Văn học - Thi pháp thơ đường
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Văn học - Thi pháp thơ đường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- van_hoc_thi_phap_tho_duong.ppt
Nội dung text: Văn học - Thi pháp thơ đường
- 1.Tạo dựng các mối quan hệ ◼ Thế giới hình tượng thơ được quy chiếu vào các trục quan hệ : xưa – nay, mộng – thực, tiên – tục, vô cùng – hữu hạn, bất biến – vô thường v.v ◼ Những mối quan hệ này được xây dựng lại trên sự thống nhất giữa những mặt đối lập, mâu thuẫn phù hợp với quy luật nhận thức thế giới khách quan.
- ◼ Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân. Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ, Cộng khan minh nguyệt giai như thử. Duy nguyện đương ca đối tửu thì, Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý. ◼ (Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa. Trăng nay thì đã từng soi người xưa. Người xưa nay tựa như giòng nước chảy, Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó. Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu, Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng. ) Bả tửu vấn nguyệt - Lý Bạch
- ◼ Khứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồng Nhân diện bất tri hà xứ khứ Đào hoa y cựu tiếu xuân phong (Ngày này năm ngoái tại cửa đây Hoa đào và mặt người cùng ánh lên sắc hồng Gương mặt người xưa giờ không biết chốn nao (Chỉ thấy) hoa đào vẫn như cũ cười với gió xuân.) Đề Đô Thành Nam Trang – Thôi Hộ ◼ Đình thụ bất tri nhân khứ tận Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa (Cây trong sân đâu biết người ta đã đi vắng hết, Xuân về lại vẫn nở những đóa hoa ngày xưa.) Sơn phòng xuân sự - Sầm Tham
- ◼ 歸終南山 (孟浩然) Quy Chung Nam sơn 北闕休上書 南山歸敝廬 Mạnh Hạo Nhiên 不才明主棄 多病故人疏 白髮催年老 Về núi Chung Nam 青陽逼歲除 Đành thôi bỏ mộng quan trường 永懷愁不寐 鬆月夜窗虛 Chung Nam vùng núi quê hương tìm về ◼ Quy Chung Nam sơn Tài chưa đủ bị vua chê Bắc khuyết hưu thướng Bệnh dài ngày tháng ê chề một thân thư, Tóc giờ nhuốm bạc đôi phần Nam Sơn qui tệ lư. Bất tài minh chủ khí, Thanh xuân lặng lẽ đã dần qua đi Đa bệnh cố nhân sơ. Bạch phát thôi niên lão, Sầu dâng ngập lúc đêm về Thanh dương bức tuế trừ, Cành thông trăng tựa cận kề ngoài song Vĩnh hoài sầu bất mỵ, Tùng nguyệt dạ song hư. NguyễnTâmHàn-
- 2. Bút pháp chấm phá ◼ Bút pháp chấm phá tạo nên những khoảng trống trong tranh nhưng lại hàm chứa một thứ gì đó không biên giới. ◼ Không cần những chi tiết dày đặc, chỉ vài nét phác thảo đơn sơ nhưng rất tập trung cũng đủ hoàn thiện một bức tranh đời sống trong sự vận động đa chiều của nó.
- ◼ Nam hành biệt đệ 南行別弟 (Vi Thừa Khánh) Đạm đạm Trường Giang thuỷ (韋承慶) Du du viễn khách tình Lạc hoa tương dữ hận Đáo địa nhất vô thanh 澹澹長江水, Dịch nghĩa 悠悠遠客情。 落花相與恨, Đi Lĩnh Nam từ biệt em 到地一無聲。 Nước sông dài lờ đờ trôi, Khách đi xa mối tình man mác Hoa rụng, dường cùng nhau chia hận, Rơi tới mặt đất, tuyệt không tiếng gì. Bản dịch của Tương Như (Nam Trân) Sông dài nước chảy lênh đênh; Dặm nghìn đất khách mối tình mênh mông. Hoa kia chia mối hận lòng, Lúc rơi tới đất, tuyệt không tiếng gì.
- 望庐山瀑布 ◼ (李白) 日照香炉生紫烟,遥看瀑布挂前川。 飞流直下三千尺,疑是银河落九天。 Vọng Lư Sơn bộc bố Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên, Dao khan bộc bố quải tiền xuyên. Phi lưu trực há tam thiên xích, Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên. Dịch Nghĩa Ánh nắng chiếu rọi trên sông Hương Lô sinh ra khói tía Từ xa ngắm cảnh thác núi treo trước con sông này Thác nước chảy như bay xuống từ ba ngìn trượng Ngỡ như là dải Ngân Hà lạc khỏi chín tầng mây Bản dịch của Tương Như Xa ngắm thác núi Lư Nắng rọi Hương Lô khói tía bay, Xa trông dòng thác trước sông này: Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước, Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
- 3. Cấu trúc cú pháp tỉnh lược ◼ Theo nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là Francois Cheng thì đặc điểm cú pháp nổi bật của thơ Đường là phép tỉnh lược, trong đó có tỉnh lược chủ từ, giới từ, những từ so sánh và động từ. ◼ Đây là sự thanh lọc có ý thức khiến cho các cụm từ trong câu có quan hệ lỏng lẻo về mặt ngữ pháp, có thể kết hợp với nhau theo nhiều cách. ◼ Đặc điểm này càng gia tăng tính hàm súc, đa nghĩa cho thơ Đường. Câu thơ Đường có xu hướng nới lỏng những trói buộc về mặt cú pháp khiến sự liên tưởng của người đọc được mở rộng.
- Trúc Lý Quán - Vương Duy 竹里館 ◼ Độc tọa u hoàng lý 獨 坐 幽 篁 裡 Đàn cầm phục trường khiếu 彈 琴 復 長 嘯 Thâm lâm nhân bất tri 深 林 人 不 知 Minh nguyệt lai tương chiếu 明 月 來 相 照 ◼ (Khóm trúc ngồi riêng bóng Gảy đàn rồi hát hỏng Rừng sâu ai biết đâu Trăng sáng soi lồng lộng).
- Xuân hiểu – Mạnh Hạo Nhiên ◼ Xuân hiểu Xuân miên bất giác hiểu 春曉 春眠不覺曉, Xứ xứ văn đề điểu 處處聞啼鳥。 Dạ lai phong vũ thanh 夜來風雨聲, Hoa lạc tri đa thiểu 花落知多少。 ◼ Buổi sớm mùa xuân Giấc ngủ đêm xuân không biết trời sáng Nơi nơi đều nghe thấy tiếng chim hót Đêm qua trong gió mưa Chẳng hay hoa rụng nhiều hay ít?
- 4. Thơ gợi theo lối “họa vân hiển nguyệt” ◼ Đặc trưng của thơ Đường là “ý tại ngôn ngoại”, “ngôn tận nhi ý bất tận”, “ý đáo nhi bút bất đáo”. Đây chính là thơ gợi. ◼ Quan niệm “vô hữu tương sinh” của Đạo giáo”. Trang Tử: “Cái nói ra được là cái thô của sự vật, còn cái tinh của sự vật thì chỉ có thể dùng ý lĩnh hội mà thôi.” (Thu Thủy) ◼ Phạm trù “sắc - không” của Phật giáo.
- ◼ Thi pháp gợi trong thơ Đường theo lối “họa vân hiển nguyệt” biểu hiện cụ thể như sau: Dĩ tiểu kiến đại (Lấy cái nhỏ để thấy cái lớn) Dĩ thực tả hư (Lấy thực nói hư, lấy cái có biểu hiện cái không) Dĩ tĩnh tả động (Lấy cái tĩnh diễn tả cái động) Dĩ động tả tĩnh (Lấy động tả tĩnh) Dĩ lạc tả ai (Lấy vui nói buồn) Dĩ tân tả chủ (Lấy khách thể để nói chủ thể) Dĩ khoác kiến chân (Lấy phóng đại để nói sự thực) V.v
- Dĩ tiểu kiến đại (Lấy cái nhỏ để thấy cái lớn)
- Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng lăng 《黄鹤楼送孟浩然之广陵》(李白): 故人西辞黄鹤楼,烟花三月下扬州。 孤帆远影碧空尽,唯见长江天际流。 Lý Bạch Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu Cô phàm viễn ảnh bích không tận. Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
- Khách hành Tân An đạo Huyện hô ao điểm binh Tá vấn Tân An lại Tân An lại – Đỗ Phủ Huyện tiểu cánh vô đinh Phủ thiếp tạc dạ há Thứ tuyển trung nam hành ◼ Tên lại huyện Tân An Trung nam tuyệt đoản tiểu Khách qua đường Tân An Hà dĩ thủ vương thành ? Nhộn nhịp nghe điểm binh Hỏi thăm , thầy thông bảo : Phì nam hữu mẫu tống - Huyện nhỏ không còn đinh Sấu nam độc linh bình Hôm qua trát phủ xuống Sung số tuyển cho nhanh Bạch thủy mộ đông lưu Số tuyển thấp bé quá Thanh sơn do khốc thanh Giữ sao nổi đô thành ? Mạc tự sử nhãn khô Anh béo , mẹ đưa chân Anh gầy nhìn loanh hoanh Thu nhữ lệ tung hoành Nước bạc chiều chảy xuôi Nhãn khô tức kiến cốt Tiếng khóc vang non xanh ! Khóc chi cho hốc mắt ? Thiên địa chung vô tình ! Nín đi thôi các anh ! Ngã quân thủ Tương Châu Dẫu cho khóc rũ xương Trời đất vẫn vô tình Nhật tịch vọng kỳ bình Quân ta lấy Tương châu Khởi ý tặc nan liệu Hôm sớm mong thanh bình Qui quân tinh tản doanh Lính chạy , trại tan vỡ Liệu giặc ,ai người tinh ! Tựu lương cận cố lũy Vận lương tới trước trận Luyện tốt y cựu kinh Rèn lính ngay miền kinh Đào hào chưa tới nước Quật hào bất đáo thủy Chăn ngựa việc cũng lành Mục mã dịch diệc khinh Nuôi nấng rất phân minh Quan tướng như mẹ cha Huống nãi vương sư thuận Khóc chi khi tiễn hành ? Phủ dưỡng thậm phân minh Tống hành vật khấp huyết Nhượng Tống dịch Bộc dịch như phũ huynh !
- Dĩ hư tả thực (Lấy hư nói thực)
- 锦瑟 (李商隐) Cẩm sắt 锦瑟无端五十弦, Dịu dàng năm chục đường tơ 一弦一柱思华年。 Mỗi tơ mỗi phím đều mơ một thời 庄生晓梦迷蝴蝶, Mộng Trang sinh hóa bướm chơi 望帝春心托杜鹃。 Nỗi lòng Vọng đế thác lời đỗ quyên 沧海月明珠有泪, Dưới trăng châu ngậm tình riêng 蓝田日暖玉生烟。 Lam Điền trong nắng ngọc viền khói 此情可待成追忆, sương 只是当时已惘然。 Nỗi niềm nào phải mới vương Ngay từ khi ấy đã thương tiếc rồi
- Dĩ thực tả hư (Lấy thực nói hư)
- 登鸛雀樓 ◼ (王之渙) 白日依山盡, 黃河入海流。 欲窮千里目, 更上一層樓。 Đăng Quán Tước lâu Bạch nhật ỷ sơn tận, Hoàng Hà nhập hải lưu. Dục cùng thiên lý mục, Cánh thượng nhất tầng lâu.
- 十五夜望月 ◼ (王建) 中庭地白樹棲鴉, 冷露無聲濕桂花。 ĐÊM RẰM NGẮM TRĂNG 今夜月明人盡望, 不知秋思落誰家。 Trong sân đất trắng, quạ đậu đầy Thập ngũ dạ vọng nguyệt cành cây Móc lạnh lặng lẽ ướt đẫm hoa quế. Trung đình địa bạch thụ thê nha, Đêm nay trăng sáng mọi người đều Lảnh lộ vô thanh thấp quế hoa. ngắm trăng Kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng, Bất tri thu tứ lạc thuỳ gia? Không biết ý thu rơi lạc nhà ai đây?
- Hoàng Hạc Lâu
- Dĩ tĩnh tả động (Lấy cái tĩnh diễn tả cái động)
- 贾岛 推敲 Giả Đảo “thôi xao” 鸟宿池边树, Điểu túc trì biên thụ. 僧推月下门。 Tăng thôi (xao) nguyệt hạ môn. Tạm dịch: “推” “"敲” Chim đỗ cây bến nước, Sư đẩy (gõ) cửa dưới trăng.
- Dĩ động tả tĩnh (Lấy động tả tĩnh)
- 鸟鸣涧(王维 ) Điểu minh giản 人闲桂花落, Dịch nghĩa: 夜静春山空。 Người nhàn, hoa quế rụng Đêm yên tĩnh, non xuân vắng 月出惊山鸟, không 时鸣春涧中。 Vầng trăng ló dạng làm giật mình con chim núi. Nhân nhàn quế hoa lạc , Thỉnh thoảng cất tiếng kêu Dạ tĩnh sơn xuân không , trong khe suối mùa xuân. Nguyệt xuất kinh sơn điểu, Thời minh xuân giản trung .
- 人闲桂花落, 夜静春山空。 月出惊山鸟, 时鸣春涧中。
- Dĩ lạc tả ai (Lấy vui nói buồn)
- Nguyệt hạ độc chước – Lý Bạch ◼ Bản dịch của TƯƠNG NHƯ ◼ Nguyệt Hạ Độc Chước MỘT MÌNH UỐNG RƯỢU DƯỚI Hoa gian nhất hồ tửu, TRĂNG Độc chước vô tương thân. Cử bôi yêu minh nguyệt, Có rượu không có bạn, Đối ảnh thành tam nhân. Một mình chuốc dưới hoa. Nguyệt ký bất giải ẩm, Cất chén mời Trăng sáng, Ảnh đồ tùy ngã thân. Mình với Bóng là ba. Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Trăng đã không biết uống, Hành lạc tu cập xuân. Ngã ca nguyệt bồi hồi ; Bóng chỉ quấn theo ta. Ngã vũ ảnh linh loạn. Tạm cùng Trăng với Bóng, Tỉnh thì đồng giao hoan, Chơi xuân cho kịp mà ! Tuý hậu các phân tán. Ta hát, Trăng bồi hồi, Vĩnh kết vô tình du, Ta múa, Bóng rối loạn. Tương kỳ diểu Vân Hán. Lúc tỉnh cùng nhau vui, Say rồi đều phân tán. Gắn bó cuộc vong tình, Hẹn nhau tít Vân Hán.
- Dĩ tân tả chủ (Lấy khách thể để nói chủ thể)
- 春怨 ◼ (金昌绪) 打起黄莺儿,莫教枝上啼。 啼时惊妾梦,不得到辽西! Xuân oán Kim Xương Tự Đả khởi hoàng oanh nhi Mạc giao chi thượng đề Đề thì kinh thiếp mộng, Bất đắc đáo Liêu Tây.
- Dĩ khoác kiến chân (Lấy phóng đại để nói sự thực)
- Tương tiến tửu Bạn chẳng thấy: Quân bất kiến Nước sông Hoàng từ trời cao đổ Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai, xuống Bôn lưu đáo hải bất phục hồi ! Chảy ra khơi cuồn cuộn chẳng Hựu bất kiến quay về Cao đường minh kính bi bạch phát, Lại chẳng thấy: Triêu như thanh ti mộ thành tuyết. Gương lầu cao sáng soi sầu bạc Nhân sinh đắc ý tu tận hoan, tóc Mạc sử kim tôn không đối nguyệt Sớm tơ xanh chiều tuyết trắng lê thê Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng, Đời đắc ý cho niềm vui tận Thiên kim tán tận hoàn phục lai. hưởng ( ) Chén vàng kia đừng cạn dưới trăng ngàn Trời sinh ta tất có nơi hữu dụng Tiêu hết đi rồi lại có nghìn vàng ( )