cơ cấu vốn kinh doanh, tốc độ luân chuyển vốn, phương thức tài trợ và đến vấn đề quản lý chi phí. Ngành công nghiệp nhiệm vụ chính là sản xuất sản phẩm nên tỷ lệ vốn cố định cao, vốn lưu động thấp. Ngành thương mại thì ngược lại: vận chuyển kinh doanh, hàng hoá dịch vụ nên vốn lưu động cao, vốn cố định thấp. Ngành xây dựng sản xuất theo đơn đặt hàng. Vì thế trong lĩnh vực công nghiệp thì nghiêng về vốn dài hạn còn trong hoạt động thương mại nghiêng về nguồn vốn ngắn hạn. - Tính chất thời vụ trong kinh doanh: Những doanh nghiệp kinh doanh có tính chất thời vụ thì nhu cầu vốn giữa các thời kỳ trong năm cũng không đều nhau và những doanh nghiệp này thu chi bằng tiền thường có sự không ăn khớp nhau về mặt thời gian. Ví dụ trong sản xuất nông nghiệp thì thời kỳ nuôi trồng yêu cầu chi phí lớn và doanh thu không có. Thời kỳ thu hoạch thì chi phí ít mà doanh thu lại lớn do đó tài chính phải cân đối không được để ứ đọng vốn - Chu kỳ kinh doanh: những doanh nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài thì nhu cầu vốn kinh doanh, tốc độ luân chuyển vốn chậm và thời gian thu hồi vốn dài. Trong cơ cấu nguồn vốn thì thường nghiêng về huy động vốn dài hạn là chủ yếu. 1.2.3. Môi trường kinh doanh Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất định. 11
  12. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả các điều kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp, môi trường kinh doanh có tác động mạnh mẽ tới mọi hoạt động của doanh nhiệp bao gồm: Môi trường kinh tế: Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn diễn ra trong một môi trường kinh tế cụ thể nhất định như: tốc độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế, mức độ ổn định của đồng tiền, lãi suất vay vốn, tỷ suất đầu tư mỗi sự thay đổi của các yếu tố trên đều có tác động tích cực hay tiêu cực đến hoạt động kinh doanh và theo đó là tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, nhà quản lý phải biết phân tích và dự báo xu hướng phát triển các yếu tố đó để tổ chức hoạt động tài chính của doanh nghiệp cho phù hợp. - Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: nếu cơ sở hạ tầng phát triển (hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước ) thì sẽ giảm bớt được nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí trong kinh doanh. - Tình trạng của nền kinh tế: một nền kinh tế đang trong quá trình tăng trưởng thì có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp đầu tư phát triển, từ đó đòi hỏi doanh nghiệp phải tích cực áp dụng các biện pháp huy động vốn để đáp ứng yêu cầu đầu tư. Ngược lại, nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái thì doanh nghiệp khó có thể tìm được cơ hội tốt để đầu tư. - Lãi suất thị trường: lãi suất thị trường là yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Lãi suất thị trường ảnh hưởng đến cơ hội đầu tư, đến chi phí sử dụng vốn và cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp. Mặt khác, lãi suất thị trường còn ảnh hưởng gián tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lãi suất thị trường tăng cao, người ta có xu hướng tiết kiệm nhiều hơn tiêu dung, điều đó làm hạn chế việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. - Lạm phát: khi nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao thì việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp gặp khó khăn khiến cho tình trạng tài chính của doanh nghiệp căng thẳng. Nếu doanh nghiệp không áp dụng các biện pháp tích cực thì có thể còn bị thất thoát vốn kinh doanh. Lạm phát cũng làm cho nhu cầu vốn kinh doanh tăng lên và tình hình tài chính doanh nghiệp không ổn định. - Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp: như các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, chính sách nhập khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định đây là yếu tố tác động lớn đến các vấn đề tài chính của doanh nghiệp. + Chính sách thuế: Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp phải nộp thuế cho Nhà nước, điều đó có ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Hầu hết các quyết định tài chính đều trực tiếp hoặc gián tiếp có ảnh hưởng đến thuế thu nhập doanh nghiệp, do đó có ảnh hưởng đến mục tiêu của doanh nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp công ty phải nộp hàng năm nhiều hay ít tùy thuộc vào thu nhập chịu thuế và thuế suất. Thuế suất thay đổi tùy lĩnh vực đầu tư, thời gian đầu tư, địa điểm đầu tư, mức thu nhập chịu thuế + Khấu hao tài sản cố định: Khấu hao là hình thức phân bổ có hệ thống chi phí mua sắm xây dựng tài sản cố định vào giá thành sản phẩm theo từng thời kỳ nhằm mục đích thu hồi vốn đầu tư vào tài sản cố định. Khấu hao được xem như là khoản chi phí được tính vào thu nhập chịu thuế, vì vậy nó là một yếu tố giúp cty tiết kiệm thuế. Có nhiều cách tính khấu hao khác nhau, mỗi cách tính cho một mức khấu hao khác nhau nên kết quả thu nhập chịu thuế cũng khác nhau và do đó số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cũng khác nhau. 12
  13. + Lãi vay: Về nguyên tắc, các doanh nghiệp chỉ vay khi hoạt động có hiệu quả cao, số lãi đạt được do sử dụng vốn vay phải lớn hơn lãi tiền vay phải trả. Tuy nhiên, theo quy định các nước, Nhà nước cho phép doanh nghiệp tính khấu trừ lãi vay vào thu nhập chịu thuế làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Như vậy, lãi vay được xem như là chi phí chịu thuế nên nó là yếu tố giúp doanh nghiệp tiết kiệm thuế. Trong những thời kỳ khác nhau, Nhà nước Việt Nam quy định mức khống chế lãi vay được tính vào chi phí. Nếu vượt quá mức này doanh nghiệp phải lấy lợi nhuận sau thuế để bù đắp. - Mức độ cạnh tranh: nếu doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề, lĩnh vực có mức độ cạnh tranh cao đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho việc đổi mới thiết bị, công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm, cho quảng cáo, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm - Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính: Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có lúc tạm thời thặng dư, có lúc tạm thời thiếu hụt vốn. Khi tạm thời thặng dư vốn, doanh nghiệp cần tìm nơi đầu tư để vốn sinh lời, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Khi tạm thời thiếu hụt vốn doanh nghiệp cần tìm nguồn tài trợ để bù đắp đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp được liên tục và hiệu quả. Hoạt động đầu tư hay tìm nguồn tài trợ được thực hiện thông qua hệ thống tài chính, gồm thị trường tài chính, các tổ chức tài chính và các công cụ tài chính. Các giám đốc phải lựa chọn đầu tư vốn tạm thời thặng dư hoặc huy động vốn trên thị trường tài chính hay từ các tổ chức tài chính, đồng thời học phải quyết định nên tiến hành giao dịch loại công cụ tài chính nào cho phù hợp. Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà doanh nghiệp có thể huy động gia tăng vốn, đồng thời có thể đầu tư các khoản tài chính tạm thời nhàn rỗi để tăng thêm mức sinh lời của vốn hoặc có thể dễ dàng hơn thực hiện đầu tư dài hạn gián tiếp. Sự phát triển của thị trường làm đa dạng hóa các công cụ và các hình thức huy động vốn cho doanh nghiệp, chẳng hạn như sự xuất hiện và phát triển các hình thức thuê tài chính, sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Hoạt động của các trung gian tài chính cũng làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Sự phát triển lớn mạnh của các Trung gian tài chính sẽ cung cấp các dịch vụ tài chính ngày càng phong phú, đa dạng hơn cho các doanh nghiệp, như sự phát triển của các ngân hàng thương mại đã làm đa dạng hóa các hình thức thanh toán như thanh toán qua chuyển khoản, thẻ tín dụng và chuyển tiền điện tử Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các trung tâm tài chính tạo điều kiện tốt hơn cho doanh nghiệp tiếp cận, sử dụng nguồn vốn tín dụng với chi phí thấp hơn. Khi xem xét tác động của môi trường kinh tế - tài chính không chỉ xem xét ở phạm vi trong nước mà còn cần phải xem xét đánh giá môi trường kinh tế tài chính trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, quả trình toàn cầu hóa nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, những biến động lớn về nền kinh tế, tài chính trong khu vực và trên thế giới ảnh hưởng mau lẹ đến nền kinh tế và hoạt động kinh doanh của một Quốc gia. Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý là tổng hoà các quy định pháp luật có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Hoạt động của doanh nghiệp vừa chịu sự chi phối điều chỉnh bởi các quy chế luật pháp chung cho mọi loại hình doanh nghiệp và chịu sự chi phối, điều chỉnh bởi các quy chế luật pháp riêng cho từng thành phần kinh tế, từng ngành kinh tế, lĩnh vực kinh tế đặc thù. Một môi trường pháp luật bình đẳng, thông thoáng, ổn định đồng bộ vừa tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi vừa đòi hỏi cao đối với các hoạt động tài chính của 13
