Văn học Trung Quốc - Kinh thi
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn học Trung Quốc - Kinh thi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- van_hoc_trung_quoc_kinh_thi.ppt
Nội dung text: Văn học Trung Quốc - Kinh thi
- KINH THI
- 1) GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ KINH THI KINH 2) BỐ CỤC CỦA KINH THI THI 3) NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI 4) NỘI DUNG KINH THI 5) GIÁ TRỊ CỦA KINH THI 6) ẢNH HƯỞNG CỦA KINH THI
- NGUỒN GỐC THƠ Ở ĐÂU? Ban Cố trong bộ “Hán thư nghệ văn chí” viết: “Tình động ở trong lòng mà phát ra lời nói, ca hát không đủ thì đưa chân múa tay mà không hay”. Vậy từ khi nhân loại có ngôn ngữ là đã có thi ca. Dân tộc nào cũng trân trọng giữ gìn những thi ca tối cổ của mình. Tại Hy Lạp là 2 bộ Iliade và Odyssée của Homère, tại Pháp là những anh hùng ca ở thời Trung Cổ, tại Ấn Độ là thánh ca Véda, tại Việt Nam là ca dao và tại Trung Quốc là Kinh Thi.
- THÁI THI THUYẾT 采詩說 Quan Thái thi
- HIẾN THI THUYẾT 獻詩說 Đời Chu có chế độ hiến thi. Các quan đều có thể hiến thi với mục đích tán tụng hoặc châm biếm, đánh giá hoặc hiến kế sách.
- SAN THI THUYẾT 刪詩說 Thuyết Khổng Tử san định bắt nguồn từ chương “Khổng Tử thế gia” trong “Sử ký”.
- GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ KINH THI “Kinh Thi”—tập thơ đầu tiên của Trung Quốc Thế kỷ 6 trước công nguyên, “Kinh Thi”—tập thơ đầu tiên của Trung Quốc ra đời, trong đó có sử thi, thơ châm biếm, thơ kể chuyện, thơ viết về tình yêu, thơ viết về chiến tranh, thơ viết về mùa cũng như ca dao lao động. Dù “Kinh Thi” không phải do một người sáng tác, nhưng nó ra đời sớm hơn hàng trăm năm so với “Sử Thi Hô- me” nổi tiếng Cổ Hy Lạp.
- GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ KINH THI Tác giả “Kinh Thi” có thành phần hết sức phức tạp, nếu coi thân phận của người kể chuyện trong thơ là thân phận của tác giả, thì tác giả “Kinh Thi” vừa bao gồm người lao động, chiến sĩ, vừa bao gồm một số nhân vật đáng kể thuộc tầng lớp “Sĩ” và “Quân tử”. Ngoài ra, còn có nhiều nhân vật không thể xác định được thân phận.
- GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ KINH THI “Kinh Thi” là tập thơ đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, cả thảy thu thập 305 bài thơ trong khoảng 500 năm từ những năm đầu đời Tây Chu ( thế kỷ 11 trước công nguyên ) đến giữa thời kỳ Xuân Thu ( thế kỷ 6 trước công nguyên ). Những bài ca dao trong Kinh Thi đã được sưu tập trước thời Khổng Tử. Nguyên nhan đề là Thi hoặc Thi tam bách chứ không có chữ Kinh. Người ta thêm chữ ấy vì cho rằng Kinh Thi được Khổng Tử san định.
