Đề tài Sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô thích hợp để phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay

doc 44 trang vanle 2890
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô thích hợp để phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_su_dung_cac_mo_hinh_kinh_te_vi_mo_thich_hop_de_phan_t.doc

Nội dung text: Đề tài Sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô thích hợp để phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay

  1. ĐỀ TÀI Sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô thích hợp để phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay. Mã lớp HP: 1123MAEC0111 Nhóm: 7
  2. Phân chia công việc của các thành viên nhóm 7 STT Họ và tên Công việc 1 Vương Thị Liên Phân tích các số liệu liên quan đến lạm phát giai đoạn 2007-2009, CSTT,CSTK 2 Phan Thị Loan Làm slide. Phân tích một số giải pháp khác của chính phủ. 3 Phạm Thị Linh Một số khái niệm về lạm phát (khái niệm, nguyên nhân, tác động).Phân tích CSTT 4 Lê Tuấn Linh Phân tích một số giải pháp khác mà chính phủ đã sử dụng. 5 Nguyễn quang Linh Phân tích mô hình AD-AS, IS-LM. 6 Hoàng Văn Long Phân tích chính sách tài khóa mà nhà nước đã sử dụng. 7 Lê Thị Mai Phân tích chính sách tài khóa mà nhà nước đã sử dụng. 8 Đặng Thị Bình Minh Phân tích chính sách tiền tệ mà nhà nước đã sử dụng. 9 Nguyễn Đình Minh Phân tích chính sách tiền tệ mà nhà nước đã sử dung.
  3. Bảng đánh giá thành viên nhóm 7 STT Họ và tên Mã sv Xếp loại 1 Vương Thị Liên 2 Phan Thị Loan 3 Phạm Thị Linh 4 Lê Tuấn Linh 5 Nguyễn quang Linh 6 Hoàng Văn Long 7 Lê Thị Mai 8 Đặng Thị Bình Minh 9 Nguyễn Đình Minh
  4. Lời mở đầu Lạm phát - một hồi chuông báo động về sự thay đổi của nền kinh tế cho tất cả các quốc gia trên thế giới trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi nổi và cạnh tranh gay gắt, để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề mới của nền kinh tế mới. Bên cạnh các vấn đề cần có để kinh doanh thì các hiện tượng kinh tế đang diễn ra hiện nay cũng không kém phần quan trọng. Điển hình là diễn biến của chỉ số lạm phát. Nhận thức được điều đó Đảng và nhà nước ta đã đưa ra các chính sách và tìm ra những phương án giải quyết các chính sách đó như thế nào để kiềm chế lạm phát đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển đi lên? Để giải quyết vấn đề này nhóm em đã lựa chon đề tài “Sử dụng các mô hình kinh tế vĩ mô thích hợp để phân tích tác động của một số chính sách cụ thể mà chính phủ Việt Nam đã thực hiện để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay”để thảo luận. 1.Mục tiêu thảo luận Tìm hiểu lạm phát trong giai đoạn 2007-2009, đánh giá tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay và các giải pháp mà Đảng nhà nước ta đã sử dụng để giải quyết vấn đề kiềm chế lạm phát. Đồng thời đề xuất một số ý kiến để việc kiềm chế lạm phát được thực hiện tốt và hiệu quả hơn trong thời gian tới. 2. Đối tượng nghiên cứu Các giải pháp mà chính phủ thực hiện để kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng nhà nước ta nhằm kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay.phương pháp so sánh, phân tích
  5. I. Những vấn đề cơ bản về lạm phát Trong giai đoạn 2007 – 2009, một vấn đề bức thiết gây chấn động địa cầu đã xảy ra đó chính là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Nó bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ từ cuối năm 2007, kéo theo phản ứng dây chuyền lêntoàn bộ nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển. Kết quả là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu cực trên nhiều khía cạnh. Lạm phát là một trong bốn yếu tố gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của một quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát trong giai đoạn này ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia vớimức lạm phát 12,63%(2007) và 22,3% (2008) . Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ : làm suy vong nền kinh tế quốc gia, tác động mạnh tới đời sống của người dân nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.Theo các số liệu của tổng cục thống kê, các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7 tỷ USD (8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD (12,7% GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%, thị trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ. Ở các nước châu Á khác, giá lương thực - thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên 10% so với cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi dào. Qua một vài con số ấy thì ta đã phần nào thấy được tình hình lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn này được coi là một ví dụ về “cú sốc” lạm phát. Vậy lạm phát là gì, nguyên nhân hậu quả của nó như thế nào và chính phủ kiềm chế nó ra sao?
  6. 1. Khái niệm  Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian, là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế tăng trong một thời kì.  Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trung bình hay giảm sức mua của đồng tiền và nó được biểu thị bằng chỉ số giá. Ip=∑ip×d Ip là chỉ số giá chung ip là chỉ số giá cá thể của từng loại hàng, nhóm hàng d là tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại, từng nhóm hàng và là quyền số.  Trong phạm vi toàn cầu, khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ so với các loại tiền khác. 2. Nguyên nhân gây ra lạm phát trên lý thuyết gồm - Lạm phát do cầu kéo: Là do sự tăng lên liên tục của tổng cầu. Tốc độ tăng của tổng cầu nhanh hơn tốc độ tăng của tổng cung. Ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại * ASL ASL1 E(Y , P0) tại đây AD=AS. Khi AD0 tăng lên AD1 * P lúc này AD∩AS=E1(Y1,P1). Sản lượng tăng từ Y đến Y1 và giả cũng tăng từ P0 đến P1 → gây ra lạm phát. P1 E1 AD1 E0 P0 AD0 * 0 Y → Y1 Y Cụ thể ở Việt Nam : Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và
  7. vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 12% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 nghìn tỉ đồng, bằng 5% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. → lạp phát. - Lạm phát do chi phí đẩy: do giá của các yếu tố đầu vào tăng đặc biệt là các yếu tố đầu vào cơ bản làm tổng cung suy giảm dẫn đến giá tăng. * Ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại E(Y ,P0) tại đây AD=AS. Khi AS giảm từ ASL0 đến ASL1 ASL ASL1 ASL0 lúc này AD∩AS=E1(Y1,P1). Sản lượng giảm * từ Y đến Y1 và giá tăng từ P0 đến P1. P → gây ra lạm phát. E1 P1 E P0 0 AD 0 * Y1 Y Y Thời kỳ 2007-2009 đồng USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối. Giá dầu thô tháng từ mức 89,4 USD thùng vào tháng 12/2007 lên 135 USD đến 147 USD/ thùng, giá phôi thép tăng khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu sợ giá có thể tăng lên tiếp. - Lạm phát do dự kiến: là tỷ lệ lạm phát hiện tại mà mọi người dự kiến rằng nó sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai. Tỷ lệ lạm phát này sẽ được đưa vào hợp đồng kinh tế, các kế hoạch hay các thỏa thuận khác. - Lạm phát do cung tiền tăng: do lượng tiền phát hành quá nhiều dẫn đến sự mất cân đối giữa cung tiền và cầu tiền hay cung tiền lớn hơn cầu tiền. (Tốc độ tăng
  8. tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so với năm 2006. Tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP). - Lạm phát do nhập khẩu quá nhiều: do nhu cầu nên nhập khẩu tăng nhanh dẫn đến cầu ngoại tệ tăng làm cho giá ngoại tệ tăng nên cung tiền nội tệ tăng làm cho đồng tiền mất giá và lạm phát xảy ra. Nhập siêu của 5 tháng/2008 đã trên 14,4 tỉ USD, cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007 (năm 2007 nhập siêu là 14,12 tỉ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu). c).Tác hại của lạm phát - Nếu lạm phát ở mức 2 – 5% sẽ có tác dụng kích thích sản xuất, bôi trơn nền kinh tế và giúp nền kinh tế tăng trưởng. - Nếu ở mức quá cao sẽ gây nên rất nhiều hậu quả: + Phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân, tập đoàn, các giai cấp trong xã hội. + Có những biến động về cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế. + Dẫn tới sự phản ứng mạnh mẽ của các tầng lớp dân cư, sự phản ứng của công chúng xuất phát từ vấn đề kinh tế này có thể tác động tới sự ổn định về chính trị của một quốc gia. Do đó phản ứng kinh tế vĩ mô của các chính phủ là tìm mọi biện pháp chống lạm phát và kiềm chế lạm phát. II. Tình hình lạm phát ở Việt Nam thời gian qua. 1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. Ta có bảng số liệu tỷ lệ lạm phát từ 2001 đến 2008 (Đơn vị %)
  9. Chỉ tiêu \ Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tỷ lệ tăng GDP 6.89 7.08 7.24 7.7 8.4 8.17 8.48 6.23 5.32 Tỷ lệ lạm phát 0.8 4.0 3.0 9.5 8.4 6.6 12.63 22.3 6.52 Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 10% 8.53% 8.48% 8% 7.82% 7% 7.17% 6.52% 6.50% 6% 5.32% 4% 2% 0% 2001 2003 2004 2006 2007 2008 2009 2010 Năm Tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 Diễn biến lãi suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-2009
  10. 25.0 30.0 Lạm phát 25.0 20.0 Cho vay 20.0 15.0 15.0 Huy động 10.0 10.0 5.0 5.0 0.0 0.0 1/08 2/08 3/08 4/08 5/08 6/08 7/08 8/08 9/08 10/0811/0812/08 1/09 2/09 3/09 4/09 5/09 6/09 7/09 2. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam. Từ những nguyên nhân trên đã gây ra tình trạng lạm phát cao ở nước ta trong những năm gần đây cụ thể là: + Năm 2007, chỉ số CPI nước ta tăng 12.63% đặc biệt là những tháng cuối năm. + Năm 2008, chỉ số CPI liên tục tăng đến cuối năm đạt 22.3% + Năm 2009, chỉ số CPI đạt 6.52%. 3. Một số giải pháp của chính phủ  Chính sách tài khóa chặt  Chính sách tiền tệ chặt  Giải pháp khác:  Cắt giảm đầu tư, chi phí không cần thiết  Đẩy mạnh sản xuất  Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu  Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dung  Quản lý thị trường, chống đầu cơ
  11.  Triển khai mở rộng các chính sách an sinh xã hội  Ổn định tình hình kinh tế xã hội. III Phân tích một vài giải pháp cụ thể của chính phủ. 1. Sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt a) Khái niệm chính sách tài khóa (CSTK). Chính sách tài khóa là việc chính phủ sử dụng thuế khóa và chi tiêu công cộng để tiết kiệm mức chi tiêu chung trong nền kinh tế quốc dân nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế toàn dụng nhân công, bình ổn giá cả. Hai công cụ chính của chính sách tài khóa là chi tiêu của chính phủ và hệ thống thuế. b) CSTK trong mô hình tổng cung tổng cầu (AD-AS). Khi nền kinh tế ở quá xa về bên trái hoặc về bên phải mức sản lượng tiềm năng thì là lúc cần có tác động của chính sách tài khóa để đưa nền kinh tế về mức sản lượng tiềm năng. Khi nền kinh tế đang trong trạng thái lạm phát tăng, chính phủ có thể giảm chi tiêu, tăng thuế hoặc kết hợp cả giảm chi tiêu và tăng thuế nhờ đó mức chi tiêu chung giảm đi, sản lượng giảm theo và lạm phát sẽ chững lại. → Mục tiêu của chính phủ là kiềm soát lạm phát. Qua mô hình AD-AS ta thấy rõ rằng: giả sử ban đầu AD∩AS = E ( Y0,P0). Khi nền kinh tế đang trong tình trạng lạm phát tăng hay AD →AD1. AD1∩AS=E1(Y01,P1) lúc này mục tiêu của chính phủ là kiềm chế lạm phát do đó chính phủ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt tức là giảm chi tiêu của chính phủ làm cho tổng cầu giảm từ AD1→AD, tổng cầu giảm làm cho sản lượng giảm và giá cả giảm hay sản lượng và giá cả có xu hướng trở về trạng thái ban đầu. Hoặc chính phủ tăng thuế làm cho chi tiêu và đầu tư giảm → AD↓ dẫn đến P,Y có xu hướng trở về trạng thái ban đầu. Hoặc kết hợp giảm chi tiêu và tăng thuế thì kết quả cũng tương tự là AD1→ AD.
  12. Kết quả của chính sách tài khóa thắt chặt làm cho tổng cầu giảm, sản lượng và giá giảm theo số nhân chi tiêu dẫn đến kiềm chế được lạm phát. c) CSTK trong mô hình IS-LM Giả sử ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng đường IS cắt đường LM tại điểm E (i0, Y0). Khi chính phủ thực hiện chính sách tài khóa chặt làm cho tổng cầu giảm, dẫn đến đường IS dịch chuyển song song sang trái thành đường IS1. Kết quả:
  13.  Trong ngắn hạn đường IS1 cắt đường LM tại điểm E1 (i1, Y01). Tại điểm E1 ta có i1< i0 và Y01 < Y0.  Trong dài hạn i tăng làm cho đầu tư giảm dẫn đến tổng cầu giảm và sản lượng giảm. Tác động của chính sách tài khóa chặt làm cho tổng cầu giảm và kiềm chế được lạm phát. Về bản chất chính sách tài khóa tác động rất mạnh đến lạm phát đặc biệt là với mô hình kinh tế như Việt Nam hiện nay, từ cả phía thu ngân sách, chi ngân sách cũng như quy mô bội chi ngân sách nhà nước và cách thức bội chi ngân sách nhà nước. Theo nghị quyết số 02/2008/NQ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2008 chính phủ Việt Nam đã sử dụng chính sách tài khóa chặt: kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công. - Điều hành chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước nhất là đầu tư vào các dự án không thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của chính phủ, phấn đấu giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. - Thực hiện việc cắt giảm, sắp xếp lại vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch năm 2008 từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ, tín dụng đầu tư nhà nước và đầu tư của các doanh nhà nước, trước hết là các công trình đầu tư kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì cùng bộ Tài chính triển khai nội dung này ngay trong việc rà soát lại và cân đối nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Các Bộ trưởng, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, theo chức năng nhiệm vụ được giao thực hiện việc rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư để cắt bỏ các công
  14. trình đầu tư kém hiệu quả, tập trung vốn cho những công trình sắp hoàn thành, những công trình đầu tư cho sản xuất hàng hóa thuộc mọi thành phần kinh tế để đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào sản xuất. - Thực hiện tiết kiệm bình quân 10% chi phí hành chính của các cơ quan sử dụng ngân sách nhà nước, thực hiện cắt giảm các khoản chi mua sắm chưa cần thiết, giảm tối đa các hội nghị toàn quốc, giảm chi phí đi lại, tiết kiệm năng lượng, phương tiện triệt để hơn nữa. Giảm các chi phí cho hoạt động lễ hội - Năm 2008 thu ngân sách vượt dự toán, giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Nhờ những chính sách tài khóa thắt chặt này mà tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam năm 2008 là 22,3% đến năm 2009 giảm xuống mức lạm phát một con số là 7%, nền kinh tế Việt Nam phục hồi, tốc độ tăng trưởng GDP tăng trưởng trở lại. Tuy nhiên chính sách tài khóa là công cụ vĩ mô tương đối cứng nhắc, thiếu độ linh hoạt vì mỗi sự thay đổi dự toán chi ngân sách hay thay đổi thuế suất từng sắc thuế đều phải thực hiện theo những quy trình tương đối phức tạp. 2. Sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. a) Khái niệm chính sách tiền tệ (CSTT) Chính sách tiền tệ là hệ thống các giải pháp và công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước và tiền tệ của nhà nước do ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền và hướng nền kinh tế vào sản lượng và việc làm mong muốn. Hai công cụ chính của chính sách tiền tệ là lãi suất và mức cung tiền. Cụ thể là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng. Sử dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để giảm dần lãi suất huy động theo hướng thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Tăng cường kiểm soát và giám sát chặt chẽ hoạt
  15. động của các ngân hàng thương mại để bảo đảm việc tuân thủ đúng các quy định về huy động, cho vay và chất lượng tín dụng. “Để hút bớt tiền ra khỏi lưu thông, 13/2/2008 thống đốc NHNH đã ban hành quyết định 346 về việc ban hành tín phiếu NHNN với tổng giá trị 20300 tỉ VNĐ dưới hình thức bắt buộc đối với các NHTM. Nên lượng tiền được rút khỏi lưu thông khoảng 40000 – 60000 tỉ VNĐ. +Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc (r b ). Giữa năm 2007 rb là 10% tăng gấp 2 lần so với trước đó (2005)và đến 16/1/2008 thống đốc NHNN lại ra quyết định về việc tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc 1% với các NHTM để hạn chế tăng trưởng tín dụng. 30/1/2008 NHNN đã thông báo điều chỉnh tăng các mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu áp dụng từ 1/2/2008 Cụ thể: - Lãi suất cơ bản từ 8,25%/ năm tăng lên 8.75%/ năm - Lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%/ năm tăng lên 7,5%/ năm - Lãi suất chiết khấu từ 4,5%/ năm tăng lên 6%/ năm Sang năm 2009, để kiềm chế lạm phát chặt chễ hơn chính phủ đã phát hành 55.000 tỷ trái phiếu, đưa ra mức lãi suất cơ bản là 7%/năm và tăng lãi suất cho vay lên tối đa là 10,5%/năm để giảm đầu tư.” a) CSTT trong mô hình tổng cung tổng cầu. Giả sử ban đầu thị trường tiền tệ cân bằng tại A(M 0,i0)= MS∩LP hay A’(I0,i0). Giả sử tại E(Y 0,P0)=AD∩ASS nền kinh tế đang tăng trưởng nóng, AD tăng cao lạm phát tăng, giá cả và sản lượng cũng đang tăng do đó mục tiêu mà chính phủ đề ra lúc này là bình ổn giá cả kiềm chế lạm phát. Biện pháp mà chính phủ và ngân hàng trung ương đưa ra lúc này là tăng r b, tăng lãi suất chiết khấu đồng thời bán trái phiếu trên thị trường mở. Lúc này mức cung tiền MS sẽ giảm đến MS1 làm cho đầu tư I giảm từ I 0→I1 và lãi suất i tăng từ i 0→i1 và kết quả là
  16. AD↓ theo hệ số nhân chi tiêu → sản lượng và giá cả giảm. Điểm cân bằng mới E1(Y1,P1)=ASL∩AD1) → kiềm chế được lạm phát. b) CSTT trong mô hình IS-LM Ban đầu nền kinh tế đạt TTCB tại E(Y0,i0)=IS∩LM. Khi chính phủ thực hiện CSTT thắt chặt làm cho LM→LM1 kết quả là:  Trong ngắn hạn: E1(Y1,i1)=IS∩LM1 và tại đây i1>i0, Y1<Y0
  17.  Trong dài hạn chính sách tiền tệ có hiệu quả tốt trong việc kiềm chế lạm phát. 3. Sử dụng kết hợp CSTK thắt chặt và CSTT thắt chặt Hiệu quả của việc sử dụng kết hợp 2 chính sách này là kiềm chế được lạm phát nhanh chóng hơn. Điều đó được thể hiện rõ hơn qua mô hình IS-LM. Giả sử ban đầu nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng E (Y0, i0) =IS∩LM. Khi chính phủ thực hiện -Nếu kinh tế đạt trạng thái cân bằng tại điểm E(Yo;io) = IS LM
  18. _Để giảm bớt tốc độ tăng trưởng khống chế lạm phát chính phủ thực hiện CSTK chặt => IS tịnh tiến sang trái IS1. Điểm cân bằng mới E1(YO1;i1) = IS1 LM _Để giảm bớt sản lượng được nhanh chóng chính phủ cần phối hợp với CSTT chặt => LM tịnh tiến sang LM1 Điểm cân bằng mới E2(Y02;io) = IS1 LM1 Kết Qủa : giảm được sự phát triển quá nóng của nền kinh tế và ổn định lãi suất 4. Một số giải pháp khác mà chính phủ thực hiện. Song song với 2 nhóm biện pháp nêu trên, Chính phủ cũng yêu cầu thực hiện:  tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa  Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu, giảm nhập siêu (Chính phủ phải nới biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% vào ngày 10/03/2008 và từ 1% lên 2% vào ngày 27/06/2008, tận dụng sự trượt giá VND so USD thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu).  Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dung.  Đồng thời tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân.  Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội và đẩy mạnh thông tin và tuyên truyền một cách chính xác, ủng hộ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực nhạy cảm này, tránh thông tin sai sự thật có tính kích động, gây tâm lý bất an trong xã hội. Trong năm 2008 CPI ở ba quí đầu năm liên tục tăng cao tuy nhiên với việc phát hành 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc thì lượng tền trong lưu thông đã giảm
  19. khoảng 40.000-60.000 tỷ VND. Bên cạnh đó việc chính phủ yêu cầu cắt giảm 10% chi tiêu hành chính đã tiết kiệm đươc hơn 300 tỷ VND và ngừng chi cho các công trình kém hiệu quả, các dự án chưa cần thiết số tiền khoảng 599 tỷ VND. Thì CPI ở quí IV năm đã giảm xuống so với các tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0.86%. Đến năm 2009 cùng với sụ nỗ lực kiềm chế lạm phát của chính phủ giá tiêu dùng 3/2009 đã giảm 0.17% so với tháng trước, trong những tháng tiếp theo chỉ số giá có tăng lên nhưng nhờ có sự kiểm soát chặt chẽ của các chính sách nhằm kiềm chế lạm phát của chính phủ, nền kinh tế duy trì được xu hướng tăng giảm dần ở tháng 6,7,8 (tháng 6/2009 tăng 0,55%; tháng 7/2009 tăng 0,5%; tháng 8/2009 tăng 0,24%) Việc kiềm chế lạm phát năm 2009 có thể được coi là đạt kết quả, khi giá tiêu dùng tháng 12 năm nay so với tháng 12 năm trước chỉ tăng 6,52% (nếu tính bình quân năm thì tăng 6,88%), thấp hơn nhiều so với kế hoạch ban đầu (dưới 15%) cũng như kế hoạch đã được điều chỉnh (dưới 10%).
  20. Kết luận Chúng ta nhận thức rằng quá trình lạm phát không đơn giản ngày một ngày hai. Nó là vấn đề nan giải mà các nền kinh tế đang cố gắng kiềm chế, nhưng việc xòa bỏ hoàn toàn lạm phát thì cái giá phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại. Do đó,tiếp tục hoàn thiện mục tiêu chống lạm phát và kìm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội và phát triển bền vững. Phát huy kết quả đạt được trong những năm qua, trong thời gian tới cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu là: Nghiên cứu và đề xuất thực hiện các chính sách bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình sản xuất và chi phí sản xuất, cũng như quan hệ cung - cầu và sự biến động của giá cả thị trường thế giới. Chính vì thế đảng và nhà nước phải luôn thận trọng với các chính sách kiềm chế lạm phát như “chính sách tài khóa thắt chặt, chính sách tiền tệ thắt chặt ” để nền kinh tế nước ta phát triển vững mạnh làm nền tảng để phát triển khoa học giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực và thế giới.
  21. Nhìn lại năm 2009: Kinh tế Việt Nam vượt qua giai đoạn suy giảm Mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với yếu kém nội tại của nền kinh tế, nhưng trong năm 2009, nhìn tổng thể, nền kinh tế nước ta đã vượt qua giai đoạn suy giảm nhờ những giải pháp kịp thời và linh hoạt. ảnh minh họa Trong vòng chưa đầy một năm, nền kinh tế nước ta đã có hai bước ngoặt về sử dụng chính sách kinh tế vĩ mô để thích nghi với tình hình cụ thể, trong đó Chính phủ chủ yếu sử dụng hai nhóm chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để điều tiết vĩ mô, đặc biệt chính sách hỗ trợ lãi suất mang tính đặc thù của nền kinh tế nước ta. Thành công của gói kích thích kinh tế Nếu căn cứ vào mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2009 là ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, thì kết quả của các giải pháp thực hiện từ tháng 12-2008 đến nay là cơ bản đạt được, thể hiện các mặt sau đây: Thứ nhất, đà suy giảm tốc độ tăng GDP đã dừng lại từ quý I-2009 nhờ các biện pháp "ứng cứu" kịp thời, đúng đối tượng và tương đối đồng bộ trong hầu hết các lĩnh vực như an sinh xã hội, kích thích tiêu dùng, hỗ trợ tín dụng để duy trì sản xuất, kinh doanh, tăng đầu tư nhà nước về hạ tầng kỹ thuật và xã hội
  22. Thứ hai, tuy còn nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, HTX và làng nghề tiểu thủ công nghiệp còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều duy trì được sản xuất, cá biệt còn tăng quy mô và tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2008 nhờ nhận được nguồn vốn tín dụng ngắn hạn hỗ trợ lãi suất. Hoàn toàn không xảy ra tình trạng hàng loạt doanh nghiệp phải đóng cửa hay phá sản như đã cảnh báo hồi đầu năm 2009. Sức mua của thị trường vẫn tăng trưởng khá (tăng hơn 10%, nếu loại trừ yếu tố tăng giá). 3. Những hạn chế của nền kinh tế VN và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến các mục tiêu phát triển Mặc dù đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế nêu trên, nhưng nền kinh tế VN còn nhiều hạn chế, qui mô nền kinh tế nhỏ, dấu hiệu của phát triển thiếu bền vững và hiệu quả chưa cao. Mặc dù, năm 2008 là năm đánh dấu VN thoát ra khỏi nhóm nước nghèo nhưng theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới tháng 10/2008 thì VN đứng hạng 170 về thu nhập bình quân đầu người tính theo tỷ giá VNĐ/USD, và đứng thứ 156 về thu nhập bình quân tính đầu người theo phương pháp sức mua tương đương (PPP) trong tổng số 207 nước, vùng lãnh thổ. Quy mô GDP, qui mô xuất khẩu chiếm tỷ trọng tương ứng là 0,34% và 0,3% so với tổng giá trị nền kinh tế và xuất khẩu của toàn thế giới. Các chỉ số xếp hạng về môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, tham nhũng và chỉ số phát triển giáo dục của VN đều có vị trí xếp hạng thấp trong các nền kinh tế thế giới (xem Bảng 5). Bảng 5 :Vị trí nền kinh tế VN trong nền kinh tế thế giới qua các chỉ số (2007)
  23. Nguồn :WB, IMF và UNESCO Kinh tế phát triển có biểu hiện thiếu bền vững đó là hiệu quả và chất lượng tăng trưởng thấp qua các chỉ dưới đây. Thứ nhất, hiệu quả đầu tư thấp qua chỉ số ICOR cao hơn các nước trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao theo các thời kỳ (Bảng 6). Bảng 6: Chỉ số ICOR của VN so với các nước trong khu vực
  24. Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của IMF và World Bank Thứ hai, khoảng cách giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng GDP của VN cao hơn nhiều so với các nước Trung Quốc và Thái Lan (Hình 5). Điều này giải thích tại sao VN có tỷ lệ lạm phát cao hơn tỷ lệ lạm phát ở các nước này trong ba năm qua (2006-2008) (Hình 6). Thứ ba, trong khi các nước Trung Quốc và Thái Lan có cán cân thanh toán dương với qui mô lớn, tăng dần qua các năm, thì VN có cán cân thanh toán là số âm lớn do nhập siêu cao và số nhập siêu cũng tăng dần qua các năm (Bảng 6). Thứ tư, tỷ trọng hàng xuất khẩu của VN năm 2007 chủ yếu là dầu thô chiếm 17,5%, hàng nông sản, hải sản chiếm trên 15%, còn lại là các hàng gia công như hàng may mặc, giầy dép . . Điều này thể hiện VN chưa có những sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, năng suất lao động của VN thấp, lợi thế xuất khẩu chỉ phụ thuộc vào tài nguyên và lao động rẻ. Hình 5: So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100% (Cung tiền đo bằng M2) Nguồn: Số liệu thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của VN và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit. Hình 6: Tỷ lệ lạm phát củaVN và một số nước trong khu vực (2006-2008)
  25. Bảng 6: Cán cân thanh toán của VN và các nước (2006-2008) Nguồn: IMF,WB,2008 Về mặt xã hội, mặc dù đời sống của người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm, nhưng chỉ số bất bình đẳng về thu nhập (Gini) ở VN còn cao, và tăng qua các năm (năm 2004 Gini là 0,423, năm 2006 hệ số này là 0,425). Hệ số Gini cao thể hiện phân hóa thu nhập, phân hóa giàu nghèo cao giữa các tầng lớp dân cư. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, thời kỳ trước năm 1990, các nước có thu nhập thấp có hệ số Gini từ 0,389 (Bangladesh) đến 0,550 Kenya, các nước thu nhập trung bình có hệ số Gini từ 0,378 (Nam Triều Tiên) đến 0,605 (Braxin), các nước kinh tế thị trường công nghiệp có tỷ số Gini từ 0,285 (Nhật ) đến 0,404 (Úc), các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa (trước năm 1990) có hệ số Gini từ 0,284 đến 0,317. Hệ số Gini của VN năm 2006 được thể hiện qua đường cong Lorenz Hình 7. Hình 7: Đường cong Lorenz của VN năm 2006, với hệ số Gini=0,425
  26. Cùng với những hạn chế trên, kinh tế VN cũng chịu tác động của khủng hoảng tài chính thế giới đang gây khó khăn cho VN thực hiện mục tiêu chiến lược. Quá trình hội nhập của VN trên 10 năm qua kể từ khi VN gia nhập khối các nước Đông nam Á-ASEAN, và đặc biệt là sau hai năm sau khi VN trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mang lại những tác động tích cực trong phát triển kinh tế nêu trên. Tuy nhiên, tham gia quá trình hội nhập với kinh tế toàn cầu VN cũng không tránh khỏi các tác động tiêu cực mà đặc biệt là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ và lan rộng ra toàn thế giới mới đây. Nếu như quá trình hội nhập trong những năm qua đã có tác động tích cực vào phát triển kinh tế VN qua hai yếu tố trông thấy rõ rệt nêu trên là tăng xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, thì khi kinh tế thế giới bị khủng hoảng, chúng ta lại chịu ảnh hưởng ngược lại của hai nhân tố này. Hai nhân tố này có đóng góp cao cho tăng trưởng kinh tế VN trong những năm qua, vì vậy khi khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng tiêu cực đến hai nhân tố này sẽ gây thiệt hại đến tốc độ tăng trưởng. Do đó, chúng ta sẽ khó đạt được mục tiêu mong muốn. Bởi lẽ, trong bối cảnh kinh tế thế giới suy giảm chung, đặc biệt là kinh tế Mỹ, hàng hóa ứ đọng chờ người mua, giá cả suy giảm, đầu tư, sản xuất giảm làm tình trạng thất nghiệp thêm trầm trọng. Theo dự báo của IMF, do nhu cầu tiêu dùng của thế giới giảm, làm đầu tư giảm nên mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm từ 3,7%năm 2008 xuống còn 2,2% năm 2009. Khối lượng thương mại, dịch vụ của thế giới cũng giảm từ 4,6% năm 2008 xuống còn 2,1% năm 2009, trong đó nhập khẩu vào các nền kinh tế phát triển là số âm (1,8% năm 2008 và âm -0,1% năm 2009), và xuất khẩu của các nền kinh tế này giảm từ 4,1% năm 2008 xuống 1,2% năm 2009. Trong khi đó thị trường xuất khẩu của VN chủ yếu vào các nền kinh tế phát triển gồm thị trường Mỹ năm 2007 là 21%, Nhật là 12,5%, các nước EU khoảng trên 15 %, Úc (7,3%), Trung Quốc (6,9%), Singapore (4,6%), . Như vậy, việc tiêu thụ hàng hóa của các nước này giảm mạnh trong các tháng cuối năm 2008 và kéo dài (nhập khẩu giảm mức âm) sang năm 2009 sẽ ảnh hưởng mạnh đến kim ngạch xuất khẩu của VN. Dù là qui mô kinh tế nhỏ, nhưng đóng góp của xuất khẩu như đã nêu đóng góp gần 34% cho tăng trưởng GDP của VN, khi xuất khẩu giảm sẽ làm cho GDP giảm tương ứng. Tác động của yếu tố thứ hai là nguồn vốn nước ngoài vào VN qua các kênh đầu tư trực tiếp, gián tiếp sẽ không giải ngân theo số đăng ký hoặc thời gian cam kết. Tình hình giải ngân vốn FDI của VN đang gặp khó khăn, theo số liệu thống kê công bố vốn FDI đăng ký năm 2008 đạt khoảng 60 tỷ USD và vốn thực hiện vào tháng 11 mới là 9 tỷ USD, và theo dự kiến trong năm 2008 sẽ đạt khoảng 12 tỷ USD. Đây là số vốn FDI cao nhất từ trước đến nay, song đa số các dự án FDI lại đầu tư vào khu vực bất động sản, chứ không phải đầu tư cho sản xuất. Vì vậy về ngắn hạn tăng đầu tư này sẽ ít tác động đến tăng trưởng. Trong khi đó do khủng hoảng tài chính thế giới và lạm phát ở VN vẫn còn cao hơn các nước trong khu vực, thị trường tín dụng hoạt động chựng lại, các doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng với lãi suất cao. Một yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng tới giới đầu tư quốc tế cũng như VN hiện nay đó là yếu tố tâm lý và lòng tin. Bản cập nhật của báo cáo viễn cảnh kinh tế thế giới được IMF đưa ra vào tháng 10 nhận định: “Triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu xấu đi nhanh chóng trong tháng rồi, khi lĩnh vực tài chính tiếp tục khủng hoảng trong lúc lòng tin của nhà sản xuất và người tiêu dùng sụt giảm”. Tình hình giải ngân các dự án Chính phủ vay vốn ODA và các dự án FDI chậm cùng với việc giảm lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng làm hạn chế khả năng tăng trưởng của kinh tế VN. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của chúng ta đã được điều chỉnh từ 8,5% xuống còn 6,5% năm 2008. Con số dự báo của IMF về tăng trưởng kinh tế VN năm 2008 là 6,3%, và năm 2009 sẽ còn giảm xuống khoảng 5,5%, theo xu hướng giảm chung của kinh tế thế giới. 4. Kết luận và kiến nghị Hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, kinh tế VN không ngừng phát triển với tốc độ cao, VN đã thoát ra khỏi nhóm các nước có mức thu nhập thấp, mức sống người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm mạnh, nền kinh tế đang chuyển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, như đã trình bày, những hạn chế và những thách thức của hội nhập không phải là ít. Nhiều chỉ số phát triển còn thấp. Để phát triển đất nước theo mục tiêu về cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, một số chỉ tiêu phát triển VN phải đạt được đó là GDP/người phải > 3.000 USD, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP phải 50% . Với những chỉ tiêu phát triển trên của một nước công nghiệp, đòi hỏi VN phải có một chiến lược phát triển phù hợp. Trong 11 năm tới chúng ta phải đạt được mức GDP/người gấp ba lần hiện nay, tốc độ tăng bình quân mỗi năm phải 9,6%. Đây là mức phấn đấu vô cùng khó khăn, do qui mô nền kinh tế và thu nhập đã cao nhiều so với thời kỳ trước (mốc thu nhập đầu người của năm 1990 chỉ là hơn 100
  27. USD, hiện nay trên 1,000 USD), đạt được tốc độ tăng bình quân cao là rất khó so với khi qui mô nền kinh tế nhỏ. Mặc dù dân số đô thị của VN hiện chiếm khoảng 30%, nhưng dân số làm nông nghiệp của VN còn cao khoảng 70%, và lao động nông nghiệp trên 54%, trong khi đó GDP nông nghiệp chỉ khoảng 18%, điều này cho thấy năng suất lao động nông nghiệp rất thấp. Từ những nhận định trên, để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển đất nước, VN cần có các chiến lược tổng thể và chiến lược bộ phận. Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược và chính sách phát triển nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn gắn với chiến lược đô thị hóa và công nghiệp hóa; Thứ hai, chiến lược công nghiệp hóa phải gắn liền với chiến lược xuất khẩu. Điều quan trọng là VN phải xác định được những nhóm ngành nghề có lợi thế cạnh tranh cao, đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chế biến có giá trị gia tăng và năng suất lao động cao thay vì hàng nông sản và gia công như hiện nay. Chúng ta cần có những mặt hàng mang thương hiệu VN có giá trị gia tăng và năng suất cao thì mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới-một yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Như GS Michael Porter trong cuộc nói chuyện mới đây tại VN đã nhận định “cho đến nay các nhóm ngành sản xuất đồ may mặc, giầy dép, thủy hải sản, tài nguyên dầu khí, nông sản là những ngành chủ đạo của nền kinh tế VN. Trong tương lai mỗi nhóm ngành này phải được nâng lên một bước để cạnh tranh tốt hơn bằng mẫu mã do VN tự thiết kế, công nghệ máy móc tự chế tạo, sản xuất không chỉ ở trong nước mà cả ở những nước láng giềng để cung cấp cho không chỉ khu vực mà cả thế giới”. Nền kinh tế VN như đã nêu dù có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng hiệu quả thấp so với nhóm nước trong khu vực. Nền kinh tế chỉ phát triển bền vững khi nó có hiệu quả, đảm bảo công bằng xã hội và tránh các tác hại về môi trường. Vì vậy các chiến lược và chính sách phát triển của VN trong giai đoạn tới phải đảm bảo hài hoà các chỉ tiêu phát triển và đảm bảo các điều kiện công bằng xã hội, chất lượng cuộc sống, và môi trường trong sạch ít ô nhiễm. Thứ ba, không xảy ra tình trạng tăng số người thất nghiệp ở đô thị. Thậm chí hiện nay đang thiếu lao động trong các khu công nghiệp, các ngành may mặc, da giày, xây dựng Sức cầu lao động và tiền lương đang có xu hướng tăng. Thứ tư, xuất khẩu là lĩnh vực chịu tác động mạnh nhất của suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng tình hình xuất khẩu cả năm vẫn đạt được kết quả tương đối khá hơn tình hình chung của thị
  28. trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 ước đạt 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với cùng kỳ, nhưng vẫn khá hơn so với nhiều nước (giảm từ 20-30%). Nhập siêu giảm còn ở mức 11 tỷ USD, chiếm 16,5% kim ngạch xuất khẩu (năm 2008 con số tương ứng là 18 tỷ USD và 28,8%). Thứ năm, tình hình kinh tế vĩ mô được ổn định hơn. Lạm phát được kiểm soát dưới 7% so với tháng 12-2008; hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng ổn định hơn. Lãi suất và tỷ giá hối đoái được điều chỉnh tương đối linh hoạt, phù hợp tình hình thị trường; hệ số an toàn của các ngân hàng thương mại được nâng lên; chưa có dấu hiệu tăng nợ xấu Thứ sáu, công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ vừa tập trung, vừa linh hoạt nên có tác dụng làm tăng hiệu quả của các chính sách vĩ mô; củng cố niềm tin cho doanh nghiệp; tác dụng tích cực đến tâm lý nhân dân, góp phần ổn định đời sống chính trị, xã hội. Kinh tế phục hồi nhưng vẫn còn nhiều khó khăn Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, tình hình kinh tế còn một số vấn đề sau đây: Nền kinh tế tuy vượt qua giai đoạn suy giảm sâu, nhưng vẫn còn nguyên vẹn những hạn chế cố hữu của cơ cấu kinh tế; những nguyên nhân bên trong gây bất ổn về vĩ mô. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, bài học được rút ra quan trọng cho nền kinh tế nước ta là sự bất cập của mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều ngang, chủ yếu dựa vào sự tăng vốn đầu tư, sử dụng lao động rẻ, khai thác tài nguyên thô và gia công hàng xuất khẩu Tuy nền kinh tế đã vượt qua "đáy suy giảm", nhưng tốc độ phục hồi còn chậm và đang chịu ảnh hưởng của những biến động của thị trường thế giới, nên sự trì trệ còn có thể kéo dài trong nửa đầu năm 2010. Nhiều doanh nghiệp đã phục hồi sản xuất, kinh doanh, nhưng đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, tiếp tục hoạt động trong trạng thái "cầm cự" để tồn tại, lúng túng về hướng kinh doanh, do sức mua của thị trường tăng trưởng chậm. Do đó, cần đề phòng xảy ra tình trạng nền kinh tế phục hồi theo dạng chữ W, nếu có những biến động bất lợi của thị trường thế giới vào thời điểm đầu năm 2010. Việc triển khai gói hỗ trợ lãi suất, tăng dư nợ tín dụng, cùng với việc tăng bội chi ngân sách đang tạo ra nguy cơ gây tái lạm phát trong thời gian tới do độ trễ của vòng quay tiền. Cho đến nay chưa lường hết "tác dụng phụ" của gói kích thích kinh tế đã và đang áp dụng, nhất là
  29. khó kiểm soát vòng quay của nguồn tín dụng ngắn hạn có nguy cơ sử dụng sai mục đích, tạo áp lực lạm phát hoặc tạo "bong bóng" ở những lĩnh vực nhạy cảm với đầu cơ. Tiến độ triển khai các dự án đầu tư từ nguồn ngân sách theo Nghị quyết của Quốc hội rất chậm, nên tác dụng của việc tăng chi ngân sách để kích cầu còn nhiều hạn chế. Việc phát hành trái phiếu của Chính phủ gặp khó khăn về thị trường và có khả năng không thực hiện được theo kế hoạch đã báo cáo Quốc hội. Cần lưu ý, việc sử dụng biện pháp tăng chi ngân sách để kích cầu trong điều kiện nền kinh tế đang thiểu phát, sức cầu thấp chỉ là biện pháp ngắn hạn, mang tính cơ hội, nếu triển khai chậm, khi tình hình đã thay đổi thì sẽ ít hiệu quả và có nguy cơ gây áp lực lạm phát. Ðây là vấn đề cần lưu ý về gói giải pháp tăng chi ngân sách để tăng đầu tư công đang thực thi. Hướng đến mục tiêu hồi phục bền vững Diễn biến tình hình kinh tế thế giới từ đầu năm đến nay cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chắc chắn không dẫn đến một cuộc đại khủng hoảng kinh tế như thời kỳ 1929 - 1933 mà đã có nhiều người lo lắng. Tác động của khủng hoảng tài chính đã dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng đến nay có thể tin rằng, sự suy giảm đã chạm đáy. Có thể nói thế giới đang thật sự bước vào thời kỳ hậu khủng hoảng. Các quốc gia đang nỗ lực thực hiện các chiến lược riêng của mình; một cuộc chạy đua mới đang diễn ra, mặc dù tốc độ phục hồi chung của nền kinh tế toàn cầu rất chậm và phần nào đó trì trệ cho đến giữa năm 2010, khi niềm tin của nhà đầu tư và tính ổn định của nền tài chính được củng cố. Ðối với nền kinh tế nước ta, nếu xét về hệ thống tài chính tín dụng, thì thời điểm khó khăn nhất đã rơi vào quý II-2008, còn tăng trưởng kinh tế khó khăn nhất cũng đã rơi vào quý I- 2009. Năm 2010 có thể xem là thời kỳ phục hồi và trên thực tế nền kinh tế nước ta đang phục hồi ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế. Nếu tình hình kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, kinh tế toàn cầu không có biến động lớn, với sự năng động vốn có của doanh nghiệp Việt Nam, thì mục tiêu tăng GDP năm 2010 với mức 6,5% là có tính khả thi. Vấn đề trọng tâm của giai đoạn "sau suy giảm" là tổ chức lại nền kinh tế nhằm chuyển nền kinh tế từ tính chất gia công sang sản xuất; tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; chuyển nền kinh tế từ lệ thuộc sang tương thuộc trong quá trình hội nhập nhằm xác lập vị thế của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ "hậu khủng hoảng" của thế giới với sự dự báo sẽ diễn ra cuộc chạy đua nhằm thay đổi trật tự kinh tế quốc tế trong quan hệ toàn cầu và khu vực. Do đó, Chính phủ cần có một Chương trình tổng thể để thực hiện mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng nâng cao sức cạnh tranh, với một lộ trình rõ ràng, có mục tiêu định lượng cụ thể, kèm theo các chính sách kinh tế, tài chính bảo đảm cho việc thực thi các mục tiêu đề ra. Một chương trình như vậy cần được ban hành sớm để thực
  30. hiện từ năm 2010 nhằm hỗ trợ và định hướng đầu tư cho doanh nghiệp ngay từ giai đoạn phục hồi, góp phần đưa nền kinh tế bước sang giai đoạn hồi phục theo hướng bền vững. Từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, có thể nhìn thấy những "thị trường mới nổi" nào phục hồi nhanh đều khai thác có hiệu quả thị trường nội địa của họ. Ðiều kiện tiên quyết để có thể chuyển hướng nhanh từ thị trường xuất khẩu sang thị trường nội địa là tỷ trọng nội địa hóa cao trong cơ cấu giá trị hàng hóa được sản xuất ở nước đó. Với tính chất của một nền kinh tế có tỷ trọng nội địa hóa hàng hóa sản xuất trong nước thấp, thì khó có thể khai thác có hiệu quả thị trường nội địa. Thực tế cho thấy, khi Chính phủ ban hành Quyết định số 497/QÐ- TTg về hỗ trợ tín dụng cho khu vực nông thôn đã vấp ngay trở ngại về "hàng nội địa", nên hiệu quả rất thấp. Chủ trương của Bộ Chính trị khuyến khích người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam là đúng đắn, nhưng để chủ trương này mang lại kết quả cao, cần tổ chức lại nền sản xuất, xây dựng thương hiệu Việt Nam, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Chính sách và giải pháp kinh tế hiện nay cần định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng thị trường nội địa và gắn vấn đề này với việc hỗ trợ tín dụng trung hạn, dài hạn cho các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, phát triển sản phẩm mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong hai năm qua, nhất là giai đoạn nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát cao từ cuối năm 2007 đến giữa năm 2008, do biến động của kinh tế vĩ mô và phần nào do yếu tố tâm lý, việc huy động vốn trung hạn, dài hạn gặp khó khăn. Hoạt động của thị trường chứng khoán chủ yếu ở thị trường thứ cấp; doanh nghiệp không có khả năng huy động vốn trực tiếp trên thị trường, mà phải dựa vào các định chế tài chính - tín dụng trung gian nên nguồn vốn đầu tư trung hạn, dài hạn phải dựa vào hệ thống ngân hàng thương mại. Vừa qua để bảo đảm an toàn của hệ thống, ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh cơ cấu tín dụng trung hạn, dài hạn trong dư nợ tín dụng của ngân hàng thương mại từ 40% xuống còn 30% nên nguồn tín dụng này sẽ căng thẳng trong thời gian tới. Ðể hỗ trợ cho doanh nghiệp tận dụng thời cơ đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu thị trường, thì cần phải có giải pháp cho nguồn vốn trung hạn, dài hạn ngoài hệ thống ngân hàng thương mại thông qua vai trò của thị trường chứng khoán và các định chế đầu tư. Nguồn đọc thêm: Kinh tế Việt Nam năm 2008 nhìn từ CPI và GDP 29.12.2008 Kinh tế Việt Nam 2008 đã không còn nằm ngoài dòng chảy của kinh tế thế giới như cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997. Lạm phát đã từng trở thành tâm điểm của điều hành chính sách vĩ mô khi giá cả các mặt hàng lên tới mức đỉnh điểm. Nền kinh tế đang từ mức phát triển quá nóng rồi đột ngột phải hãm phanh, lo ngại lạm phát vừa được đẩy lùi đã phải đối phó với khả năng giảm phát khi cuối năm nền kinh tế thế giới đồng loạt rơi vào suy thoái. GDP đã không thể về đích GDP của Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã không thể về đích. Cả năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam là 6,23%, chỉ số lạm phát ở mức 19,9%. Trước đó, ngày 22/4, Chính phủ tuyên bố điều chỉnh GDP năm 2008 từ mức 8,5% - 9% xuống 7%. Từ 8 nhóm giải pháp hạn chế lạm phát Già nửa đầu năm 2008, lạm phát là vấn đề số 1 của chính sách kinh tế. Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng liên tục leo thang từ tháng 2, đạt đỉnh điểm vào tháng 5 (tăng 3,19%).
  31. Hội tụ đầy đủ các nguyên nhân từ lạm phát Biểu đồ tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2008 do cầu kéo, lạm phát do chi phí đẩy và dư (%) thừa tiền tệ. Chính phủ đã phải ra các biện pháp khắc phục cho từng nguyên nhân. Lạm phát chi phí đẩy và nhập khẩu lạm phát, thời kỳ này đồng USD yếu làm giá cả hàng hóa thế giới, đặc biệt từ các nước xuất khẩu hàng sang Việt Nam tăng lên tương đối. Giá dầu thô tháng từ mức 89,4 USD thùng vào tháng 12/2007 lên 135 USD đến 147 USD/ thùng, giá phôi thép tăng khiến các doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu sợ giá có Số liệu: Tổng cục thống kê thể tăng lên tiếp. Nhập siêu trở thành vấn đề nghiêm trọng. Nhập siêu của 5 tháng/2008 đã trên 14,4 tỉ USD, cao hơn mức nhập siêu của cả năm 2007 (năm 2007 nhập siêu là 14,12 tỉ USD, bằng 29% kim ngạch xuất khẩu). Mức tăng của CPI vào tháng 5 cũng đạt mức đỉnh điểm của năm. Chính phủ phải nới biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% vào ngày 10/03/2008 và từ 1% lên 2% vào ngày 27/06/2008, tận dụng sự trượt giá VND so USD thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu.
  32. Lạm phát do cầu kéo Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6 nghìn tỉ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt đạt 21,3 tỉ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỉ USD, cao hơn 77% so với năm 2006. Tổng chi ngân sách nhà nước đạt 399,3 nghìn tỉ đồng, vượt khoảng 12% so với dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 56,5 Số liệu : Tổng cục hải quan nghìn tỉ đồng, bằng 5% GDP. Thâm hụt cán cân thương mại là 14,12 tỉ USD, bằng 29% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng gấp hơn 2,5 lần so với năm 2006. Đà tăng trưởng đó khiến lượng tiền đồng trong nền kinh tế tăng lên, cao hơn so với sức hấp thụ của nền kinh tế, gia tăng áp lực lạm phát. Lạm phát do thừa tiền, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Tính đến 31-12-2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với 31/12/2006. Tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế năm 2007 tăng 58% so với năm 2006. Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền kinh tế trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỉ USD, tương đương 30% GDP. Để duy trì tỷ giá USD, Ngân hàng nhà nước đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỉ USD (năm 2006) lên 21,6 tỉ USD (năm 2007) và đẩy một lượng lớn nội tệ ra thị trường.
  33. Chính phủ đã thực hiện cắt giảm đầu tư công, hạn chế tín dụng bằng việc buộc NHTM phải mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, khống chế dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế năm 2008 xuống 30%. 8 nhóm giải pháp hạn chế lạm phát (ngày 7/5/2008) 1. Thắt chặt tiền tệ; 5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và 2. Cắt giảm đầu tư, chi phí không cần tiêu dùng; thiết; 6. Quản lý thị trường, chống đầu cơ; 3. Đẩy mạnh sản xuất; 7. Triển khai mở rộng các chính sách an 4. Đảm bảo cân đối các mặt hàng chủ sinh xã hội; yếu, đẩy mạnh xuất khẩu, chống nhập siêu; 8. Ổn định tình hình kinh tế xã hội. Đến chỉ số giá tiêu dùng tăng trưởng âm, xuất khẩu sụt giảm và gói kích cầu 6 tỷ USD
  34. Xuất khẩu và nhập khẩu liên tục sụt giảm từ tháng 7/2008 (Số liệu Tổng cục hải quan) Trong vòng bảy tháng, sau khi ban hành tám nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát, giúp hạ nhiệt nền kinh tế vào 17/4/2008. Ngày 11/12/2008, Chính phủ ban hành 9 chính sách thuế nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế. Như giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, giãn thời gian nộp thuê thu nhập doanh nghiệp, tạm hoàn 90% thuế GTGT đầu vào dù chưa có chứng từ thanh toán, tăng thuế nhập khẩu và hạ thuế xuất khẩu một số mặt hàng nhằm ổn định đầu vào sản xuất, khuyến khích xuất khẩu. Trước đó, ngân hàng nhà nước đã liên tục có các động thái giảm lãi suất cơ bản kéo trần lãi suất cho vay xuống, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn để sản xuất kinh doanh. Đến ngày 22/12, lãi suất cơ bản hạ xuống còn 8,5% về gần bằng mức đầu năm là 8,25%, sau khi lên cao nhất ở mức 14% năm.
  35. Đồng thời hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất cho vay tái chiết khấu, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, để hỗ trợ vốn cho ngân hàng. Dự định triển khai gói kích cầu 6 tỷ USD Các nước lần lượt công bố các gói kích cầu hỗ trợ nền kinh tế. Mỹ 3/10/2008 thông qua kế hoạch gói 700 tỷ USD để cứu ngành ngân hàng. Châu Âu kế hoạch 267 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế (ngày 12/12/2008). Trung Quốc, kế hoạch 586 tỷ USD kích thích tăng trưởng kinh tế. Không nằm ngoài dòng chảy kinh tế thế Số liệu: Ngân hàng Nhà nước giới, ngày 24/12/2008, trong buổi họp báo của Văn phòng Chính phủ, nhiệm vụ trọng tâm được Chính phủ đề ra là “ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng 6,5%, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội”. Chính phủ dự định triển khai gói kích cầu 6 tỷ USD, trong đó 1 tỷ USD dùng để hỗ trợ lãi suất cho vay của các ngân hàng với mức 4%. Còn lại là chính sách dùng để hoãn, giảm thuế cho doanh nghiệp. (Nguồn Cafef) Toàn cảnh kinh tế Việt Nam năm 2008 và dự báo 2009 Thứ Tư, 25/03/2009, 17:04 In tin Gửi email RSS Bình luận SanOTC- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã và đang tác động mạnh mẽ lên nền kinh tế Việt Nam và gây ảnh hưởng nặng nề tới tất cả các chủ thể trong nền kinh tế từ
  36. các doanh nghiệp, người lao động và gia đinh của họ khiến tình trạng của nền kinh tế xấu đi trông thấy Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã trải qua những trạng thái hoàn toàn trái ngược từ quá nóng sang quá lạnh. Những tháng đầu năm 2008 do giá nguyên liệu, dầu mỏ và lương thực tăng chóng mặt kèm theo chính sách nới lỏng tiền tệ và tài khóa một cách quá mức của chính phủ trong những năm trước đây đã tạo là chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng 17 năm qua lên đến 23%. Đồng thời với đó do nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả gây ra nhập khẩu tăng vọt đẩy thâm hụt thương mại lên mức kỉ lục là 17 tỷ USD. Mức thâm hụt lớn này gây sức ép lên VND và khiến VND có khả năng bị mất giá nghiêm trọng. Trước hoàn cảnh khó khăn đó chính phủ Việt Nam đã thực thi hàng loạt các biện pháp cấp bách như thắt chặt tiền tệ (lãi suất cơ bản có lúc đã đẩy lên đến mức 14%), siết chặt đầu tư công và chi tiêu chính phủ bằng việc đình hoãn, hủy bỏ hàng loạt các dự án chưa cấp bách. Các chính sách này đã tỏ ra hiệu quả khi lạm phát đã hạ nhiệt vào các tháng cuối năm, thâm hụt thương mại giảm bớt qua đó tỷ giá VND/USD đã trở nên cân bằng và ổ định hơn. Nền kinh tế Việt Nam đã thoát khỏi nguy cơ đổ vỡ. Tuy nhiên chưa kịp hoàn hồn, ngay sau đó Việt Nam lại tiếp tục phải đối mặt với những thử thách cam go hơn đến từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ những tháng cuối
  37. năm 2008. Cuộc khủng hoảng này đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế Việt Nam khi nhu cầu hàng hóa của toàn cầu suy giảm nghiêm trọng. Điều này dẫn tới sự sụt giảm xuất khẩu cũng như đầu tư của Việt Nam tạo ra nguy cơ suy thoái kinh tế và đe dọa làm mất cân bằng cán cân thương mại một lần nữa. Quan sát các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Việt Nam trong năm 2007 và 2008 có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đã yếu đi rõ rệt và dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết. Bảng1: Các chỉ tiêu kinh tế Việt Nam năm 2007&2008 2007 2008 Tăng trưởng GDP (%) 8.5 6.2 Tăng trưởng tiêu dùng cá nhân(%) 9.6 3.9 Tăng trưởng chi tiêu công (%) 8.9 8.0 Tăng trưởng đầu tư (%) 23.0 14.0 Tăng trưởng xuất khẩu (%) 15.2 10.6 Tăng tưởng nhập khẩu (%) 21.3 15.1 Chỉ số giá tiêu dùng (avg, %) 12.6 b 23.0 Tỷ giá hối đoái, VND:USD 16,096 16,989 Thực trạng Kinh tế Việt Nam năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã phải chịu hai tác động nặng nề, đó là chính sách tiền tệ và tài khóa được thắt chặt khá đột ngột nhằm hãm đà lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ và sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Sau 3 năm đạt mức tăng trưởng GDP hết sức ấn tượng ở mức trên 8 % thì năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 mức tăng trưởng đã chậm lại rõ rệt. Năm 2008 tăng trưởng GDP chỉ đạt 6.2 % trong khi 3 tháng đầu năm 2009 tăng trưởng GDP chỉ đạt 3,1%. Năm 2008 Nông nghiệp chỉ tăng 3,8%, công nghiệp tăng 6,3%, dịch vụ tăng 7,2%. Đây là những mức tăng khiêm tốn nhất trong 10 năm trở lại đây và là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang chững lại. Tiêu dùng toàn xã hội: Trong bối cảnh lạm phát tăng cao những tháng đầu năm, sau đó lại là suy giảm tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm khiến thu nhập thực tiễn của người tiêu dùng Việt Nam giảm đáng kể, người tiêu dùng Việt Nam đã phản ứng bằng cách thắt chặt chi tiêu cá nhân. Tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng năm 2008 chỉ là 3,9 % mức tăng rất thấp
  38. nếu so với mức 9,6% của năm 2007 và tỷ lệ này tiếp tục suy giảm trong những tháng đầu năm 2009. Chi tiêu chính phủ: Chi tiêu chính phủ tăng khoảng 8% trong năm 2008 giảm 1%so với mức tăng năm 2007. Sự suy giảm này gây bởi từ chính sách tài khóa thắt chặt quyết liệt của chính phủ nhằm hạ nhiệt lạm phát. Tuy nhiên một phần lớn phần ngân sách tiết kiệm được này lại dùng để trả lương cho các công chức chính phủ do đó thâm hụt ngân sách năm 2008 vẫn ở mức cao chiếm 5% GDP. Mức thâm hụt ngân sách cao cộng với nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu suy giảm khiến chính phủ khó lòng gia tăng chi tiêu trong năm 2009. Điều này khiến chính sách kích cầu và nới lỏng tiền tệ của chính phủ trở nên kém hiệu quả. Đầu tư toàn xã hội: đầu tư trong năm 2008 đã tăng chóng mặt lên đến mức tăng 11.2%. Mặc dù có những mối quan ngại về nền kinh tế đang xấu đi nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng kí vào Việt Nam vẫn tăng mạnh. Luồng vốn FDI được duyệt lên đến 64 tỷ USD, gấp 3 lần năm 2007. Tuy nhiên trên thực tế vốn giải ngân thực sự ít hơn nhiều chỉ khoảng 11 tỷ USD. Trong năm 2009 nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã có sự suy giảm rõ rệt do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Thống kê 3 tháng đầu năm 2009 Trong ba tháng đầu 2009 Việt Nam chỉ thu được 2,1 tỷ USD đầu tư nước ngoài.Số tiền cam kết cho các dự án đã khởi động dự tính sẽ đạt 6 tỷ USD trong ba tháng đầu năm, thấp hơn so với năm ngoái tới 40%. Trong khi đó đầu tư công khó có khả năng tăng trở lại do thâm hụt ngân sách của Việt Nam đang ở mức rất cao. Các doanh nghiệp đang gặp khó khăn cả về vốn lẫn đầu ra sản phẩm nên họ cũng không mặn mà với việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này khiến cho tổng mức đầu tư toàn xã hội sẽ suy giảm mạnh trong năm 2009. Xuất khẩu: Từ năm 2001 Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế hướng tới xuất khẩu và chiến lược này thực sự đã gặt hái được một số thành công. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đã trở nên phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu khi xuất khẩu chiểm đến 70 % GDP. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng toàn câu hiện nay đã ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu của Việt Nam do các thị trường tiêu thụ sản phẩm chính bị thu hẹp. Thống kê cho thấy xuất khẩu 3 tháng đầu năm 2009 khả ảm đạm. Mặc dù xuất khẩu của VN trong tháng 3 giảm 2,8% so với cùng kỳ năm 2008, chỉ có 9/35 mặt hàng xuất khẩu được thống kê tăng, còn lại là giữ nguyên và giảm nhưng nhờ lượng tái xuất vàng, đá quý tăng vọt lên tới trên 2 tỉ USD trong ba tháng đầu năm, giúp xuất khẩu cả quý 1 tăng 2,4%. Tuy nhiên, ba tháng kim ngạch xuất khẩu mới đạt khoảng 19% kế hoạch năm. Xuất khẩu ba tháng qua của hơn mười mặt hàng
  39. chủ lực như điện tử và linh kiện máy tính, thủy sản, cà phê, hạt điều, dầu thô giảm 10-20%, có mặt hàng giảm gần 50% như cao su, dây cáp điện Điều này chứng minh các doanh nghiệp (DN) VN đang chịu ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng kinh tế thế giới. Mặc dù 3 tháng đầu năm Việt Nam xuất siêu nhưng chủ yếu là nhờ tái xuất vàng và đây không phải là điều đáng mừng bởi không ảnh hưởng gì tới sản xuất. Tóm lại năm 2009 nền kinh tế Việt Nam sẽ gặp phải những thử thách hết sức khốc liệt và nguy cơ suy giảm tăng trưởng vẫn đang hiện hữu. Tuy nhiên với những chính sách điều hành kinh tế linh hoạt của Chính phủ và nỗ lực của toàn xã hội, kinh tế Việt Nam sẽ đứng vững tạo nền tảng cho sự tăng trưởng bền vững trong những năm tiếp theo. Tình hình phát triển kinh tế – xã hội nước ta trong năm 2008 đã chịu tác động tương tác giữa quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác. Nền kinh tế toàn cầu biến động phức tạp: giá dầu tăng mạnh và giá lương thực leo thang đến tháng 8/2008; khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ vào tháng 9/2008 và nền kinh tế thế giới lún sâu vào suy thoái. Trước tình hình lạm phát gia tăng từ quí III/2007, từ tháng 4/2008 Chính phủ đã có bước ngoặt chuyển hướng chính sách từ thúc đẩy tăng trưởng sang kiềm chế lạm phát. Từ tháng 10/2008, nền kinh tế lại phải gồng mình chống đỡ tác động hết sức tiêu cực của cơn bão khủng hoảng và suy thoái toàn cầu. Một lần nữa, Chính phủ lại chuyển hướng chính sách, tập trung chống suy giảm kinh tế cùng tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Chính sách tiền tệ được nới lỏng dần và từ tháng 12/2008, một gói 6 tỷ USD kích thích kinh tế được chính thức triển khai nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phát triển kết cấu hạ tầng, kích thích tiêu dùng và giảm thiểu khó khăn xã hội. Trong bối cảnh có những biến động không thuận của thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2008 đã chậm lại, còn 6,2% so với 8,5% năm 2007. Đây là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2000; hơn nữa tăng trưởng quí IV/2008 chỉ đạt 5,7% so với 6,5% của ba quí đầu năm 2008. Dẫu vậy, việc đạt được mức tăng trưởng 6,2% vẫn đáng được ghi nhận, nhất là so với nhiều nước đang phát triển và trong khu vực. Đặc biệt, trong khi tăng trưởng của khu vực công nghiệp-xây dựng sụt giảm đáng kể (6,1% so với 10,2% năm 2007), thì khu vực nông-lâm-thủy sản lại có tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2007 (4,1% so với 3,8%), thể
  40. hiện ý nghĩa to lớn của khu vực này trong phát triển đất nước cũng như trong giải quyết các vấn đề xã hội trong tình hình khó khăn. Bảng 1: Tăng trưởng GDP, 2004-08 (%) Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK) và tính toán của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (Viện NCQLKTTƯ). Vốn đầu tư xã hội vẫn chiếm tỷ trọng cao, bằng 40,9% GDP, tuy đã thấp hơn so với tỷ lệ 46,5% GDP năm 2007. Mức đầu tư cao chủ yếu do vốn đầu tư khu vực FDI và khu vực ngoài nhà nước tăng mạnh, tương ứng 48,7% và 19,3% so với năm 2007. Vốn đầu tư khu vực nhà nước giảm mạnh (-11,9%), phù hợp với chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt. Năm 2008 là năm đầu tiên vốn đầu tư nhà nước, đã từng có tỷ trọng lớn nhất trong nhiều năm, trở thành có tỷ trọng nhỏ nhất trong tổng vốn đầu tư xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư của khu vực nhà nước, nhất là của các tập đoàn và các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) qui mô lớn vẫn là một dấu hỏi lớn. Đặc biệt, sau hơn hai năm dòng vốn FDI ồ ạt đổ vào Việt Nam, nền kinh tế đã và đang bộc lộ nhiều bất cập cản trở khả năng hấp thụ vốn hiệu quả. Hơn nữa, việc thu hút FDI còn tiềm ẩn khá nhiều rủi ro và thách thức. Qui hoạch và phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư vẫn còn nhiều bất cập. Thương mại quốc tế năm 2008 có bước chuyển biến mới. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 62,7 tỷ USD, tăng 29,1%; tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 80,7 tỷ USD, tăng
  41. 28,6% so với năm 2007. Nước ta đã trở thành một nền kinh tế có độ mở cao xét theo tỷ trọng xuất nhập khẩu trên GDP (160,7% GDP và 177,5% GDP nếu tính cả thương mại dịch vụ). Tuy nhiên, thương mại dịch vụ chưa thật phát triển, năm 2008 chỉ bằng 10,5% thương mại hàng hóa, mức thấp hơn nhiều tỷ lệ trên 20% của thế giới. Cũng đã bắt đầu xuất hiện xu thế đa dạng hóa mặt hàng để đối phó với rủi ro trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào các nhóm hàng khoáng sản và nông – lâm – thủy sản thô, sơ chế; hàng công nghiệp chế biến chủ yếu vẫn là gia công lắp ráp. Một đặc trưng của năm 2008 là tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô. Lạm phát leo thang; thâm hụt thương mại hàng hóa và thâm hụt cán cân vãng lai lớn, rủi ro hệ thống tài chính ngân hàng tăng. Tình hình kinh tế vĩ mô đã trở nên ổn định hơn từ tháng 8/2008. Đặc biệt lạm phát giảm nhanh trong quí IV/2008, dẫn đến lạm phát cả năm còn gần 20%, tuy vẫn cao song đã thấp hơn nhiều mức tháng 8/2008. Tốc độ tăng trưởng giảm đồng nghĩa với tình trạng doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, cắt giảm lao động. Vào tháng 7/2008, tổng số người thất nghiệp ở thành thị tăng 2,7% so với năm 2007, đưa tỷ lệ thất nghiệp của khu vực thành thị lên 4,7% so với 4,6% năm 2007. Con số người thất nghiệp, mất việc làm và phải giảm giờ làm còn tăng cao hơn nữa trong nửa cuối năm 2008. Hơn nữa, lạm phát cao càng làm giảm thu nhập thực của đa số dân cư và có tác động rất xấu đến nhóm người nghèo, thu nhập thấp. Vấn đề đảm bảo an sinh xã hội năm 2008 đã được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Bên cạnh hệ thống chính sách hỗ trợ xã hội có tính thường xuyên, nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực đã được thực hiện nhằm giảm thiểu thiệt hại và khó khăn cho người nghèo, thu nhập thấp và các nhóm xã hội dễ bị tổn thương khác. Tuy nhiên, các chương trình hỗ trợ xã hội thường triển khai chậm, không hiếm trường hợp không đúng đối tượng, trong khi lại thiếu những đánh giá về hiệu lực, hiệu quả chương trình. Những kết quả đáng ghi nhận về kinh tế – xã hội cũng như những khó khăn nền kinh tế phải trải qua trong năm 2008 đã để lại nhiều bài học chính sách sâu sắc. - Trước hết, hội nhập sâu rộng hơn đem lại nhiều cơ hội to lớn, những cũng đồng nghĩa rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô có thể tăng lên. - Quyết định mục tiêu chính sách và phản ứng chính sách kịp thời phải dựa trên việc bám sát, cập nhật thông tin cũng như những dự báo/cảnh báo có phân tích.
  42. - Hiệu lực, hiệu quả chính sách còn phụ thuộc vào sự phối hợp giữa các bộ, các cơ quan hữu quan cũng như mối quan hệ thông tin minh bạch, có tính giải trình cao giữa nhà nước với thị trường, công chúng. Những đặc thù riêng của Việt Nam càng đòi hỏi chính sách phải có sự giải trình, rà soát thận trọng và được minh chứng. - Trong điều kiện Việt Nam, việc kết hợp chặt chẽ các chính sách kinh tế vĩ mô với các biện pháp vi mô cũng có thể rất cần thiết khi xử lý các vấn đề kinh tế – tài chính “đột ngột” phát sinh theo chiều hướng xấu. Song cũng cần chuẩn bị cả cách thức/lộ trình rút bỏ các biện pháp đó, nhất là các biện pháp có tính hành chính, một cách chu đáo và được giải trình nghiêm túc. - Các chính sách kinh tế thường khó có tác động cùng chiều, nhất là trong bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô, đối với các mục tiêu và các nhóm xã hội khác nhau. Chính vì vậy, cần cả sự hỗ trợ đối với người nghèo, nhóm xã hội dễ bị tổn thương và cả ý chí chính trị vượt qua các nhóm trục lợi/nhóm đặc quyền. - Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái lan rộng toàn cầu, những bài học đó vẫn là những gợi ý có giá trị cho việc lựa chọn mục tiêu chính sách và cách thức thực thi chính sách một cách có hiệu lực và hiệu quả. Các chỉ số về GDP theo tỷ giá GDP GDP tỷ giá theo tỷ Tăng Năm theo đầu giá trưởng người (tỷ USD) (USD) 2007 71,4 823 8,5% 2008 89,83 1024 6,2% 2009 92,84 1040 5,3% 2010 102,2 1200 6,5%* (*) - Dự kiến của Chính phủ Việt Nam[58] [sửa]Các chỉ số về GDP theo sức mua Năm GDP theo GDP sức mua ghi chú
  43. sức mua theo đầu người (tỷ USD) (USD) 2007 230,8 2700 2008 245,1 2800 2009 258,1 2900 2010 [sửa]Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đăng ký FDI giải ngân Năm (tỷ USD) (tỷ USD) 2007 8 2008 71,7 11,5 2009 21,48 10 2010 (dự kiến) 22 - 25 11 [sửa]Các chỉ số về xuất nhập khẩu Nhập Xuất khẩu Thâm hụt Năm khẩu (tỷ USD) (tỷ USD) (tỷ USD) 2007 48,38 60,83 -12,45 2008 63,0 80,5 -17,5 2009 56,58 68,83 -12,25 2010