  14. doanh nghiệp. Ngược lại, sẽ gây khó khăn thậm chí làm cho doanh nghiệp suy thoái phá sản. Môi trường kỹ thuật công nghệ, môi trường thông tin: Doanh nghiệp nào nắm bắt được và ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh mà để đầu tư vào công nghệ cao ấy đòi hỏi phải có vốn lớn để đầu tư, điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có các phương thức huy động vốn đầu tư phù hợp. Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm bắt, tiếp cận và xử lý các thông tin trong kinh doanh kịp thời. Điều này cũng đòi hỏi tổ chức hoạt động tài chính của doanh nghiệp phải tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể tiếp cận, khai thác và xử lý thông tin về thị trường, về giá cả sản xuất về khả năng nắm bắt các cơ hội kinh doanh trên thị trường Môi trường hợp tác, hội nhập quốc tế Hội nhập là tất yếu trong nền kinh tế ngày nay. Việc doanh nghiệp trong nước liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài hay đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp hay gián tiếp đã làm thay đổi và đa dạng hoá quan hệ tài chính, điều đó đòi hỏi công tác tổ chức hoạt động tài chính doanh nghiệp cần phải sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp. 1.3. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 1.3.1. Nguyên tắc đánh đổi rủi ro và lợi nhuận Quản lý tài chính phải được dựa trên quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận. Nhà đầu tư có thể lựa chọn những đầu tư khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro mà họ chấp nhận và lợi nhuận mong muốn. Khi họ bỏ tiền vào những sự án có mức độ rủi ro cao họ hy vọng dự án đem lại lợi nhuận kỳ vọng cao. 1.3.2. Nguyên tắc giá trị thời gian của tiền Trong quản lý tài chính doanh nghiệp cần sử dụng khái niệm giá trị thời gian của tiền do tiền ở các thời điểm khác nhau có giá trị không bằng nhau, tức là đưa lợi ích và chi phí của dự án về cùng một thời điểm thường là thời điểm hiện tại. Theo quan điểm của các nhà đầu tư thì dự án được chấp nhận khi lợi ích lớn hơn chi phí 1.3.3. Nguyên tắc chi trả Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần bảo đảm mức ngân quỹ tối thiểu để thực hiện việc chi trả. Vì vậy điều quan tâm ở đây là các dòng tiền chứ không phải là lợi nhuận kế toán. Dòng tiền ra và dòng tiền vào được tái đầu tư phản ánh tính chất thời gian của lợi nhuận và chi phí. 14
  15. 1.3.4. Nguyên tắc sinh lợi Đây là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính doanh nghiệp không chỉ là đánh giá các dòng tiền của dự án đem lại mà còn là tạo ra các dòng tiền tức là tìm kiếm các dự án sinh lợi. Trong môi trường cạnh tranh, các nhà đầu tư khó có thể kiếm được nhiều lợi nhuận trong một thời gian dài, khó có thể tìm kiếm nhiều dự án tốt muốn làm được điều đó thì phải tạo ra được những sản phẩm khác biệt với sản phẩm cạnh tranh và đảm bảo mức chi phí thấp hơn mức chi phí cạnh tranh. 1.3.5. Nguyên tắc thị trường có hiệu quả Thị trường có hiệu quả là thị trường mà ở đó giá trị của các tài sản tại bất kỳ một thời điểm nào đều phản ánh đầy đủ các thông tin một cách công khai. Trong thị trường có hiệu quả, giá cả được xác định chính xác. Thị giá cổ phiếu phản ánh tất cả những thông tin sẵn có và công khai về giá trị của một doanh nghiệp. 1.3.6. Gắn kết lợi ích của người quản lý với lợi ích của cổ đông Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm phân tích, kế hoạch hoá tài chính, quản lý ngân quỹ, chi tiêu cho đầu tư và kiểm soát. Chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và đưa ra các quyết định tài chinh. Các quyết định và hoạt động của nhà quản lý tài chính đều nhằm vào mục tiêu của doanh nghiệp đó là: sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá chi phí, tăng thu nhập của chủ sở hữu một cách vững chắc. Nhà quản lý tài chính đưa ra các quyết định vì lợi ích của các cổ đông doanh nghiệp. Theo quan điểm của các cổ đông , một quyết định tài chính tốt là gì? Nếu giả sử cổ đông mua cổ phiếu để kiếm tìm lợi ích tài chính thì câu trả lời là hiển nhiên: Quyết định tốt là quyết định làm tăng giá trị thj trường của cổ phiếu, còn quyết định yếu kém là quyết định quyết định làm giảm giá trị thị trường của cổ phiếu công ty. Mục tiêu của nhà quản lý tài chính của công ty là tối đa hoá giá trị hiện hành trên một cổ phiếu, là tăng giá trị của doanh nghiệp. 1.4. CÁC NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Hoạt động tài chính doanh nghiệp cùng với hoạt động sản xuất kinh doanh đóng một vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính doanh nghiệp phải trả lời các câu hỏi sau: - Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu, thời điểm nào, dài hạn hay ngắn hạn, lợi nhuận có xứng đáng ko, có phù hợp với hình thức kinh doanh đã chọn, nhằm đạt tới mục tiêu của doanh nghiệp? 15
  16. - Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, thời điểm nào để đạt được cơ cấu vốn tối ưu với chi phí vốn thấp nhất? - Lợi nhuận của doanh nghiệp được sử dụng như thế nào? - Quá trình phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính diễn ra như thếnào để thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính? - Quá trình quản lý các hoạt động tài chính ngắn hạn diễn ra như thế nào để ra các quyết định thu - chi hợp lý? Về mặt sổ sách, hoạt động tài chính doanh nghiệp được phản ánh trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Muốn sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải mua sắm các yếu tố đầu vào, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu dự trữ Nghĩa là doanh nghiệp phải đầu tư vào tài sản. Tại những thời điểm nhất định, tài sản của doanh nghiệp được phản ánh vào bên trái của bảng cân đối kế toán, gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Việc sắp xếp các chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán theo những trình tự nhất định tùy thuộc vào chế độ kế toán của mỗi nước, ở mỗi thời kỳ nhất định. Muốn đầu tư vào tài sản, doanh nghiệp phải có các nguồn tài trợ, nghĩa là phải có tiền. Các nguồn tài trợ của doanh nghiệp được phản ánh bên phải của bảng cân đối kế toán, gồm nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Như vậy, tại những thời điểm nhất định, các dự trữ tài chính được phản ánh trong bảng cân đối kế toán. Khi đã có nguồn tài trợ đầu tư vào tài sản, doanh nghiệp tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình này doanh nghiệp tiến hành xác định các thu nhập, chi phí, thuế, lãi của doanh nghiệp, quá trình này được phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Như vậy, các dòng tài chính được thể hiện và phản ánh trong các báo cáo này. Các dòng tài chính tiếp tục chuyển hóa và tại những thời điểm nhất định ta lập được bảng cân đối kế toán. Mối quan hệ giữa các khái niệm “dòng” và “dự trữ” được thể hiện và phản ánh rõ nét trong mối quan hệ giữa các báo cáo tài chính. Ví dụ: Vốn bằng tiền đầu kỳ được phản ánh trong bảng cân đối kế toán đầu kỳ, qua một kỳ kinh doanh ta có thể tính toán được thu chi bằng tiền và cân đối ngân quỹ, từ đó xác định vốn bằng tiền cuối kỳ trong bảng cân đối kế toán cuối kỳ. Ví dụ: Dự trữ, hàng tồn kho đầu kỳ kết hợp với số tiêu thụ trong kỳ thông qua báo cáo kết quả kinh doanh, ta xác định được dự trữ, tồn kho cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán. Ta có thể khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp qua sơ đồ sau: Kết - Thu Báo quả nhập cáo kết kinh - Chi phí quả doanh - Thuế kinh Bảng Bảng - Lãi doanh cân cân đối kế đối kế toán toán đầu cuối kỳ kỳ Báo Kết - Thu cáo lưu quả chuyển - Chi bằng tiền tệ tiền - Cân đối 16
  17. TÓM TẮT CHƯƠNG 1 Chương I trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về mục tiêu và vai trò của tài chính, tiếp cận các nguyên lý cơ bản của tài chính như giá trị thời gian của tiền, rủi ro và tỷ suất sinh lời Đây là các nguyên lý sẽ được ứng dụng xuyên suốt trong việc ra các quyết định của nhà quản trị Tài chính Doanh nghiệp. HỆ THỐNG CÂU HỎI CHƯƠNG 1 1. Vị trí của Tài chính Doanh nghiệp trong hệ thống tài chính? 2. Khái niệm, mục tiêu và các quan hệ tài chính Doanh nghiệp cơ bản? 3. Nội dung cơ bản về công tác quản lý Tài chính Doanh nghiệp? 4. Nhận xét về cơ chế quản lý tài chính đối với các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay? 5. Nguyên tắc quản lý Tài chính Doanh nghiệp? Liên hệ thực hiễn Việt Nam? 17
  18. CHƯƠNG II: QUẢN LÝ VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP 2.1. VỐN KINH DOANH 2.1.1. Khái niệm Để tiến hành sản xuất kinh doanh doanh nghiệp cần có Tư liệu sản xuất: Tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động đó là máy móc thiết bị công cụ dụng cụ. Đối tượng lao động đó là nguyên nhiên, vật liệu nhằm tiến hành sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần có tiền mua các yếu tố trên đó chính là vốn kinh doanh Vốn kinh doanh là một lượng giá trị mà doanh nghiệp phải ứng trước để luân chuyển cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh của doanh nghiệp luôn vận động và không ngừng thay đổi hình thái tạo thành quá trình luân chuyển vốn. Trong các doanh nghiệp sản xuất quá trình luân chuyển vốn trải qua 3 giai đoạn: - Giai đoạn dự trữ sản xuất: Trong giai đoạn này, doanh nghiệp ứng ra vốn tiền tệ để mua sắm các yếu tố sản xuất như tài sản cố định, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ Trong giai đoạn này T chuyển thành H (T – H). - Giai đoạn sản xuất: Trong giai đoạn này các yếu tố sản xuất được kết hợp với nhau để tạo ra sản phẩm mới. Trong quá trình sản xuất, vốn tồn tại dưới hình thái chi phí sản xuất (gồm những sản phẩm đang chế tạo và chi phí chờ phân bổ) (H sx H’). - Giai đoạn lưu thông: Doanh nghiệp bán sản phẩm thu tiền về (tiền mặt, chuyển khoản, tiền Việt Nam, ngoại tệ ) cũng có thể là bán chịu hình thành khoản phải thu. Vốn từ hình thái hàng chuyển trở lại hình thái tiền tệ ban đầu (H’ - T’). Đến đây là kết thúc 1 vòng luân chuyển vốn. Trong các doanh nghiệp thương mại, quá trình luân chuyển vốn trải qua 2 giai đoạn: - Giai đoạn mua hàng: Trong giai đoạn này doanh nghiệp ứng ra vốn tiền tệ để mua sắm các tư liệu lao động và đối tượng lao động như tài sản cố định, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hóa. Trong giai đoạn này T chuyển thành H (T – H). - Giai đoạn bán hàng: doanh nghiệp bán hàng hóa thu tiền ngay hoặc hình thành khoản phải thu sau đó thu tiền về (tiền mặt, tiền chuyển khoản, tiền Việt Nam, ngoại tệ). Vốn từ hình thái hàng chuyển trở lại hình thái tiền tệ ban đầu (H – T’). Đến đây kết thúc 1 vòng luân chuyển vốn Vốn kinh doanh mang những đặc điểm: + Là điều kiện tiên quyết, quyết định tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Vốn kinh doanh có trước khi tiến hành sản xuất kinh doanh. + Vốn kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu sinh lời + Vốn kinh doanh luôn thay đổi hình thái vật chất nhưng kết thúc vòng tuần hoàn quay lại hình thái ban đầu đó là tiền tệ. 2.1.2. Phân loại vốn kinh doanh Xét từ nguồn hình thành: Vốn chủ sở hữu: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận để lại Vốn vay: Ngân hàng, các tổ chức tài chính trung gian, các bạn hàng 18
  19. Đặc điểm luân chuyển vốn: Vốn cố định Vốn lưu động Căn cứ vào phạm vi đầu tư: Vốn đầu tư bên trong Vốn đầu tư bên ngoài 2.2. VỐN CỐ ĐỊNH 2.2.1. Tài sản cố định Phương thức sản xuất bao gồm có quan hệ sản xuất và tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Khác với đối tượng lao động (nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang bán thành phẩm ), các tư liệu lao động (máy móc thiết bị, nhà xưởng phương tiện vận tải ) Là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, biến đổi nó theo mục đích của mình. Tư liệu lao động có đặc điểm sau: Tham gia nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh Giá trị được dịch chuyển dần dần từng phần vào trong giá thành sản phẩm Không thay đổi hình thái vật chất ban đầu Tư liệu lao động được chia làm 2 nhóm tư liệu lao động chủ yếu: Đó chính là tài sản cố định và tư liệu lao động khác đó là công cụ dụng cụ và bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là tài sản cố định. Đó là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh như: máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, các khoản chi phí đầu tư mua sắm các tài sản cố định vô hình Thông thường một tư liệu lao động được coi là một tài sản cố định xét trên giác độ tài chính phải đồng thời thoả mãn hai tiêu chuẩn sau: Một là, phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường là 1 năm trở lên Hai là, phải đạt giá trị tối thiểu ở một mức quy định Ngoài 2 tiêu chuẩn trên còn đưa ra những tiêu chuẩn cụ thể để xác định tư liệu lao động là tài sản cố định. Tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá cả chung cho từng thời kỳ. Ở nước ta theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC. Thì những tư liệu lao động thoả mãn cả 4 điều kiện dưới đây thì được coi là tài sản cố định: + Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó. + Nguyên giá phải được xác định một cách tin cậy + Có thời hạn sử dụng từ 1 năm trở lên + Có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên. Việt Nam trước năm 1981, giá trị tối thiểu của tài sản cố định là 150 đồng, từ 1986 - 1989, là 10.000 đồng, còn từ năm 2004 cho đến nay, giá trị tối thiểu của tư liệu lao động để được xếp vào tài sản cố định là 10 triệu đồng. Trên cơ sở phân tích trên ta có thể rút ra đặc điểm chung của các tài sản cố định: Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh với vai trò là tư liệu lao động. 19
  20. Hình thái vật chất không thay đổi từ chu kỳ sản xuất đầu tiên cho đến khi bị sa thải khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. Giá trị của nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá trị sản xuất ra sản phẩm, bộ phận chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ. Chú ý: - Trên thực tế cần xem xét công dụng của tài sản để xem có phải là tài sản cố định không? - Một số tài sản nếu xét riêng lẻ từng bộ phận nó không đủ tiêu chuẩn về giá trị tuy nhiên khi tập hợp thành hệ thống thì tổng hợp tài sản đó được coi là tài sản cố định của doanh nghiệp. 2.2.2. Phân loại tài sản cố định Phân loại tài sản cố định là việc phân chia tài sản cố định của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Thông thường có những cách phân loại chủ yếu sau: 2.2.2.1 Phân loại tài sản cố định theo hình thái biểu hiện Tài sản cố định vô hình : Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh. Như chi phí để mua bằng phát minh sáng chế, bản quyền tác giả, nhãn hiệu thương mại Tài sản cố định hữu hình: Là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng các hình thức vật chất cụ thể như: nhà xưởng máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải vật kiến trúc những tài sản cố định này có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tác dụng của tiêu thức phân loại giúp doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp và có hiệu quả. 2.2.2.2. Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng Tài sản cố định phục vụ cho mục đích kinh doanh là những tài sản cố định dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp. Tài sản cố định phục vụ cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng là các tài sản cố định do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp đảm bảo cho an ninh quốc phòng của doanh nghiệp doanh nghiệp. Tài sản cố định bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ nhà nước là những tài sản cố định doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tác dụng của tiêu thức phân loại là giúp doanh nghiệp thấy được kết cấu tài sản cố định, nắm được mức độ trang bị kỹ thuật cho khu vực kinh doanh trực tiếp hay 20
  21. ngoài khu vực kinh doanh để có phương hướng sử dụng, điều hòa, trích khấu hao cho hợp lý. 2.2.2.3 Phân loại tài sản cố định theo nội dung kinh tế Căn cứ vào nội dung kinh tế của tài sản cố định, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp có thể chia thành các loại sau: Nhà cửa, vật kiến trúc: Đây là tài sản cố định của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như: Trụ sở làm việc, kho tàng, cầu cống, sân bãi, nhà cửa Máy móc thiết bị: Là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: Máy chuyên dụng, thiết bị công tác, thiết bị chuyên dùng. Phương tiện vận tải: Là các loại phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường ống, các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin Thiết bị dụng cụ quản lý: Là những thiết bị dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, máy đo lường, máy hút bụi, dụng cụ đo lường kiểm tra chất lượng sản phẩm Vườn cây lâu năm, súc vât làm việc hoặc cho sản phẩm: như vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su, đàn bò đàn ngựa Các loại tài sản cố định khác: là các tài sản chưa liệt kê vào các loại tài sản nêu trên như: tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật Tác dụng của tiêu thức phân loại cho thấy công dụng cụ thể của từng loại tài sản cố định trong doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng tài sản cố định và tính toán khấu hao chính xác. 2.2.2.4 Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng Tài sản cố định đang sử dụng là những tài sản cố định của doanh nghiệp đang sử dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng của doanh nghiệp. Tài sản cố định chưa cần dung là những tài sản cố định cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này. Tài sản cố định không cần dùng chờ thanh lý là những tài sản cố định không cần thiết hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh lý nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu. Tác dụng của tiêu thức phân loại cho thấy trình độ sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp, nắm được vốn cố định còn tiềm tàng, ứ đọng để có hướng sử dụng hợp lý tích cực, giúp cho việc khấu hao được chính xác. 2.2.2.5 Căn cứ vào quyền sở hữu: Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản cố định do doanh nghiệp mua sắm, xây dựng bằng vốn của doanh nghiệp hoặc vốn vay hay Nhà nước cấp hoặc của cá nhân tổ chức bên ngoài cho. 21
  22. Tài sản cố định bảo quản hộ. Tài sản cố định thuê ngoài bao gồm thuê ngắn hạn và thuê dài hạn. Tùy theo mục đích và phương thức thuê mà có thể chia tài sản cố định thuê dài hạn thành 2 loại: thuê tài chính và thuê hoạt động. Tài sản cố định thuê hoạt động: thuê xong (hết hạn thuê), trả lại tài sản cố định cho bên thuê. Thông thường, người đi thuê chịu chi phí thuê tài sản cố định, còn các chi phí khác như khấu hao do người chủ gánh chịu. Tài sản cố định thuê tài chính: nếu hợp đồng thuê thỏa mãn cả 4 tiêu chuẩn sau: * Quyền sở hữu tài sản cố định thuê được chuyển cho bên đi thuê khi hết hạn hợp đồng. * Hợp đồng cho phép bên đi thuê được lựa chọn mua tài sản cố định thuê với giá thấp hơn giá trị tài sản cố định thuê tại thời điểm nào đó hoặc vào lúc kết thúc hợp đồng. * Ký hợp đồng ít nhất 60% thời gian hữu dụng của tài sản cố định thuê. * Tổng số tiền thuê tài sản cố định quy định tại hợp đồng thuê tài chính ít nhất phải tương đương giá trị tài sản cố định đi thuê tại thời điểm ký hợp đồng. 2.2.3. Vốn cố định của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường để có được các tài sản cố định cần thiết cho hoạt động kinh doanh doanh nghiệp phải đầu tư ứng trước một lượng vốn tiền tệ nhất định. Số vốn doanh nghiệp ứng ra để hình thành nên tài sản cố định được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định nên quy mô của vốn cố định lớn hay nhỏ sẽ quyết định đến quy mô, tính đồng bộ của tài sản cố định, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ sản xuất, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh, vốn cố định thực hiện chu chuyển giá trị của nó. Sự chu chuyển này của vốn cố định chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm kinh tế kỹ thuật của tài sản cố định. Có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu chu chuyển của vốn cố định trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp như sau: - Vốn cố định được luân chuyển dần dần, từng phần vào trong chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và sau nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển, đặc điểm này là do đặc điểm của Tài sản cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh Trong quá trình tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, tài sản cố định bị hao mòn, giá trị của tài sản cố định chuyển dần dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Theo đó, vốn cố định cũng được tách ra thành hai phần: một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với hao mòn của tài sản cố định. Phần còn lại của vốn cố định được “cố định” trong tài sản cố định. Trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo, nếu như phần vốn luân chuyển được dần dần tăng lên thì phần vốn “cố định” lại dần dần giảm đi tương ứng với mức giảm dần giá trị sử dụng của tài sản cố định. Kết thúc sự biến thiên nghịch chiều đó cũng là lúc tài sản cố định hết thời gian sử dụng và vốn cố định hoàn thành một vòng chu chuyển. - Vốn cố định chỉ hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất được tài sản cố định về mặt giá trị - tức là khi thu hồi đủ tiền khấu hao tài sản cố định. Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về vốn cố định như sau : 22
  23. Vốn cố định của doanh nghiệp là bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố đinh. Đặc điểm của nó là chu chuyển giá trị dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ kinh doanh và hoàn thành một vòng chu chuyển khi tái sản xuất được tài sản cố định về mặt giá trị. Vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn kinh doanh. Việc tăng thêm vốn cố định trong các doanh nghiệp nói riêng và trong các ngành nói chung có tác động lớn đến việc tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp và nền kinh tế. Do giữ vị trí then chốt và đặc điểm vận động của vốn cố định tuân theo tính quy luật riêng, nên việc quản lý vốn cố định được coi là một trọng điểm của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Để quản lý sử dụng vốn cố định có hiệu quả cần nghiên cứu về khấu hao tài sản cố định và các phương pháp khấu hao tài sản cố định. 2.2.4. Khấu hao tài sản cố định 2.2.4.1. Hao mòn tài sản cố định và khấu hao tài sản cố định Hao mòn tài sản cố định: Trong quá trình sử dụng do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân, Tài sản cố định bị hao mòn dần, đó là sự giảm dần về giá trị của Tài sản cố định. Có hai loại hao mòn Tài sản cố định đó là: Hao mòn hữu hình: Là loại hao mòn về vật chất, về giá trị sử dụng và về giá trị của tài sản cố định trong quá trình sử dụng. * Về mặt vật chất: đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết dưới sự tác động của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất * Về mặt giá trị sử dụng: đó là sự giảm xuống về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong quá trình sử dụng và cuối cùng không còn sử dụng được nữa. * Về mặt giá trị: Đó là sự giảm dần giá trị của tài sản cố định cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản xuất của sản phẩm. Nguyên nhân và mức độ hao mòn này phụ thuộc vào các nhân tố trong quá trình sử dụng như: Thời gian, cường độ sử dụng,bảo dưỡng, việc chấp hành các quy phạm kỹ thuật trong sử dụng, các môi trường tự nhiên và môi trường sử dụng như nhiệt độ, độ ẩm, tác động của hoá chất Hao mòn vô hình: Là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định do tiến bộ khoa học kỹ thuật, do thị hiếu làm cho tài sản cố định bị giảm đi hoặc bị lỗi thời. Nguyên nhân gây nên hao mòn vô hình do: Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho năng suất lao động tăng lên từ đó làm cho giá cả rẻ hơn Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho sản phẩm có giá như cũ nhưng tính năng nhiều hơn, công suất cao hơn Khấu hao TSCĐ Như chúng ta đã biết trong quá trình sử dụng tài sản cố định bị hao mòn: đó là hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình. Để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn vào trong giá thành sản phẩm trong kỳ gọi là khấu hao. Vậy khấu hao tài sản cố định là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của tài sản cố định trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo phương pháp tính toán thích hợp. 23
  24. Trên góc độ kinh tế, mức khấu hao tài sản cố định là yếu tố của chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ làm cơ sở để tính giá thành. Tuy nhiên, nó không phải là khoản chi tiêu bằng tiền trong kỳ. Trên góc độ tài chính, khấu hao là phương pháp thu hồi vốn cố định. Về nguyên tắc khấu hao, việc tính khấu hao tài sản cố định phải phù hợp với mức độ hao mòn của tài sản cố định và đảm bảo thu hồi vốn như ban đầu đã bỏ ra. Điều này không chỉ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản phẩm, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình mà còn góp phần bảo toàn được vốn cố định. Thực hiện khấu hao tài sản cố định một cách hợp lý có ý nghĩa kinh tế lớn đối với doanh nghiệp: + Khấu hao hợp lý tài sản cố định là một biện pháp quan trọng để thực hiện bảo toàn vốn cố định. Thông qua thực hiện khấu hao hợp lý doanh nghiệp có thể thu hồi được đầy đủ vốn cố định khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. + Khấu hao tài sản cố định giúp cho doanh nghiệp tập trung được vốn 1 cách kịp thời để đổi mới, thay thế máy móc thiết bị và công nghệ. + Việc khấu hao hợp lý tài sản cố định là nhân tố quan trọng để xác định đúng giá thành sản phẩm và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố của chi phí sản xuất sản phẩm được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ gọi là khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích luỹ lại hình thành quỹ khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp. Quỹ khấu hao là nguồn tài chính quan trọng để doanh nghiệp tiến hành tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định trong doanh nghiệp. 2.2.4.2. Các phương pháp khấu hao tài sản cố định Việc lựa chọn các phương pháp khấu hao thích hợp là biện pháp quan trọng để bảo toàn vốn cố định và cũng là một căn cứ quan trọng để xác định thời gian hoàn vốn đầu tư vào tài sản cố định từ các nguồn tài trợ dài hạn. Như vậy, việc nghiên cứu lựa chọn các phương pháp khấu hao tài sản cố định là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý vốn cố định nói riêng và quản lý vốn đầu tư nói chung của doanh nghiệp. Thông thường người ta sử dụng các phương pháp khấu hao chủ yếu sau đây: * Phương pháp khấu hao đường thẳng (phương pháp khấu hao tuyến tính) Đặc trưng của phương pháp là mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao không đổi trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của doanh nghiệp. Theo phương pháp này số khấu hao hàng năm được tính bằng công thức MKH = NG/T MKH: Số khấu hao hàng năm NG: Nguyên giá tài sản cố định NG = NGB - D+ C NGB: Giá mua ghi trên hoá đơn D: Chiết khấu mua hàng C: Chi phí vận chuyển lắp đặt và chạy thử lần đầu T: Thời gian sử dụng định mức tài sản cố định. Là thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng tài sản cố định vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện bình thường. 24
  25. Thời gian này căn cứ vào: Tuổi thọ kỹ thuật của tài sản cố định (căn cứ vào các thông số kỹ thuật khi chế tạo tài sản cố định). Tuổi thọ kinh tế của tài sản cố định (dựa trên tuổi thọ về mặt kỹ thuật nhưng có tính đến ảnh hưởng của hao mòn vô hình). Ví dụ 1: Một doanh nghiệp mua một tài sản cố định, nguyên giá được xác định là 240 triệu đồng, tài sản cố định có tuổi thọ kỹ thuật là 12 năm, tuổi thọ kinh tế là 10 năm, doanh nghiệp dự kiến sử dụng tài sản cố định trong 10 năm. Mức khấu hao trung bình hàng năm là = 240/10 = 24 triệu đồng Theo phương pháp này, ngoài cách tính theo số tuyệt đối thì có thể tính theo số tương đối là tỷ lệ khấu hao. TKH = MKH/ NG =1/T Trong thực tế việc tính khấu hao riêng cho từng loại tài sản cố định cá biệt làm tăng công tác tính toán và quản lý chi phí khấu hao. Vì thế, các doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp khấu hao bình quân tổng hợp và mức khấu hao cũng được trích như sau: MKH = TKH * NG TSCĐ phải khấu hao TKH: Gọi là tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân chung. Tính tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân chung có 2 cách tính: Cách 1: Tính tỷ lệ giá trị tài sản cố định của mỗi nhóm. Sau khi phân loại toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp thành các nhóm có tỷ lệ khấu hao cá biệt giống nhau. Người ta xác định tỷ lệ giá trị tài sản cố định của mỗi nhóm dùng phương pháp bình quân gia quyền để tính tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân chung như sau: TKH =  fi*ti Trong đó TKH là tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân chung. fi: tỷ trọng của giá trị tài sản cố định. ti: tỷ lệ khấu hao cá biệt của từng nhóm tài sản cố định. Ví dụ 2: Toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp A được chia thành các nhóm như sau: Nguyên giá tài sản Tỷ trọng giá trị của Tỷ lệ khấu STT cố định của mỗi mỗi nhóm hao nhóm 1 1.000 10% 12% 2 3.000 30% 14% 3 4.000 40% 11% 4 2.000 20% 16% Cộng 10.000 Tỷ lệ khấu hao bình quân tổng hợp là: TKH = 10%*12% +30%*145+40%*11%+20%*16% = 13% Cách 2: Căn cứ vào mức khấu hao của từng nhóm tài sản cố định. Công thức tính tỷ lệ khấu hao bình quân tổng hợp được tính như sau: TKH = MKH/NG Ví dụ: Toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp B được chia thành các nhóm như sau: 25
  26. Nguyên giá tài sản Tỷ trọng giá trị Mức khấu STT cố định của mỗi của mỗi nhóm hao nhóm 1 1.000 10% 100 2 3.000 14% 560 3 4.000 12% 360 4 2.000 9% 180 Cộng 10.000 1.200 Tỷ lệ khấu hao bình quân tổng hợp là : TKH = 1.200/10.000*100% = 12% Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là đơn giản, dễ tính, dễ biết để trích khấu hao cho doanh nghiệp vì thế nên được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp hiện nay. Mức khấu hao phân bổ vào giá thành sản phẩm hàng năm là ổn định từ đó giúp cho doanh nghiệp gặp thuận lợi trong việc ổn định giá thành cũng như xác định giá bán của sản phẩm. Thích hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ không đòi hỏi thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên, phương pháp này còn có một số hạn chế cơ bản sau: khả năng thu hồi vốn chậm vì thế khó tránh khỏi tài sản cố định do hao mòn vô hình gây ra, không phản ánh được thực tế giá trị hao mòn vì hàng năm đều trích bằng nhau. Không thích hợp với các doanh nghiệp lớn, có trang thiết bị công nghệ hiện đại và dễ bị tác động bởi sự tiến bộ khoa học - kỹ thuật. * Phương pháp khấu hao nhanh (khấu hao giảm dần) Đặc trưng của phương pháp là thực hiện việc khấu hao cao trong những năm đầu sử dụng và giảm dần mức khấu hao theo thời gian sử dụng của tài sản cố định. Hai phương pháp khấu hao nhanh thường được sử dụng là: phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần và phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng (gọi tắt là phương pháp khấu hao theo tổng số) - Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần: Theo phương pháp này, số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách lấy giá trị còn lại của tài sản cố định ở đầu năm nhân với 1 tỷ lệ khấu hao không đổi. MKH = Gcđi * TKH không đổi Trong đó: MKH: Mức khấu hao được trích hàng năm Gcđi: Giá trị còn lại của tài sản cố định ở đầu năm thứ i Gcđi = NG - Khấu hao luỹ kế đến năm thứ (i - 1) TKH: Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định Tỷ lệ khấu khao theo = Tỷ lệ khấu hao theo * Hệ số điều chỉnh số dư giảm dần khấu hao đều Theo kinh nghiệm của các nhà kinh tế ở các nước thường sử dụng hệ số điều chỉnh như sau: Hệ số = 1.5 nếu tài sản cố định có thời hạn sử dụng = < 4 năm = 2 đối với tài sản cố định có thời hạn sử dụng = <6 năm = 2.5 nếu tài sản cố định có thời hạn sử dụng trên 6 năm 26
  27. Ví dụ 3: Một tài sản cố định có nguyên giá là 1.000 triệu đồng, thời gian sử dụng là 5 năm. Hãy tính mức khấu hao hàng năm theo phương pháp số dư giảm dần. TKH = 1/5*2 =40% Năm Mức khấu hao Mức khấu hao luỹ kế Giá trị còn lại 1 10.000*40%=4.000 4.000 6.000 2 6.000*40%=2.400 6.400 3.600 3 3.600*40%=1.440 7.840 2.160 4 2.160*40%=864 8.704 1.296 5 1.296*40%=518,4 9.222,4 777,6 Chú ý: Trong trường hợp biết nguyên giá và giá trị còn lại của tài sản cố định năm xác định. Thì có thể kiểm tra tỷ lệ khấu hao hàng năm của phương pháp này theo công thức sau: 1/t Tkh = 1 - (Gct/NG) Gct: Giá trị còn lại của tài sản cố định cuối năm thứ t Áp dụng ví dụ trên tỷ lệ khấu hao năm thứ 2 như sau: Tkh của năm thứ 2 =1- ((10.000 – 4.000 – 2.400)/10.000)1/2 = 0.4 Do kỹ thuật tính toán nên đến khi hết thời hạn sử dụng của tài sản cố định thì nguyên giá của tài sản cố định vẫn chưa được thu hồi hết. Để khắc phục nhược điểm này, thông thường người ta áp dụng phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần kết hợp với phương pháp số dư bình quân. Nghĩa là trong những năm đầu vẫn áp dụng phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần, còn những năm cuối thì áp dụng phương pháp khấu hao tuyến tính nhằm để thu hồi hết vốn đầu tư hay còn gọi là phương pháp khấu hao có điều chỉnh. - Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng Đặc trưng của phương pháp này là mức trích khấu hao hàng năm được tính dựa vào tỷ lệ khấu hao hàng năm và nguyên giá tài sản cố định. Theo phương pháp này, số tiền khấu hao được xác định như sau MKHi = NG * TKHi Trong đó: TKHi = Số năm phục vụ còn lại tài sản cố định / Tổng số thứ tự năm sử dụng TKHi = 2( T - i+1) / T(T+1) i: Thời điểm cần tính khấu hao Ví dụ 4: Tính tỷ lệ khấu hao hàng năm theo phương pháp tổng số thứ tự của năm. Thứ tự Số năm sử dụng Tỷ lệ khấu hao Mức khấu hao năm còn lại 1 5 5/15 5/15*1000 = 3.330 2 4 4/15 4/15*1000 = 2.600 3 3 3/15 3/15*1000 = 2.000 4 2 2/15 2/15*1000 = 1.330 5 1 1/15 1/15*1000 = 660 Cộng: 15 9.980 Phương pháp này có ưu điểm giúp cho doanh nghiệp có thể thu hồi vốn cố định nhanh tránh được những tổn thất do hao mòn vô hình gây ra khi không lường hết được sự tiến bộ khoa học kỹ thuật. 27
  28. Phản ánh chính xác hơn sự hao mòn tài sản cố định, hạn chế sự ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy nhiên nhược điểm là số tiền khấu hao tài sản cố định phần lớn tập trung ở những năm đầu nên những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả thì khó có điều kiện áp dụng vì giá thành sản phẩm ở những năm đầu thường rất cao. Nếu áp dụng đơn thuần theo phương pháp khấu hao nhanh thì hết thời hạn sử dụng vẫn chưa thu hồi xong vốn, hơn nữa việc tính toán mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm sẽ phức tạp hơn. - Phương pháp khấu hao theo sản lượng Phương pháp này chủ yếu được áp dụng cho các tài sản cố định hoạt động tính chất mùa vụ không đều. MKH = Số lượng sản phẩm trong năm *Mức khấu hao cho 1đơn vị sản phẩm Mức khấu hao cho 1 đơn vị sản phẩm được xác định bằng nguyên giá tài sản cố định chia tổng sản phẩm ước tính tạo ra trong suốt thời gian hoạt động của tài sản cố định. 2.2.4.3. Lập kế hoạch khấu hao Lập kế hoạch khấu hao có liên quan chặt chẽ đến các bộ phận kế hoạch tài chính khác của doanh nghiệp như: kế hoạch lợi nhuận, kế hoạch vốn đầu tư Thông qua việc lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định giúp cho người quản lý có thể nắm được tính hình quản lý và sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp, tình hình thu hồi vốn đầu tư để từ đó đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả vốn cố định cũng như trong việc thu hồi vốn. Trình tự việc lập kế hoạch khấu hao Bước 1: Xác định phạm vi tài sản cố định phải tính khấu hao, tổng nguyên giá Tài sản cố định phải tính khấu hao đầu năm kế hoạch. Về nguyên tắc, mọi tài sản cố định của doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều phải trích khấu hao trong đó cần phải chú ý 1 số loại sau đây: + Những tài sản cố định thuê tài chính phải trích khấu hao như những TSCĐ thuộc sở hữu của doanh nghiệp. + Những tài sản cố định doanh nghiệp cho thuê hoạt động (ngắn ngày) doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao. + Những tài sản cố định ngưng hoạt động để tiến hành sữa chữa lớn thì vẫn phải trích khấu hao trong kỳ. Những tài sản sau không phải trích khấu hao: + Tài sản cố định phục vụ hoạt động phúc lợi xã hội trong doanh nghiệp như: nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà ăn, nhà truyền thống đã được lấy từ quỹ phúc lợi + Tài sản cố định thuộc dự trữ nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý giữ hộ (đê đập, cầu cống đường xá ) + Tài sản cố định phục vụ cho nhu cầu chung cho toàn xã hội không phục vụ cho hoạt động kinh doanh riêng của doanh nghiệp như đê đập, cầu, cống, đường xá giao cho doanh nghiệp quản lý + Quyền sử dụng đất lâu dài là tài sản cố định vô hình nhưng DN không được trích khấu hao. + Tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn tiếp tục được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh Nếu nguyên giá tài sản cố định được lập từ quý 3 thì : 28
  29. Tổng NG TSCĐphải kh đầu năm kh = Tổng NG TSCĐphải kh 30/9/bc + NG TSCĐ fải kh tăng q4/bc - NG TSCĐ fải kh giảm q4/bc Bước 2: Phải xác định nguyên giá của tài sản cố định bình quân tăng và nguyên giá của tài sản cố định bình quân giảm phải trích khấu hao trong kỳ kế hoạch. Và nguyên giá bình quân của tài sản cố định phải trích khấu hao trong kỳ NGkhbq = NG đk + NGt bq- NGgbq NGtbq = NGt* Tsd/12 Ggbd = NGg *(12-Tsd)/12 Trong đó: NGkhbq: Là nguyên giá bình quân của tài sản cố định phải tính khấu hao trong năm kế hoạch. NGtbq: Là nguyên giá bình quân của tài sản cố định khấu hao tăng trong kỳ kế hoạch NGtbq: Là nguyên giá bình quân của tài sản cố định khấu hao giảm trong kỳ kế hoạch Ví dụ: Tháng 2 bán một tài sản cố định nguyên giá 12 triệu đồng thời gian sử dụng là 1 tháng. Tsd = 1 => 12- Tsd=11 NGgbq=12*(12-1)/12 =11 Tháng 7 mua 1 tài sản cố định nguyên giá là 15 triệu đồng vậy nên Tsd = 6 tháng => 12 - Tsd = 6 tháng NGtbqq = 15*6/12 = 7.5 Chú ý: Nếu doanh nghiệp áp dụng thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thì nguyên giá tài sản cố định không bao gồm thuế giá trị gia tăng, nếu doanh nghiệp áp dụng thuế giá trị gia tăng trực tiếp thì nguyên giá có cả thuế giá trị gia tăng. Bước 3: Xác định số khấu hao bình quân trong kỳ MKH = NGKH * TKH Trong đó: MKH : là số khấu hao bình quân phải trích trong kỳ NGKH: nguyên giá bình quân của tài sản cố định phải trích khấu hao trong kỳ TKH: tỷ lệ khấu hao tổng hợp bình quân chung của các loại tài sản cố định phải trích khấu hao trong kỳ. Ví dụ 5: Tại công ty thương nghiệp tổng hợp tỉnh Y có tài liệu kế hoạch như sau: - Tổng nguyên giá tài sản cố định đầu năm phải tính khấu hao 3.600.000.000 đồng. - Trong năm kế hoạch dự kiến tài sản cố định có biến động như sau: + Xây dựng thêm một nhà kho bằng vốn tự có dự kiến đưa vào sử dụng đầu tháng 5. Nhà kho này có nguyên giá 300.000.000 đồng. + Nhượng bán cho đơn vị bạn một tài sản cố định theo giá thỏa thuận 80.000.000đồng vào đầu tháng 6. Biết rằng tài sản cố định này có nguyên giá 120.000.000đồng và đến tháng 6 đã khấu hao cơ bản 46.500.000đồng. + Khoảng đầu tháng 7 sẽ thanh lý một tài sản cố định khác có nguyên giá 240.000.000đồng đã khấu hao đủ. + Khoảng đầu tháng 10 sẽ mua thêm một tài sản cố định bằng vốn vay dài hạn ngân hàng. Nguyên giá tài sản cố định này dự kiến 500.000.000đồng. - Tỷ lệ khấu hao bình quân là 12%. Hãy lập kế hoạch khấu hao tài sản cố định cho công ty trên. Giải: 29
  30. Để lập khấu hao trước hết công ty phải tính một số chỉ tiêu: (đơn vị: 1.000đồng) - Nguyên giá tài sản cố định phải tính khấu hao đầu kỳ: NGđ = 3.600.000 - Nguyên giá TSCĐ phải tính khấu hao tăng thêm trong kỳ: Cả năm = 300.000 + 500.000 = 800.000 + Nguyên giá tài sản cố định bình quân tính khấu hao tăng trong kỳ: Cả năm = (1/12)*[(300.000*8)+(500.000*3)] = 325.000 - Nguyên giá tài sản cố định tính khấu hao giảm trong kỳ: Cả năm = 120.000+240.000 = 360.000 + Nguyên giá tài sản cố định bình quân tính khấu hao giảm trong kỳ: Cả năm = (1/12)*[(120.000*7)+(240.000*6)] = 190.000 - Nguyên giá tài sản cố định bình quân tính khấu hao trong kỳ Cả năm = 3.600.000 + 325.000 – 190.000 = 3.735.000 - Tổng số tiền tính khấu hao trong kỳ Cả năm = 3.735.000 x 12% = 448.200 Bước 4: Phân phối và sử dụng tiền trích khấu hao Sau khi xác định được số tiền khấu hao bình quân trong kỳ thì doanh nghiệp cấn phải tiến hành phân phối sử dụng tiền trích khấu hao. Nói chung công việc này tuỳ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn ban đầu để hình thành nên tài sản cố định của doanh nghiệp. - Đối với Tài sản cố định được hình thành từ vốn chủ sở hữu: Doanh nghiệp được chủ động sử dụng toàn bộ số tiền khấu hao luỹ kế thu được để tái đầu tư thay thế đổi mới tài sản cố định, khi chưa có nhu cầu này thì doanh nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số khấu hao luỹ kế này phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình để đạt hiệu quả cao nhất - Đối với tài sản cố định được hình thành từ vốn vay. Về nguyên tắc doanh nghiệp phải sử dụng số tiền trích khấu hao thu được để trã vốn và lãi vay. Tuy nhiên, khi chưa đến kỳ trả nợ, doanh nghiệp có thể tạm thời sử dụng vào các mục đích sản xuất kinh doanh của mình để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp Ví dụ 6: Nguyên giá của 1 tài sản cố định cần phải trích khấu hao cuối năm N là 100 tỷ đồng. Năm N+1 nguyên giá tài sản cố định tăng bình quân là 10 tỷ. Nguyên giá tài sản cố định giảm bình quân là 5 tỷ. Nguồn vốn đầu tư vào tài sản cố định bao gồm: 50% vốn ngân sách, 25% vốn của doanh nghiệp, 25 % là vốn vay. Tỷ lệ khấu hao bình quân năm là 10%/ năm. Tiền khấu hao được phân phối theo nguồn hình thành tài sản cố định, riêng tài sản cố định đầu tư từ vốn ngân sách doanh nghiệp phải trích 50% nộp ngân sách. Hãy xác định và phân phối tiền khấu hao. 2.2.5. Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định 2.2.5.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Nhóm chỉ tiêu tổng hợp Hiệu suất sử dụng vốn cố định = DTT/ VCĐ bq trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn cố định bình quân tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần về tiêu thụ sản phẩm trong kỳ. VCĐbq = (VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ)/2 Số VCĐ ở đầu kỳ( hoặc cuối kỳ) = NGtscđ đk (hoặc cuối kỳ) – Số tiền khấu hao luỹ kế ở đầu kỳ( hoặc cuối kỳ) 30
  31. Số tiền khấu hao luỹ kế ở cuối kỳ =Số tiền KH đầu kỳ +Số tiền khấu hao tăng trong kỳ- số tiền khấu hao giảm trong kỳ. Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: Hàm lượng VCĐ = VCĐbq trong kỳ/ DTT về tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh: Để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng vốn cố định Tỷ suất lợi nhuận VCĐ= LNTT(ST)/ VCĐbd trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh: Cứ 1 đồng vốn cố định bình quân tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhuận sau thuế. Nhóm chỉ tiêu phân tích. - Hệ số hao mòn TSCĐ= Số tiền KHLK/ NG TSCĐ ở thời điểm đánh giá - Hiệu suất sử dụng TSCĐ = DTT/ NG TSCĐ bq trong kỳ - Hệ số trang bị TSCĐ = NG TSCĐ bq trong kỳ/ số lượng công nhân trực tiếp sản xuất - Tỷ suất đầu tư TSCĐ =Giá trị còn lại của TSCĐ/ tổng tài sản* 100% 2.2.5.2. Biện pháp năng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định Phải đánh giá đúng giá trị của tài sản cố định tạo điều kiện phản ánh chính xác tình hình biến động của vốn cố định, quy mô bảo toàn vốn. Điều chỉnh kịp thời giá trị của tài sản cố định để tạo điều kiện tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao không để mất vốn cố định. Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp, không để mất vốn và hạn chế tối đa ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình. Nguyên tắc chung là mức khấu hao phải phù hợp với hao mòn thực tế của tài sản cố định (cả hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình). Nếu khấu hao thấp hơn mức hao mòn thực tế sẽ không đảm bảo thu hồi đủ vốn khi hết thời hạn sử dụng, nếu khấu hao cao quá sẽ làm tăng chi phí một cách giả tạo, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải xem xét cụ thể mối quan hệ giữa chi phí sản xuất đầu vào và giá bán sản phẩm đầu ra để có chính sách khấu hao phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường, vừa đảm thu hồi vốn, vừa không gây nên sự đột biến trong giá cả. Trong trường hợp tài sản cố định có hao mòn vô hình lớn cần áp dụng phương pháp khấu hao nhanh để hạn chế ảnh hưởng hao mòn vô hình. Chú trọng đổi mới trang thiết bị, phương pháp, công nghệ sản xuất, kịp thời thanh lý các tài sản cố định không cần dùng hoặc đã hư hỏng, không dự trữ quá mức các tài sản cố định chưa cần dùng. Để thực hiện được các vấn đề trên đòi hỏi các doanh nghiệp phải giải quyết các vấn đề trong việc tổ chức quá trình sản xuất, quá trình lao động, cung ứng và dự trữ vật tư sản xuất, các biện pháp giáo dục và khuyến khích kinh tế đối với người lao động trong doanh nghiệp. Thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng, sữa chữa dự phòng tài sản cố định không để xảy ra tình trạng tài sản cố định hư hỏng trước thời hạn hoặc hư hỏng bất thường gây thiệt hại ngừng sản xuất. Trong trường hợp tài sản cố định phải tiến hành sữa chữa lớn, cần phải cân nhắc tới tính hiệu quả của nó. Tức là xem xét giữa chi phí sữa chữa cần bỏ ra với việc đầu tư mua sắm tài sản cố định mới để quyết định cho phù hợp. Doanh nghiệp phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh để hạn chế tổn thất vốn cố định do nguyên nhân khách quan như: mua bảo hiểm tài sản, lập quỹ dự phòng tài chính 31
  32. 2.3. VỐN LƯU ĐỘNG 2.3.1. Nội dung và Phân loại vốn lưu động 2.3.1.1. Tài sản lưu động và vốn lưu động của doanh nghiệp Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động các doanh nghiệp cần có các đối tượng lao động. Khác với tư liệu lao động, các đối tượng lao động (như nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm ) chỉ tham gia vào 1 chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch toàn bộ, một lần vào trong giá trị sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là tài sản lưu động, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động là vốn đầu tư ứng trước để hình thành tài sản lưu động của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp người ta thường chia tài sản lưu động thành 2 loại: Tài sản lưu động sản xuất: bao gồm các loại nguyên, nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang đang trong quá trình sản xuất, dự trữ, chế biến Tài sản lưu động lưu thông: Các sản phẩm thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước. Trong quá trình sản xuất kinh doanh các tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục. Tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh, tài sản lưu động mang những đặc điểm sau: + Tài sản lưu động bị tiêu dùng hoàn toàn trong quá trình tạo ra sản phẩm và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu + Tài sản lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh Vốn lưu động bị chi phối bởi các đặc điểm của tài sản lưu động nên vốn lưu động của doanh nghiệp có những đặc điểm sau: + Vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị của nó vào trong giá thành sản phẩm + Vốn lưu động được thu hồi một lần toàn bộ sau khi doanh nghiệp tiêu thụ các hàng hoá dịch vụ và kết thúc vòng tuần hoàn lưu chuyển của vốn 2.3.1.2. Phân loại vốn lưu động Phân loại theo hình thái biểu hiện: Vốn vật tư, hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như: nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm Vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như: tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi trong ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn. 32
  33. Ý nghĩa: Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp xem xét đánh giá được mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Phân loại theo quan hệ sở hữu: Vốn chủ sở hữu: Là số vốn lưu động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và tuỳ loại hình doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu có những nội dung cụ thể riêng. Các khoản nợ: Là khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính khác, vốn thông qua phát hành trái phiếu, các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán doanh nghiệp được quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn khác nhau trong doanh nghiệp từ đó đưa ra các quyết định trong huy động và quản lý cho phù hợp. Phân loại theo vai trò của từng loại vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Là bộ phận vốn lưu động cần thiết nhằm thiết lập bộ phận dữ trữ về vật tư, hàng hoá cần thiết cho quá trình sản xuất nhằm đảm bảo đủ vật tư cho doanh nghiệp sản xuất và hàng hoá đối với doanh nghiệp thương mại. Gồm có: Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiện liệu, công cụ dụng cụ nhỏ, phụ tùng thay thế Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Là bộ phận vốn lưu động mà mà kể từ doanh nghiệp đưa vào trong quá trình sản xuất cho đến khi tạo ra sản phẩm như: sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước. Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Là số vốn lưu động kể từ khi sản phẩm nhập kho đến khi bán sản phẩm thu được tiền về. Ví dụ như vốn thành phẩm tồn kho chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền: tiền mặt tiền gửi, tiền trong thanh toán (các khoản phải thu, các khoản tạm ứng ), tiền đang chuyển, các khoản vốn đầu tư ngắn hạn Phân loại theo nguồn hình thành Vốn đầu tư ban đầu: là số vốn lưu động được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc vốn điều lệ bổ dung trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp khác nhau thì loại vốn này cũng khác nhau Nguồn vốn bổ sung: Là nguồn vốn lưu động do doanh nghiệp bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh như từ lợi nhuận của doanh nghiệp được tái đầu tư. Vốn liên doanh liên kết: Là số vốn lưu động được hình thành từ vốn góp của các bên liên doanh tham gia. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền hoặc hiện vật là vật tư, hàng hoá tuỳ theo sự thoả thuận của các bên Nguồn vốn đi vay: vốn vay ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp khác hay của người lao động. Nguồn vốn huy động từ thị trường tài chính bằng cách phát hành các chứng khoán ra công chúng. Căn cứ vào tính thanh khoản Vốn bằng tiền: gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Các khoản phải thu: gồm phải thu khách hàng, tạm ứng, chi phí trả trước, thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn, phải thu nội bộ, các khoản phải thu khác. Hàng tồn kho: đây là loại hàng dự trữ của doanh nghiệp, gồm nguyên vật liệu tồn kho, công cụ dụng cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng hóa, hàng mua đang đi đường, hàng gửi bán nhưng chưa xác định tiêu thụ. 33
  34. 2.3.2. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết của doanh nghiệp Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết: Là số vốn lưu động thường xuyên cần thiết nhưng ở mức tối thiểu để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên liên tục. Việc xác định đúng đắn nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết có ý nghĩa hết sức quan trọng: Tránh được tình trạng ứ đọng vốn từ đó sử dụng vốn được hợp lý và tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, bình thường, liên tục. Không gây nên sự căng thẳng giả tạo về nhu cầu vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Là căn cứ quan trọng cho việc xây dựng các nguồn tài trợ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp xác định nhu cầu vốn lưu động quá cao sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vật tư hàng hoá, vốn chậm luân chuyển và phát sinh các chi phí không cần thiết làm tăng giá thành sản phẩm từ đó giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp xác định nhu cầu vốn lưu động quá thấp sẽ gây nên những khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp thiếu vốn sẽ không đảm bảo sản xuất liên tục, gây nên nhữnhg thiệt hại cho người sản xuất, không có khả năng thanh toán, không thực hịên được các hợp đồng được ký kết từ đó làm giảm thị phần và lợi nhuận của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp: - Quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. - Sự biến động giá cả vật tư, hàng hoá mà doanh nghiệp sử dụng sản xuất. - Chính sách chế độ về lao động tiền lương đối với người lao động trong doanh nghiệp. - Trình độ tổ chức, quản lý sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp trong quá trình dự trữ sản xuất, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm 2.3.3. Phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động Có 2 phương pháp cơ bản để xác định nhu cầu vốn lưu động: Phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. 2.3.3.1.Phương pháp trực tiếp Nội dung chủ yếu của phương pháp này là căn cứ vào các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc dự trữ vật tư, đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để xác định cho nhu cầu từng khoản vốn lưu động trong từng khâu sau đó tổng hợp lại. - Xác định nhu cầu vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm giá tri của các nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ nhỏ, vật đóng gói. Đối với nhu cầu về nguyên vật liệu chính V =M * N lc n nl Trong đó: 34
  35. V : nhu cầu vốn nguyên vật liệu chính trong năm kế hoạch lc M : Mức tiêu dùng bình quân trong một ngày về nguyên vật liệu chính trong n năm kế hoạch  Mức tiêu dùng nguyên vật liệu chính trong năm kế hoạch M = n 360 N : Số ngày dự trữ hợp lý về nguyên vật liệu chính nl  Mức tiêu dùng nguyên vật liệu chính trong năm kế hoạch = số lượng sản phẩm sản xuất dự kiến * Mức tiêu dùng cho 1 đơn vị sản phẩm* đơn giá k/h nguyên vật liệu chính N : Số ngày dự trữ hợp lý về nguyên vật liệu chính là số ngày từ khi doanh nl nghiệp trả tiền mua nguyên vật liệu chính cho đến khi nguyên vật liệu chính vào sản xuất bao gồm: Số ngày hàng đi trên đường: Là số ngày kể từ khi doanh nghiệp thanh toán trả tiền mua nguyên vật liệu chính cho đến khi đưa nguyên vật liệu chính về đến doanh nghiệp. Số ngày kiểm nhận nhập kho: Là số ngày cần thiết để tiến hành công việc bốc dỡ và làm thủ tục nhập kho của các nguyên vật liệu chính Số ngày nhập kho cách nhau: Là số ngày cách nhau giữa 2 lần nhập kho( phải nhân với hệ số xen kẽ vốn) Giá trị NVL tồn kho bình quân 1 ngày trong kỳ Hệ số xen kẽ vốn về NVL = Giá trị NVL tồn kho cao nhất 1 ngày trong kỳ Số ngày chuẩn bị sử dụng: Chỉ áp dụng cho một số loại nguyên vật liệu chính khi sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của công nghệ đòi hỏi phải có sự chuẩn bị Số ngày dự trữ bảo hiểm: Là số ngày dự trữ tăng thêm để đề phòng những trường hợp bất trắc làm cho nguyên vật liệu chính không được cung cấp một cách đều đặn như dự kiến. Đối với nhu cầu vốn của các loại vật tư khác: vật liệu phụ, nhiên liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ nhỏ chia làm hai trường hợp: Trường hợp 1: Đối với các loại vật tư khác mà được sử dụng thường xuyên và tương đối nhiều thì có thể áp dụng phương pháp xác định nhu cầu vốn nhu là đối với nguyên vật liệu chính như ở trên. Trường hợp 2: Đối với các loại vật tư mà không sử dụng thường xuyên, mức độ sử dụng ít thì công thức xác định như sau: V = M *T% nk lc Trong đó: V : Nhu cầu vốn trong khâu dự trữ của loại vốn khác nk M :Tổng mức luân chuyển của loại vốn đó trong khâu dự trữ lc T%: tỷ lệ % của loại vốn đó so với mức luân chuyển - Nhu cầu vốn lưu động trong khâu sản xuất + Nhu cầu vốn cho sản phẩm đang chế tạo(sản phẩm dở dang và bán thành phẩm) V = P * C * H đc n k s 35
  36. Trong đó: V đc : nhu cầu vốn sản phẩm dở dang dự kiến trong năm kế hoạch P n: Chi phí sản xuất sản phẩm tính bình quân 1 ngày dự kiến Tổng chi phí sản xuất sản phẩm ở trong kỳ kế hoạch = Số ngày trong kỳ(360) C : Chu kỳ sản xuất sản phẩm là khoảng thời gian từ khi đưa nguyên vật liệu k vào sản xuất cho đến khi sản phẩm sản xuất xong và hoàn thành thủ tục nhập kho. Độ dài của chu kỳ sản xuất phụ thuộc vào thời gian lao động và thời gian gián đoạn lao động. H : Hệ số sản phẩm đang chế tạo là tỷ lệ % giữa giá thành bình quân sản phẩm s đang chế tạo và giá thành sản xuất sản phẩm. + Xác định nhu cầu vốn về chi phí trả trước. V = V + V - V pb pđ pt pzt V pb: Vốn về chi phí trả trước V pđ: Vốn chi phí trả trước đầu kỳ kế hoạch V pt: Vốn về chi phí trả trước tăng trong kỳ kế hoạch V pzt: Vốn chi phí trả trước được phân bổ vào giá thành sản phẩm trong kỳ kế hoạch. - Xác định nhu cầu vốn cho khâu lưu thông (Chỉ có vốn thành phẩm) Vtp = Z sx * Ntp Vtp: Nhu cầu vốn thành phẩm dự kiến trong năm. Zsx: Giá thành sản xuất sản phẩm bình quân 1 ngày cho năm kế hoạch. Zsx = (Tổng giá thành sản xuất sản phẩm trong năm kế hoạch)/360 Ntp: Số ngày luân chuyển vốn thành phẩm là khoảng thời gian kể từ khi sản phẩm thành phẩm được nhập kho đến khi đưa đi tiêu thụ và thu được tiền về bao gồm: Số ngày dự trữ trong kho thành phẩm: Là số ngày kể từ lúc thành phẩm nhập kho cho đến khi được xuất kho tiêu thụ và để tính số ngày dừ trữ hợp lý này thì cần phải nhân với hệ số xen kẻ vốn thành phẩm Số ngày xuất kho và vận chuyển: Là số ngày cần thiết để đưa từ kho doanh nghiệp đến điạ điểm giao hàng. Số ngày thanh toán: Là số ngày từ khi lấy chứng từ thanh toán cho đến khi thu được tiền. Phương pháp trực tiếp có ưu điểm giúp xác định nhu cầu vốn theo phương pháp này tương đối chính xác và phù hợp. Tuy nhiên việc tính toán tương đối phức tạp, khối lượng tính toán tương đối nhiều và mất nhiều thời gian. 2.3.3.2. Phương pháp gián tiếp Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp dựa vào những đặc điểm: + Dựa vào số vốn lưu động bình quân của năm báo cáo. + Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh năm kế hoạch + Khả năng tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động 36
  37. Vnc1 = VLĐo *(M1/Mo) (1 + t%) t =(k1 - ko)/ ko Trong đó: Vnc1: Là nhu cầu vốn lưu động bình quân trong năm kế hoạch VLĐo: Số vốn lưu động bình quân trong năm báo cáo M1, Mo : Tổng mức luân chuyển vốn trong năm kế hoạch và báo cáo K1, Ko : kỳ luân chuyển vốn lưu động trong năm kế hoạch và báo cáo. t %: Tỷ lệ tăng giảm số ngày luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch so với năm báo cáo. Ví dụ 7: Giả sử doanh nghiệp X có số dư vốn lưu động bình quân năm báo cáo là 400 triệu đồng. Tổng mức luân chuyển vốn năm báo cáo là 2800 triệu đồng, năm kế hoạch dự kiến là 4.000 triệu đồng. Tỷ lệ rút ngắn số ngày luân chuyển vốn lưu động năm kế hoạch so với năm báo cáo là 10%. Xác định nhu cầu vốn lưu động năm kế hoạch: Vnc1= 400*(4000/280)*(1-10%) =514,28 triệu đồng 2.3.4. Nguồn vốn lưu động 2.3.4.1. Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp được hình thành từ các nguồn: - Vốn góp ban đầu Doanh nghiệp nhà nước: Vốn đầu tư cuả nhà nước, chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước là nhà nước Công ty cổ phần : Nguồn vốn do các cổ đông đóng góp , mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trên trị giá cổ phần mà họ nắm giữ Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty có vốn đầu tư nước ngoài các nguồn vốn cũng như trên tức là có thể do chủ đầu tư bỏ ra, do liên doanh liên kết Nguồn vốn này là nguồn vốn hết sức quan trọng để tạo ra nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. - Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Là bộ phận lợi nhuận được giữ lại doanh nghiệp sử dụng để tạo thêm vốn lưu động phục vụ việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Là phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn đối với doanh nghiệp vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Với nguồn vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể chủ động đầu tư lâu dài, không bị áp lực về thời gian sử dụng vốn, tạo ra năng lực tài chính an toàn, tạo ra khả năng để rhu hút các nguồn vốn khác. Tuy nhiên, nguồn vốn này thường hạn chế về mặt quy mô nên không đáp ứng mọi nhu cầu của sản xuất kinh doanh. Việc sử dụng vốn chủ sở hữu không bị sức ép về chi phí sử dụng vốn, thiếu sự kiểm tra và kiểm soát như trong vốn vay làm cho hiệu quả sử dụng không cao. 2.3.4.2. Nguồn vốn đi vay và chiếm dụng Nguồn vốn đi vay và chiếm dụng bao gồm: - Tín dụng thương mại Tín dụng thương mại được hình thành khi doanh nghiệp nhận được tài sản, dịch vụ của các doanh nghiệp khác không phải trả tiền ngay. Doanh nghiệp có thể sử dụng 37
  38. các khoản phải trả này khi chưa đến kỳ hạn thanh toán với khách hàng như 1 một nguồn vốn bổ sung để tài trợ cho các nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn của doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa như doanh nghiệp được tài trợ thêm vốn, giúp cho doanh nghiệp góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn lưu động; và tương đối thuận tiện dễ dàng, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp đã có mối quan hệ thường xuyên với nhà cung cấp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khi sử dụng tín dụng nhà cung cấp thì phải trả chi phí cao hơn so với tín dụng thông thường của ngân hàng thương mại. - Tín dụng ngân hàng Đặc điểm của vốn lưu động là luân chuyển nhanh, do đó các doanh nghiệp thường sử dụng các khoản vay ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động thiếu. Các nguyên tắc cơ bản mà các doanh nghiệp phải tôn trọng khi sử dụng vốn vay là phải sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, phải hoàn trả cả vốn và lãi đúng thời hạn cam kết trong hợp đồng tín dụng. Đối tượng cho vay của ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp vay vốn lưu động thông thường là vật tư, hàng hoá và những chi phí cần thiết phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thời hạn cho vay thường được xác định căn cứ vào thời gian quay vòng của vốn vay, khả năng trả nợ ngân hàng, thời gian sử dụng nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Phương pháp cho vay của ngân hàng thông thường có 2 hình thức chủ yếu: + Cho vay thông thường (Cho vay từng lần): là phương pháp cho vay mà ngân hàng căn cứ vào từng kế hoạch hoặc phương án kinh doanh, hoặc từng loại vật tư cụ thể, từng khâu kinh doanh để cho vay + Cho vay luân chuyển (Cho vay theo hạn mức tín dụng) :Là phương thức cho vay mà ngân hàng phát tiền vay hoặc thu nợ được căn cứ vào tình hình nhập và xuất vật tư hàng hoá của doanh nghiệp. Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng không những khắc phục được tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp mà còn phân tán rủi ro trong kinh doanh. để sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả thì doanh nghiệp cũng cần phân tích đánh giá khi sử dụng vốn này nhất là về khả năng trả nợ và chi phí sử dụng vốn vay. - Thương phiếu Thương phiếu là những chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền nhất định trong một thời gian nhất định. Thương phiếu gồm có 2 loại: đó là: + Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người phát hành (người mua) cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong tương lai cho người thụ hưởng. + Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người phát hành (người bán) lập yêu cầu người ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền nhất định trong một khoảng thời gian nhất định trong tương lai. + Thời gian đáo hạn của thương phiếu trong thời gian ngắn, lãi suất thường thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng. Việc sử dụng thương phiếu mang lại những ưu điểm: + Cho phép phân phối rộng rãi và thu hút vốn với chi phí thấp nhất. + Người vay tránh được các khó khăn và sự ràng buộc trong việc tìm nguồn tài trợ ở các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. 38
  39. + Thương phiếu được lưu hành rộng rãi nên tên hiệu và sản phẩm nhiều người sẽ biết đến đây là hình thức quảng cáo ít tốn kém nhất Nhưng vẫn còn hạn chế đó là: + Quy mô của vốn phụ thuộc vào sự dư thừa tạm thời của các doanh nghiệp cung ứng vốn. - Các nguồn khác Ngoài các nguồn vốn trên doanh nghiệp có thể sử dụng các khoản nợ khác để đáp ứng các nhu cầu tạm thời về vốn lưu động phát sinh trong hoạt động kinh doanh như: nợ tiền lương, nợ thuế phí đối với nhà nước, các khoản cổ tức chưa trả cho các cổ đông, các khoản tiền đặt cọc của khách hàng Các nguồn tài trợ này gọi là nợ tích luỹ doanh nghiệp chỉ có thể sử dụng trong thời gian ngắn. 2.3.5. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 2.3.5.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động Chỉ tiêu này có 2 chỉ tiêu đó là * Số lần luân chuyển vốn lưu động ( số vòng quay vốn lưu động) Phản ánh số vòng quay vốn lưu động được thực hiện trong kỳ nhất định thường là 1 năm. M L= VLĐ Trong đó: L: số vòng quay vốn lưu động M: tổng mức luân chuyển vốn trong năm được lấy bằng doanh thu thuần trong kỳ. VLĐ: Vốn lưu động bình quân năm có 2 cách tính : + Theo 4 quý VLĐq + VLĐq2 + VLĐq3 +VLĐq4 1 VLĐ = 4 (VLĐđầu q1)/2 + VLĐcuối q1+ VLĐcuối q2 + VLĐcuối q3 +(VLĐcuối q4)/2 VLĐ = 4 * Kỳ luân chuyển vốn lưu động (kỳ chu chuyển vốn lưu động) Phản ánh số ngày cần thiết để thực hiện 1 vòng quay vốn lưu động. 360 360*VLĐ K = = L M 2.3.5.2. Mức độ tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển vốn M1 M = (K - K ) tk 1 0 360 39
  40. M : Mức tiết kiệm vốn lưu động tk M1: Tổng mức luân chuyển vốn trong kỳ kế hoạch K1, K0 : Kỳ luân chuyển vốn năm kế hoạch và báo cáo 2.3.5.3. Hàm lượng vốn lưu động VLĐ trong kỳ Hàm lượng vốn lưu động = DTT Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng vốn lưu động bình quân trong kỳ. 2.3.6. Quản lý vốn lưu động và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động 2.3.6.1. Quản lý hàng tồn kho Hàng tồn kho là các loại vật tư, hàng hóa mà doanh nghiệp dự trữ để sản xuất hoặc để bán. Hàng hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất - kinh doanh tiến hành được bình thường. Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm lại từng công đoạn của dây chuyền sản xuất. Dây chuyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công đoạn sản xuất thì tồn kho trong quá trình sản xuất sẽ càng lớn. Khi tiến hành sản xuất xong, hầu như các doanh nghiệp chưa thể tiêu thụ hết sản phẩm, phần thì do có “độ trễ” nhất định giữa sản xuất và tiêu dùng, phần do phải có đủ lô hàng mới xuất được Những doanh nghiệp mà sản xuất mang tính thời vụ và có quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì tồn kho sản phẩm hoàn thành sẽ lớn. Trong quản lý hàng tồn kho chủ yếu tập trung vào bộ phận nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp thương mại thì dự trữ nguyên vật liệu cũng là dự trữ hàng hóa để bán. Những nhân tố ảnh hưởng đến mức dự trữ hàng tồn kho: + Loại hình doanh nghiệp + Tính chất của quy trình sản xuất + Mối liên hệ của chi phí đặt hàng và chi phí lưu kho + Các rủi ro trong quan hệ cung cầu + Các cơ hội bất thường + Tính dễ thay đổi trong các điều kiện sản xuất kinh doanh + Lạm phát Tác động 2 mặt của hàng tồn kho: + Lợi ích: Tồn kho nguyên liệu giúp cty chủ động trong sản xuất. Tồn kho sản phẩm dở dang giúp cho quá trình sản xuất của cty linh hoạt và liên tục. 40
  41. Tồn kho thành phẩm giúp chủ động trong việc hoạch định sản xuất, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm nhằm khai thác và thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường. + Chi phí: Chi phí đặt hàng liên quan đến số lần đặt hàng, tức là phụ thuộc quy mô hàng tồn kho. Chi phí đặt hàng gồm chi phí quản lý, giao dịch và vận chuyển hàng hóa. Chi phí lưu kho gồm chi phí hoạt động (chi phí bốc dỡ hàng hóa, chi phí bảo quản, chi phí hao hụt ) và chi phí tài chính (chi phí trả lãi vay liên quan đến chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp, chi phí về thuế ở khâu mua ). Chi phí cơ hội là chi phí phát sinh trong thực tế như chi phí lỡ mất cơ hội được mua hàng giá rẻ Các chi phí khác. Như vậy, đối với hàng tồn kho nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí dự trữ, ứ đọng vốn. Nếu dự trữ quá ít sẽ ko đủ phục vụ cho sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh. Quản lý hàng tồn kho là việc tính toán, theo dõi, xem xét sự đánh đổi giữa lợi ích và chi phí của việc duy trì hàng tồn kho đồng thời đảm bảo dự trữ hợp lý nhất. Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu quả nhất - EOQ (Economic Odering Quantity) Mô hình EOQ dựa trên giả định: - Doanh thu ít biến động và dự đoán được. - Đơn đặt hàng được thực hiện lập tức, không có sự chậm trễ. - Không có dự trữ hàng tồn kho cho mục đích an toàn. Các chi phí dự trữ hàng hoá bao gồm 2 loại chính: Chi phí lưu kho: Đây là chi phí liên quan tới việc tồn trữ hàng hoá, loại này bao gồm: Chi phí hoạt động, như chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo hiểm hàng hoá, chi phí do giảm giá hàng hoá, chi phí hao hụt mất mát, chi phí bảo quản Chi phí tài chính bao gồm chi phí sử dụng vốn như trả lãi tiền vay, chi phí về thuế, khấu hao. Nếu gọi số lượng mỗi lần cung ứng hàng hoá là Q thì dự trữ trung bình sẽ là Q/2. Gọi C1 là chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá thì tổng chi phí lưu kho của doanh Q nghiệp sẽ là C * 1 2 Tổng chi phí lưu kho sẽ tăng nếu số lượng hàng mỗi lần cung ứng tăng. Chi phí đặt hàng: gồm chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng hóa. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường ổn định, không phụ thuộc vào số lượng hàng hóa được mua. Gọi D là toàn bộ lượng hàng hóa cần sử dụng trong 1 đơn vị thời gian (năm, quý, D tháng) thì số lần đặt hàng sẽ là . Q D Gọi C2 là chi phí mỗi lần đặt hàng thì tổng chi phí đặt hàng là C * . 2 Q Chi phí đặt hàng sẽ tăng nếu số lượng mỗi lần cung ứng giảm. Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hóa ta có: Q D TC = C * + C * 1 2 2 Q Q thấp nhất khi?. 41