- 夏—商——— 周 —秦—汉—隋—唐 西周——————东周 初期 —— 末期 春秋—— 战国 西周初年——春秋中叶 (Thế kỷ XI TCN —— Thế kỷ VI TCN)
- Hạ—Thương— Chu —Tần—Hán—Tùy—Đường Tây Chu————Đông Chu Sơ kỳ —— Mạt kỳ Xuân thu—— Chiến quốc Đầu Tây Chu —— Giữa Xuân thu (Thế kỷ XI TCN —— Thế kỷ VI TCN)
- BỐ CỤC CỦA KINH THI Kinh Thi chia làm ba phần: phong, nhã, tụng. [Có tác giả chia làm 2 loại: phong và nhã (Tụng gồm trong nhã). Phong là của bình dân, nhã là của quý tộc.] •Quốc phong.國風 + Quốc có nghĩa là nước: nhà Chu và các chư hầu. + Phong là gió. Ý nói bài hát làm cảm người ta như gió lay động các vật. + Phong là phong tục. Nội dung các bài thơ chỉ phong tục tập quán, lối sống, thói quen của nhân dân các vùng. Quốc phong là ca dao dân gian các nước (15 nước chư hầu), cả thảy có 160 bài.
- BỐ CỤC CỦA KINH THI * Nhã (雅) cả thảy có 105 bài, phân làm 2 loại: tiểu nhã là những bài ca dùng trong yến tiệc ở triều đình, đại nhã là những bài dùng trong những trường hợp quan trọng như khi thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở miếu đường.
- BỐ CỤC CỦA KINH THI •Tụng (頌) gồm những bài ca dùng để hát ở miếu đường trong lúc tế tự nhằm ca ngợi công lao lớn lao của tổ tiên và quyền uy to lớn của quỷ thần, v.v., cả thảy có 40 bài.
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI Kinh Thi sử dụng ba phương pháp nghệ thuật chính gọi là: phú, tỷ, hứng. •Phú = trình bày, phô bày, miêu tả, chỉ thẳng sự vật mà nói → Tả thực •Tỷ = ví von, dùng hai sự vật hiện tượng trở lên đặt trong mối tương quan nhất định để nhìn nhận, xem xét, đối chiếu. → So sánh •Hứng = gợi lên; + phương pháp dùng một sự vật hiện tượng này để nói về sự vật hiện tượng khác . + nhân một sự vật hiện tượng mà tình cảm bộc lộ, mượn vật để nói lòng mình.
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI 五月斯螽动股,六月莎鸡振 羽。七月在野,八月在宇, 九月在户,十月蟋蟀, 入我床下。穹窒熏鼠,塞向 墐户。嗟我妇子,曰为改岁, 入此室处。 (诗·豳风·七月)
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI Tháng Năm dế búng chân nhảy mạnh, Tháng Sáu thì khua cánh bay cùng. Con Dế Dế mùa tháng Bảy ngoài đồng, Dế qua tháng Tám vào trong bực thềm. Ngũ nguyệt tư chung động cổ, Tháng Chín lạnh, tiến thêm vào cửa. Lục nguyệt sa kê chấn vũ. Dế tháng Mười chui ở dưới sàng. Thất nguyệt tại dã, Bát nguyệt tại vũ. Để xông khói chuột,bít hang, Cửu nguyệt tại hộ, Bít song hướng Bắc để ngăn gió vào. Thập nguyệt tất suất, nhập ngã Dặn vợ con ta mau ghi nhớ, sàng hạ. Rằng: Tháng Mười sẽ trở tân niên. Khung thất huân thử, Hãy vào nhà ấy ở liền. Tắc hướng cận hộ. Ta ngã phụ tử, Viết vi cải tuế. Nhập thử thất xử.
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI 有女同車,顏如舜華。 將翱將翔,佩玉瓊琚。 彼美孟姜,洵美且都。 有女同車,顏如舜英。 將翱將翔,佩玉將將。 彼美孟姜,德音不忘。 (詩經*風*鄭風 )
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI Chung xe có một cô nàng Hữu nữ đồng xa Đẹp như hoa thuấn dịu dàng dung nhan Ngao du sắp sửa gót loan Hữu nữ đồng xa Quỳnh cư chuỗi ngọc nàng đan vào Nhan như thuấn hoa Tương ngao tương tường người Bội ngọc quỳnh cư Mạnh Khương xinh đẹp kia ơi Bỉ mỹ Mạnh Khương Đã bao đẹp đẽ càng ngời đoan trang Tuân mỹ thả đô Cùng đi có một cô nàng Hữu nữ đồng hành Dung nhan hoa thuấn mịn màng tinh anh Nhan như thuấn anh Ngao du nhẹ bước gót thanh Tương ngao tương tường Dịu êm tiếng ngọc lanh canh theo người Bội ngọc thương thương Mạnh Khương xinh đẹp kia ơi Bỉ mỹ Mạnh Khương Đức âm bất vong Quên sao đức hạnh những lời nàng trao (Trịnh phong) Đông A dịch
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI 采采卷耳,不盈顷筐。 嗟我怀人,置彼周行。 陟彼崔嵬,我马虺聩。 我姑酌彼金罍,维以不永怀。 陟彼高冈,我马玄黄。 我姑酌彼兕觥,维以不永伤。 陟彼砠矣,我马瘏矣, 我仆痡矣,云何吁矣! ——《诗经·周南·卷耳》
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI QUYỀN NHĨ RAU QUYỀN Thái thái quyền nhĩ, Bất doanh khuynh khuông. Rau quyền nghiêng giỏ còn vơi, Ta ngã hoài nhân, Hái rau lòng những nhớ người nẻo Trí bỉ chu hành. xa. Nhớ ai thơ thẩn lòng ta, Trắc bỉ đôi ngôi, Ngã mã ôi đồi, Giỏ rau đặt xuống bên kia vệ Ngã cô chước bỉ kim lôi. đường. Duy dĩ bất vĩnh hoài. Lên gò, lên núi, ta lên đồi, Ngựa chồn tớ mệt, ta ngồi nghỉ Trắc bỉ cao cương, ngơi. Nhã mã huyền hoàng. Chén vàng rót rượu đầy vơi, Ngã cô chước bỉ tự quang, Cho khuây khoả nỗi ngậm ngùi Duy dĩ bất vĩnh thương. nhớ thương. Trắc bỉ thư hĩ! Ngã mã đồ hĩ! (Tản Đà dịch) Ngã bộc bô hĩ! Vân hà hu hĩ!
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI 采葛 彼采葛兮。一日不見,如三月兮! 彼採蕭兮。一日不見,如三秋兮! 彼採艾兮。一日不見,如三歲兮!
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI Nàng hái rau cát bãi xa, Thái Cát Một ngày chẳng gặp bằng ba tháng dài. Bỉ thái cát hề, Nhất nhật bất kiến, Rau tiêu nàng hái đâu đây, như tam nguyệt hề. Một ngày chẳng gặp lâu tày ba thu. Bỉ thái tiêu hề, Nhất nhật bất kiến, Ngải kia nàng hái nơi nao, như tam thu hề. Một ngày chẳng gặp tưởng đà ba năm. Bỉ thái ngải hề, Nhất nhật bất kiến, như tam tuế hề.
- YẾN YẾN Yến yến vu phi, Si trì kỳ vũ. Chi tử vu quy, Viễn tống vu dã. Chiêm vọng phất cập, 燕燕子飛,差池其羽。之子於歸, Khấp thế như vũ. 遠送於野。瞻望弗及,泣涕如雨。 Yến yến vu phi, 燕燕于飛,頡之頏之。之子於歸, Hiệt chi hàng chi. 遠於將之。瞻望弗及,佇立以泣。 Chi tử vu quy, Viễn vu tương chi. 燕燕于飛,下上其音。之子於歸, Chiêm vọng phất cập, 遠送於南。瞻望弗及,實勞我心。 Trữ lập dĩ khấp. 仲氏任只,其心塞淵。終溫且惠, Yến yến vu phi, 淑慎其身。先君之思,以勗寡人 Há thướng kỳ âm. Chi tử vu quy, (《詩經·燕燕》) Viễn tống vu nam. Chiêm vọng phất cập, Thực lao ngã tâm.
- NỘI DUNG KINH THI Kìa trông con én nó bay, Bay bổng nơi này, bay xuống nơi kia. Gã kia bước chân ra về, YẾN YẾN Ta tiễn mình về, chẳng quản đường xa. Trông theo nào thấy đâu mà, Kìa trông con én nó bay, Một mình thơ thẩn đừng mà khóc Nó sa cành này, nó liệng thương. cành kia. Gã kia bước chân ra về, Kìa trông con én nó bay, Ta tiễn mình về đến quãng Kêu lên tiếng này, kêu xuống tiếng kia. đồng không. Gã kia bước chân ra về, Trông theo nào thấy mà Ta tiễn mình về, xa tiễn sang nam. trông, Lòng ta vơ vẩn ai làm, Nước mắt ta khóc ròng ròng Trông theo chẳng thấy cho thêm nhọc như mưa. lòng. (Tản Đà dịch)
- HÌNH THỨC THƠ TRONG KINH THI Kinh Thi đa phần là thơ4 tiếng như bài Hữu nữ đồng xa, Quyển nhĩ, Thái cát, Yến yến v.v , song cũng có câu 3 tiếng, 5 tiếng, 7 tiếng, có khi 11 tiếng. Trong bài Con Dế, hai câu đầu6 tiếng, những câu sau 4 tiếng. Trong bài Phạt đàn, câu thứ nhì 7 tiếng, câu thứ tư 8 tiếng.
- NGHỆ THUẬT CỦA KINH THI Tháng Năm dế búng chân nhảy mạnh, Tháng Sáu thì khua cánh bay cùng. Dế mùa tháng Bảy ngoài đồng, Dế qua tháng Tám vào trong bực thềm. Ngũ nguyệt tư chung động cổ, Tháng Chín lạnh, tiến thêm vào cửa. Lục nguyệt sa kê chấn vũ. Thất nguyệt tại dã, Dế tháng Mười chui ở dưới sàng. Bát nguyệt tại vũ. Để xông khói chuột,bít hang, Cửu nguyệt tại hộ, Bít song hướng Bắc để ngăn gió vào. Thập nguyệt tất suất, Dặn vợ con ta mau ghi nhớ, nhập ngã sàng hạ. Rằng: Tháng Mười sẽ trở tân niên. Khung thất huân thử, Tắc hướng cận hộ. Hãy vào nhà ấy ở liền. Ta ngã phụ tử, Viết vi cải tuế. Nhập thử thất xử.
- PHẠT ĐÀN ĐỐN CÂY ĐÀN Bất giá bất sắc, Kẻ kia chẳng cấy chẳng cầy Hồ thủ hoà tam bách Lúa đâu chứa vựa được đầy ức hề? ba trăm? Bất thú bất liệp, Kẻ kia chẳng bắn chẳng săn, Hồ chiêm nhĩ đình bất Sao treo lủng lẳng trong sân hữu huyền đặc hề? muông chồn? Bỉ quân tử hề Quân tử chớ có ăn không. Bất tố sôn hề.
- HÌNH THỨC THƠ TRONG KINH THI Đến phép gieo vần thì có bài không vần, như bài Thái cát; có những bài gieo vần chân– vần phần nhiều ở cuối, nhưng cũng có khi ở giữa, y như ca dao của ta. Bài thì từ đầu đến cuối theo một vần, bài thì cứ vài ba câu thì đổi vần. Tóm lại, lối thơ trong Kinh Thi hoàn toàn tự do, chưa được quy định. Phép đối và phép điệp ngữ rất thường dùng.
- NỘI DUNG KINH THI Do chiến tranh liên miên trong thời Xuân Thu, do bọn cầm quyền hà hiếp, bốc lột khiến cho dân tình điêu đứng, lầm than nên đã cất lời thán oán, như: Nhân hữu thổ điền, nhữ phản hữu chi, Nhân hữu dân nhân, nhữ phúc đoạt chi. 人有土田, 女反有之, 人有民人, 女覆奪之. Dịch nghĩa: “Người ta có ruộng đất, Thì vua trái lại giành lấy. Người ta có nhân dân, Thì vua trái lại giựt lấy”. hoặc: Thiều chi hoa, kỳ diệp thanh thanh, Tri ngã như thử, bất như vô sinh 苕之華, 其葉青青, 知我如此, 不如無生. Có người dịch là: “Cây thiều lá trổ xanh xanh, Biết thân ta thế đừng sanh ra đời”.
- NỘI DUNG KINH THI Phần Quốc phong trong Kinh Thi đáng nghiên cứu nhất. Nội dung nó rất dồi dào. Có bài tả công lao cha mẹ, giọng thiết tha như bài Lục nga 蓼莪 Lục lục giả nga, Phi nga y cao. 蓼蓼者莪,匪莪伊蒿。 Ai ai phụ mẫu, Sinh ngã cù lao. 哀哀父母,生我劬劳。 Phụ hề sinh ngã, Mẫu hề cúc ngã, 父兮生我,母兮鞠我。 Phụ ngã, súc ngã Trưởng ngã, dục ngã, 拊我畜我,长我育我。 Cố ngã, phục ngã Xuất nhập phúc ngã, 顾我复我,出入腹我。 Dục báo chi đức, 欲报之德,昊天罔极。 Hiệu thiên võng cực
- NỘI DUNG KINH THI Xanh tốt rau nga, 1.Sinh: Sanh đẻ. Nga hoá ra cao 2.Cúc: Nuôi nấng. Lục lục giả nga, Thương thương cha 3. Phụ: Vuốt ve trìu Phi nga y cao. mẹ, 4. Súc: Cho bú sữa. 5. Trưởng: Nuôi cho Ai ai phụ mẫu, Sinh ta cù lao. khôn lớn. Sinh ngã cù lao. 6. Dục: dạy dỗ 7. Cố: Trông nom. Cha thì sinh ta, 8. Phục: Ôm ấp. Phụ hề sinh ngã, Mẹ thì nuôi ta, 9. Phúc: Bảo vệ. Mẫu hề cúc ngã, Vỗ ta, úm ta, Phụ ngã, súc ngã Cưng nuôi mình ta, Trưởng ngã, dục ngã, Ra ngó vô nhìn, Cố ngã, phục ngã Bồng ẵm giữ gìn. Xuất nhập phúc ngã, Muốn báo ân đức, Dục báo chi đức, Trời cao khó đền. Hiệu thiên võng cực
- NỘI DUNG KINH THI Phát biểu tư tưởng xã hội thì như bài “Phạt đàn” 伐檀, “Thạc thử” 碩鼠, “Thất nguyệt” 七月 PHẠT ĐÀN ĐỐN CÂY ĐÀN Bất giá bất sắc, Kẻ kia chẳng cấy chẳng cầy Hồ thủ hoà tam bách Lúa đâu chứa vựa được đầy ức hề? ba trăm? Bất thú bất liệp, Kẻ kia chẳng bắn chẳng săn, Hồ chiêm nhĩ đình bất Sao treo lủng lẳng trong sân hữu huyền đặc hề? muông chồn? Bỉ quân tử hề Quân tử chớ có ăn không. Bất tố sôn hề.
- NỘI DUNG KINH THI Con sẻ kia, Ai bảo sừng không có? Mái nhà đó, Lấy gì làm thủng ra? Mình với ta, Ai bảo không cheo cưới. Thùy vị tước vô giốc, Gì làm cớ, Hà dĩ xuyên ngã ốc? Đem ta đến ngục đình Thùy vị nhữ vô gia? Cưới cheo chẳng đủ cho mình lấy ta. Hà dĩ tốc ngã ngục? Tuy tốc ngã ngục, (Tản Đà dịch ) Thất gia bất túc.
- NỘI DUNG KINH THI Con chuột kia, Ai bảo nanh không có. Bức tường đó, Lấy gì làm thủng ra. Mình với ta, Ai bảo không cheo cưới. Thùy vị thử vô ngông Gì làm cớ? Hà dĩ xuyên ngã dung? Đem ta đến tụng đình, Thùy vị nhữ vô gia? Thời ta cũng chẳng theo mình Hà dĩ tốc ngã tụng? lấy nhau. Tuy tốc ngã tụng, Diệc bất nhữ tùng. (Tản Đà dịch )
- Quan thư Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu. Sâm si hạnh thái, Tả hữu lưu chi. Tuy nhiên, những bài tự tình Yểu điệu thục nữ, vẫn chiếm phần lớn. Ca dao Ngụ mị cầu chi. nước nào cũng vậy: tự tình Cầu chi bất đắc, nhiều, tự sự ít, thuần tuý mô tả Ngụ mị tư phục. cảnh vật lại càng ít; mà thường du tai! du tai! những bài tự tình lại là những Triển chuyển phản trắc. bài hay nhất. Sâm si hạnh thái, Tả hữu thái chi. Yểu điệu thục nữ, Cầm sắt hữu chi. Sâm si hạnh thái, tả hữu mạo chi. Yểu điệu thục nữ. Chung cổ lạc chi.
- DỊCH NGHĨA: Chim thư cưu kêu quan quan. Trên cồn sông Hoàng Hà. Người con gái dịu hiền. Đẹp đôi cùng quân tử. Rau hạnh cọng ngắn dài. Vớt theo dòng tả hữu. Người con gái dịu hiền. Thức ngủ ta cầu mong. Cầu mong không được gặp. Ngày đêm ta nhớ trông. Dằng dặc, dằng dặc. Trăn trở ngủ không yên. Rau hạnh cọng ngắn dài. Hái theo dòng tả hữu. Người con gái dịu hiền. Ta kết thân với nàng trong tiếng đàn cầm, đàn sắt. Rau hạnh cọng ngắn dài. Vớt theo dòng tả hữu. Người con gái dịu hiền. Ta đánh tiếng chuông tiếng trống để làm vui lòng nàng.
- NỘI DUNG KINH THI DỊCH THƠ: Thư cưu cất tiếng quan quan Quan quan cái con thư cưu Hòa cùng sóng vỗ vọng vang đôi bờ Con sống con mái cùng nhau bãi Dịu dàng thục nữ đào thơ ngoài. Sánh cùng quân tử duyên tơ mặn mà. Dịu dàng thục nữ như ai Ngắn dài rau hạnh gần xa Sánh cùng quân tử tốt đôi vợ chồng. Vói tay vớt lấy cũng là khó mong Muốn ăn rau hạnh theo dòng Cầu mong thức lại chờ trông Muốn cô thục nữ, mơ mòng được Cầu mong chi lại khó lòng gặp nhau. đâu Ngày đêm dằng dặc cơn sầu Nhớ cô rằng rặc sơn sầu Ngày đêm trằn trọc rầu rầu sớm khuya Cho ta dằn dọc dễ hầu ngủ yên. Hái về, rau hạnh hái về Muốn ăn rau hạnh hái về Cùng nàng thục nữ duyên thề sắt son Muốn cô thục nữ, nay về cùng ta. Ước duyên cầm sắt vuông tròn Tiếng chuông, tiếng trống vui hòa, Đêm khua chiêng trống vui lòng mỹ nhân. Tiếng đàn cầm sắt mặn mà yêu Hoa Sơn dịch đương! Tản Đà dịch
- NỘI DUNG KINH THI CỔ ÁO CHÀNG TỬ KHÂM Cổ áo chàng xanh, Lòng ta nhớ hoài. Thanh thanh tử khâm, Nếu ta chẳng tới, Du du ngã tâm. Sao chàng chẳng nối lời? Túng ngã bất vãng, Tử ninh bất tự âm? Cổ đeo ngọc xanh, Lòng ta nhớ mãi. Thanh thanh tử bội, Nếu ta không đi, Du du ngã tư. Chàng sao chẳng lại? Túng ngã bất vãng, Tử ninh bất lai? Giỡn kìa, nhảy kìa, Ở cửa thành kia. Khiêu hề đạt hề. Một ngày chẳng thấy, Tại thành quyết hề. Như ba tháng trời. Nhất nhật bất kiến, Như tam nguyệt hề.
- 蒹葭(芦苇)图示
- 蒹 葭 蒹葭蒼蒼,白露為霜。所謂伊人,在水一 方。 溯洄從之,道阻且長。 溯游從之,宛在水中央。 蒹葭淒淒,白露未晞。所謂伊人,在水之 湄。 溯洄從之,道阻且躋。溯游從之,宛在水中 坻。 蒹葭采采,白露未已。所謂伊人,在水之 涘。 溯洄從之,道阻且右。溯游從之,宛在水中
- Khiêm hà thê thê, Bạch lộ vị hi. Sở vị y nhân, Tại thuỷ chi mi. Tố hồi tòng chi, KHIÊM HÀ Đạo trở thả tê; Tố du tòng chi, Khiêm hà sương sương, Uyển tại thuỷ trung chỉ. Bạch lộ vi sương. Sở vị y nhân, Khiêm hà thái thái, Tại thuỷ nhất phương. Bạch lộ vị dĩ. Tố hồi tòng chi, Sở vị y nhân, Đạo trở thả trường; Tại thuỷ chi hĩ Tố du tòng chi, Tố hồi tòng chi. Uyển tại thuỷ trung ương. Đạo trở thả hữu; Tố du tòng chi, Uyển tại thuỷ trung chỉ.
- NỘI DUNG KINH THI Ngược dòng theo đi, RAU KHIÊM HÀ Ngán nỗi đường dốc; Xuôi dòng theo đi, Khiêm hà xanh xanh, Như trên gò cốc. Lộ trắng thành sương. Kìa người ấy ở, Khiêm hà tha thướt, Bên nước một phương, Lộ trắng còn ướt, Kìa người ấy ở Ngược dòng theo đi, Cạnh bên bến nước, Ngán nỗi đường trường; Xuôi dòng theo đi, Ngược dòng theo đi, Như giữa trùng dương. Ngán nỗi đường quanh; Xuôi dòng theo đi, Như giữa cồn mong manh. Khiêm hà lô nhô, Lộ trắng chưa khô, Kìa người ấy ở, Cỏ nước gần bờ.
- GIÁ TRỊ CỦA KINH THI 「詩三百,一言以蔽之, 曰:『思無邪』。」 ——《論語·為政》
- GIÁ TRỊ CỦA KINH THI Khổng Tử nói: “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết tư vô tà”, nghĩa là: “cả ba trăm thiên trong Kinh Thi, chỉ một câu có thể trùm được, là: không nghĩ bậy”. Vậy chủ ý của ông khi san định Kinh Thi là dùng nó làm sách luân lý, dạy người ta đừng nghĩ điều xằng bậy, dâm tà.
- GIÁ TRỊ CỦA KINH THI 子曰:“小子何莫学夫诗?诗可以兴,可以 观,可以群,可以怨。迩之事父,远之事君, 多识于鸟兽草木之名。” Ông lại nói: “Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán; nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa chí ư điểu thú, thảo, mộc chi danh”: Xem Kinh Thi có thể phấn khởi đến ý chí, xem xét được việc hay hoặc dở, hoà hợp với mọi người, bày tỏ nỗi sầu oán; gần thì học việc thờ cha, xa thì học việc thờ vua; lại biết nhiều tên chim, muông, cỏ, cây”.
