Tài liệu tập huấn tổ trưởng chuyên môn trong trường trung học cơ sở, trung học phổ thông

doc 198 trang vanle 1670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu tập huấn tổ trưởng chuyên môn trong trường trung học cơ sở, trung học phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctai_lieu_tap_huan_to_truong_chuyen_mon_trong_truong_trung_ho.doc

Nội dung text: Tài liệu tập huấn tổ trưởng chuyên môn trong trường trung học cơ sở, trung học phổ thông

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỤC NHÀ GIÁO VÀ CÁN BỘ QUