Kế toán - Kiểm toán - Chương 5: Thị trường tài chính

pdf 43 trang vanle 2630
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kế toán - Kiểm toán - Chương 5: Thị trường tài chính", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfke_toan_kiem_toan_chuong_5_thi_truong_tai_chinh.pdf

Nội dung text: Kế toán - Kiểm toán - Chương 5: Thị trường tài chính

  1. Chương 5 THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Mục tiêu của chương này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về: - Chức năng và chủ thể của thị trường tài chính. - Cấu trúc của thị trường tài chính. - Các công cụ trên thị thường tài chính. - Các công cụ trên thị trường tài chính Việt Nam. 5.1. CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH a. Chức năng của thị trường tài chính Thị trường tài chính là bộ phận quan trọng bậc nhất, chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Tài chính gián tiếp Các trung gian tài chính Người cho vay Người đi vay (Người tiết kiệm) (Người sử dụng) 1. Hộ gia đình 1. Các hãng kinh 2. Các hãng kinh Các thị trường doanh doanh tài chính 2. Chính phủ 3. Chính phủ 3. Hộ gia đình 4. Nước ngoài 4. Nước ngoài Tài chính trực tiếp Thị trường tài chính đóng vai trò nòng cốt trong quá trình luân chuyển vốn từ nhà đầu tư đến nhà sản xuất. Dòng vốn từ người cho vay - người tiết kiệm tới người vay - người chi tiêu qua hai con đường. + Tài chính trực tiếp Người đi vay, vay vốn trực tiếp từ người cho vay bằng cách bán chứng khoán (còn gọi là công cụ tài chính – financial instruments). Chứng khoán là những trái quyền (quyền được hưởng) đối với thu nhập hoặc tài sản tương lai của người vay. Chứng khoán là tài sản có đối với người mua chúng, chúng lại là những tài sản nợ (một IOU hoặc nợ) đối với người hay hãng phát hành. 46
  2. + Tài chính gián tiếp Vốn được chuyển từ người cho vay tới người cho vay thông qua trung gian tài chính. Trung gian tài chính đứng giữa cho vay - người tiết kiệm và người vay - người sử dụng và giúp chuyển vốn từ người này sang người kia. Trung gian tài chính thực hiện điều này bằng cách vay vốn của người cho vay - người tiết kiệm, sau đó cho người vay vay vốn. Ví dụ một ngân hàng có thể nhận được vốn bằng cách phát hành một tài sản nợ cho công chúng ở dưới dạng tiền gửi tiết kiệm và sau đó dùng vốn này để cho vay hoặc mua trái khoán trên thị trường tài chính. Kết quả cuối cùng là vốn được chuyển từ công chúng (người cho vay - người tiết kiệm) tới công ty (người vay - người sử dụng) với sự giúp đỡ của trung gian tài chính (ngân hàng). Thông thường thị trường tài chính phát triển hệ thống các trung gian tài chính đa dạng làm nhân tố thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn và cung cấp các công cụ tài chính đa dạng cho người đầu tư và sử dụng vốn. Trung gian tài chính chuyển vốn từ người cho vay - người tiết kiệm sang người vay - người sử dụng và họ kiếm lời bằng cách đưa ra mức lãi suất cao hơn mức lãi suất mà họ phải trả cho người gửi tiền. Như vậy, trung gian tài chính có thể làm lợi cho những người gửi tiết kiệm và nó cũng tạo ra nhiều cơ hội hơn cho người vay có được các khoản tiền để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Hay nói cách khác, không có trung gian tài chính, thị trường tài chính không thể có được lợi ích trọn vẹn. Việc dẫn vốn từ người tiết kiệm đến người đầu tư, kinh doanh thông qua thị trường tài chính giữ một vị trí vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế, vì người có khoản tiền tiết kiệm thường không phải là người sẵn sàng có cơ hội đầu tư sinh lời, việc dẫn vốn qua thị trường tài chính giúp cho họ có điều kiện sử dụng tiền tiết kiệm để đầu tư kiếm lời. Ngược lại, có nhiều người có cơ hội sản xuất kinh doanh, nhưng không đủ vốn, thông qua thị trường tài chính họ có thể vay mượn vốn để đầu tư. Thị trường tài chính còn giúp cho dân chúng vay mượn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu như mua nhà ở, ôtô, và như vậy nó cũng giúp cho người sản xuất tiêu thụ được hàng hóa. Như vậy, thị trường tài chính giúp cho việc chuyển vốn từ những người không có cơ hội đầu tư để sinh lợi tới những người có cơi hội đầu tư, qua đó, thị trường tài chính giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ thỏa mãn nhu cầu mua sắm trước khi tích lũy đủ tiền. b. Vai trò của thị trường tài chính - Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để đáp ứng nhu cầu vốn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Nếu không có thị trường tài chính thì việc huy động vốn để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng của Chính phủ và chính quyền địa phương sẽ bị hạn chế do ngân sách của chính phủ thường eo hẹp, không đủ đáp ứng nhu cầu xây dựng và chi tiêu. Thêm vào đó, sức sản xuất xã hội ngày càng phát triển và quy mô sản xuất ngày càng mở rộng nhu cầu tiền vốn của bản thân hay qua con đường vay ngân hàng truyền thống thì không thể đáp ứng được về mặt thời gian và số lưọng. Vì vậy, nếu thị trường tài chính phát triển thì thông qua đó các đơn vị sản xuất và các địa phương có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu huy động nhanh chóng khối lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu. - Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả. Việc sử dụng vốn có hiệu quả không chỉ quan trọng đối với người có tiền đầu tư mà cả đối với người vay tiền để đầu tư. Người có tiền tiết kiệm, tiền nhàn rỗi nhận thức rõ giá trị thời gian của đồng tiền mà họ đang nắm giữ. Đồng tiền sẽ không sinh lợi nếu để trong két sắt hoặc gối đầu giường, mà tiền sinh lãi từ gửi tiết kiệm hoặc mua cổ phần, Thông thường lãi thu được qua đầu tư chứng khoán cao hơn lãi trái phiếu Nhà nước hay lãi gửi tiết kiệm, do vậy người đi vay vốn trên thị trường tài chính cũng phải sử dụng vốn vay đó một cách hợp lỹ mới có thể trả lại được cho người vay và tạo thu nhập và tích lũy cho chính mình. - Hoạt động thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa , cải cách kinh tế của chính phủ. Thông qua thị trường tài chính, việc phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các 47
  3. ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong nước. Thị trường tài chính nhìn chung rất nhạy cảm đối với các hoạt động kinh tế, thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển, đồng thời là thước đo hiệu quả các hoạt động kinh tế. Giá trị cổ phiếu của các công ty là một ví dụ điển hình, thị giá cổ phiếu tỷ lệ thuận với số lợi nhuận mà công ty đạt được. Chỉ số chung của thị trường chứng khoán phản ánh mức tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó trong thời gian ngắn, trung và dài hạn. - Thị trường tài chính có chức năng và vai trò hết sức quan trọng không những đối với nền kinh tế mà cả đối với từng cá nhân. Nó cho phép vốn được chuyển từ người có tiền nhàn rỗi sang cho người có cơ hội đầu tư, có khả năng sản xuất, giúp nâng cao năng suất và hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, thị trường tài chính cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm tốt hơn. Thị trường tài chính hoạt động hữu hiệu và đa dạng sẽ cải thiện đời sống kinh tế xã hội. 5.2. CHỦ THỂ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 5.2.1. Chủ thể đi vay - Chính phủ: Chính phủ vay trên thị trường tài chính bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc để bù đắp cho sự thiếu hụt nhân sách nhà nước. - Các công ty: Việc thiếu vốn sản xuất kinh doanh là điều thường xảy ra trong hoạt động của các doanh nghiệp. Không phải lúc nào các doanh nghiệp cũng có thể giải quyết vấn đề này bắng cách vay ngân hàng. Hơn nữa, khi muốn mở rộng sản xuất, đầu tư them trang thiết bị, cơ sở vật chất, các doanh nghiệp thường cần vốn lớn với thời gian dài, các ngân hàng thương mại thường ít khi có thể đáp ứng yêu cầu như vậy. Cách phổ biến nhất là các doanh nghiệp huy động vốn bằng cách phát hánh cổ phiếu hoặc trái phiếu trên thị trường tài chính. - Các hộ gia đình: Hộ gia đình cũng vay trên thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và yêu cầu chi tiêu khác của mình. 5.2.2. Chủ thể cho vay hay đầu tư Khi một chủ thể đồng ý giao tiền hoặc tài sản để nhận lại một trái phiếu của người khác, anh ta đã biến mình thành chỉ thêt cho vay (lenders). Bởi vì mọi khoản vay đều được hoàn trả vốn và lãi, nên hoạt động cho vay đã làm cho tiền mặt, tài sản tạo thêm ra những giá trị mới. Chính quá trình tạo ra giá trị mới này đã làm cho việc vay trở thành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do vậy, người ta cũng gọi những người cho vay là các nhà đầu tư. - Các hộ gia đình: Các hộ gia đình là những người cho vay chủ yếu thông qua việc mua trái phiếu trên thị trường hoặc gửi tiền vào ngân hàng. - Các công ty bảo hiểm: Các công ty bảo hiểm nhận tiền bảo hiểm của dân chúng sau đó đem cho các ngân hàng, công ty vay, hoặc mua trái phiếu. Các khoản cho vay của công ty bảo hiểm thường là các khoản cho vay dài hạn. - Các trung gian tài chính: Các ngân hàng sinh ra là đi vay để cho vay. Mặc dù các ngân hàng chỉ là trung gian của việc vay và cho vay, không phải là chủ thể cuối cùng, nó vẫn đóng vai trò quan trọng nhất trong việc cho vốn chu chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. - Các công ty và chính phủ: Các công ty và chính phủ khi có tiền nhàn rỗi họ đều tìm cách sinh lợi dưới dạng mua trái phiếu hoặc gửi tiền vào ngân hàng. 5.3. CẤU TRÚC CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 5.3.1. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần (Căn cứ vào cách thức huy động vốn) - Thị trường nợ Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái khoán hay một món vay thế chấp. Công 48
  4. cụ vay nợ là sự thỏa thuận có tính chất hợp đồng, trong đó người đi vay thanh toán cho người nắm giữ công cụ nợ một khoản tiền lãi cố định, và hoàn trả tiền vốn vào cuối kỳ hạn. Nếu kỳ hạn thanh toán của cồn cụ nợ dưới một năm, người ta gọi đó là công cụ nợ ngắn hạn, nếu từ một năm trở lên gọi là công cụ nợ trung và dài hạn. Thị trường nợ là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên. - Thị trường vốn cổ phần Phương pháp thứ hai để thu hút vốn lad các công ty phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của công ty có quyền được chia lợi nhuận từ thu nhập ròng của công ty (sau khi trừ chi phí và thuế). Việc sở hữu cổ phiếu khác với sở hữu công cụ nợ (trái phiếu công ty) là ở chỗ người sở hữu cổ phiếu chỉ nhận được tiền lãi sau khi công ty đã thanh toán cho chủ nợ (người sỏ hữu công cụ nợ). Nhưng lợi ích của việc nắm giữ các cổ phần vốn là ở chỗ, cổ đông được hưởng lợi trực tiếp do lợi nhuận và hoặc do giá trị tài sản của cong ty tăng lên. Trong khi đó, người nắm giữ công cụ nợ lại không nhận được gì từ koanr lợi nhuận này. 5.3.2. Thị trường cấp một và thị trường cấp hai (Căn cứ vào mục đích hoạt động của thị trường) - Thị trường cấp một Thị trường cấp một là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc mua bán chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Các loại hàng hóa như cổ phiếu, trái phiếu của công ty và của chính phủ, khi mới phát hành đều được đem bán ở thị trường này. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian đó là ngân hàng. Ngân hang này thường được xem như ngân hàng đầu tư hay ngân hàng bảo hiểm cho việc phát hành thông qua việc bảo đảm giá cố định của chứng khoán trong quá trình phát triển. Ngân hàng bảo hiểm thường trực tiếp bỏ tiền để mua hết lô chứng khoán (với giá thấp hơn thông báo), sau đó bán lại ngay trên thị trường với giá cao hơn (giá công bố) để kiếm lời. - Thị trường cấp hai Thị trường cấp hai là thị trương mua bán lại những chứng khoán đã phát hành (chứng khoán cũ). Khi một cá nhân mua chứng khoán ở thị trường cấp hai thì cá nhân - người vừa bán nó, nhận được tiền bán chứng khoán, nhưng công ty – người đã phát hành chứng khoán lần đầu tiên không thu được tiền nữa. Một công ty thu được vốn chỉ khi chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường cấp một. Việc mua bán ở thị trường cấp hai thường được thực hiện thông qua các công ty môi giới. Thị trường cấp hai thực hiện hai chức năng: + Tạo điều kiện dễ dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, tức là nó làm cho những công cụ tài chính này “lỏng” them . Tính “lỏng” thêm của những công cụ tài chính khiến chúng được ưa chuộng hơn và như thế là dễ dàng hơn cho công ty phát hành bán chúng ở thị trường cấp một. + Thị trường cấp hai các định giá của chứng khoán mà công ty phát hành bán ở thị trường cấp một. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường cấp một chỉ thanh toán cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường cấp hai sẽ chấp nhận nó. Giá chứng khoán ở thị trường cấp hai càng cao, thì giá công ty phát hành sẽ nhận được do phát hành chứng khoán ở thị trường cấp một, sẽ càng cao và vì vậy, công ty phát hành nhận được tổng vốn đầu tư cao hơn. Chính vì lý do này mà khi nghiên cứu thị trường tài chính, người ta thường tập trung vào phương thức diễn biến của thị trường cấp hai hơn là thị trường cấp một. Thị trường cấp hai có thể được tổ chức theo 2 cách: + Tổ chức các sở giao dịch, ở đó người mua và người bán (hoặc đại lý môi giới của họ) gặp nhau tại vị trí trung tâm để tiến hàn buôn bán. Thị trường giao dịch chứng khoán Mỹ và New York là nơi dành cho cổ phiếu và Phòng thương mại Chicago dành cho hàng hóa (lúa mì, ngô, lạc v.v ) là những ví dụ về giao dịch tổ chức. 49