- GIÁ TRỊ CỦA KINH THI 子曰 :「不學詩,無以言」
- GIÁ TRỊ CỦA KINH THI Các bài thơ trong Kinh thi hầu hết được lưu truyền nhờ tình cảm mộc mạc, chân thật. Đặc điểm & giá trị nghệ thuật: * lời thơ thường láy đi láy lại mà không thừa, nên dư âm vô cùng. * không theo phép tắc nào, số tiếng và vần thật tự do, * không dùng những tiếng trừu tượng, chỉ dùng những tiếng cụ thể, nhưng miêu tả có khi lại theo phép tượng trưng, * có nhiều nhạc tính.
- ẢNH HƯỞNG CỦA KINH THI Ảnh hưởng của nó rất lớn. Từ sau đời Hán, các nhà Nho dùng nó để khuyến thiện, răn ác. Về văn học, nó là một nguồn thi hứng để thi nhân mượn đề mục. Nó lại là một kho điển tích.
- ẢNH HƯỞNG CỦA KINH THI Đọc thơ văn Trung Quốc và Việt Nam, ta thường thấy nhiều điển mượn ở Kinh Thi, như những tiếng: - Nhà huyên để chỉ mẹ, Trong truyện Kiều có câu: “Thưa nhà huyên hết mọi tình.” Theo Thiều Chửu thì trong Kinh Thi có câu: “yên đắc huyên thảo, ngôn thụ chi bối”( 焉得萱 草, 言樹之背.)
- ẢNH HƯỞNG CỦA KINH THI Câu: Ba thu dọn lại một ngày dài ghê trong truyện Kiều là mượn câu: Nhất nhật bất kiến như tam nguyệt hề trong Kinh Thi. Câu: Vẻ chi một đoá yêu đào để chỉ người con gái ít tuổi, gốc ở Kinh Thi (Đào chi yêu yêu: đào kia mơn mởn). Điển “trên bộc trong dâu” cũng ở trong Kinh Thi (Tang trung Bộc thượng: trai gái hẹn hò nhau trong bụi dâu, trên bờ sông Bộc). TruyệnKiều có câu: Ra tuồng trên bộc, trong dâu.
- ẢNH HƯỞNG CỦA KINH THI Những sự vay mượn như vậy rất nhiều, kể ra không hết. Cả khi mừng đám cưới, phúng đám ma, người ta cũng dùng chữ trong Kinh Thi như: Cầm sắt hoà hài 琴瑟和諧 (mừng đám cưới) Ta ngã hoài nhân 嗟我懷人 (phúng đám ma) Sau cùng, lối thơ văn bốn chữ trong Kinh Thi có ảnh hưởng lớn đến thơ đời sau. Tuy thi nhân ít dùng nó, song theo các học giả Trung Hoa, thì chính nó là nguồn gốc của lối thơ ngũ ngôn (năm chữ) đời Nguỵ.
- ẢNH HƯỞNG CỦA KINH THI -Nói chung, “Kinh Thi” là khởi điểm huy hoàng của văn học Trung Quốc, là tiêu chí văn học Trung Quốc phát triển rất sớm. Nội dung của “Kinh Thi” đề cập tới các mặt cuộc sống xã hội trong thời kỳ đầu Trung Quốc, ví dụ, lao động với tình yêu, chiến tranh với sưu dịch, áp bức với chống đối, phong tục với hôn nhân, cúng tổ tiên với yến tiệc, thậm chí bao gồm các mặt như thiên văn, địa lý, động vật, thực vật v.v. Ngôn ngữ của “Kinh Thi” là tư liệu quan trọng nhất để nghiên cứu những nét chính của tiếng Hán từ thế kỷ 11 trước công nguyên đến thế kỷ 6 trước công nguyên.