Bài giảng môn Kinh tế vĩ mô 1

pdf 91 trang Đức Chiến 05/01/2024 860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Kinh tế vĩ mô 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfbai_giang_mon_kinh_te_vi_mo_1.pdf

Nội dung text: Bài giảng môn Kinh tế vĩ mô 1

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG KHOA KINH TẾ BÀI GIẢNG MÔN: KINH TẾ VĨ MÔ 1 (Dùng cho đào tạo tín chỉ - Bậc Đại học) Người biên soạn: Th.S Nguyễn Thị Hồng Đào Lưu hành nội bộ - Năm 2018
  2. CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU DÙNG TRONG BÀI GIẢNG C : Consumption – Tiêu dùng CPI : Consumer Price Index –Chỉ số giá tiêu dùng De : Depreciation –Khấu hao DGDP : GDP Deflator –Chỉ số điều chỉnh GDP Yd : DI - Disposible Income –Thu nhập khả dụng Td : Direct Taxes - Thuế trực thu X : Export –Xuất khẩu G : Government –Chi tiêu của chính phủ GDP : Gross Domestic Product –Tổng sản phẩm trong nước GDPn : Nominal GDP –GDP danh nghĩa GDPr : Real GDP –GDP thực tế GO : Gross Output –Giá trị gia tăng GNP : Gross National Product –Tổng sản phẩm quốc dân R : Rental –Thuê MPC : Marginal Propensity to Consume –Xu hướng tiêu dùng cận biên. MPS : Marginal Propensity to Save –Xu hướng tiết kiệm cận biên MPM : Marginal Propensity to Import –Xu hướng nhập khẩu cận biên. MS : Money Supply –Cung về tiền mM : Money multiplier –Số nhân tiền tệ MD : Money Demand - Cầu về tiền NI : National Income –Thu nhập quốc dân NX : Net Exports –Xuất khẩu ròng NIA : Net factor Income from Abroad –Thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài NDP : Net Domestic Product –Sản phẩm quốc nội ròng PPF : Production Possibility Frontier –Đường giới hạn khả năng sản xuất Pr : Profit –Lợi nhuận PI : Personal Income –Thu nhập cá nhân Tr : Transfer payments –Chi chuyển nhượng I : Investment –Đầu tư 1
  3. M : Import –Nhập khẩu i : interest –Lãi suất Ti : Indirect Taxes - Thuế gián thu IE : Intermadiate Expenditure –Chi phí trung gian VA : Value Added –Giá trị gia tăng W : Wages –Tiền lương 2
  4. Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ VĨ MÔ 1.1. Một số khái niệm * Lịch sử hình thành Khoa học kinh tế hình thành từ cuối thế kỷ XVIII. Tác phẩm mở đường “Bàn về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia” của Adam Smith xuất bản năm 1776 đánh dấu sự hình thành khoa học kinh tế. Năm 1936, John Maynard Keynes - nhà kinh tế học người Anh đã đưa ra lý thuyết chống lại lý thuyết của Adam Smith. Đây cũng là năm đánh dấu sự hình thành kinh tế học vĩ mô. Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái mà chúng ta có thể nhận được. Nhưng mỗi thứ mà chúng ta nhận được lại bị hạn chế bởi thời gian và thu nhập hiện có. Kết quả là mọi người luôn có những mong muốn không được thoả mãn. Việc chúng ta thất bại trong việc thoả mãn mọi mong muốn được gọi là khan hiếm. Kinh tế học ra đời xuất phát từ sự khan hiếm. * Khái niệm Có thể nói kinh tế học từ khi ra đời cho đến nay đã trải qua nhiều phát triển và cũng đã xuất hiện khá nhiều định nghĩa. Theo Paul A. Samuelson và William D. Nordhaus: “Kinh tế học là khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối cho các thành viên của xã hội”. Từ khái niệm trên, chúng ta cần chú ý: + Kinh tế học là một môn khoa học nên trước hết đòi hỏi phải đảm bảo tính khách quan. Tuy nhiên, cũng như các môn khoa học xã hội khác, kinh tế học không phải là môn khoa học chính xác nên nó không thể tách rời hoàn toàn quan điểm chủ quan trong nội dung nghiên cứu. + Nội dung cơ bản của kinh tế học là nghiên cứu cách thức sử dụng nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra một số loại hàng hoá và dịch vụ cần thiết đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. + Mục tiêu cuối cùng của khoa học kinh tế là nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế. Muốn thoả mãn được nhu cầu đòi hỏi sản xuất phải được tăng trưởng. Do đó, nghiên cứu tăng trưởng kinh tế là một nội dung quan trọng của kinh tế học. Tuy nhiên, trong quá trình tăng trưởng kinh tế dài hạn lại nảy sinh vấn 3
  5. đề cân bằng và mất cân bằng, tạo nên sự dao động ngắn hạn của nền kinh tế. Sự dao động này làm cho nền kinh tế kém hiệu quả và tăng trưởng chậm. Muốn có hiệu quả cao và tăng trưởng nhanh đòi hỏi phải hạn chế mức độ dao động đó. Song nền kinh tế ổn định, hiệu quả cao và tăng trưởng nhanh chưa chắc đảm bảo thoả mãn tốt nhất nhu cầu của dân chúng, khi mà sự phân phối những thành quả đó còn bất hợp lý. Chính vì vậy, kinh tế học phải giải quyết vấn đề phân phối thu nhập nhằm tạo ra sự công bằng trong việc hưởng thụ những sản phẩm mà nền kinh tế tạo ra. Kinh tế học thường được chia thành hai phân ngành lớn là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô - Kinh tế vĩ mô (Macroeconomics) nghiên cứu hoạt động của toàn bộ tổng thể rộng lớn của toàn bộ nền kinh tế như: Tăng trưởng kinh tế, sự biến động của giá cả (lạm phát), việc làm của cả quốc gia (thất nghiệp), cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái, - Kinh tế vi mô (Microeconomics) nghiên cứu sự hoạt động của các các tế bào kinh tế trong nền kinh tế là các doanh nghiệp, hộ gia đình, nghiên cứu những yếu tố quyết định giá cả, số lượng sản phẩm, trong các thị trường riêng lẻ. Tuỳ theo cách thức sử dụng, kinh tế học được chia thành hai dạng kinh tế học là kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học thực chứng (Positive economics) là việc mô tả và phân tích sự kiện, những mối quan hệ trong nền kinh tế .Ví dụ: hiện nay, tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu? nếu tăng trưởng kinh tế là 8% thì tỷ lệ lạm phát sẽ thay đổi thế nào? Kinh tế học chuẩn tắc (Normative economics) đề cập đến cách thức, đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn. Ví dụ: Tỷ lệ lạm phát đến mức nào thì có thể chấp nhận được? Có nên tăng tỷ lệ lãi suất ngân hàng không? Kinh tế học thực chứng là để trả lời câu hỏi: Là bao nhiêu? Là gì? Như thế nào? còn kinh tế học chuẩn tắc là để trả lời câu hỏi: Nên làm cái gì? Làm như thế nào? Mỗi vấn đề kinh tế cụ thể đều thường được tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc. 1.2. Giới hạn khả năng sản xuất và ba vấn đề trung tâm 1.2.1. Các yếu tố sản xuất (Đầu vào - Inputs) Yếu tố sản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất và được phân chia thành các nhóm sau: (1) Đất đai và tài nguyên thiên nhiên bao gồm toàn bộ đất dùng cho canh 4
  6. tác, xây dựng nhà ở, đường sá, các loại nhiên liệu, khoáng sản, cây cối, (2) Lao động là năng lực của con người được sử dụng theo một mức độ nhất định trong quá trình sản xuất. Người ta đo lường lao động bằng thời gian của lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất. (3) Tư bản là máy móc, đường sá, nhà xưởng, được sản xuất ra rồi được sử dụng để sản xuất ra các hàng hoá khác. Việc tích lũy các hàng hoá tư bản trong nền kinh tế có một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của sản xuất. (4) Khoa học công nghệ 1.2.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất Khi xem xét một nền kinh tế với số lượng các yếu tố sản xuất và trình độ công nghệ cho trước. Việc quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?, nền kinh tế phải lựa chọn xem các yếu tố hạn chế này được phân phối như thế nào giữa rất nhiều các hàng hoá khác nhau được sản xuất ra. Để đơn giản, giả sử rằng toàn bộ nguồn lực của nền kinh tế chỉ tập trung vào sản xuất 2 loại hàng hoá là thức ăn và quần áo. Để sử dụng hết nguồn lực của nền kinh tế, thì có thể có các cách lựa chọn tổ hợp thức ăn và quần áo trong bảng 1.1 sau đây để sản xuất. Bảng 1.1. Những khả năng sản xuất thay thế khác nhau Khả năng Lương thực (tấn) Quần áo (ngàn bộ) A 0 7,5 B 1 7 C 2 6 D 3 4,5 E 4 2,5 F 5 0 Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại ta được đường giới hạn khả năng sản xuất. 5
  7. Hình 1.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất Phương án lựa chọn A là phương án toàn bộ nguồn lực chỉ sản xuất quần án, tại đây số lượng quần áo được sản xuất ra là nhiều nhất, còn thực phẩm bằng 0. Tại phương án F toàn bộ nguồn lực chỉ tập trung sản xuất lương thực và thực phẩm bằng 5 là nhiều nhất còn quần áo bằng không. Dọc theo đường cong từ phương án A đến phương án F thì quần áo giảm đi và lương thực tăng lên. Phương án sản xuất A, B, C, D, E, F là những phương án có hiệu quả vì sử dụng hết nguồn lực, và tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đầu ra là quần áo thì phải cắt giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra là lương thực. Phương án M là phương án sản xuất không có hiệu quả vì chưa sử dụng hết nguồn lực và tại M muốn tăng quần áo thì không cần phải cắt giảm lương thực vì còn nguồn lực. Phương án N là phương án không thể đạt được của nền kinh tế vì xã hội không đủ nguồn lực. Đường giới hạn khả năng sản xuất là tập hợp các mức phối hợp tối đa khối lượng các loại sản phẩm mà nền kinh tế có thể đạt được khi sử dụng toàn bộ các nguồn lực của nền kinh tế. (Còn gọi là đường cong năng lực sản xuất). Hệ quả: Lựa chọn và quyết định khả năng sản xuất tối ưu: Gọi PL và PA là đơn giá của lương thực và quần áo. QL và QA là sản lượng của lương thực và quần áo. TR là tổng doanh thu. Khả năng sản xuất tối ưu là khả 6
  8. năng sản xuất có tổng doanh thu cao nhất: TR = PL.QL + PA.QA = Max Trong một khoảng thời gian nhất định, mỗi một nền kinh tế có một đường giới hạn khả năng sản xuất. Khi các yếu tố sản xuất thay đổi thì đường giới hạn khả năng sản xuất cũng thay đổi theo. Nếu nguồn lực được mở rộng thì đường giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển sang bên phải, khi nguồn lực sản xuất bị thu hẹp lại thì đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ dịch chuyển về phía bên trái. 1.2.3. Ba vấn đề trung tâm Tất cả các nền kinh tế quốc dân, trong mọi giai đoạn phát triển đều phải thực hiện ba chức năng cơ bản sau: (1) Sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ nào? với số lượng bao nhiêu? Cơ sở của chức năng này là sự khan hiếm các nguồn lực so với nhu cầu của xã hội. Nhiệm vụ chủ yếu mà của bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần phải giải quyết là giảm đến mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất ra những sản phẩm không cần thiết, và tăng cường đến mức tối đa những sản phẩm cần thiết. (2) Các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra như thế nào? Việc giải quyết đúng đắn vấn đề này thông thường đồng nghĩa với việc sử dụng số lượng đầu vào ít nhất để sản xuất ra số lượng sản phẩm đầu ra nhất định. (3) Hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra cho ai? hay sản phẩm quốc dân được phân phối thế nào cho các thành viên trong xã hội. Ba vấn đề nêu trên là những chức năng năng mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải thực hiện, bất kể hình thức hay trình độ phát triển của nó như thế nào. Tất cả các chức năng này đều mang tính lựa chọn, vì các nguồn lực để sản xuất ra sản phẩm đều khan hiếm. Cơ sở cho sự lựa chọn này là: - Tồn tại các cách sử dụng khác nhau các nguồn lực trong việc sản xuất ra các sản phẩm khác nhau. Ví dụ: Sản xuất sản phẩm dệt may cần đầu vào là (lao động ngành dệt may, máy may, vải, sợi, ); còn sản xuất ô tô cần (lao động ngành cơ khí chế tạo, thép, ). - Tồn tại các phương pháp khác nhau để sản xuất ra sản phẩm cụ thể. Ví dụ cũng là may mặc nhưng phương pháp thủ công khác với tự động hoá. - Tồn tại các phương pháp khác nhau để phân phối hàng hoá và thu nhập cho các thành viên trong xã hội. Ví dụ: Tham gia sản xuất ra sản phẩm, người lao động nhận được tiền công tiền lương; doanh nghiệp nhận được lợi nhuận, Nhà nước thu được các khoản thuế. Các thành viên trong xã hội nhân được bao nhiêu là do cơ chế 7
  9. phân phối ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia. Những cách thức để giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản trên trong một nước cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào lịch sử, hệ tư tưởng, và chính sách kinh tế của quốc gia này. 1.3. Nhược điểm của kinh tế thị trường và vai trò kinh tế của Chính phủ Bằng cách điều chỉnh thông qua cung cầu, nền kinh tế thị trường tự tạo cho mình một trật tự nào đó trong các hoạt động kinh tế. Có những ưu điểm mà nền kinh tế chỉ huy không có được: giúp các nguồn lực được sử dụng một cách có hiệu quả, nhờ cạnh tranh doanh nghiệp tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng có nhiều nhược điểm: - Tạo ra sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo - Tạo nên tính chu kỳ trong nền kinh tế. Đó là hiện tượng mà mức sản xuất của quốc gia dao động lên xuống liên tục qua các năm, dẫn đến sự dao động mức giá và tỷ lệ thất nghiệp. Khi sản lượng lên quá cao thường xảy ra lạm phát trầm trọng, khi sản lượng sản xuất quá thấp sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng cao. - Có nhiều tác động ngoại biên có hại. - Thiếu vốn đầu tư cho hàng hóa công cộng. - Tình trạng độc quyền trong nền kinh tế. - Thông tin không hoàn hảo, lệch lạc và các nguy cơ về đạo lý. Người tiêu dùng thường bị nhầm lẫn về các thông tin về giá cả, chất lượng sản phẩm. - Thị trường không điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển. Do những thất bại, khuyết điểm của kinh tế thị trường như vậy nên nền kinh tế cần có sự điều chỉnh của Nhà nước thông qua các công cụ như: hệ thống luật pháp, các biện pháp hành chính và các chính sách kinh tế. Ba công cụ này điều tiết kinh tế vi mô lẫn vĩ mô, đối với kinh tế vĩ mô thì các chính sách kinh tế đóng vai trò chủ yếu. 1.4. Mục tiêu, công cụ điều tiết vĩ mô 1.4.1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô Kết quả kinh tế của một nước thường được đánh giá theo ba dấu hiệu chủ yếu là: Ổn định, tăng trưởng và công bằng xã hội - Sự ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách trong thời kỳ ngắn hạn như: Lạm phát, suy thoái, thất nghiệp. - Tăng trưởng kinh tế đỏi hỏi phải tăng năng lực sản xuất của quốc gia, làm 8
  10. cho tốc độ tăng sản lượng quốc gia đạt mức cao nhất mà nền kinh tế đó có thể thực hiện được. - Công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế. Để đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể sau: 1. Mục tiêu sản lượng - Đạt mức sản lượng cao tương ứng với mức sản lượng tiềm năng. Để đạt được điều này thì nền kinh tế phải tận dụng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực. - Tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc. 2. Mục tiêu việc làm - Tạo ra nhiều việc làm tốt. - Hạ thấp được tỷ lệ thất nghiệp và duy trì tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. 3. Mục tiêu ổn định giá cả: - Hạ thấp được tỷ lệ lạm phát. - Kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do. 4. Mục tiêu kinh tế đối ngoại - Ổn định tỷ giá hối đoái. - Cân bằng cán cân thanh toán. 5. Phân phối công bằng: thông qua chính sách phân phối lần đầu và phân phối lại của nền kinh tế. Các mục tiêu trên thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, mức thất nghiệp bằng thất nghiệp tự nhiên, lạm phát thấp có thể kiểm soát được, cán cân thanh toán cân bằng, tỷ giá hối đoái hầu như không đổi. Trong thực tế, thì các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tối thiểu hoá các sai lệch thực thế so với trạng thái lý tưởng. Các mục tiêu thường bổ sung cho nhau, trong chừng mực hướng vào việc bảo đảm việc tăng trưởng kinh tế. Song trong một số trường hợp xuất hiện những xung đột, mâu thuẫn cục bộ, các nhà làm chính sách cần phải lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi khi cần phải chấp nhận hi sinh nào đó trong thời kỳ ngắn hạn. Trong dài hạn thứ tự ưu tiên để giải quyết các mục tiêu kinh tế vĩ mô trên cũng khác nhau giữa các nước. Với các nước đang phát triển thì mục tiêu tăng trưởng thường được ưu tiên số một. 9
  11. 1.4.2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu 1.4.2.1. Chính sách tài khóa (Fiscal Policy) Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ nhằm hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tài khoá có hai công cụ chủ yếu đó là chi tiêu của Chính phủ và thuế. - Chi tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu công cộng, do đó nó tác động trực tiếp đến tổng cầu và sản lượng. - Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư nhân, từ đó cũng tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế cũng có thể tác động đến đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn. Trong ngắn hạn 1 đến 2 năm chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và lạm phát phù hợp với các mục tiêu ổn định nền kinh tế. Về mặt dài hạn chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài. 1.4.2.2. Chính sách tiền tệ (Monetary Policy) Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là kiểm soát mức cung tiền và kiểm soát lãi suất. Khi ngân hàng Trung ương thay đổi lượng cung tiền thì lãi suất sẽ tăng hoặc giảm tác động đến đầu tư tư nhân, do vậy ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng. Chính sách tiền tệ có tác động lớn đến tổng sản phẩm quốc dân về mặt ngắn hạn, song do tác động đến đầu tư nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến GNP trong dài hạn. 1.4.2.3. Chính sách thu nhập (Incomes Policy) Chính sách thu nhập gồm các biện pháp mà Chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát. Chính sách này sử dụng nhiều công cụ, từ những công cụ có tính chất cứng rắn như ấn định mức tiền công và giá cả đến những công cụ mềm dẻo như là những hướng dẫn, kích thích bằng thuế thu nhập. 1.4.2.4. Chính sách kinh tế đối ngoại (Foreign Policy) Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nước có thị trường mở nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được. Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng, 10
  12. các quy định về hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính tiền tệ khác, có tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Kinh tế học là gì? sự khác nhau giữa kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. 2. Giới hạn khả năng sản xuất là gì? cho ví dụ minh hoạ. 3. Chi phí cơ hội là gì? cho ví dụ minh họa? 4. Hãy liệt kê các mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu của nền kinh tế mở. Giải thích ngắn gọn tại sao những mục tiêu đó là quan trọng? 11
  13. Chương 2: ĐO LƯỜNG SẢN LƯỢNG QUỐC GIA 2.1. Đo lường mức sản xuất một quốc gia 2.1.1. Các chỉ tiêu của SNA Hệ thống tài khoản quốc gia SNA (System of National Accounts) được Liên Hợp Quốc chính thức công nhận như một hệ thống đo lường quốc tế. Trong SNA gồm 4 chỉ tiêu cơ bản - Tổng sản phẩm quốc dân GNP - Tổng sản phẩm quốc nội GDP - Sản phẩm quốc dân ròng NNP - Sản phẩm quốc nội ròng NDP Ngoài 4 chỉ tiêu trên còn có 3 chỉ tiêu khác được sử dụng khá rộng rãi trong việc nghiên cứu kinh tế đó là: - Thu nhập quốc dân hay lợi tức quốc gia Y - Thu nhập cá nhân hay lợi tức cá nhân PI - Thu nhập khả dụng hay lợi tức khả dụng Yd 2.1.2. Vấn đề giá cả trong SNA Có 4 loại chỉ tiêu khi xét đến yếu tố giá cả - Giá cố định: là giá của năm bất kỳ chọn làm năm gốc, dùng để tính cho tất cả các năm - Giá hiện hành: tức là tính cho năm nào thì sử dụng giá của năm đó. - Giá thị trường: là giá đã có thuế gián thu - Giá theo chi phí yếu tố sản xuất: chưa có thuế gián thu. 2.1.3. Chỉ tiêu so sánh quốc tế Khi muốn so sánh giữa các nước với nhau, người ta thường dùng hai loại chỉ tiêu: chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng (giảm) của sản lượng quốc gia qua các năm, thường phản ánh thông qua chỉ tiêu như tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ tiêu còn lại là chỉ tiêu phản ánh khả năng sản xuất và thỏa mãn nhu cầu trong từng năm như GNP, NNP bình quân đầu người 2.2. Chỉ tiêu GDP và GNP 2.2.1. Khái niệm Tổng sản phẩm quốc dân là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của người dân quốc gia đó sản xuất ra trong một thời kỳ (thường là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình. 12
  14. Như vậy, tổng sản phẩm quốc dân đánh giá kết quả của hàng triệu các giao dịch và hoạt động kinh tế do công dân của một nước tiến hành trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Đây là con số đạt được khi dùng thước đo tiền tệ để tính toán giá trị của các hàng hoá khác nhau mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, Chính phủ mua sắm và chi tiêu trong khoảng thời gian tính toán. Tổng sản phẩm quốc nội là giá trị thị trường của tất cả của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). 2.2.2. Mối liên hệ giữa GDP và GNP B C A m n m n Hình 2.1. Mối liên hệ giữa GDP và GNP A: Giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người dân nước mình tạo ra trên lãnh thổ nước mình. B: Giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người dân nước ngoài sản xuất ra trên lãnh thổ nước mình. C: Giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người dân nước mình sản xuất ra trên lãnh thổ nước ngoài. GDP = A + B GNP = A + C = GDP + C – B C – B = Giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người dân nước mình sản xuất ra trên lãnh thổ nước ngoài – Giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người dân nước ngoài sản xuất ra trên lãnh thổ nước mình = thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài (NIA) GNP = GDP + NIA + NIA = 0 khi B = C => GNP = GDP + NIA > 0 khi B GNP > GDP + NIA C => GNP < GDP GDP hay GNP chỉ tiêu nào lớn hơn, thì tuỳ thuộc vào mỗi một quốc gia và tuỳ vào từng thời kỳ. * GDP danh nghĩa và GDP thực tế a. GDP danh nghĩa: Là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo giá 13
  15. hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy giá của thời kỳ đó. t t t GNPn = ∑ Qi Pi Trong đó: i: Biểu thị loại sản phẩm thứ i với i =1,2,3 ,n t: Biểu thị thời kỳ tính toán Q: Số lượng sản phẩm từng loại mặt hàng; Qi: số lượng sản phẩm loại i P: Giá của từng mặt hàng; Pi giá của sản phẩm thứ i. b. GDP thực tế: Là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ hiện hành của nền kinh tế được tính theo mức giá cố định của năm cơ sở (năm gốc). t t 0 GNPr = ∑ Qi Pi 0 Với Pi là giá của năm cơ sở hay năm gốc Nếu thống kê GDP thực tế cho thấy GDPr năm sau cao hơn năm trước, thì đây chỉ thuần tuý là sự biến động về sản lượng năm sau lớn hơn năm trước, còn giá cả được giữ cố định ở năm cơ sở (năm gốc). Mục tiêu tính toán GDP là nhằm để nắm bắt được hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. GDP thực tế phản ánh lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trong nền kinh tế nên nó cũng cho biết năng lực thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của dân cư trong nền kinh tế. Do đó GDP thực tế phản ánh kết quả của nền kinh tế tốt hơn là GDP danh nghĩa. * Khi nào sử dụng GDPn, khi nào sử dụng GDPr? - Khi so sánh quan hệ tài chính, so sánh kết quả hoạt động của các nền kinh tế với nhau, của các địa phương hoặc các ngành trong nền kinh tế với nhau thì nên dùng GDP danh nghĩa. - Khi so sánh GDP qua các năm, để đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế thì phải dùng GDP thực tế. Sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của biến động giá cả, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP growth rate – g) đó là tỷ lệ % thay đổi của GDP thực tế của thời kỳ này so với thời kỳ trước. 14
  16. * Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Defator - DGDP) Chỉ số giá điều chỉnh đo lường mức giá trung bình của tất cả các hàng hoá và dịch vụ được tính trong GDP. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế. Nó phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá năm cơ sở. Chỉ số giá điều chỉnh cho biết sự biến động về giá làm thay đổi GNP danh nghĩa. t t GDPn DGDP t *100% GDPr 2.3. Tính GDP danh nghĩa theo giá thị trường 2.3.1. Sơ đồ luồng luân chuyển kinh tế vĩ mô Một nền kinh tế hoàn chỉnh bao gồm hàng triệu các đơn vị kinh tế: các hộ gia đình, các hãng kinh doanh, các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Các đơn vị kinh tế này tạo nên một mạng lưới các giao dịch kinh tế trong quá trình tạo ra tổng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Hình 2.2. Sơ đồ luồng luân chuyển kinh tế vĩ mô Để tìm được vấn đề cốt lõi bên trong của các giao dịch và đưa ra các phương pháp tính toán tổng sản phẩm một cách khoa học, chính xác, chúng ta hãy bắt đầu bằng trường hợp giản đơn nhất: Bỏ qua khu vực Nhà nước và các giao dịch với người nước ngoài, xem xét một nền kinh tế khép kín, giản đơn chỉ bao gồm hai tác nhân đó là hộ gia đình và các hãng kinh doanh. Các hộ gia đình sở hữu lao động 15
  17. và các yếu tố đầu vào khác của sản xuất như vốn, đất đai, Các hộ gia đình cung cấp các yếu tố đầu vào cho các hàng kinh doanh. Các hãng kinh doanh dùng các yếu tố này sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ bán cho các hộ gia đình. Dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thật: hàng hoá và dịch vụ từ các hãng kinh doanh sang hộ gia đình và dịch vụ về yếu tố sản xuất từ hộ gia đình sang các hãng kinh doanh. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng tiền: các hãng kinh doanh trả tiền cho các dịch vụ yếu tố sản xuất tạo nên thu nhập của các hộ gia đình, các hộ gia đình thanh toán các khoản chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ cho các hãng kinh doanh để mua sản phẩm. Những giao dịch hai chiều đó tạo nên dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô được mô tả ở trên. Từ mô hình trên gợi cho ta 3 cách tính khối lượng hoạt động của nền kinh tế là: - Tính những cái mà các tác nhân trong nền kinh tế bỏ tiền ra mua, gọi là phương pháp luồng sản phẩm hay phương pháp chi tiêu. - Tính những cái mà các tác nhân trong nền kinh tế nhận được, gọi là phương pháp thu nhập. - Tính những cái mà các hãng kinh doanh sản xuất ra, gọi là phương pháp sản xuất. 2.3.2. Phương pháp xác định GDP Hiện nay ở Việt Nam, Tổng cục thống kê tính toán GDP theo ba phương pháp: phương pháp chi tiêu, phương pháp thu nhập và phương pháp sản xuất. 2.3.2.1. Phương pháp chi tiêu Phương pháp này đo lường GDP bằng cách thu thập các dữ liệu về chi tiêu cho tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu của chính phủ về hàng hóa dịch vụ (G) và xuất khẩu ròng (NX) Do giá trị tổng sản lượng hàng hóa dịch vụ của nền kinh tế (Y) phải bằng tổng chi tiêu để mua lượng hàng hóa và dịch vụ đó nên tổng chi tiêu bằng GDP. Y = GDP = C + I + G + (X - M) = C + I + G +NX - Tiêu dùng của hộ gia đình (C) bao gồm tổng giá trị các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà các hộ gia đình mua được trên thị trường để chi dùng cho mục đích đời sống. Bao gồm những khoản chi: hàng hoá vật chất (lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, những mặt hàng có thể cân, đong, đo, đếm), giá trị của các hoạt động dịch vụ phục vụ đời sống (du lịch, y tế, giáo dục, ) 16
  18. - Đầu tư (I) là những khoản tiền doanh nghiệp dùng để mua sắm máy móc, thiết bị, xây dựng nhà xưởng nhằm mục đích mở rộng sản xuất và chênh lệch các mặt hàng tồn kho ở cuối năm so với đầu năm của các doanh nghiệp. I = tiền mua sắm máy móc thiết bị + chênh lệch hàng tồn kho I = khấu hao + đầu tư ròng - Chi tiêu của Chính phủ (G) bao gồm 2 khoản lớn: Chi mua hàng hoá, dịch vụ và chi chuyển nhượng (Tr). Nhưng chỉ tính vào GDP những khoản chi mua hàng hoá, dịch vụ, còn các khoản chi chuyển nhượng không được tính vào GDP. Chi chuyển nhượng Tr ví dụ như các khoản trợ cấp cho những người thuộc diện chính sách xã hội (người già, người tàn tật, ), những khoản chi này không thể hiện việc mua sắm hàng hoá và dịch vụ mà chỉ đơn thuần là việc chuyển tiền từ chính phủ sang các hộ gia đình. Chuyển giao thu nhập như vậy làm thay đổi thu nhập của các hộ gia đình nhưng không tác động đến giá trị sản xuất của nền kinh tế. Do đó, Tr không được tính vào GDP. - Xuất khẩu ròng về hàng hoá và dịch vụ (NX) là giá trị xuất khẩu (X) trừ đi giá trị nhập khẩu (IM) hay bằng khoản chi tiêu của người nước ngoài dùng để mua hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra ở trong nước trừ đi khoản chi tiêu của người dân trong nước dùng để mua hàng hoá và dịch vụ tạo ra ở nước ngoài. Nếu X > IM gọi là xuất siêu; IM > X gọi là nhập siêu; X = IM cán cân thương mại cân bằng. 2.3.2.2. Phương pháp thu nhập Phương pháp này tính GDP theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất mà các hàng kinh doanh phải thanh toán, tiền trả lãi vốn vay, tiền thuê nhà xưởng, tài sản, tiền thanh toán tiền công, tiền lương, lợi nhuận thu được khi tham gia kinh doanh, thu để bù đáp giá trị máy móc thiết bị, tài sản cố định đã hao mòn trong quá trình sản xuất. 17
  19. Gọi: Chi phí tiền công, tiền lương là : W i Chi phí thuê vốn : r Chi phí thuê tài sản nhà xưởng, đất đai: Lợi nhuận: Π Khấu hao tài sản cố định: D Thuế mà Chính phủ đánh vào tiêu dùng: Te GDP = W + i + r + Π + D + Te 2.3.2.3. Phương pháp sản xuất (phương pháp giá trị gia tăng) Theo phương pháp giá trị gia tăng thì GDP được tập hợp tất cả các giá trị tăng thêm của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất thường là một năm. Giá trị gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá trị sản lượng đầu ra của một doanh nghiệp với khoản mua vào về nguyên nhiên vật liệu mua của các doanh nghiệp khác mà được sử dụng hết trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Giá trị gia tăng của doanh nghiệp ký hiệu là (VA), giá trị tăng thêm của một ngành (GO), giá trị tăng thêm của nền kinh tế là GDP + VA = Giá trị thị trường sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp – Giá trị đầu vào được chuyển hết vào giá trị sản phẩm trong quá trình sản xuất + Giá trị gia tăng của một ngành (GO): GO =Σ VAi (i =1, 2, 3, , n) Trong đó: VAi: là giá trị tăng thêm của doanh nghiệp i trong ngành, n: Là số lượng doanh nghiệp trong ngành + Giá trị gia tăng của nền kinh tế GDP: GDP = Σ GOj (j =1, 2, 3, , m) Trong đó: GOj: giá trị gia tăng của ngành j m: là số ngành trong nền kinh tế 2.4. Tính GNP danh nghĩa theo giá thị trường Sau khi xác định được GDP, có thể xác định GNP bằng cách GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài GNP = GDP + NIA NIA = Thu từ nước ngoài - Chi cho nước ngoài Thu từ nước ngoài bao gồm các khoản như: + Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, sức lao động. 18
  20. + Lợi tức cổ phần do mua cổ phần ở nước ngoài. + Lợi nhuận do đầu tư ra nước ngoài, Chi cho nước ngoài bao gồm các khoản như: + Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, sức lao động. + Lợi tức cổ phần do người nước ngoài mua cổ phần ở trong nước. + Lợi nhuận do đầu tư nước ngoài vào trong nước, NIA có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn 0 * Ý nghĩa của các chỉ tiêu GDP và GNP trong phân tích kinh tế vĩ mô - Hai chỉ tiêu này được các nước sử dụng để đo lường qui mô sản xuất của đất nước mình trong năm. - Dùng hai chỉ tiêu này để tính tốc độ tăng trưởng kinh tế theo thời gian t GD Pr n v ( goc - 1)100% GD Pr v : tốc độ tăng trưởng bình quân năm kể từ năm gốc đến năm t n : khoảng cách thời gian tính bằng năm kể từ năm gốc đến năm t - Dùng chỉ tiêu này để tính thu nhập bình quân đầu người trên năm GDP Thu nhập bình quân đầu người/t t Dansot * Một số chỉ tiêu đo lường thu nhập khác - Tổng sản phẩm quốc dân ròng (NNP) Tổng sản phẩm quốc dân ròng là phần GNP còn lại sau khi trừ đi khấu hao. NNP = GNP – De - Thu nhập quốc dân (Y) và thu nhập quốc dân có thể sử dụng (YD) + Thu nhập quốc dân (Y) là chỉ tiêu phản ánh thu nhập của tất cả các yếu tố của nền kinh tế. Thu nhập quốc dân theo chi phí yếu tố: Y = w + i + r + Π Y = NNP – Te Y = GNP – (De+ Te) Te: Thuế gián thu ròng là thuế gián thu trừ đi các khoản trợ cấp sản xuất Các khoản trợ cấp sản xuất là khoản tiền mà chính phủ thanh toán cho người sản xuất. 19
  21. + Thu nhập có thể sử dụng (YD) là phần thu nhập quốc dân còn lại sau khi các hộ gia đình nộp lại các loại thuế trực thu và nhận được các trợ cấp của Chính phủ hoặc doanh nghiệp. YD = Y – Td + Tr Trong đó Td: là thuế trực thu Tr: Trợ cấp của chính phủ Toàn bộ thu nhập có thể sử dụng chỉ bao gồm phần thu nhập mà các hộ gia đình có thể tiêu dùng (C) và để tiết kiệm (S), YD = C + S 20
  22. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Hãy trình bày nội dung và ý nghĩa của GNP và GDP? 2. Phương pháp xác định GDP? 3. Sự khác nhau giữa GDP danh nghĩa và GDP thực tế? 4. Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu phản ánh kết quả của nền kinh tế BÀI TẬP 1. Giả sử trong nền kinh tế đóng chỉ có 5 doanh nghiệp: Nhà máy thép, doanh nghiệp cao su, doanh nghiệp cơ khí, doanh nghiệp sản xuất bánh xe và doanh nghiệp sản xuất xe đạp. Doanh nghiệp sản xuất xe đạp bán xe đạp của mình cho người tiêu dùng cuối cùng với giá trị 8.000 USD. Quá trình sản xuất xe đạp doanh nghiệp đã mua bánh xe với giá trị 1000 USD, thép với giá trị 2500 USD và một số máy móc trị giá 1800 USD của doanh nghiệp cơ khí. Doanh nghiệp sản xuất bánh xe mua cao su của doanh nghiệp cao su trị giá 600 USD và doanh nghiệp cơ khí mua thép của nhà máy thép trị giá 1000 USD để sản xuất máy móc. a. Hãy tính GDP của nền kinh tế với giả định trên bằng phương pháp giá trị gia tăng. b. Hãy xác định GDP theo luồng sản phẩm cuối cùng. c. Hãy so sánh kết quả tính toán ở câu a và câu b? Hãy lý giải sự giống nhau hoặc khác nhau của kết quả tính toán ở 2 câu trên. 2. Có số liệu về các khoản mục trong tài khoản quốc gia của một nước năm N ở bảng sau: STT Khoản mục Giá trị (ngàn USD) 1 Chi tiêu của người tiêu dùng 293.569 2 Trợ cấp 5.883 3 Tiền thuê đất đai 27.464 4 Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài 5.619 5 Chi tiêu của Chính phủ 91.847 6 Thuế gián thu 75.029 21
  23. 7 Lợi nhuận của các doanh nghiệp 77.458 8 Khấu hao tài sản cố định 45.918 9 Mức tăng hàng tồn kho 4.371 10 Đầu tư tư nhân 88.751 11 Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ 108.533 12 Tiền lương, tiền công 262.392 13 Nhập khẩu 2.708 14 Các khoản thu nhập khác 125.194 a. Tính tổng sản phẩm trong nước theo giá thị trường b. Tính tổng sản phẩm quốc dân theo giá thị trường 3. Dưới đây là các thành tố của thu nhập và thuế cá nhân của Việt Nam vào một năm như sau (đơn vị tính là triệu đồng): 1. Thu nhập từ lao động (làm thuê, tự hành nghề) 292.392 2. Thu nhập không phải từ lao động (lãi suất, địa tô, tiền thuê, cổ tức, v.v ) 40.878 3. Thuế thu nhập, tiền đóng bảo hiểm xã hội, v.v 82.657 4. Thuế đánh vào chi tiêu của người tiêu dùng 51.696 5. Tiết kiệm 13.601 6. Các khoản trợ cấp của chính phủ 56.557 a. Hãy tính tổng thu nhập cá nhân b. Hãy tính thu nhập cá nhân sử dụng 4. Giả sử GDP = 2000, C = 1700, G = 50 và NX = 40 a. Mức đầu tư trong nền kinh tế bằng bao nhiêu? b. Giả sử xuất khẩu bằng 350, nhập khẩu là bao nhiêu? c. Giả sử mức khấu hao bằng 130, mức đầu tư ròng bằng bao nhiêu? d. Xuất khẩu ròng có thể mang giá trị âm được không? 22
  24. Chương 3: TỔNG CUNG, TỔNG CẦU VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA 3.1. Tổng cầu và sản lượng cân bằng 3.1.1. Tổng cầu và sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản đơn Nền kinh tế giản đơn là nền kinh tế trong đó chỉ có hai tác nhân đó là người tiêu dùng cuối cùng và người sản xuất, nền kinh tế khép kín chưa có sự tham gia của Chính phủ. Tổng cầu trong nền kinh tế giản đơn: Là toàn bộ số lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình và các hãng kinh doanh dự kiến chi tiêu tương ứng với mức thu nhập của họ. AD = C + I Trong đó: AD: Tổng cầu C: Cầu về hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng của hộ gia đình I: Cầu về hàng hoá và dịch vụ chi tiêu của các doanh nghiệp. C, I: đều là các hàm số phụ thuộc vào các nhân tố ảnh hưởng tới tiêu dùng và đầu tư. 3.1.1.1. Hàm tiêu dùng Khái niệm: Tiêu dùng là toàn bộ chi tiêu của dân cư về hàng hoá và dịch vụ cuối cùng. Tiêu dùng của dân cư phụ thuộc vào nhiều yếu tố - Phụ thuộc vào tiền lương và tiền công. - Phụ thuộc vào của cải hay tài sản, bao gồm cả tài sản thực và tài sản tài chính. - Những yếu tố xã hội như tâm lý, tập quán, thói quen chi tiêu của người tiêu dùng. - Cơ cấu của tiêu dùng thay đổi khi khi thu nhập thay đổi. Hàm tiêu dùng: Hàm tiêu dùng biểu thị mối quan hệ giữa tổng tiêu dùng và tổng thu nhập. Hàm tiêu dùng được xây dựng bằng phương pháp thống kê số lớn, đó là một hàm hồi quy. Trong đó trường hợp đơn giản nhất, hàm tiêu dùng có dạng sau: C C MPC.Y d 23
  25. Trong đó C: Là tiêu dùng cá nhân Y: Là thu nhập và trong mô hình giản đơn thu nhâp bằng với thu nhập có thể sử dụng YD (Y = YD). C : Tiêu dùng không phụ thuộc vào thu nhập đây là mức tiêu dùng tối thiểu. MPC: Là xu hướng tiêu dùng cận biên Xu hướng tiêu dùng cận biên (MPC): Biểu thị mối quan hệ gia tăng tiêu dùng và sự gia tăng thu nhập. Xu hướng tiêu dùng cận biên cho biết khi thu nhập tăng lên một đơn vị thì tiêu dùng tăng lên MPC đơn vị. C M PC (0 ≤ MPC ≤ 1) Y Xu hướng tiêu dùng cận biên biểu thị mối quan hệ giữa sự gia tăng của tiêu dùng với sự gia tăng của thu nhập. C C = Yd E0 C C MPC.Yd C 45o Y0 Yd Hình 3.1. Đường tiêu dùng E0: điểm vừa đủ Y0: mức thu nhập vừa đủ Tức: C C MPC.Yd C (1 MPC).Yd C Y 0 1 MPC * Ý nghĩa Y0: tại mức thu nhập vừa đủ thì thu nhập = tiêu dùng => S = 0 (S = Yd - C) Thu nhập > tiêu dùng => S > 0 24
  26. Thu nhập S 0 MPC giảm 3.1.1.2. Tiết kiệm của hộ gia đình Khái niệm: Tiết kiệm là phần còn lại của thu nhập khả dụng sau khi đã chi cho tiêu dùng. Yd = C + S S = Yd - C Giản đơn: Y = C + S S = Y – C Hàm số tiết kiệm: S = Yd - C Trong đó: C C MPC.Yd S = Yd -C MPC.Yd = -C + (1- MPC)Yd Vậy: S C MPS.Yd hay S C MPS.Y MPS: xu hướng tiết kiệm cận biên, biểu thị dự kiến của các gia đình tăng tiết kiệm khi thu nhập tăng lên. S MPS Y MPC + MPS = 1 0 < MPS < 1 25
  27. C 450 C C M P C.Yd C 0 YV Y S S C M S C.Y 0 YV Hình 3.2. Đường tiêu dùng và đường tiết kiệm 3.1.1.3. Đầu tư của doanh nghiệp (I) Đầu tư đóng vai trò quan trọng trong kinh tế vĩ mô. Nó chiếm tỷ trọng lớn và hay thay đổi ảnh hưởng rất lớn đến việc làm và sản lượng trong ngắn hạn (I↑ AD↑ Y↑). Mặt khác, đầu tư dẫn đến tích lũy cơ bản, có tác dụng mở rộng năng lực sản xuất, tăng sản lượng tiềm năng (↑Y*) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. - Nhân tố tác động đến đầu tư của doanh nghiệp + Mức cầu về sản phẩm do đầu tư tạo ra, nếu mức cầu về sản phẩm càng lớn thì dự kiến đầu tư của doanh nghiệp sẽ tăng cao và ngược lại. + Các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí đầu tư. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thường vay vốn từ các trung gian tài chính để đầu tư nên đầu tư phụ thuộc vào lãi suất tín dụng. Nếu lãi suất tăng cao, chi phi đầu tư sẽ cao, lợi nhuận giảm, do đó cầu về đầu tư sẽ giảm và ngược lại. Thuế cũng là yếu tố tác động lớn đến đầu tư. Nếu đánh thuế cao vào lợi tức thì cầu đầu tư sẽ giảm và ngược lại sẽ khuyến khích đầu tư. + Dự đoán của các doanh nghiệp về nền kinh tế trong tương lai. Nếu họ dự đoán rằng nền kinh tế tăng trưởng và ổn định, kinh doanh đảm bảo đem lại lợi nhuận thì cầu về đầu tư sẽ tăng và ngược lại. 26
  28. - Hàm đầu tư theo sản lượng (Y): có 2 quan điểm Hàm đầu tư theo sản lượng có dạng như thế nào vẫn đang là vấn đề tranh cãi. + Một số nhà kinh tế cho rằng, đầu tư và sản lượng có mối quan hệ đồng biến, nghĩa là đường đầu tư có xu hướng tăng lên. Giữa I và Y có quan hệ thuận: I I M P I.Y , với MPI: đầu tư cận biên + Một số nhà kinh tế lại cho rằng đầu tư không có quan hệ chặt chẽ với sản lượng hay thu nhập hiện tại, nghĩa là đường đầu tư nằm ngang (hàm đầu tư theosản lượng là một hàm hằng.): I I Ở đây, để đơn giản hóa và để đạt mục tiêu nghiên cứu, chúng ta giả thiết đường đầu tư nằm ngang, nghĩa là xem đầu tư không phụ thuộc vào sản lượng. 3.1.1.4. Hàm tổng cầu AD AD = C + I 3.1.1.5. Phương pháp xác định sản lượng cân bằng - Sử dụng phương trình AD = Y (phương trình tổng cung hay tổng sản lượng sản xuất = tổng cầu) Trong đó: AD = C + I C C MPC.Yd , I I AD = Y C I MPC.Y Y 1 Y (C I) 0 1 MPC C,I E C+I C I α I = I0 0 Y Y1 Y0 Y2 Hình 3.4. Điểm cân bằng sản lượng trên đồ thị “tiêu dùng cộng đầu tư” - Sử dụng phương trình I = S (phương trình đầu tư = tiết kiệm) 27
  29. (vì AD = Y  C + I = S + C) S,I S E I0 I 0 Y Y2 Y0 Y1 - C0 Hình 3.5. Điểm cân bằng sản lượng trên đồ thị “đầu tư và tiết kiệm” Chú ý: Nếu hàm đầu tư là: I I M P I.Y . Cách xác định sản lượng cân bằng tương tự như trên. Khi đó sản lượng cân bằng là 1 Y (C I) 0 1 MPC MPI 3.1.1.6. Số nhân chi tiêu Khái niệm: Số nhân chi tiêu (m) là một hệ số cho biết sự thay đổi của sản lượng khi tổng cầu thay đổi 1 đơn vị. Gọi ∆AD là lượng thay đổi của tổng cầu, ∆Y là lượng thay đổi của sản lượng cân bằng thì số nhân m sẽ là: Y m => Y m. AD AD Giả sử tiêu dùng thay đổi 1 lượng ∆C, đầu tư thay đổi 1 lượng ∆I. Khi đó tổng cầu thay đổi 1 lượng ∆AD = ∆I + ∆C. Như vậy, khi có sự thay đổi của tiêu dùng và đầu tư làm cho tổng cầu thay đổi 1 lượng nhất định thì sản lượng cân bằng sẽ thay đổi gấp m lần. Sự thay đổi của tổng cầu ảnh hưởng đến sự thay đổi của sản lượng cân bằng được minh họa trên đồ thị sau: C,I (C+I)2 ∆AD (C+I)1 ∆Y=m. ∆AD 0 Y Y2 Y 1 Hình 3.6. Ảnh hưởng số nhân đến sản lượng cân bằng 28
  30. Giả sử rằng với tổng cầu là AD1 thì sản lượng cân bằng Y1 được xác định như sau: C I Y 1 1 M PC Ta có: Y2 AD2 C2 I 2 C I MPC.Y2 C I C I C I C I AD  Y 2 1 MPC 1 MPC Từ giá trị Y1 và Y2 vừa tìm được, ta tính Y: AD Y Y Y 2 1 1 MPC Từ khái niệm số nhân ta có: Y = m. AD nên hệ số nhân m sẽ là: 1 m 1 M PC Do MPC 1, nghĩa là sản lượng cân bằng sẽ thay đổi với tỷ lệ lớn hơn tỷ lệ thay đổi của tổng cầu. 3.1.2. Tổng cầu và sản lượng cân bằng trong nền kinh tế đóng có sự tham gia của chính phủ Khi tham gia vào bức tranh kinh tế, Chính phủ kể cả các cấp chính quyền Trung ương và địa phương cũng mua sắm một lượng hàng hoá và dịch vụ, và đây cũng là một thành phần của tổng cầu. Khi lượng hàng hoá và dịch vụ mà Chính phủ chi tiêu thay đổi thì cũng làm cho tổng cầu thay đổi. Để có tiền chi tiêu Chính phủ phải thu và thu chủ yếu là từ thuế khoá. Thuế ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến thu nhập của hộ gia đình và các hãng kinh doanh do đó nó cũng tác động đến tổng cầu. Để hiểu được bản chất của vấn đề, hiểu được vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế, chúng ta lần lượt phân tích và mở rộng các hoạt động của Chính phủ khi tham gia vào nền kinh tế. - Chính phủ tham gia vào nền kinh tế với vai trò là thành phần trong tổng cầu (Chính phủ chi tiêu hàng hoá và dịch vụ) chưa có thuế. - Chính phủ tham gia vào nền kinh tế với vai trò thu và chi của ngân sách Nhà nước (thuế cố định). - Chính phủ tham gia vào nền kinh tế với vai trò thu và chi của ngân sách Nhà nước (thuế phụ thuộc vào thu nhập và sản lượng). 29
  31. 3.1.2.1. Thu, chi ngân sách chính phủ Gồm 2 khoản: thu và chi - Thu ngân sách chính phủ chủ yếu từ các loại thuế (Tx). - Chi: chi mua hàng hóa, dịch vụ (G), chi chuyển nhượng (Tr) Khi Chính phủ dự kiến mua sắm hàng hoá và dịch vụ thì tổng cầu của nền kinh tế sẽ tăng lên AD = C + I + G [1] Trong đó G: là giá trị hàng hoá và dịch vụ mà Chính phủ chi tiêu Từ [1] ta thấy, khi Chính phủ dự kiến tăng chi tiêu, thì tổng cầu sẽ tăng lên. Tuy nhiên, không có lý do nào cho thấy chi tiêu của Chính phủ phụ thuộc vào mức sản lượng và thu nhập. Do vậy, ta giả định rằng dự kiến chi tiêu của Chính phủ là một số được ấn định trước: G = G 3.1.2.2. Tác động của chi tiêu Chính phủ đến tổng cầu và sản lượng cân bằng Khi chưa tính đến thuế thì tổng cầu trong trường hợp này sẽ là: AD = C + I + G AD = C I G MPC.Y Với điều kiện cân bằng AD = Y C I G MPC.Y = Y C I G Y 0 1 MPC Y0 m.(C I G) [2] Đẳng thức [2] cho thấy chi tiêu của Chính phủ thay đổi thì sản lượng cân bằng thấy đổi một mức bằng số nhân nhân với mức chi tiêu của Chính phủ thay đổi. Nếu C, I không thay đổi, G tăng một mức ΔG khi đó sản lượng cân bằng tăng một mức là ΔY0 = m. ΔG (gấp m lần so với ΔG). 3.1.2.3. Tác động của thuế đến tổng cầu và sản lượng cân bằng Khi Chính phủ thu thuế thì thu nhập của dân cư giảm do đó tiêu dùng của dân cư sẽ ít đi. Khi Chính phủ trợ cấp xã hội cho người nghỉ hưu, người thất nghiệp, người nghèo, thì thu nhập của dân cư tăng lên làm tăng tiêu dùng. Trong mô hình này, coi thuế là một đại lượng ròng T T = Ta –Tr 30
  32. Trong đó T: thuế ròng Ta: số thu từ thuế của Chính phủ Tr: các khoản trợ cấp từ Chính phủ cho công chúng. Như vậy khi có thuế thì: YD = Y – T - Hàm T và hàm G theo Y + Hàm T theo Y Nếu xem thuế là một đại lượng cho trước. Nói cách khác Chính phủ đã ấn định từ đầu năm tài khóa thì T T . Nhưng cũng có quan điểm coi thuế là một hàm của sản lượng, tức là + t.Y Trong đó: t: mức thuế suất phản ánh tỷ lệ % của thuế so với sản phẩm và thu nhập. + Hàm G theo Y: là hàm hằng G = G Như vậy: B = T – G - Hàm tiêu dùng C khi có thuế: C C MPC.Yd C C MPC Y T C MPC T MPC Y Yt C MPC T MPC(1 t) C MPC Y MPC(T t) - Hàm AD = C + I + G với: , I I MPI.Y , G = - Xác định cân bằng: có 2 phương pháp + AD = Y (AD = I+ C + G) 31
  33. Hình 3.7. Mô hình tổng cầu và sản lượng cân bằng trong nền kinh đóng có sự tham gia của Chính phủ - Số nhân chi tiêu trong nền kinh tế đóng (m’) + Khái niệm: Số nhân chi tiêu trong nền kinh tế đóng là 1 hệ số cho biết mức thay đổi của sản lượng khi tổng cầu thay đổi 1 đơn vị. Y m’ = Y m'. AD AD ( AD I C G ) Y1 Y0 Y + Công thức tính m’: C C MPC.Yd , I I , G G ,T Y.t AD C I G MPC(Y Y.t) C I G MPC(1 t)Y Y C I G C I G 1 MPC(1 t)Y Y 0 1 MPC(1 t) AD C I G AD AD AD C I G AD MPC(1 t)Y Y C I G AD 1 MPC(1 t)Y C I G AD => Y 1 1 MPC(1 t) AD Y Y Y 1 0 1 MPC(1 t) 32
  34. Y 1 m' AD 1 MPC(1 t) 1 => m' 1 MPC(1 t) Trong đó: t là mức thuế suất 0 < t < 1 Chú ý: Trường hợp hàm đầu tư có dạng I I M P I.Y thì 1 m' 1 MPC(1 t) MPI * Số nhân thuế mt - Khái niệm: Số nhân thuế cũng là 1 hệ số cho biết mức thay đổi của sản lượng khi thuế thay đổi 1 đơn vị. Y m Y m . T t T t Y1 Y0 Y - Công thức tính mt: Giả định hệ số của thuế là 1 hàm hằng có dạng T T . Lúc đó: AD C I G MPC.Yd C I G MPC.(Y T) C I G MPC.T MPCY T C I G MPC.T (1 MPC)Y C I G MPC.T Y 0 1 MPC 1 MPC Y (C I G) T 0 1 MPC 1 MPC Y0 m.(C I G) mt .T MPC m t 1 MPC Chú ý: Trường hợp hàm đầu tư có dạng thì MPC m t 1 MPC MPI Nhận xét: 1. mt < 0: thuế có tác động ngược chiều với sản lượng 33
  35. 1 m MPC m.MPC 2. t 1 MPC mt m * Số nhân ngân sách cân bằng: Nếu chính phủ tăng chi tiêu G một lượng G nào đó và để cho ngân sách được cân bằng thì đồng thời chính phủ phải tăng thuế một lượng đúng bằng một lượng chi tiêu tăng thêm ( T = G) thì sản lượng sẽ tăng thêm một lượng Y = G = T. Từ công thức Y0, suy ra: 1 MPC Y ( I G C) . T 1 PMC 1 MPC I + C = 0 G = T 1 MPC Y . G . G 1 MPC 1 MPC mt + m = 1: gọi là số nhân ngân sách cân bằng - Cán cân của ngân sách: phản ánh mối quan hệ giữa thu chi ngân sách B = T – G Thuế ròng: T = Ta - Tr Nếu T = G => B = 0: cân bằng. Nếu T > G => B > 0: thặng dư. Nếu T B 0 cán cân thương mại thặng dư; NX < 0 thâm hụt cán cân thương mại. Xuất khẩu ròng làm tăng thu nhập Quốc dân và làm tăng tổng cầu của nền kinh tế. Tổng cầu trong nền kinh tế mở là tổng chi tiêu của cả 4 tác nhân trong nền kinh tế. 34
  36. AD = C + I + G + X – IM Trong đó X: Cầu về hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu IM: Cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu IM = MPM.Y, NX X MPM.Y Trong đó MPM: là xu hướng nhập khẩu cận biên, có nghĩa là khi thu nhập tăng 1 đơn vị phần thu nhập dành cho chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài là MPM đơn vị. (0 ≤ MPM ≤ 1). Nếu MPM =1 không sử dụng hàng hoá sản xuất trong nước, MPM = 0 không sử dụng hàng hoá nước ngoài. AD = C + I + G + X - IM AD = C + I + G + X + [MPC(1 - t) - MPM].Y 3.1.3.2. Xác định sản lượng cân bằng + AD = Y Hình 3.8. Tổng cầu và sản lượng cân bằng trong nền kinh tế mở + I + G + X = S + T + IM 3.1.3.3. Số nhân chi tiêu trong nền kinh tế mở (m”) - Khái niệm: Số nhân chi tiêu trong nền kinh tế mở (m”) là 1 hệ số cho biết mức thay đổi của sản lượng khi tổng cầu thay đổi 1 đơn vị. Y m" => Y m". AD AD - Công thức tính m”: 1 m" 1 MPC(1 t) MPM 35
  37. Nhận xét: m” < m’ < m Chú ý: Trường hợp hàm đầu tư có dạng I I M P I.Y thì 1 m" 1 MPC(1 t) MPI MPM Bảng tóm tắt: Kinh tế Kinh tế đóng Kinh tế mở giản đơn Tổng cầu C + I C + I + G C + I + G + X - IM AD Số nhân chi 1 1 1 m m' m" tiêu 1 MPC 1 MPC(1 t) 1 MPC(1 t) MPM Sản lượng AD = Y AD = Y AD = Y cân bằng I + G = S + T I = S I + G + X = S + T +IM 3.2. Tổng cung và thị trường lao động 3.2.1. Thị trường lao động 3.2.1.1. Đường cầu về lao động (Dn) (1) Khái niệm cầu về lao động: Cầu về lao động cho biết các hãng kinh doanh cần bao nhiêu lao động tương ứng với mỗi mức tiền công thực tế, trong các điều kiện khác như vốn, tài nguyên, không đổi. (2) Tiền công tiền lương thực tế (Wr): Tiền công, tiền lương thực tế biểu thị khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà tiền công tiền lương danh nghĩa có thể mua được tương ứng với mức giá cả đã cho. Tiền công, tiền lương thực tế được xác định bằng cách lấy tiền công danh nghĩa chia cho mức giá cả chung. Wr = Wn/P Trong đó: Wr: tiền công tiền lương thực tế Wn: tiền công tiền lương danh nghĩa P: mức giá cả chung 3.2.1.2. Đường cung về lao động (Sn) (1) Khái niệm cung về lao động: là số lượng lao động mà nền kinh tế có thể cung ứng, tương ứng với từng mức lương thực tế. 36
  38. (2) Đường cung về lao động là đường biểu diễn mối quan hệ giữa lượng lao động ứng với từng mức lương thực tế trên trục toạ độ, trục tung là mức tiền công tiền lương thực tế, trục hoành là số lượng lao động. Đường cung về lao động có độ dốc dương, hàm ý rằng khi tiền công thực tế tăng lên, có nhiều người sẵn sàng cung ứng sức lao động của mình. Thị trường lao động sẽ đạt cân bằng tại mức tiền công thực tế W0. Ở mức tiền công này số lượng người mà các hãng kinh doanh cần đúng bằng với sống lượng lao động mà xã hội cung cấp. W thực tế SN W0 DN N N Lao động, việc làm 0 Hình 3.9. Thị trường lao động W0: mức lương cân bằng Như vậy, khi thị trường lao động đạt cân bằng, mọi người mong muốn làm việc tại mức tiền công cân bằng thì đều có việc làm. Vị trí cân bằng này tương ứng với trạng thái toàn dụng nhân công. Tuy nhiên, ngay khi thị trường lao động đạt cân bằng vẫn có một số lao động bị thất nghiệp, đây là đội ngũ thất nghiệp tự nguyện vì họ không chấp nhận đi làm với mức tiền công, tiền lương hiện thời (với điều kiện lao động hiện thời). Tỷ lệ thất nghiệp tương ứng với trạng thái thị trường lao động cân bằng gọi là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. 3.2.2. Giá cả, tiền công và việc làm Tiền công trong thị trường lao động thay đổi như thế nào? Các nhà kinh tế cũng có những quan điểm khác nhau. Các nhà kinh tế học cổ điển cho rằng tiền công danh nghĩa và giá cả hoàn toàn linh hoạt, dẫn đến tiền công thực tế sẽ tự điều chỉnh để giữ cho thị trường lao động luôn cân bằng. Nên nền kinh tế luôn ở trạng thái toàn dụng nhân công, không có thất nghiệp không tự nguyện. 37
  39. - Trái lại, các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes cho rằng giá cả và tiền công danh nghĩa không hoàn toàn linh hoạt, thậm trí trong trường hợp cực đoan chung không thay đổi. Tiền công thực tế do vậy cung không thay đổi, thị trường lao động luôn trong tình trạng có thất nghiệp. Do có những quan điển khác nhau về sự vận động của giá cả, tiền công, nên các nhà kinh tế học cổ điển và các nhà kinh tế học trường phái Keynes có những quan điểm khác nhau về đường tổng cung trong ngắn hạn. Hình 3.10. Thị trường lao động 3.2.3. Hai trường hợp đặc biệt của đường tổng cung ngắn hạn 3.2.3.1. Đường tổng cung theo trường phái cổ điển Đó là một đường thẳng đứng, cắt trục hoành tại mức sản lượng tiềm năng Y*. Đường tổng cung theo trường phái cổ điển dựa trên giả thiết rằng, các thị trường, trong đó đặc biệt là thị trường lao động, luôn cân bằng. Giá cả hàng hoá được điều chỉnh linh hoạt sao cho số lượng hàng hoá sản xuất ra đúng bằng số lượng hàng hoá mà người tiêu dùng mong muốn mua. Tiền công cũng linh hoạt điều chỉnh cho đến khi nào mọi người muốn làm việc tại mức tiền công đó đều có việc làm và các hãng kinh doanh sử dụng đúng số công nhân mà họ mong muốn thuê. Khi tiền công được điều chỉnh linh hoạt thì thị trường lao động luôn ở trạng thái cân bằng, không có thất nghiệp. Nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng nhân công, nền kinh tế đã sử dụng hết nguồn lực lao động. Trong thời gian ngắn hạn nguồn lực lao động đã được sử dụng hết, thì sản lượng sẽ không tăng được nữa, và sẽ bằng với mức sản lượng tiềm năng. Từ giả thiết trên, nên đường tổng cung ngắn 38
  40. hạn theo trường phái cổ điển là đường thẳng đứng cắt trục hoành tại mức sản lượng tiềm năng. 3.2.3.2. Đường tổng cung ngắn hạn theo trường phái Keynes Đường tổng cung theo trường phái Keynes là đường nằm ngang. Đường này cho biết các doanh nghiệp sẵn sang cung ứng mọi số lượng sản phẩm ở mức giá đã cho (P*). Đường tổng cung của Keynes dựa trên giả thiết các thị trường trong đó đặc biệt là thị trường lao động không phải lúc nào cũng cân bằng và nền kinh tế luôn ở tình trạng thất nghiệp. Do luôn có thất nghiệp nên các doanh nghiệp có thể thuê thêm bao nhiêu công nhân cũng được với mức lương cố định dẫn cho. Vì vậy họ cung cấp sản phẩm cho mọi nhu cầu xã hội mà không cần tăng giá. Hình 3.11. Mô hình đường tổng cung Hình 3.12. Mô hình đường tổng cung ngắn hạn theo trường phái cổ điển ngắn hạn theo trường phái Keynes Từ những trình bày ở trên chúng ta có thể rút ra những nhận xét: (1) Hai trường hợp đặc biệt của đường tổng cung phản ánh hai thái cực trái ngược nhau của tổng cung. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khác nhau đó, là do quan niệm khác nhau về sự hoạt động về giá cả và tiền công trong nền kinh tế thị trường. Theo trường phái cổ điển, giá cả và tiền công là linh hoạt, trường phái Keynes thì chúng cứng nhắc. Sự khác nhau này còn bao hàm cả quan niệm khác nhau về tốc độ điều chỉnh của nền kinh tế. Trong mô hình cổ điển thì khẳng định những điều chỉnh trong giá cả và tiền công xảy ra ngay lập tức, đủ nhanh cho phép bỏ qua khoảng thời gian ngắn của quá trình điều chỉnh, còn mô hình Keynes khẳng 39
  41. định giá cả tiền công không giảm xuống. Sự khác nhau giữa họ là ở tốc độ điều chỉnh của nền kinh tế, cổ điển thì linh hoạt, nhanh chóng, còn Keynes thì chậm chạp và cần một quá trình và một khoảng thời gian nhất định. Do vậy, cho đến nay, các nhà kinh tế hầu như đã thống nhất và thừa nhận rằng, mô hình của Keynes mô tả hành vi của nền kinh tế trong ngắn hạn, còn mô hình cổ điển mô tả hành vi của nền kinh tế trong dài hạn. (2) Đường tổng cung cổ điển là thẳng đứng, còn đường tổng cung của trường phái Keynes là đường nằm ngang. Nhưng trong thực tế đường tổng cung ngắn hạn không phải thẳng đứng, không phải nằm ngang mà là đường có độ dốc dương. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. 3.2.4. Đường tổng cung thực tế ngắn hạn Đường tổng cung thực tế ngắn hạn được xây dựng trên cơ sở kết hợp ba mối quan hệ sau đây: - Mối quan hệ giữa sản lượng và việc làm - Mối quan hệ giữa việc làm và tiền công - Mối quan hệ giữa tiền công và giá cả 3.2.4.1. Mối quan hệ giữa sản lượng và việc làm Mối quan hệ này thể hiện số lượng lao động thay đổi thì sản lượng thay đổi thế nào trong ngắn hạn. Có thể mô tả mối quan hệ này thông qua hàm sản xuất. Hàm sản xuất trong ngắn hạn có dạng giản đơn như sau: [*] Y = f(N, ) Trong đó: Y là sản lượng N: là lao động được sử dụng của nền kinh tế : là các yếu tố đầu vào khác. Theo hàm [*], thì sản lượng sẽ tăng lên nếu lực lượng lao động được thu hút vào quá trình sản xuất tăng, song tốc độ tăng đó sẽ giảm dần (vì tuân theo quy luật năng suất biên giảm dần). Khi biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng và số lượng người lao động trên đồ thị trục tung phản ánh mức sản lượng, trục hoành phản ánh số lượng người lao động. Thì độ dốc của đồ thị này phụ thuộc vào sản phẩm cận biên của lao động (MPN = UY/UN). Trong thực tế các doanh nghiệp chỉ thuê thêm lao động 40
  42. chừng nào sản phẩm cận biên của lao động vượt quá mức tiền công, tiền lương * * thực tế. Khi MPN = Wr thì sản lượng sẽ lớn nhất (Y = Y ) và N = N Hình 3.13. Hàm sản xuất Vậy nếu số lượng người lao động thực tế nhỏ hơn N* thì sản lượng thực tế nhỏ hơn sản lượng tiềm năng, do vậy khi lao động tăng thì sản lượng tăng. Khi số lượng lao động lớn hơn N* thì khi lao động tăng sản lượng có xu hướng giảm. 3.2.4.2. Quan hệ giữa việc làm và tiền công Đường Phillips đơn giản sẽ mô tả mối quan hệ giữa tiền công và thất nghiệp có dạng sau: W = W-1(1- εU) (*) Trong đó: W tiền công tiền lương thực tế giai đoạn này W-1: Tiền công tiền lương thực tế giai đoạn trước ε: Hệ số phản ánh độ nhạy cảm giữa tiền công và thất nghiệp. U: Tỷ lệ thất nghiệp: U = 1 - N/N* N: Số lao động thực tế được sử dụng của nền kinh tế N*: Số lao động ở mức toàn dụng nhân công Mặt khác giữa tiền công và lao động cũng có mối quan hệ, mối quan hệ này thể hiện rõ nếu thay N và N* bằng hàm số sau: N = a Y N* = a Y* a: là số đơn vị lao động được sử dụng để sản xuất ra một đơn vị sản lượng. Thay vào hàm số (*) 41
  43. W = W –1 [ 1 – ε(1- N/N*)] * * W = W –1 [ 1 – ε(1-aY/aY )] W = W –1 [ 1 - ε(1- Y/Y )] * W = W –1 [ 1 + ε(Y/Y -1)] ( ) Như vậy, sản lượng thực tế càng cao hơn so với mức sản lượng tiềm năng thì tiền công cũng càng cao. Còn sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tiềm năng thì tiền công thực tế giai đoạn sau sẽ thấp hơn mức tiền công thực tế giai đoạn trước. 3.2.4.3. Mối quan hệ giữa chi phí tiền công và giá cả Các doanh nghiệp trong nền kinh tế sẽ định giá sản phẩm của mình sao cho bù đắp được chi phí và có lãi. Trong thời gian ngắn hạn, các yếu tố đầu vào cố định khác chưa thay đổi, chỉ có đầu vào biến đổi thay đổi theo sản phẩm. Trong các yếu tố đầu vào biến đổi thì tỷ trọng chi phí cho đầu vào về lao động chiếm nhiều nhất. Tính trên một đơn vị sản phầm thì các chi phí khác hầu như không thay đổi trong ngắn hạn mà chỉ có chi phí lao động là biến đổi. Do vậy, khi chi phí lao động thay đổi sẽ là nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tới giá của sản phẩm hàng hoá. Theo cách định giá đơn giản, thì giá của sản phẩm sẽ bằng chi phí cộng thêm với phần lợi nhuận định mức. P = aW(1 + f) ( ) Trong đó P: giá cả sản phẩm aW: chi phí tiền lương cho một đơn vị sản phẩm f: Tỷ suất lợi nhuận (tỷ suất lợi nhuận trên chi phí) Thay ( ) vào biểu thức ( ) ta có: * P = a (1+ f) W-1 [ 1 + ε (y /y -1) ] ( ) Biểu thức ( ) này cho thấy mối quan hệ giữa giá cả, tiền công và sản lượng. 3.2.4.4. Đường tổng cung thực tế ngắn hạn P-1 = a (1 +f) W-1 λ = ε/Y* * P = P-1 [ 1+ λ(Y – Y ) ( ) Biểu thức ( ) chính là biểu thức mô tả đường tổng cung thực tế trong 42
  44. ngắn hạn một cách giản đơn. Đây là đường tổng cung của một nền kinh tế mà giá cả không hoàn toàn linh hoạt. Giá cả tăng cùng chiều với sản lượng tăng. Giá cả còn phản ánh sự điều chỉnh diễn ra thị trường lao động. Đường tổng cung ngắn hạn có ba tính chất sau: (1) Độ dốc của đường tổng cung phụ thuộc vào hệ số λ = ε/Y* (2) Vị trí của đường tổng cung phụ thuộc vào mức giá tiêu biểu trong thời kỳ trước (P-1). Đường tổng cung ngắn hạn sẽ cắt mức sản lượng tiềm năng tại mức giá P-1. (3) Đường tổng cung dịch chuyển theo thời gian, phụ thuộc vào mức sản lượng. Nếu mức sản lượng kỳ này cao hơn mức sản lượng tiềm năng, thì sau một thời gian tiền lương sẽ tăng, đường tổng cung sẽ dịch chuyển lên phía trên đường (AS’) ngược lại sẽ dịch chuyển xuống phía dưới AS”. Hình 3.14. Vị trí của đường tổng cung 3.3. Mối quan hệ giữa tổng cung - tổng cầu và quá trình tự điều chỉnh của nền kinh tế 3.3.1. Mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu Trạng thái cân bằng của nền kinh tế sẽ đạt tại điểm E0, tương ứng với mức giá cả P0. Nếu không có lực lượng nào tác động đến E0 làm nó thay đổi vị trí, thì nền kinh tế luôn duy trì được trạng thái cân bằng này. Điểm cân bằng E0 phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản là: - Vị trí của đường tổng cung (AS), và vị trí của đường tổng cầu (AD). Khi một trong hai đường này hoặc cả hai đường này thay đổi thì vị trí điểm cân bằng E0 sẽ thay đổi. 43
  45. - Độ dốc của đường AS và AD. Trong trường hợp đường AS nằm ngang, sự dịch chuyển vị trí của đường tổng cầu chỉ dẫn đến sự thay đổi sản lượng. Trong trường hợp đường AS thẳng đứng sự dịch chuyển tổng cầu chỉ dẫn đến sự thay đổi mức giá. Hình 3.15. Mối quan hệ giữa Hình 3.16. Đường AS nằm ngang tổng cung và tổng cầu và sự dịch chuyển tổng cầu Hình 3.17. Đường AS thẳng đứng và sự dịch chuyển tổng cầu Từ các phân tích trên, ta thấy nếu sử dụng các chính sách tài khoá, tiền tệ tác động vào tổng cung hoặc tổng cầu, thì trạng thái cân bằng của nền kinh tế có thể thay đổi. Song kết quả của các chính sách này phụ thuộc vào độ dốc của đường tổng cung và tổng cầu trong thực tế. 3.3.2. Sự điều chỉnh ngắn hạn, trung hạn, dài hạn 3.3.2.1. Sự điều chỉnh trong ngắn hạn Giả sử nền kinh tế đang ở trạng thái cân bằng và toàn dụng nhân công tại điểm E0 ứng với mức sản lượng Y0 và mức giá là P0. Bây giờ tổng cầu đột ngột tăng lên (chẳng hạn tại lượng tiền danh nghĩa tăng lên). Đường tổng cầu AD sẽ dịch chuyển lên trên và sang phía phải (từ AD sang AD1), cán cân tiền tệ thực tế tăng, dẫn đến cầu tăng, các hãng tăng thêm sản lượng một cách tương ứng cho đến khi 44
  46. đạt trạng thái cân bằng là E1, với mức sản lượng là Y1 và mức giá là P1. Một trạng thái cân bằng ngắn hạn được thiết lập. Tại điểm cân bằng E1 cả mức sản lượng và mức giá đều tăng. Mức độ tăng của giá cả và sản lượng hoàn toàn phụ thuộc vào độ dốc của đường tổng cung (AS). Sự điều chỉnh ngắn hạn được mô tả ở hình 3.18 Hình 3.18. Sự điều chỉnh trong ngắn hạn Hình 3.19. Sự điều chỉnh trung hạn và dài hạn 3.3.2.2. Sự điều chỉnh trung hạn Ở trạng thái cân bằng ngắn hạn E1, không phải mọi việc đã kết thúc. Do sản lượng tăng, giá cả tiếp tục tăng dẫn đến AS dịch chuyển tới AS1 phản ánh mức việc làm cao hơn. Trạng thái cân bằng trung hạn được xác lập tại điểm E2. So với điểm E1 thì tại E2 sản lượng đã giảm đi còn giá cả tăng lên (hình 3.19). 3.3.2.3. Sự điều chỉnh dài hạn Trong chừng mực mà sản lượng còn vượt quá mức sản lượng tiềm năng, thì đường tổng cung tiếp tục dịch chuyển lên phía trên và sang bên trái. Kết quả là sản lượng tiếp tục giảm đến mức toàn dụng nhân công Y = Y*. Nền kinh tế đạt mức cân bằng dài hạn tại mức sản lượng tiềm năng và điểm cân bằng là điểm E3 Tại E3, giá cả đã được điều chỉnh kịp thời với sự tăng lên của sản lượng tiềm năng danh nghĩa. Cán cân tiền tệ thực tế và lãi suất trở lại vị trí ban đầu. Tóm lại: - Quá trình tự điều chỉnh của nền kinh tế trước những sự mở rộng của tổng cầu và thay đổi tổng cung (thông qua tiền lương và giá cả) chỉ diễn ra theo trình tự từ mở rộng đến thu hẹp sản lượng. Trình tự này sẽ đảo ngược lại nếu có một tác động nhằm thu hẹp tổng cầu. 45
  47. - Vì quá trình tự điều chỉnh diễn ra chậm chạp và có thể kéo dài nên đã mở rộng ra một không gian nhất định để Nhà nước can thiệp vào thị trường thông qua chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. Nhằm giữ cho nền kinh tế luôn đạt mức sản lượng tiềm năng. 3.4. Chính sách tài khóa 3.4.1. Chính sách tài khoá trong lý thuyết Chính sách tài khoá là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế, khi sản lượng thực tế của nền kinh tế ở quá xa bên phải hoặc bên trái mức sản lượng tiềm năng, thì lúc đó cần tác động của chính sách tài khoá hoặc tiền tệ để đưa nền kinh tế lại gần với mức sản lượng tiềm năng. a. Cơ chế truyền dẫn Trạng thái một nền kinh tế có thể là: mức sản lượng thực tế có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng. - Nếu mức sản lượng thực tế lớn hơn mức sản lượng tiềm năng G giảm AD giảm Y giảm P giảm, u tăng T tăng Yd giảm và C,I giảm AD giảm Y giảm P giảm, u tăng Nỗ lực của chính sách tài khóa nhằm làm giảm sản lượng bằng cách thắt chặt chi tiêu, tăng thuế gọi là chính sách tài khóa thắt chặt (thu hẹp) - Nếu mức sản lượng thực tế nhỏ hơn mức sản lượng tiềm năng, nghĩa là trên thị trường công ăn việc làm ít, thất nghiệp cao. G tăng AD tăng Y tăng u giảm, P tăng Hoặc T giảm Yd tăng và I tăng C tăng AD tăng Y tăng u giảm, P tăng Tác động của thuế, chi tiêu nhằm làm tăng sản lượng ta gọi là chính sách tài khóa nới lỏng (mở rộng) b. Phân tích chính sách tài khóa trên đồ thị * Giả sử nền kinh tế đang lâm vào tình trạng suy thoái và thất nghiệp Y < Y*: tài khóa mở rộng Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, chính sách tác động theo hướng làm tăng tổng cầu. Có 3 cách: - G tăng AD tăng Y tăng - T giảm Yd tăng và I tăng C tăng AD tăng Y tăng 46
  48. - Tăng G và giảm T AD * Y AS AD = C+I+G+X-IM Y Y*: tài khóa thắt chặt P Y* AS AD * Y <Y 0 Y Hình 3.21. chính sách tài khóa thắt chặt Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt: chính sách tác động theo hướng làm giảm AD. Cách sử dụng: G giảm AD giảm Y giảm T tăng Yd giảm và I giảm AD giảm Y giảm G tăng và T giảm AD giảm Y giảm 3.4.2. Chính sách tài khóa trong thực tế Trước khi thực thi chính sách tài khoá trong thực thế, thì Chính phủ cần phải nghiên cứu kỹ các vấn đề sau: - Mức thâm hụt sản lượng thực tế và mục tiêu đạt ra cho nền kinh tế - Cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế khi chưa cần tác động của chính sách tài khoá. Các hạn chế khi thực hiện chính sách tài khoá. 3.4.2.1. Cơ chế tự điều chỉnh của nền kinh tế (1) Những thay đổi tự động của hệ thống thuế: Hệ thống thuế hiện đại bao gồm thuế thu nhập luỹ tiến với thu nhập cá nhân và lợi nhuận của công ty. Khi thu nhập quốc dân tăng thì số thu về thuế cũng tăng theo và ngược lại khi thu nhập quốc dân giảm thì số thu về thuế cũng giảm. Mặc dù Chính phủ chưa cần phải điều 47
  49. chỉnh thuế suất. Hệ thống thuế có vai trò như một bộ tự ổn định, điều chỉnh tự động nhanh và mạnh. (2) Hệ thống bảo hiểm: Bao gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, và các chuyển khoản mang tính chất xã hội khác. Hệ thống này hoạt động khá nhạy cảm. Khi thất nghiệp hay mất việc, nghỉ hưu, ốm đau họ được nhận trợ cấp. Khi có việc làm thì họ phải trích nộp các khoản bảo hiểm. Như vậy khi nền kinh tế suy thoái người lao động không có việc làm nhưng có thu nhập từ các khoản trợ cấp, do đó làm tổng cầu tăng và thúc đẩy sản lượng tăng. Khi nền kinh tế phát đạt thu nhập tăng, trích nộp các khoản bảo hiểm làm cho thu nhập giảm bớt và làm tổng cầu giảm, do đó sản lượng giảm. Như vậy, hệ thống bảo hiểm luôn có tác động ngược chiều với chu kỳ kinh doanh. Tuy nhiên, những ổn định tự động chỉ có tác dụng làm giảm phần nào những dao động của nền kinh tế, mà không xoá bỏ được hoàn toàn những dao động đó. Phần còn lại là vai trò của các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ. 3.4.2.2. Những hạn chế của chính sách tài khoá Trong thực tế chính sách tài khoá bị hạn chế bởi nhiều lý do: (1) Khó xác định một cách chính xác mức độ cần thiết phải tác động + Có sự khác nhau về quan điểm, cách đánh giá các sự kiện kinh tế + Có sự không chắc chắn cố hữu trong các quan hệ kinh tế (2) Chính sách tài khoá có độ trễ khá lớn về mặt thời gian + Độ trễ bên trong: thời gian thu thập, xử lý thông tin và ra quyết định. + Đội trễ bên ngoài: bao gồm quá trình phổ biến, thực hiện và phát huy tác dụng của chính sách. Cả hai độ trễ trên khá dài phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, thể chế, cơ cấu tổ chức bộ máy. Các chính sách đưa ra không đúng lúc sẽ làm rối loạn thêm nền kinh tế thay vì ổn định nó. (3) Chính sách tài khoá thường được thực hiện thông qua các dự án công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm, trợ cấp xã hội. Mà đa số các dự án này trong thực tế là kém hiệu quả, tham nhũng nhiều, thời gian phát huy tác dụng thường khá dài. 3.4.3. Chính sách tài khoá và vấn đề thâm hụt ngân sách 3.4.3.1. Khái niệm về thâm hụt ngân sách (1) Khái niệm ngân sách Nhà nước: ngân sách Nhà nước là tổng kế hoách 48
  50. chi tiêu và thu nhập hàng năm của Chính phủ. Bao gồm các kế hoạch thu (chủ yếu từ thuế), các kế hoạch chi ngân sách của Nhà nước. Gọi B là cán cân ngân sách: B = T – G. Nếu B > 0 thặng dư ngân sách B < 0 Thâm hụt ngân sách B = 0 Ngân sách cân bằng. (2) Một số khái niệm thâm hụt ngân sách - Thâm hụt ngân sách thực tế: đó là thâm hụt giữa số chi thực tế vượt số thu thực tế trong một thời kỳ nhất định. - Thâm hụt ngân sách cơ cấu: đó là thâm hụt tính toán trong trường hợp nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng. - Thâm hụt ngân sách chu kỳ: thâm hụt ngân sách bị động do tính chu kỳ của nền kinh tế. Thâm hụt chu kỳ bằng hiệu số giữa thâm hụt thực tế và thâm hụt cơ cấu. Trong ba loại thâm hụt trên thì thâm hụt cơ cấu phản ánh kết quả hoạt động chủ quan của chính sách tài khoá như là đưa ra chí sách thuế, chính sách phúc lợi, bảo hiểm, 3.4.3.2. Chính sách tài khoá cùng chiều và chính sách tài khoá ngược chiều Hàm ngân sách đơn giản có dạng như sau: B = - G + tY Trong đó: B: là cán cân ngân sách G: chi tiêu ngân sách tY: Thu nhân sách Nếu Chính phủ thiết lập một chính sách thu chi ngân sách sao cho tại mức sản lượng tiềm năng thì ngân sách đạt cân bằng, lúc đó: B = - G + t Y = 0 tY = G Như vậy, một mức thu nhập hay sản lượng nhỏ hơn sản lượng tiềm năng thì ngân sách sẽ bị thâm hụt. Ngược lại với bất kỳ mức sản lượng nào lớn hơn mức sản lượng tiềm năng thì ngân sách đều thặng dư. Chỉ tại mức sản lượng bằng với sản lượng tiềm năng thì ngân sách mới cân bằng. (1) Chính sách tài khoá cùng chiều Nếu mục tiêu của Chính phủ là luôn đạt được ngân sách cân bằng dù sản lượng có thể thay đổi thế nào cũng được, thì chính sách đó gọi là chính sách tài khoá cùng chiều. Lúc đó nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, ngân sách sẽ thâm hụt, để ngân sách cân bằng lúc này Chính phủ cần phải giảm chi tiêu hoặc 49
  51. tăng thuế hoặc sử dụng cả hai biện pháp. Đổi lại chi tiêu của Chính phủ giảm làm cho sản lượng giảm, do đó suy thoái lại càng suy thoái. (2) Chính sách tài khoá ngược chiều Nếu mục tiêu của Chính phủ là giữ cho nền kinh tế luôn ở mức sản lượng tiềm năng với mức việc làm đầy đủ, thì Chính phủ phải thực hiện chính sách tài khoá ngược chiều với chu kỳ kinh doanh. Lúc đó khi nền kinh tế suy thoái, để tăng sản lượng, để sản lượng lại gần với sản lượng tiềm năng thì Chính phủ phải tăng chi tiêu hoặc giảm thuế, hoặc cả hai biện pháp đó. Như vậy thì ngân sách đã thâm hụt lại càng thâm hụt. Việc Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá cùng chiều hay ngược chiều với chu kỳ kinh doanh phụ thuộc vào tình huống kinh tế cụ thể của mỗi nước, mỗi giai đoạn khác nhau. 3.4.4. Thâm hụt ngân sách và vấn đề tháo lui đầu tư Các biện pháp của chính sách tài khoá chủ động của Chính phủ gây nên thâm hụt cơ cấu và kéo theo hiện tượng tháo lui đầu tư. (1) Cơ chế tháo lui đầu tư như sau: khi tăng chi tiêu hoặc giảm thuế thì GDP sẽ tăng lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền cũng sẽ tăng. Với mức cung tiền vẫn chưa thay đổi, lãi suất sẽ tăng lên, làm cho đầu tư giảm xuống. Kết quả là một phần GDP tăng lên có thể bị mất đi thâm hụt cao, kéo theo đầu tư giảm. Vì vậy, tác dụng của chính sách tài khoá sẽ giảm đi, tác động tương tự cũng có thể xảy ra với tiêu dùng cá nhân và xuất khẩu, nhập khẩu (2) Có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề quy mô của tháo lui đầu tư, điều dự đoán tốt nhất là về mặt ngắn hạn quy mô của tháo lui đầu tư là nhỏ, song lâu dài quy mô tháo lui đầu tư là rất lớn. (3) Nghiên cứu tác dụng của thâm hụt ngân sách và tháo lui đầu tư có thể kết luận là cần phải có sự phối hợp giữa việc thực thi chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. 3.4.5. Các biện pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách Khi thâm hụt ngân sách lớn và kéo dài, các Chính phủ đều phải nghĩ đến các biện pháp giảm bớt thâm hụt. Các biện pháp tăng thu và giảm chi. Tuy vậy, cần phải cân nhắc tăng thu và giảm chi như thế nào và bao nhiêu để ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế. Khi các biện pháp tăng thu và giảm chi không giải quyết được thâm hụt 50
  52. ngân sách. Các Chính phủ phải sử dụng tới các biện pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Các Chính phủ có thể sử dụng những biện pháp tài trợ sau: - Vay nợ trong nước (phát hành công trái vay dân chúng) - Vay nợ nước ngoài - Sử dụng dự trữ ngoại tệ - Vay ngân hàng (in tiền để chi tiêu) Các biện pháp trên đều có những ảnh hưởng ngoài ý muốn nhất định, các Chính phủ cần phải có biện pháp để hạn chế ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế quốc dân. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Mức sản lượng cân bằng, cách xác định mức sản lượng cân bằng. 2. Hàm tiêu dùng, hàm tiết kiệm, biểu diễn trên đồ thị, điều gì quyết định độ dốc của nó. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng. 3. Tác động của chính sách tài khoá đến vấn đề thâm hụt ngân sách. 4. Tác động của chính sách tài khoá tới vấn đề tháo lui đầu tư. 5. Thâm hụt ngân sách và các biện pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách. BÀI TẬP 1. Cho nền kinh tế đóng và hàm tiêu dùng có dạng C = 26,25 tỷ + 0,9375YD. Đầu tư bằng 80 tỷ, chi tiêu của Chính phủ bằng 2.000 tỷ. Tổng thu về thuế của Chính phủ bằng 20% thu nhập. Chính phủ trợ cấp cho các hộ gia đình 100 tỷ. hãy: a, Xây dựng hàm thuế ròng, b, Xác định hàm tổng cầu, c, Xác định mức sản lượng cân bằng, d, Tại mức sản lượng cân bằng, ngân sách của Chính phủ thặng dư hay thâm hụt? e, Nếu Chính phủ giảm chi tiêu mua hàng hóa và dịch vụ 20 tỷ đồng, hãy xác định mức sản lượng cân bằng mới. Minh họa bằng đồ thị. 2. Xét một nền kinh tế đóng, thuế phụ thuộc vào thu nhập. Hàm tiêu dùng có dạng: C = 100 + 0,8YD, Đầu tư dự kiến bằng 250 tỷ đồng và chi tiêu của Chính phủ bằng 300 tỷ đồng. 51
  53. a, Xác định mức thuế suất để đảm bảo ngân sách cân bằng tại mức sản lượng cân bằng. b, Nếu thuế suất bằng 0,3, Hãy xác định mức sản lượng cân bằng và cán cân ngân sách tại mức sản lượng cân bằng đó. 3. Xét nền kinh tế giản đơn. Giả sử đầu tư theo kế hoạch là 150. Ban đầu hàm tiết kiệm có dạng S = 0,3Y. Sau đó mọi người quyết định tiết kiệm 50% thu nhập, tức là S = 0,5Y a. Mức sản lượng cân bằng thay đổi như thế nào? b. Tính mức tiêu dùng và tiết kiệm ứng với mỗi mức sản lượng cân bằng 4. Xét một nền kinh tế với các thông số sau: C = 20 + 0,9 YD I = 30 nghìn tỷ đồng G = 8 nghìn tỷ đồng T = (1/9)Y X = 4 nghìn tỷ đồng IM = 2 + 0,2Y a, Xác định xu hướng tiêu dùng cận biên từ thu nhập quốc dân, b, Xây dựng phương trình hàm tổng cầu c, Xác định sản lượng cân bằng. 5. Giả sử một nền kinh tế được biểu diễn bởi các thông số sau: C = 10 + 0,8YD I = 5 tỷ đồng G = 40 tỷ đồng T = 0,2Y X = 5 tỷ đồng IM = 0,14Y a. Xác định mức tiêu dùng tự định của nền kinh tế b. Xây dựng hàm tổng cầu và biểu diễn bằng đồ thị c. Hãy xác định mức sản lượng cân bằng Giả sử chính phủ tăng chi mua hàng hóa dịch vụ thêm 20 tỷ đồng. Hãy xác định mức sản lượng cân bằng mới và biểu diễn bằng đồ thị. 52
  54. Chương 4: TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 4.1. Chức năng tiền tệ Khái niệm tiền: Tiền là bất cứ một phương tiện nào được xã hội thừa nhận làm vật trung gian cho việc mua bán hàng hoá, dịch vụ . 4.1.1. Chức năng của tiền Tiền tệ có ba chức năng cơ bản là phương tiện thanh toán, chức năng dự trữ giá trị, chức năng làm đơn vị thanh toán. 4.1.1.1. Tiền là phương tiện thanh toán Tiền được dùng trong giao dịch, mua bán hàng hoá và dịch vụ. Vậy tiền cho phép trao đổi giá trị mà không cần trao đổi hàng hoá trực tiếp. Nó tạo điều kiện thuận lợi đặc biệt cho quá trình lưu thông hàng hoá, nó như là dầu bôi trơn của mọi hoạt động kinh tế, thúc đẩy quá trình phân công lao động và mở rộng chuyên môn hoá sản xuất. Dòng lưu thông tiền tệ trở thành hệ thống huyết mạch của toàn bộ nền kinh tế thị trường. 4.1.1.2. Chức năng dự trữ giá trị Tiền hôm nay có thể tiêu dùng giá trị của nó trong tương lai. Vì thế nó tạo khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng thêm thu nhập trong hiện tại, nhưng có thể để dành một phần kết quả đạt được cho tiêu dùng ngày mai. Vậy tiền là một loại tài sản tài chính, mà nhờ nó có thể mở rộng hoạt động tín dụng, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung nguồn vốn để mở rộng sản xuất. 4.1.1.3. Chức năng làm đơn vị thanh toán Tiền cung cấp một đơn vị tiêu chuẩn giá trị được dùng để đo lượng giá trị các hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Nó cần thiết cho mọi nền kinh tế, thông qua đơn vị đo người ta có thể đo lường tính toán các chi phí đầu vào, kết quả đầu ra. So sánh đối chiếu giữa đầu ra và đầu vào, xác định được kết quả cuối cùng của các hoạt động kinh doanh. Tiền còn là cơ sở để hạch toán mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, từ sản xuất, lưu thông, tiêu dùng của toàn bộ nền kinh tế. 4.1.2. Phân loại tiền Theo khả năng chuyển đổi của tiền thì có thể phân loại tiền như sau: (1) Tiền mặt (M0): Tiền mặt lưu hành với sự đa dạng về giá trị danh nghĩa, tuy không sinh lời nhưng có khả năng thanh toán cao nhất. (2) Tiền cơ sở (M1): Tiền mặt và tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn được 53
  55. gọi là tiền cơ sở M1 loại tiền này khả năng thanh toán cũng rất cao, mức độ sẵn sàng thanh toán chỉ kém hơn tiền mặt. Loại tiền này được nhiều nước coi là tiền giao dịch. Một trong những đại lượng đo mức cung tiền chủ yếu của một quốc gia (3) Tiền cơ sở (M2): Gồm tiền M1 và tiền gửi ngân hàng có kỳ hạn. Tuy mức độ chuyển đổi có kém hơn M1 nhưng đây cũng là loại tiền có khả năng chuyển đổi sang tiền mặt tương đối cao do vậy loại tiền này cũng được coi là loại tiền có khả năng thanh toán. Có nhiều quốc gia phát triển coi M2 là đại lượng đo mức cung tiền chủ yếu. Ngày này, sự phát triển lớn mạnh của hệ thống tài chính đã ra đời nhiều loại tài sản tài chính khác, và các tài sản tài chính khác ngày càng trở nên quan trọng (cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc, sổ tiết kiệm, quyền sở hữu, các giấy xác nhận quyền sở hữu tài sản hữu hình, các giấy xác nhận thanh toán ngân hàng, thậm chí các tài sản hữu hình chúng đều có khả năng thanh toán nhất định. Vì vậy theo khả năng chuyển đổi chúng ta có thể ký hiệu là M3, M4, Mức cung tiền (MS) là một khái niệm quan trọng được xác định bởi khối lượng tiền (có thể là M1 hoặc M2, ) bao gồm các loại tiền có khả năng thanh toán cao nhất nhằm thoả mãn nhu cầu trao đổi và giao dịch thường xuyên của mọi hoạt động trong nền kinh tế. Ở đây chúng ta coi mức cung về tiền tương ứng với khái niệm M1, tiền giao dịch. 4.2. Mức cung tiền và vai trò kiểm soát tiền tệ của ngân hàng Trung ương 4.2.1. Tiền cơ sở (H) Ngân hàng Trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền. Lượng tiền phát hành chủ yếu là tiền mặt được gọi là tiền cơ sở (cơ số của tiền). Trong quá trình lưu thông một phần của lượng tiền này được các tác nhân giữa lại ở dạng tiền mặt để chi tiêu dần, và một phần nằm tại tại các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ. Vậy lượng tiền cơ sở ban đầu bằng tiền mặt đang lưu hành và tiền mặt dự trữ ở các ngân hàng. H = U + R Trong đó H: là tiền cơ sở U: tiền mặt lưu hành 54
  56. R: tiền dự trữ trong các ngân hàng 4.2.2. Hoạt động của hệ thống ngân hàng 4.2.2.1. Hoạt động của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại (NHTM): là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, là một tổ chức môi giới tài chính. Hoạt động của nó cũng giống như các tổ chức môi giới khác như qũy tín dụng, các công ty bảo hiểm là nhận tiền của người này đem cho người khác vay để nhận phần lãi suất chênh lệch. Ngân hàng thương mại cũng được coi là các tổ chức tài chính trung gian thu thập các khoản tiết kiệm của dân cư, những người muốn để dành một phần giá trị thu nhập cho tiêu dùng trong tương lai. Cũng như thu thập những khoản tiền nhàn rỗi khác trong xã hội và đem những khoản này cho những người cần vay để chi tiêu trong hiện tại. Ngân hàng có thu nhập trên cơ sở lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất nhận gửi. 4.2.2.2. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép mỗi một ngân hàng riêng biệt không cần phải lưu giữ đầy đủ mọi giá trị của các khoản tiền vào ra trong ngày của ngân hàng. Thông qua một hệ thống thanh toán của ngân hàng Nhà nước mà ở đó mỗi ngân hàng thương mại đều có một tài khoản của mình, công việc thanh toán bù trừ được tiến hành vào cuối ngày và chỉ cần thanh toán khoản chênh lệch giữa toàn bộ tiền gửi và rút ra trong tài khoản của Ngân hàng thương mại mở tại hệ thống thanh toán. Điều này mở ra khả năng hạ thấp tỷ lệ dự trữ của hệ thống ngân hàng thương mại, tăng tốc độ thanh toán, đẩy nhanh các hoạt động giao dịch. Sự thanh toán liên ngân hàng không chỉ diễn ra trong nước. Mối quan hệ giữa ngân hàng các nước thông qua việc ngân hàng này làm chi nhánh của ngân hàng khác. 4.2.2.3. Sự tạo ra tiền ngân hàng của tiền gửi Quá trình tạo ra tiền là sự mở rộng nhiều lần số tiền gửi và được thực hiện bởi hệ thống các ngân hàng thương mại. Mỗi ngân hàng thương mại khi nhận được một khoản tiền gửi bắt buộc phải để lại khoản dự trữ theo tỷ lệ (%) nào đó do mỗi ngân hàng quy định. Số tiền dự trữ chủ yếu dùng để bảo đảm khả năng ổn định việc chi trả thường xuyên của ngân hàng thương mại và yêu cầu quản lý tiền tệ của ngân hàng Trung ương. Tuỳ theo loại tiền gửi và quy mô của chúng mà ngân hàng Trung ương sẽ quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Một phần dự trữ để lại tài khoản của ngân hàng dưới dạng 55
  57. tiền mặt, một phần gửi tại tài khoản của mình ở ngân hàng Trung ương. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà ngân hàng Trung ương quy định ở mỗi thời kỳ là rb. rb = Rb/D Trong đó: rb: tỷ lệ dự trữ bắt buộc Rb: lượng dự trữ bắt buộc ứng với từng quy mô của ngân hàng D: tiền gửi. Một khoản tiền gửi mới được đưa vào hệ thống ngân hàng (D) sẽ tạo thêm một khoản dự trữ mới (UR) sẽ cho phép tạo ta một lượng tiền tối đa cho vay mới. Những khoản cho vay mới được đưa trở lại hệ thống ngân hàng và trở thành các khoản tiền gửi mới (UD), quá trình cứ như vậy kết quả là lượng tiền gửi sẽ tăng lên nhiều lần. Nếu tất cảc các khoản thanh toán, giao dịch đều thông qua hệ thống ngân hàng, tỷ lệ dự trữ thức tế của ngân hàng thương mại đúng bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng Trung ương thì lượng tiền tối đa được hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra với khoản tiền gửi ban đầu (D) là D = 1/rb. UD Ví dụ: Lượng tiền gửi ban đầu của một ngân hàng thương mại là 100 triệu đồng, tỷ lệ dự trữ thực tế bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc là rb= 10%, giả sử mọi giao dịch trong nền kinh tế đều thông qua ngân hàng. Thì số tiền tối đa mà hệ thông ngân hàng tạo ra là D = 1/0,1.100 = 1.000 triệu đồng. 4.2.3. Xác định mức cung tiền (MS) 4.2.3.1. Khái niệm mức cung tiền Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn của các ngân hàng thương mại. Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, bởi hoạt động tạo ra tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng thương mại. Mức cung tiền trước hết được quyết định quy mô của lượng tiền cơ sở và sau đó là khả năng tạo ra tiền của hệ thống ngân hàng thương mại nhờ số nhân tiền tệ. 56
  58. Hình 4.1. Tiền cơ sở (H) MS = U + D MS = mM.H Trong đó: H là tiền cơ sở được ngân hàng Trung ương phát hành mM: Số nhân của tiền MS: Mức cung tiền U: tiền mặt lưu hành D: tiền gửi ở các ngân hàng thương mại 4.2.3.2. Số nhân tiền (mM) Số nhân của tiền là tỷ lệ khuyếch đại lượng tiền cơ sở thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và sự kiểm soát tiền tệ của ngân hàng Trung ương mM = MS/H. Nếu tỷ lệ dự trữ ở ngân hàng thương mại bằng tỷ lệ dự trữ thực tế của ngân hàng Trung ương và mọi giao dịch trong nền kinh tế đều thông qua ngân hàng thì số nhân tiền mM=1/rb. MS = U + D Gọi tỷ lệ giữ tiền mặt trong lưu thông so với tiền gửi sẽ là s = U/D và tỷ lệ dự trữ thực tế ra = Ra/D. Trong đó : Ra: Là tỷ lệ dự trữ thực tế của ngân hàng thương mại 57
  59. Ra: Là lượng dự trữ thực tế của các ngân hàng thương mại D: Là tiền gửi H = U + Ra MS U D s 1 1 s mM [*] H U Ra s ra ra s Từ công thức [*] cho thấy số nhân tiền mm phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ thực tế của ngân hàng thương mại và phụ thuộc vào tỷ lệ giữa tiền mặt lưu hành và tiền gửi (s). * Tỷ lệ dự trữ thực tế ra càng nhỏ thì số nhân tiền càng lớn. Tỷ lệ dự trữ thực tế ra phụ thuộc vào các nhân tố sau: - Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do ngân hàng Trung ương quy định - Tính ổn định của các nguồn tiền mặt vào ra của các ngân hàng thương mại. - Sự thiệt hại do phải trả lãi suất nếu phải vay tiền khi thiếu hụt dự trữ. * Tỷ lệ giữa tiền mặt so với tiền gửi (s) càng nhỏ, số nhân tiền càng lớn. Tỷ lệ (s) phụ thuộc vào: - Thói quen thanh toán của dân chúng - Tốc độ tăng của tiêu dùng - Phụ thuộc vào khả năng sẵn sàng đáp ứng tiền mặt của các ngân hàng thương mại. - Trong trường hợp (s) rất nhỏ hoặc bằng không và ra = rb thì mM= 1/rb Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của nền kinh tế. Vì tiền có chức năng là trao đổi nên khi hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra nhiều hơn thì cũng cần thiết phải tăng lượng cung tiền và ngược lại. Mối quan hệ này được xác định trong phương trình trao đổi về lượng của tiền tệ. [ ] M.V = P .Q = GNPn Trong đó: M: mức cung tiền (chẳng hạn M1) V: tốc độ lưu thông tiền tệ P: Mức giá trung bình Q: Sản lượng thực tế Có thể viết lại [ ] theo phương trình dưới đây: 58
  60. P *Q M V Giả sử tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tương đối ổn định thì mức cung tiền (M) cần phải được điều chỉnh theo GNPn. Sự thay đổi của mức cung tiền có tác động trực tiếp tới lãi suất thị trường tiền tệ và qua lãi suất tác động đến tiêu dùng, đầu tư, xuất nhập khẩu. Do vậy, việc kiểm soát mức cung tiền (M) được coi là một chính sách tiền tệ quan trọng đặc biệt trong quản lý nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Muốn kiểm soát được (M), ta có MS = H xmM, thì phải có khả năng tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền tệ (mM). Vai trò này được ngân hàng Trung ương đảm nhận. 4.2.4. Ngân hàng Trung ương và vai trò kiểm soát tiền tệ của NHTW 4.2.4.1. Chức năng của ngân hàng Trung ương Ngân hàng Trung ương có các chức năng cơ bản sau: (1) Ngân hàng của các ngân hàng thương mại: Ngân hàng Trung ương giữ các khoản dự trữ cho các ngân hàng thương mại, thực hiện tiến trình thanh toán cho hệ thống các ngân hàng thương mại và hoạt động như là một “người cho vay của phương sách cuối cùng” đối với ngân hàng thương mại trong trường hợp khẩn cấp như là rơi vào tình trạng không còn khả năng thanh toán. (2) Ngân hàng của Chính phủ: Ngân hàng Trung ương giữ các tài khoản cho Chính phủ, nhận tiền gửi và cho vay đối với kho bạc Nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khóa của Chính phủ bằng việc mua tín phiếu của Chính phủ. (3) Kiểm soát mức cung tiền để thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế. (4) Hỗ trợ giám sát và điều tiết hoạt động của thị trường tài chính 4.2.4.2. Thực thi chính sách tiền tệ Ngân hàng Trung ương điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều công cụ khác nhau nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền (mM). Ngoài ra ngân hàng Trung ương có thể trực tiếp kiểm soát có lựa chọn một số khoản tín dụng và một một số biện pháp khác. (1) Nghiệp vụ thị trường mở Thị trường mở là thị trường tiền tệ của ngân hàng Trung ương được sử dụng để mua bán trái phiếu kho bạc của Nhà nước. Với công cụ này, NHTƯ có thể tác động vào lượng tiền mạnh H làm thay 59
  61. đổi mức cung tiền MS. Nếu lượng tiền dùng để mua là H thì lượng tiền cung ứng tăng thêm là: MS = mm. H Ngược lại, khi muốn giảm mức cung tiền thì NHTƯ bán tín phiếu, trái phiếu. (2) Quy định tỷ lệ dữ trữ bắt buộc Tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp, số nhân tiền sẽ lớn, là điều kiện thuận lợi để mở rộng tín dụng, tăng nhanh mức cung tiền. Ngân hàng Trung ương đã khống chế một cách gián tiếp nhưng mạnh mẽ đến mức cung tiền. Sử dụng công cụ này thường có hiệu quả cao, tác động nhanh chóng đến hoạt động cho vay, nhưng điều này cũng sẽ gây khó khăn cho hoạt động của thị trường tài chính (3) Lãi suất chiết khấu Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng thương mại vay tiền để bảo đảm có đầy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các ngân hàng thương mại. Khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện cho vay thuận lợi sẽ là tín hiệu khuyến khích các ngân hàng thương mại vay tiền để tăng dự trữ và mở rộng hoạt động cho vay, mức cung tiền sẽ tăng lên. Khi hoạt động của thị trường mở chưa phát triển thì công cụ này sẽ rất hữu ích và quan trọng. (4) Các công cụ khác - Lãi suất ký thác. - Kiểm soát tín dụng chọn lọc. - Ấn định lãi suất cho các ngân hàng thương mại. Ngân hàng trung ương có khả năng ấn định mức cung tiền (M1) theo dự kiến, có thể tăng thêm hay giảm bớt mức cung tiền MS bằng các công cụ điều tiết của mình, chủ động thực hiện chính sách tiền tệ đã hoạch định. 4.3. Mức cầu tiền 4.3.1. Các loại tài sản tài chính Tài sản tài chính được chia thành hai loại: - Tài sản giao dịch (thanh toán) không tạo ra thu nhập nhưng được dùng để thanh toán khi mua hàng hoá và dịch vụ, - Các loại tài sản tài chính khác tạo ra thu nhập (tín phiếu, cổ phiếu, sổ tiết kiệm, ) nhưng không thể dùng trực tiếp để mua hàng hoá và dịch vụ được. Hầu hết các hộ gia đình và doanh nghiệp giữ cả hai loại tài sản trên. 60
  62. Mọi tài sản giao dịch được gọi là tiền, mọi tài sản khác tạo ra thu nhập gọi là trái phiếu. 4.3.2. Mức cầu về tiền (1) Khái niệm cầu tiền là khối lượng tiền cần để chi tiêu thường xuyên đều đặn cho nhu cầu cá nhân và doanh nghiệp, gọi là mức cầu về tiền giao dịch. (2) Mức cầu cán cân tiền tệ thực tế gọi tắt là mức cầu về tiền (MD) phụ thuộc chủ yếu vào hai nhân tố Thu nhập thực tế: Khi thu nhập tăng thì tiêu dùng cung tăng do đó cầu tiền cũng tăng. Lãi suất: Chi phí để giữ tài sản dưới dạng tiền là thu nhập từ lãi suất mà các tài sản có thể tạo ra nếu như để chúng dưới dạng tài sản tài chính khác (trái phiếu). Lãi suất chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Trong các điều kiện khác nhau không thay đổi thì, khi lãi suất giảm người dân muốn để nhiều tài sản dưới dạng tiền hơn và ít ở dạng trái phiếu hơn. Lãi suất và cầu tiền có mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Ta có thể biểu diễn hàm cầu tiền như sau: MD = kY - h i Trong đó: MD Mức cầu về tiền Y: Là thu nhập i: Là lãi suất k: Hệ số nhạy cảm giữa cầu tiền với thu nhập i: Hệ số nhạy cảm giữa cầu tiền với lãi suất Dấu (-) Phản ánh quan hệ tỷ lệ nghịch giữa cầu tiền với lãi suất. (+) Phản ánh quan hệ tỷ lệ thuận giữa cầu tiền với thu nhập. 61
  63. Hình 4.2. Hàm cầu về tiền Nếu biểu diễn hàm cầu tiền trên đồ thị với trục tung là lãi suất, trục hoành là lượng tiền, thì đường cầu tiền có độ dốc âm (dốc xuống). Ứng với mức thu nhập là Y0, đường cầu tiền là đường MD0, khi thu nhập tăng từ Y0 lên tới Y1 thì đường cầu tiền sẽ dịch chuyển từ MD0 lên tới MD1. Cùng mức lãi suất i0 lượng tiền đã tăng từ M0 lên M1 (3) Khi tính mức cầu tiền người ta còn tính tới nhu cầu dự phòng đó là những khoản chi tiêu cần thiết nhưng chưa có khả năng dự tính trước nên cần phải giữ một lượng tiền nào đó để dự phòng. Khi dự tính mức cầu dự phòng người ta thường so sánh giữa thiệt hại của việc không sắn tiền với khoản lãi mất đi do giữ tiền lại cho nhu cầu này. 4.3.3. Mức cầu về tài sản tài chính khác Mức cầu về tài sản tài chính khác là mức cầu các loại tài sản tài chính có sinh lời dưới dạng (chứng khoán). 4.3.4. Quan quan hệ giữa mức cầu về tiền và mức cầu trái phiếu Để đơn giản cho quá trình phân tích chúng ta chia toàn bộ tài sản thành hai loại tiền và trái phiếu. MD + DB = Wn/P [*] Trong đó: MD là mức cầu tiền thực tế DB: Giá trị thực tế của các loại trái phiếu Wn: Tổng tài sản tài chính danh nghĩa P: Là chỉ số giá Tổng các tài sản tài chính trong nền kinh tế có thể đo lường được từ những 62
  64. loại tài sản cụ thể đã được cung ứng như: mức cung tiền, số lượng và giá trị trái phiếu đã đưa ra thị trường, , và được biểu diễn bằng đẳng thức: Wn/P = MS + SB [ ] Trong đó: MS là mức cung tiền thực tế Wn/P: Tổng các giá trị tài sản tài chính thực tế đã cung ứng ra thị trường. SB: Giá trị thực tế của cung các loại trái phiếu ra thị trường. Từ [*] và [ ] ta có: MS + SB = MD+ DB MD – MS = SB - DB (MD –MS) – (SB –DB) = 0 Giả sử thị trường tiền tệ là cân bằng thì MD –MS = 0, khi đó SB – DB = 0 nghĩa là thị trường trái phiếu cũng cân bằng. Tóm lại: Khi thị trường tiền tệ cân bằng thì thị trường thị trường chứng khoán cũng cân bằng, hơn thế nữa thị trường tài chính cũng cân bằng. 4.4. Tiền tệ, lãi suất và tổng cầu 4.4.1. Cân bằng thị trường tiền tệ Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định mức lãi suất cân bằng i0 lãi suất thị trường ứng với mức cung tiền cho trước. E: Là điểm cân bằng của thị trường tiền tệ. Tại mức lãi suất cân bằng (i0) mức cầu tiền vừa đúng bằng mức cung tiền (MD = MS). Hình 4.3. Cân bằng thị trường tiền tệ 63
  65. 4.4.2. Lãi suất với tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu Tiền chỉ là phương tiện trao đổi thuận lợi. Quan hệ cung tiền và cầu tiền trên thị trường tiền tệ ấn định mức lãi suất cân bằng, tức là mức lãi suất thị trường. Đến lượt lãi suất lại tác động trở lại đối với tiêu dùng, đầu tư và xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Nghĩa là tác động đến các thành phần của tổng cầu. Khi cung tiền tệ tăng, lãi suất sẽ giảm, giá trái phiếu sẽ tăng. Do đó, giá trị hiện tại của thu nhập trong tương lai có giá trị hơn, gây ra hiệu ứng của cải, làm dịch chuyển đường tiêu dùng lên phía trên. Ở một mức lãi suất thấp hơn sẽ có nhiều dự án được đầu tư hơn ở mức lãi suất cao. Đường cầu về đầu tư có dạng dốc nghiêng đi xuống biểu thị lợi ích cận biên của đầu tư giảm dần. Lãi suất cũng có quan hệ chặt chẽ với xuất khẩu, khi lãi suất tăng thì đồng tiền nội địa định giá cao hơn đẩy tỷ giá hối đoái tăng, làm cho hàng hoá bán ở nước ngoài có mức giá tăng còn hàng hoá nhập khẩu bán trong nước thì giá cả giảm. Điều này sẽ hạn chế xuất khẩu, khuyển khích nhập khẩu. Còn khi lãi suất giảm thì ngược lại. 4.4.3. Lãi suất với tổng cầu Tiêu dùng, đầu tư, xuất, nhập khẩu là các thành phần của tổng cầu. Khi mức cung tiền tăng, lãi suất sẽ giảm khi đó mở rộng tiêu dùng cá nhân tăng chi tiêu của doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, hạn chế nhập khẩu. Điều đó làm cho quy mô của tổng cầu tăng.Và ngượi lại, lãi suất tăng làm cho tiêu dùng giảm, đầu tư giảm, xuất khẩu giảm, nhẩu khẩu tăng, làm cho quy mô của tổng cầu giảm xuống. Khi tổng cầu thay đổi sẽ làm cho sản lượng thay đổi, thu nhập thay đổi. Nhưng bất kỳ một sự thay đổi nào của tổng cầu cũng có tác động trở lại thị trường tiền tệ. Nếu cung tiền không đổi, chi tiêu của Chính phủ tăng, cầu về tiền sẽ tăng, đẩy lãi suất lên cao, lãi suất tăng tác động đến đầu tư, tiêu dùng, nhập khẩu, xuất khẩu được gọi là hiện tượng “tháo lui đầu tư”. 4.4.4. Mô hình IS – LM 4.4.4.1. Đường IS Thị trường hàng hoá cân bằng khi tổng cầu bằng với thu nhập, tương ứng với một mức lãi suất cho trước. Khi lãi suất thay đổi tổng cầu sẽ dịch chuyển xác định mức thu nhập cân bằng mới. Như vậy, Nếu tập hợp các tổ hợp khác nhau 64
  66. giữa lãi suất và thu nhập ở mức cân bằng của thị trường hàng hoá sẽ tạo thành một đường gọi là đường IS. Đường IS là đường biểu diễn tập hợp tất cả những điểm cân bằng của thị trường hàng hoá ứng với từng mức lãi suất. Hình 4.4. Mô hình đường IS Ở mức lãi suất i0 tổng cầu là đường AD0, sản lượng cân bằng tại Y0, thị trường hàng hoá cân bằng tại điểm E0. Ở đồ thị trục tung là lãi suất, trục hoành là thu nhập ta có tổ hợp A (Y0,i0). Khi lãi suất giảm từ i0 tới i1 tổng cầu sẽ được mở rộng làm đường tổng cầu AD0 dịch chuyển tới AD1, xác định mức sản lượng cân bằng mới E1. Khi đó điểm cân bằng mới của thị trường hàng hoá là điểm E1. Ở đồ thị phía bên dưới, ứng với mức lãi suất i1 thì mức sản lượng cân bằng là Y1, xác định tổ hợp B(Y1,i1). Ta nối hai điểm A và B ở đồ thị phía bên dưới, đây chính là đường IS. Khi lãi suất từ i0 giảm xuống tới i1 thì mức sản lượng cân bằng Y sẽ di chuyển từ điểm A tới điểm B trên đường IS. Mức sản lượng cân bằng sẽ từ Y0 dịch chuyển 65
  67. tới Y1. Phương trình đường IS Ta biết đường IS hình thành từ sự thay đổi điểm cân bằng sản lượng dưới tác động của lãi suất. Lãi suất thay đổi làm ảnh hưởng đến đầu tư qua mức đầu tư biên theo lãi suất (MPI) Hàm đầu tư: I I MPI.Y MPI.i Điểm cân bằng sản lượng được xác định bằng phương trình: AD = Y Y = C + I + G + X – IM Hoặc S + T + IM = I + G + X Trong đó: C C M P C.Yd , I I MPI.Y MPI.i , G G , X X , IM M P M.Y Từ đó rút ra phương trình: Y = Y(i) chính là phương trình đường IS 4.4.4.2. Đường LM Đường LM biểu thị những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập với sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Hàm cầu tiền có dạng: MD = MD(i,Y) Phương trình đường LM Đường LM là đường biểu hiện những tập hợp những điểm cân bằng của thị trường tiền tệ ứng với từng mức thu nhập. Có thể xác định đường LM thông qua biểu thức sau: MS = MD + Trường hợp phương trình của cầu tiền có dạng: MD = k.Y – h.i Khi đó MS = MD M M n k.Y h.i h.i k.Y n P P 1 M i k.Y n h P Đây là phương trình đường LM Trong đó: h và k là độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất và thu nhập P: chỉ số giá 66
  68. M MS = n là mức cung tiền thực tế P Y: thu nhập + Trường hợp hàm cầu tiền có dạng MD = k.Y – h.i + M0 M M MS = MD n k.Y h.i M h.i k.Y n M P 0 P 0 1 M n Phương trình đường LM: i k.Y M 0 h P Xác định đường LM thông qua mô hình cân bằng như sau: Hình 4.5. Mô hình đường LM 4.4.4.3. Sự cân bằng đồng thời của thị trường hàng hoá và tiền tệ Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hoá, với các tổ hợp khác nhau giữ lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ với các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập. Tác động qua lãi giữa hai thị trường hàng hoá và tiền tệ sẽ ấn định mức lãi suất và thu nhập cân bằng đồng thời cho cả hai thị trường này. Mô hình IS –LM cho biết trạng thái cân bằng đồng thời tại giao điểm của đường IS và đường LM. 67
  69. Hình 4.6. Sự cân bằng trên các thị trường hàng hoá và tiền tệ Điểm E trên đồ thị có tọa độ thỏa mãn hệ phương trình sau: AD = Y (1) MS = MD Trong đó, phương trình (1) là phương trình đường IS, phương trình sau là phương trình đường LM. Mô hình IS – LM được vẽ trong điều kiện P không đổi và được gọi là mô hình tĩnh 4.5. Chính sách tài khóa, tiền tệ và sự phối hợp hai chính sách này 4.5.1. Chính sách tài khóa Chính sách tài khoá tác động làm dịch chuyển đường tổng cầu và do vậy làm dịch chuyển đường IS. Giả định rằng nền kinh tế bắt đầu ở điểm cân bằng E0 tương ứng với IS0 và LM0. Chính phủ tăng chi tiêu để thực hiện một dự án xây dựng cơ sở hạ tầng bằng nguồn bán tín phiếu. Như vậy, mức cung tiền không thay đổi, đường LM không thay đổi, nhưng tăng chi tiêu của Chính phủ làm cho tổng cầu tăng và đường tổng cầu dịch chuyển, dẫn đến đường IS dịch chuyển IS1. Nếu mức lãi suất không thay đổi i = i0 thì điểm cân bằng của thị trường là điểm E2 và sản lượng cân bằng mới sẽ là Y2, nhưng do cung tiền không đổi, tổng cầu tăng làm sản lượng tăng dẫn đến lãi suất tăng từ i0 tới i1 làm hạn chế bớt mức sản lượng tăng do chi tiêu tăng, điểm cân bằng bây giờ là E1 mức sản lượng cân bằng là Y1. Như vậy mức cung tiền không đổi sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ đã 68
  70. góp phần làm tăng thu nhập và đồng thời đẩy lãi suất lên và đồng thời gây ra hiện tượng “tháo lui đầu tư”. Quy mô của việc tháo lui đầu tư phụ thuộc vào độ dốc của đường LM. Nếu dự án xây dựng trên được tại trợ bằng tăng mức cung tiền để duy trì mức lãi suất i0, thì đường LM sẽ dịch chuyển từ LM0 tới LM1 và điểm cân bằng sẽ là E2, mức sản lượng cân bằng Y2. Thu nhập tăng nhưng lãi suất không tăng, không gây ra hiện tượng tháo lui đầu tư. Điều này cho thấy chính sách tài khoá mở rộng cần phải được đi kèm với chính sách tiền tệ mở rộng, khi đó mới có thể phát huy đầy đủ tác dụng của nó. Hình 4.7. Tác động của chính sách tài khoá- tiền tệ tới lãi suất và sản lượng cân bằng 4.5.2. Chính sách tiền tệ Ngân hàng Trung ương là cơ quan thực thi các chính sách tiền tệ, mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả và tăng sản lượng, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp. Tuỳ đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi thời kỳ cụ thể cần phải xác định mục tiêu chủ yếu, mục tiêu thứ yếu. Vì chính sách tiền tệ chỉ có khả năng tác động vào thị trường tiền tệ qua đó tác động vào tổng cầu và sản lượng. Nên việc kiểm soát tiền tệ của ngân hàng Trung ương tập trung vào một trong hai công cụ chủ yếu là mức cung tiền hoặc lãi suất. Ở hình 5.8 có thể mô tả tác động của chính sách tiền tệ tới sản lượng cân bằng. Nếu cân bằng kinh tế ban đầu ở điểm E0, và chính sách tài khóa không thay đổi, nhưng có sự gia tăng mức cung tiền, do vậy đường LM dịch chuyển từ 69