  5. + Thị trường trao tay, trong đó các nhà buôn bán tại các địa điểm khác nhau có một danh mục chứng khoán và đứng ra sẵn sang mua và bán chứng khoán theo kiểu mua bán thẳng cho bất kỳ ai đến với họ, có ý định chấp nhận giá của họ. Do những nhà buôn bán thẳng có tiếp xúc với nhau qua mạng máy tính và biết các giá mà người này đặt ra cho người kia, nên thị trường theo kiểu này có tính cạnh tranh cao và không khác nhiều so với thị trường ở trung tâm giao dịch nói trên. 5.3.3. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn (Căn cứ vào thời gian luân chuyển của vốn) - Thị trường tiền tệ Thị trường tiền tệ là một thị trường tài chính, trong đó chỉ có những công cụ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm) được mua bán. Chứng khoán của thị trường tiền tệ thường được mua bán rộng rãi hơn với chứng khoán dài hạn và như vậy có xu hướng lỏng hơn. Hay nói cách khác, hàng hóa mua bán trên thị trường tiền tệ có tính thanh khoản rất cao. Ngoài ra, chứng khoán ngắn hạn có giao động giá trị nhỏ hơn với các chứng khoán dài hạn, do vậy chúng là khoản đầu tư an toàn hơn. Là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại thường là các tác nhân tham gia mua bán chủ yếu trên thị trường này. Khi ngân hàng nhân tiền gửi của khách hàng, nó phát hành ra các loại phiếu như: sổ tiền gửi có kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi (CD) hoặc nó vay tiền bằng cách bán ra trái phiếu, tín phiếu Quá trình như vậy làm xuất hiện các hàng hóa, dễ dàng cho việc mua bán, thanh toán, chuyển dịch hoặc cất trữ để sinh lới. - Thị trường vốn Thị trường vốn là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn lại được phân thành ba bộ phận: thứ nhất là thị trường cổ phiếu, chiếm tỷ lệ rất lớn trong thị trường vốn; bộ phận lớn thứ hai của thị trường vốn là các khoản cho vay thế chấp; và nhóm thứ ba của thị trường vốn là thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty. 5.4. CÁC CÔNG CỤ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 5.4.1. Các công cụ của thị trường tiền tệ Do có kỳ hạn thanh toán ngắn, những công cụ vay nợ được mua bán trên thị trường tiền tệ chịu mức dao động giá tối thiểu và do đó nó là loại đầu tư ít rủi ro nhất. - Tín dụng kho bạc Những công cụ vay nợ ngắn hạn này của Chính phủ thường được phát hành với kỳ hạn thanh toán 3, 6 và 12 tháng. Chúng được trả lãi với mức lãi suất cố định và được hoàn trả vốn khi đến hạn thanh toán hoặc chúng được thanh toán lãi do việc bán lần đầu có giảm giá. Tức là, với giá thấp hơn so với khoản tiền đã định được thanh toán khi hết hạn. Ví dụ, bạn có thể mua một tín phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm trong tháng 5/2002 với số tiền 90 triệu đồng, tín phiếu này có thể được thanh toán 99 triệu đồng vào tháng 5/2003 Tín phiếu kho bạc là loại lỏng nhất trong tất cả các công cụ trên thị trường tiền tệ, do vậy, chúng được mua bán nhiều nhất. Chúng cúng là loại công cụ an toàn nhất trong tất cả các loại cong cụ ở thị trường tiền tệ, vì Chính phủ luôn đáp ứng được các món nợ phải trả bằng cách tăng thuế hoặc phát hành giấy bạc. Tín phiếu kho bạc chủ yếu do các ngân hàng nắm giữ, cũng có một lượng nhỏ các hộ gia đình, các công ty và các trung gian tài chính khác nắm giữ. - Giấy chứng nhận tiền gửi của ngân hàng Giấy chứng nhận tiền gửi (CD) là một công cụ vay nợ do ngân hàng thương mại bán cho người gửi. Người gửi được thanh toán lãi hàng năm theo một tỷ lệ nhất định và khi 50
  6. đến kỳ hạn thanh toán, thì hoàn trả gôc theo giá mua ban đầu. Trước 1961, CD là không thể bán lại được, tức là chúng không thể bán lại được hoặc không được hoàn trả trước kỳ hạn nếu không chịu một khoản phạt đáng kể. Năm 1966, nhằm tạo cho CD lỏng và hấp dẫn những người đầu tư hơn, Citibank đã lần đầu phát hành CD bán lại được đối với nhứng loại có mệnh giá cao (trên 100.000 USD). CD có thể được bán lại ở thị trường cấp hai. Hiện nay công cụ này được hầu hết các ngân hàng thương mại lớn phát hành và thu được những thành công to lớn, với tổng số dư gần đây vượt qua tổng số dư của tín phiếu kho bạc. Chúng là nguồn vốn đặc biệt quan trọng mà những ngân hàng thương mại thu hút được từ các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ, các tổ chức từ thiện và các cơ quan của chính phủ. - Thương phiếu Thương phiếu là công cụ vay nợ ngắn hạn do các ngân hàng lớn và các công ty nổi tiếng phát hành. Trước đây các công ty thường vay vốn ngắn hạn ở các ngân hàng thương mại, nhưng sau đó họ dựa chủ yếu vào việc bán thương phiếu cho các trung gian tài chính và các công ty khác để vay vốn tức thời; tưc là họ đã thực hiện hoạt động tài chính trực tiếp. 5.4.2. Các công cụ trên thị trường vốn - Cổ phiếu Cổ phiếu là trái quyền về vốn đối với thu nhập ròng và tài sản của một công ty; tức là nó chứng thực quyền sở hữu một phần của công ty và quyền được chia cổ tức. Cổ phiếu có thể được chia làm hai loại: Cổ phiếu thông thường là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định, lợi tức biến động tùy theo sự biến động lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu lại rất nhạy cảm trêm thị trường, không chỉ phụ thuộc vào lợi nhuận công ty mà còn phụ thuộc rất nhiếu nhân tố khác như môi trường kinh tế, thay đổi lãi suất, môi trường kinh tế, hay nói cách khác tuân theo quy luật cung cầu. Cụ thể hơn nữa, thị giá cổ phiếu thông thường phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế nói chung và biến động theo chiều nghịch với biến động lãi suất trái phiếu chính phủ, các công cụ vay nợ dài hạn lãi suất cố định và lãi suất huy động tiền gửi của ngân hàng. Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có quyền nhận được thu nhập cố định theo một tỷ lệ lãi suất nhất định, không phụ thuộc vào lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên, thị giá cổ phiếu này phụ thuộc vào sự thay đổi lãi suất trái phiếu kho bạc và tình hình tài chính của công ty. Như vậy, việc đầu tư vào cổ phiếu không chỉ đơn giản là nhận được cổ tức, mà quan trọng hơn chính là giá cổ phiếu được mua bán trên thị trường dao động mang lại lợi nhuận nhiều hơn số cổ tức thu được. Khi cổ phiếu của công ty được nhiều người mua, chứng tỏ thị trường tin tưởng vào hiện tại và khả năng phát triển của công ty trong tương lai và ngược lại. Một nhà đàu tư chứng khoán không phải chỉ giỏi trong xác định thời điểm mua bán, mà còn phải biết trung hòa rủi ro bằng cách xây dựng được danh mục chứng khoán có các mức độ rủi ro khác nhau hoặc chu kỳ giao động chênh lệch nhau. - Vay thế chấp Vay thế chấp là những món tiền cho các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh vay để đầu tư vào những công trình kiến trúc, nhà, đất đai được dùng làm vật thế chấp cho các món vay. Hình thức này chiếm một phần lớn trong các nguồn tài trợ của các công ty, thậm chí còn chiếm tỷ trọng lớn tại các nước phát triển. Chẳng hạn, ở Mỹ chiếm 22%, châu Âu 58% (theo số liệu của Ngân hàng General Bank). Ngân hang và các tổ chức tiết kiệm là người cho vay hàng đầu trong lĩnh vực này. Những tổ chức này cung cấp vốn cho thị trường vay thế chấp bằng cách bán trái khoán và dùng tiền để mua các món thế chấp. - Trái khoán công ty Trái khoán công ty là loại trái khoán dài hạn, do các công ty phát hành với lãi suất cao, giúp công ty huy động khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn. Ngoài ra, trái 51
  7. khoán công ty còn có khả năng chuyển đổi và một số loại có thể chuyển thành cổ phiếu. Do vậy, trái khoán công ty là một công cụ được lưu hành rộng rãi trên thị trường vốn. - Chứng khoán chính phủ Chứng khoán Chính phủ là các công cụ vay nợ do Chính phủ phát hành như: trái phiếu kho bạc Nhà nước, tín phiếu kho bạc Nhà nước, công trái quốc gia 5.5. ĐIỀU HÀNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành hoạt động của thị trường tài chính và được thể hiện thông qua các nội dung. - Ban hành quy định bắt buộc các công ty phải cung cấp đầy đủ thông tin cho các nhà đầu tư: thông tin về về doanh số, tài sản, tình hình kinh doanh .Như vậy các nhà đầu tư sẽ phòng tránh được các rủi ro. - Đảm bảo sự lành mạnh của các trung gian tài chính: Để đảm bảo cho các nhà đầu tư, Chính phủ phải ban hành các quy định bắt buộc các tổ chức tài chính trung gian phải tuân theo như: Đưa ra các điều kiện cho thành lập các trung gian tài chính Yêu cầu các trung gian tài chính phải báo cáo chính xác các thông tin liên quan Qui định về bảo hiểm tiền gửi để phòng tránh rủi ro. Thường xuyên giám sát, kiểm tra hoạt động của các trung gian tài chính. 5.6. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM 5.6.1. Các công cụ trên thị trường tài chính Việt Nam - Trái phiếu kho bạc - Kỳ phiếu ngân hàng -Tiền gửi ngân hàng - Các công cụ tài chính khác 5.6.2. Điều kiện để phát triển thị trường tài chính Việt Nam - Phải xây dựng được cơ chế lãi suất linh hoạt và tuân theo quy luật của kinh tế thị trường và có sự quản lý của nhà nước. - Phải có các công cụ tài chính phong phú - Xây dựng và đa dạng hóa các tổ chức tài chính trung gian. - Phát triển mạng lưới thông tin - Hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ. Câu hỏi ôn tập 1. Chức năng của thị trường tài chính? 2. Thị trường tài chính được cấu thành bởi những thị trường nào và nội dung hoạt động? 3. Thị trường tài chính, thực trạng và những giải pháp phát triển thị trường tài chính Việt Nam? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Anh Tuấn, Bài giảng Lý thuyết Tài chính – tiền tệ, ĐH Ngoại Thương 2005 2. GS.TS Trương Mộc Lâm, Tài chính học, Trường ĐH Tài chính Hà Nội 1993 3. The Economics of Money, banhking and financial markets 7th Ed, Frederic S. Mishkin, Pearson Education, Inc.,2004 52
  8. Chương 6 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT Mục tiêu của chương này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về: - Một số lãi suất cơ bản và phương pháp đo lường. - Cấu trúc kỳ hạn và cấu trúc rủi ro của lãi suất. - Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. 6.1. CÁC LÃI SUẤT CƠ BẢN VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG 6.1.1. Khái niệm, đặc điểm của lãi suất - Khái niệm: Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời gian. - Đặc điểm: + Là loại giá cả đặc biệt được hình thành trên cơ sở giá trị sử dụng chứ không phải trên cơ sở giá trị. + Khác với giá cả hàng hóa, lãi suất không được thể hiện dưới dạng số tuyệt đối mà thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm. + Lãi suất được xem là tỷ lệ sinh lời mà người chủ sở hữu thu được từ khoản vốn cho vay. + Sự thay đổi của lãi suất trong nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế. 6.1.2. Phương pháp đo lường của lãi suất + Tính lãi đơn: Người vay tiền sẽ trả một lần cho người cho vay vào ngày đến hạn trả nợ cả vốn và một khoản tiền phụ thêm chính là tiền lãi. Việc tính lãi suất loại này chỉ đơn giản là lấy số tiền lãi chia cho tổng số vốn vay theo thời gian của khoản tín dụng đó. Với cách tính này, số lãi hàng tháng mà người gửi tiền nhận được là như nhau: FVn = PVx(1+ni) Trong đó: FVn: Số tiền người gửi nhận được sau thời gian n tháng PV: Số tiền gửi ban đầu i: lãi suất n: thời gian Thông thường, cách tính lãi này chỉ áp dụng cho các khoản vay mượn mang tính chất truyền thống: vay mượn các nhân, vay thương mại, gửi tiết kiệm và thường là ngắn hạn do cách tính lãi đơn giản, dễ hiểu. + Tính lãi kép: Là số tiền lãi hàng tháng mà người cho vay được hưởng trên phần vốn gốc ban đầu (không thay đổi giữa các tháng) và lãi tính trên phần lãi đã trả trước đó tăng dần qua các tháng (lãi mẹ đẻ lãi con). FVn = PVx(1+i)n Trong đó: FVn: Số tiền người gửi nhận được sau thời gian n tháng PV: Số tiền gửi ban đầu i: lãi suất n: thời gian 53
