Mô hình KEYNESIAN mới không có đường cong LM

pdf 14 trang Đức Chiến 04/01/2024 1620
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình KEYNESIAN mới không có đường cong LM", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmo_hinh_keynesian_moi_khong_co_duong_cong_lm.pdf

Nội dung text: Mô hình KEYNESIAN mới không có đường cong LM

  1. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật MÔ HÌNH KEYNESIAN MỚI KHÔNG CÓ ĐƯỜNG CONG LM Nguyễn Hoàng Chung*, Trương Văn Cường , Hồ Đăng Huy TÓM TẮT Những phát triển nghiên cứu gần đây cố Monetary Policy, Inflation Adjustment) được gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS – LM xem là có nhiều ưu điểm khi mô phỏng nền (Investment – Saving/ Liquidity Preference - kinh tế với chức năng của lãi suất thực, giúp Money Supply) trong phân tích chính sách khi kiềm chế lạm phát nhưng đảm bảo mức tăng cố gắng thay thế vai trò của giá cả bằng mức sản lượng của nền kinh tế. Mặc dù đây chưa lạm phát và sử dụng lãi suất như là công cụ phải là khuôn khổ thay thế hoàn hảo nhưng đã đại diện cho hành động của Ngân hàng Trung góp phần xây dựng mô hình phân tích chính Ương (NHTW) hơn là cung tiền. Mô hình sách trở nên thực tế và hợp lý hơn. đề xuất IS – MP – IA (Investment – Saving, Từ khóa: mô hình IS – LM, mô hình Keynesian mới, mô hình IS – MP – IA. A NEW KEYNESIAN MODEL WITHOUT THE LM CURVE ABSTRACTS Recently researches try to reduce the role advantages with the real interest rate that of the model IS-LM in the analyzing economic controlling inflation but increasing an output policy. These studies try to replace the role of of the economy. This model is an incomplete the price by the inflation and the interest rate one but this contributes to building the rational which are considered as the policy tools for macroeconomic model. Central Banks. The model IS - MP - IA has Keywords: IS – LM model, New Keyensian model, IS – MP – IA model. 1. TỔNG QUAN VỀ CÁCH TIẾP CẬN MỚI Mô hình này thiếu nền tảng kinh tế vi mô Mô hình IS-LM là lý thuyết tổng quát về do đơn giản hóa sự phức tạp của nền kinh tổng cầu. Các biến ngoại sinh trong mô hình tế đối với một số mối quan hệ giữa các chủ này là chính sách tiền tệ, chính sách tài chính và thể trong nền kinh tế, giả định về giá cả cứng mức giá. Mô hình giải thích hai biến nội sinh là nhắc, không cho thấy ảnh hưởng đối với yếu lãi suất và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, giống tố kỳ vọng. Một thay đổi lớn là các cuộc tranh với tất cả mô hình đã nghiên cứu, IS – LM cũng luận giữa các nhà khoa học về hiệu quả tương không phải là mô hình tổng quát. đối của chính sách tiền tệ và tài khóa là trọng * ThS. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương. NCS. Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh. ĐT: 0906.672.588, Email: nhchung@ktkt.edu.vn ThS. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương, Email: tvcuong@ktkt.edu.vn CN. GV. Trường Đại học Kinh Tế - Kỹ Thuật Bình Dương, Email: hdhuy@ktkt.edu.vn 12
  2. Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM tâm của kinh tế vĩ mô trong những năm 1960 - M2 sang công cụ lãi suất. Một phần nguyên 1970 thì hiện nay có ít ý nghĩa trong việc phân nhân là tính phức tạp của việc sử dụng khối tích các biến động ngắn hạn. Thực tế, một thay lượng tiền, sự không bền vững của cầu tiền có đổi quan trọng là hầu hết các NHTW, bao gồm nguyên nhân từ sự bất ổn trong ngắn hạn, trong cả Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), giờ đây ít đó phải kể đến sự tăng lên không được dự tính quan tâm đến việc tổng khối lượng cung tiền trong nhu cầu về tiền làm dịch chuyển đường trong việc thực thi chính sách (được xem là LM, dẫn đến điểm cân bằng khác so với cân giả định cơ bản của mô hình IS – LM). bằng mà NHTW dự tính khi quyết định mục Tóm lại, những phát triển gần đây đang cố tiêu về cung ứng tiền tệ tạo điều kiện để các gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS - LM NHTW của các nền kinh tế hiện đại chuyển trong phân tích chính sách. Điều này dẫn đến sang điều hành lãi suất thay cho mục tiêu về câu hỏi liệu mô hình IS-LM có còn là sự lựa cung tiền với tư cách là cơ sở cho quy tắc về chọn tốt nhất như là mô hình cơ bản đại diện CSTT dần được loại (Orphanides, 2007). cho các dao động trong ngắn hạn và sử dụng Hình 1: Sự tăng lên không được dự tính trong như là cơ sở cho phân tích chính sách. Một số nhu cầu về tiền nghiên cứu gần đây cố gắng làm giảm đi vai trò của mô hình IS – LM trong phân tích chính sách và chỉ ra các hạn chế này là trọng yếu trong phân tích chính sách hiện nay. Thứ nhất, nghiên cứu của Romer (2012) đã thay thế đường cong LM (giả định rằng NHTW đặt mục tiêu cung tiền) với giả định rằng NHTW thực hiện theo một quy tắc lãi suất thực. Cách tiếp cận mới này có lợi thế rõ ràng trong việc giải quyết vấn đề mà mô hình IS-LM giả định thông qua mục tiêu cung tiền. Thứ hai, một nguyên nhân khác có thể thấy rằng vai trò của NHTW ngày càng trở nên Theo hình 1, đường LM1 tương ứng với quan trọng, nếu như trước đây để tìm hướng đi nhu cầu tiền ở mức “thấp” (vì có sự gia tăng và công cụ thích hợp để điều hành CSTT hiệu đầy đủ về cung ứng tiền tệ) và LM2 tương quả bằng cách kiểm soát khối lượng tiền tệ ứng với nhu cầu tiền ở mức “cao”. Giả định với công cụ là tổng phương tiện thanh toán nhu cầu về tiền tăng lên nhưng NHTW chưa M1 sau đó chuyển sang M2. Tuy nhiên với biết, chưa xác định hay chưa lượng hóa được sự phát triển của thị trường tài chính đi cùng việc này. Khi lựa chọn mục tiêu về cung tiền, với các tài sản tài chính phái sinh cao cấp ra NHTW kỳ vọng nền kinh tế tại E1 nhưng thực đời (MBS, CDO, CDS, )1 việc xác định tổng tế những dịch chuyển không thấy trước trong phương tiện thanh toán là rất khó khăn. Vì vậy nhu cầu về tiền khiến nền kinh tế tại E2. Đây các NHTW đặc biệt là FED đã chuyển dần không phải là điều mà CSTT theo đuổi khi đặt cách thức điều hành CSTT từ công cụ mục tiêu mục tiêu về cung tiền. 1 MBS: Mortgage Backed Securities; CDO: Collateralized Debt Obligation; CDS: Credit Default Swap 13
