Luận án Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế

pdf 188 trang vanle 2740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_an_lang_nghe_truyen_thong_phuc_vu_du_lich_o_tinh_thua_t.pdf

Nội dung text: Luận án Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Lµng nghÒ truyÒn thèng phôc vô du lÞch ë tØnh thõa thiªn huÕ LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2014
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN LÊ THU HIỀN Lµng nghÒ truyÒn thèng phôc vô du lÞch ë tØnh thõa thiªn huÕ Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số : 62 31 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Như Hà HÀ NỘI - 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, những phát hiện đưa ra trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả. TÁC GIẢ LUẬN ÁN NCS. Nguyễn Lê Thu Hiền
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBT : Du lịch cộng đồng CNH-HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá DL : Du lịch ĐH, CĐ : Đại học, Cao đẳng GO : Giá trị sản xuất HĐ DL : Hoạt động du lịch KD : Kinh doanh KDDL : Kinh doanh du lịch KT : Kinh tế TT : Truyền thống LĐ : Lao động LN : Làng nghề LNTT : Làng nghề truyền thống NN : Nông nghiệp NCS : Nghiên cứu sinh NT : Nông thôn PTTH : Phổ thông trung học PTCS : Phổ thông cơ sở TL : Tỷ lệ TĐTTBQ : Tốc độ tăng trưởng bình quân SXKD : Sản xuất kinh doanh SL : Số lượng SP : Sản phẩm SX : Sản xuất VĐT : Vốn đầu tư VH : Văn hoá XH : Xã hội
  5. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN 6 1.1. Những công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài của luận án 6 1.1.1. Những công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài của luận án ở nước ngoài 6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài của luận án ở trong nước 9 1.2. Những kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố mà luận án sẽ có kế thừa và khoảng trống trong nghiên cứu vấn đề làng nghề truyền thống phục vụ du lịch mà luận án sẽ tiếp tục 20 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH 22 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 22 2.1.1. Khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 22 2.1.2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 26 2.1.3. Vai trò của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 31 2.2. Các tiêu chí và các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 34 2.2.1. Các tiêu chí đánh giá làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 34 2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 43 2.3. Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở ngoài nước và trong nước 55 2.3.1. Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở ngoài nước 55
  6. 2.3.2. Kinh nghiệm phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở trong nước 61 2.3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho tỉnh Thừa Thiên Huế trong việc phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 65 Chương 3: THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 67 3.1. Tiềm năng phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 67 3.1.1. Tình hình làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên Huế 70 3.1.2. Các nguồn lực chủ yếu tạo tạo điều kiện phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 73 3.2. Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2008 - 2012 73 3.2.1. Sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế 84 3.2.2. Lực lượng lao động của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 91 3.2.3. Nguồn vốn cho phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 98 3.2.4. Mức độ ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất tại các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 102 3.2.5. Lượt khách du lịch đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 107 3.3. Đánh giá chung về làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2008 - 2012 107 3.3.1. Những kết quả đạt được trong quá trình phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 110 3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 114
  7. Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 114 4.1. Phương hướng phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 114 4.1.1. Bối cảnh và dự báo xu hướng phát triển của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020 114 4.1.2. Phương hướng phát triển các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 116 4.2. Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 118 4.2.1. Phát triển thị trường sản phẩm du lịch của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 118 4.2.2. Đầu tư phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 127 4.2.3. Đào tạo lực lượng lao động cho làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 131 4.2.4. Phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch gắn liền với các hình thức du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế 142 4.2.5. Tăng cường quan hệ hợp tác giữa làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở địa phương khác và ngoài nước 145 4.2.6. Hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước và tỉnh Thừa Thiên Huế đối với làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 147 KẾT LUẬN 153 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 155 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156 PHỤ LỤC
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1: Số lượng chủ thể tham gia sản xuất tại các LNTT phục vụ 69 DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.2: Tình hình tiêu thụ sản phẩm thủ công mỹ nghệ của LNTT 74 phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.3: Doanh thu tiêu thụ theo nhóm sản phẩm thủ công mỹ nghệ 76 của LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.4: Tổng doanh thu của LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên 79 Huế Bảng 3.5: Tình hình tiêu dùng các loại hình dịch vụ du lịch của LNTT 81 phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.6: Mức giá bình quân của các loại hình dịch vụ du lịch của 82 LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.7: Mức độ hài lòng của du khách về chất lượng dịch vụ du lịch 83 của LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.8: Phân loại lao động theo trình độ học vấn tại LNTT phục vụ 85 DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.9: Phân loại lao động theo độ tuổi và trình độ tay nghề của 86 LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.10: Thu nhập bình quân của người lao động tại LNTT phục vụ 88 DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.11: Mức độ gắn bó và muốn truyền nghề truyền thống của 90 người LĐ tại LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.12: Vốn đầu tư cho kinh doanh du lịch của LNTT phục vụ DL 92 ở tỉnh Thừa Thiên Huế
  9. Bảng 3.13: Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của LNTT phục vụ DL ở tỉnh 97 Thừa Thiên Huế Bảng 3.14: Các chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính của chủ thể SXKD 96 tại LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.15: Mức độ ứng dụng khoa học công nghệ tại LNTT phục vụ 98 DL phân theo nhóm sản phẩm ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.16: Đánh giá của chủ thể SXKD đối với công nghệ sản xuất 102 truyền thống tại các LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Bảng 3.17: Lượt khách du lịch đến tỉnh Thừa Thiên Huế 103 Bảng 3.18: Lượt khách du lịch đến LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa 105 Thiên Huế Bảng 3.19: Số lần du khách đến LNTT PVDL ở tỉnh Thừa Thiên Huế 106
  10. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 3.1: Tỷ trọng doanh thu theo nhóm sản phẩm của LNTT phục 78 vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Biểu đồ 3.2: Tỷ trọng trình độ tay nghề của người lao động tại các 87 LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Biểu đồ 3.3: Tỷ trọng mức độ ứng dụng khoa học công nghệ tại LNTT 100 phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế Biểu đồ 3.4: Tỷ trọng số lần du khách đến LNTT phục vụ DL ở tỉnh 107 Thừa Thiên Huế
  11. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Trong tiến trình lịch sử phát triển của tỉnh Thừa Thiên - Huế, kể từ khi nhà Nguyễn chọn đất Huế làm đất định đô, hệ thống làng xã nông thôn của Thuận Hoá - Phú Xuân lúc bấy giờ đã có những chuyển động cùng với sự ra đời của những phố chợ, bến cảng đặc biệt nhu cầu trao đổi hàng hoá đã tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển của ngành nghề thủ công nghiệp; sau đó quá trình hình thành và phát triển của làng nghề thủ công nghiệp cũng đồng thời là quá trình thu hẹp dần kinh tế nông nghiệp và đổi mới diện mạo nông thôn theo hướng nghề và làng nghề gắn liền với hoạt động sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam truyền thống. Nghề và làng nghề truyền thống đã góp phần tạo dựng bản sắc văn hoá cho dân tộc Việt Nam, đóng góp vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, nhất là đối với các vùng nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, làng nghề truyền thống là đặc điểm góp phần vào sự phân công lao động trong nền kinh tế nông nghiệp truyền thống Việt Nam thành ba ngành công - nông - thương nghiệp. Cơ cấu kinh tế này đã thực sự tạo cho làng xã Việt Nam có thể ổn định lâu dài, vững chắc. Thậm chí, đến cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI với những tiến bộ khoa học công nghệ tác động vào cũng không làm cho nó thay đổi đáng kể hoặc có thì thay đổi rất chậm. Vì vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế và văn hoá giữa các nước ngày càng phát triển, việc bảo tồn và phát triển các đặc trưng văn hoá của một vùng, một quốc gia là điều vô cùng quan trọng, nó vừa giữ gìn và phát triển giá trị truyền thống của dân tộc để "hoà nhập quốc tế nhưng không hoà tan", vừa góp phần tích cực tạo động lực thúc đẩy xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho dân cư và đổi mới bộ mặt nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngày nay, khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu nghỉ ngơi, hưởng thụ và đi
  12. 2 du lịch của mọi người ngày càng cao. Để đáp ứng nhu cầu đó thì nhiều hình thức du lịch được ra đời như du lịch sinh thái, du lịch văn hoá, du lịch cộng đồng, du lịch tâm linh, trong đó hình thức du lịch nông thôn đang phát triển rất mạnh trong các chương trình và các tuyến du lịch ở trong nước và quốc tế. Du lịch nông thôn là hình thức phát triển mối giao hoà về mặt văn hoá, sản vật, các làng nghề truyền thống Ở Việt Nam, du lịch làng nghề ngày càng hấp dẫn du khách trong và ngoài nước, là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa du khách tới tham quan, thẩm nhận các giá trị truyền thống và mua sắm những hàng hoá đặc trưng của các làng nghề truyền thống đó. Điều này đã đặt ra một yêu cầu tất yếu là xây dựng và phát triển một số làng nghề truyền thống có giá trị truyền thống đặc trưng, độc đáo, có nhiều tiềm năng phát triển gắn liền với lĩnh vực du lịch. Ở tỉnh Thừa Thiên Huế, hệ thống các làng nghề truyền thống vô cùng phong phú và đa dạng, hội tụ nhiều yếu tố phù hợp để xây dựng thành các làng nghề truyền thống gắn liền với lĩnh vực du lịch. Đây được đánh giá là lợi thế nổi bật của tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình phát triển ngành du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên, việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống nói chung vẫn mang tính tự phát, dựa trên nền tảng của làng nghề mang tính đơn thuần sản xuất, chưa chuyển đổi để gắn với phục vụ du lịch. Từ đó chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu tham quan, trải nghiệm của du khách cũng như chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường về các loại hình sản phẩm du lịch. Thực tiễn này đã đặt ra cho tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội một nhu cầu cấp thiết, mang tính khách quan, phù hợp với xu thế của thời đại là phải khôi phục và phát triển hệ thống các làng nghề truyền thống gắn liền với phục vụ du lịch một cách bền vững. Với lý do đó, NCS đã chọn đề tài: "Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế" làm đề tài luận án tiến sĩ kinh tế của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Phân tích và đánh giá làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa
  13. 3 Thiên Huế để xác định phương hướng và đề xuất một số giải pháp phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: Thứ nhất, hệ thống hóa các vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch. Thứ hai, tiến hành nghiên cứu, khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng các LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2008-2012, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong quá trình phát triển LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án Luận án chỉ tập trung nghiên cứu các làng nghề truyền thống gắn liền với phục vụ du lịch (LNTT phục vụ DL) ở tỉnh Thừa Thiên Huế nhằm xây dựng khung lý luận để có cơ sở cho việc nghiên cứu LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án Về không gian: Nghiên cứu 25 LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Về thời gian: Nghiên cứu các LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2008 - 2012, đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2020. 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài - Trong quá trình nghiên cứu, NCS sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị đó là: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh. - Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
  14. 4 chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu vấn đề LNTT trong mối quan hệ biện chứng với hoạt động du lịch và các vấn đề khác có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu đó, đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể khi Việt Nam phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. - Ngoài ra, NCS còn sử dụng phương pháp điều tra chọn mẫu bằng bảng hỏi để thu thập ý kiến của du khách, thợ thủ công và các nhà sản xuất kinh doanh ở LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế về các vấn đề liên quan đến LNTT phục vụ DL. Do giới hạn về thời gian và kinh phí nên luận án chỉ tiến hành khảo sát 151 thợ thủ công, 300 đơn vị sản xuất kinh doanh và 245 lượt du khách đến LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Đồng thời có sử dụng phương pháp chuyên gia để trao đổi trực tiếp với một số nhà khoa học, các nhà sản xuất kinh doanh ở LNTT phục vụ DL nhằm làm rõ thêm các vấn đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến luận án. 5. Đóng góp mới của luận án Thứ nhất, luận án đưa ra khái niệm, đặc điểm, vai trò của LNTT phục vụ DL trên cơ sở kế thừa một số quan điểm của các công trình nghiên cứu trước đó về LNTT nói chung và xây dựng các tiêu chí và các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch. Thứ hai, qua nghiên cứu kinh nghiệm phát triển LNTT phục vụ DL ở một số quốc gia và một số địa phương, luận án đã rút ra bài học kinh nghiệm về phát triển LNTT phục vụ DL cho tỉnh Thừa Thiên Huế. Thứ ba, trên cơ sở phân tích, đánh giá LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế qua các số liệu báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền và thực tiễn điều tra bằng bảng hỏi của NCS, NCS đưa ra những đánh giá về thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình phát triển LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế. Thứ tư, luận án đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển các LNTT phục vụ DL ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2020.
  15. 5 6. Ý nghĩa của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn về lý luận và thực tiễn về làng nghề truyền thống phục vụ du lịch. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở các trường cao đẳng và đại học. Những phương hướng và giải pháp mà luận án đề xuất có thể gợi mở cho các cơ quan quản lý tham khảo trong quá trình phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở các địa phương. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4 chương, 10 tiết.
  16. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI CỦA LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài của luận án ở nước ngoài LNTT nói chung và LNTT phục vụ DL nói riêng trong khu vực và trên thế giới luôn có tầm ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của ngành DL. Với xu hướng phát triển ngành DL hiện đại trong khoảng cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI thì việc khôi phục và phát triển các LNTT phục vụ DL là phổ biến. Có nhiều nhà khoa học tiến hành nghiên cứu nhiều vấn đề liên quan đến LNTT và có đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn. Liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án, NCS đã tìm hiểu một số công trình khoa học của các nhà khoa học ở các quốc gia có điều kiện thực tiễn về LNTT tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc, Indonesia, Australia để có thể vận dụng được những kết quả khoa học đã đạt được vào lĩnh vực nghiên cứu của luận án, cụ thể là: - Hai tác giả G. Michon và F. Mary [81] nghiên cứu nội dung chuyển đổi khu vườn LNTT và chiến lược kinh tế mới của các hộ gia đình nông thôn trong khu vực Bogor, Indonesia. Từ đó, tạo bước đệm để phát triển các làng nghề nơi đây gắn liền với hình thức DL sinh thái kết hợp với khu vườn LNTT, góp phần cải thiện thu nhập và tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn ở Indonesia. - Tác giả Liu Peilin [83] cho rằng nên thành lập một hệ thống bảo vệ cho "Làng nổi tiếng của Trung Quốc tham quan lịch sử và văn hóa". Trong các di sản lịch sử và văn hóa của thế giới, những ngôi làng cổ xưa của Trung Quốc chiếm một vị trí quan trọng. Ở Trung Quốc, số lượng làng nghề truyền thống là rất lớn, phân bố rộng rãi và có giá trị lịch sử cao, được ví như "ngọc trai của văn hóa
  17. 7 truyền thống" và "bảo vật quốc gia của bộ sưu tập dân gian". Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát triển là chưa thỏa đáng. Do đó, việc cấp thiết trước mắt là lựa chọn và quyết định một số làng cổ đại diện cho cứu hộ ngay lập tức và bảo vệ đặc biệt như "ngôi làng nổi tiếng lịch sử và văn hóa của Trung Quốc". Nghiên cứu này xem xét lại các quan niệm về ý tưởng về một hệ thống bảo vệ và thảo luận về các điều kiện để chấp thuận cho tình trạng, nội dung, nguyên tắc, phương pháp và biện pháp bảo vệ cũng như định hướng trong khai thác và phát triển của chúng. Hệ thống bảo vệ sẽ đóng một vai trò tích cực trong việc bảo tồn hiệu quả cảnh quan và nền văn hóa cổ đại. - Hai tác giả LU Song và LU Lin [84] bàn về vấn đề cần phải lưu giữ bản sắc văn hóa truyền thống, làng cổ đã được quan tâm nhiều hơn cho sự phát triển du lịch hiện đại. Nhưng những thành tựu về nghiên cứu du lịch của làng cổ là rất hiếm và lý thuyết của nó trong thực tế tụt hậu với thực tiễn. Họ đã chọn văn hóa di sản thế giới là làng Xidi và làng Hongcun làm đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở của một đáng kể trên tại chỗ khảo sát, nghiên cứu này tóm tắt đặc điểm thời gian của dòng du lịch làng cổ như sau: (1) dòng du lịch gia tăng nhanh chóng, (2) sự khác biệt theo mùa của các dòng du lịch là hiển nhiên với hình dạng của "3 đỉnh - 3 thung lũng", (3) phân phối dòng chảy du lịch là bất thường và có hình dạng như xiên "Z" trong một vòng tuần hoàn, trong khi ở những tuần cao điểm hình như "nổ", (4) các dòng du lịch được hình thành như "đôi cao điểm" trong vòng một ngày và phân phối thời gian của dòng chảy du lịch tập trung. Hơn nữa, các tác giả cũng thảo luận về các yếu tố ảnh hưởng, chẳng hạn như các sự kiện, các yếu tố xã hội, yếu tố môi trường tự nhiên và các hệ thống quản lý. Trong khi đó, so sánh sơ bộ giữa các làng cổ xưa và các loại khác của các điểm đến đã được đưa lên. Cuối cùng, các tác giả trình bày chi tiết những tác động đến từ các dòng du lịch ngày càng tăng. Nghiên cứu này góp phần thúc đẩy các nghiên cứu kỹ lưỡng về lịch làng cổ và cung cấp cơ sở khoa học của phát triển bền vững của nó. - Kirsty Blackstock [82] nghiên cứu về du lịch cộng đồng (CBT) và cho rằng đây có thể là một cách để tạo ra một ngành công nghiệp du lịch bền vững hơn. Bài
  18. 8 viết chỉ ra ba thất bại lớn từ góc độ phát triển cộng đồng: thứ nhất, nó có xu hướng để có một cách tiếp cận chức năng để tham gia cộng đồng; thứ hai, nó có xu hướng đối xử với cộng đồng địa phương như một khối đồng nhất; thứ ba, nó bỏ qua những hạn chế để kiểm soát địa phương của ngành công nghiệp du lịch. Chú ý đến những vấn đề này có thể đóng góp cho ngành du lịch bền vững và công bằng. - Hai tác giả Che Zhenyu và Bao Jigang [80] có nội dung nghiên cứu là phát triển du lịch của làng nghề truyền thống và biến đổi của mẫu. Xuất phát từ chỗ, trong ngành du lịch của thập kỷ qua là sự bùng nổ phát triển du lịch làng nghề truyền thống, tác giả đã nghiên cứu chi tiết về hiện tượng này dưới nhiều góc độ khác nhau như kiến trúc, địa lý, du lịch, Tuy nhiên, vấn đề phát triển du lịch và nghiên cứu về sự thay đổi hình thức của làng nghề truyền thống đang còn thiếu và đây là nguyên nhân cần thiết phải nghiên cứu nhằm phát triển du lịch làng nghề truyền thống. Dựa trên sự thay đổi hình thức của làng nghề truyền thống trong quá trình phát triển du lịch, làng nghề có khả năng phát triển du lịch có thể được chia thành bốn loại: đó là sự thay đổi dần dần, những sự thay đổi ổn định, những thay đổi đột ngột và những phục hồi. - MA Hang [86] nghiên cứu vấn đề kiên trì và chuyển đổi của làng truyền thống Trung Quốc đồng thời xem xét lại các kế hoạch của khu định cư truyền thống. Tác giả đã tiến hành trình bày các ký tự quy hoạch không gian cơ bản của ngôi làng cổ của Trung Quốc, bài báo tập trung vào phân tích cơ bản các yếu tố xã hội, văn hóa và tự nhiên. Tuy nhiên, trong quá trình đô thị hóa và toàn cầu hóa, biến đổi sắc bén của cơ cấu kinh tế mang lại tác động tiêu cực đến sự phát triển của làng nghề truyền thống ở Trung Quốc. Vì vậy, tác giả đã nghiên cứu và chỉ ra được năm khía cạnh giá trị của các làng nghề truyền thống của Trung Quốc cần được gìn giữ và bảo tồn, để hướng tới khôi phục và phát triển cho làng nghề ở Trung Quốc hiện nay. - T.Sonobe, K.Otsuka và Vu Hoang Nam [88] đã tìm hiểu quá trình phát triển của một làng nghề truyền thống chuyên sản xuất mặt hàng may mặc đang phát triển ở miền Bắc Việt Nam trong điều kiện các ngành nghề tiểu thủ công
  19. 9 nghiệp được biết là có nhiều tiềm năng để phát triển nhưng lại không được đầu tư. Họ cho rằng có hai điều kiện quan trọng là con người và vốn xã hội (đo bằng các mối quan hệ họ hàng với thương nhân Việt Nam ở nước ngoài) của các chủ sở hữu, điều này tạo điều kiện để mở rộng hoạt động trao đổi, mua bán vào thị trường xuất khẩu mới. Hơn nữa, trình độ và kinh nghiệm quản lý của nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực cụ thể góp phần nâng cao hiệu suất doanh nghiệp. - LU Song và Trương Jie [85] đã nghiên cứu nhận thức và thái độ cư dân với các tác động du lịch và tác động của nó đối với phát triển du lịch ở các làng bản truyền thống cổ xưa. Từ đó, có những đề xuất nhằm thay đổi nhận thức của người dân nơi đây về phát triển du lịch làng cổ trong tương lai. - Các tác giả Sally Asker, Louise Boronyak, Naomi Carrard và Michael Paddon [86] đã nghiên cứu các vấn đề sẽ được giải quyết khi phát triển du lịch dựa vào cộng đồng (CBT), các hoạt động của cộng đồng địa phương trong khu vực nông thôn quản lý. Nó nhằm mục đích nâng cao nhận thức trong nền kinh tế APEC trong những cơ hội cho CBT như một phương tiện để thúc đẩy kinh tế - xã hội và môi trường phát triển, được rút ra từ nghiên cứu trường hợp thực tế để có thể thực hành một cách tốt nhất. Ngoài ra, tài liệu này còn cung cấp phương pháp cho người dân và các tổ chức lập kế hoạch, quản lý, triển khai thực hiện hoặc giám sát du lịch dựa vào cộng đồng (các nhà lãnh đạo cộng đồng trong các cơ quan chính phủ, tổ chức phi chính phủ). 1.1.2. Tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài của luận án ở trong nước Liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án, ở trong nước đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu với nhiều góc độ và cách tiếp cận khác nhau, hướng đến giải quyết nhiều mục tiêu khác nhau đối với làng nghề truyền thống nói chung ở Việt Nam được chia thành các nhóm công trình khoa học cụ thể như sau: Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu lịch sử làng nghề truyền thống - Tác giả Nguyễn Hữu Thông trong cuốn “Huế nghề và làng nghề thủ công
  20. 10 truyền thống" [62] đã chọn một số nghề và làng nghề thủ công truyền thống ở Huế tiêu biểu để nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử hình thành cũng như những đặc điểm riêng có của những làng nghề đó. Đây là công trình góp phần phát triển và đưa văn hóa truyền thống của Huế đến với công chúng. - Phạm Côn Sơn trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt Nam” [55] đã giới thiệu lịch sử hình thành và phát triển của những nghề thủ công truyền thống tiêu biểu như: nghề khắc chạm đá, đúc đồng thau, gốm sứ, dệt lụa, thêu, sơn mài và một số làng nghề tiêu biểu ở Bắc Bộ, Nam Trung Bộ. - Vũ Văn Nhiên, Nguyễn Minh Thắng, Đậu Xuân Luận trong “Hỏi đáp về các làng nghề truyền thống Hà Nội” [42] đã trình bày dưới dạng hỏi - đáp về lịch sử, đặc trưng và giá trị của các làng nghề, phố nghề ở Hà Nội: làng gốm Bát Tràng, làng nghề kim hoàn Định Công, chạm khắc gỗ Thiết Ứng, nghề dát vàng bạc Kiêu Kỵ, đúc đồng Ngũ Xã Từ đó cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin có giá trị liên quan đến các làng nghề truyền thống ở Hà Nội xưa và nay. - Tác giả Lê Nguyễn Lưu trong bài viết ''Làng nghề cổ truyền xứ Huế'' [46] đã nêu và phân tích quá trình phát triển của nhóm làng nghề cổ truyền qua các thời kỳ ở Huế đặc biệt là thời đại triều Nguyễn. Tác giả đã cung cấp cho người đọc thông tin có giá trị lịch sử về làng nghề cổ ở đất kinh thành Huế xưa. - Đào Thế Anh trong bài ''Phát triển cụm công nghiệp nông thôn từ làng nghề truyền thống'' [2] đã nghiên cứu xuất phát từ thực trạng phát triển làng nghề truyền thống ở vùng nông thôn Việt Nam, đưa ra đề xuất các giải pháp nhằm phát triển cụm công nghiệp nông thôn, từ đó góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động ở làng nghề truyền thống vùng nông thôn Việt Nam. Tóm lại, kết quả nghiên cứu từ nhóm công trình khoa học này đã cung cấp hệ thống thông tin về lịch sử ra đời và hình thành của các làng nghề truyền thống ở Việt Nam. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định nguồn gốc của các làng nghề cổ xưa, góp phần cho thế hệ sau có thế giới quan đầy đủ về
  21. 11 làng nghề truyền thống ở Việt Nam. Nhóm các công trình khoa học đã hệ thống hóa được các lý luận cơ bản liên quan đến làng nghề truyền thống. - Mai Thế Hởn trong luận tiến sỹ “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven thủ đô Hà Nội” [31] đã làm rõ phạm trù làng nghề truyền thống, những căn cứ lý luận và thực tiễn xác đáng về vị trí, vai trò của làng nghề truyền thống vùng ven đô Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phân tích, làm rõ những tiềm năng và yêu cầu của việc phát triển làng nghề truyền thống ven thủ đô Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vạch rõ những phương hướng và giải pháp cơ bản, xác thực nhằm thúc đẩy mạnh mẽ làng nghề truyền thống ở vùng ven đô Hà Nội. - Tác giả Trần Minh Yến trong “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [79] đã đưa ra được sự hiểu biết khách quan khoa học và hệ thống về làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam, trên cơ sở đó xác định quan điểm chung và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh sự phát triển của làng nghề truyền thống, đáp ứng những yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. - Bạch Thị Lan Anh trong “Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” [1] đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững làng nghề truyền thống trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Đề xuất định hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh sự phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Tóm lại, kết quả nghiên cứu của nhóm công trình khoa học này đã cung cấp một hệ thống lý luận khoa học về làng nghề truyền thống của Việt Nam. Vì vậy, kết quả nghiên cứu này có vị trí và vai trò rất quan trọng trong việc hình thành tư duy và nhận thức về làng nghề truyền thống của Việt Nam cho thế hệ sau; đồng thời nó sẽ trở thành cơ sở lý luận khoa học cho các nhà nghiên cứu sau này khi bàn về vấn đề làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
  22. 12 Nhóm các công trình khoa học đã nghiên cứu về quá trình khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống của các địa phương và trên thế giới. - Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Viện nghiên cứu Đông Bắc Á trong cuốn “Vấn đề bảo tồn và phát triển làng nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản” [77] đã tìm hiểu và đánh giá chi tiết về quá trình bảo tồn và phát triển làng nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản. Rút ra được phương thức xây dựng và phát triển làng nghề thủ công truyền thống ở Nhật Bản theo xu hướng "mỗi làng nghề một sản phẩm". Đây được đánh giá là bài học kinh nghiệm có giá trị cao và phù hợp với điều kiện thực tiễn của các làng nghề truyền thống ở Việt Nam. - Tác giả Bùi Văn Hưng trong cuốn “Công nghiệp hóa nông thôn Trung Quốc thời kỳ cải cách và mở cửa” [37] đã đi sâu nghiên cứu cách thức điều hành và ban hành các chính sách liên quan đến quá trình gìn giữ và phát triển giá trị truyền thống của các làng nghề cổ ở Trung Quốc. Trên cơ sở đó đã có những đánh giá và kết luận quan trọng có ảnh hưởng đến quá trình khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam như: đưa ra được những bài học kinh nghiệm có giá trị thực tiễn cao, đề xuất một số giải pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam. - Tác giả Vũ Văn Đông trong bài ''Mỗi làng một sản phẩm, là giải pháp để phát triển du lịch bền vững - kinh nghiệm từ các nước và Việt Nam'' [26] đã có sự nghiên cứu công phu về quá trình khôi phục, xây dựng và phát triển làng nghề ở các nước như Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Ấn Độ. Từ đó, rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam trong quá trình khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống. Tóm lại, kết quả nghiên cứu của nhóm công trình khoa học này đã hệ thống hóa được nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng và thiết thực đối với Việt Nam trong quá trình khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, góp phần đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp nông thôn phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại.
  23. 13 Nhóm các công trình khoa học hướng đến giải quyết mục tiêu là đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam. - Kỷ yếu hội thảo khoa học của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam “Thực trạng và những giải pháp nhằm phát triển làng nghề tỉnh Bắc Ninh” [44] đã có những điều tra thực tế về làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh, từ đó đã đề xuất những giải pháp khắc phục những hạn chế được chỉ ra trong quá trình điều tra thực tế. Đây là tài liệu có tính cập nhật về số liệu phong phú, đa dạng, kịp thời. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Nguyễn Trí Dĩnh chủ nhiệm với tên “Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng” [18] trên cơ sở tìm hiểu phân tích và đánh giá thực trạng phát triển một số làng nghề ở một số tỉnh Đồng bằng sông Hồng như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương Tác giả đã đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. - Lê Mạnh Hùng trong luận an tiến sỹ: “Định hướng và những giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh Hà Tây” [35] từ thực trạng của các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội) đã đề xuất định hướng và một số giải pháp kinh tế quan trọng nhằm khôi phục và phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn của tỉnh Hà Tây. - Nguyễn Thế Thư trong ''Cho vay vốn để hỗ trợ các làng nghề truyền thống một hướng đi đúng góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH nông thôn Bắc Ninh'' [65] hướng đến giải quyết vấn đề khó khăn trước mắt của các chủ thể sản xuất kinh doanh tại làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh là nguồn vốn. Tác giả đề xuất các phương án cho vay vốn hiệu quả để hỗ trợ các đơn vị sản xuất, thành lập quỹ tín dụng phát triển làng nghề, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể sản xuất kinh doanh tại các làng nghề ở Bắc Ninh mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến kỹ thuật, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm góp phần giải quyết việc làm
  24. 14 cho lao động nông thôn để góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn Bắc Ninh. - Tôn Thất Viên trong luận án tiến sỹ “Các giải pháp tài chính thúc đẩy phát triển các làng nghề trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay” [74] đã giới thiệu về làng nghề và vai trò các giải pháp tài chính đối với việc khôi phục, phát triển làng nghề. Từ đó, phân tích thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính đối với việc phát triển làng nghề thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tài chính khôi phục và phát triển làng nghề thành phố Đà Nẵng. Tóm lại, kết quả của nhóm công trình khoa học này có ý nghĩa về mặt thực tiễn hết sức to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa công nghiệp nông thôn Việt Nam. Kết quả này đã giải quyết được nhiều vấn đề tồn đọng và cấp thiết ở vùng nông thôn Việt Nam như thất nghiệp đối với lao động nông thôn, các làng nghề truyền thống đang bị mai một nghiêm trọng, vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội ở nông thôn đang có chiều hướng phát triển xấu và chậm lại trong đó nổi bật nhất là kết quả nghiên cứu đã có phương thức mang tính thực tiễn để giải quyết vấn đề khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở các địa phương. Đây là cơ sở để Nhà nước và chính quyền địa phương ban hành các chính sách phù hợp với lý luận và thực tiễn nhằm mục tiêu gìn giữ bản sắc và giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Nhóm các công trình nghiên cứu vấn đề phát triển du lịch gắn liền với làng nghề truyền thống ở Việt Nam - Tác giả Huỳnh Đình Kết trong bài “Tổng quan nghề thủ công truyền thống Huế, giá trị, thực trạng, giải pháp” [38] đã cung cấp cho người đọc có cái nhìn tổng quan về nghề thủ công truyền thống ở Huế, từ đó hiểu rõ giá trị cần phải duy trì và gìn giữ các nghề thủ công truyền thống, những bản sắc văn hóa của Huế. Đồng thời trên cơ sở nghiên cứu thực trạng phát triển các nghề thủ công
  25. 15 truyền thống tác giả đã đưa ra một số giải pháp thiết thực nhằm bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống ở Huế. - Tác giả Vũ Thế Hiệp với bài viết ''Tiềm năng phát triển làng nghề du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế'' [29] đã tập trung đánh giá tiềm năng của làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên Huế, trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm khôi phục và bảo tồn các làng nghề có khả năng phục vụ cho ngành du lịch đã và đang dần bị mai một. Tác giả đã đặt các làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong bối cảnh ngành du lịch tỉnh nhà đang có chiều hướng ngày càng phát triển, do đó kết quả nghiên cứu của công trình này đã góp phần đưa ra loại hình du lịch làng nghề nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của nó đồng thời làm phong phú sản phẩm du lịch của tỉnh Thừa Thiên Huế. - Trần Viết Lực với bài viết “Những vướng mắc trong công tác đầu tư phát triển sản phẩm du lịch gắn với làng nghề và những giải pháp tháo gỡ” [45] cho rằng du lịch làm sống dậy các làng nghề, nhưng nó cũng là mối nguy cho các làng nghề nếu như việc khai thác không có hiệu quả. Mặc dù du lịch văn hóa - trong đó du lịch làng nghề ở Thừa Thiên Huế hiện nay đang được coi là thế mạnh, nhưng ngoài việc khai thác thế mạnh về tài nguyên du lịch nhân văn vốn đã được hình thành từ lâu thì cần phải xây dựng các sản phẩm du lịch văn hóa mới, trong đó có du lịch làng nghề nhằm đáp ứng cho nhu cầu luôn thường xuyên thay đổi theo hướng chất lượng hơn, chuyên nghiệp hơn. Trên cơ sở nghiên cứu công tác đầu tư phát triển sản phẩm du lịch gắn với làng nghề ở tỉnh Thừa Thiên Huế, tác giả đã nêu ra được những khó khăn vướng mắc gặp phải trong công tác này. Đó là đa số sản phẩm của các làng nghề trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có chất lượng thấp, kiểu dáng, mẫu mã chậm đổi mới; cơ sở vật chất của các đơn vị sản xuất trong làng nghề quá thô sơ, lạc hậu; công nghệ sản xuất trong các làng nghề không được ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới; chất lượng nguồn lao động còn thấp, năng lực quản lý dịch vụ kém Từ đó tác giả đã đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ các hạn chế nêu trên. Những giải pháp này là cơ sở thực hiện
  26. 16 để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng của làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. - Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Cẩm với bài “Nghiên cứu phát triển bền vững du lịch làng nghề tỉnh Thừa Thiên Huế” [6] đã xác định phát triển du lịch làng nghề được coi là một hướng đi rất quan trọng để gìn giữ, giới thiệu, bảo tồn và tôn vinh những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc, của quốc gia và đặc biệt là của từng địa phương cụ thể. Ở tỉnh Thừa Thiên Huế có thế mạnh là thường xuyên diễn ra các lễ hội văn hóa truyền thống, vì vậy tác giả đã nghiên cứu phát triển bền vững du lịch làng nghề ở tỉnh Thừa Thiên Huế với mục tiêu phát triển mô hình du lịch làng nghề để hỗ trợ đắc lực cho khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu phát triển kinh tế theo hướng phát triển bền vững trong tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế; đồng thời cũng đã nêu ra hai mô hình làng nghề du lịch đang được đầu tư và phát triển cụ thể là thứ nhất là phát huy làng nghề truyền thống trên cơ sở vốn có từ xa xưa của địa phương; thứ hai các doanh nghiệp đầu tư xây dựng khu du lịch rồi đưa mô hình làng nghề vào đó, thuộc diện không gian truyền thống để khai thác các giá trị sản phẩm văn hóa. Dựa vào các nghiên cứu đó tác giả đã đề xuất một số giải pháp để phát triển và khai thác tối đa các làng nghề truyền thống ở tỉnh Thừa Thiên Huế đồng thời tăng cường thu hút khách du lịch đến Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng. - Nguyễn Phước Quý Quang với bài ''Du lịch làng nghề ở Đồng bằng sông Cửu Long - Một lợi thế văn hóa để phát triển du lịch'' [53] đã nêu ra lợi ích của việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ thể hiện lợi nhuận kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động địa phương mà còn bảo tồn được giá trị truyền thống của ông cha ta ngàn đời để lại. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng du lịch làng nghề ở Đồng bằng sông Cửu Long, tác giả đã đề xuất những giải pháp trước mắt và lâu dài để khôi phục và phát triển làng nghề phục vụ cho ngành du lịch tại địa bàn này như: xây dựng mô hình tổ chức đặc trưng cho
  27. 17 làng nghề, giáo dục và đào tạo người dân, nâng cao tay nghề, phối hợp tốt với các công ty du lịch, rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển làng nghề - Tác giả Phan Tiến Dũng với bài “Bảo tồn và phát huy làng nghề truyền thống góp phần thúc đẩy du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế phát triển bền vững” [19] cho rằng trong những năm gần đây, thông qua nhiều kế hoạch, chương trình bảo tồn, khuyến công, khuyến nông nhiều làng nghề ở tỉnh Thừa Thiên Huế đang dần được khôi phục và phát triển trở thành những điểm tham quan thu hút khách du lịch. Tuy nhiên, tác giả đề cập vấn đề nóng hổi là phải làm gì để phát triển kinh tế, tạo sức hấp dẫn riêng cho làng nghề ở Huế, làm cho du khách ở lại lâu hơn, đây là bài toán đơn giản ai cũng có thể nhận ra nhưng không dễ để giải quyết. Mục tiêu những năm tới mà tỉnh Thừa Thiên Huế đặt ra trong kế hoạch khôi phục và phát triển nghề và làng nghề truyền thống ở Huế là phải gắn chặt với phát triển du lịch. Phát triển du lịch làng nghề sẽ tạo ra quá trình sản xuất tại chỗ thông qua việc cung ứng các sản phẩm hàng hóa của các làng nghề cũng như các dịch vụ phục vụ hoạt động du lịch, tạo thêm việc làm cho bộ phận dân cư làng, xã, phường hội, bên cạnh đó, thông qua các đối tượng du khách, hình ảnh và sản phẩm của các làng nghề được giới thiệu trực tiếp, góp phần tạo ra cơ hội quảng bá sản phẩm cho các doanh nghiệp. Vì vậy, tác giả đã nghiên cứu vấn đề bảo tồn, phát triển nghề và làng nghề ở Huế gắn với phát triển du lịch là hướng đi vừa góp phần lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời vừa giúp người dân tăng thu nhập cải thiện cuộc sống, đóng góp vào việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Sự gắn kết chặt chẽ giữa các làng nghề trên địa bàn tỉnh với du lịch là điều kiện để tỉnh Thừa Thiên Huế phát huy tốt vai trò, vị thế là một trung tâm văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Đây là một trong những giải pháp tối ưu để bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề truyền thống ở Huế, phục vụ cho sự phát triển du lịch bền vững. - Tác giả An Vân Khanh trong bài viết “Phát triển làng nghề, ngành nghề gắn với du lịch” [39] đã cho rằng phải gắn làng nghề và ngành nghề truyền
  28. 18 thống với phát triển du lịch ở Việt Nam. Sự lan tỏa của các làng nghề đã mở rộng qui mô và địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động, kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, góp phần tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Trên cơ sở nghiên cứu một số kết quả phát triển ngành nghề nông thôn trong năm 2010 ở một số tỉnh thành điển hình trong cả nước, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong quá trình phát triển ngành nghề nông thôn, đồng thời đưa ra định hướng bảo tồn và phát triển làng nghề nói chung và làng nghề phục vụ khách du lịch nói riêng. - Nguyễn Xuân Hoản và Đào Thế Anh với bài viết “Tiềm năng phát triển du lịch nông thôn và sự tham gia của các công ty du lịch lữ hành vào việc phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam” [30] đã truyền tải ý tưởng phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam. Du lịch nông thôn là hình thức phát triển mối giao hòa về mặt văn hóa, sản vật, con người giữa các vùng nông thôn thông qua việc đến ở hoặc tham quan có mục đích nhằm hưởng thụ các sản vật địa phương tại từng gia đình nông hộ hoặc trang trại. Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn, như về nông nghiệp thì Việt Nam có diện tích đồng bằng rộng lớn, địa hình phong phú đa dạng thêm vào đó là các vùng nông thôn Việt Nam là các làng nghề truyền thống sản xuất hàng thủ công như sản xuất đồ gốm sứ, tơ lụa, mây tre và nón; về thiên nhiên thì Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều phong cảnh thiên nhiên đẹp, địa hình đa dạng gồm đồi, sông suối, hang động, hệ động thực vật phong phú; về văn hóa truyền thống thì vùng nông thôn với những làng quê cổ kính, những nét truyền thống đặc sắc, những vùng đất có lịch sử hình thành lâu đời, giàu truyền thống; về dân tộc: có đến 54 dân tộc anh em, với bản sắc văn hóa và phong tục tập quán khác nhau, tạo nên một bức tranh màu sắc hài hòa Với những tiềm năng trên, tác giả khảo sát và thấy rằng hiện nay các công ty du lịch mong muốn và tìm tòi sự mới mẻ nhằm thỏa mãn sự hiếu kỳ cho du khách, vai trò quan trọng hơn nữa là mong muốn giúp đỡ người dân đưa các
  29. 19 hoạt động du lịch vào nông nghiệp nông thôn, tiếp đón tại nông hộ. Từ đó, tác giả đã đề xuất một số nội dung phát triển du lịch nông thôn ở Việt Nam. - Trần Thị Mai, Vũ Hoài Phương, Phan Thị Thu Hằng trong bài viết “Kinh nghiệm, thực trạng và giải pháp phát triển du lịch làng nghề tại Thừa Thiên Huế” [41] cho rằng Thừa Thiên Huế là tỉnh có hệ thống làng nghề đa dạng, là nơi tập trung khá đầy đủ các nhóm nghề truyền thống cũng như các nghề mới của Việt Nam. Khôi phục và phát triển làng nghề không chỉ góp phần bảo tồn, tôn vinh giá trị văn hóa đặc trưng của từng vùng mà còn tạo ra nhiều việc làm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng khả năng cạnh tranh cho du lịch của từng địa phương. Trên cơ sở rút ra những bài học kinh nghiệm của các nước và các địa phương trong nước, đánh giá thực trạng phát triển du lịch làng nghề tại Thừa Thiên Huế thời gian qua, các tác giả đã đề xuất các nhóm giải pháp nhằm khai thác được các cơ hội phát triển du lịch làng nghề tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngoài ra, các tác giả cho rằng để du lịch làng nghề tại Thừa Thiên Huế phát triển bền vững, cần đánh giá đúng tầm quan trọng của du lịch làng nghề và có sự quy hoạch hợp lý, đầu tư đồng bộ cho các làng nghề có nhiều lợi thế về thu hút khách du lịch; cần có sự chung tay của các đối tác liên quan đến công tác bảo tồn và phát triển làng nghề. Mọi hoạt động du lịch làng nghề phải vì người dân, phục vụ lợi ích của người dân và cộng đồng và phải có sự tham gia tích cực của người dân trên tất cả các mặt. - Tác giả Nguyễn Hữu Thông trong bài "Thực trạng ngành nghề thủ công ở Huế "Nghĩ mở - nói thẳng" [63] đã tiếp cận dưới góc độ suy nghĩ của một cá nhân về thực trạng ngành nghề thủ công ở Huế đang dần bị mai một dưới tác động của quá trình tăng trưởng, phát triển và hội nhập kinh tế. Tác giả cho rằng một lĩnh vực được xem là sở trường, thế mạnh của Huế đang ở dạng tiềm năng chưa được đánh thức: đó là kinh tế và văn hóa thủ công nghiệp. Theo tác giả không thể gọi Huế là thành phố du lịch cảnh văn, văn hóa, khi phần mua sắm sản phẩm thủ công đang là một vấn nạn chưa tìm được
  30. 20 lối thoát. Khi mà quan niệm về thế mạnh về văn hóa không đủ khả năng để làm ra tiền, hay trở thành một ngành kinh doanh văn hóa đủ sức làm giàu cho dân và cho ngân sách của tỉnh thì khó có thể giải được bài toán du lịch, dịch vụ và sản phẩm thủ công cho du khách, cũng như thị trường nội địa, xuất khẩu cho mặt hàng này. Văn hóa không chỉ là bộ mặt hay phương sách để duy trò đời sống tinh thần thuần túy mà có thể xem văn hóa như là một điều kiện thuận lợi để tạo ra cho tỉnh Thừa Thiên Huế một dạng cấu trúc ngành nghề đặc thù, mang tính chính danh duy nhất, có thể hoạt động và có khả năng giải quyết một cách hiệu quả những vấn đề kinh tế đặt ra. Như vậy, kết quả của nhóm công trình khoa học này có ý nghĩa về mặt thực tiễn quan trọng đối với xu thế phát triển ngành du lịch gắn liền với làng nghề truyền thống ở Việt Nam. Kết quả này đã đưa ra được nhiều hướng mở cho quá trình phát triển ngành du lịch nói chung, đồng thời gìn giữ và phát huy bản sắc và giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế nói riêng. 1.2. NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ MÀ LUẬN ÁN SẼ CÓ KẾ THỪA VÀ KHOẢNG TRỐNG TRONG NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH MÀ LUẬN ÁN SẼ TIẾP TỤC Trên cơ sở tổng quan những nội dung và kết quả chính của các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề làng nghề truyền thống, làng nghề truyền thống gắn liền với phát triển du lịch nêu trên, có thể rút ra những kết quả của các công trình khoa học đã công bố mà luận án có thể kế thừa như: - Một số vấn đề liên quan đến làng nghề truyền thống đã được làm rõ như: các lý luận cơ bản về làng nghề truyền thống, vai trò cơ bản của làng nghề truyền thống trong phát triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch nói riêng; đánh giá tổng quan yếu tố lịch sử hình thành các làng nghề truyền thống nói chung, đồng thời khái quát hệ thống các làng nghề truyền thống ở Việt Nam; xác định vai trò
  31. 21 quan trọng của việc khôi phục, gìn giữ, bảo tồn những giá trị truyền thống nói chung và giá trị truyền thống của các làng nghề truyền thống Việt Nam trong tiến trình phát triển kinh tế du lịch. - Ý tưởng phát triển du lịch với nhiều hình thức du lịch khác nhau kết hợp với LNTT của địa phương. Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố nêu trên, một mặt, đã giải quyết được nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng liên quan đến quá trình khôi phục và phát triển LNTT trên thế giới và ở Việt Nam; mặt khác, với xu thế phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế đã đặt ra một nhu cầu cấp thiết là phải tiếp tục nghiên cứu những vấn đề liên quan đến LNTT trong điều kiện mới (gắn liền với phục vụ DL). Vì vậy, luận án cho rằng, có một số vấn đề sau đây cần tiếp tục được nghiên cứu: - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của LNTT phục vụ DL trong điều kiện mới của đất nước và thế giới. - Xây dựng các tiêu chí và các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch. - Nghiên cứu và đánh giá thực trạng về làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở tỉnh Thừa Thiên Huế, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp để khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống phục vụ du lịch của địa phương đến năm 2020.
  32. 22 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH 2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH 2.1.1. Khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 2.1.1.1. Khái niệm về làng nghề và làng nghề truyền thống Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp, càng về sau có những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ chức theo kiểu nghề nghiệp, tạo thành các phường hội như Phường gốm, Phường đúc đồng, Phường dệt vải Từ đó, các nghề được lan truyền và phát triển thành các làng nghề. Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hóa, văn minh dân tộc. Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Lúc đầu sự phát triển đó từ một vài gia đình, rồi đến cả họ và sau đó lan ra cả làng. Thông qua lệ làng mà làng nghề định ra những quy ước như: không truyền nghề cho người làng khác, không truyền nghề cho con gái, hoặc uống rượu ăn thề không để lộ bí quyết Trải qua một thời gian dài lịch sử, lúc thịnh, lúc suy, có những nghề được lưu giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và có những nghề mới ra đời. Làng nghề được hiểu là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên tâm làm nghề truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, và có cùng tổ nghề. Song ở đây chưa phản ánh đầy đủ tính chất làng nghề; nó như một thực thể sản xuất kinh doanh tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, là một dơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp có tác dụng
  33. 23 to lớn đối với đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội một cách tích cực. Như vậy, làng nghề được quan niệm là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập. Thu nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của toàn làng [32, tr.11-13]. Tuy nhiên, ngày nay với xu hướng trên thế giới, khu vực kinh tế thứ ba đóng vai trò quan trọng và trở thành chiếm ưu thế về mặt tỷ trọng thì các nghề buôn bán dịch vụ trong nông thôn cũng được xếp vào các làng nghề. Như vậy, trong làng nghề sẽ có loại làng chỉ có một nghề và làng nhiều nghề, tùy theo số lượng ngành nghề thủ công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ ưu thế có trong làng. Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại, hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có lác đác ở một vài hộ không đáng kể. Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề có tỷ trọng các nghề chiếm ưu thế gần như tương đương nhau. Trong nông thôn Việt Nam, trước đây loại làng một nghề xuất hiện và tồn tại chủ yếu, loại làng nhiều nghề gần đây mới xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh. Quan niệm về làng nghề truyền thống: Từ lịch sử hình thành làng nghề nói trên đã dẫn đến sự xuất hiện quan niệm về làng nghề truyền thống. Nó được hiểu là một cộng đồng dân cư, cư trú trong một phạm vi địa bàn tại các vùng nông thôn tách rời khỏi sản xuất nông nghiệp, cùng làm một hoặc nhiều nghề thủ công có truyền thống lâu đời, để sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm bán ra thị trường để thu lợi, là những làng nghề làm nghề thủ công có truyền thống lâu năm, thường là qua nhiều thế hệ. Qua đó, làng nghề truyền thống được quan niệm là những làng có tuyệt đại đa số bộ phận dân số làm nghề cổ truyền. Nó được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác kiểu cha truyền con nối hoặc ít nhất cũng tồn tại hàng chục năm. Trong làng sản xuất mang tính tập trung, có nhiều nghệ nhân tài hoa và một nhóm người có tay nghề giỏi làm hạt nhân để phát triển nghề. Đồng thời sản phẩm làm ra mang tính tiêu
  34. 24 biểu độc đáo, tinh xảo, nổi tiếng và đậm nét văn hóa dân tộc. Giá trị sản xuất và thu nhập, tiểu thủ công nghiệp ở làng chiếm tỷ lệ 50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm. Theo đó, để xác định một làng nghề là làng nghề truyền thống thì làng nghề đó cần có những tiêu chí sau: + Số hộ và số lao động tham gia hoạt động theo nghề truyền thống ở làng nghề đạt từ 50% trở lên so với tổng số hộ và lao động của làng. + Giá trị sản xuất và thu nhập từ nghề truyền thống ở làng nghề truyền thống đạt trên 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập của làng trong năm. + Sản phẩm làm ra có tính nghệ thuật truyền thống, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. + Quá trình sản xuất được tuân theo bí quyết và công nghệ sản xuất truyền thống nhất định, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, có thể quan niệm đầy đủ về làng nghề truyền thống là những thôn, làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu nhập chiếm chủ yếu trong năm. Những nghề thủ công đó được truyền từ đời này sang đời khác, thường là nhiều thế hệ. Cùng với thử thách của thời gian, các làng nghề thủ công này đã trở thành nghề nổi trội, một nghề cổ truyền, tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp đã chuyên tâm sản xuất, có quy trình công nghệ nhất định và sống chủ yếu bằng nghề đó. Sản phẩm làm ra có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng hóa trên thị trường [32, tr.13-15]. 2.1.1.2. Khái niệm về làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Ngày nay, với xu hướng phát triển du lịch hiện đại đã làm xuất hiện nhiều hình thức du lịch mới ngoài các hình thức du lịch truyền thống như: du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch làng nghề Khi kinh doanh du lịch phát triển, trở thành một hệ thống mang tính tổng hợp trên phạm vi vùng miền không chỉ của một quốc gia thì người ta coi du lịch là một ngành công nghiệp với toàn bộ các hoạt động mà mục tiêu là kết hợp giá trị của
  35. 25 các tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn với các dịch vụ, hàng hoá để tạo ra sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu của du khách. Từ thực tế đó, nhiều LNTT đã được khôi phục, tồn tại và phát triển gắn liền với hoạt động phục vụ du lịch. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những khái niệm về làng nghề truyền thống được đề cập ở trên cùng với xu hướng phát triển của các làng nghề truyền thống hiện nay, NCS đã rút ra khái niệm LNTT phục vụ DL như sau: LNTT phục vụ DL là một "điểm đến" của du khách, nó là làng nghề truyền thống, có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp, phát triển thành những nghề đặc trưng, nổi trội để sản xuất kinh doanh, gắn liền với hoạt động du lịch, đồng thời cung cấp sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL cho khách du lịch, góp phần tăng thêm thu nhập cho người lao động tại các LNTT từ hoạt động kinh doanh các sản phẩm du lịch đó. Theo điều 4, chương I, Luật Du lịch Việt Nam: Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. Còn dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và các dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Từ đó có thể hiểu sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL trước hết là một loại hàng hóa nhưng là một loại hàng hóa đặc biệt, nó cũng cần có quá trình nghiên cứu, đầu tư, có người sản xuất, có người tiêu dùng như mọi hàng hóa khác. Sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL thường mang những đặc trưng văn hóa cao, thỏa mãn nhu cầu của du khách. Sản phẩm du lịch LNTT phục vụ DL được thể hiện trong các tour du lịch chính là việc khai thác các tiềm năng, nguồn lực của các LNTT theo những thể thức riêng của từng cá nhân hay một công ty nào đó. Đó chính là việc khai thác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các LNTT vào hoạt động du lịch. Như vậy, sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch của mình tại các LNTT phục vụ DL như trưng bày, bán hàng thủ công mỹ nghệ, biểu diễn quy trình sản xuất đi kèm với hoạt động
  36. 26 trải nghiệm, hướng dẫn tham quan, lưu trú tại khu vực LNTT Vì vậy, các LNTT phục vụ DL sẽ trở thành một trong những "điểm đến" của du khách trong các tour du lịch của họ. LNTT phục vụ DL được xem là một tài nguyên du lịch để hoạt động du lịch làng nghề khai thác. Du lịch làng nghề là loại hình du lịch khai thác giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể, các sản phẩm do nghề thủ công của các LNTT phục vụ DL tạo ra như một đối tượng tài nguyên du lịch có giá trị, được khai thác để phục vụ cho nhu cầu vui chơi, giải trí, nghiên cứu tìm hiểu văn hóa, tham quan du lịch, hoặc tham gia vào các công đoạn sản xuất sản phẩm đặc trưng của làng nghề đó, mang lại lợi ích kinh tế cho địa phương và đất nước, góp phần tôn vinh, bảo tồn giá trị truyền thống văn hóa và tăng cường vai trò kinh tế của làng nghề. 2.1.2. Đặc điểm của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch LNTT phục vụ DL có những đặc điểm đặc trưng như sau: Thứ nhất, hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh của LNTT phục vụ DL gắn liền với hoạt động du lịch. Hoạt động du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. Vì vậy, hoạt động du lịch mang tính thời vụ, phụ thuộc vào công việc của du khách, điều kiện tự nhiên (thời tiết, mùa), thời điểm lễ hội Ngày nay, với xu hướng con người ngày càng thích những hình thức du lịch hướng về giá trị cội nguồn thì du lịch làng nghề đang được ưa chuộng hơn cả. Vì vậy, tại các LNTT phục vụ DL sẽ có xu hướng phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình gắn liền với hoạt động du lịch của du khách. Quy mô sản xuất kinh doanh của các LNTT phục vụ DL sẽ được mở rộng hơn với nhiều hình thức sản xuất, dịch vụ đa dạng và phong phú vào những "thời điểm vàng" của du lịch địa phương như mùa hè, mùa lễ hội. Ngược lại, quy mô sản xuất kinh doanh sẽ thu hẹp, thậm chí sản xuất mang tính chất "cầm chừng" khi hết mùa du lịch, mùa lễ hội. Trong kế hoạch dài hạn, hoạt động sản xuất kinh
  37. 27 doanh của LNTT phục vụ DL gắn liền với hoạt động của du lịch trong nước và thế giới. Chính vì vậy, có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa LNTT phục vụ DL với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và các tổ chức khác trong lĩnh vực du lịch nhằm khai thác hiệu quả tài nguyên du lịch - LNTT phục vụ DL. Xu hướng tăng, giảm của lượt du khách đến LNTT phục vụ DL ảnh hưởng đến việc chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm và các dịch vụ du lịch tại LNTT phục vụ DL. Như vậy, ở LNTT phục vụ DL có cơ chế phân bổ lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh sản xuất với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và các tổ chức khác để xây dựng "chữ tín" và giải quyết quan hệ lợi ích cho bên tham gia. Thứ hai, phát triển đa dạng về quy mô, cơ cấu ngành nghề và các dịch vụ khác tại LNTT phục vụ DL. Các làng nghề truyền thống ở nước ta đều ra đời và tách dần từ nông nghiệp. Ban đầu người lao động ở nông thôn do nhu cầu việc làm và thu nhập đã làm nghề thủ công bên cạnh làm ruộng, nghề chính là làm ruộng, nghề phụ là nghề thủ công. Khi lực lượng sản xuất đã phát triển thì thủ công nghiệp tách ra thành ngành độc lập, vươn lên thành ngành sản xuất chính ở một số làng; song để đảm bảo cuộc sống, người dân bao giờ cũng làm thêm nghề nông hay buôn bán hoặc làm thêm nghề khác. Sự kết hợp đa nghề này thường thể hiện trong một làng hay trong từng gia đình bởi vì người thợ thủ công vốn là người nông dân tách ra làm nghề thủ công, từ đó nghề thủ công truyền thống ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nông dân, nông nghiệp và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Về cơ cấu ngành nghề đã có sự thích ứng với cơ chế thị trường, một số ngành phát triển mạnh như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản - thực phẩm, cơ kim khí. Có thể nói cơ cấu ngành nghề của các ngành nghề truyền thống trong vùng rất đa dạng và phong phú. Ở các địa phương khác nhau thì tỷ lệ các ngành nghề cũng khác nhau do nhu cầu tiêu thụ và tiêu dùng cũng khác nhau. Về quy mô, đại bộ phận các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề truyền thống có quy mô nhỏ, vốn ít, bình quân mỗi hộ gia đình có vài ba chục
  38. 28 triệu đồng. Tính đặc thù của làng nghề truyền thống là phát triển với nhiều loại mô hình sản xuất, hình thức tổ chức của các đơn vị sản xuất cũng mang đậm sắc thái nông nghiệp nông thôn như các hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã Về trình độ kỹ thuật - công nghệ, đã có sự đan xen kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại trên cơ sở tận dụng tiềm năng và lợi thế lao động của mỗi địa phương, đồng thời kết hợp tay nghề cao với công cụ cơ giới hóa, hiện đại hóa và áp dụng công nghệ tiên tiến và sản xuất như thiết bị chế biến lương thực, thực phẩm, công nghệ sinh học Trên cơ sở đó, đối với LNTT phục vụ DL không chỉ phải tập trung vào khâu sản xuất nhằm tạo ra nhiều sản phẩm phong phú, độc đáo, phù hợp với sở thích của khách du lịch mà phải phát triển các dịch vụ du lịch khác như: dịch vụ lưu trú, ăn uống, tham quan, trưng bày, trải nghiệm, vận chuyển, tiếp thị, kho bãi, trưng bày , đặc biệt là phải liên kết với các công ty du lịch để khách du lịch có thể tiếp cận với sản phẩm du lịch của làng nghề. Thứ ba, sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL được cụ thể hóa thành sản phẩm thủ công mỹ nghệ và các loại hình dịch vụ du lịch, rất phong phú và đa dạng, hướng theo thõa mãn nhu cầu của du khách. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề truyền thống đều là sản phẩm của phương pháp sản xuất thủ công tinh xảo với sự sự sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân, chính điều này đã tạo ra những đặc thù khác nhau của hàng thủ công truyền thống như tính riêng lẻ, tính đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt; chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính tính trường phái, gia tộc giữ bí quyết hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi; đầy chất trí tuệ trí thức lâu đời. Ngoài ra việc sử dụng các sản phẩm này đồng thời phải thưởng thức tính nghệ thuật của nó. Chính sự kết hợp này đã tạo nên tính cá biệt và sắc thái riêng của mỗi làng nghề, nó giải thích tại sao làng nghề cụ thể này không có sản phẩm bằng làng nghề kia, nghệ nhân ở làng nghề này không thể thay thế bằng nghệ nhân ở làng nghề khác. Mặc dù, ở các làng nghề ấy đều cùng làm một nghề và sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống Việt Nam
  39. 29 bao giờ cũng phản ánh sâu sắc tư tưởng tình cảm và quan niệm thẩm mỹ của dân tộc Việt Nam, bản sắc văn hóa Việt Nam. Chính yếu tố tài hoa đậm nét này của sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống đã tạo nên vị trí quan trọng của các sản phẩm này trên thương trường và giao lưu quốc tế. Các sản phẩm thủ công truyền thống Việt Nam vừa phản ánh những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc, vừa có những nét riêng của làng nghề. Các dịch vụ du lịch tại LNTT phục vụ DL về cơ bản là vô hình (không cụ thể). Thực ra, nó là một kinh nghiệm du lịch hơn là một món hàng cụ thể. Mặc dù trong cấu thành sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL có hàng hóa. Tuy nhiên, dịch vụ du lịch LNTT phục vụ DL là không cụ thể nên dễ dàng bị sao chép, bắt chước (những chương trình du lịch, cách tiếp đón du khách ). Việc làm khác biệt hóa sản phẩm này mang tính cạnh tranh khó khăn hơn trong kinh doanh hàng hóa. Hơn nữa, do dịch vụ du lịch chủ yếu là dịch vụ, vì vậy mà khách hàng không thể kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi mua, gây khó khăn cho việc chọn các hình thức dịch vụ du lịch của LNTT phục vụ DL. Việc tiêu dùng dịch vụ du lịch của LNTT phục vụ DL xảy ra cùng một thời gian và địa điểm sản xuất ra chúng. Dịch vụ du lịch không thể tồn kho, dự trữ được và rất dễ hỏng, do đó không thể đưa dịch vụ du lịch của LNTT phục vụ DL đến khách hàng, mà khách hàng phải tự đến nơi sản xuất ra nó. Như vậy, việc tiêu dùng sản phẩm du lịch LNTT phục vụ DL mang tính thời vụ: thông thường, hoạt động du lịch phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố địa lý tự nhiên, thời gian rỗi và tình hình tài chính của du khách. Vì vậy, việc tiêu dùng sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL có tính thời vụ cao. Trên thực tế, khắc phục tính thời vụ trong hoạt động du lịch là một vấn đề rất khó và có xu hướng ngày càng phức tạp do sự phụ thuộc các điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu nơi du khách chọn đến. Sản phẩm du lịch LNTT phục vụ DL nằm ở xa nơi cư trú của khách du lịch, do sự phân bố của các LNTT phục vụ DL thường nằm xa nơi cư trú của du khách nên các du khách phải có sự di chuyển nhất định đến các LNTT phục vụ
  40. 30 DL thì mới có thể tiêu dùng các sản phẩm du lịch ở đây. Nhiều chủ thể khác nhau có thể cùng tham gia cung ứng sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL bởi vì đây là loại hình sản phẩm có thể cùng một lúc nhiều chủ thể khai thác và đưa vào cung ứng trên thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau, có sự cạnh tranh khá gay gắt nhằm thõa mãn tốt nhất nhu cầu của du khách. Thứ tư, đội ngũ lao động ở các làng nghề truyền thống phục vụ du lịch bao gồm các nghệ nhân có tay nghề cao, nắm giữ bí quyết độc đáo của làng nghề; các thợ có tay nghề cao và các thợ học việc. Ở làng nghề truyền thống, lao động thủ công chiếm chủ yếu nên lao động trong các làng nghề truyền thống là những người lao động thủ công có trình độ, tay nghề tinh xảo, khéo léo, có đầu óc thẩm mỹ và đầy tính sáng tạo. Phần lớn đội ngũ lao động của các LNTT thường tham gia sản xuất vào những lúc nông nhàn, mang tính thời vụ. Lao động trong các làng nghề truyền thống chủ yếu là trong các hộ gia đình (chiếm khoảng 90%), chỉ khoảng 10% nằm ở các doanh nghiệp. Chính vì vậy, đã giải quyết được phần lớn lao động nông nhàn bằng cách thu hút họ làm việc ở những công đoạn đơn giản của quá trình sản xuất. Thứ năm, LNTT phục vụ DL là sự kết tinh giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc. Từ xa xưa, người nước ngoài hiểu Việt Nam, quan hệ mật thiết với Việt Nam, trước hết là từ yếu tố văn hóa. Một đặc điểm nổi bật là những làng nghề truyền thống mang chất văn hóa dân tộc rất đậm đà và là những bảo vật vô giá. Trống đồng Ngọc Lũ; tượng Phật nghìn mắt, nghìn tay; tranh sơn mài, tranh lụa, tranh dân gian khắc trên đá, trên gốm Đó là những minh chứng cho đời sống sinh hoạt, cảnh quan thiên nhiên và phong tục tập quán của dân tộc ta qua từng thời kỳ lịch sử. Như vậy làng nghề truyền thống không chỉ là những đơn vị kinh tế, thực hiện mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu mà còn mang nét đặc sắc, biểu trưng của nền văn hóa dân tộc, văn hóa cộng đồng làng xã Việt Nam.
  41. 31 2.1.3. Vai trò của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch có những vai trò quan trọng đối với sự phát triển du lịch, kinh tế, xã hội ở địa phương cụ thể như sau: Thứ nhất, LNTT phục vụ DL góp phần khai thác các nguồn lực về tài nguyên du lịch, vốn đầu tư, cơ sở vật chất - kỹ thuật và nguồn nhân lực cho phát triển du lịch ở địa phương. Ngày nay, xu hướng du lịch nhân văn, trở về với các giá trị truyền thống ngày càng trở nên phổ biến và có sức hấp dẫn đối với du khách. Theo quy định tại điều 13, Luật Du lịch có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Hệ thống các LNTT phục vụ DL với các đặc điểm đặc trưng, riêng có nên ngày càng cung cấp và đáp ứng được nhu cầu du lịch nhân văn của khách du lịch nhiều hơn. Điều này đã biến các LNTT phục vụ DL trở thành điểm đến du lịch phổ biến, góp phần tăng thêm tài nguyên du lịch cho địa phương theo hướng ngày càng phong phú và đa dạng. LNTT phục vụ DL thường có quy mô sản xuất nhỏ, sử dụng bí quyết và công nghệ sản xuất truyền thống là chủ yếu, hoạt động mang tính thời vụ cao, vì vậy phù hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của các hộ gia đình và các chủ thể sản xuất kinh doanh. Đây được xem là lợi thế để các LNTT phục vụ DL có thể huy động các loại vốn nhàn rỗi trong dân cư có thể có nơi đầu tư hiệu quả, góp phần tăng nguồn vốn đầu tư, cải thiện cơ sở vật chất - kỹ thuật tại LNTT phục vụ DL, góp phần phát triển du lịch của địa phương. Với xu hướng phát triển du lịch hiện đại, LNTT phục vụ DL đã góp
  42. 32 phần tăng thêm nguồn nhân lực cho phát triển du lịch ở địa phương thông qua việc khai thác hiệu quả nguồn nhân lực ở nông thôn. Các LNTT phục vụ DL đã tạo cơ hội cho người lao động ở nông thôn không có khả năng sản xuất nông nghiệp, hoặc trong thời gian nông nhàn chuyển sang làm ngành nghề có ưu thế hơn, tận dụng được tối đa thời gian rãnh rỗi, phát triển nhiều dịch vụ du lịch như cung cấp các dịch vụ về, thông tin, hướng dẫn, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách, góp phần tạo thêm được nhiều việc làm mới, thu hút được nhiều lao động hơn. Từ đó, người lao động ở nông thôn có việc làm ổn định, tăng thu nhập cho các hộ gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Thứ hai, LNTT phục vụ DL góp phần làm tăng cung và đa dạng hóa sản phẩm du lịch cho địa phương. Sản phẩm của LNTT phục vụ DL là sản phẩm được tạo ra bởi sự kết hợp phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật của đội ngũ lao động tại các LNTT này, điều này đã tạo ra những độc đáo, riêng có giữa sản phẩm thủ công mỹ nghệ và sản phẩm công nghiệp, thể hiện cụ thể ở tính riêng lẻ, tính đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt; chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính trường phái, gia tộc giữ bí quyết hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi; đầy chất trí tuệ trí thức lâu đời Sự giao kết này đã tạo nên tính cá biệt và sắc thái riêng của mỗi LNTT phục vụ DL. Ngoài ra, việc sử dụng các sản phẩm này đồng thời là sự thưởng thức tính nghệ thuật của nó. Do đó, LNTT phục vụ DL góp phần làm tăng cung sản phẩm du lịch cho địa phương. Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. Mỗi một sản phẩm của LNTT phục vụ DL là một tác phẩm văn hóa nghệ thuật và văn hóa tinh thần kết tinh trong đó. Tuy nhiên, sự phát triển của LNTT phục vụ DL cũng chịu sự tác động của quy luật kinh tế thị trường, vì vậy hoạt động sản xuất và kinh doanh tại LNTT phục vụ DL đã nhạy bén hơn với thị trường trong việc đổi mới mẫu mã, chất lượng và linh hoạt thay đổi hướng sản xuất nên sản phẩm của LNTT phục vụ DL
  43. 33 phát triển phong phú cả hai hình thức là vật thể (sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo, riêng có) và phi vật thể (các loại hình dịch vụ du lịch tại LNTT phục vụ DL). Điều này góp phần làm đa dạng hóa sản phẩm du lịch của địa phương, góp phần đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Thứ ba, LNTT phục vụ DL góp phần tạo ra những điểm đến du lịch đặc trưng, mở rộng hình thức liên kết và hợp tác trong phát triển du lịch ở địa phương. Điểm đến du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. Du lịch làng nghề truyền thống là loại hình du lịch văn hoá tổng hợp đưa khách du lịch tới tham quan, trải nghiệm tại các LNTT phục vụ DL. Tour du lịch làng nghề là dịp được khám phá, tìm hiểu quy trình kỹ thuật của nghề truyền thống, thâm nhập cuộc sống cộng đồng với những phong tục, tập quán và các nghi thức phường, hội riêng của các làng nghề truyền thống trên khắp miền đất nước. LNTT phục vụ DL với những đặc điểm đặc trưng, không gian và văn hóa của mình đã góp phần tạo nên những điểm đến du lịch mới, hấp dẫn khách du lịch hơn. Với vai trò là điểm đến du lịch mới, LNTT phục vụ DL đã mở rộng sự liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch ở địa phương. Trong xu hướng phát triển du lịch hiện đại, các LNTT phục vụ DL đã có sự liên kết với nhau để tạo ra một hệ thống LNTT phục vụ DL đặc sắc, đặc trưng nổi bật, thu hút khách du lịch; đồng thời đối với các công ty du lịch lữ hành cũng liên kết, hợp tác với các LNTT phục vụ DL để thực hiện tour du lịch LNTT cho khách du lịch. Các công ty này có thể là ở trong nước hoặc ở nước ngoài. Chính điều này, LNTT phục vụ DL đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng liên kết, hợp tác vừa ở trong nước, vừa ở nước ngoài, góp phần phát triển du lịch địa phương. Thứ tư, LNTT phục vụ DL góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc ở Việt Nam. Lịch sử phát triển LNTT phục vụ DL gắn liền với lịch sử phát triển văn hóa của dân tộc Việt Nam, nó vừa là nhân tố góp phần tạo nên nền văn hóa ấy, vừa là sự biểu hiện tập trung nhất bản sắc dân tộc Việt Nam. LNTT phục vụ DL có đội ngũ nghệ nhân với bí quyết và công nghệ sản xuất truyền thống
  44. 34 độc đáo, riêng có của từng làng nghề, góp phần cho nhiều nghề truyền thống ở địa phương đã được khôi phục và phát triển phù hợp theo hướng thị trường. LNTT phục vụ DL là cả một môi trường kinh tế, xã hội và văn hóa, nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật, bí quyết và công nghệ sản xuất truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Những phong tục tập quán, đền thờ, miếu mạo của mỗi làng xã vừa có nét chung của văn hóa dân tộc, vừa có nét riêng của mỗi làng quê. Các sản phẩm của LNTT làm ra là sự kết tinh, sự giao lưu và phát triển các giá trị truyền thống, văn minh lâu đời của dân tộc. Người nước ngoài biết đến Việt Nam chủ yếu là thông qua phong tục tập quán, các mặt hàng thủ công truyền thống của Việt Nam. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của LNTT phục vụ DL mang đậm bản sắc dân tộc, mang nét đặc sắc riêng biệt với các dân tộc khác trên thế giới, nó là dấu ấn di sản văn hóa quý báu mà cha ông ta để lại cho thế hệ sau. Với những đặc điểm đặc biệt ấy, chúng không còn là hàng hóa đơn thuần mà đã trở thành sản phẩm văn hóa với tính nghệ thuật cao và được coi là biểu tượng nghệ thuật truyền thống của dân tộc Việt Nam và ngày nay được biết đến nhiều hơn thông qua sự phát triển của hình thức du lịch làng nghề truyền thống. Chính vì vậy, LNTT phục vụ DL góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc ở Việt Nam. Tóm lại, các LNTT phục vụ DL có vai trò quan trọng trong phát triển du lịch, kinh tế, xã hội ở địa phương, góp phần tăng cường sự kết hợp giữa phát triển LNTT phục vụ DL với phát triển du lịch trong xu thế hội nhập thế giới, góp phần cho kinh tế du lịch địa phương ngày càng phát triển theo hướng thị trường. 2.2. CÁC TIÊU CHÍ VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG PHỤC VỤ DU LỊCH 2.2.1. Các tiêu chí đánh giá làng nghề truyền thống phục vụ du lịch 2.2.1.1. Sản phẩm du lịch của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL có sự thích ứng và tính khả biến cao, mang nặng dấu ấn của các cá nhân, các nhà tổ chức, khai thác. Sản phẩm này thường dùng cho khách du lịch, phục vụ những đối tượng sử dụng dịch vụ du
  45. 35 lịch. Vì vậy, chúng được sản xuất ra phải được bán trên thị trường, phục vụ nhu cầu của các đối tượng khách du lịch là cư dân của các vùng miền khác nhau. Bên cạnh đó, sản phẩm này có giá trị văn hóa đi kèm với giá trị kinh tế - xã hội và được đo bằng giá cả với qui mô không hạn chế, thời gian và không gian không xác định. Định tính và định lượng của chúng được thể hiện qua thời gian hoạt động. Vì vậy, giá trị sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL là hữu hình, biểu hiện thông qua những chỉ số kinh tế thu được qua các năm. Tại LNTT phục vụ DL, sản phẩm du lịch được cụ thể hóa thành sản phẩm thủ công mỹ nghệ và các loại hình dịch vụ du lịch tại đây, từ đó việc phân tích và đánh giá tình hình sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL qua các năm được thể hiện qua các tiêu chí sau: - Sản lượng và doanh thu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của LNTT phục vụ DL. Tiêu chí về sản lượng và doanh thu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của LNTT phục vụ DL sẽ phản ánh được một cách cơ bản về tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các chủ thể sản xuất kinh doanh tại các LNTT này. Đây là cơ sở để các chủ thể sản xuất kinh doanh tại LNTT phục vụ DL mở rộng hay thu hẹp quy mô sản xuất của mình. Nếu sản lượng tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ tăng cao qua các năm có nghĩa là mặt hàng đó duy trì và giữ vững được thị phần. Cũng tương tự như vậy, nếu doanh thu tăng với tốc độ hợp lý qua các năm chứng tỏ mặt hàng này có năng lực cạnh tranh cao, được thị trường chấp nhận. Còn nếu khối lượng tiêu thụ lớn nhưng doanh thu không tăng chứng tỏ giá bán sản phẩm giảm sút, tức năng lực cạnh tranh của sản phẩm bị giảm sút, có thể do doanh nghiệp đã phải dùng biện pháp hạ giá bán để kích thích tiêu thụ, nhằm thu hút lượt du khách đến đây nhiều hơn, góp phần làm tăng "giá trị điểm đến" của LNTT phục vụ DL. - Số lượng, chất lượng và doanh thu của các loại hình dịch vụ du lịch tại LNTT phục vụ DL. Du khách đến LNTT phục vụ DL chủ yếu là với mục đích tìm hiểu lịch sử văn hóa lâu đời, nét độc đáo của các sản phẩm, và bàn tay tài hoa của nghệ nhân,
  46. 36 nghỉ ngơi, tham quan du lịch Vì vậy, vấn đề quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của LNTT phục vụ DL với du khách là sự đa dạng và chất lượng của các hình thức dịch vụ du lịch của LNTT phục vụ DL như: dịch vụ lưu trú của du khách khi đến LNTT phục vụ DL, dịch vụ ăn uống, tham quan, dịch vụ trải nghiệm làm một người thợ thủ công, dịch vụ mua sắm các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, Tiêu chí này sẽ góp phần đánh giá được sự kết nối giữa hoạt động du lịch với các LNTT phục vụ DL trong việc phục vụ và thu hút du khách đến nơi đây. Chất lượng của các loại hình dịch vụ du lịch được thể hiện qua mức độ hài lòng của du khách khi họ đến đây và sự trở lại tham quan lần sau của họ. Ngoài ra, tiêu chí này phần nào làm rõ được LNTT phục vụ DL đã thực sự là "điểm đến" hấp dẫn đối với du khách hay chưa? Đồng thời, góp phần cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại các LNTT phục vụ DL có cơ sở để hoạch định chiến lược phát triển của mình. Như vậy, sản phẩm du lịch của LNTT phục vụ DL sẽ là "cầu nối" hiệu quả giữa hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh tại LNTT phục vụ DL với hoạt động du lịch, các tour, tuyến du lịch trong nước và quốc tế, góp phần xây dựng các LNTT phục vụ DL là "điểm đến" hấp dẫn của du khách. 2.2.1.2. Lực lượng lao động của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Lực lượng lao động của LNTT phục vụ DL bao gồm những người lao động từ 15 tuổi trở lên đang tham gia các hoạt động kinh tế tại các LNTT phục vụ DL, được xem xét trên các mặt sau: - Đội ngũ nghệ nhân tại các LNTT phục vụ DL: đây là một bộ phận lao động quan trọng trong lực lượng lao động của LNTT phục vụ DL. Bộ phận này có số lượng rất ít và ở độ tuổi khá lớn (trên 65 tuổi). Họ là những nghệ nhân tham gia lao động tích cực với vai trò quyết định sự tồn vong của các LNTT này, do họ là đội ngũ nắm giữ bí quyết của công nghệ sản xuất truyền thống độc đáo của LNTT, là lực lượng chính để dẫn dắt và truyền nghề cho thế hệ sau, đồng thời họ là bộ phận am hiểu và có kỹ năng làm dịch vụ du lịch dựa trên tay nghề của mình (như giới thiệu lịch sử của LNTT phục vụ DL, biểu diễn thành thạo
  47. 37 quy trình sản xuất độc đáo của nghề ở LNTT phục vụ DL cho du khách, ). Đội ngũ này là bộ phận lao động thường xuyên, ổn định tại các LNTT phục vụ DL. Tuy nhiên, việc truyền nghề cho thế hệ sau bị hạn chế bởi những quy định, những "hương ước" riêng của từng LNTT phục vụ DL, từng dòng tộc như không truyền nghề cho người ngoài dòng tộc, không truyền nghề cho con gái làm cho bí quyết gia truyền độc đáo của từng nghề, từng LNTT phục vụ DL ngày càng bị thất truyền, dẫn đến nguy cơ nhiều LNTT này bị mai một, hoặc là không giữ được nét độc đáo, giá trị truyền thống nguyên thủy của nó. Vì vậy, không những số lượng và chất lượng của đội ngũ nghệ nhân mới có thể đánh giá được sự phát triển của LNTT phục vụ DL, mà còn do ý thức và nhận thức mới của họ về vấn đề truyền nghề cho thế hệ sau quyết định. Tất cả những yếu tố đó sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của các LNTT phục vụ DL trong điều kiện mới. - Đội ngũ thợ tại các LNTT phục vụ DL: đây là bộ phận lao động chưa biết nghề trước đó nhưng tham gia lao động trong một thời gian dài tại các LNTT dưới sự hướng dẫn, dạy nghề của đội ngũ nghệ nhân ở LNTT phục vụ DL là chủ yếu. Họ cũng được trang bị những kỹ năng cơ bản để tham gia thực hiện các dịch vụ du lịch tại LNTT phục vụ DL. Đội ngũ thợ bao gồm: thợ bậc cao, thợ có tay nghề và thợ đang học việc. Thợ bậc cao là những người lao động tham gia lao động tại các LNTT phục vụ DL trong thời gian dài, được học và truyền nghề bởi đội ngũ nghệ nhân của LNTT này. Từ đó, họ nắm được bí quyết và được công nhận có trình độ cao đối với nghề cụ thể của LNTT phục vụ DL (là thợ bậc 5, bậc 6, hay bậc 7). Đây là đội ngũ kế cận, sẽ trở thành đội ngũ nghệ nhân trong tương lai, hoạt động thường xuyên tại các LNTT phục vụ DL nói riêng. Thợ có tay nghề là bộ phận những người lao động tham gia lao động tại các LNTT phục vụ DL trong thời gian nhất định, đã trải qua thời gian học việc và được công nhận trình độ nhất định đối với nghề mà họ đã học (như thợ bậc 1, bậc 2, bậc 3, bậc 4). Họ có thể được đội ngũ nghệ nhân truyền nghề, hoặc đội ngũ thợ bậc cao
  48. 38 dạy nghề. Một bộ phận lớn của đội ngũ này là hoạt động thường xuyên tại LNTT này, còn một bộ phận nhỏ thì hoạt động mang tính thời vụ, chỉ khi nào được huy động thì họ sẽ tham gia sản xuất tại các LNTT phục vụ DL. Thợ đang học việc là bộ phận những người lao động mới vào tham gia lao động tại LNTT phục vụ DL, họ chưa được giao công việc chính mà chỉ mới được quan sát, phụ việc Đội ngũ này chủ yếu hoạt động mang tính chất thời vụ tại các LNTT này. - Đội ngũ lao động hoạt động dịch vụ du lịch ở các LNTT. Đội ngũ này có thể đồng thời là đội ngũ nghệ nhân, thợ tại các LNTT, hoặc là một bộ phận các hướng dẫn viên, nhân viên của các doanh nghiệp kinh doanh DL. Đây là đội ngũ quan trọng để góp phần phát triển LNTT phục vụ DL. Bên cạnh đó, lực lượng lao động của các LNTT phục vụ DL cũng được xem xét, đánh giá dựa trên tình trạng sức khỏe, trình độ văn hóa, năng lực phẩm chất, phong tục tập quán, mức độ muốn gắn bó và tiếp tục muốn lưu truyền và gìn giữ nghề truyền thống của họ. 2.2.1.3. Nguồn vốn và năng lực tài chính của chủ thể sản xuất kinh doanh của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch - Nguồn vốn cho LNTT phục vụ DL. Nguồn vốn đầu tư là một yếu tố quan trọng để đánh giá quy mô hoạt động, mức độ phát triển của LNTT phục vụ DL. Trong phạm vi của chủ thể sản xuất kinh doanh, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng nhất định các yếu tố sản xuất như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sức lao động, Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hóa, do đó có thể có được các yếu tố nói trên đòi hỏi họ phải có một lượng tiền ứng trước nhất định, được gọi là vốn sản xuất kinh doanh. Vậy có thể hiểu, vốn là lượng tiền ứng trước để thỏa mãn nhu cầu về tài sản dùng vào hoạt động kinh doanh của chủ thể sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Gọi là số tiền ứng trước vì nếu họ hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ thu hồi lại được số vốn bỏ ra ban đầu và làm sinh lời vốn.
  49. 39 Tuy nhiên, có vốn mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để đạt mục đích kinh doanh. Vì vậy, vấn đề đặt ra có ý nghĩa tiếp theo là phải sử dụng có hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu biểu hiện một mặt về hiệu quả kinh doanh, phản ánh trình độ quản lý và sử dụng vốn chủ thể sản xuất kinh doanh trong việc tối đa hóa kết quả lợi ích hoặc tối thiểu hóa số vốn và thời gian sử dụng theo các điều kiện nguồn lực xác định phù hợp với mục tiêu kinh doanh. Đối tượng nghiên cứu của luận án là các LNTT phục vụ DL, do đó các chủ thể sản xuất kinh doanh thường có nguồn vốn với quy mô nhỏ, thường xuyên biến động qua các giai đoạn, các thời kỳ. Vì vậy, ta có thể sử dụng các tiêu chí sau để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của chủ thể sản xuất kinh doanh ở LNTT phục vụ DL: + Vòng quay của vốn kinh doanh. Chỉ số này phản ánh một đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. + Giá trị sản xuất. Giá trị sản xuất (GO) là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ mà chủ thể sản xuất đã tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Như vậy, giá trị sản xuất của chủ thể sản xuất kinh doanh được tính cả kết quả sản xuất vật chất và sản xuất dịch vụ hoàn thành và chưa hoàn thành trong năm. Chỉ tiêu giá trị sản xuất đó được dùng để đánh giá quy mô, kết quả hoạt động sản xuất của chủ thể sản xuất kinh doanh, là căn cứ để tính giá trị tăng thêm của chủ thể sản xuất kinh doanh. - Năng lực tài chính của chủ thể sản xuất kinh doanh tại LNTT phục vụ DL. Năng lực tài chính trong một chủ thể sản xuất kinh doanh phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nội bộ doanh nghiệp đó và là sức mạnh nguồn lực khẳng định vị thế cạnh tranh của chủ thể sản xuất kinh doanh đó trên thị trường. Một chủ thể sản xuất kinh doanh có năng lực tài chính mạnh thì sẽ có nhiều cơ hội thuận lợi trong việc cạnh tranh sản phẩm so với đối thủ, ngược lại, các sản phẩm của chủ thể sản xuất kinh doanh có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường
  50. 40 sẽ tạo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao, đảm bảo tính cân đối, bền vững, tạo nên sức mạnh tài chính cho chủ thể sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, đánh giá năng lực tài chính là nhằm đo lường sức mạnh tài chính để khẳng định vị thế của chủ thể sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo nguồn lực để tăng sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường. Các tiêu chí đánh giá về năng lực tài chính của chủ thể sản xuất kinh doanh bao gồm: + Khả năng thanh toán ngắn hạn: là năng lực về tài chính mà chủ thể sản xuất kinh doanh có được để đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ cho các cá nhân, tổ chức có quan hệ cho doanh nghiệp vay hoặc nợ. Năng lực tài chính đó tồn tại dưới dạng tiền tệ (tiền mặt, tiền gửi ), các khoản phải thu từ các cá nhân mắc nợ, các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền như: hàng hóa, thành phẩm, hàng gửi bán. Các khoản nợ của chủ thể sản xuất kinh doanh có thể là các khoản vay ngắn hạn ngân hàng, khoản nợ tiền hàng do xuất phát từ quan hệ mua bán các yếu tố đầu vào hoặc sản phẩm hàng hóa mà họ phải trả cho người bán hoặc người mua đặt trước, các khoản thuế chưa nộp ngân hàng nhà nước, các khoản chưa trả lương. Với quan niệm khả năng thanh toán ngắn hạn của chủ thể sản xuất kinh doanh như vậy thì khả năng thanh toán ngắn hạn của họ được tính theo công thức như sau: Khả năng thanh toán ngắn hạn = Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn / Nợ ngắn hạn Theo công thức trên, khả năng thanh toán của chủ thể sản xuất kinh doanh sẽ là tốt nếu tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chuyển dịch theo xu hướng tăng lên và nợ ngắn hạn chuyển dịch theo xu hướng giảm xuống; hoặc đều chuyển dịch theo xu hướng cùng tăng nhưng tốc độ tăng của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn lớn hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn; hoặc đều chuyển dịch theo xu hướng cùng giảm nhưng tốc độ giảm của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn nhỏ hơn tốc độ giảm của nợ ngắn hạn. chỉ tiêu này phản ánh chủ thể sản xuất kinh doanh đáp ứng được các nghĩa vụ tài chính.
  51. 41 + Hệ số vòng quay tài sản là tỷ lệ giữa tổng doanh thu thuần và tổng tài sản bình quân. Hệ số này đo lường hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản của chủ thể sản xuất kinh doanh. Hệ số này càng cao cho thấy việc sử dụng tài sản của chủ thể sản xuất kinh doanh vào các hoạt động sản xuất kinh doanh càng hiệu quả. + Chỉ số nợ là tỷ lệ giữa tổng nợ và tổng tài sản. Chỉ số này cho biết có bao nhiêu phần trăm tài sản của chủ thể sản xuất là từ đi vay. Qua đây biết được khả năng tự chủ tài chính của họ. Chỉ số này mà quá nhỏ, chứng tỏ họ đi vay ít, có thể hiểu chủ thể sản xuất kinh doanh có khả năng tự chủ tài chính cao hoặc họ chưa biết khai thác đòn bẩy tài chính, tức là chưa biết cách huy động vốn bằng hình thức đi vay. Ngược lại, chỉ số này mà cao quá thì có thể hiểu chủ thể sản xuất kinh doanh không có thực lực tài chính mà chủ yếu đi vay để có vốn kinh doanh, lúc này họ sẽ gặp phải mức độ rủi ro cao hơn. + Hệ số biên lợi nhuận ròng là tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế (thu nhập ròng) và doanh thu, nó phản ánh khoản thu nhập ròng (lợi nhuận sau thuế) của chủ thể sản xuất so với doanh thu. 2.2.1.4. Mức độ ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất ở làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Trình độ chuyên môn và kĩ thuật thường được kết hợp chặt chẽ với nhau thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng ngành nghề tại các LNTT phục vụ DL. Ngoài trình độ tay nghề, hiện nay việc ứng dụng khoa học công nghệ cũng có tác động không nhỏ đến tăng năng suất lao động và hiệu quả đầu ra cho các LNTT phục vụ DL. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, trong quá trình sản xuất tại các LNTT phục vụ DL đã có sự kết hợp giữa công nghệ sản xuất truyền thống và công nghệ sản xuất hiện đại một cách hợp lý, phù hợp với từng công đoạn sản xuất. Mức độ ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất ở các LNTT phục vụ DL nhiều hay ít thể hiện ở chỗ tỷ lệ sử dụng các thiết bị, máy móc so với sử dụng lao động thủ công, từ đó có thể phân thành mức
  52. 42 độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất tại LNTT phục vụ DL như sau: trình độ thủ công, trình độ bán cơ khí, trình độ cơ khí. Trong mỗi làng nghề chủng loại máy móc của từng hộ sản xuất cũng khác nhau rất nhiều về mẫu mã lẫn tính năng. Việc áp dụng các kỹ thuật mới vào các công đoạn sản xuất còn tự phát, tùy tiện, chưa đồng bộ nên chưa tạo được sự chuyển biến cơ bản về công nghệ sản xuất trong các làng nghề. Do đó việc sản xuất trong một số làng nghề mặc dù đã có sự tham gia của máy móc, kỹ thuật mới nhưng vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, chất lượng không đều, hạn chế hiệu quả đầu tư Tuy nhiên, việc sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ có những đặc thù riêng chẳng hạn chỉ có một vài công đoạn trong quy trình sản xuất có thể áp dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, còn một vài công đoạn chủ yếu quyết định đặc trưng riêng của sản phẩm này thì phải được thực hiện thủ công qua bàn tay khéo léo của những nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề. Điều này tạo nên sức cạnh tranh riêng có của sản phẩm thủ công mỹ nghệ của LNTT phục vụ DL mà các sản phẩm công nghiệp khác không có được. Từ đó, tạo nên sự hấp dẫn riêng có cho LNTT phục vụ DL phát triển theo xu hướng gắn với các hoạt động du lịch trên địa bàn. 2.2.1.5. Lượt khách du lịch đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Theo điều 4,chương I, Luật Du lịch Việt Nam có hiệu lực từ 01/01/2006, khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến. Khách du lịch (hay còn gọi là du khách) được chia làm 2 nhóm cơ bản sau: - Khách du lịch quốc tế: là người nước ngoài, công dân nước đó định cư ở nước ngoài vào nước đó du lịch; hoặc công dân nước đó, người nước ngoài thường trú tại nước đó ra nước ngoài du lịch. Khách du lịch quốc tế bao gồm 2 loại: + Khách du lịch quốc tế đi vào: là người nước ngoài và người của nước đó định cư ở nước ngoài vào nước đó đi du lịch.
  53. 43 + Khách du lịch quốc tế đi ra: là công dân của nước đó và những người nước ngoài đang cư trú tại nước đó đi ra nước ngoài du lịch. - Khách du lịch nội địa: là công dân trong nước, người nước ngoài thường trú tại nước đó đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Ngoài ra, người ta còn phân khách du lịch ra thành các loại như khách du lịch công vụ, khách du lịch thương gia. Từ đó, có thể thấy khách du lịch đến LNTT phục vụ DL nói chung là những người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch và công dân Việt Nam đến tham quan và trải nghiệm, mua sắm tại các LNTT phục vụ DL. Khách du lịch đến LNTT phục vụ DL được chia thành 2 nhóm cơ bản là khách du lịch quốc tế đến LNTT phục vụ DL và khách du lịch nội địa đến LNTT phục vụ DL. Khi họ tham gia vào tour du lịch LNTT phục vụ DL thì họ sẽ có những đánh giá tốt, xấu, hài lòng hoặc không hài lòng về tour du lịch này. Điều đó có thể đánh giá được chất lượng và mức độ hấp dẫn của LNTT phục vụ DL đối với du khách và sự kết hợp giữa LNTT phục vụ DL với hoạt động du lịch như thế nào. Như vậy, lượt khách du lịch trong và ngoài nước đến LNTT phục vụ DL là một tiêu chí phản ánh tình hình khách du lịch đến các LNTT phục vụ DL, qua đó sẽ đánh giá được sự phát triển cũng như độ hấp dẫn của các LNTT phục vụ DL, phản ánh được thực trạng LNTT phục vụ DL có thực sự là "điểm đến" du lịch hấp dẫn của họ hay không? 2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Nghiên cứu sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của các LNTT trong suốt chiều dài lịch sử, ta thấy sự phát triển của chúng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như tự nhiên, kinh tế, xã hội , trong đó các LNTT phục vụ DL chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi các hai nhóm nhân tố sau:
  54. 44 2.2.2.1. Nhóm các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề truyền thống phục vụ du lịch Thứ nhất, mối quan hệ giữa các LNTT phục vụ DL với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Du lịch làng nghề hiện là xu thế phát triển không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Nhu cầu phát triển cùng với mối quan tâm chung của các quốc gia chính không chỉ kinh doanh mà còn hướng đến bảo tồn các LNTT. Mỗi quốc gia, tùy theo hoàn cảnh, điều kiện riêng mà có những phương pháp, kế hoạch khác nhau. Chính xu thế này đã phát triển các LNTT thành các LNTT phục vụ DL với những đặc trưng rõ nét nhằm phục vụ cho du khách. Để các LNTT phục vụ DL hoạt động một cách hiệu quả thì cần phải có sự gắn kết với các doanh nghiệp kinh doanh DL ở các địa phương trong nước và trên thế giới. Giữa các LNTT phục vụ DL và các doanh nghiệp kinh doanh DL có sự gắn kết chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau cùng phát triển bền vững, cụ thể: - Các doanh nghiệp kinh doanh DL có vai trò quan trọng đối với việc tìm kiếm và khai thác các loại thị trường cho LNTT phục vụ DL nói chung như: giới thiệu, quảng bá sản phẩm và tiêu thụ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của LNTT; cung ứng, phân chia đối tượng khách hàng. Đồng thời, đội ngũ lao động của các doanh nghiệp kinh doanh DL còn đóng vai trò như là những người "thầy" để hướng dẫn, đào tạo kỹ năng cho dân cư và người lao động ở các LNTT phục vụ DL làm du lịch. - Còn các LNTT phục vụ DL với tiềm năng và sức hấp dẫn vốn có của mình sẽ là điều kiện và cơ hội để cho các doanh nghiệp kinh doanh DL khai thác, tìm kiếm lĩnh vực đầu tư kinh doanh nơi đây. Đồng thời, các nghệ nhân, người lao động và dân cư nơi đây với kinh nghiệm sản xuất độc đáo của mình sẽ góp phần khôi phục và phát triển nhiều giá trị truyền thống lâu đời của LNTT. Một khi các LNTT phục vụ DL càng phát triển thì nó sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh DL ổn định trong việc đầu tư của mình, tạo sự liên kết vững
  55. 45 chắc giữa LNTT phục vụ DL với doanh nghiệp kinh doanh DL. Ngoài ra, LNTT phục vụ DL làm gia công, sản xuất phụ với tư cách là vệ tinh cho doanh nghiệp lớn, cụ thể là: các LNTT phục vụ DL tiến hành sản xuất các loại phụ tùng, chi tiết sản phẩm, hoặc sản xuất nông sản thực phẩm ở giai đoạn thô, cung cấp cho những doanh nghiệp lớn ở thành thị làm đầu mối lắp ráp hoàn thiện sản phẩm bán ra thị trường trong và ngoài nước mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời các LNTT phục vụ DL là những điểm đến du lịch hấp dẫn cho các doanh nghiệp kinh doanh DL khai thác, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Thứ hai, lượng cầu hàng hóa và dịch vụ của LNTT phục vụ DL trên thị trường. Cũng như bất kì các ngành sản xuất của các LNTT phục vụ DL cũng phải tuân theo quy luật cung cầu của thị trường như quy luật cung cầu, cạnh tranh Vì vậy, sự phát triển của nó trước hết phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường, tức là phải coi thị trường là căn cứ, là đối tượng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của LNTT phục vụ DL, trong đó đối tượng khách hàng mà LNTT phục vụ DL hướng tới là du khách. Có nghĩa là lượng cầu hàng hóa và dịch vụ của LNTT phục vụ DL trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của nó. Lượng cầu được quyết định bởi sức mua (thu nhập), sở thích, tập quán tiêu dùng của người tiêu dùng nói chung. Chính vì vậy, các yếu tố đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc xác định sản phẩm, quy mô sản xuất, thời gian sản xuất, lựa chọn công nghệ sản xuất ở các LNTT phục vụ DL. Ngoài ra, cơ cấu dân cư, sức mua của dân cư cũng ảnh hưởng đến quy mô phát triển và cơ cấu ngành nghề tại LNTT phục vụ DL. Dân cư thành thị và du khách (đặc biệt là khách quốc tế) nói chung có mức sống cao, có "lối sống thành thị". Do đó, nhu cầu dịch vụ hết sức đa dạng, hoạt động dịch vụ cực kì phức tạp, nhu cầu về các sản phẩm mỹ nghệ rất lớn. Vì vậy, số lượng dân cư thành thị và du khách ảnh hưởng rất lớn đến việc tiêu thụ những sản phẩm thủ công truyền thống, đồng thời có tác động đa chiều đến sự phát triển của LNTT phục vụ DL.
  56. 46 Thứ ba, sự phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ và ngành du lịch ở Việt Nam. Ngành nghề thủ công truyền thống, trong đó thủ công mỹ nghệ là bộ phận quan trọng đã hình thành và tồn tại trong suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Ngành nghề thủ công mỹ nghệ luôn gắn liền với những làng nghề, phố nghề sản xuất các sản phẩm thủ công để phục vụ cho các mục đích sử dụng của đời sống xã hội. Vì vậy, sự phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ và ngành du lịch ở Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và thương hiệu của LNTT phục vụ DL. Các LNTT phục vụ DL rất phong phú, đa dạng về hình thức như các làng nghề, nhóm nghề, phố nghề, xóm nghề. Qua đó, đã có sự gắn kết của nhiều nghề thủ công với đời sống, nhu cầu của tầng lớp dân cư. Tuy nhiên, hiện nay du lịch Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề yếu kém như: ô nhiễm môi trường tại các điểm du lịch, nhiều di tích không được bảo quản đúng mức, gây hư hỏng nghiêm trọng hay bị sửa lại khác xa mẫu cổ và luôn thu phí vào cửa, tình trạng chèo kéo, bắt chẹt khách, tăng giá phòng tùy tiện, chất lượng hạ tầng cơ sở và giao thông thấp, dịch vụ kém, thường chỉ chú trọng khai thác triệt để các thắng cảnh thiên nhiên, nhưng lại không quan tâm bảo trì đúng mức, do đó cảnh quan đang bị xuống cấp hay phá hủy, trong khi đó công tác quản lý của các cơ quan chức năng chưa đạt hiệu quả; nạn lừa đảo du khách rất đáng báo động đã làm giảm đáng kể chất lượng của du lịch Việt Nam. Chính điều này làm giảm lượng du khách, gây mất hình ảnh của các LNTT phục vụ DL trên nhiều mặt như sản phẩm, dịch vụ du lịch của LNTT phục vụ DL ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của LNTT gắn liền với phục vụ DL. Như vậy, sự phát triển của ngành thủ công mỹ nghệ và ngành du lịch ở Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường để các LNTT phục vụ DL ở Việt Nam phát triển. Một mặt, tạo điều kiện thuận lợi và động lực để LNTT phục vụ DL phát triển xứng tầm với tiềm năng của nó; mặt khác, do những hạn chế của ngành du lịch Việt Nam nên phần nào đã kìm hãm sự phát triển của các LNTT phục vụ DL nói chung.
  57. 47 Thứ tư, chính sách của Chính phủ và chính quyền địa phương đối với LNTT phục vụ DL. Trong quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước về kinh tế giữ vị trí đặc biệt quan trọng, các hoạt động của nhà nước đều hoặc là tác dụng thúc đẩy hoặc là kìm hãm sự vận động của ngành kinh tế. Bất cứ nhà nước nào cũng đều có vai trò quản lí nền kinh tế quốc dân thông qua các công cụ quản lý và can thiệp bằng thể chế, chính sách để điều tiết nền kinh tế vận động nhằm đạt đến mục tiêu mong muốn và theo định hướng đã lựa chọn. Thực tế đã chứng minh hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển hay tồn tại của các LNTT. Thời kì trước đổi mới, trong chính sách đối với các thành phần kinh tế, chúng ta đã tập trung phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, không chấp nhận kinh tế tư nhân, cá thể nên các LNTT tồn tại theo nghĩa là các đơn vị kinh tế độc lập đã chuyển thành các hợp tác xã hay các tổ, đội ngành nghề phụ trong hợp tác xã sản xuất nông nghiệp kinh doanh tổng hợp đã làm cho các LNTT không phát triển được thậm chí có nguy cơ diệt vong. Tuy nhiên, bước vào thời kỳ đổi mới, với chính sách thừa nhận hộ gia đình là chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ trong nông thôn, các doanh nghiệp tư nhân được phép thành lập và phát triển thì các LNTT phục vụ DL đã có điều kiện phục hồi và phát triển mạnh. Nhờ chính sách hội nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và trên thế giới đã làm cho nhiều sản phẩm LNTT phục vụ DL có điều kiện phát triển nhất là hàng thủ công mỹ nghệ vì đã mở được thị trường tiêu thụ. Các chính sách của Chính phủ và chính quyền địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của LNTT phục vụ DL, cụ thể: - Nhóm các chính sách, cơ chế về củng cố và phát triển thị trường cho các LNTT phục vụ DL có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng tiếp cận thị trường trong và ngoài nước của các LNTT phục vụ DL, tổ chức nghiên cứu nắm bắt và cung cấp các thông tin kinh tế, thị trường về mẫu mã sản phẩm, hàng hóa, chất lượng sản phẩm; nghiên cứu và dự báo thị trường nhất là dự báo dài hạn và trung hạn đối với