  9. 6.2. MỘT SỐ PHÂN BIỆT VỀ LÃI SUẤT 6.2.1. Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa - Lãi suất danh nghĩa : là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm xem xét. Lãi suất danh nghĩa thường được dùng trong các hợp đồng tín dụng, ghi trên công cụ nợ, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Lãi suất thực : Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát Trên thực tế, những khoản thu nhập bằng tiền hay thu nhập danh nghĩa thường không phản ánh đúng giá trị thực của chính khoản thu nhập đó. Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa. Vì vậy, lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên. Thông thường, trong những điều kiện tỷ lệ lạm phát (ii) không lớn hơn 10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có liên hệ với nhau qua công thức đơn giản: ir = in - ii Trong đó, ir, in và ii lần lượt là lãi suất thực, lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10%, ví dụ là 35%; lãi suất danh nghĩa, ví dụ là 144% thì lãi suất thực không thể tính như trên (144 – 35 = 111%) mà phải tính theo công thức6: in - ii ir = ii +1 Hay ir = (144 – 35)/(35+100) Trong ví dụ này, lãi suất thực xấp xỉ bằng 80,7% và điều này cũng phản ánh đúng một xu hướng thực tế: tỷ lệ lạm phát càng cao, lãi suất thực càng thấp. 6.2.2. Lãi suất và tỷ suất lợi tức Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn cho vay. Trong khi đó, tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm của số thu nhập của người có vốn trên tổng số vốn anh ta đã đưa vào sử dụng (đầu tư hay cho vay). Lấy một ví dụ như sau: một trái phiếu kho bạc có thời hạn 1 năm, mệnh giá là 1.000.000 VND và lãi suất cố định là 6%/năm. Nếu ông A mua trái phiếu đó giữ cho đến ngày đáo hạn, ông ta sẽ nhận được khoản thu bằng 6% mệnh giá trái phiếu và đúng bằng lãi suất của trái phiếu. Nhưng nếu lãi suất trên thị trường là 5%, ông A đem bán trái phiếu này thu được 1.200.000 VND, thì khoản thu nhập của ông A là 200.000 VND và tỷ suất lợi tức lúc này là 20%. Như vậy, lãi suất không nhất thiết phải bằng với tỷ suất lợi tức. Đối với một số tổ chức tín dụng như là tín dụng vi mô, ngoài một tỷ lệ lãi nhất định các tổ chức này còn đòi hỏi người vay tiền phải trả thêm các khaonr phí (fee anh commision), và do đó, tổng thu nhập từ những khoản cho vay sẽ không phải chỉ có tiền lãi mà là chi phí tài chính đối với người vay tiền. Tỷ lệ phần trăm của chi phí tài chính nói trên trên số dư nợ là tỷ suất lợi tức hay lãi suất hiệu quả (effective interest rates) của tổ chức tín dụng. 6.2.3. Lãi suất cơ bản của ngân hàng - Lãi suất tiền gửi: Là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi tiền trên số tiền ở tài khoản gửi tiết kiệm. Tuy vậy, ở một số nước đang phát triển khác, tiền gửi không thời hạn để phát hành séc cũng có thể được trả lãi suất tiền gửi nhằm mục đích khuyến khích cho việc thanh toán không dùng tiền mặt. Lãi suất tiền gửi được xác định qua công thức: 54
  10. itg = icb + ii Trong đó itg, icb, lần lượt là lãi suất tiền gửi và tỷ lệ lãi cơ bản ngân hàng trả cho từng loại tiền gửi khác nhau, ii tỷ lệ lạm phát. - Lãi suất cho vay (lãi suất tín dụng ngân hàng): Là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng khi đi vay từ ngân hàng. Tuy vậy, lãi suất cho vay thường được xác định dựa trên cơ sở lãi suất tiền gửi: icv = itg + X Trong đó icv là lãi suất cho vay, X là chi phí nghiệp vụ ngân hàng, bao gồm tất cả các khoản chi phí hoạt động, phát triển vốn và dự phòng rủi ro, Đối với các nước phát triển tài chính tự do hóa, X được xác định bởi thị trường, còn đối với các nước như Việt Nam, X được quy định bởi Ngân hàng Nhà nước. - Lãi suất tái chiết khấu: Áp dụng khi ngân hàng TW cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến thời hạn thanh toán của ngân hàng này. Lãi suất chiết khấu được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng TW cấp tiền vay cho ngân hàng. Lãi suất chiết khấu do ngân hàng TW ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. - Lãi suất liên ngân hàng: Là các lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. - Lãi suất cơ bản: Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của ngân hàng. 6.3. CẤU TRÚC KỲ HẠN VÀ CẤU TRÚC RỦI RO CỦA LÃI SUẤT 6.3.1. Cấu trúc rủi ro của lãi suất Có rất nhiều các trường phái và lý thuyết khác nhau nghiên cứu về cấu trúc rủi ro của lãi suất hay là mối quan hệ giữa lãi suất và mức độ rủi ro của một món vay hay một dự án đầu tư. Lý thuyết về cấu trúc rủi ro của lãi suất cũng được phát triển dựa vào các thị trường với các đặc điểm khác nhau. Đi sâu vào tìm hiểu và phân tích các luận điểm của tất cả các trường phái này sẽ được trình bày trong một chương trình khác. Ở đây, chúng ta chỉ thảo luận một vấn đề đã được coi là sự thống nhất chung của tất cả các trường phái, đó là: mức độ rủi ro của món vay càng cao, lãi suất của món vay đó càng cao. 6.3.2. Cấu trúc thời hạn của lãi suất Tương tự như khi chúng ta nghiên cứu về cấu trúc rủi ro, cấu trúc thời hạn cũng được trình bày khác nhau phụ thuộc vào việc phân tích các dạng thức cho vay khác nhau tạo ra các đường cong lãi suất khác nhau. Hơn nữa, cấu trúc về thời hạn của lãi suất còn phụ thuộc vào các lý thuyết7: lý thuyết về dự đoán về cấu trúc thời hạn, lý thuyết về tiền thưởng rủi ro và lý thuyết về phân loại thị trường. Tuy vậy, có thể thấy rõ ràng từ những kết quả phân tích mang tính quy luật và những bằng chứng thực nghiệm rằng một món vay có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Thời hạn cho vay dài hơn về cơ bản cũng nói lên rằng khả năng khoản vay đó gặp phải rủi ro là lớn hơn, do vậy mà, ít nhất, phần bù rủi ro làm cho lãi suất tăng lên. Tất nhiên, cũng có thể có những trường hợp ngoại lệ đó là khi nhà nước mong muốn khuyến khích đầu tư dài hạn vào một lĩnh vực ưu tiên nào đó thì lãi suất áp dụng đối với vốn đầu tư vào lĩnh vực đó (đặc biệt là bằng vốn ngân sách nhà nước) thậm chí còn được quy định thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn trong cùng thời kỳ. 55
  11. 6.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI LÃI SUẤT 6.4.1. Ảnh hưởng của cung cầu của quỹ cho vay Như đã thảo luận ở phần đầu chương, lãi suất là giá cả của cho vay, vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất trên thị trường, tuy mức độ biến động của lãi suất cũng ít nhiều phụ thuộc vào các quy định của chính phủ và ngân hàng Trung ương, song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất. Từ điều này cho thấy, chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ: chẳng hạn như thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, tập trung vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm. Mặt khác, muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc. 6.4.2. Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Điều này có thể được giải thích bằng cả hai hướng tiếp cận. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng, đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Thứ hai, công chúng dự đoán lạm phát tăng, sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hóa hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác (non –financial assets) như vàng, ngoại tệ mạnh, hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có thể. Tất cả các điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các nhà băng cũng như trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trưởng nền kinh tế. 6.4.3. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách Một cách đơn giản nhất, bội chi ngân sách trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu của quỹ cho vay tăng làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy mà sẽ gây áp lực tăng lãi suất. Trên một giác độ khác, thông thường khi bội chi ngân sách tăng, chính phủ thường gia tăng việc phát hành trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm lãi suất thị trường vì vậy mà tăng lên. Hơn nữa, tài sản có của các ngân hàng thương mại cũng gia tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt quá giảm, lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng. 6.4.4. Những thay đổi về thuế Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất giống như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Nếu các hình thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Thông thường, ai cũng sẽ quan tâm đến thu nhập, thực tế hay lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do vậy, để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. Điều quan trọng được rút ra từ mối quan hệ này là việc xác lập và điều chỉnh đối với chính sách thuế, nhằm hạn chế những tác động ngoài ý muốn của mỗi thay đổi nói trên của thuế. 6.4.5. Những thay đổi trong đời sống xã hội Ngoài những yếu tố được trình bày trên đây, sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác. Sự phát triển của thị trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng phong phú là một ví dụ. Các công cụ này khác nhau không chỉ ở thời gian phương pháp tính và trả lãi, khả năng tiêu thụ Lê Văn Tề, Tiền tệ và ngân hàng, NXB Thống kê năm 2003mà cả về độ co giãn của giá cả theo lượng cầu của 56
  12. chúng. Chính vì vậy mà những thay đổi trong cơ cấu chứng khoán; sự xuất hiện các chứng khoán mới, cũng như sự phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu của thị trường sơ cấp cũng sẽ tác động làm thay đổi lãi suất trên thị trường thứ cấp. Mức độ phát triển của các thể chế tài chính trung gian và gắn liền theo đó là sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ của các tổ chức này là một ví dụ khác. Hiệu suất sử dụng vốn hay tỷ suất đầu tư cận biên trong nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ và sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế cũng tác động đến sự thay đổi lãi suất. Thêm nữa, tình hình kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới; các luồng vốn đầu tư ra, vào đối với các nước , đều ít nhiều tác động đến sự thay đổi của lãi suất của các nước khác. Tất cả các vấn đề này gợi ý cho tất cả những người nghiên cứu, soạn thảo và điều hành chính sách lãi suất phải có những sự nhìn nhận và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra bất kỳ một kết luận hoặc quyết định nào liên quan đến lãi suất. 6.5. LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM Ở mỗi thời điểm khác nhau cần có sự điều chỉnh linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với thị trường và mục tiêu phát triển của nền kinh tế. (Tự tìm hiểu). Câu hỏi ôn tập 1. Cấu trúc kỳ hạn và cấu trúc rủi ro của lãi suất? Ý nghĩa thực tiễn 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất? 3.Thực trạng việc quản lý và điều hành lãi suất ở Việt Nam? Những biện pháp áp dụng? 4. Lãi suất và vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội năm 2007 2. Lê Văn Tề, Tiền tệ và ngân hàng, NXB Thống kê năm 2003 3. www.vneconomy.com.vn 4. www.sbv.gov.vn 5. www.mof.gov.vn 57
  13. Chương 7 NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Mục tiêu của chương này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về: - Bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại. - Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. - Những nguyên lý chung trong việc quản lý tài sản và nguồn vốn của ngân hàng thương mại. 7.1. BẢNG CÂN ĐỐI TÀI SẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM) Bảng cân đối tài sản của NHTM là bảng kê các tài sản và nguồn vốn của nó. Bảng cân đối tài sản chỉ liệt kê các số dư tại một thời điểm nhất định, nó có đặc trưng: Tài sản = Nợ + Vốn của ngân hàng Bảng cân đối tài sản của NHTM liệt kê các nguồn vốn của ngân hàng (tài sản nợ) và tài sản (tài sản có). Thu nhập từ các hoạt động cho vay và đầu tư sau khi bù đắp các chi phí huy động vốn, chi phí quản lý là lợi nhuận của NHTM. 7.1.1. Nguồn vốn - Tiền gửi giao dịch (tiền gửi có thể phát hành séc) Đây là những khoản tiền gửi mà người gửi tiền gửi ở NHTM để sử dụng thanh toán, chi trả. Các khoản tiền gửi có thể phát séc gồm: tài khoản séc không có lãi (tiền gửi không kỳ hạn), các tài khoản NOW1 có lãi (NOW – Negotiable Order of Withdrawal - lệnh thu hồi vốn). Tiền gửi có thể phát séc là tiền gửi có thể được thanh toán theo yêu cầu: tức là, nếu người gửi tiền tới NHTM gửi và đề nghị thanh toán bằng cách viết ra một giấy rút tiền, NHTM sẽ phải thanh toán cho người đó ngay lập tức. Tương tự nếu một người nhận được một tấm séc thanh toán và mang tờ séc đó chuyển vào NHTM, thì NHTM phải chuyển lập tức số tiền ấy vào tài khoản của họ. Tiền gửi có thể phát séc là một tài sản có đối với người gửi nhưng lại là một khoản nợ của NHTM vì người gửi tiền có thể rút tiền khỏi tài khoản của họ bất kỳ lúc nào và NHTM phải có nghĩa vụ thanh toán cho họ. Loại tiền gửi có thể phát hành séc thường là nguồn vốn có chi phí thấp nhất bởi vì khách hàng gửi tiền vào NHTM với mục đích chủ yếu là giao dịch thanh toán chứ không phải là mục đích sinh lời. Những chi phí của ngân hàng cho việc duy trì tiền gửi có thể phát séc bao gồm: tiền trả lãi cho người gửi, những chi phí quản lý tài khoản (xử lý và lưu giữ những séc thanh toán, soạn và gửi những thông báo tình hình cho khách hàng; quảng cáo/marketing tới khách hàng để họ gửi vốn vào ngân hàng. - Tiền gửi phi giao dịch Tiền gửi phi giao dịch là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, người gửi được hưởng tiền lãi nhưng lại không được quyền phát séc thanh toán từ tài khoản này. Mức lãi suất của các khoản tiền gửi này thường cao hơn tài khoản tiền gửi phát hành séc. Tiền gửi phi giao dịch gồm hai loại chính: tài khoản tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn hay còn gọi là giấy chứng nhận tiền gửi (Certificate of Deposits – CD). Nói chung, tiền gửi phi giao dịch không được rút khi chưa đến hạn. Tuy nhiên, do sự cạnh tranh thu hút tiền gửi, các NHTM cho phép những người gửi rút tiền khi có nhu cầu nhưng chỉ được hưởng lãi suất tính như tiền gửi giao dịch. 58
  14. Các chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn (CD) chủ yếu do các công ty hoặc các NHTM khác mua. CD giống như một trái khoán, chúng có thể được bán lại ở một thị trường cấp hai trước khi mãn hạn. Do vậy, các công ty, các quỹ tương trợ thị trường tiền tệ và các tổ chức tài chính khác nắm giữ CD như là tài sản thay thế cho các tín phiếu kho bạc và những trái khoán ngắn hạn khác. - Vốn vay Các NHTM huy động vốn bằng cách vay từ Ngân hàng Trung ương, NHTƯ (Ngân hàng Nhà nước), từ các NHTM khác và từ các công ty. Trường hợp vay từ NHTƯ thì được gọi là tiền vay chiết khấu, hay còn gọi là “tiền ứng trước”. NHTM có thể vay từ các nguồn khác như: từ những công ty mẹ của các ngân hàng (những công ty nắm giữ ngân hàng), từ các doanh nghiệp (ví dụ như những hợp đồng mua lại). - Vốn của ngân hàng Vốn của ngân hàng hay còn gọi là vốn tự có, là của cải thực của ngân hàng, nó bằng hiệu số giữa tổng tài sản của vốn nợ. Vốn này được tạo ra bằng cách bán cổ phần (cổ phiếu) hoặc từ các khoản lợi nhuận được giữ lại. 7.1.2. Tài sản - Tiền dự trữ Tất cả các NHTM đều phải giữ lại một phần trong số vốn mà họ huy động được để gửi vào NHTƯ. Tiền dự trữ bao gồm tiền dự trữ bắt buộc theo luật định mà NHTM dự trữ để thanh toán (tiền trong két). Tiền dự trữ bắt buộc: Theo luật định, NHTƯ đòi hỏi cứ mỗi một đồng vốn huy động, NHTM phải gửi vào NHTƯ một tỷ lệ nào đó (ví dụ 10%) làm tiền dự trữ. Tỷ lệ này (10% trong ví dụ trên) được gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Các khoản tiền dự trữ thanh toán, được gọi là tiền dự trữ vượt quá, được giữ vì chúng là lỏng nhất trong số mọi tài sản có mà ngân hàng có thể sử dụng để thanh toán khi có tiền gửi rút ra. - Tiền mặt trong quá trình thu Đó là khoản tiền mà NHTM nhận được dưới dạng séc và các chứng từ thanh toán khác nhưng số tiền còn chưa chuyển đến ngân hàng. Trong trường hợp đó tờ séc này được coi như là tiền mặt trong quá trình thu, nó là một tài sản đối với NHTM nhận nó, NHTM có quyền đòi ở ngân hàng kia và số tiền này sẽ được thanh toán sau một ít ngày. - Tiền gửi ở các ngân hàng khác Nhiều NHTM gửi tiền ở các NHTM khác để thực hiện các dịch vụ khác nhau như: thanh toán, giao dịch ngoại tệ và giúp mua chứng khoán. Đây là một phần của hệ thống được gọi là “hoạt động ngân hàng vãng lai”. Nói chung, tiền dự trữ, tiền mặt trong quá trình thu tiền và gửi trong các ngân hàng khác được coi như những khoản tiền mặt. - Chứng khoán Các chứng khoán của NHTM là các tài sản mang lại thu nhập quan trọng cho ngân hàng. Các chứng khoán này có thể được chia làm 3 loại: (1) chứng khoán của chính phủ và các cơ quan của chính phủ; (2) chứng khoán của chính quyền địa phương; và (3) các chứng khoán khác. Các chứng khoán của chính phủ và của các cơ quan chính phủ là loại lỏng nhất vì chúng có thể mua bán hoặc trao đổi sang tiền mặt một cách dễ dàng với chi phí giao dịch thấp. Do tính lỏng cao nên chứng khoán của chính phủ (loại ngắn hạn) được gọi là tiền dự trữ hạng 2. - Tiền cho vay Các NHTM thu lợi nhuận chủ yếu bằng cách cho vay. Tiền vay là khoản nợ đối với người vay, nhưng là một tài sản đối với NHTM và nó mang lại thu nhập cho ngân hàng. Nói chung, tiền cho vay là kém lỏng so với các tài sản khác bởi vì chúng không thể 59
  15. chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đó mãn hạn. Các khoản tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn so với những tài sản khác. Do thiếu tính lỏng và có rủi ro vỡ nợ cao nên NHTM thường thu được nhiều lợi nhuận nhờ vào các món cho vay. Khoản tiền cho vay lớn nhất đối với các NHTM là các món tiền cho vay thương mại và công nghiệp giành cho các doanh nghiệp và các món cho vay mua bất động sản. Các NHTM cũng thực hiện các món cho vay giữa các NHTM với nhau nhưng thường là những món tiền cho vay ngắn hạn được thực hiện thông qua thị trường liên ngân hàng. Sự khác nhau chủ yếu trong bảng cân đối tài sản của các tổ chức nhận tiền gửi trước hết là ở việc chuyên môn hóa các loại cho vay. Ví dụ, các ngân hàng tiết kiệm và cho vay và các ngân hàng tiết kiệm tương trợ chuyên cho vay thế chấp nhà ở, trong khi đó các liên hiệp tín dụng có xu thế chuyên cho vay tiêu dùng. - Những tài sản khác Bao gồm trụ sở, hệ thống máy tính và những trang thiết bị khác do các ngân hàng sở hữu. 7.2. HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NHTM 7.2.1. Thay đổi tiền dự trữ Nói chung, các ngân hàng thu lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền thu được để mua những tài sản có một số đặc tính khác. Như thế, các ngân hàng cung cấp một số dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công chúng. Quá trình chuyển các tài sản và cung cấp một loại dịch vụ (thanh toán séc, ghi chép sổ sách, phân tích tín dụng ) cũng giống như bất cứ quá trình sản xuất nào khác trong một hãng kinh doanh. Nếu một ngân hàng tạo ra những dịch vụ hữu ích với chi phí thấp và có được doanh thu cao nhờ vào tài sản của mình, thì ngân hàng đó thu được lợi nhuận. Hoạt động cơ bản của NHTM được nghiên cứu thông qua ví dụ sau: có một khách hàng mở một tài khoản séc tại NHTM A với số tiền 100 triệu đồng. Như vậy, khách hàng này có một khoản tiền gửi có thể phát séc 100 triệu đồng ở NHTM này và trong két của NHTM có 100 triệu đồng tiền mặt, do đó tài sản của ngân hàng này tăng lên do tiền mặt trong két tăng thêm 100 triệu đồng. Tài khoản T của NHTM A sẽ như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền mặt trong két +100 Tiền gửi có thể phát séc + 100 Do tiền mặt trong két cũng là một phần trong các khoản tiền dự trữ của ngân hàng, chúng ta có thể viết lại tài khoản T này như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn gốc Tiền dự trữ + 100 Tiền gửi có thể phát séc + 100 Như vậy, việc mở một tài khoản séc của khách hàng để làm tiền dự trữ của NHTM tăng lên đúng bằng với số tiền gửi đó. Nếu khách hàng mở tài khoản từ tờ séc được phát ra từ một tài khoản ở một NHTM khác ví dụ NHTM B, lúc đó tài khoản T của NHTM A như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền mặt trong quá trình thu +100 Tiền gửi có thể phát séc + 100 Tiền gửi có thể phát séc tăng thêm 100 triệu đồng như trước, nhưng nay NHTM A bị NHTM B nợ 100 triệu đồng. Hay nói cách khác, NHTM A có “tiền mặt phải thu” là 100 60
  16. triệu đồng. Về nguyên tắc, NHTM A có thể tới thẳng NHTM B yêu cầu thanh toán món tiền này, nhưng nếu 2 ngân hàng đó ở 2 nơi cách biệt, thì việc làm như vậy sẽ tốn thời gian và chi phí. Do vậy, NHTM A gửi tờ séc đó vào tài khoản của mình ở NHTƯ và NHTƯ sẽ thu tiền từ NHTM B. Kết quả là NHTƯ chuyển 100 triệu đồng dự trữ từ NHTM B tới NHTM A và cuối cùng bảng cân đối tài sản của 2 NHTM A và B như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ + 100 Tiền gửi có thể phát séc + 100 NHTM B (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ -100 Tiền gửi có thể phát séc - 100 Như vậy, khi một séc được phát ra theo một tài khoản ở một NHTM này được gửi vào một NHTM khác thì NHTM đó sẽ tăng được tiền dự trữ bằng đúng số tiền giảm đi của NHTM kia. Khi một NHTM nhận thêm tiền gửi, thì tiền dự trữ tăng thêm đúng bằng số tiền gửi đó; khi tiền gửi rút ra, nó bị mất một số lượng tiền dự trữ đúng bằng với số tiền gửi rút ra. 7.2.2. Tạo lợi nhuận từ việc cho vay Phần trên đã trình bày, các NHTM tăng thêm hay mất bớt tiền dự trữ như thế nào. Phần này nghiên cứu xem một NHTM sẽ bố trí lại bảng cân đối tài sản của nó như thế nào để tạo ra lợi nhuận khi ngân hàng trải qua thay đổi về số tiền gửi của nó. Ta hãy trở lại với tình huống NHTM A vừa nhận được thêm số tiền gửi có thể phát séc 100 triệu đồng. Theo luật định, ngân hàng này phải gửi dự trữ bắt buộc một tỷ lệ nhất định trên tiền gửi có thể phát séc. Nếu tỷ lệ đó (tỷ lệ dự trữ bắt buộc) là 10%, thì tiền dự trữ bắt buộc của NHTM A đã tăng thêm 10 triệu đồng và ta có thể viết lại tài khoản T của nó như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ bắt buộc + 10 Tiền gửi có thể phát séc + 100 Tiền dự trữ quá mức + 90 Do các khoản tiền dự trữ không đem lại tiền lãi, NHTM A không có thu nhập gì từ 100 triệu đồng tài sản có này. Trong khi đó nó vẫn phải chi phí cho việc nắm giữ số tiền 100 triệu đồng. Nếu muốn tạo lợi nhuận, ngân hàng này phải sử dụng toàn bộ hoặc một phần số 90 triệu đồng dự trữ quá mức này để cho vay hoặc đầu tư. Lúc này, tài khoản T của NHTM A có dạng: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Dự trữ bắt buộc + 10 Tiền gửi có thể phát séc + 100 Tiền cho vay + 90 Như vậy, NHTM A bây giờ thu được một khoản tiền lãi từ việc cho vay do sử dụng những món tiền gửi ngắn hạn (tiền gửi có thể phát hành séc) để “mua” tài sản có hạn (cho vay). Quá trình chuyển đổi tài sản này thường được mô tả bằng cách nói rằng các ngân hàng kinh doanh theo kiểu “vay ngắn hạn và cho vay dài hạn”. 61
  17. 7.3. NHỮNG NGUYÊN LÝ CHUNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ TÀI SẢN VÀ NGUỒN VỐN CỦA NHTM Khi quản lý NHTM thường có 3 điều quan tâm hàng đầu: - Đảm bảo chắc chắn ngân hàng có đủ tiền mặt để thanh toán cho những người gửi tiền khi họ rút tiền (dòng tiền rút ra). Để giữ đủ tiền trong tay, ngân hàng phải thực hiện việc quản lý trạng thái lỏng, tức là phải có được những tài sản đủ lỏng để thực hiện trách nhiệm của ngân hàng đối với người gửi tiền. - Giảm tối thiểu rủi ro vỡ nợ bằng cách đa dạng hóa việc nắm giữ tài sản (quản lý tài sản). - Giảm chi phí thấp nhất (quản lý nguồn vốn). 7.3.1. Vai trò của tiền dự trữ và việc quản lý dòng tiền rút ra - Hạn chế chi phí khi có dòng tiền rút ra Các NHTM thường phải dự trữ tiền để đối phó với dòng tiền rút ra khi người gửi tiền rút tiền mặt từ những tài khoản séc, tài khoản tiết kiệm hoặc phát hành séc tới gửi ở các NHTM khác: Giả sử bảng cân đối tài sản của NHTM A như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 20 Tiền gửi 100 Tiền cho vay 80 Vốn ngân hàng 10 Chứng khoán 10 Giả sử ngân rằng ngân hàng này có tiền dự trữ quá mức dồi dào và các loại tiền gửi có cùng một tỷ lệ dự trữ bắt buộc như nhau là 10% (ngân hàng buộc phải giữ 10% số tiền gửi có thể phát séc và số tiền gửi có kỳ hạn làm tiền dự trữ). Như vậy, các khoản tiền dự trữ bắt buộc của nó là 10% của 100 triệu đồng. Trong khi ngân hàng này lại giữ 20 triệu đồng tiền dự trữ, như vậy nó có tiền dự trữ quá mức là 10 triệu đồng. Nếu có khách hàng rút 10 triệu đồng, bảng cân đối của NHTM A lúc đó trở thành: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 10 Tiền gửi 90 Tiền cho vay 80 Vốn ngân hàng 10 Chứng khoán 10 Ngân hàng vẫn sử dụng 10 triệu đồng tiền gửi vào dự trữ, nhưng do tiền dự trữ bắt buộc của nó nay là 10% của 90 triệu đồng (9 triệu đồng). Do vậy, tiền dự trữ của nó vẫn vượt quá số tiền dự trữ bắt buộc là 1 triệu đồng. Tóm lại, nếu một ngân hàng có những khoản tiền dự trữ dồi dào, thì khi có một dòng tiền rút ra không cần phải có những thay đổi ở phần khác trong bảng cân đối tài sản của nó. Chúng ta giả sử rằng việc thay vì nắm giữ lúc đầu 10 triệu đồng tiền dự trữ quá mức, NHTM A lại sử dụng hết số tiền này để cho vay, do đó nó không giữ khoản tiền dự trữ quá mức nào. Bảng cân đối tài sản ban đầu của ngân hàng sẽ là: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 10 Tiền gửi 100 Tiền cho vay 90 Vốn ngân hàng 10 Chứng khoán 10 62
  18. Khi có khách hàng rút 10 triệu đồng, bảng cân đối tài sản của nó sẽ là: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 0 Tiền vốn 90 Tiền cho vay 90 Vốn ngân hàng 10 Chứng khoán 10 Sau khi 10 triệu đồng đã được rút ra từ tài khoản tiền gửi, NHTM A đã sử dụng hết số tiền dự trữ để chi trả. Trong khi đó theo luật định, nó phải dự trữ số tiền là 10% của 90 triệu đồng (tức là 9 triệu đồng). Để có tiền dự trữ, NHTM A có thể thực hiện một số hoạt động như sau: Thứ nhất: NHTM A có thể sử dụng 9 triệu đồng từ tiền cho vay của mình để gửi vào dự trữ bắt buộc tại NHTƯ và Bảng cân đối tài sản của nó sẽ thay đổi như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 9 Tiền gửi 90 Tiền cho vay 81 Vốn ngân hàng 10 Chứng khoán 10 Tuy nhiên, việc sử dụng tiền cho vay để bù đắp vào khoản tiền dự trữ có thể sẽ rất tốn kém. Nếu NHTM A có nhiều khoản tiền cho vay ngắn hạn thì nó có thể giảm tổng số dư tiền cho vay một cách khá nhanh bằng cách thu nợ. Nhưng làm cách làm như vậy cũng không dễ dàng nếu vào thời điểm đó không có khoản cho vay đến hạn nào, hoặc nếu có khoản cho vay đến hạn trả nhưng khách hàng lại muốn gia hạn vay tiếp, ngân hàng không gia hạn cho họ dễ có thể làm cho những khách hàng phản kháng và họ có thể tiến hành giao dịch ở ngân hàng khác. Thứ hai: NHTM A có thể bán các khoản nợ này cho các ngân hàng khác. Lần này cũng vậy, ngân hàng có thể phải trả giá đắt vì các ngân hàng khác không biết rõ về người vay và như vậy có thể họ không sẵn lòng mua các món cho vay đó theo đúng giá trị của chúng. Thứ ba: Một phương án chọn lựa khác là NHTM A bán một số chứng khoán của nó để bù lại tiền dự trữ, khi đó Bảng cân đối tài sản của nó sẽ thay đổi như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 9 Tiền gửi 90 Tiền cho vay 90 Vốn ngân hàng 10 Chứng khoán 1 Trong phương án này, tuy không có những khách hàng vay bị mất lòng hoặc tổn thất do việc bán các khoản tiền cho vay, ngân hàng này vẫn phải chịu một số chi phí môi giới và giao dịch khi nó bán các chứng khoán nói trên. Số chi phí bán các chứng khoán này cũng có thể ít hơn nhiều so với chi phí khi thu về từ khoản cho vay 9 triệu đồng. Thứ tư: NHTM A có thể sử dụng là tiền vay từ NHTƯ để gửi vào dự trữ bắt buộc. Khi đó, Bảng cân đối tài sản của nó sẽ là: 63
  19. NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 9 Tiền gửi 90 Tiền cho vay 90 Tiền vay NHTƯ 9 Chứng khoán 10 Vốn ngân hàng 10 Theo cách này, NHTM A phải trả lãi suất cho NHTƯ được gọi là lãi suất chiết khấu (discount rate). Mặt khác, NHTƯ thường không khuyến khích các NHTM vay quá nhiều từ NHTƯ. Nếu NHTM A vay chiết khấu quá nhiều, NHTƯ có thể từ chối không cho ngân hàng đó vay thêm. Hay nói cách khác, NHTƯ có thể khép cửa sổ chiết khấu đối với NHTM A. Thứ năm: NHTM A có thể có được các khoản tiền dự trữ để thỏa mãn dòng tiền rút ra bằng cách vay từ các NHTM khác hoặc từ các công ty. Khi đó, bảng cân đối tài sản của NHTM A sẽ là: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 9 Tiền gửi 90 Tiền cho vay 90 Tiền vay NHTM khác và các 9 công ty Chứng khoán 10 Vốn ngân hàng 10 NHTM A cũng phải trả lãi cho các món vay này. Như vậy, khi một dòng tiền rút ra, việc nắm giữ những khoản tiền dự trữ quá mức cho phép NHTM hạn chế được các chi phí do phải: (1) thu về hoặc bán các khoản tiền cho vay; (2) bán các chứng khoán; (3) vay từ NHTƯ hoặc (4) vay từ các NHTM khác và từ các công ty. Như vậy, các khoản tiền dự trữ quá mức là sự bảo hiểm để hạn chế chi phí khi có dòng tiền rút ra. Chi phí khi có dòng tiền rút ra càng lớn thì các NHTM sẽ càng muốn giữ nhiều tiền mặt dự trữ quá mức hơn. - Ngăn ngừa vỡ nợ ngân hàng Vỡ nợ ngân hàng thường xảy ra khi ngân hàng không thể đáp ứng được trách nhiệm thanh toán cho người gửi tiền và không có đủ khoản tiền dự trữ theo yêu cầu. Để thấy một sự vỡ nợ ngân hàng có thể xảy ra như thế nào, chúng ta hãy giả sử Bảng cân đối tài sản của NHTM A như sau: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 10 Tiền gửi 100 Tiền cho vay 90 Vốn ngân hàng 10 Chứng khoán 10 ` Có một dòng tiền rút ra là 20 triệu đồng. Nếu NHTM A bán chứng khoán 10 triệu đồng và sử dụng 10 triệu đồng tiền dự trữ để thanh toán, bảng cân đối tài sản của nó sẽ là: NHTM A (đơn vị: triệu đồng) Tài sản Nguồn vốn Tiền dự trữ 0 Tiền gửi 80 Tiền cho vay 90 Vốn ngân hàng 10 64
  20. Như vậy, NHTM A sẽ thiếu 8 triệu đồng dự trữ (dự trữ bắt buộc là 8 triệu đồng – 10% của 80 triệu đồng). Ngân hàng này nếu không có khoản tiền cho vay đến hạn thu thì có thể nó sẽ phải bán các khoản cho vay của mình cho các ngân hàng khác để lấy tiền dự trữ. Tất nhiên là số tiền mà nó thu được nhờ bán một cách miễn cưỡng các khoản cho vay này sẽ thấp hơn giá trị của những món cho vay đó. Hay nói cách khác, NHTM A chịu mất một khoản tiền. Trong tình trạng như vậy, nhiều khi các NHTM khác sẽ không muốn cho NHTM A vay tiền vì họ không tin vào khả năng thu hồi nợ của nó. Tình trạng trên đáng ra có thể ngăn chặn được nếu NHTM A có thêm 8 triệu đồng trong khoản dự trữ quá mức, hoặc dự trữ cấp hai, hoặc nó có một cái “đệm” lớn hơn trong vốn tự có của nó để bù đắp những tổn thất do dòng tiền rút ra gây nên. Tất cả các NHTM cần duy trì các khoản dự trữ quá mức, dự trữ cấp hai và vốn tự có bởi vì các khoản tiền này sẽ phòng cho ngân hàng tránh được tình trạng vỡ nợ ngân hàng do dòng tiền rút ra gây nên. 7.3.2. Quản lý tài sản Để làm tối đa hóa lợi nhuận của mình, ngân hàng phải tìm kiếm những lợi tức cao nhất từ các khoản tiền cho vay và từ việc đầu tư chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm đến tối thiểu rủi ro và nắm giữ các tài sản đủ lỏng bằng cách: Thứ nhất: Các NHTM thường cố gắng tìm những khách hàng tốt để cho vay. Thông thường NHTM tìm những khách hàng cần vay thông qua việc quảng cáo, tiếp cận với các công ty để trực tiếp chào mời các món cho vay. Nói chung, các NHTM rất thận trọng khi cho vay. Thứ hai: Các NHTM cũng cố gắng mua chứng khoán với lợi tức cao và rủi ro thấp. Thứ ba: Trong việc quản lý những tài sản của họ, các ngân hàng phải có nỗ lực giảm đến tối thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hóa. Họ thực hiện việc này bằng cách mua nhiều loại tài sản khác nhau như mua các trái khoán dài hạn và ngắn hạn Hay nói cách khác NHTM cố gắng tránh “đặt quá nhiều trứng vào một rổ”. Cuối cùng: NHTM phải quản lý trạng thái lỏng sao cho nó có thể thỏa mãn những đòi hỏi về dự trữ mà không phải chịu một phí tổn lớn. Điều này nghĩa là nó phải nắm giữ những chứng khoán lỏng ngay cả khi chúng mang lại lợi tức hơi thấp so với những tài sản khác. Thế nhưng, nếu NHTM tránh được những khoản tiền dự trữ quá mức, thì nó phải chịu tổn thất do các khoản tiền dự trữ không đem lại tiền lãi, trong khi ngân hàng phải cân đối giữa việc có được trạng thái lỏng với khoản lợi nhuận mà nó có thể thu được nhờ nắm giữ tài sản kém lỏng hơn, ví dụ như các món cho vay. 7.3.3. Quản lý nguồn vốn Trước những năm 1960, phần lớn NHTM coi những nguồn vốn là cố định và cố đạt được một cơ cấu tối ưu. Phần .lớn các nguồn vốn NHTM được thu nhận qua các khaonr tiền gửi (kỳ hạn) có thể phát séc và theo luật định, những món tiền gửi này không phải trả lãi. Do vậy, các NHTM không phải cạnh tranh để có được các món tiền gửi này. Mặt khác, do thị trường để thực hiện các món cho vay ngắn hạn (qua đêm) giữa các ngân hàng chưa phát triển, các NHTM hiếm khi vay được từ các ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu tienf dự trữ. Bắt đầu từ những năm 1960, các NHTM lớn đã bắt đầu nghiên cứu kỹ những phương pháp, trong đó các nguồn vốn trên bảng cân đối tài sản có thể đem lại cho họ những khoản tiền dự trữ và trạng thía lỏng. Chính điều này đã dẫn đến việc phát triển của các thị trường cho vay ngắn hạn và sự ra đời của những công cụ tài chính như các CD có thể bán lại được, chúng giúp các NHTM nhanh chóng có được tiền vốn. Như vậy, các NHTM có thể sử dụng phương pháp khác cho việc quản lý ngân hàng, họ không còn lệ thuộc vào những món tiền gửi có thể phát séc với tư cách là nguồn vốn như trước. Thay vào đó, họ đã đưa ra mục tiêu cho sự tăng trưởng tài sản có và có được vốn bằng cách vay vốn từ các NHTM khác, phát hành CD 65
  21. Câu hỏi ôn tập 1. Nội dung kinh tế các khoản mục (tóm tắt ) trên Bảng cân đối tài sản của NHTM? Liên hệ với thực tiễn của NHTM ơt Việt Nam 2. Các hoạt động cơ bản của NHTM? Liên hệ với thực tế ở Việt Nam? 3. Vai trò dự trữ tiền và quản lý tiền dự trữ trong hoạt động của NHTM? TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Văn Tề, Tiền tệ và ngân hàng, NXB Thống kê năm 2003 2. Học viện Ngân hàng, Giáo trình Lý thuyết tiền tệ - ngân hàng, NXB. Thống kê năm 2004 3. Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội năm 2007 66
  22. Chương 8 NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA Mục tiêu của chương này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức về: - Quá trình hình thành ngân hàng trưng ương. - Chức năng của ngân hàng trung ương. - Các mục tiêu cơ bản trong chính sách tiền tệ quốc gia. - Các công cụ của chính sách tiền tệ. 8.1. QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 8.1.1. Quá trình hình thành Trong thời kỳ đầu hoạt động, các ngân hàng thực hiện đồng thời các nghiệp vụ: nhận tiền gửi và cho vay đối với khách hàng, phát hành các kỳ phiếu của mình và lưu thông, thực hiện các dịch vụ ngân hàng như thanh toán, chuyển tiền, đổi tiền Từ thế kỷ XVIII, Nhà nước của các nước đã bắt đầu can thiệp vào hoạt động của hệ thống ngân hàng bằng cách hạn chế số lượng các ngân hàng được phép phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Đến thế kỷ XIX, ở các nước phát triển có xu hướng ra đời các đạo luật chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất phát hành tiền, còn các ngân hàng khác đơn thuần kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng. Ở Anh năm 1844, Nhà nước cấm các ngân hàng tư nhân phát hành tiền và toàn bộ nghiệp vụ phát hành tiền tệ được tập trung vào Anh quốc ngân hàng. Ngân hàng cổ phần tư nhân Pháp thành lập 1800, đến năm 1803 được độc quyền phát hành giấy bạc ở Paris, đến năm 1948 độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng trên toàn nước Pháp. Đầu thế kỷ XX, ở các nước ngân hàng được phép phát hành tiền đều thuộc sở hữu tư nhân, Nhà nước không có điều kiện can thiệp các hoạt động kinh tế thông qua các tác động của tiền tệ. Khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã buộc chính phủ các nước tăng cường hơn nữa can thiệp của mình vào lĩnh vực kinh tế. Ngoài việc điều tiết nền kinh tế thông qua hệ thống luật pháp, chính sách , Nhà nước cần phải nắm lấy phương tiện cơ bản của kinh tế thị trường – tiền tệ để góp phần giải quyết tình trạng bất ổn định trong nền kinh tế. Vì thế, sau tổng khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, phần lớn các nước đã tiến hành quốc hữu hóa hoặc thành lập mới ngân hàng phát hành thuộc sở hữu nhà nước, nhằm nắm trọn quyền phát hành tiền tệ để qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế vĩ mô. Canada quốc hữu hóa ngân hàng phát hành năm 1938, Đức quốc hữu hóa ngân hàng phát hành năm 1939, Pháp quốc hữu hóa ngân hàng năm 1945, Anh quốc hữu hóa ngân hàng năm 1946 Từ đó, khái niệm ngân hàng trung ương được sử dụng để thay thế cho khái niệm ngân hàng phát hành. Ngân hàng trung ương không chỉ thực hiện chức năng phát hành tiền tệ và lưu thông, mà còn thực hiện chức năng quản lý về mặt nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Tuy nhiên, ở một số nước ngân hàng phát hành không hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, nhưng hoạt động vẫn mang tính chất như một ngân hàng của Nhà nước và cơ quan quản lý cao nhất của nó là do Nhà nước bổ nhiệm và miễn nhiệm. Ngân hàng trung ương Nhật Bản là ngân hàng cổ phần theo luật năm 1942, trong đó cổ phần hóa nhà nước chiếm 55%, cổ phần thuộc sở hữu tư nhân chiếm 45%, nhưng cơ quan quản trị ngân hàng là hội đồng chính sách có 7 thành viên do chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Ở Mỹ, hệ thống dự trữ liên bang là ngân hàng cổ phần tư nhân, nhưng cơ quan lãnh đạo cao nhất của ngân hàng này là hội đồng thống đốc có 7 thành viên do Tổng thống đề cử và Quốc hội bổ nhiệm 67
  23. 8.1.2. Đặc thù của Ngân hàng Trung ương Tuy có nhiều tên gọi khác nhau như Ngân hàng trung ương, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng dự trữ liên bang , nhưng chúng đều có tính chất chung, đó là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị đồng tiền, duy trì sự ổn định và an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Do tính chất đó, Ngân hàng trung ương nắm giữ một trong những công cụ quan trọng nhất để quản lý nền kinh tế vĩ mô, đó là chính sách tiền tệ. Bởi vậy, Ngân hàng trung ương có vị trí đặc thù trong bộ máy quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước. Cho đến nay trên thế giới có hai mô hình tổ chức và quản lý của Ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương trực thuộc Quốc hội tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước Quốc hội. Với mô hình này, Ngân hàng trung ương được độc lập với Chính phủ. Bởi lẽ, chính phủ là người thực thi chính sách tài chính quốc gia, quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước. Nếu Ngân hàng trung ương trực thuộc chính phủ sẽ dễ bị chính phủ lạm dụng công cụ phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt của ngân sách nhà nước, gây ra lạm phát. Lúc đó, Ngân hàng trung ương không thể chủ động trong việc thực thi chính sách tiền tệ, với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Mô hình này có Ngân hàng dự trữ liên bang Hoa Kỳ, Ngân hàng dự trữ liên bang của Cộng hòa liên bang Đức Ngân hàng trung ương trực thuộc Chính phủ tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước Chính phủ. Bởi vì, Chính phủ là người thực hiện chức năng điều hành và sử dụng các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô. Vì vậy, để thực hiện chức năng của mình, Chính phủ cần nắm lấy Ngân hàng trung ương và thông qua Ngân hàng trung ương để tác động đến chính sách tiền tệ. Theo mô hình này có Ngân hàng Pháp quốc, Ngân hàng Anh quốc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Như vậy, mỗi nước đều có Ngân hàng trung ương thuộc sở hữu nhà nước hoặc một hệ thống các ngân hàng làm nhiệm vụ của Ngân hàng trung ương, nhưng đặt dưới sự điều hành của một Hội đồng duy nhất được Nhà nước bổ nhiệm. Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Nhưng nó khác với tính chất quản lý của các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý không chỉ đơn thuần bằng các luật lệ, các biện pháp hành chính, mà còn thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh sinh lời. Ngân hàng trung ương có các khoản thu nhập từ các tài sản có của mình như: chứng khoán chính phủ, cho vay chiết khấu, kinh doanh trên thị trường ngoại hối Hai mặt quản lý và kinh doanh gắn chặt với nhau trong tất cả các hoạt động của Ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh chỉ là phương tiện để quản lý, tự nó không phải là mục đích của Ngân hàng trung ương. Hầu hết các khoản thu nhập của Ngân hàng trung ương, sau khi trừ các chi phí hoạt động đều phỉa nộp vào ngân sách nhà nước. 8.2. CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 8.2.1. Phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung ứng Đi liền với sự ra đời của Ngân hàng trung ương thì toàn bộ việc phát hành tiền được tập trung vào Ngân hàng trung ương theo chế độ Nhà nước độc quyền phát hành tiền và nó trở thành trung tâm phát hành tiền của cả nước. Giấy bạc ngân hàng do Ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp, làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Do đó, việc phát hành tiền tệ của Ngân hàng trung ương có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định, nó đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt. Các nguyên tắc cơ bản cho việc phát hành tiền tệ đã từng được đặt ra là: Nguyên tắc phát hành tiền phải có vàng bảo đảm. Nguyên tắc này quy định việc phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông phải được bảo đảm bằng trữ kim hiện hữu 68
  24. trong kho của Ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương phải bảo đảm việc tự do đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng theo luật định khi người có giấy bạc yêu cầu. Tuy nhiên, vận dụng nguyên tắc này, mỗi nước lại có sự co giãn về mức bảo đảm vàng khác nhau, điều đó còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị của mỗi nước. Nguyên tắc phát hành giấy bạc ngân hàng thông qua cơ chế tín dụng, được đảm bảo bằng giá trị hàng hóa và dịch vụ. Theo cơ chế này, việc phát hành giấy bạc không nhất thiết phải có vàng bảo đảm, mà phát hành thông qua cơ chế tín dụng ngắn hạn, trên cơ sở có bảo đảm bằng giá trị hàng hóa, công tác dịch vụ, thể hiện trên kỳ phiếu thương mại và các chứng từ nợ khác có khả năng hoán chuyển thành tiền theo luật định. Đó là tín dụng của ngân hàng trung ương, được thực hiện bằng phương thức tái cấp vốn đối với các ngân hàng thương mại. Việc phát hành giấy bạc ngân hàng theo nguyên tắc này, một mặt nó xuất phát từ nhu cầu tiền tệ phát sinh do sự tăng trưởng kinh tế, mặt khác tạo ra khả năng để Ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền tệ cung ứng theo yêu cầu chính sách tiền tệ. Ngày nay, trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân hàng không được tự do chuyển đổi ra vàng theo luật định, các nước trên thế giới đều chuyển sang chế độ phát hành giấy bạc thông qua cơ chế tái cấp vốn cho các ngân hàng và hoạt động trên thị trường mở của Ngân hàng trung ương. Đồng thời, trên cơ sở độc quyền phát hành tiền, Ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng được tạo ra từ các ngân hàng thương mại, bằng quy chế dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu Như vậy, Ngân hàng trung ương không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ, mà còn quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiện chính sách tiền tệ, bảo đảm ổn định giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng bản tệ. 8.2.2. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của các ngân hàng Là ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng trung ương thực hiện một số nghiệp vụ sau đây: + Mở tài khoản tiền gửi và bảo quản dự trữ tiền tệ cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Trong hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều phải mở tài khoản tiền gửi và gửi tiền vào Ngân hàng trung ương, gồm có hai loại sau: - Tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền gửi của các ngân hàng tại Ngân hàng trung ương nhằm bảo đảm nhu cầu chi trả trong thanh toán giữa các ngân hàng và cho khách hàng. - Tiền gửi dự trữ bắt buộc: Khoản tiền dự trữ này áp dụng đối với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng có huy động tiền gửi của công chúng. Mức tiền dự trữ này huy động tiền gửi của công chúng. Mức tiền dự trữ này được Ngân hàng trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng. Đây là một công cụ của Ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Do vậy, dự trữ bắt buộc này sẽ thay đổi theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. + Cho vay đối với ngân hàng và tổ chức tín dụng Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo cho nền kinh tế đủ phương tiện thanh toán cần thiết trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác, thông qua việc cấp vốn và lãi suất tín dụng để điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sử dụng vốn tập trung, huy động được để cho vay đối với nền kinh tế. Khi xuất hiện nhu cầu tiền Ngân hàng trung ương làm phương tiện thanh toán, các ngân hàng này được Ngân hàng trung ương cấp tín dụng theo những điều kiện nhất định, phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, thông qua việc tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác bằng nghiệp vụ chiết khấu hoặc tái chiết khấu. 69
  25. + Ngân hàng trung ương còn là trung tâm thanh toán của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Với trung tâm này, Ngân hàng trung ương thực hiện các nghiệp vụ thanh toán như: - Thanh toán từng lần: mỗi lần có nhu cầu thanh toán, các ngân hàng gửi các chứng từ thanh toán đến Ngân hàng trung ương, yêu cầu trích tiền từ tài khoản của mình để trả cho ngân hàng thụ hưởng. - Thanh toán bù trừ: Ngân hàng trung ương là trung tâm tổ chức thanh toán bù trừ giữa ngân hàng, kể cả kho bạc nhà nước. Việc thanh toán bù trừ được tiến hành giữa các ngân hàng theo định kỳ hoặc cuối mỗi ngày làm việc. Việc thanh toán được dựa trên cơ sở trao đổi các chứng từ thanh toán nợ kèm theo bảng kê khai thanh toán bù trừ các ngân hàng hoặc thực hiện bù trừ thông qua hệ thống vi tính, số dư cuối cùng được thanh toán bằng cách trích tài khoản của người phải trả nợ tại Ngân hàng trung ương. 8.2.3. Ngân hàng Trung ương là ngân hàng của Nhà nước Nói chung, Ngân hàng trung ương là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, được thành lập và hoạt động theo pháp luật. Ngân hàng tủng ương vừa thực hiện chức năng quản lý về mặt nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng, tín dụng; vừa thực hiện chức năng là ngân hàng của nhà nước. Ở đây, Ngân hàng trung ương thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu sau: + Ngân hàng trung ương là cơ quan quản lý về mặt nhà nước các hoạt động của cả hệ thống ngân hàng bằng pháp luật: - Xem xét, cấp và thu hồi giấy phép hoạt động cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. - Kiểm soát tín dụng thông qua cơ chế tái cấp vốn và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. - Quy định các thể chế nghiệp vụ, các hệ số an toàn trong quá trình hoạt động cho các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. - Thanh tra và kiểm soát các hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Áp dụng các chế tài trong các trường hợp vi phạm pháp luật, nhằm đảm bảo cho cả hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả - Quyết định đình chỉ hoạt động hoặc giải thể đối với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong các trường hợp vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc mất khả năng thanh toán. + Ngân hàng trung ương có trách nhiệm đối với kho bạc nhà nước: - Mở tài khoản, nhận và trả tiền gửi của kho bạc nhà nước. - Tổ chức thanh toán cho kho bạc nhà nước trong quan hệ thanh toán với các ngân hàng. - Làm đại lý cho kho bạc nhà nước trong một số nghiệp vụ. - Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại hối, các chứng từ có giá. - Cho ngân hàng nhà nước vay khi cần thiết + Ngân hàng trung ương thay mặt cho nhà nước trong quan hệ nước ngoài trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng: - Ký kết các hiệp định về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng với nước ngoài. - Đại diện cho nhà nước tại các tổ chức tài chính quốc tế mà nước đó là thành viên như IMF, WB, ADB 8.3. MỤC TIÊU CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA 8.3.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ Trong điều kiện lưu thông tiền vàng thay tiền giấy tự do đổi ra vàng, thì giá trị tiền tệ luôn luôn được ổn định, do cơ chế tự phát của tiền vàng. Trong điều kiện lưu thông tiền giấy không được tự do chuyển đổi ra vàng, lạm phát luôn là khả năng tiềm tàng, thậm chí khó tránh khỏi ở các nước. Lúc này, với chức năng của mình, Ngân hàng trung ương luôn coi việc kiểm soát lạm phát, ôn định giá trị 70
  26. đồng tiền là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Ổn định giá cả là điều ai cũng mong muốn. Bởi lẽ, giá cả tăng lên gây tình trạng khó khăn trong cuộc sống của một bộ phận người lao động, mất ổn định nền kinh tế - xã hội. Tình trạng đó gây khó khăn trong việc hoạch định các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, gây ra sự xung đột quyền lợi giữa một số nhóm dân cư. Do vậy, kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ là tiền đề cho việc phát triển kinh tế lâu bền, bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động. Thông qua chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương có thể góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì, giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên, tất yếu dẫn đến tình trạng lạm phát. Ngược lại, chính sách tiền tệ Ngân hàng trung ương nhằm thắt chặ cung ứng tiền tệ thì, sẽ làm cho giá cả hàng hóa và dịch vụ giảm xuống và như vậy tỷ lệ lạm phát giảm xuống. Kiểm soát lạm phát được biểu hiện trước hết ở chỗ ổn định giá trị đối nội của đồng tiền, tức là sức mua của nó đối với hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước. Mặt khác, nó còn được biểu hiện sự ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi. Trong nền kinh tế mở, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, tỷ giá đồng tiền trở thành mối quan tâm của các quốc gia. Bởi lẽ, một sự tăng lên trong giá trị đồng bản tệ so với ngoại tệ sẽ hạn chế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, hạn chế xuất khẩu. Ngược lại, giá trị đồng bản tệ giảm xuống so với ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu Giá trị đối nội và giá tị đối ngoại của đồng tiền có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội, nhà nước phải có biện pháp ổn định giá cả hàng hóa và dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền cũng không đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát bằng không. Bởi lẽ, trong thực tế, để có một tỷ lệ lạm phát giảm xuống thì, thường phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp gia tăng nhất định nào đó. Trong các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, không thể có được một sự ổn định giá trị đồng tiền, khi nền kinh tế đang có một tỷ lệ thất nghiệp gia tăng quá đáng. Kinh nghiệm của nhiều nước phát triển cho thấy, một tỷ lệ lạm phát vừa đủ (thường một con số mỗi năm) là cần thiết cho sự phát triển nền kinh tế - xã hội. Nhưng cần phải chống lạm phát phi mã (hai con số mỗi năm) và siêu lạm phát (trên hai con số mỗi năm). 8.3.2. Tạo việc làm Việc làm cho người lao động là một vấn đề quan trọng đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Bởi vì: Thứ nhất, nếu thất nghiệp cao sẽ làm cho gia đình của họ bị khó khăn về tài chính, làm mất đi lòng tự trọng cá nhân và là một trong những nguyên nhân làm tăng thêm tội ác. Thứ hai, thất nghiệp tăng, nền kinh tế không chỉ tăng thêm những người lao động ngồi không, mà còn tăng thêm những nguồn tài nguyên để không như nhà máy, thiết bị và làm cho tổng sản phẩm quốc dân (GDP) giảm xuống. Rõ ràng công ăn việc làm cao là điều ai cũng mong muốn. Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức đến tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì, tạo điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và nhà nước cần ít lao động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp bằng không, mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Bởi lẽ, trong thực tế có một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động quyết định đi tìm một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời gian đang tìm việc làm. Hoặc một số người lao động tự nguyện rời bỏ công việc của mình để theo đuổi các hoạt động khác như học tập, du lịch và khi họ quyết định gia nhập trở 71
  27. lại thị trường lao động, họ phải mất một thời gian để tìm đúng công việc mà họ mong muốn. Mặt khác, thông thường để có một tỷ lệ công ăn việc làm cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát gia tăng nhất định nào đó. Hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. 8.3.3. Tăng trưởng kinh tế Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại. 8.3.4. Quan hệ giữa các mục tiêu Nhìn tổng quát và các chiến lược lâu dài thì các mục tiêu chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Điều đó cho thấy rằng, trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hóa một mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu một cách độc lập trên tầm vĩ mô. Tuy nhiên, có nơi có lúc, trong thời gian ngắn có thể xảy ra sự xung đột, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu. Điều thường gặp và dễ thấy nhất là sự mâu thuẫn giữa thỷ lệ lạm phát với tỷ lệ thất nghiệp. Tuy vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau, song nhìn chung, mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản tệ, trên cơ sở đó để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn các nước phát triển theo cơ chế thị trường cho thấy, vận hành chính sách tiền tệ, để đạt được các mục tiêu của noc cần có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Trước hết, phải phối hợp với chính sách tài khóa trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Bởi lẽ, mục tiêu của chính sách tài khóa là nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của chính phủ, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và sử dụng nhân lực ở mức tiềm năng. Song, điều đó còn phụ thuộc vào tình hình thu chi của ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước vững vàng là cơ sở quan trọng bậc nhất cho giá trị đồng bản tệ được ổn định. Ngược lại, sự thiếu hụt ngân sách nhà nước, bất kể được bù đắp bằng con đường nào (vay Ngân hàng trung ương, vay các tổ chức, cá nhân trong nước, vay nước ngoài) đều trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho giá trị đồng tiền mất ổn định. Thông thường, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đều phát huy tác dụng thông qua ảnh hưởng của nó đối với tổng cầu. Trong khi đó, theo cơ chế thị trường thì tiền lương và giá cả lại được quyết định bởi các yếu tố của thị trường. Trong thực tế, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có thể làm tăng nhu cầu, giảm thất nghiệp, nhưng sẽ gia tăng lạm phát. Giải quyết mấu thuẫn này, cần có sự phối hợp chặt chẽ với chính sách phân phối thu nhập trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Trong trường hợp này, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước phải thể hiện sự kiểm soát chặt chẽ về tiền lương, tiền thưởng và giá cả. Đối với các nước kém và đang phát triển, thường bội chi ngân sách nhà nước lớn và kéo dài, cán cân thanh toán thâm hụt, tăng trưởng kinh tế chưa cao Ở đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ chính sách kinh tế đối ngoại trong quá trinh thực thi chính sách tiền tệ. Đó phải là một chính sách kinh tế mở, hướng xuất khẩu, mặt khác phải tranh thủ tối đa trình độ công nghệ, khoa học kỹ thuật và mọi nguồn vốn từ bên ngoài. Trong đó, đặc biệt là quan hệ với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế, như Ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng phát triển Châu Á 72
  28. 8.4. CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 8.4.1. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị trường tự do của mình với tín phiếu kho bạc nhà nước là vì, thị trường tín phiếu kho bạc có dung lượng lớn, tính lỏng cao, rủi ro thấp. Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân hàng). Đó là nguồn gốc chính gây nên sự biến động trong cung ứng tiền tệ. Khi ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó lam tăng lượng tiền cung ứng. Khi ngân hàng trung ương bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ, qua đó giảm lượng tiền cung ứng. Thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết thị lượng tiền cung ứng, bởi những ưu thế vốn có của nó: Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do. Linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ. Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình. Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về chi phí và thời gian 8.4.2. Chính sách chiết khấu Chính sách chiết khấu là công cụ của Ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi Ngân hàng trung ương cho vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. Ngân hàng trung ương kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu). Khi Ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá của khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay đối với nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi Ngân hàng trung ương giảm lãi suất cho vay tái chiết khấu, giá của khoản vay rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên, lượng tiền cung ứng tăng lên. Những khoản cho vay tái chiết khấu của Ngân hàng trung ương đối với các ngân hàng thương mại được gọi là cửa sổ chiết khấu. Ngân hàng trung ương quản lý cửa sổ chiết khấu bằng nhiều cách để khoản vốn cho vay của mình khỏi bị sử dụng không đúng và hạn chế việc cho vay đó. Các ngân hàng đến vay chiết khấu ở Ngân hàng trung ương thường phải chịu ba khoản chi phí: lợi tức chiết khấu, phí về việc phải làm đúng theo các điều tra của Ngân hàng trung ương về khả năng thanh toán của Ngân hàng khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu, phí về việc rất có thể bị Ngân hàng trung ương từ chối cho vay chiết khấu vì Ngân hàng trung ương đang theo đuổi một chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm chống lạm phát. Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và cung ứng tiền tệ, chính sách chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằn tránh khỏi những cơn hoảng loạn tài chính cho các ngân hàng thương mại. Bởi vì, tiền dự trữ bắt buộc được lập tức điều đến các ngân hàng nào cần thêm tiền dự trữ hơn cả. Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ chiết khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng, là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính sách tiền tệ thành công. Ví dụ như Ngân hàng dự trữ Liên bang Hoa Kỳ cho vay chiết khấu đối với ngân hàng 73
  29. Franklin National tháng 5 năm 1974, với số tiền 1,75 tỷ Đô la (khoảng 5% tổng số dự trữ trong hệ thống ngân hàng) đã tránh cho ngân hàng này khỏi sụp đổ. Hay, Ngân hàng dự trữ liên bang Hoa Kỳ cho vay chiết khấu đối với ngân hàng Continental Illinois năm 1984, với số tiền trên 5 tỷ Đô la), đã ngăn chặn được sự sụp đổ của ngân hàng này. Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Nó không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng, mà còn để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức tín dụng và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, với công cụ này, Ngân hàng trung ương thường bị động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bởi, Ngân hàng trung ương chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các ngân hàng thương mại phải vay chiết khấu ở Ngân hàng trung ương. 8.4.3. Dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà không dược dùng để cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Chế độ dự trữ bắt buộc ở các nước khác nhau, ở các thời kỳ khác nhau thì có thể khác nhau. Song nhìn chung, dự trữ bắt buộc đều mang tính pháp luật, được giữ ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi. Ngân hàng trung ương sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến lượng tiền cung ứng trên hia phương diện: Thứ nhất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các ngân hàng thương mại. Theo thuyết tạo tiền, từ một lượng tiền dự trữ bắt buộc, hệ thống ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền gửi lớn gấp nhiều lần, với công thức tổng quát: Tiền gửi mới Tiền dự trữ 1 = x được tạo ra ban đầu Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Trong đó: 1 Là hệ số nhân tiền tệ, với hai giả thiết: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Các ngân hàng thương mại không có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà Ngân hàng trung ương yêu cầu. Các khoản tiền gửi do các ngân hàng thương mại tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống ngân hàng. Do vậy, nếu Ngân hàng trung ương quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm cho hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên. Ví dụ, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì với một lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra một lượng tiền gửi gấp 10 lần. Tương tự như vậy, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên 20% thì lượng tiền gửi mới do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra tăng 5 lần; nếu dự trữ bắt buộc giảm xuống 5% thì, lượng tiền gửi mới do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra tăng 20 lần Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại. Như đã nói ở trên, tiền dự trữ bắt buộc đều phải mở tài khoản và gửi ở Ngân hàng trung ương và không được hưởng lãi, cho dù các Ngân hàng thương mại vẫn phải trả lợi tức cho các khoản tiền gửi ở ngân hàng mình. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng lên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay đắt hơn, khả năng cho vay các ngân hàng thương mại giảm xuống và theo đó lượng tiền cung ứng cũng giảm xuống, các ngân hàng thương mại có cơ hội giảm lãi suất 74
  30. cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vya của các ngân hàng thương mại và theo đó lượng tiền cung ứng tăng lên. Hiện nay, công cụ dự trữ bắt buộc đóng vai trò kém phần quan trọng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương, bởi nó phức tạp, kém linh hoạt, ảnh hưởng đến lợi nhuận các ngân hàng kinh doanh Ba công cụ trên đây của chính sách tiền tệ thường được các nước phát triển theo cơ chế thị trường sử dụng có hiệu quả ở các nước chưa phát triển, khi mà các công cụ chính sách tiền tệ trên đây được sử dụng còn nhiều hạn chế thì, trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ, các nước đó có thể sử dụng một số công cụ bổ trợ khác như: kiểm soát hạn mức tín dụng, kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương mại 8.4.4. Kiểm soát hạn mức tín dụng Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chi tiêu tăng trưởng kinh tế và chi tiêu lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị trường khác: tỷ lệ thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu thông tiền tệ Trên cơ sở đó hạn mức tín dụng được phân bổ cho các ngân hàng thương mại cho từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ. Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng thương mại làm tăng tổng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng ngân hàng thương mại. Trong phần lớn các trường hợp, những hạn mức riêng này được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ với tổng mức cho vay của hệ thống Ngân hàng thương mại chỉ được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạ mức tín dụng được quy định. Hạn mức tín dụng được ngân hàng trung ương sử dụng như một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, khi mà các công cụ truyền thống kém hiệu quả. Tuy nhiên, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các ngân hàng thương mại, làm phát sinh các thị trường tài chính “ngầm” ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ 8.4.5. Quản lý lãi suất của ngân hàng thương mại Khi sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương (thị trường mở, chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đều có tác động đến lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết khấu của các ngân hàng trung ương tác động mạnh đến lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Song, khi các công cụ trên đay hoạt động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng trung ương có thể trực tiếp quy định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Để tránh rủi ro, bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng, Ngân hàng trung ương thường quy định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối thiểu cho tiền vay. Nếu nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng của ngân hàng thương mại, thì Ngân hàng trung ương thường quy định ngược lại: mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay. Ngân hàng trung ương muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả. Tuy nhiên, kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương mại sẽ triệt tiêu cạnh tranh trong quá trình hoạt động của nó. Hiện nay, các nước phát triển đang phát triển đã và đang chuyển sang quá trình tự do hóa lãi suất ngân hàng. 75
  31. 8.5. NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 8.5.1. Quá trình hình thành và phát triển Ngày 6 tháng 5 năm 1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập với tư cách là ngân hàng phát hành trung ương, đồng thời kiêm nhiệm chức năng của ngân hàng thương mại. Ngân hàng quốc gia Việt Nam có các nhiệm vụ sau: Phát hành giấy bạc và điều hòa lưu thông tiền tệ trong phạm vi cả nước. Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong kinh tế, điều hòa và mở rộng tín dụng nhằm phát triển sản xuất kinh doanh. Quản lý ngân quỹ quốc gia. Quản lý ngoại hối và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài Nói chung, Ngân hàng quốc gia Việt Nam thực hiện những công việc để thực thi chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, chính sách ngân hàng của Chính phủ. Đó là một bước ngoặt trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng ở nước ta. Tháng 1 năm 1960, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phù hợp với Hiến pháp mới của nước ta. Thực hiện Nghị định 171/CP ngày 26 tháng 10 năm 1961 của Chính phủ, chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước được mở rộng, hệ thống tổ chức được hình thành từ trung ương đến các tỉnh, thành phố và quận, huyện. Đặc trưng cơ bản về tổ chức và hoạt động của ngân hàng nước ta lúc này là: Mô hình ngân hàng duy nhất, có hệ thống tổ chức theo địa giới hành chính, hoạt động theo nguyên tắc tập trung, bao cấp thống nhất trong cả nước. Hệ thống Ngân hàng Nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vừa thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng. Sau khi thống nhất đất nước và hoàn thành việc quốc hữu hóa hệ thống ngân hàng dưới chế độ cũ ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định 163/CP ngày 16 tháng 6 năm 1977 về cơ cấu tổ chức và bộ máy của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Từ đó, trên cả nước hình thành một hệ thống ngân hàng chuyên doanh như: Ngân hàng công nghiệp, ngân hàng thương nghiệp, ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng ngoại thương, hệ thống quỹ tiết kiệm. Đặc điểm cơ bản của mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam lúc này vẫn mang đầy đủ các đặc điểm của hệ thống ngân hàng một cấp. Sau Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam làn thứ VI, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện. Ngày 3 tháng 8 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Hội đồng Chính phủ) ban hành quyết định 218/HĐBT, cho phép Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiến hành thí điểm chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh doanh. Sau một thời gian thí điểm ở một số chi nhánh ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố cho thấy, chuyển hoạt động Ngân hàng Việt Nam sang hạch toán kinh doanh là đúng đắn. Tiếp đó, ngày 26 tháng 3 năm 1988, Hội đồng bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT về tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam. Theo đó, mô hình tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam được phân thành 2 cấp: ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước các hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; các ngân hàng kinh doanh thực hiện chức năng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Sau 2 năm thí điểm đổi mới hoạt động ngân hàng và thực hiện Nghị định 53/HĐBT, ngày 24 tháng 5 năm 1990 Nhà nước ta ban hành 2 Pháp lệnh về ngân hàng: “Pháp lệnh ngân hàng nhà nước Việt Nam” và “Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính”. Đó là bước tiến quan trọng về mặt pháp lý trong hoạt động ngân hàng, nhằm tiếp tục đổi mới căn bản toàn diện công tác ngân hàng ở nước ta. Thực hiện 2 Pháp lệnh đó, khẳng định lại về tổ chức hệ thống ngân hàng nước ta theo mô hình hai cấp và hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Để xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, tăng cường hơn nữa quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước; ngày 26 tháng 76
  32. 12 năm 1997 Nhà nước ban hành Luật Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam ( có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998). Từ đây, mô hình tổ chức hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được chi phối bởi Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 8.5.2. Tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổ chức thành hệ thống tập trung thống nhất gồm bộ máy điều hành hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các văn phòng đại diện ở trong nước, ở ngoài nước và các đơn vị trực thuộc. Ngân hàng Nhà nước hoạt động dưới sự điều hành của thống đốc ngân hàng Nhà nước. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là thành viên của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước Quốc hội về lĩnh vực mình phụt trách. 8.5.3. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng trung ương của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của tổ chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ; nhằm ổn định giá trị đồng tiền góp phần đảm bảo an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện chức năng của mình, ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau: - Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. - Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng Việt Nam. - Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ hoạt động ngân hàng, ban hành các văn bản pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. - Cấp và thu hồi giấy phép thành lập các hoạt động của các tổ chức tín dụng; cấp và thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải quyết, chấp thuận chia tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng. - Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng, xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. - Quản lý vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ. - Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế. - Quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng. - Ký kết, tham gia điều ước quốc tế về tiền tệ hoạt động ngân hàng. - Đại diện cho Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong trường hợp được Chủ tịch nước hay Chính phủ ủy quyền. - Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng. - Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền, thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế, đổi, tiêu hủy tiền. - Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. - Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng cho các ngân hàng, kho bạc Nhà nước 8.5.4. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia 77
  33. Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyết định chính sách tiền tệ, nhằm mục tiêu ổn định giá trị VND, giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ, có trách nhiệm: - Chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ, để Chính phủ trình Quốc hội. - Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ (dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, thị trường mở, lãi suất, tỷ giá hối đoái), thực hiện việc đưa ra lưu thông, rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi lượng tiền cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt. Phát hành tiền giấy và tiền kim loại Trong công tác phát hành tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm: - Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tiền giấy và tiền kim loại. - Ngân hàng Nhà nước quản lý tiền dự trữ phát hành theo quy định của Chính phủ; bảo đảm cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền giấy, tiền kim loại cho nền kinh tế. - Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ phát hành tiền, Ngân hàng Nhà nước quy định tiêu chuẩn phân loại tiền rách nát, hư hỏng; đổi và thu hồi các loại tiền rách nát hư hỏng do quá trình lưu thông tạo nên; thu hồi và rút khỏi lưu thông các loại tiền không còn thích hợp và phát hành các loại tiền tệ khác thay thế; tổ chức tiêu hủy tiền không đủ tiêu chuẩn lưu hành. Hoạt động tín dụng Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng Nhà nước tiến hành các nghiệp vụ: - Ngân hàng Nhà nước cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng vay ngắn hạn dưới hình thức tái cấp vốn. Khi được Chính phủ chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước cho vay đối với các tổ chức tín dụng tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng. - Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Hoạt động thanh toán Ngân hàng nhà nước mở tài khoản và thực hiện các giao dịch cho Kho bạc Nhà nước, các tổ chức tín dụng trong nước và các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính quốc tế. Đồng thời, ngân hàng nhà nước làm đại lý cho Kho bạc Nhà nước trong việc tổ chức đấu thầu, phát hành và thanh toán tín phiếu trái phiếu Kho bạc Nhà nước. Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối Trong quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ: - Xây dựng các dự án luật; pháp lệnh và các dự án khác về quản lý ngoại hối ban hành các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối. - Cấp và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối cho các tổ chức tín dụng. - Tổ chức, điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại hối trong nước. - Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp lệnh về quản lý ngoại hối, kiểm soát việc xuất nhập khẩu ngoại hối Trong hoạt động ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện việc mua bán ngoại hối trên thị trường trong nước . tiêu chính sách tiền tệ quốc gia; mua bán ngoại hối trên thị trường quốc tế và thực hiện các giao dịch ngoại hối khác nhau theo quy định của Chính phủ. Thanh tra, tổng soát của Ngân hàng Nhà nước Thanh tra Ngân hàng Nhà nước là thanh tra chuyên ngành về ngân hàng, thuộc bộ máy của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước tiến hành thanh tra tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác, nhằm góp phần bảo đảm an toàn hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyến và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 78