  3. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 2. KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH IS – LM Giao điểm của IS - LM chỉ ra sự kết hợp Mô hình giản lược IS - LM mô tả kinh tế sản lượng và lãi suất mà cả thị trường hàng vĩ mô sử dụng hai mối quan hệ liên quan đến hóa và thị trường tiền tệ đều cân bằng; giao sản lượng và lãi suất. Mối quan hệ đầu tiên điểm này cho thấy sản lượng và lãi suất cân liên quan đến thị trường hàng hóa. Lãi suất bằng trong nền kinh tế. Việc tăng chi tiêu của cao hơn làm giảm nhu cầu hàng hoá ở một chính phủ hoặc giảm thuế sẽ làm dịch chuyển mức thu nhập nhất định. Trong hầu hết các đường cong IS sang bên phải, do đó tăng sản công thức của mô hình, nó làm giảm nhu cầu lượng và lãi suất khi nền kinh tế dịch chuyển đầu tư; mô hình cũng làm giảm nhu cầu về lên theo đường cong LM. Mức độ ảnh hưởng tiêu dùng nói chung. Trong các phiên bản nền đến sản lượng phụ thuộc vào độ dốc của hai kinh tế mở với tỷ giá hối đoái thả nổi, tăng giá đường cong và mức độ dịch chuyển của đường đồng nội tệ làm giảm xuất khẩu ròng. Lãi suất cong IS. Tương tự như vậy, sự gia tăng của cao làm giảm nhu cầu, nó làm giảm mức sản cung về số dư tiền tệ thực tế làm đường LM lượng thấp hơn mức sản lượng cân bằng của dịch chuyển xuống dưới và sự giảm sút của nền kinh tế. Do đó, có một mối quan hệ nghịch cung về số dư tiền tệ thực tế làm đường LM biến giữa sản lượng và lãi suất, mối quan hệ dịch chuyển lên trên, do đó làm giảm (tăng) này được gọi là đường cong IS. lãi suất và sản lượng. Mức độ ảnh hưởng của sản lượng phụ thuộc vào độ dốc và mức độ mà Mối quan hệ thứ hai liên quan đến thị đường cong LM di chuyển. trường tiền tệ, biểu thị mối quan hệ giữa lãi suất và thu nhập hình thành trên thị trường về Mô hình giả định là phiên bản với mức số dư tiền tệ thực tế dựa trên lý thuyết ưa thích giá cố định; do đó nó không thể được sử thanh khoản1. Khi thu nhập càng cao, nhu cầu dụng để phân tích lạm phát. Bởi vì lạm phát ít về số dư thực tế càng cao và lãi suất cân bằng được quan tâm (hay mức lạm phát thấp) trong cũng càng cao, điều này làm đường LM dốc những năm 1950 - 1960, vì vậy mô hình IS- lên. Đường LM được vẽ cho mức cung nhất LM cơ bản rất có giá trị. Nhưng khi lạm phát định về số dư tiền tệ thực tế, thể hiện mối quan trở nên quan trọng (hay lạm phát tăng mạnh) hệ tỉ lệ thuận giữa sản lượng và lãi suất. vào cuối những năm 1960 - 1970, mô hình cần phải thay đổi. Sự gia tăng của lạm phát dẫn Hình 2: Biểu đồ IS - LM tới việc mở rộng mô hình IS - LM kết hợp tổng cung (AS), dẫn đến mô hình IS-LM-AS được sử dụng ngày nay. Các lý do chủ yếu của việc sử dụng mô hình mở rộng mô hình IS-LM là do sản lượng cao hơn dẫn đến mức giá cao hơn. Tác động của sản lượng đối với mức giá có thể là trực tiếp thông qua quyết định giá của các doanh nghiệp, hoặc gián tiếp thông qua tiền lương. Việc thiếu tính linh hoạt danh nghĩa hoàn toàn (đường cong AS ở trong không gian y – r thường dốc hay không phải 1 Lý thuyết ưa thích thanh khoản là một mô hình đơn giản về xác định lãi suất. Lý thuyết này coi cung ứng tiền tệ và mức giá là yếu tố ngoại sinh và giả định rằng lãi suất điều chỉnh để cân bằng cung và cầu về số dư tiền tệ thực tế. Nó hàm ý rằng sự gia tăng cung tiền làm giảm lãi suất (Nguyễn Văn Ngọc, 2009). 14
  4. Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM là đường thẳng đứng) là do tính chất của thị gọi là đường tổng cầu. Đường tổng cầu và trường không hoàn hảo. Kết quả là, sự dịch tổng cung sau đó sẽ xác định sản lượng và chuyển của đường tổng cầu làm cho sản lượng mức giá. tạm thời lệch khỏi mức sản lượng tự nhiên. Hình 3: Biểu đồ tổng cung cầu - tổng cầu Hay từ phương trình tổng cung (Nguyễn Văn Ngọc, 2009): e YY−=α() PP − với α > 0 Trong đó Y là sản lượng, Y là sản lượng e tự nhiên, P là mức giá và P là mức giá dự kiến (hay kỳ vọng về giá cả). Tham số α cho biết sản lượng phản ứng như thế nào đối với những thay đổi bất ngờ của mức giá, với độ dốc của đường tổng cung bằng 1/α. Phương trình này nói rằng độ lệch sản lượng khi mức giá lệch khỏi mức giá dự kiến (xác định thông qua kỳ vọng hợp lý hay dựa trên mức Mô hình IS - LM - AS có thể được xem là lạm phát trong quá khứ, hoặc là sự kết hợp cả khá đơn giản để phân tích các biến động kinh hai yếu tố này). Và 4 mô hình tổng cung dưới tế ngắn hạn hiện nay. Hai mô hình được biết đây nhấn mạnh một nguyên nhân nhất định đến nhiều nhất hiện nay phải kể đến mô hình cho rằng mức giá cứng nhắc và việc không làm cho sản lượng biến đổi cùng với những đưa vào nền tảng vi mô cho mô hình kinh tế thay đổi về mức giá1 . vĩ mô. Do đó, mô hình IS- LM-AS (Investment/ Đầu tiên, tính cứng nhắc cho thấy việc Saving - Liquidity Preference/Money Supply thiếu điều chỉnh danh nghĩa hoàn hảo này làm – Aggregate Supply) bao gồm ba phương cho thay đổi tiền tệ ảnh hưởng đến sản lượng trình: sản lượng, lãi suất, và mức giá. Tuy thực trong ngắn hạn. Nó cũng tạo ra một kênh, nhiên, việc mô tả một mô hình ba phương thông qua đó, những thay đổi khác trong tổng trình bằng đồ thị tương đối là khó khăn. Sự cầu, chẳng hạn như những thay đổi trong chi kết hợp giữa đường cong IS và LM có được tiêu của chính phủ, có tác động thực sự. Đây mối quan hệ giữa sản lượng và mức giá. Với được xem như là một cơ sở hợp lý để hiểu chức năng cung tiền (giả định nền tảng là được sự biến động thực tế nhất. đường cong LM) một mức giá cao hơn làm giảm cân bằng tiền thực. Do đó, đối với một Thứ hai là việc mô hình loại bỏ các nền mức thu nhập nhất định, mức lãi suất tại điểm tảng kinh tế vi mô như nhu cầu tiêu dùng, đầu cân bằng tăng lên. Đường cong LM thay tư, chủ yếu dựa trên các lập luận trực quan. đổi, đường cong IS và LM giao cắt nhau ở Lợi ích của việc thiếu cơ sở này là đơn giản mức sản lượng thấp hơn trước. Mối quan hệ hoá rất lớn. Ngay cả những mô hình đơn giản nghịch đảo giữa mức giá và sản lượng được nhất với nền tảng kinh tế vi mô là khó hơn 1 Theo Nguyễn Văn Ngọc (2009), bốn mô hình tổng cung đó là: mô hình tiền lương cứng nhắc, mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, mô hình thông tin không hoàn hảo và mô hình giá cả cứng nhắc. 15
  5. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nhiều so với các thành phần tương ứng của sản lượng và lạm phát mới là mối quan tâm IS-LM-AS1. Khi chuyển từ các tính năng cơ hiện tại. bản của mô hình IS-LM-AS sang các phiên Ví dụ, ở Hoa Kỳ sau chiến tranh, các cú bản của nó nhưng các phiên bản này được sốc bất lợi đối với tổng cầu đã dẫn tới sự sụt xem là khó, không nhất quán hoặc không giảm của lạm phát, chứ không phải là giảm thực tế. Một là, mặc dù nghiên cứu đã đề cập trong mức giá, biểu hiện thông qua số dư tiền đến biến số lãi suất, nhưng thực tế lãi suất tệ thực tế (M/P) tại Hình 3. CSTT chỉ dẫn đến khác nhau có liên quan đến các bộ phận khác sự dịch chuyển có tính chất thu hẹp của đường nhau của mô hình: lãi suất thực có liên quan cầu khi số dư tiền tệ thực tế giảm. Nhưng bằng đến nhu cầu hàng hóa (đường cong IS) trong chứng thực nghiệm đã chỉ ra từ năm 1929 – khi lãi suất danh nghĩa có liên quan đến cầu 1931 tại Mỹ, số dư tiền tệ thực tế lại tăng nhẹ tiền (đường cong LM). Hai là, tổng cầu và (M/P); nguyên nhân là sự sụt giảm cung ứng tổng cung đại diện cho mối quan hệ giữa sản tiền tệ (M) đi kèm sự sụt giảm của mức giá (P) lượng và mức giá, trong khi biến động của nhưng lớn hơn (Nguyễn Văn Ngọc, 2009). Hình 4: Số dư tiền tệ thực tế tại Mỹ giai đoạn 1929 – 1940 Nguồn: Nguyễn Văn Ngọc (2009) Thứ ba, mô hình giả định rằng NHTW sẽ khác nhau trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ấn định cung tiền nhưng hầu hết các NHTW ít dài hạn, giá cả linh hoạt và đường tổng cung là quan tâm đến việc cung tiền trong việc thực thi đường thẳng đứng. Ngược lại trong ngắn hạn, chính sách. Tuy nhiên, khi bàn về tổng cung, giá cả cứng nhắc và đường tổng cung không có thể kết luận rằng tổng cung biểu hiện rất thẳng đứng. Trong trường hợp này thì sự dịch 1 Giả thuyết về thu nhập vĩnh viễn cho thấy những thay đổi trong thu nhập khả dụng (disposable income) hiện nay chỉ ảnh hưởng đến tiêu dùng trong phạm vi ảnh hưởng đến thu nhập vĩnh viễn, trong khi hàm tiêu dùng trong mô hình IS-LM-AS truyền thống hàm ý rằng chúng có ảnh hưởng lớn đến tiêu dùng khả dụng. Sự thật dường như nằm ở giữa (ví dụ Campbell và Mankiw, 1989). Do đó chuyển từ giả thiết ngẫu nhiên (ad hoc) trong IS-LM-AS sang một công thức tương đối đơn giản dựa trên tối ưu hóa thời gian dường như không có lợi ích thực tế, nhưng dễ dàng phát sinh một chi phí lớn. Sự đánh đổi tương tự cho việc phân tích nhu cầu đầu tư, cầu tiền, tính cứng nhắc về giá cả và chắc chắn rằng trong các nền tảng kinh tế vi mô thì các mô hình đơn giản nhất cũng phức tạp và không thực tế so với các mô hình IS-LM-AS. 16
  6. Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM chuyển của đường tổng cầu là nguyên nhân chuyển của dường tổng cầu dẫn đến những gây ra sự biến động của tổng sản lượng1. biến động ngắn hạn của sản lượng. Phần tiếp theo mô tả một sự thay thế cụ 3. MÔ HÌNH IS – MP – IA thể cho mô hình IS-LM-AS. Giống như IS- Giả định chính của cách tiếp cận mới là LM-AS, phương án thay thế giả định sự điều NHTW thực hiện theo một quy tắc lãi suất chỉnh danh nghĩa không hoàn hảo và thiếu thực; như là một chức năng của các biến số nền tảng vi mô. Sự thay đổi là nó thay thế giả kinh tế vĩ mô như lạm phát và sản lượng. Giả định rằng NHTW đặt mục tiêu cung tiền với thiết này mô tả cách thức các NHTW thực thi giả định nó dựa trên quy tắc lãi suất đơn giản. chính sách hơn giả định rằng các NHTW tuân Nghiên cứu của Romer (2000) giới thiệu các theo quy tắc cung tiền. Các NHTW ở hầu hết tính năng thiết yếu của cách tiếp cận mô hình các nước công nghiệp tập trung vào lãi suất mới, so sánh nó với mô hình IS-LM-AS và cho vay giữa các ngân hàng trong việc hoạch giải thích lý do tại sao nó thích hợp hơn. định chính sách ngắn hạn của họ. Ví dụ tại Hình 5: Sự dịch chuyển của đường cổng cầu Hoa Kỳ, Cục Dự trữ Liên Bang thực thi chính (Nguyễn Văn Ngọc, 2009) sách tiền tệ chủ yếu bằng cách sử dụng lãi suất dự trữ liên bang. Việc phân biệt giữa quy tắc lãi suất và quy tắc cung tiền nhằm hiểu được mục tiêu hoạt động của các NHTW. Ví dụ, nếu NHTW điều chỉnh lãi suất cho vay liên ngân hàng để duy trì mức cung tiền càng gần với đường mục tiêu bên ngoài nên đây được xem là chính sách tiền tệ mục tiêu. Nhưng hầu hết các NHTW không ứng xử theo cách này. Tại Hoa Kỳ, Cục Dự trữ Liên Bang lựa chọn lãi suất dự trữ liên bang để đạt được mục tiêu Hình 5 sử dụng phương trình tổng cung lạm phát và sản lượng, cung tiền đóng vai trò để chỉ ra phản ứng của nền kinh tế đối với sự nhỏ nhất trong những lựa chọn đó (cung tiền gia tăng bất ngờ của tổng cầu. Trong ngắn chỉ đóng một vai trò quan trọng trong chính hạn, điểm cân bằng chuyển từ A đến B. Sự sách trong giai đoạn 1979 – 1982). Thật vậy, gia tăng tổng cầu làm cho mức giá tăng lên định hướng chính sách của FED trong 18 năm trên mức giá dự kiến và sản lượng cao hơn qua (tính từ năm 2000) được mô tả rõ ràng mức tự nhiên. Trong dài hạn, do mức giá dự bằng một chức năng đơn giản về lạm phát và kiến tăng, cho nên đường tổng cung ngắn hạn sản lượng (Taylor, 1993). Ngay cả ở Đức, nơi dịch chuyển lên trên. Vì mức giá dự kiến tăng, có các mục tiêu tiền tệ bắt đầu từ năm 1975 điểm cân bằng của nền kinh tế chuyển từ B và khi các mục tiêu đó đóng một vai trò quan đến C. Nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng trọng trong các cuộc thảo luận chính sách tự nhiên, nhưng với mức giá còn cao hơn nữa. chính thức từ thập niên 70 - 90 tốt hơn được Nhưng có thể thấy rằng bằng cách đó, sự dịch mô tả bởi một quy tắc lãi suất hơn là nhắm đến 1 Thực tế, đường tổng cung ngắn hạn không hoàn toàn thẳng đứng vì tính chất không hoàn hảo của thị trường. Do đó tổng cung có bốn mô hình nổi bật bao gồm: Mô hình tiền lương cứng nhắc, mô hình nhận thức sai lầm của công nhân, mô hình thông tin không hoàn hảo và mô hình giá cả cứng nhắc. 17
  7. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật mục tiêu cung tiền. NHTW Đức đã sẵn sàng từ hai cho giả định rằng NHTW thực hiện theo bỏ mục tiêu cung tiền khi điều đó mâu thuẫn một quy tắc lãi suất thực là tính đơn giản và sự với những mục tiêu kinh tế vĩ mô. Kết quả là, gắn kết của mô hình. Trong mô hình IS-LM, người ta có thể đưa ra một mô tả hoàn thiện về vì lãi suất thực có liên quan đến đường cong chính sách tiền tệ của Đức trong 18 năm qua IS và lãi suất danh nghĩa liên quan đến đường (tính từ năm 2000) về điều chỉnh lãi suất của cong LM nên sự thay đổi trong lạm phát kỳ NHTW Đức đối với lạm phát, sản lượng và tỷ vọng sẽ làm thay đổi đường LM (không gian giá hối đoái đồng thời đánh giá vai trò thứ yếu y – r thực), đường cong IS (không gian y – của cung tiền. r danh nghĩa). Hơn nữa, kể từ khi lạm phát được xác định tồn tại trong mô hình, lạm phát 4. CÁC ƯU ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH TIẾP kỳ vọng và các chuyển động của một đường CẬN IS – MP - IA cong tương đối so với các đường cong khác 4.1. NHTW điều hành chính sách theo lãi nên được xác định trong mô hình là tốt. Tuy suất thì phù hợp hơn so với cung tiền nhiên việc cố gắng để phát triển một mô hình Với đặc điểm này thì mô hình nghiên cứu nhưng quá phức tạp để giải thích một cách dễ sử dụng để thảo luận chính sách thì dễ dàng hiểu nên trong mô hình IS-LM cơ bản thì dự hơn. Ví dụ, các nghiên cứu về quyết sách của báo lạm phát vẫn là biến ngoại sinh. NHTW liên quan đến lãi suất phổ biến hơn Vì kỳ vọng về lạm phát ảnh hưởng đến nhiều so với việc NHTW sử dụng cung tiền. sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất Một ưu điểm quan trọng của cách tiếp cận mới nghiệp, nên vấn đề quan trọng đặt ra là kỳ là quy tắc lãi suất thực. Hầu hết các NHTW vọng được hình thành của các chủ thể kinh sử dụng lãi suất liên ngân hàng danh nghĩa là tế. Một cách tiếp cận được gọi là kỳ vọng hợp công cụ ngắn hạn. Tuy nhiên, có hai lý do để lý giả định mọi người sử dụng tối ưu tất cả tập trung vào một quy tắc lãi suất thực. thông tin hiện có, trong đó có thông tin về các Lý do đầu tiên là tính thực tế. Khi NHTW chính sách hiện hành, để dự báo về tương lai. cố định tỷ giá danh nghĩa, lạm phát dự kiến Vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa tác tăng sẽ làm giảm lãi suất thực cho đến khi ngân động đến lạm phát, nên lạm phát kỳ vọng cũng hàng xem xét lại sự lựa chọn của nó đối với lãi phụ thuộc vào chính sách tiền tệ và tài khóa suất danh nghĩa. Như vậy trong thời gian rất hiện đang có hiệu lực. Theo lý thuyết kỳ vọng ngắn, quy tắc lãi suất danh nghĩa cung cấp mô hợp lý, sự thay đổi trong chính sách tiền tệ tả tốt hơn về hành vi của NHTW so với quy tắc hoặc tài khóa làm thay đổi kỳ vọng. Cách tiếp lãi suất thực. Nhưng các NHTW lại xem xét cận này hàm ý lạm phát có sức ỳ thấp. lại sự lựa chọn của họ về lãi suất danh nghĩa. Trong trường hợp lý tưởng nhất, người ta Khi họ quyết định có nên thay đổi mức lãi suất có thể hình dung ra biện pháp cắt giảm tỷ lệ danh nghĩa mục tiêu, họ sẽ thay đổi lạm phát lạm phát mà không tạo ra bất kỳ sự suy thoái kỳ vọng; do đó họ đang quyết định làm thế nào. Điều kiện để thực hiện bao gồm: Thứ nào để thiết lập mức lãi suất thực1. Lý do thứ nhất, kế hoạch cắt giảm lạm phát phải được 1 Cục dự trữ liên bang tăng lãi suất Quỹ Liên Bang danh nghĩa ít nhất một lần với lạm phát kỳ vọng tăng lên trong một số giai đoạn quan trọng trong những năm 1980 (Goodfriend, 1993). Một khi chúng ta xem xét các vấn đề trong thời gian dài thì quy tắc lãi suất thực là phù hợp hơn so với quy tắc lãi suất danh nghĩa. 18
  8. Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM công bố trước khi công nhân và doanh nghiệp quy tắc lãi suất thực này sẽ thay thế đường – những người quy định tiền lương và giá cả cong LM của các mô hình Keynesian thông - hình thành kỳ vọng của họ. Thứ hai, công thường (Romer, 2000). nhân và doanh nghiệp phải tin ở lời công bố 4.3. Quy tắc lãi suất thực thì đơn giản hơn đó, nếu không họ sẽ không cắt giảm kỳ vọng đường cong LM của mình về lạm phát. Khi cả hai yêu cầu được Quy tắc lãi suất thực là giả thuyết trực tiếp đáp ứng, lời công bố sẽ lập tức có tác dụng về hành vi của NHTW, trong khi đường cong làm dịch chuyển sự đánh đổi ngắn hạn giữa LM được rút ra từ phân tích của thị trường tiền lạm phát và thất nghiệp xuống dưới, cho phép tệ. Với cách tiếp cận mới, người ta có thể đánh các nhà hoạch định chính sách cắt giảm tỷ lệ giá được các vấn đề quan trọng nhanh chóng lạm phát mà không làm tăng thấy nghiệp. Như và dễ dàng hơn. Đồng thời các nhà chính sách vậy có thể thấy rằng kỳ vọng về lạm phát tác có thể xem vai trò của thị trường tiền tệ dùng động đến sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát để thảo luận cơ chế của NHTW kiểm soát mức và thất nghiệp. Bằng cách giả định rằng chính lãi suất thực tế chỉ mang tính chất tham khảo. sách tiền tệ tập trung vào lãi suất thực. Với giả Ngoài ra, NHTW không cần chú ý đến giả định này, lạm phát kỳ vọng chỉ có ý nghĩa kỹ định về thị trường hoàn hảo phi thực tế khi thuật mà NHTW đang phải đối mặt để điều điều hành chính sách theo quy tắc lãi suất. chỉnh cung tiền thực. yy Mô hình IS – MP và đồ thị AD – IA 4.2. Mô hình mới mô tả chính sách tiền tệ (Aggregate Demand – Inflation Adjustment) theo quy tắc lãi suất thực. Khi NHTW cho rằng lãi suất thực chỉ Lãi suất thực mục tiêu phải phụ thuộc vào phụ thuộc vào lạm phát, đối với một tỷ lệ lạm lạm phát để giữ cho lạm phát tăng hoặc giảm phát nhất định, quy tắc lãi suất thực chỉ là một mà không bị ràng buộc. Ví dụ, cố định lãi suất đường nằm ngang trong không gian y – r thực. thực sẽ tạo ra lạm phát hoặc giảm phát, trừ Bài nghiên cứu đề cập đến đường cong MP khi lãi suất cố định bằng với tỷ lệ lãi suất mà (đối với chính sách tiền tệ). Nó được thể hiện là nguyên nhân làm sản lượng bằng với mức cùng với một đường cong IS chuẩn dốc xuống sản lượng tự nhiên. Khó khăn này là một ví dụ như trong Hình 6. cụ thể của việc chính sách tiền tệ phải có một neo danh nghĩa nếu nó dùng để giữ các biến Hình 6: Mô hình IS - MP danh nghĩa khỏi sự tăng hoặc giảm mà không bị ràng buộc. Quy tắc lãi suất thực đơn giản nhất là mức làm cho lãi suất thực là một hàm của lạm phát: r = r (π). NHTW muốn có lạm phát thấp và sản lượng cao. Khi lạm phát cao, NHTW tập trung vào mục tiêu tăng lãi suất thực cao để thu hẹp sản lượng và làm giảm lạm phát. Điều này hoàn toàn phù hợp với cơ chế điều hành chính sách của Fed trong giai đoạn 2017 – 2018 khi Fed chủ trương tăng lãi suất. Khi lạm phát thấp, lãi suất thực được duy trì thấp trở lại để gia tăng sản lượng. Như vậy 19
  9. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Giao điểm của IS - MP xác định mức sản 4.4. Trong cách tiếp cận mới, đường tổng lượng và lãi suất thực cho một mức lạm phát cầu liên quan đến lạm phát và sản lượng nhất định. Nói cách khác, lạm phát xác định Trong cách tiếp cận AD - AS truyền thống, lãi suất thực của NHTW và đường cong IS đường tổng cầu (AD) liên quan đến mức giá và sẽ quyết định sản lượng. Theo giả thiết, sự sản lượng. Do đó, cần phải giải thích rằng mô gia tăng lạm phát khiến NHTW tăng lãi suất hình ngụ ý cú sốc tổng cầu tiêu cực không thực thực. Do đó đường cong MP tăng lên. Sự dịch sự dẫn tới một mức giá thấp nhưng góp phần chuyển được thể hiện trong biểu đồ trên cùng làm cho mức giá thấp hơn mức giá mục tiêu. của Hình 6. Nền kinh tế đi lên theo đường cong IS và do đó sản lượng sẽ giảm. Do đó, có một Bước còn lại là đề cập đường tổng cung mối quan hệ nghịch biến giữa lạm phát và sản (Taylor,1998). Cách tiếp cận này giả định rằng lượng (biểu đồ dưới của Hình 7). Do mối quan lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào được đưa ra hệ này tóm tắt yêu cầu của nền kinh tế nên tự và nếu không có cú sốc lạm phát, lạm phát nhiên gọi nó là đường tổng cầu. Tuy nhiên, ở tăng lên khi sản lượng cao hơn tỷ lệ tự nhiên đây khi lạm phát cao làm cho NHTW tăng lãi và giảm khi sản lượng thấp hơn tỷ lệ tự nhiên suất thực làm giảm sản lượng. Mặt khác, trong của nó. Có hai giả định ở đây. Thứ nhất là tác mô hình IS-LM mức giá cao hơn làm giảm động trực tiếp của việc gia tăng tổng cầu sẽ mức cung tiền thực và làm tăng lãi suất cân giảm hoàn toàn sản lượng. Giả định này là một bằng ở một mức sản lượng nhất định. sự đơn giản hóa thuận tiện; và thực tế rằng sản lượng dường như phản ứng nhanh hơn lạm Hình 7: Đường cong tổng cầu phát đối với cú sốc tổng cầu cho thấy đó là một sự ước lượng hợp lý (Gordon, 1990). Thứ hai là khi sản lượng bằng với mức sản lượng tự nhiên và không có cú sốc lạm phát, lạm phát sẽ ổn định. Giả định này phù hợp với bằng chứng về tính “ì” của lạm phát, vì vậy lạm phát không thể giảm được nếu sản lượng dưới mức sản lượng tự nhiên. Giả định rằng lạm phát được đưa ra tại một thời điểm có nghĩa là đường tổng cung ngắn hạn là đường nằm ngang trong không gian y - π. Do mối quan hệ nhằm xác định lạm phát thay đổi như thế nào với sản lượng, nghiên cứu xác định đó là yếu tố lạm phát điều chỉnh (IA). Hình 8 cho thấy các đường cong AD và IA. Giao điểm của họ xác định lạm phát và sản lượng. Cơ chế của mô hình là đơn giản. Lạm phát được lấy dữ liệu từ quá khứ của nền kinh tế. Lạm phát xác định lãi suất thực và lãi suất thực sẽ quyết định sản lượng. 20
  10. Hình 8: Xác định sản lượng và lạm phát thời điểm đến khi nền kinh tế bị tác động bởi các cú sốc. Một sự thay đổi về sản lượng do tác động của lạm phát buộc các NHTW điều chỉnh lãi suất thực để cho sản lượng trở lại mức cân bằng. Cơ chế hoạt động này cho phép mô tả diễn biến của các biến số vĩ mô chủ yếu từ thời điểm xảy ra cú sốc cho đến khi nền kinh tế quay trở lại trạng thái cân bằng dài hạn. Cơ chế giải thích như vậy phù hợp với các bằng chứng về thời kỳ giảm phát liên quan đến việc sản lượng dưới mức cân bằng nhưng lãi suất thực cao. 4.5. Mô hình giản lược không có đặc tính 4.6. Động lực của mô hình rất đơn giản đồng nhất và hợp lý Trong Hình 7, các đường cong tổng cầu Ngược lại trong mô hình IS-LM-AS bất (AD) và điều chỉnh lạm phát (IA) giao nhau cứ khi nào tăng cung tiền và lạm phát khác tại điểm mà sản lượng thấp hơn mức sản lượng nhau, khi thay đổi cung tiền thật, đường LM tự nhiên Y . Giả thuyết điều chỉnh lạm phát là sẽ thay đổi. Kết quả là nền kinh tế sau cú sốc sản lượng thấp hơn bình thường sẽ làm giảm thường có sản lượng vượt quá mức sản lượng lạm phát. Do đó đường IA giảm xuống. Nó dễ tự nhiên và xoắn ốc trong không gian y - π. dàng hơn và thực tế hơn để giả định rằng nó Những diễn biến này tương đối phức tạp. Một thay đổi liên tục chứ không phải rời rạc. Nền ví dụ có thể làm cho mô hình rõ ràng hơn. Nền kinh tế đi xuống dọc theo đường tổng cầu AD, kinh tế bắt đầu trong trạng thái cân bằng dài với lạm phát giảm và sản lượng tăng. Hiện hạn: sản lượng ở mức tự nhiên và lạm phát ổn tượng này được thể hiện trong Hình 8. định. Sau đó, niềm tin tiêu dùng giảm. Cụ thể, Hình 9: Điều chỉnh cân bằng trong dài hạn hàm tiêu dùng giảm xuống, do đó mức tiêu thụ tương ứng với mức thu nhập thấp hơn trước. Chúng ta có thể sử dụng sơ đồ IS-MP để tìm ra hiệu ứng ngắn hạn cho sản lượng. Sự sụt giảm trong niềm tin của người tiêu dùng làm dịch chuyển đường cong IS sang trái. Khi lạm phát không phản ứng ngay lập tức, đường cong MP không di chuyển. Do đó phân tích của IS-MP hàm ý rằng trong ngắn hạn, sản lượng giảm và lãi suất thực không thay đổi. Phân tích tương tự cũng hàm ý rằng ở bất kỳ mức lạm phát nào, sản lượng thấp hơn nó Quá trình này tiếp tục cho đến khi sản đã có trước đó. Tức là, sự sụt giảm niềm tin lượng đạt đến mức sản lượng tự nhiên (điểm của người tiêu dùng làm thay đổi đường tổng ELR trong hình). Vào thời điểm đó, lạm phát là cầu sang trái. Sự thay đổi được thể hiện trong ổn định, và ở đó không có thêm thay đổi cho hình 10. 21
  11. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Hình 10: Ảnh hưởng của sự sụt giảm về hành nếu tăng cung tiền mà không làm giảm lãi suất vi tiêu dùng thực thì quy tắc này không có ý nghĩa. Để phân tích vấn đề này, bước đầu tiên là phân tích lãi suất danh nghĩa thành lãi suất thực và lạm phát kỳ vọng. Như vậy, điều kiện cân bằng trên thị trường tiền tệ trở thành M/P = L(i, Y). Lãi suất thực hiện xuất hiện rõ ràng trong điều kiện cân bằng. Cách dễ nhất để tiến hành là bắt đầu bằng việc đảm bảo tính chắc chắn về giá cả, ngay cả bây giờ và trong tương lai. Tức là, mức giá bằng một số giá trị bên ngoài và lạm phát kỳ vọng luôn luôn là không. Phân tích trường hợp này cho thấy NHTW có Ảnh hưởng trực tiếp của sự thay đổi này thể ảnh hưởng như thế nào đến lãi suất thực là chuyển nền kinh tế từ E sang E . Lạm phát 0 1 theo những giả định đơn giản và là nền tảng không thay đổi và (như phân tích của IS-MP để phân tích những gì xảy ra khi có sự điều cho thấy) sản lượng giảm. chỉnh giá. Với sản lượng thấp hơn mức tự nhiên, lạm Để phân tích khả năng của NHTW trong phát bắt đầu giảm. Khi nó giảm, NHTW hạ việc tác động đến lãi suất thực dưới giả định thấp lãi suất thực, tăng sản lượng (nền kinh tế về giá cả hoàn hảo, cần phải xem xét giả đi xuống dọc theo đường cong tổng cầu AD , 1 định tiêu chuẩn khi thị trường tiền tệ bước như mũi tên trong hình). Quá trình này tiếp tục đầu cân bằng thì NHTW tăng cung tiền. Vì cho đến khi sản lượng được khôi phục theo mức giá là cố định, số dư tiền thực M/P tăng. tỷ lệ tự nhiên (điểm E trong hình). Kết quả LR Với lạm phát kỳ vọng cố định ở mức 0, nhu cuối cùng là lạm phát thấp hơn và lãi suất thực cầu về số dư tiền thực là L(r, Y). Việc cung thấp hơn. Hướng tiếp cận này dường như mô cấp số dư thực sự hiện nay vượt quá nhu cầu tả được các vấn đề quan trọng của nền kinh ở giá trị ban đầu của r và Y. Khôi phục cân tế Hoa Kỳ trong Chiến tranh vùng Vịnh (năm bằng trên thị trường tiền tệ đòi hỏi r giảm, 1990) và kết quả của nó là giảm sản lượng, Y tăng hoặc là sự kết hợp của cả r và Y. Vì giảm lạm phát và giảm lãi suất dẫn đến sự trở nền kinh tế phải nằm trên đường cong IS, lại dần sản lượng ở mức bình thường. việc tăng cung tiền không thể chỉ làm giảm 4.7. Khái niệm đúng về tiền thì được xem lãi suất thực hay chỉ tăng sản lượng. Thay là rõ ràng trong cách tiếp cận mới vào đó, nền kinh tế di chuyển xuống đường Một hệ quả của quan sát này là phương cong IS, với r giảm và Y tăng lên, cho đến pháp tiếp cận mới cho phép phân loại với sự khi sản lượng cân bằng thực yêu cầu tăng phân tích khó hiểu về cách hệ thống ngân hàng lên để phù hợp với sự gia tăng cung. Như tạo tiền. Vấn đề chính ở đây là liệu việc tăng vậy, trong trường hợp đơn giản này, NHTW cung tiền có làm giảm lãi suất thực. Nếu có, có thể thay đổi lãi suất thực bằng cách thay NHTW có thể điều chỉnh khối lượng cung tiền đổi cung tiền lớn. Và khi giá cả không hoàn để kiểm soát lãi suất thực và do đó có thể thực toàn cứng nhắc thì có hai cách để giá có thể hiện theo một quy tắc lãi suất thực. Nhưng điều chỉnh tăng lượng tiền. 22
  12. Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM Thứ nhất, giá cả có thể hoàn toàn linh 4.8. Một sự kết hợp đầy đủ các thay đổi hoạt, và do đó có thể thay đổi khi tiền tăng. trong lạm phát kỳ vọng vào phân tích tổng Thứ hai, có thể có sự gia tăng dần của mức cầu của mô hình giá đến khi cân bằng dài hạn cao hơn hiện tại. Những thay đổi về lạm phát kỳ vọng ảnh Việc điều chỉnh ngay lập tức một số mức giá hưởng đến việc NHTW phải điều chỉnh lượng làm giảm tác động của việc tăng khối lượng tiền để thực hiện theo quy tắc lãi suất thực tiền về số dư thực. Do đó, một động thái nhỏ của nó nhưng không có tác động đến tổng hơn xuống đường cong IS là cần thiết để khôi cầu. Nghiên cứu đề cập đến cách tiếp cận một phục lại trạng thái cân bằng trên thị trường tiền nền kinh tế mở, mô hình hóa tỷ giá hối đoái tệ hơn là khi giá cả được cố định hoàn toàn. thả nổi trong nền kinh tế với dòng vốn tự do Tương đương, NHTW phải tăng cơ số tiền luân chuyển ra vào, giả định kỳ vọng tỷ giá mặt nhiều hơn trước để đạt được mức giảm là cố định. Với những giả định này, lãi suất thực tế. Nhưng miễn là phản ứng tức thời của thực tế trong nước phải bằng với lãi suất thực mức giá nhỏ hơn sự gia tăng của mức cung thế giới. Do đó, các giả định này đòi hỏi một tiền, NHTW có thể làm giảm lãi suất thực. cách tiếp cận khác với IS - LM, sao cho ở đó lãi suất giúp cân bằng thị trường hàng hóa và Ngược lại, điều chỉnh dần mức giá sau khi thị trường tiền tệ (mô hình IS - MP). Tương tăng cơ số tiền tăng cường trong cung tiền. Nếu mức giá tăng dần sau khi cung tiền tăng tự như vậy, cách tiếp cận thông thường đối sẽ làm tăng lạm phát kỳ vọng. Lãi suất danh với trường hợp tỷ giá hối đoái cố định bắt đầu nghĩa cao hơn trước so với mức lãi suất thực, bằng việc cho biết rằng kể từ khi ấn định tỷ giá và do đó số dư thực đòi hỏi một r và Y nào đó hối đoái đòi hỏi NHTW phải mua bán ngoại tệ thấp hơn trước. Sự mất cân bằng giữa cung và trong nước theo tỷ giá cố định, hệ thống này cầu của cân bằng thực với r cũ và Y do đó lớn sẽ làm cho chính sách tiền tệ trở nên thụ động hơn so với trường hợp giá cố định bền vững, hay ít có ảnh hưởng. Do đó NHTW không thể và vì vậy cần phải di chuyển lớn hơn xuống cung tiền (như trong mô hình IS - LM), cũng đường cong IS để khôi phục lại trạng thái cân không điều chỉnh nó theo quy tắc lãi suất (như bằng. Tương đương một sự gia tăng nhỏ hơn trong IS - MP). trong cơ số tiền là cần thiết để đạt được mức Ở đây, cũng giống như việc thực thi chính lãi suất thực giảm. sách tiền tệ, tính thực tế và đơn giản của mô Điểm quan trọng của phân tích này chỉ hình được thực hiện bằng cách tách rời các đơn giản là sự tăng lên của cơ số tiền làm giảm giả định thông thường. Ý kiến cho rằng các lãi suất thực; ngoại lệ duy nhất là trường hợp NHTW không thể ảnh hưởng đến lãi suất thực không thực tế khi giá cả linh hoạt, để mức giá của nền kinh tế và cung tiền rõ ràng là không thay đổi ngay lập tức bằng tỷ lệ tương tự như chính xác. Hầu hết các NHTW trên thế giới cơ số tiền. Như vậy, ngoại trừ trường hợp này, theo cả hai chính sách tỷ giá hối đoái cố định NHTW có thể thực hiện theo một quy tắc tỷ lệ điều chỉnh lãi suất thực tế trong nước và nguồn lãi suất thực như giả định trong mô hình. Mô cung tiền để kiềm chế lạm phát, kích thích sản tả chính xác cách nó phải điều chỉnh số lượng lượng và duy trì chế độ tỷ giá. Do đó tốt hơn cung tiền cao để đối phó với những rối loạn hết là mô hình nền kinh tế mở theo cách cho khác nhau để làm theo một quy tắc cụ thể là phép lãi suất trong nước khác với lãi suất thế không có sự quan tâm lớn. Phân tích này cho giới, và cho phép NHTW thực hiện theo quy thấy một lợi thế hơn nữa của cách tiếp cận mới: tắc về lãi suất hay chủ động về việc thực thi 23
  13. Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật chính sách tiền tệ. Cụ thể, nghiên cứu sử dụng cong IS phẳng hơn. Nếu sự dịch chuyển gần các giả định thay đổi rằng đầu tư nước ngoài như hoàn hảo, đường cong IS gần như bằng ròng của một quốc gia - tức là sức mua hàng phẳng với lãi suất thế giới. Trong trường hợp hóa nội địa của nước ngoài trừ mua hàng nước tỷ giá hối đoái cố định, khả năng luân chuyển ngoài của tài sản nội địa - là một chức năng của vốn cao hơn có nghĩa là một sự thay đổi nhất lãi suất thực trong nước. Với giả định này, lãi định về lãi suất trong nước có ảnh hưởng lớn suất trong nước có thể khác với lãi suất thế giới. hơn đến dự trữ ngoại tệ của NHTW. Nếu sự Bên cạnh đó nghiên cứu của Romer (2000) luân chuyển vốn xảy ra trong điều kiện thị chỉ ra cụ thể cách người ta có thể sử dụng cách trường hoàn hảo, ngay cả một sự thay đổi rất tiếp cận này để phân tích tỷ giá hối đoái thả nhỏ của lãi suất trong nước so với lãi suất thế nổi và cố định. Trong cả hai trường hợp, mô giới cũng có thể gây ra tổn thất lớn. Do đó mô hình IS - MP vẫn có thể được sử dụng để phân hình này có thể được sử dụng để phân tích sự tích tổng cầu. Sau đó cần thiết để bổ sung mô luân chuyển vốn cao dưới cả chế độ tỷ giá hối hình IS - MP để xem các giao dịch quốc tế của đoái thả nổi và cố định. Romer (2000) cũng nền kinh tế được xác định như thế nào. Trong cho rằng có thể sử dụng khuôn khổ tương tự trường hợp tỷ giá hối đoái thả nổi, phân tích được sử dụng để phân tích nền kinh tế đóng, bổ sung cho thấy việc xác định xuất khẩu ròng tỷ giá hối đoái thả nổi, và tỷ giá cố định. Tuy và tỷ giá hối đoái. Trong trường hợp tỷ giá hối nhiên quan điểm mới này cũng cho thấy chính đoái cố định, nó cho thấy sự thay đổi trong dự sách tiền tệ trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định trữ ngoại tệ của NHTW và những chính sách có những hạn chế vì tính bất cân xứng thông tiền tệ nào khả thi hay không khả thi. Với một tin (hay thị trường không hoàn hảo) trong một tỷ giá hối đoái cố định, thiết lập mức lãi suất hệ thống tỷ giá hối đoái cố định; NHTW được hàm ý quy tắc lãi suất có thể dẫn đến sự mất tự do theo đuổi các chính sách tạo ra lợi ích cân bằng giữa cung và cầu ngoại tệ theo tỷ tích lũy nhưng nếu vượt quá một mức nào đó giá hối đoái cố định. Nếu cung vượt quá cầu, có thể sẽ gây ra những tổn thất. NHTW đang dự trữ ngoại tệ. Nếu cầu ngoại tệ vượt quá cung, nó đang mất dần dự trữ. Trong 5. KẾT LUẬN trường hợp thứ hai, nếu NHTW không có đủ Nghiên cứu kế thừa từ nghiên cứu của dự trữ thì phải từ bỏ tỷ giá hối đoái cố định Romer (2002); tất cả các mô hình được mô tả hoặc chính sách lãi suất hay nói cách khác là trong nghiên cứu này được vận dụng từ nền phủ nhận vai trò của NHTW. Do đó, mặc dù tảng của Keynes, Hicks, Romer nhấn mạnh mong muốn kiểm soát tỷ giá hối đoái nhưng đến thị trường hàng hoá - tiền tệ và lạm phát; không hoàn toàn phụ thuộc chính sách tiền tệ, tất cả các yếu tố vĩ mô này đều có sự điều sẽ gây ra những hạn chế nhất định. chỉnh danh nghĩa không hoàn hảo; các biến Các giả định cơ bản thường thấy rằng lãi đều được xác định dưới dạng tổng hợp. Các suất thực trong nước phải bằng với lãi suất thực mô hình kinh tế vĩ mô hiện tại kế thừa trên nền thế giới là một trường hợp đặc biệt của mô tảng của Keynes và Hicks dường như chưa phải hình. Khi sự gia tăng về vốn tăng lên, đầu tư là sự thay đổi về một mô hình cơ sở đơn giản nước ngoài ròng sẽ trở nên nhạy cảm hơn với về dao động ngắn hạn hoàn chỉnh. Việc tìm ra lãi suất thực. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái một khuôn khổ cơ bản thay thế IS - LM - AS thả nổi, sự phản ứng nhanh này làm cho đường nhằm cung cấp một công cụ mạnh mẽ hơn cho 24
  14. Mô hình Keynesian mới không có đường cong LM phân tích kinh tế vĩ mô cơ bản sẽ được thực cung hiệu chỉnh kỳ vọng hay đường cong thị hiện trong tương lai và các phiên bản mô hình trường tiền tệ cân bằng (Romer, 2000) cũng như đường cong MP dốc lên, đường cong tổng hướng đến mục tiêu như vậy. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bernanke, B. S. & Mihov, I (1997). What Does the Bundesbank Target?. European Economic Review, pp. 1025–1053. [2]. Campbell, John Y. & Mankiw, N. G (1989). Consumption, Income, and Interest Rates: Reinterpreting the Time Series Evidence. NBER Macroeconomics Annual. 4, pp. 185–216. [3]. Clarida, R & Gertler, M (1997). How the Bundesbank Conducts Monetary Policy, in Reducing Inflation: Motivation and Strategy.University of Chicago Press, pp: 363 - 412 [4]. Romer, C. D. & Romer, D. H eds. Chicago: University of Chicago Press, pp. 363– 406. [5]. Goodfriend, M. S (1993). Interest Rate Policy and the Inflation Scare Problem: 1979– 1992. Federal Reserve Bank of Richmond Economic Quarterly. Winter, 79, pp. 1–24. [6]. Gordon, R. J (1990). What Is New-Keynesian Economics?. Journal of Economic Literature, pp. 1115–1171. [7]. Hall, R. E. & Taylor, J. B (1997). Macroeconomics. Fifth edition. New York: W. W. Norton. [8]. Laubach, T & Posen, A. S (1997). Disciplined Discretion: Monetary Targeting in Germany and Switzerland. Essays in International Finance, no. 206. [9]. Nguyễn Văn Ngọc (2009). Bài giảng Kinh tế vĩ mô. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Kinh tế Quốc dân. [10]. Nguyễn Văn Tiến (2010). Giáo trình Tài chính Quốc tế. NXB Thống kê. [11]. Romer, D (1999). Short-Run Fluctuations. University of California, Berkeley. [12]. Romer, D. (2000). Keynesian Macroeconomics without the LM curve. Journal of Economic Perspectives, 14(2), 149-169. [13]. Taylor, J. B (1993). Discretion versus Policy Rules in Practice. Carnegie-Rochester Conference Series on Public Policy, vol 39, pp. 195–214. [14]. Taylor, J. B (1998). Economics. Second edition. Boston: Houghton Mifflin. [15]. vonHagen, J (1995). Inflation and Monetary Targeting in Germany. American Institute for Contemporary German Studies. 25