Kế toán tài chính - Chương 03: Thị trường ngoại hối

pdf 84 trang vanle 2290
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kế toán tài chính - Chương 03: Thị trường ngoại hối", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfke_toan_tai_chinh_chuong_03_thi_truong_ngoai_hoi.pdf

Nội dung text: Kế toán tài chính - Chương 03: Thị trường ngoại hối

  1. CHƢƠNG 3 THỊ TRƢỜNG NGOẠI HỐI Mục tiêu Chương này trình bày những vấn đề cơ bản về thị trường ngoại hối như: - Sự ra đời và phát triển, khái niệm, đặc điểm, chức năng và các thành viên tham gia trên thị trường ngoại hối; - Những nội dung cơ bản trong kinh doanh ngoại hối như: các khái niệm và phương pháp yết tỷ giá và kinh doanh tỷ giá. Nội dung I. Khái quát về thị trƣờng ngoại hối 1. Lịch sử hình thành và phát triển thị trƣờng ngoại hối 1.1. Thời kỳ sơ khai Trao đổi thương mại hàng hoá và dịch vụ quốc tế đã được hình thành và phát triển cách đây hàng nghìn năm. Buổi ban đầu, phương thức trao đổi hàng lấy hàng là phương thức thanh toán đầu tiên và phổ biến, phương thức này đã giúp các quốc gia đạt được mục tiêu cơ bản là cho phép trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia với nhau trên thế giới. Cách đây chừng 4.000 năm đã diễn ra bước ngoặc trong phương thức thanh toán quốc tế, đó là việc xuất hiện sử dụng những đồng xu có dán tem của ngân hàng, của nhà buôn, của nhà vua Việc sử dụng tiền kim loại dần dần trở thành phổ thông trong thương mại quốc tế. Những ngày đầu xuất hiện, giá trị của những đồng xu kim loại được xác định theo giá trị thực của kim loại làm nên chính đồng xu đó. Tuy nhiên khi khối lượng các đồng xu trong lưu thông tăng lên theo nhu cầu của thương mại và lòng tin của dân chúng và các giá trị của các đồng xu với vai trò phương tiện trao đổi tăng lên, thì bắt đầu xuất hiện những nhà đổi tiền chuyên nghiệp đầu tiên vào thời cổ ở Trung Đông. Những nhà đổi tiền chuyên nghiệp đã có thể đổi được một lượng nhất định các đồng xu này để lấy lượng tương ứng các đồng xu khác. Với sự phát triển ở dạng sơ khai này đã đánh dấu sự ra đời của việc kinh doanh ngoại hối và thị trường ngoại hối. Sau khi đế quốc Rom sụp đổ và trong suốt thời gian đầu thời kỳ Trung cổ, các giao dịch kinh doanh ngoại hối bị giảm sút đáng kể, bởi vì do các điều kiện về tài chính, chính trị không ổn định và khối lượng thương mại quốc tế giảm đáng kể. Vào thế kỷ XI, việc kinh doanh ngoại hối trở nên thịnh vượng trở lại. Khi các luồng thương mại và tư bản quốc tế tăng lên, việc trao đổi ngoại hối bằng các đồng xu trở nên không hiệu quả, do đó các giao dịch bằng tiền xu ngày càng giảm. Để đáp ứng được nhu cầu thương mại quốc tế ngày càng tăng, đã tạo điều kiện cho hình thức ngân hàng quốc tế ra đời và phát triển. Các ngân hàng này mở chi nhánh và phát triển các mối quan hệ với các ngân hàng đại lý ở các nước bạn hàng là đối tác. Các hối phiếu ra đời và trở thành các công cụ chuyển nhượng được. Khi người hưởng lợi hối phiếu chuyển nhượng hối phiếu cho bên thứ ba, thì một hình thức tiền tệ mới đã được tạo ra. Sự phát triển này đã giúp cho thị trường trở nên linh hoạt hơn và tăng được khối lượng kinh doanh ngoại hối (mua đi bán lại nhiều lần). Khi các giao dịch 32
  2. chuyển khoản giữa các ngân hàng trở nên nhanh hơn đã trở thành điều kiện thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển. 1.2. Thời kỳ sau đại chiến thế giới thứ nhất và cuộc đại suy thoái Trong khoảng thời gian đầu của thế kỷ XX, hai cuộc đại chiến thế giới đã làm gián đoạn sự phát triển của thị trường ngoại hối giữa các quốc gia thù địch, thị trường ngoại hối bị vỡ ra từng mảnh nhỏ. Trong những năm đầu sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, thị trường ngoại hối trở nên vô cùng biến động và trở thành đối tượng đầu cơ với quy mô lớn. Các giao dịch thương mại quốc tế kéo theo việc mua hay bán ngoại tệ thường có mức độ rủi ro rất cao và biện pháp tự bảo hiểm bằng hợp đồng kỳ hạn trở nên rất phổ biến. Trong thực tế, việc sử dụng hợp đồng kỳ hạn để bảo hiểm rủi ro trở nên phổ biến đến mức trong một số lĩnh vực nó đã trở thành một bộ phận cấu thành bắt buộc trong hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng, những nhà chính trị và những nhà hoạch định chính sách trong một số lĩnh vực đã cho rằng các hợp đồng kỳ hạn có bản chất là hoạt động đầu cơ, nhưng xuất phát từ các nhu cầu thương mại quốc tế thì thị trường kỳ hạn vẫn phát triển. Sự đình chỉ chế độ bản vị vàng vào năm 1931 cùng với sự sụp đổ của các ngân hàng và các vấn đề khó khăn trong thanh toán đối với một số đồng tiền đã trở thành những trở ngại đáng kể cho sự phát triển thị trường ngoại hối. Tuy nhiên từ giữa những năm 1930 điều kiện hoạt động dần dần trở lại bình thường. 1.3. Thời kỳ sau đại chiến thế giới lần thứ hai Vị thế là trung tâm tài chính thế giới của nước Anh đã bị giảm sút rõ rệt trong khoảng thời gian đại chiến thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, đồng tiền Mỹ là USD đã trở thành một trong những đồng tiền chính mang tính quốc tế. Đồng Bảng Anh vẫn tiếp tục đóng vai trò là đồng tiền chủ đạo. Sự tham gia của Chính phủ trên thị trường ngoại hối ngày càng rõ rệt vào các năm 1930 và càng trở nên thường xuyên hơn sau Đại chiến thế giới lần thứ 2 và được duy trì cho đến ngày nay. Điểm khởi đầu của thời kỳ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai thực tế được diễn ra trước khi chiến tranh kết thúc, bằng cuộc họp của Liên hợp quốc. Thoả thuận Bretton Woods vào năm 1944 đã mang lại sự ổn định trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá của các đồng tiền chính được neo cố định với USD và giá trị của USD được neo cố định với vàng với tỷ lệ 35 USD = 1 ounce. USD được các ngân hàng trung ương trên thế giới chọn làm đồng tiền dự trữ quốc tế, bởi vì nước Mỹ cam kết rằng sẽ chuyển đổi USD thành vàng không hạn chế theo tỷ giá cố định 35 USD = 1 ounce. Hệ thống tỷ giá cố định bị sụp đổ năm 1971, nguyên nhân chính là do tồn tại sự mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thanh toán giữa các quốc gia và người nước ngoài nắm giữ USD ngày càng nhiều. Sau nỗ lực nhằm phục hồi hệ thống này vào năm 1973 không thành đã mở đầu cho thời kỳ chế độ thả nổi và được duy trì đến ngày nay. Những đồng tiền chính trên thị trường ngoại hối được thả nổi dưới sự giám sát của các ngân hàng trung ương. Các ngân hàng trung ương tham gia can thiệp trên thị trường mở thường xuyên nhằm duy trì các hoạt động trên thị trường ngoại hối có trật tự hơn hoặc nhằm mục đích điều chỉnh hướng biến động của tỷ giá theo mong muốn của mình. Các đồng tiền của các nước nhỏ hơn thường được neo cố định với một trong số đồng tiền chính chủ yếu là USD, hoặc với đồng tiền của nước bạn hàng thương mại lớn nhất. Hệ thống tỷ giá thả nổi đã làm cho công tác dự báo tỷ giá giao ngay trong tương lai trở nên cực kỳ khó khăn, nhưng nó lại trở thành công cụ linh hoạt hơn nhiều 33
  3. so với chế độ cố định trong việc xử lý các áp lực của thị trường và những cú sốc trên thị trường ngoại hối. Trong những năm 1970, 1980 và những năm đầu 1990 thị trường ngoại hối biến động không ngừng, điều này xuất phát từ những lý do sau: - Sự gia tăng đáng kể của các thành viên tham gia thị trường nhằm mục đích tìm kiếm các cơ hội sinh lời khi tỷ giá biến động. Ngoài ra, các nguồn lực về kỹ thuật và công nghệ sẵn có của các nhà kinh doanh, các nhà quản trị tài chính và các công ty tự bảo hiểm đã được cải tiến một cách cơ bản. Trong những năm đầu 1990, ngân hàng và những nhà kinh doanh đầu tư chuyên nghiệp vẫn tiếp tục là những người đóng vai trò chủ đạo trên thị trường ngoại hối. Các công ty thường xuyên tích cực tham gia thị trường nhằm quản lý rủi ro ngoại hối và thường sử dụng các chương trình bảo hiểm rủi ro ngoại hối có chọn lựa và trực tiếp tham gia kinh doanh ngoại hối. Các quyết định kinh doanh ngoại hối của các công ty có thể ảnh hưởng đáng kể lên thị trường ngoại hối cả ngắn hạn và dài hạn. - Các luồng di chuyển nhằm thanh atoán sự mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế giữa các quốc gia là rất lớn. Vốn tư bản ngày nay được chu chuyển tương đối tự do giữa các đồng tiền chính nhằm cân đối các trạng thái dư thừa và thiếu hụt trong cán cân thương mại và cán cân dịch vụ; hơn nữa, các quỹ hưu trí cùng với các quỹ đầu tư khác ngày càng tăng đã tạo nên nguồn tài chính sẵn sàng di chuyển đầu tư vào những đồng tiền khác nhau để tìm kiếm lợi nhuận cao nhất. Hơn nữa những nhà đi vay tư nhân cũng có xu hướng tìm kiếm các nguồn vốn bằng các đồng tiền khác nhau để chi phí đi vay giảm xuống. 2. Khái niệm, đặc điểm và chức năng của thị trƣờng ngoại hối 2.1. Khái niệm - Ngoại hối (foreign exchange) Ngoại hối bao gồm các phương tiện thanh toán được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Trong đó, phương tiện thanh toán là những thứ có sẵn để chi trả, thanh toán lẫn cho nhau. Đối với một quốc gia, ngoại hối bao gồm: + Ngoại tệ: là đồng tiền nước ngoài (bao gồm cả đồng tiền chung của các nước khác và quyền rút vốn đặc biệt SDR). Ngoại tệ có thể là tiền xu, tiền giấy, tiền trên tài khoản, séc du lịch, tiền điện tử và các phương tiện khác được xem như tiền. + Các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ như séc thương mại, chấp phiếu ngân hàng, kỳ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác. + Vàng tiêu chuẩn quốc tế: đây là vàng được sử dụng với vai trò là tiền trong thanh toán quốc tế. + Đồng tiền quốc gia do người không cư trú nắm giữ. Trong thực tế thì chỉ có ngoại tệ và vàng theo tiêu chuẩn quốc tế là đối tượng mua bán thường xuyên trên thị trường ngoại hối. Còn các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ không được giao dịch trực tiếp trên thị trường ngoại hối. Muốn trở thành ngoại tệ để giao dịch trên thị trường ngoại hối, thì trước hết phải bán (chiết khấu) các giấy tờ có giá để có ngoại tệ, sau đó mới tiến hành mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Ngày nay, do vai trò tiền tệ của vàng giảm đáng kể, vì vậy, khi nói đến thị trường 34
  4. ngoại hối người ta thường hiểu đó là thị trường mua bán các đồng tiền khác nhau, hay mua bán ngoại tệ, nghĩa là thị trường ngoại hối thường được hiểu theo nghĩa thực tế là thị trường mua bán ngoại tệ. - Thị trƣờng ngoại hối (The Foreign Exchange Market- FX) Khái niệm thị trường ngoại hối được hiểu theo nhiều cách như sau: Theo nghĩa hẹp: Thị trường ngoại hối là nơi mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng, tức là thị trường liên ngân hàng (Interbank). Theo nghĩa rộng: Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra việc mua bán các đồng tiền khác nhau. Một nhà nhập khẩu Mỹ thường được yêu cầu thanh toán cho nhà xuất khẩu Nhật bằng đồng Yên Nhật, cho nhà xuất khẩu Đức bằng đồng EUR, cho nhà xuất khẩu Anh bằng đồng bảng Anh. Với lý do này, để thanh toán tiền hàng, nhà nhập khẩu Mỹ phải mua các ngoại tệ thích hợp, tức bán nội tệ trên thị trường. Hoạt động mua bán các đồng tiền khác nhau được diễn ra trên thị trường, và thị trường này được gọi là thị trường ngoại hối. Vậy, thị trường ngoại hối là nơi diễn ra việc mua, bán các đồng tiền khác nhau. Tuy nhiên, trong thực tế do hoạt động mua bán tiền tệ xảy ra chủ yếu giữa các ngân hàng (chiếm khoảng 85% tổng doanh số giao dịch), chính vì vậy theo nghĩa hẹp thì thị trường ngoại hối là nơi mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng, tức là thị trường liên ngân hàng (Interbank). 2.2. Đặc điểm - Thị trường ngoại hối không có địa điểm cụ thể. - Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục: Thị trường hối đoái hoạt động liên tục suốt ngày đêm 24giờ/ngày trên các khu vực khác nhau của thế giới. Đây là thị trường toàn cầu, do sự chênh lệch về múi giờ giữa các khu vực trên thế giới nên các giao dịch diễn ra suốt ngày đêm. - Thị trường ngoại hối mang tính quốc tế: phạm vi hoạt động của thị trường ngoại hối không chỉ dừng lại ở một quốc gia mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế nhằm phục vụ nhu cầu mua bán, giao dịch về ngoại tệ. - Các giao dịch mua bán được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như: điện thoại, telex, fax, máy tính. - Đây là thị trường rất nhạy cảm với các sự kiện chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý nhất là với các chính sách tiền tệ của các nước phát triển. - Đây là thị trường lớn nhất và có doanh số giao dịch cao nhất. Doanh số giao dịch mua bán ròng toàn cầu (chỉ tính doanh số một chiều mua vào hoặc bán ra) tại thời điểm 4/2010 ước tính vào khoảng 4.000 tỷ USD/ngày7; thị trường hoạt động tích cực nhất là London, sau đó là New York, Tokyo, Singapore, Frankfurt, 7 Theo 35
  5. Bảng 2.1: Doanh thu thị trƣờng ngoại hối toàn cầu bởi cặp tiền tệ8 Thị trường ngoại hối toàn cầu có tốc độ phát triển rất nhanh trong mấy thập kỷ qua, đặc biệt là từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX do có những nguyên nhân chính sau: + Sau khi hệ thống tiền tệ Bretton Woods bị sụp đổ vào năm 1973, tỷ giá các đồng tiền trên thế giới được thả nổi và dao động mạnh đã buộc những nhà kinh doanh tiền tệ, xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế phải tìm kiếm các biện pháp phòng chống rủi ro thông qua thị trường ngoại hối; mặt khác, họ cũng tranh thủ thời cơ tỷ giá biến động mạnh để hoạt động đầu cơ kiếm lời. Điều đó làm tăng nhu cầu giao dịch mua bán ngoại tệ, góp phần thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển nhanh chóng. + Xu thế tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế diễn ra mạnh mẽ về chiều rộng lẫn chiều sâu, bao gồm cả các nước đang phát triển cũng đã và đang tích cực tham gia tiền trình hội nhập, là tiền đề để các nước tiến hành nới lỏng quy chế quản lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện cho chu chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn quốc tế được hiệu quả. Điều này tạo nên một thị trường ngoại hối quốc tế ngày càng rộng lớn với doanh số giao dịch ngày càng cao. + Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã góp phần làm giảm chi phí giao dịch, tăng tốc độ thanh toán, góp phần tích cực thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển như ngày nay. 2.3. Chức năng của thị trƣờng ngoại hối Thị trường ngoại hối có bốn chức năng cơ bản sau: - Cung cấp dịch vụ cho các khách hàng thực hiện các giao dịch thương mại quốc tế. - Giúp luân chuyển các khoản đầu tư, tín dụng quốc tế, các giao dịch tài chính quốc tế khác cũng như các giao lưu giữa các quốc gia. - Thông qua hoạt động của thị trường ngoại hối mà sức mua đối ngoại của tiền tệ được xác định một cách khách quan theo quy luật cung cầu của thị trường. - Thị trường ngoại hối là nơi kinh doanh và cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá bằng các hợp đồng như kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai. 8 Theo 1/12/2011 36
  6. - Thị trường ngoại hối là nơi để ngân hàng trung ương tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo chiều hướng có lợi cho nền kinh tế. 3. Các thành viên tham gia 3.1. Nhóm khách hàng mua bán lẻ Nhóm khách hàng mua bán lẻ bao gồm các công ty nội địa, các công ty đa quốc gia, những nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối nhằm phục vụ hai mục đích: chuyển đổi tiền tệ và phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Ví dụ: Nhà nhập khẩu có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán hoá đơn nhập khẩu ghi bằng ngoại tệ; nhà xuất khẩu có nhu cầu bán ngoại tệ khi nhận được hoá đơn xuất khẩu ghi bằng ngoại tệ; khách du lịch có nhu cầu bán ngoại tệ lấy nội tệ để chi tiêu Nhóm khách hàng mua bán lẻ có nhu cầu mua bán ngoại tệ để phục vụ cho mục đích hoạt động của chính mình chứ không nhằm mục đích kinh doanh ngoại hối. Thông thường nhóm khách hàng mua bán lẻ không giao dịch trực tiếp với nhau mà thường mua bán thông qua các ngân hàng thương mại, bởi vì việc mua bán ngoại tệ trực tiếp giữa các nhóm khách hàng có các hạn chế như: Không khớp nhau về mặt thời gian, không khớp nhau về mặt không gian, không khớp nhau về mặt tiền tệ, không khớp nhau về mặt số lượng, rủi ro trong thanh toán, rủi ro tín dụng. 3.2. Các ngân hàng thƣơng mại Các ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường ngoại hối với hai mục đích: Thứ nhất, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, bằng cách mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng mua bán lẻ. Vì là mua bán hộ nên ngân hàng không phải bỏ vốn, không chịu rủi ro tỷ giá và không làm thay đổi kết cấu bảng cân đối tài sản nội bảng. Trong dịch vụ mua bán hộ, ngân hàng thu một khoản phí phổ biến ở dạng chênh lệchtỷ giá mua bán. Thứ hai, kinh doanh cho chính mình, tức là mua bán ngoại hối nhằm kiếm lãi khi tỷ giá thay đổi. Trong hoạt động kinh doanh này, ngân hàng phải bỏ vốn, chịu rủi ro về tỷ giá và làm thay đổi bảng cân đối nội bảng hoặc ngoại bảng của ngân hàng. Trên interbank, các ngân hàng giao dịch với nhau theo hai phương thức: - Giao dịch trực tiếp giữa các ngân hàng với nhau (Direct Interbank); - Giao dịch gián tiếp với nhau thông qua môi giới (Indirect Interbank). 3.3. Những nhà môi giới ngoại hối Ngày nay, ngoài hình thức mua bán ngoại hối trực tiếp giữa các ngân hàng với nhau, thì hình thức giao dịch gián tiếp thông qua nhà môi giới ngoại hối cũng phát triển. Phương thức giao dịch qua môi giới có có ưu điểm ở chỗ: nhà môi giới thu thập hầu hết các lệnh đặt mua và lệnh đặt bán ngoại tệ từ các ngân hàng khác nhau, trên cơ sở đó cung cấp tỷ giá chào mua và tỷ giá chào bán cho khách hàng một cách nhanh, rộng khắp với giá tay trong. Tuy nhiên, giao dịch qua môi giới cũng có nhược điểm là: các ngân hàng phải trả cho nhà môi giới một khoản phí, làm cho chênh lệch tỷ giá mua bán hẹp lại. 37
  7. Những ai muốn hành nghề môi giới ngoại hối phải có giấy phép. Tại mỗi trung tâm tài chính quốc tế thường có một số nhà môi giới nhất định để giúp các ngân hàng thực hiện các lệnh mua và bán ngoại hối. Điểm cần lưu ý là những nhà môi giới chỉ cung cấp dịch vụ cho khách hàng, không mua bán cho chính mình. 3.4. Ngân hàng trung ƣơng Các NHTW tham gia thị trường ngoại hối nhằm ba mục đích sau: Thứ nhất, can thiệp lên tỷ giá. Nhìn chung, các NHTW không thờ ơ trước sự biến động của tỷ giá đối với đồng tiền do mình phát hành. Do đó, mặc dù hầu hết các đòng tiền của các nước công nghiệp phát triển được thả nổi từ năm 1973, nhưng trên thực tế, các NHTW vẫn thường xuyên can thiệp bằng cách mua vào hay bán ra nội tệ trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá theo hướng mà NHTW cho là có lợi. Trong chế độ tỷ giá cố định, can thiệp của NHTW lên thị trường ngoại hối là bắt buộc nhằm duy trì tỷ giá trong một biên độ nhất định. NHTW tiến hành mua nội tệ vào khi cung nội tệ lớn hơn cầu, và tiến hành bán nội tệ ra khi cầu lớn hơn cung trên thị trường ngoại hối, nhờ đó tỷ giá được duy trì cố định. Thứ hai, mua bán, chuyển đổi ngoại tệ nhằm bảo toàn và gia tăng giá trị dự trữ ngoại hối quốc gia. Ngày nay, các NHTW trên thế giới luôn duy trì một lượng dự trữ ngoại hối nhất định, ví dụ, dự trữ ngoại hối của NHTW Trung Quốc tới gần 2000 tỷ USD. Do tỷ giá của các đồng tiền dự trữ thường xuyên biến động, nên các NHTW một mặt phải đa dạng hóa cơ cấu dự trữ, mặt khác có thể tận dụng các cơ hội biến động tỷ giá nhằm gia tăng giá trị dự trữ ngoại hối của mình. Thứ ba, NHTW còn là đại lý trong việc mua hộ, bán hộ ngoại tệ cho chính phủ. II. Những vấn đề cơ bản trong kinh doanh ngoại hối 1. Các khái niệm 1.1. Tỷ giá Trong các giao dịch tài chính quốc tế, việc thực hiện mua và bán các ngoại hối trên thị trường đòi hỏi phải có sự chuyển đổi từ đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác. Do mỗi đồng tiền chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố khác nhau nên có sức mua khác nhau, vì thế trên thị trường cần phải có quy định tỷ lệ làm cơ sở chuyển đổi giữa hai đồng tiền, tỷ lệ này được gọi là tỷ giá hối đoái hay gọn hơn là tỷ giá. Tỷ giá hối đoái là hệ số quy đổi của một đồng tiền nước này sang đồng tiền khác. Hay nói cách khác tỷ giá hối đoái là giá cả đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng khối lượng các đơn vị tiền tệ nước ngoài. Ví dụ : Vào ngày 01/3/2012 ta có tỷ giá hối đoái giữa đồng USD và đồng VND như sau9: USD/VND = 20.860 hay 1 USD = 20.860 VND Trong ví dụ này, giá của USD được biểu thị thông qua VND và 1 USD có giá là 20.860 VND. 9 Nguồn www.vietcombank.com.vn 38
  8. Để hiểu thêm về phân loại tỷ giá hối đoái xem bài đọc thêm trang 52. 1.2. Đồng tiền yết giá, đồng tiền định giá Khi nói đến tỷ giá bao giờ cũng liên quan đến một cặp đồng tiền: Đồng tiền yết giá và đồng tiền định giá. Đồng tiền yết giá là đồng tiền biểu thị giá trị của nó qua đồng tiền khác. Đồng tiền định giá là đồng tiền dùng để xác định giá trị đồng tiền khác. Ngoài ra, quan hệ giữa hai đồng tiền này còn được diễn tả qua khái niệm đối khoản. Đối khoản tức là một khoản tiền này đối ứng với một khoản tiền kia theo một tỷ giá xác định. Vị trí của đồng tiền yết giá hay đồng tiền định giá được quy định bởi cách yết tỷ giá. Hiện nay, tồn tại đồng thời hai cách viết tỷ giá, đó là: theo học thuật và theo tập quán kinh doanh của NHTM. - Theo học thuật: Việc yết giá một đồng tiền nào đó là tương tự như yết giá bất kỳ hàng hóa thông thường nào. Ví dụ: Giá hàng hóa thông thƣờng – Gạo Giá tiền tệ (tỷ giá) – USD 1 Kg = 10.000 VND 1 USD = 21.000 VND P(VND/Kg) = 10.000 E(VND/USD) = 21.000 VND/Kg = 10.000 VND/USD = 21.000 Như vậy, theo học thuật, trong tỷ giá có hai đồng tiền, đồng tiền đứng trước (hay nằm trên) đóng vai trò là định giá còn đồng tiền đứng sau (hay nằm dưới) đóng vai trò là yết giá. Cách viết tỷ giá này thường gặp trong sách vở, giáo trình và công trình nghiên cứu khoa học. - Theo tập quán kinh doanh ngân hàng: Trong giao dịch, khi đọc tỷ giá, các ngân hàng đọc đồng tiền yết giá trước và đồng tiền định giá sau, khi viết tỷ giá họ viết theo trật tự đọc tỷ giá. Do đó, đối với các ngân hàng, trong tỷ giá có hai đồng tiền, thì đồng tiền đứng trước là yết giá còn đồng tiền đứng sau là định giá. Ví dụ: Tại NHTM X: 1 USD = 21.000 VND  USD/VND = 21.000 Nhằm tương thích với thực tiễn hoạt động của thị trường ngoại hối quốc tế và hoạt động kinh doanh của các NHTM, trong giáo trình này tỷ giá được viết theo tập quán trên thị trường ngoại hối và tại các NHTM, tức là USD/VND = 21.000. Ví dụ: Đồng tiền yết giá, đồng tiền định giá và đối khoản Tỷ giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày 01/3/2012 là10: EUR/VND = 27.955,89 hay là 1 EUR = 27.955,89 VND Theo ví dụ này EUR biểu hiện giá trị của nó là 27.955,89 VND nên gọi là đồng tiền yết giá, trong khi VND dùng để xác định giá trị của EUR nên được gọi là đồng tiền định giá. 10 39
  9. Trong ví dụ trên đây, chúng ta có tỷ giá EUR/VND = 27.955,89, vậy đối khoản VND của 100 EUR = 100 x 27.955,89 = 2.795.589 VND. Cho đến nay chưa có văn bản pháp lý bắt buộc nào quy định một đồng tiền cụ thể nào đó phải đóng vai trò là đồng tiền yết giá hay đồng tiền định giá. Tuy nhiên, trong thực tế, với vai trò nổi bật của nền kinh tế Mỹ, cho nên trên thị trường ngoại hối, hầu hết các tỷ giá giao dịch đều được yết với USD; trong đó: + USD đóng vai trò là đồng tiền định giá đối với các đồng tiền: GBP, AUD, NZD, IEP, EUR và SDR. + Đối với tất cả các đồng tiền còn lại, USD đóng vai trò là đồng tiền yết giá. 1.3. Ngân hàng yết giá, ngân hàng hỏi giá Đối với mỗi tỷ giá được yết, có hai đối tác cùng tham gia, đó là ngân hàng yết giá và ngân hàng hỏi giá. Trong đó: - Ngân hàng yết giá là ngân hàng thực hiện niêm yết tỷ giá mua vào và bán ra. Với tỷ giá do chính mình yết, ngân hàng yết giá phải luôn sẵn sàng mua vào hay bán ra vô điều kiện khi có đối tác mong muốn giao dịch. - Ngân hàng hỏi giá là ngân hàng liên hệ với ngân hàng yết giá để hỏi giá. Với giá được yết, nếu chấp nhận, ngân hàng hỏi giá sẽ tiến hành giao dịch, ngược lại thì giao dịch không xảy ra. 1.4. Yết tỷ giá hai chiều Theo tập quán kinh doanh trên thị trường Interbank, các ngân hàng thường yết tỷ giá hai chiều (two – way quotation). Với cách yết tỷ giá này thì tỷ giá đứng trước gọi là tỷ giá mua vào của ngân hàng. Tỷ giá mua vào của ngân hàng là tỷ giá ngân hàng áp dụng khi mua ngoại tệ vào. Tỷ giá đứng sau là tỷ giá bán ra của ngân hàng. Tỷ giá bán ra của ngân hàng là tỷ giá ngân hàng áp dụng khi bán ngoại tệ ra. Nguyên tắc: Tỷ giá bán ra > Tỷ giá mua vào. Ví dụ: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam yết tỷ giá GBP và VND ngày 01/3/2012 là11: GBP/VND = (32.723,56 – 33.381,45) Trong đó: Tỷ giá đứng trước 32.723,56 là tỷ giá mua GBP vào, tỷ giá đứng sau 33.381,45 là tỷ giá bán GBP ra. Để hiểu thêm về quy ước tên đơn vị tiền tệ, xem bài đọc thêm trang 54. 2. Các phƣơng pháp yết tỷ giá Trên thị trường ngoại hối quốc tế nói chung có hai cách yết giá: Yết giá trực tiếp và yết giá gián tiếp. - Yết giá trực tiếp (direct quotation): Là kiểu yết giá trong đó ngoại tệ đóng vai trò đồng tiền yết giá còn nội tệ đóng vai trò đồng tiền định giá. Hay yết giá trực tiếp là phương pháp biểu thị giá trị một đơn vị ngoại tệ thông qua một số lượng nội tệ nhất định. 1 đồng ngoại tệ = X đồng nội tệ (Foreign Currency) (Local Currency) 11 40
  10. Ví dụ: Ở Việt Nam, tỷ giá VND so với ngoại các ngoại tệ do Vietcombank công bố ngày 21/03/2012 được yết giá trực tiếp như sau: 1 USD = 20.830 VND 1 EUR = 27.418,63 VND 1 GBP = 32.682,26 VND - Yết giá gián tiếp (indirect quotation): Là kiểu yết giá trong đó nội tệ đóng vai trò đồng tiền yết giá còn ngoại tệ đóng vai trò đồng tiền định giá. Hay yết giá gián tiếp là phương pháp biểu thị giá trị một đơn vị nội tệ thông qua một số lượng ngoại tệ nhất định. 1 đồng nội tệ = X đồng ngoại tệ (Local Currency) (Foreign Currency) Ví dụ: - Tại Anh, công bố tỷ giá bảng Anh (GBP) như sau: 1 GBP = 1,6827 USD 1 GBP = 189,34 JPY - Tại Mỹ, công bố tỷ giá USD như sau: 1 USD = 6,2536 FRF 1 USD = 0,8228 EUR Theo thông lệ các đồng tiền như bảng Anh, dollar Mỹ và dollar Úc và dollar New Zealand thường yết giá gián tiếp còn những đồng tiền khác như Yên Nhật, Franc, dollar Singapore, và nhiều đồng tiền khác trong đó có Việt Nam thường được yết giá trực tiếp. So với hầu hết các đồng tiền, đồng USD đóng vai trò là đồng yết giá (đứng trước) ngoại trừ các đồng tiền sau: EUR, GBP, AUD, NZD. 3. Tỷ giá mua, tỷ giá bán và chênh lệch tỷ giá 3.1. Tỷ giá mua và tỷ giá bán - Tỷ giá mua là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua đồng tiền yết giá. - Tỷ giá bán là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng bán đồng tiền yết giá. Với cách yết giá hai chiều, thì tỷ giá đứng trước gọi là tỷ giá mua và tỷ giá đứng sau gọi là tỷ giá bán. Nếu đầy đủ thì phải gọi là tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra của ngân hàng yết giá, nhưng trên thực tế người ta ít khi gọi đầy đủ mà thường gọi ngắn gọn là tỷ giá mua và tỷ giá bán. Là khách hàng chúng ta phải ngầm hiểu tỷ giá mua ở đây là tỷ giá ngân hàng mua, khách hàng bán và ngược lại. Giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua có chênh lệch (spread) nhằm đảm bảo cho ngân hàng có thu nhập để trang trải chi phí giao dịch và tìm kiếm lợi nhuận thỏa đáng. Do vậy, khi yết giá ngân hàng thường yết cả tỷ giá mua và tỷ giá bán. Ví dụ: Một ngân hàng yết tỷ giá: AUD/ SGD = 1,6410 – 1,6415 Trong đó: 41
  11. - Tỷ giá đứng trước 1,6410 gọi là tỷ giá mua, nghĩa là tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua đồng tiền yết giá là AUD. Hay nói cách khác, ngân hàng yết giá sẵn sàng mua AUD tại tỷ giá: 1 AUD = 1,6410 SGD. - Tỷ giá đứng sau 1,6415 gọi là tỷ giá bán, nghĩa là tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng bán đồng tiền yết giá là AUD. Hay nói cách khác, ngân hàng yết giá sẵn sàng bán AUD tại tỷ giá: 1 AUD = 1,6415 SGD. Ngân hàng hỏi giá sẽ tiến hành các giao dịch ngược lại với ngân hàng yết giá. Nếu ngân hàng yết giá mua AUD thì ngân hàng hỏi giá bán AUD; và nếu ngân hàng yết giá bán AUD thì ngân hàng hỏi giá mua AUD. Nếu ngân hàng hỏi giá muốn mua AUD từ ngân hàng yết giá thì phải trả cho ngân hàng yết giá theo tỷ giá bán, tức tỷ giá 1 AUD = 1,6415 SGD. Nếu ngân hàng hỏi giá muốn bán AUD cho ngân hàng yết giá thì được ngân hàng yết giá thanh toán theo tỷ giá mua, tức là tỷ giá 1 AUD = 1,6410 SGD. Dựa vào tỷ giá Ngân hàng Nhà nước công bố, các NHTM quyết định tỷ giá của mình. Ví dụ dưới đây cho biết ngày 21/03/2012 ngân hàng Vietcombank niêm yết 3 loại tỷ giá giữa USD và VND. Vietcombank mua USD tiền mặt ở giá 20.830, USD chuyển khoản ở giá 20.830 và bán ra USD chuyển khoản ở giá 20.890. Cách niêm yết tỷ giá giữa USD và các ngoại tệ khác cũng tương tự như cách niêm yết tỷ giá USD và VND. Ví dụ: Tỷ giá VND so với ngoại tệ do Vietcombank công bố ngày 21/03/201212 Mã Mua tiền Mua chuyển Tên ngoại tệ Bán NT mặt khoản AUD AUST.DOLLAR 21.603,66 21.734,06 22.059,8 CAD CANADIAN DOLLAR 20.730,87 20.919,14 21.232,67 CHF SWISS FRANCE 22.624,14 22.783,63 23.125,11 EUR EURO 27.418,63 27.501,13 27.857,54 GBP BRITISH POUND 32.682,26 32.912,65 33.339,19 HKD HONGKONG DOLLAR 2.643,21 2.661,84 2.712,57 INR INDIAN RUPEE 0 403,91 421,6 JPY JAPANESE YEN 244,91 247,38 251,09 KRW SOUTH KOREAN WON 0 16,79 20,58 KWD KUWAITI DINAR 0 74.266,34 75.984,91 MYR MALAYSIAN RINGGIT 0 6.702,78 6.830,51 NOK NORWEGIAN KRONER 0 3.596,36 3.664,89 RUB RUSSIAN RUBLE 0 648.64 795,07 SEK SWEDISH KRONA 0 3.077,76 3.136,41 SGD SINGAPORE DOLLAR 16.256,07 16.370,66 16.682,62 USD US DOLLAR 20.830 20.830 20.890 Tỷ giá được cập nhật lúc 21/03/2012 18:00 và chỉ mang tính chất tham khảo Ví dụ: Vietcombank yết tỷ giá ngày 21/03/2012: USD/VND = (20.830 – 20.890) Yêu cầu: Hãy cho biết tại tỷ giá nào, thì: 12 Nguồn 42
  12. 1. Ngân hàng yết giá sẵn sàng mua USD? Đó là tỷ giá mua vào và là 1 USD = 20.830 VND. 2. Ngân hàng yết giá sẵn sàng bán USD? Đó là tỷ giá bán ra và là 1 USD = 20.890 VND. 3. Ngân hàng hỏi giá có thể mua USD? Đó là tỷ giá bán ra và là 1 USD = 20.890 VND. 4. Ngân hàng hỏi giá có thể bán USD? Đó là tỷ giá mua vào và là 1 USD = 20.830 VND. Trong thực tế, nếu không có giải thích gì thêm, thì khi nói đến tỷ giá mua và tỷ giá bán chúng ta hiểu đó là tỷ giá mua vào và bán ra đồng tiền yết giá của ngân hàng yết giá. Do đó, chúng ta không cần để ý đến tỷ giá mua vào và bán ra của ngân hàng hỏi giá. 3.2. Chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán Chênh lệch giữa tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra gọi là spread. Để có được thu nhập từ hoạt động mua bán ngoại hối, ngân hàng yết tỷ giá sao cho tỷ giá mua vào là thấp hơn tỷ giá bán ra. Ví dụ: USD/VND = 20.830 – 20.890 thì spread được tính theo 2 cách như sau: - Tính spread theo số tuyệt đối: Spread = 20.890 – 20.830 = 60 VND Điều này có nghĩa là: Nếu ngân hàng yết giá đồng thời vừa mua vào và bán ra 1 USD thì lãi sẽ là 60 VND. - Tính spread theo số tương đối: Tỷ giá bán – Tỷ giá mua Spread = x 100% Tỷ giá mua 20.890 – 20.830 Spread = x 100% = 0,288% 20.830 Lưu ý: Spread không phải là một tỷ lệ cố định cho tất cả các giao dịch và cho tất cả các đồng tiền, mà phụ thuộc vào các yếu tố sau: + Số lượng ngoại tệ trong giao dịch: Số lượng giao dịch càng lớn thì spread càng nhỏ. + Tầm cỡ cũng như sự nổi tiếng của trung tâm tài chính. Chẳng hạn như tại New York hay London thì spread sẽ nhỏ hơn. + Tính chất ổn định hoặc không ổn định của các đồng tiền tham gia giao dịch: Các đồng tiền có giá trị ổn định thì được giao dịch với spread nhỏ hơn so với đồng tiền không ổn định. + Tỷ trọng của đồng tiền trong giao dịch: Những đồng tiền được giao dịch nhiều như: USD, EUR, GBP, thì spread của chúng sẽ nhỏ hơn. 43
  13. + Phương tiện giao dịch là tiền mặt, hối phiếu, séc, kỳ phiếu, thẻ tín dụng hay chuyển khoản, Nếu ngân hàng đồng thời mua và bán với số lượng như nhau, thì ngân hàng sẽ thu được lợi nhuân mà không cần bỏ một đồng vốn nào. Nếu ngân hàng mở rộng spread, thì lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn trong mỗi giao dịch. Tuy nhiên, mở rộng spread không phải là việc làm tùy tiện, bởi vì nếu mở rộng spread thì sẽ không hấp dẫn khách hàng. Do đó, trong cạnh tranh, các ngân hàng thường có xu hướng thu hẹp spread nhằm tăng doanh số giao dịch hơn là mở rộng spread. Như vậy, một ngân hàng muốn tăng doanh số giao dịch thì một trong những yếu tố quyết định là thu hẹp spread; ngược lại, muốn giảm doanh số giao dịch thì mở rộng spread. 3.3. Lãi (lỗ) trong kinh doanh ngoại hối Lãi (lỗ) trong kinh doanh ngoại hối phát sinh thông qua việc mua và bán các đồng tiền tại các mức tỷ giá khác nhau. Nếu lượng mua vào và bán ra của một đồng tiền là không đổi, thì lãi (lỗ) phát sinh là chênh lệch của đồng tiền thứ hai trong giao dịch. Đối với ngân hàng yết giá, việc đồng thời mua vào và bán ra đồng tiền yết giá hay đồng tiền định giá đều thu được lãi do có sự chênh lệch tỷ giá; còn đối với ngân hàng hỏi giá (vai trò là khách hàng), thì việc đồng thời mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định đều bị lỗ. Ví dụ 1: Một ngân hàng yết giá đồng thời vừa mua vừa bán 1 triệu USD tại tỷ giá thị trường USD/VND = 20.830 – 20.890. Tính kết quả kinh doanh ngoại hối của ngân hàng này? Giải: Để biết được kết quả kinh doanh, ta lập bảng luồng tiền như sau: Luồng tiền (đơn vị triệu) Chiểu giao dịch Tỷ giá USD VND Mua USD +1 -20.830 20.830 Bán USD -1 +20.890 20.890 Kết quả kinh doanh 0 +60 Ví dụ 2: Một ngân hàng yết giá đồng thời vừa mua vừa bán 100 tỷ VND tại tỷ giá thị trường USD/VND = 20.830 – 10.890. Tính kết quả kinh doanh ngoại hối của ngân hàng này? Giải: Để biết được kết quả kinh doanh, ta lập bảng luồng tiền như sau: Luồng tiền (đơn vị triệu) Chiều giao dịch Tỷ giá USD VND Mua USD - 4,7870 +100.000 20.890 Bán USD + 4,8008 -100.000 20.830 Kết quả kinh doanh +0,0138 0 44
  14. Ví dụ 3: Một ngân hàng hỏi giá đồng thời vừa mua vừa bán 1triệu USD tại tỷ giá thị trường USD/VND = 20.830 – 20.890. Tính kết quả kinh doanh ngoại hối của ngân hàng này? Giải: Để biết được kết quả kinh doanh, ta lập bảng luồng tiền như sau: Luồng tiền (đơn vị triệu) Chiểu giao dịch Tỷ giá USD VND Mua USD +1 - 20.890 20.890 Bán USD -1 +20.830 20.830 Kết quả kinh doanh 0 - 60 Ví dụ 4: Một ngân hàng hỏi giá đồng thời vừa mua vừa bán 100 tỷ VND tại tỷ giá thị trường USD/VND = 20.830 – 20.890. Tính kết quả kinh doanh ngoại hối của ngân hàng này? Giải: Để biết được kết quả kinh doanh, ta lập bảng luồng tiền như sau: Luồng tiền (đơn vị triệu) Chiểu giao dịch Tỷ giá USD VND Mua USD - 4,8008 +100.000 20.830 Bán USD + 4,7870 -100.000 20.890 Kết quả kinh doanh - 0,0138 0 4. Tỷ giá chéo và kinh doanh tỷ giá chéo 4.1. Khái niệm Theo nghĩa rộng: Tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ đươc xác định thông qua đồng tiền thứ ba (hay còn gọi là đồng tiền trung gian) gọi là tỷ giá chéo. Ví dụ, ta có hai tỷ giá: E(Z/X) = (a,b) và E(Z/Y) = (c,d), thì tỷ giá E(X/Y) = (x,y) gọi là tỷ giá chéo, đồng tiền Z được gọi là đồng tiền trung gian hay đồng tiền thứ ba. Theo nghĩa hẹp: Vì USD là đồng tiền tiêu chuẩn, nên trên thị trường ngoại hối các đồng tiền khác đều được yết giá thông qua USD, do đó tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ trong đó không có mặt của USD đều được gọi là tỷ giá chéo. Nói cách khác, tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ đều được suy ra từ tỷ giá giữa chúng với USD, tức USD luôn đóng vai trò là đồng tiền thứ ba hay đồng tiền trung gian. 4.2. Phƣơng pháp xác định tỷ giá chéo 4.2.1. Tỷ giá chéo giản đơn Tỷ giá chéo trong trường hợp không tồn tại chênh lệch tỷ giá mua và bán gọi là tỷ giá chéo giản đơn Ví dụ: Ta có hai tỷ giá E(USD/VND) = 21.015 và E(USD/SGD) = 1,3, thì tỷ giá chéo E(SGD/VND) = x gọi là tỷ giá chéo giản đơn. Ta tính được tỷ giá chéo như sau: 45
  15. E(USD/VND) = 21.015  1 USD = 21.015 VND E(USD/SGD) = 1,3  1 USD = 1,3 SGD => 1,3 SGD = 21.015 VND  SGD = 16.165,38 VND hay E(SGD/VND) = 16.165,38 4.2.2. Tỷ giá chéo phức hợp Tỷ giá chéo trong trường hợp có đề cập đến tỷ giá mua và tỷ giá bán gọi là tỷ giá chéo phức hợp. Trong kinh doanh ngoại hối, tỷ giá bao gồm tỷ giá mua và tỷ giá bán, do đó, phương pháp tính tỷ giá chéo mua vào và bán ra sẽ là phức tạp hơn. Sau đây là phần trình bày về các phương pháp tính tỷ giá chéo mua vào và bán ra trong thực tế.  Trƣờng hợp 1: Đồng tiền trung gian đóng vai trò là đồng tiền yết giá trong cả hai tỷ giá. E(USD/VND) = (a,b) và E(USD/SGD) = (c,d) Tính tỷ giá chéo: E(SGD/VND) = (x,y) Ta có: x và y phải thỏa mãn những điều kiện sau: SGD USD USD USD USD x Min : Bid : Ask a : d VND VND SGD VND SGD SGD USD USD USD USD y Max : Ask : Bid b : c VND VND SGD VND SGD  Trƣờng hợp 2: Đồng tiền trung gian đóng vai trò là đồng tiền định giá trong cả hai tỷ giá. Giả sử các thông số thị trường như sau: E(AUD/USD) = (a,b) và E(GBP/USD) = (c,d) Tính tỷ giá chéo: E(GBP/ AUD) = (x,y) Ta có: x và y phải thỏa mãn những điều kiện sau: AUD GBP AUD GBP AUD x Min : Bid : Ask c :b GBP USD USD USD USD AUD GBP AUD GBP AUD y Max : Ask : Bid d : a GBP USD USD USD USD  Trƣờng hợp 3: Đồng tiền trung gian vừa đóng vai trò là định giá, vừa đóng vai trò là yết giá. Giả sử các thông số thị trường như sau: E(USD/VND) = (a,b) và E(GBP/USD) = (c,d) Tính tỷ giá chéo: E(GBP/VND) = (x,y) 46
  16. Ta có: x và y phải thỏa mãn những điều kiện sau: GBP USD GBP USD GBP x Min x Bid xBid a.c VND VND USD VND USD GBP USD GBP USD GBP y Max x Ask xAsk b.d VND VND USD VND USD III. Nghiệp vụ giao ngay 1. Khái niệm Quy chế hoạt động giao dịch hối đoái ban hành kèm theo Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN ngày 10/01/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam định nghĩa: “Giao dịch hối đoái giao ngay là giao dịch mua bán một số lượng ngoại tệ được thực hiện giữa hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán”. Quy chế này còn quy định tỷ giá giao ngay là tỷ giá do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo trong biên độ quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước. Ví dụ: Minh họa khái niệm giao dịch hối đoái giao ngay Ngày thỏa Ngày chuyển Tỷ giá áp Nội dung giao dịch thuận giao dụng Công ty Gidomex bán 100.000 Tỷ giá mua 24/01 26/01 USD cho ngân hàng ACB USD/VND Công ty Import Co. mua 200.000 Tỷ giá bán 02/02 04/02 EUR từ ngân hàng ACB EUR/VND Tỷ giá giao Tổng quát T T+2 ngay Thị trường hối đoái giao ngay là thị trường thực hiện giao dịch các hợp đồng hối đoái giao ngay. Các giao dịch giao ngay được thực hiện giữa ngân hàng trung ương và các tổ chức tín dụng, giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các tổ chức tín dụng với các tổ chức khác và cá nhân. Trong đó, ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung tâm trong việc tạo thị trường nhằm mục đích kinh doanh của mình hoặc phục vụ các khách hàng. Ngân hàng thương mại mua ngoại tệ của các nhà xuất khẩu hay của những người có nhu cầu bán ngoại tệ để bán lại cho các nhà nhập khẩu hay cho những người có nhu cầu mua ngoại tệ. - Điều kiện của giao dịch: Trong giao dịch giao ngay, thỏa thuận giao dịch giữa hai bên thường bao gồm một số điều kiện mua bán như: tỷ giá mua bán, số lượng giao dịch, địa điểm chuyển tiền đến, chuyển tiền đi vào ngày thanh toán Sau khi cam kết giao dịch, các bên có thể xác nhận lại bằng vaă bản hoặc ký kết hợp đồng chi tiết. Thông thường việc giao dịch được hoàn tất bằng thỏa thuận qua điện thoại là có đủ tính pháp lý. 47
  17. - Ngày giá trị: Là khoảng thời gian thực hiện việc chuyển tiền đến các tài khoản có liên quan. Đó là ngày mà các khoản ngoại hối phải được trả cho các bên tham gia giao dịch. Ngày giá trị còn được gọi là ngày thanh toán (T). Bao gồm các ngày sau: + T+0: Thanh toán trong ngày; + T+1: Sau một ngày làm việc; + T+2: Sau hai ngày làm việc. - Phương tiện giao dịch: Giao dịch giao ngay được thực hiện qua các phương tiện giao dịch như: telex, điện thoại, hệ thống mạng vi tính hoặc có thể tiếp nhận trên thị trường tập trung. Hai bên thỏa thuận với nhau các điều kiện mua bán và sau đó xác nhận lại bằng văn bản. - Tỷ giá giao ngay: Là tỷ giá được thỏa thuận từ ngày hôm nay nhưng việc thực hiện thanh toán xảy ra vào ngày làm việc thứ hai sau ngày ký kết hợp đồng. Các ngoại tệ được mua bán lẫn nhau thông qua việc niêm yết tỷ giá hay cơ chế tỷ giá chéo. Trong giao dịch liên ngân hàng thì tỷ gía giao ngay được niêm yết theo: + Kiểu Mỹ: Số lượng (giá cả) đô la Mỹ cho một đồng ngoại tệ. + Kiểu Châu Âu: Số lượng ngoại tệ so với một đôla Mỹ. Ví dụ: Công ty ở Việt Nam có Đôla Mỹ nhưng cần đến Yên Nhật để thanh toán hàng nhập khẩu từ Nhật Bản nên phải sử dụng tỷ giá giao ngay USD/VND và JPY/VND. Khi đổi kiểu yết giá từ trực tiếp sang gián tiếp hay từ kiểu Mỹ sang kiểu Châu Âu, thứ tự tỷ giá mua bán phải thay đổi ngược lại. Giá mua kiểu Mỹ đổi thành giá bán kiểu Châu Âu và ngược lại. Chú ý: Trong giao dịch giao ngay, tỷ giá giao dịch ngân hàng đưa ra luôn thay đổi tùy theo tình hình thực tế về cung cầu trên thị trường. Giao dịch được thực hiện theo tỷ giá do ngân hàng niêm yết tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận. Ở Việt Nam, tỷ giá giao ngay trên thị trường ngoại hối chính thức được xác định theo quan hệ cung cầu về ngoại tệ nhưng nằm trong giới hạn quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam căn cứ vào tình hình cụ thể trong từng thời kỳ để quy định giới hạn này cho phù hợp. 2. Tổ chức thị trƣờng Ở Mỹ cũng như hầu hết các nước khác, thị trường ngoại hối giao ngay có hai cấp, đó là: Thị trường liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng (thị trường liên ngân hàng trực tiếp); và thị trường liên ngân hàng gián tiếp thông qua môi giới (thị trường liên ngân hàng gián tiếp). Trên thị trường liên ngân hàng trực tiếp, các ngân hàng giao dịch trực tiếp với nhau không thông qua môi giới và tất cả các ngân hàng tham gia thị trường đều là những nhà tạo thị trường. Điều này có nghĩa là, trên thị trường liên ngân hàng, ngân hàng này yết giá mua vào và bán ra trực tiếp cho ngân hàng kia và ngược lại. Vì giao dịch giữa các ngân hàng trên Interbank không diễn ra trên sở giao dịch và các giao dịch được thực hiện một cách liên tục, nên thị trường này được biết đến như là thị trường: Phi tập trung, liên tục, đấu giá mở và giao dịch hai chiều. 48
  18. Trên thị trường liên ngân hàng gián tiếp, các ngân hàng đặt ra các lệnh giới hạn một chiều cho các nhà môi giới, ví dụ: một ngân hàng thương mại đặt một lệnh cho nhà môi giới để mua 10 triệu GBP tại tỷ giá 1 GBP = 1,5550 USD. Nhà môi giới ghi lệnh này vào sổ và cố gắng tìm cách đối chiếu lệnh mua GBP với các lệnh bán GBP từ các ngân hàng khác. Trong khi các ngân hàng tiến hành các giao dịch, một mặt là cho chính mình, mặt khác cho khách hàng, thì những nhà môi giới chỉ giao dịch duy nhất là cho khách hàng. Trong giao dịch nhà môi giới sẽ đưa ra tỷ giá tốt nhất cho khách hàng, tỷ giá này gọi là giá tay trong (inside spread). Thông qua hoạt động môi giới, nhà môi giới sẽ thu hoa hồng từ ngân hàng mua và từ ngân hàng bán. Do tính chất hoạt động, thị trường qua môi giới được biết đến như là thị trường: Bán tập trung, liên tục, đặt lệnh có giới hạn, và thông qua phương thức đấu giá một chiều. Hoạt động tổ chức giao dịch trên thị trường liên ngân hàng trực tiếp và thị trường liên ngân hàng gián tiếp được thể hiện qua sơ đồ sau: NHTW Đặt lệnh Đặt lệnh Công Đấu giá mở Công ty Đặt lệnh NHTM NHTM Đặt lệnh ty Hai chiều Đặt lệnh Đặt lệnh Giá tay trong Giá tay trong Môi giới Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức thị trƣờng ngoại hối Trên sơ đồ, những nhà tạo thị trường là các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư, các ngân hàng này liên hệ thường xuyên với nhau nhằm cung cấp tỷ giá mua vào và bán ra của ngân hàng mình cho ngân hàng khác và ngược lại. Các ngân hàng vừa giao dịch cho chính mình nhằm thay đổi trạng thái ngoại hối trong tài sản của mình và kiếm lời, đồng thời các ngân hàng cũng giao dịch cho khách hàng để hưởng phí. Các ngân hàng tạo thị trường cũng đặt ra các lệnh giới hạn cho các nhà môi giới, sau đó nhà môi giới sẽ tìm cách đối chiếu các lệnh đặt mua và các lệnh đặt bán giữa các ngân hàng tạo thị trường với nhau để tìm ra tỷ giá tốt nhất cho cả ngân hàng mua và ngân hàng bán. Thông qua dịch vụ môi giới, nhà môi giới thu từ ngân hàng bán và từ ngân hàng mua một khoản hoa hồng. Ngân hàng Trung ương tham gia thị trường nhằm thau đổi tỷ giá hối đoái hoặc thực hiện các chuyển đổi cho chính phủ. 49
  19. Câu hỏi ôn tập I. Phần lý thuyết: 1. Thị trường ngoại hối là gì? Thị trường ngoại hối giao dịch những loại hàng hóa nào? Thị trường ngoại hối có đặc điểm gì khác so với thị trường hàng hóa?. 2. Phân biệt sự khác nhau giữa các thành phần tham gia giao dịch trên thị trường ngoại hối sau đây: Nhóm khách hàng mua bán lẻ, các ngân hàng thương mại, những nhà môi giới ngoại hối, các ngân hàng trung ương. 3. Ngân hàng thương mại có thể đóng vai trò gì trên thị trường ngoại hối: nhà kinh doanh, nhà môi giới, nhà đầu cơ, nhà kinh doanh chênh lệch giá hay tất cả các vai trò? 4. Phân biệt từng cặp khái niệm sau: Yết giá trực tiếp và yết giá gián tiếp, đồng tiền yết giá và đồng tiền định giá, tỷ giá mua và tỷ giá bán, ngân hàng yết giá và ngân hàng hỏi giá?. 5. Thế nào là nghiệp vụ ngoại hối giao ngay? Giả sử, ngày thứ bảy 12/7 khách hàng A thỏa thuận bán ngoại tệ cho ngân hàng theo hợp đồng giao ngay. Như vậy hai bên sẽ chuyển giao ngoại tệ cho nhau chậm nhất là vào ngày nào?. 6. Sử dụng Internet để tìm thông tin tỷ giá giữa USD và các ngoại tệ mạnh khác như EUR, GBP, JPY, CHF, AUD, CAD, SGD và giữa các ngoại tệ mạnh này với VND. Sau khi thu thập được thông tin tỷ giá, sử dụng Excel để lập bảng tính và so sánh chênh lệch (spread) giữa giá bán và giá mua của các tỷ giá USD, EUR, GBP, JPY, CHF, AUD, SGD và CAD so với VND. II. Phần bài tập Bài 1. Giả sử có các tỷ giá sau đây: USD/VND = 15.950 GBP/USD = 1,7612 USD/JPY = 114,21 USD/CHF = 1,37728 EUR/USD = 1,2568 AUD/USD = 0,7824 Yêu cầu: Hãy xác định các tỷ giá chéo sau đây: EUR/VND, JPY/VND, GBP/VND, AUD/VND, GBP/AUD, GBP/EUR? Bài 2. Giả sử tại một ngân hàng thương mại có bảng yết giá như sau: USD/VND = 15.950 – 71 USD/JPY = 114,81 – 00 GBP/USD = 1,6568 – 00 EUR/USD = 1,2692 – 1,2712 AUD/USD = 0,7824 – 94 Chỉ ra tỷ giá mà ngân hàng sẽ áp dụng khi khách hàng muốn mua USD bằng VND, khách hàng muốn bán EUR lấy USD, khách hàng muốn bán USD lấy EUR, khách hàng muốn bán JPY lấy USD, khách hàng muốn mua GBP bằng USD, và khách hàng muốn bán USD lấy AUD? Bài 3. Giả sử tại một ngân hàng thương mại có bảng yết giá như sau: USD/VND = 15.730 – 15.761 GBP/USD = 1,8421 – 1,8496 EUR/USD = 1,2815 – 1,2885 50
  20. AUD/USD = 0,7481 – 0,7506 USD/JPY = 106,28 – 106,73 Yêu cầu: Hãy xác định các tỷ giá chéo sau, kể cả tỷ giá mua và tỷ giá bán: GBP/VND, EUR/VND, JPY/VND, GBP/AUD, AUD/JPY? Bài 4. Giả sử có các tỷ giá sau đây trên thị trường quốc tế: GBP/USD = 1,5809 – 39 ở New York USD/EUR = 0,9419 – 87 ở Frankfurt GBP/EUR = 1,4621 – 71 ở London Để khai thác cơ hội kinh doanh chênh lệch tỷ giá, nhà kinh doanh giả sử đang nắm giữ 1 triệu USD sẽ thực hiện các giao dịch mua bán như thế nào? Bài 5. Giả sử tại một ngân hàng thương mại có bảng yết giá như sau: USD/VND = 15.850 – 71 USD/EUR = 0,8429 - 52 USD/JPY = 114,81 – 00 GBP/USD = 1,6568 - 00 AUD/USD = 0,6824 – 94 Yêu cầu: Hãy xác định tỷ giá và đối khoản tương ứng khi khách hàng muốn thực hiện các giao dịch sau đây: a/ Khách hàng muốn mua 120.000 USD bằng VND? b/ Khách hàng muốn bán 960.000 EUR lấy USD? c/ Khách hàng muốn bán 92.500 USD lấy EUR? d/ Khách hàng muốn bán 12.358.000 JPY lấy USD? e/ Khách hàng muốn mua 28.320.000 GBP bằng USD? f/ Khách hàng muốn bán 56.900 USD lấy AUD? 51
  21.  Bài đọc thêm PHÂN LOẠI TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI  Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia ra thành tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra. + Tỷ giá mua vào: là tỷ giá mà ngân hàng áp dụng khi mua ngoại tệ từ khách hàng . Ví dụ: Vào ngày 01/3/2012 ta có tỷ giá mua vào giữa đồng USD và đồng VND do Vietcombank niêm yết như sau : 1USD = 20.800 VND. + Tỷ giá bán ra: là tỷ giá mà ngân hàng áp dụng khi bán ngoại tệ cho khách hàng. Ví dụ: Vào ngày 01/3/2012 ta có tỷ giá bán ra giữa đồng USD và đồng VND do Vietcombank niêm yết như sau : 1USD = 20.860 VND. Giữa tỷ giá bán ra và tỷ giá mua vào có sự chênh lệch nhằm đảm bảo cho ngân hàng có thu nhập để trang trải chi phí giao dịch và tìm kiếm lợi nhuận thỏa đáng, nhưng thường sự chênh lệch này không quá cao. Do vậy, khi niêm yết giá ngân hàng thường niêm yết cả giá mua và giá bán. + Tỷ giá chéo: là tỷ giá giữa hai đồng tiền được suy ra từ đồng tiền thứ ba (còn gọi là đồng tiền trung tâm).  Căn cứ vào phương diện thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được chia ra thành tỷ giá tiền mặt và tỷ giá chuyển khoản. + Tỷ giá tiền măt: là loại tỷ giá áp dụng cho các ngoại tệ tiền mặt, séc, thẻ tín dụng. Thông thường, tỷ giá mua tiền mặt thấp hơn và tỷ giá bán tiền mặt cao hơn so với tỷ giá chuyển khoản. + Tỷ giá chuyển khoản: áp dụng cho các trường hợp giao dịch thanh toán qua ngân hàng. Loại tỷ giá này thường thấp hơn tỷ giá tiền mặt. Ví dụ: Vào ngày 01/3/2012 ta có tỷ giá mua vào giữa đồng AUD và đồng VND do Vietcombank niêm yết bằng tiền mặt: 1 AUD = 22.078,10 VND; bằng chuyển khoản: 1 AUD = 22.211,37 VND.  Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia ra thành : + Tỷ giá mở cửa và tỷ giá đóng cửa: Trong giao dịch ngoại hối, thông thường các ngân hàng không thông báo tất cả tỷ giá của các hợp đồng ký trong ngày mà chỉ công bố tỷ giá mở cửa áp dụng cho hợp đồng giao dịch đầu tiên và tỷ giá đóng cửa áp dụng cho hợp đồng giao dịch lúc cuối cùng trong ngày. + Tỷ giá giao ngay (spot) và tỷ giá kỳ hạn (forwards): Tỷ giá giao ngay: là tỷ giá được thỏa thuận hôm nay, nhưng việc thanh toán xảy ra trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo. Tỷ giá kỳ hạn: là tỷ giá được thỏa thuận ngày hôm nay, nhưng việc thanh toán xảy ra sau đó từ 3 ngày làm việc trở lên.  Căn cứ và chế độ quản lý tỷ giá, tỷ giá hối đoái được chia ra thành: 52
  22. + Tỷ giá cố định: là tỷ giá do ngân hàng trung ương công bố cố định trong một biên độ giao động hẹp. Dưới áp lực cung cầu của thị trường, để duy trì tỷ giá cố định, buộc ngân hàng trung ương phải thường xuyên can thiệp, do đó làm cho dự trữ ngoại hối quốc gia thay đổi. + Tỷ giá thả nổi hoàn toàn: là tỷ giá được hình thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu trên thị trường, ngân hàn trung ương không hề can thiệp. + Tỷ giá thả nổi có điều tiết: là tỷ giá được thả nổi, nhưng ngân hàng trung ương tiến hành can thiệp để tỷ giá biến động theo hướng có lợi cho nền kinh tế. + Tỷ giá chợ đen: Tỷ giá được hình thành bên ngoài hệ thống ngân hàng, do cung cầu trên thị trường tự do quyết định. + Tỷ giá chính thức (ở Việt Nam ngày nay là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng): là loại tỷ giá do ngân hàng trung ương công bố. Nó phản ánh chính thức về giá trị đối ngoại của đồng nội tệ. Tỷ giá chính thức được áp dụng để tính thuế xuất nhập khẩu và một số hoạt động khác liên quan đến tỷ giá chính thức. Ngoài ra, ở Việt Nam tỷ giá chính thức còn là cơ sở để các ngân hàng thương mại xác định tỷ giá kinh doanh trong biên độ cho phép. + Tỷ giá kinh doanh: là tỷ giá dùng để kinh doanh mua bán ngoại tệ. Tỷ giá này do các ngân hàng thương mại hay các tổ chức tín dụng đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá này là tỷ giá chính thức do ngân hàng trung ương công bố xem xét đến các yếu tố liên quan trực tiếp đến kinh doanh như: quan hệ cung cầu ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, tâm lý của người giao dịch đối với ngoại tệ cần mua hoặc bán. Tỷ giá kinh doanh bao gồm tỷ giá mua, tỷ giá bán.  Căn cứ vào mối quan hệ tỷ giá với chỉ số lạm phát, tỷ giá hối đoái được chia ra thành: + Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá giao dịch mua bán giữa các đồng tiền trên thị trường ngoại hối mà không đề cập đến tương quan sức mua giữa chúng. + Tỷ giá thực là tỷ giá phản ảnh mối tương quan về sức mua giữa 2 đồng tiền.  Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra thành: + Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá khác. + Tỷ giá thư hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. 53
  23.  Bài đọc thêm: QUY ƢỚC TÊN ĐƠN VỊ TIỀN TỆ Để thống nhất và tiện lợi trong các giao dịch ngoại hối, Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Organization) gọi tắt là ISO quy ước tên đơn vị tiền tệ của một số quốc gia được viết bằng ba ký tự. Hai ký tự đầu là tên quốc gia, ký tự sau cùng là tên đồng tiền. Chẳng hạn tên đơn vị tiền tệ của Việt Nam là VND thì hai ký tự đầu VN viết tắt của Việt Nam, ký tự sau cùng D viết tắt tên của đồng. Dưới đây là minh họa ký hiệu đơn vị tiền tệ của một số quốc gia theo ISO: Tên đồng tiền Viết tắt tên đơn vị tiền tệ Bảng Anh GBP Dollar Mỹ USD Đồng Euro EUR Dollar Canada CAD Dollar Hồng Kông HKD Dollar Singapore SGD Dollar Úc AUD Yên Nhật JPY Đồng Việt N m VND Won Hàn Quốc KRW Yuan Trung Quốc CNY Kíp Lào LAK Rupee Ấn Độ INR Dollar New Yealand NZD Peso Philippines PHP Baht Thái Lan THB Franc Đức FRF Ringgit Malaysia MYR Rupiah Indonexia IDR 54
  24.  Bài đọc thêm THỊ TRƢỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM- DIỄN BIẾN VÀ XU THẾ 13 Thành lập từ năm 1991, trải qua nhiều giai đoạn phát triển với nhiều thăng trầm, thị trường ngoại hối Việt Nam đã có một bước phát triển đáng kể về quy mô cũng như loại nghiệp vụ giao dịch.  Những dấu mốc đáng lƣu ý Năm 1991, Trung tâm Giao dịch ngoại tệ được thành lập và hoạt động với mục tiêu: Thiết lập thị trường ngoại hối chính thức cho giao dịch giữa ngân hàng và các đơn vị kinh tế; Đánh giá và đo lường cung cầu ngoại tệ trên thị trường; Quyết định tỷ giá chính thức hợp lý giữa USD và VND; Chuẩn bị những điều kiện ban đầu cho việc hình thành thị trường tài chính trong tương lai. Năm 1994, Trung tâm Giao dịch ngoại tệ chấm dứt hoạt động thay vào đó là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhằm xây dựng một thị trường có tổ chức cho giao dịch ngoại tệ giữa các ngân hàng thương mại (NHTM) và tạo cơ sở hình thành thị trường ngoại hối hoàn chỉnh trong tương lai. Trước năm 1998, trên thị trường các giao dịch chủ yếu là giao dịch giao ngay. Kể từ năm 1998, giao dịch ngoại tệ kỳ hạn và hoán đổi mới chính thức được đưa vào giao dịch. Cho đến nay, thị trường ngoại hối Việt Nam đã có một bước phát triển đáng kể về quy mô cũng như loại nghiệp vụ giao dịch, thu hút được sự tham gia của nhiều doanh nghiệp và NHTM trong và ngoài nước. NHTM đóng vai trò nòng cốt trên thị trường ngoại hối và đóng vai trò trung gian trong các giao dịch kinh doanh ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng là các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty xuất nhập khẩu. Ngoài ra, các NHTM còn mua bán ngoại tệ với nhau trên thị trường nhằm mục tiêu thu lợi nhuận và đảm bảo cân bằng trạng thái ngoại tệ khi cần để giảm thiểu rủi ro.  Diễn biến những năm gần đây Năm 2009, tỷ giá USD/VND tiếp tục đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỉ giá lên ±5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến. Năm 2010, giá USD đã tăng khá mạnh trong năm 2009, sang đến tháng 1/2010 lại giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh mức 18.479đồng/USD cho đến giữa tháng 2/2010. Nguyên nhân là do: Nguồn cung USD có thể tăng từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp; từ vốn hỗ trợ phát triển chính thức; từ vốn đầu tư gián tiếp; từ nguồn kiều hối từ Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; nguồn thu từ khách quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại; kim ngạch xuất khẩu chuyển từ tăng trưởng âm (-) sang tăng trưởng dương (+) Bên cạnh đó, các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý găm giữ USD do lo sợ rủi ro tỷ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể. 13 va-xu-the 55
  25. Đến cuối năm 2010, thị trường ngoại hối VN rơi vào tình trạng căng thẳng khi cầu ngoại tệ quá lớn, trong khi nguồn cung lại khan hiếm. Điều này khiến cho giá USD/VND tăng mạnh, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô. 6 tháng đầu năm 2011, với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, điểm nổi bật nhất của thị trường ngoại tệ là duy trì được sự ổn định. Tỷ giá giao dịch dần hạ xuống. Bắt đầu từ sự “giảm nhiệt” của tỷ giá trên thị trường tự do, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường này so với thị trường chính thức giảm dần xuống, thậm chí có thời điểm còn thấp hơn cả thị trường chính thức – một hiện tượng hiếm thấy trong nhiều năm qua. Trên thị trường chính thức, tỷ giá giao dịch của các NHTM thường ở mức thấp hơn biên độ tối đa theo quy định (1% so với tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng do NHNN công bố); xen kẽ những ngày tăng, tỷ giá đã có nhiều ngày đứng và nhiều ngày giảm, đây là điều hiếm thấy trước đây. Khi thị trường tự do bị thu hẹp, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức giảm thiểu, tỷ giá cơ bản ổn định và có xu hướng giảm, đã tạo thời cơ để NHNN mua vào ngoại tệ. Theo số liệu của NHNN, tính đến hết tháng 7/2011, NHNN đã mua được 5 tỷ USD dự trữ ngoại hối, một động thái mà từ giữa năm 2008 đến trước tháng 5/2011 chưa thực hiện được. Các doanh nghiệp và người dân đã bắt đầu bán ngoại tệ cho ngân hàng; bước đầu chuyển dần quan hệ huy động và cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua – bán ngoại tệ giữa ngân hàng với khách hàng; việc niêm yết giá thanh toán, mua – bán trực tiếp bằng ngoại tệ đã được thu hẹp.  Xu thế phát triển Kết quả tổng quát của việc ổn định thị trường ngoại tệ là góp phần vào việc chống đôla hóa, vàng hóa nền kinh tế, góp phần vào việc ổn định tâm lý, tạo tiền đề thực hiện việc kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố và nâng cao lòng tin vào đồng tiền quốc gia. Tuy đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng cũng chưa thể chủ quan, bởi thị trường ngoại tệ còn đứng trước những thách thức không nhỏ. Chênh lệch quá lớn giữa lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ khiến các doanh nghiệp đổ xô đi vay USD, sau đó bán ra lấy VND để phục vụ sản xuất kinh doanh, làm cho nguồn cung ảo USD trên thị trường gia tăng. Các chuyên gia kinh tế lo ngại rằng, cung ảo này sẽ biến thành cầu thực khi các khoản vay đến kỳ đáo hạn và sẽ tạo áp lực lên tỷ giá những tháng cuối năm. Nhập siêu liên tục tăng lên trong các tháng đầu năm làm cho cán cân thương mại, cán cân thanh toán bị mất cân đối, tạo sức ép lên tỷ giá. Mặt khác, theo thống kê từ đầu năm đến nay, nguồn ngoại tệ từ đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, nguồn kiều hối sẽ khó tăng cao so với năm trước. Nguồn ngoại tệ từ đầu tư gián tiếp, hỗ trợ phát triển chính thức và khách quốc tế đến Việt Nam có thể tăng, nhưng không có ý nghĩa quyết định. Tốc độ tăng CPI tuy đã chậm lại, nhưng vẫn còn cao, nên yếu tố lạm phát vẫn hiện hữu. Người có vốn có thể vẫn chưa hết kỳ vọng vào các nơi “trú ẩn” an toàn, trong đó có ngoại tệ. Các chính sách như thắt chặt tiền tệ, dẹp bỏ thị trường chợ đen, giảm mức trần lãi suất huy động USD chỉ tác động ngắn hạn đến tỷ giá. Sự biến động tỷ giá trong dài hạn tùy thuộc vào mức độ nhập siêu và chỉ số lạm phát của Việt Nam trong tương lai. 56
  26. Và về lâu dài, để giải quyết tốt bài toán tỷ giá ở Việt Nam, cần phải giải quyết một cách căn bản bài toán nhập siêu và lạm phát nhằm tạo dựng lòng tin vững chắc vào tiền đồng. Tài liệu tham khảo [1] TS. Nguyễn Minh Kiều, Thị trường ngoại hối và các giải pháp phòng ngừa rủi ro, NXB Thống kê, 2008; [2] TS Nguyễn Văn Tiến, Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối, NXB Thống Kê, 2010; [3] PGS. TS Nguyễn Đăng Dờn, Thị trường tài chính, NXB Phương Đông, 2011. 57
  27. CHƢƠNG 4 THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN Mục tiêu Chương này trình bày những nội dung cơ bản về thị trường chứng khoán (TTCK) như: - Khái quát về sự hình thành và phát triển của TTCK, khái niệm, chức năng và vai trò của TTCK; hiểu được các công cụ lưu thông trên TTCK; - Hiểu được phương thức phát hành và niêm yết chứng khoán; - Hiểu được cách thức tổ chức, nguyên tắc hoạt động của Sở GDCK; - Hiểu được các loại lệnh giao dịch, cách thức sử dụng các lệnh giao dịch, quy trình giao dịch trên TTCK tập trung, thị trường OTC và nắm được các mô hình hoạt động của Trung tâm LKCK. Nội dung I. Khái quát về thị trƣờng chứng khoán (TTCK) 1. Sơ lƣợc về lịch sử hình thành và phát triển của thị trƣờng chứng khoán 1.1. Lịch sử hình thành thị trƣờng chứng khoán trên thế giới Những dấu hiệu của một thị trường chứng khoán (TTCK) sơ khai đã xuất hiện ngay từ thời Trung cổ xa xưa. Vào khoảng thế kỷ XV, ở các thành phố lớn của các nước phương Tây, trong các phiên chợ hay hội chợ, các thương gia thường gặp gỡ tiếp xúc với nhau tại các quán cafe để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hoá. Đặc điểm của hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp đồng mua bán mà không có sự xuất hiện của bất cứ hàng hoá, giấy tờ nào. Đến cuối thế kỷ XV, “khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên với những quy ước xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần dần trở thành các quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia. Năm 1453, ở thành phố Bruges (thuộc nước Bỉ), buổi họp đầu tiên đã diễn ra tại một lữ quán của gia đình Vanber Buerzo. Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình 3 túi da tượng trưng cho 3 loại giao dịch: giao dịch hàng hoá, giao dịch ngoại tệ, giao dịch giá khoán động sản. Vào năm 1457, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển dẫn tàu bè vào thị trấn Even bị cát lấp, nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ), từ kinh nghiệm đó mậu dịch trường Auvers phát triển rất nhanh chóng, các thị trường như vậy cũng được thành lập ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ. Sau một thời gian hoạt động, thị trường không chứng tỏ khả năng đáp ứng được yêu cầu của 3 loại giao dịch khác nhau nên đã phân ra thành nhiều thị trường khác nhau: thị trường hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái. 58
  28. Quá trình phát triển thị trường chứng khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875 - 1913, thị trường chứng khoán phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến ngày 28/10/1929, ngày được gọi là “ngày thứ năm đen tối”, đây là ngày mở đầu cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán New York, và sau đó lan rộng ra các thị trường chứng khoán Tây Âu, Bắc Âu, Nhật bản. Sau thế chiến thứ hai, các thị trường chứng khoán phục hồi, phát triển mạnh. Nhưng rồi “cuộc khủng hoảng tài chính” năm 1987, một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán thế giới suy sụp, kiệt quệ. Lần này, hậu quả của nó rất lớn và nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, nhưng chỉ 2 năm sau, thị trường chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triển và trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ, khoa học kỹ thuật, các phương thức giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán cũng đã được cải tiến theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng giao dịch. Các giao dịch dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử. 1.2. Quá trình hình thành và phát triển thị trƣờng chứng khoán ở Việt Nam Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam đã được hình thành và phát triển với việc thành lập Ủy ban chứng khoán Nhà nước ngày 28/11/1996. Từ tháng 3/2004, Ủy ban chứng khoán Nhà nước là một bộ phận của Bộ Tài chính. Phải mất 10 năm thăm dò, thử nghiệm, TTCK Việt Nam đã bùng nổ vào năm 2006 song hành cùng với những kỷ lục mới xuất hiện trong nền kinh tế nước nhà. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM- HOSE) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.Khi mới đi vào hoạt động, tại TTGDCK TP.HCM chỉ có 2 loại CP (REE và SAM) và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyế t đị nh số : 599/QĐ-TTg ngà y 11/05/2007chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM. Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (TTGDCK TP.HCM- HASTC) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 với phiên tổ chức đấu giá đầu tiên vào ngày 08/3/2005 và phiên giao dịch thứ cấp đầu tiên ngày 14/7/2005 với 06 cổ phiếu . TTGDCK HN được chuyển đổi theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg, ngày 02/01/2009 của Thủ tướng chính phủ thành Sở Giao dị ch Chứ ng khoá n Hà Nội. Để từng bước hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, ngày 27/7/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 189/2005/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) trực thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, với tư cách là tổ chức duy nhất thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoàn tất giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc ra đời TTLKCK là đòi 59
  29. hỏi tất yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam ở giai đoạn phát triển hiện nay; đồng thời cũng là xu hướng và thông lệ trên thị trường chứng khoán quốc tế. TTLKCK đi vào hoạt động, ngoài việc tạo sự đồng bộ về kết cấu hạ tầng cho thị trường chứng khoán Việt Nam còn mang lại nhiều lợi ích khác. Đó là: Giảm rủi ro và chi phí liên quan đến việc thanh toán các giao dịch chứng khoán do giao dịch mua/bán chứng khoán được thực hiện tự động (không thanh toán bằng tiền mặt, trao tay); nâng cao hiệu quả cho nghiệp vụ sau thanh toán đối với các thành viên của TTLKCK, từ đó sẽ nâng cao tính hiệu quả trong các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư như chi trả cổ tức; tiêu chuẩn hoá giữa các thành viên tham gia thị trường, tạo sự hài hoà, đồng bộ ở các mặt của thị trường chứng khoán; góp phần tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy tiến trình hội nhập của thị trường chứng khoán Việt Nam vào thị trường tài chính khu vực và thế giới, mà đặc biệt là thực hiện kết nối giữa các thị trường chứng khoán khu vực cũng như việc hình thành thị trường trái phiếu chung của khu vực trong thời gian tới; tạo thuận lợi cho việc tham gia đầu tư của người đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua các tổ chức lưu ký toàn cầu hoặc thông qua quan hệ đại lý giữa TTLKCK trong nước và các TTLKCK nước ngoài. 2. Khái niệm, chức năng và vai trò của thị trƣờng chứng khoán 2.1. Khái niệm 2.1.1. Cơ sở hình thành và phát triển thị trƣờng chứng khoán Sự tồn tại và phát triển của TTCK là sản phẩm tất yếu khách quan của nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Nhìn chung sự ra đời của TTCK ở các quốc gia đều bắt đầu từ 2 nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, giải quyết nhu cầu giao lưu vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế Các chủ thể trong nền kinh tế- xã hội (doanh nghiệp, Chính phủ) vì những lý do khác nhau mà thường có nhu cầu huy động vốn để bổ sung thiếu hụt của mình. Cầu vốn là lượng vốn cần thiết để tiến hành quá trình đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh hay phục vụ cho mục đích tiêu dùng nào đó của các chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời trong nền kinh tế luôn tồn tại một lực lượng có cung vốn. Cung vốn là lượng vốn hiện đang nhàn rỗi trong xã hội và có thể sử dụng cho các mục đích khác nhau, hoặc cho tiêu dùng, hoặc cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, sản xuất kinh doanh. Nguồn cung vốn bao gồm nguồn cung trong nước và nguồn cung vốn từ bên ngoài Như vậy, cung – cầu vốn tiền tệ xuất hiện và tồn tại là một thực tế khách quan cần được giải quyết hợp lý và hiệu quả để tạo điều kiện cho nền kinh tế tồn tại và phát triển. Ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân chưa cao và nhu cầu về vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao; Chính vì vậy, Thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một bộ phận các chứng khoán có giá trị nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán chứng khoán; và đây chính là sự ra đời của thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận của thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại. 60
  30. Thứ hai, xuất hiện các loại chứng khoán Khi các chủ thể trong nền kinh tế - xã hội bị thiếu hụt cũng có nghĩa là cầu về vốn tiền tệ xuất hiện. Để chủ động trong việc tạo vốn các DN sẽ lựa chọn phương án tài trợ hiệu quả nhất trước hết đó là khả năng tự tài trợ của DN, tuy nhiên khả năng này hạn chế và chỉ đáp ứng một phần nào đó nhu cầu về vốn đầu tư, tiếp theo là vay vốn từ các tổ chức tín dụng hoặc là phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu mở ra khả năng tài trợ to lớn đối với DN. Các loại trái phiếu, cổ phiếu do công ty phát hành, chính là chứng khoán. Như vậy, sự ra đời của các loại chứng khoán cũng như quá trình thương mại hóa chúng vừa thỏa mãn yêu cầu của người có vốn và người cần vốn, vừa là cơ sở hình thành TTCK. 2.1.2. Khái niệm - Khái niệm Có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường chứng khoán như: + Quan điểm 1: “Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch những cổ phiếu, trái phiếu và những sản phẩm phái sinh”14. Cùng với hệ thống ngân hàng, TTCK tạo một dòng chảy tài chính trong nền kinh tế. + Quan điểm 2: “Thị trường chứng khoán là một thị trường có tổ chức, là nơi các chứng khoán được mua bán tuân theo những quy tắc đã được ấn định”15. Các quan niệm trên đều được khái quát trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị trường chứng khoán hiện nay là: + Thị trường chứng khoán là thị trường diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch mua bán chứng khoán.16 Chứng khoán được hiểu là các giấy tờ có giá, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với nhà phát hành. - Đặc trưng của TTCK + TTCK xuất hiện khi các chứng khoán được phát hành và trao đổi; + TTCK là thị trường vốn trung và dài hạn; + TTCK là thị trường mà ở đó không có sự can thiệp, độc đoán hay cưỡng chế về giá cả. Giá mua bán trên TTCK hoàn toàn do cung cầu quyết định; + TTCK là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa, thị trường này chỉ tồn tại và phát triển trong cơ chế kinh tế thị trường. 2.1.3. Phân loại Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của thị trường chứng khoán có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem xét ba cách thức cơ bản là phân loại tính chất giao dịch, phân loại theo phương thức tổ chức của thị trường và phân loại theo hàng hóa giao dịch trên thị trường chứng khoán. 14. Theo quan điểm của Giáo sư Frúedéuric Teulon – Vocabulaire monéutaire et financier – 1993. 15. Theo quan điểm của Longman- Dictionary of Business English- 1985. 16. PGS.TS. Đinh Văn Sơn, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Liên, Thị trường chứng khoán, NXB Thống Kê, 2009. Trang 11. 61
  31. 2.1.3.1. Căn cứ vào tính chất giao dịch Căn cứ vào tính chất giáo dịch, TTCK chia làm 2 loại: - Thị trường sơ cấp: Là giai đoạn khởi đầu của TTCK. Đây là nơi mua bán những chứng khoán mới phát hành. Vì vậy trên thực tế, thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường phát hành chứng khoán. Trên thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Các chứng khoán lần đầu tiên được bán ra thị trường được gọi là chứng khoán mới được phát hành. Nếu việc phát hành mới là các chứng khoán bổ sung được nhà phát hành đã có chứng khoán đưa ra công chúng thì được gọi là phân phối lần đầu. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp nhằm mục đích làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc mua bán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng. Các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó, đưa nguồn vốn tiết kiệm vào đầu tư. - Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch, mua bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp và là một bộ phận quan trọng của TTCK, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Những loại chứng khoán giao dịch ở thị trường này có thể được mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau. Vì vậy, trên thực tế, thị trường thứ cấp còn được gọi là thị trường giao dịch luân chuyển chứng khoán, là nơi chủ yếu tạo điều kiện trao đổi chứng khoán. Thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hòa, lưu thông các nguồn vốn đảm bảo chuyển hóa các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn để đưa vào đầu tư phát triển kinh tế. Nhờ có thị trường thứ cấp, người có vốn nhàn rỗi yên tâm đầu tư vào chứng khoán, vì khi cần thiết họ có thể bán lại chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư khác trên TTCK. 2.1.3.2. Căn cứ vào phương thức tổ chức giao dịch Theo cách phân loại này, thị trường chứng khoán được tổ chức thành thị trường chứng khoán chính thức và thị trường chứng khoán không chính thức. - Thị trường chứng khoán chính thức: là thị trường mà sự ra đời và hoạt động được bảo hộ về mặt pháp lý. Các hoạt động trên thị trường này chịu sự kiểm soát của UBCKNN. Theo phương thức tổ chức này thì TTCK chính thức được chia làm 2 loại sau: + Thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán - Sở GDCK) * Sở GDCK là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung. * Các chứng khoán được niêm yết giao dịch tại Sở GDCK thông thường là chứng khoán của các công ty lớn, có danh tiếng, đã trải qua nhiều thử thách trên thị trường và đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn niêm yết do Sở GDCK đặt ra. * Sở GDCK được tổ chức và quản lý một cách chặt chẽ bởi UBCKNN, các giao dịch chịu sự điều tiết của luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. + Thị trường chứng khoán phi tập trung (còn gọi là thị trường OTC): Là thị trường ở đó việc giao dịch mua bán chứng khoán không diễn ra tại một địa điểm mà thông qua một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau 62
  32. và với các nhà đầu tư, các hoạt động giao dịch của thị trường chứng khoán phi tập trung được diễn ra tại các quầy (sàn giao dịch) của các ngân hàng và công ty chứng khoán thông qua điện thoại hay máy vi tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều lần so với Sở GDCK. Thị trường chứng khoán phi tập trung chịu sự quản lý của Sở giao dịch và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. - Thị trường chứng khoán không chính thức (TTCK tự do): Thị trường tự do là thị trường mà hoạt động giao dịch mua bán, chuyển nhượng chứng khoán có thể diễ ra ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào, có thế thông qua nhà môi giới hoặc do chính những người có nhu cầu đầu tư, mua bán chứng khoán thực hiện. TTCK tự do là thị trường mà sự ra đời, tồn tại và hoạt động không được thừa nhận và bảo hộ bởi pháp luật chuyên ngành về chứng khoán và TTCK. Nó ra đời và hoạt động bởi các nhu cầu tự phát của thị trường. 2.1.3.3. Căn cứ vào hàng hóa giao dịch trên thị trường Căn cứ vào các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, người ta có thể phân thị trường chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ phái sinh. - Thị trường trái phiếu: Thị trường trái phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua bán tại đó là các trái phiếu. - Thị trường cổ phiếu: Thị trường cổ phiếu là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua bán tại đó là các cổ phiếu. - Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Là thị trường mà hàng hoá được giao dịch trao đổi, mua bán tại đó là chứng khoán phái sinh. 2.2. Chức năng Một là, huy động và tập trung vốn đầu tư cho nền kinh tế. Thông qua các giao dịch được thực hiện trên TTCK, các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội ở nhiều lĩnh vực, nhiều chủ thể với nhiều mức độ khác nhau được tập trung cho các hoạt động đầu tư của các tổ chức phát hành. Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động SXKD và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội, thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế phục vụ nhu cầu chung của xã hội. TTCK không những thu hút các nguồn vốn trong nước mà còn giúp chính phủ và doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Hai là, tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn cho công chúng Có nhiều môi trường đầu tư như: thông qua hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán hoặc trực tiếp đầu tư, nhưng môi trường đầu tư qua thị trường chứng khoán là hấp dẫn và thú vị. TTCK cung cấp cho công chúng môi trường đầu tư lành mạnh với cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác 63
  33. nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn các loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ đầu tư mới, đa dạng, phong phú phù hợp với từng đối đối tượng khác nhau.Với hệ thống các loại chứng khoán đa dạng càng làm tăng khả năng lựa chọn cho người muốn đầu tư vào chứng khoán cũng như tăng khả năng thu hút của các chủ thể đang tạm thời thiếu vốn. Như vậy, TTCK là nơi cung cấp cơ hội đầu tư có lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế Ba là, thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh và là phong vũ biểu của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán phản ánh tình trạng của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc gia. Thị giá chứng khoán của DN đang giao dịch trên TTCK được coi là cơ sở quan trọng đánh giá thực trạng hoạt động của DN đó ở hiện tại cũng như trong tương lai. Chỉ có những doanh nghiệp làm ăn tốt, có hiệu quả cao, hứa hẹn triển vọng tương lai tốt thì giá trị thị trường của chứng khoán công ty cao và ngược lại. Ngoài sự đánh giá các doanh nghiệp, thị trường chứng khoán còn là phong vũ biểu của nền kinh tế, giúp những người đầu tư và những người quản lý có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Diễn biến của thị giá chứng khoán và khái quát hơn là chỉ số chứng khoán đã phản ánh thông tin đa dạng và nhiều chiều cho người đầu tư trước diễn biến của các rủi ro. Thị trường chứng khoán còn phản ứng rất nhạy cảm trước các chính sách kinh tế vĩ mô, các biến động của nền kinh tế. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách và quản lý thường thông qua thị trường chứng khoán để phân tích, dự đoán, đề ra các chính sách điều tiết kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thích hợp, qua đó tác động tới các hoạt động của nền kinh tế quốc dân. 2.3. Vai trò của thị trƣờng chứng khoán - Thứ nhất, tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán TTCK nói chung và TTCK thứ cấp nói riêng là nơi tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Thông qua thị trường này các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán của họ thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. - Thứ hai, góp phần kích thích cạnh tranh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN Thông qua TTCK các DN có thể sử dụng vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi để đầu tư chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và ngược lại, các chứng khoán đó sẽ được chuyển thành tiền khi cần thiết. Đồng thời TTCK còn giúp các DN xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu. Việc sáp nhập hay mở rộng hoạt động kinh doanh của các DN đều có thể thực hiện được thông qua TTCK. - Thứ ba, góp phần đa dạng hóa các hình thức đầu tư và huy động vốn trong nền kinh tế TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ đầu tư mới, đa dạng, phong phú phù hợp với từng đối đối tượng khác nhau.Với hệ thông các loại chứng khoán đa dạng càng làm tăng khả năng lựa chọn cho người muốn đầu tư vào chứng khoán cũng như tăng khả năng thu hút của các chủ thể đang tạm thời thiếu vốn. Như vậy, TTCK là nơi 64
  34. cung cấp cơ hội đầu tư có lựa chọn cho công chúng, từ đó nâng cao tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện về vốn cho sự nghiệp phát triển kinh tế. - Thứ tư, tạo điều kiện thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài Việc đầu tư vốn từ nước ngoài có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có đầu tư vốn thông qua thị trường chứng khoán. Đây là hình thức đầu tư dễ dàng và hữu hiệu. Với nguyên tắc công khai, thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể theo dõi và nhận định một cách dễ dàng hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa, thị trường chứng khoán thu hút vốn thông qua mua bán chứng khoán, từ đó tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua kênh chứng khoán là an toàn và hiệu quả vì các chủ thể phát hành được toàn quyên sử dụng vốn huy động cho mục đích riêng mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ điều kiện nào của nhà đầu tư nước ngoài. - Thứ năm, là công cụ giúp Chính phủ thực hiện mục tiêu của chính sách tài chính tiền tệ Khi ngân sách thu không đủ bù chi, Chính phủ có thể bù đắp thâm hụt ngân sách bằng hai cách: phát hành tiền hoặc đi vay nợ. Trước đây, Chính phủ ta đã phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt Ngân sách, và đã gây nên áp lực lạm phát rất lớn, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Nhưng trong vài năm gần đây, Chính phủ có thể phát hành trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp Ngân sách mà vẫn quản lý được lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư cho sự phát triển cân đối nền kinh tế. Trên thực tế, khi chưa có thị trường chứng khoán thì Chính phủ vẫn phát hành các loại trái phiếu Chính phủ để huy động vốn, nhưng phần lớn đó là các trái phiếu ngắn hạn nhằm đáp ứng các khoản chi Ngân sách trong năm tài khoá. Còn đối với các trái phiếu dài hạn thì rất khó phát hành, vì không có thị trường chuyển nhượng cho các trái phiếu, nên rất khó khăn trong việc chuyển đổi từ trái phiếu ra tiền. Vì vậy, khi thị trường chứng khoán ra đời, bản thân nó không những tạo ra tính thanh khoản và tính khả mại (tính dễ mua bán) của các chứng khoán, mà còn tạo ra tính linh hoạt trong việc chuyển hướng đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Vì vậy, thị trường chứng khoán được xem là công cụ đắc lực trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn. II. Công cụ lƣu thông của thị trƣờng chứng khoán 1. Cổ phiếu Đối với công ty, việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh cần có nhiều yếu tố khác nhau nhưng vốn được xem là yếu tố rất quan trọng. Để huy động, tập trung nguồn vốn lớn ngoài phương pháp truyền thống là vay ngân hàng thì công ty có thể huy động vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần, nó xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần. Người góp vốn vào công ty qua việc mua cổ phần gọi là cổ đông, cổ đông nhận một giấy chứng nhận cổ phần gọi là cổ phiếu. Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/06/2006: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.” 65
  35. Tùy theo trách nhiệm và quyền hạn của cổ đông đối với công ty cổ phần mà cổ phiếu chia làm 2 loại: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. 1.1. Cổ phiếu thƣờng (commom stock) 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm - Khái niệm Cổ phiếu thường là một loại chứng khoán vốn, không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty, lợi tức cổ phiếu được trả vào cuối năm để quyết toán gọi là cổ tức17. - Đặc điểm + Lợi tức của cổ phiếu không cố định, phụ thuộc vào mức lợi nhuận thu được hàng năm của công ty và chính sách chia lời của công ty. + Chỉ được chia lãi sau khi doanh nghiệp đã trả trái tức, cổ tức ưu đãi. + Thời hạn của cổ phiếu là vô hạn, nó phụ thuộc vào thời gian hoạt động của công ty. + Việc trả cổ tức của cổ phiếu thường có thể thực hiện bằng các hình thức sau: trả bằng tiền mặt; trả bằng chính cổ phiếu của công ty; trả bằng tài sản của công ty- hình thức này ít sử dụng trong thực tế. 1.1.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông - Quyền lợi + Quyền bỏ phiếu: Cổ đông có quyền bỏ phiếu biểu quyết để bầu cử Hội đồng quản trị hay để biểu quyết thông qua những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. + Quyền nhận cổ tức: Nếu Hội đồng quản trị công bố có lãi và chia lãi, cổ tức cổ phiếu thường có thể được trả bằng tiền, bằng cổ phiếu của doanh nghiệp hoặc bằng tài sản của doanh nghiệp. + Quyền được chia tài sản thanh lý: Trong trường hợp rủi ro công ty bị giải thể, cổ đông cũng được chia phần giá trị tài sản khi thanh lý, nhưng là người cuối cùng được hưởng giá trị tài sản còn lại khi thanh lý. + Quyền mua cổ phiếu mới: Khi có đợt phát hành cổ phiếu mới, các cổ đông cũ được quyền ưu tiên mua trước toàn bộ hay từng phần cổ phiếu sắp phát hành. + Quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp, quyền bán, trao đổi, chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường. - Nghĩa vụ + Chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp; + Phần vốn góp xem như góp vĩnh viễn không được rút lại, lúc cần có quyền chuyển nhượng sở hữu cổ phần trên thị trường bằng cách bán CP cho một nhà đầu tư khác. 17 . PGS.TS. Lê Văn Tư, Thị trường chứng khoán, NXB Thống Kê, 2006. Trang 69. 66
  36. 1.1.3. Các loại giá cổ phiếu - Mệnh giá (par- value): Mệnh giá của cổ phiếu là giá được ghi trên bề mặt của cổ phiếu. Mệnh giá của mỗi cổ phiếu chỉ có giá trị danh nghĩa không liên quan trực tiếp đến giá trị thị trường của cổ phiếu. Khi công ty mới thành lập, mệnh giá cổ phiếu được tính như sau: Vốn điều lệ công ty cổ phần Mệnh giá cổ phiếu mới phát hành = Tổng số cổ phần đăng ký phát hành Ví dụ: Năm 2009, công ty cổ phần A thành lập với số vốn điều lệ là 80 tỷ đồng, số cổ phần đăng ký phát hành là 8.000.000. Hãy xác định mệnh giá của mỗi cổ phiếu của công ty trên. Giải: 80.000.000 .000 Mệnh giá mỗi cổ phiếu là: 10.000đ / cp 8.000.000 - Thư giá (book value): Là giá cổ phiếu ghi trên sổ sách kế toán phản ánh tình trạng vốn cổ phần của công ty ở một thời điểm nhất định. Thư giá được tính theo công thức sau: Vốn cổ phần Thư giá cổ phiếu = Số cổ phần thường đang lưu hành Ví dụ: Tiếp theo ví dụ trên, năm 2011, công ty A quyết định tăng thêm vốn bằng cách phát hành thêm 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá mỗi cổ phiếu vẫn là 10.000 đồng nhưng giá bán cổ phiếu trên thị trường lúc này là 35.000 đồng. Biết rằng quỹ tích lũy dùng cho đầu tư còn lại tính đến cuối năm 2011 là 10 tỷ đồng. Yêu cầu: Xác định thư giá của mỗi cổ phiếu. Giải: Trên sổ sách kế toán ngày 31/12/2011 như sau: Vốn cổ phần theo mệnh giá: 10.000đ x 9 tr CP = 90 tỷ đồng Vốn thặng dư: (35.000đ – 10.000đ) x 1 tr.CP = 25 tỷ đồng Quỹ tích lũy: 10 tỷ đồng Tổng số vốn cổ phần = 90 + 25 + 10 = 125 tỷ đồng 125.000.000.000 Vậy, thư giá mỗi cổ phiếu: 13.889 đ / cp 9.000.000 Tuy nhiên, trên thị trường người ta không giao dịch theo mệnh giá hay thư giá cổ phiếu mà theo giá thị trường. - Thị giá (Market value): Là giá cả cổ phiếu được giao dịch trên thị trường tại một thời điểm nhất định. Đó là giá mà người mua phải trả và người bán nhận được. Tùy theo quan hệ cung cầu mà thị giá có thể thấp hơn, cao hơn hoặc bằng giá trị thực của nó tại thời điểm mua bán. Thị giá thay đổi hàng giờ hoặc chỉ ổn định trong một thời 67
  37. gian ngắn, tuỳ theo tình hình cung cầu chứng khoán ở từng thời điểm nhất định. Thị giá chịu tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội trong đó yếu tố quan trọng nhất là giá trị thị trường của công ty và khả năng sinh lợi của nó. 1.1.4. Lợi tức và rủi ro của cổ phiếu thƣờng - Lợi tức của cổ phiếu thường Nhà đầu tư mua cổ phiếu được hưởng lợi tức từ 2 nguồn: + Cổ tức: Là phần chia lời cho mỗi cổ phần được lấy ra từ lợi nhuận ròng sau thuế sau khi trả cổ tức ưu đãi và thu nhập giữ lại để trích quỹ. + Lợi tức do chênh lệch giá: Phần lớn các nhà đầu tư với chiến lược kinh doanh ngắn hạn sẽ bán cổ phiếu ngay khi cổ phiếu thăng để kiếm lời chênh lệch giá. - Rủi ro của cổ phiếu thường Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro. Rủi ro không chỉ là mất mát thuần túy mà nó còn hàm chứa cả việc không đạt được kỳ vọng của nhà đầu tư. Sau đây là những rủi ro thường gặp trong đầu tư cổ phiếu. a. Rủi ro hệ thống: Trong đầu tư, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống. Rủi ro hệ thống bao gồm những rủi ro cơ bản sau: - Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro hệ thống, hay còn gọi là rủi ro không phân tán được khi đầu tư vào thị trường chứng khoán. Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung. Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất Trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng khoán khác, như các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi ro thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các loại chứng khoán có rủi ro. Các nhà đầu tư thường coi trái phiếu Chính phủ là không rủi ro. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, là mức phí vay vốn không rủi ro. Những thay đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chứng khoán, từ trái phiếu cho đến các loại cổ phiếu rủi ro nhất. - Rủi ro thị trường xảy ra khi nền kinh tế suy thoái hoặc thị trường chứng khoán có nhiều biến động bất thường. Diễn biến giá chứng khoán bị chi phối bởi nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô (lạm phát, lãi suất, tiền tệ), yếu tố bên ngoài (tình hình thế giới, thiên tai). Đặc biệt, rủi ro thị trường cũng biến động theo những kỳ vọng về khả năng sinh lời và tâm lý của nhà đầu tư. Do đó, rủi ro thị trường rất khó nắm bắt. Nhà đầu tư chỉ có thể tính toán và ước lượng rủi ro thị trường ở mức độ tương đối. Các sự kiện vô hình là các sự kiện nãy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình nhưng do tâm lý không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự kiện đó. Những sụt giảm đầu tiên của giá chứng khoán trên thị trường là nguyên nhân gây ra sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn bằng cách bán chứng khoán. Những phản ứng 68
  38. 4dây truyền làm tăng số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ bị rơi xuống thấp so với giá trị nội tại của chứng khoán. - Rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. Khi một người mua cổ phiếu anh ta đã bỏ qua cơ hội mua hàng hóa hay dịch vụ trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó. Nếu trong khoảng thời gian nắm giữ cổ phiếu đó, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng, các nhà đầu tư đã mất một phần sức mua. Yếu tố lạm phát (giảm phát) sẽ làm thay đổi mức lãi suất danh nghĩa và từ đó sẽ gây tác động tới giá cả chứng khoán. - Rủi ro tỷ giá: rủi ro do tác động của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi nhà đầu tư cho rằng đồng nội tệ có thể bị giảm giá trong tương lai thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ vì khi đó giá trị chứng khoán sẽ bị giảm b. Rủi ro phi hệ thống: Những rủi ro do những yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động tới một ngành hay tới một công ty, một hoặc một số chứng khoán, gọi là rủi ro không hệ thống. Rủi ro không hệ thống là một phần trong tổng rủi ro gắn liền với một công ty hay một ngành công nghiệp cụ thể nào đó. Những yếu tố này có thể là khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng, đình công và nhiều yếu tố khác nữa là nguyên nhân gây ra sự thay đổi trong thu nhập từ cổ phiếu công ty. Sự không chắc chắn đối với khả năng thanh toán của công ty có thể là do môi trường của hoạt động kinh doanh và tình trạng tài chính của công ty. Những rủi ro này có thể gọi là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính, rủi ro quản lý. - Rủi ro kinh doanh: Doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi sản phẩm, dịch vụ đã trở nên lỗi thời, không đáp ứng được thị hiếu của khác hàng. Hoặc công ty làm ăn sa sút vì chiến lược phát triển và đầu tư không phù hợp. Trường hợp đội ngũ quản trị của công ty non yếu, rủi ro kinh doanh càng cao. - Rủi ro tài chính liên quan tới việc công ty tài trợ cho hoạt động của mình. Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi. Và vì những nghĩa vụ trả lãi này phải được thanh toán trước khi trả cổ tức cho CPthường nên nó có tác động đến cổ tức. Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một công ty không vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính. - Rủi ro quản lý: Là rủi ro do tác động của các quyết định từ nhà quản lý doanh nghiệp. Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. 1.2. Cổ phiếu ƣu đãi (Preferred Stock) 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm - Khái niệm 69
  39. Cổ phiếu ưu đãi là một loại chứng khoán vốn mà người nắm giữ nó so với người nắm giữ cổ phiếu thường thì được ưu tiên về mặt tài chính, nhưng bị hạn chế về quyền hạn đối với công ty. Hay nói một cách khác, cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ phiếu lúc phát hành. Với cổ phiếu này thu nhập của cổ đông không phụ thuộc vào chính sách chia lãi hàng năm của công ty. - Đặc điểm + Cổ đông của cổ phiếu được hưởng những ưu tiên hơn so với cổ đông của cổ phiếu thường; + Được hưởng một mức lãi cổ phần riêng biệt có tính chất cố định hàng năm; + Được ưu tiên chia lãi cổ phần trước loại cổ phiếu thường; + Được ưu tiên phân chia tài sản còn lại của công ty khi phá sản trước loại cổ phiếu thường; + Cổ phiếu chuyển đổi ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường; + Không được hưởng quyền bỏ phiếu để bầu ra Hội đồng quản trị và biểu quyết quyết định các vấn đề về quản lý công ty; + Trên thị trường giá của cổ phiếu ưu đãi ít biến động hơn so với giá cổ phiếu thường. 1.2.2. Các loại cổ phiếu ƣu đãi Để tạo sự hấp dẫn hơn cho cổ phiếu ưu đãi, phù hợp với tâm lý của các nhà đầu tư, cổ phiếu ưu đãi được đa dạng hoá và phân chia thành nhiều loại khác nhau: - Cổ phiếu ưu đãi tích lũy và cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: + Cổ phiếu ưu đãi tích lũy: là loại cổ phiếu ưu đãi trong đó doanh nghiệp phát hành bảo đảm trả đầy đủ cổ tức cho người sở hữu. + Cổ phiếu ưu đãi không tích lũy: là loại cổ phiếu mà doanh nghiệp có lãi đến đâu trả lãi đến đó. Phần nợ cổ tức không được tích luỹ vào năm sau. - Cổ phiếu ưu đãi dự phần và cổ phiếu ưu đãi không dự phần: + Cổ phiếu ưu đãi dự phần: là loại cổ phiếu ưu đãi mà cổ đông được hưởng một phần lợi tức phụ trội theo quy định khi công ty làm ăn phát đạt và có lãi vượt bật. + Cổ phiếu ưu đãi không dự phần: là loại cổ phiếu mà cổ đông chỉ được hưởng lãi cổ phần ưu đãi, ngoài ra không được hưởng thêm bất kỳ một khoản lợi nào, ngay cả khi công ty làm ăn phát đạt vượt bậc. - Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi: Đây là loại cổ phiếu cho phép người chủ sở hữu cổ phiếu được chuyển đổi chúng thành một số lượng cổ phiếu thông thường nhất định trong một thời gian nhất định. - Cổ phiếu ưu đãi thu hồi: là loại cổ phiếu cho phép công ty phát hành ra chúng có quyền thu hồi và trả lại vốn cho cổ đông hoặc đổi sang cổ phiếu ưu đãi khác có mức tỷ suất có mức tỷ suất phù hợp với lãi suất thị trường. Với những đặc trưng của mình, cổ phiếu đã cho các công ty cổ phần những ưu thế tuyệt diệu: có khả năng huy động tập trung một khối lượng vốn khổng lồ cho sự phát 70
  40. triển kinh tế từ những số vốn lẻ tẻ trong dân. Nhờ có cổ phiếu vốn đầu tư không bị bất động mà nó di chuyển từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, từ công ty này sang công ty khác bằng cách mua bán cổ phiêud trên thị trường chứng khoán thứ cấp. 2. Trái phiếu 2.1. Khái niệm và đặc điểm của trái phiếu - Khái niệm Trái phiếu là một loại chứng khoán xác nhận một khoản vốn cho vay và quyền được hưởng mức thu nhập theo định kỳ. Người mua trái phiếu là chủ nợ của đơn vị phát hành và sẽ được hoàn lại vốn khi đến hạn. Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH 11 ngày 29/06/2006: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành”. Trái phiếu là hàng hóa được mua bán trên thị trường, vì vậy khi phát hành cũng như khi đầu tư, người phát hành và người đầu tư cần hiểu rõ các thuật ngữ sau: + Mệnh giá trái phiếu: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn. Mệnh giá trái phiếu của Việt Nam tối thiểu là 100.000 VNĐ.18 + Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu. + Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn có thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên. + Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái phiếu thường được mỗi năm hai hoặc một lần. + Giá phát hành: Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp. - Đặc điểm Khác với cổ phiếu là chứng khoán vốn thì trái phiếu là một chứng khoán nợ của chủ thể phát hành nên nó có những đặc điểm sau: + Chủ thể phát hành không chỉ có công ty, mà còn có chính phủ hoặc chính quyền địa phương; + Người mua trái phiếu là chủ nợ của chủ thể phát hành; 18 Quy định tại Điều 10 Luật Chứng khoán số 70/2006/QH 11. 71
  41. + Thu nhập của chủ sở hữu trái phiếu là cố định, không phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của chủ thể phát hành; + Khi công ty bị giải thể hoặc phá sản, người sở hữu trái phiếu được ưu tiên trả nợ trước cổ đông. 2.2. Phân loại trái phiếu Tùy theo mục đích nghiên cứu, trái phiếu có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: - Phân loại trái phiếu theo hình thức pháp lý: + Trái phiếu vô danh (Trái phiếu không ghi tên): Là loại trái phiếu không ghi tên người sở hữu trên chứng chỉ trái phiếu. Loại trái phiếu này được chuyển nhượng dễ dàng, không cần những thủ tục xác nhận của tổ chức phát hành hoặc cơ quan công chứng. Người mua có trách nhiệm chi trả cho người bán theo giá cả đã được xác định. + Trái phiếu ghi danh (Trái phiếu có ghi tên): Là loại trái phiếu ghi tên người sở hữu trên chứng chỉ trái phiếu hoặc trên sổ theo dõi mua trái phiếu. Loại trái phiếu này được phép chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán nhưng phải tuân theo những quy định pháp lý cụ thể. Nếu muốn chuyển nhượng người sở hữu phải chứng minh mình là người được phép và có quyền chuyển nhượng (xác nhận chữ ký, chứng minh thư). Qua cách phân loại này, chúng ta thấy trái phiếu vô danh được lưu thông dễ dàng hơn trái phiếu ghi danh. - Phân loại trái phiếu theo chủ thể phát hành: + Trái phiếu chính phủ: Do ngân sách chính quyền trung ương hay địa phương phát hành nhằm mục đích bù đắp các khoản chi đầu tư ngân sách Nhà nước, quản lý lạm phát hoặc tài trợ cho các dự án, công trình của Nhà nước. + Trái phiếu chính quyền địa phương: Là loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn từ một năm trở lên, do chính quyền địa phương ủy quyền cho Kho bạc hoặc pháp nhân do chính quyền địa phương lập ra, phát hành với mục đích huy động vốn để đầu tư xây dựng các công trình mang tính công cộng như: đườnhg sá, trường học, bến cảng, bệnh viên + Trái phiếu công ty: là trái phiếu do các công ty phát hành với mục đích đầu tư dài hạn cho công ty, mở rộng quy mô phát triển sản xuất kinh doanh. - Phân loại trái phiếu theo lợi tức của trái phiếu + Trái phiếu có lãi suất ổn định (Straight bonds): Là loại trái phiếu có lãi suất ổn định và được trả định kỳ, sáu tháng hoặc một năm một lần. Vốn gốc của trái phiếu bằng mệnh giá trái phiếu được trả một lần khi đáo hạn. + Trái phiếu có lãi suất thả nổi (Floating rate bonds): Là loại trái phiếu mà lãi suất của nó được điều chỉnh theo sự thay đổi của lãi suất thị trường (Lãi suất tín dụng). + Trái phiếu chiết khấu khống (Zero- Coupon bonds): Là loại trái phiếu lãi suất được trả ngay khi phát hành, được khấu trừ vào tiền mua trái phiếu. Do đó giá bán thường rất thấp so với mệnh giá và khi đáo hạn được nhận lại vốn gốc bằng mệnh giá 72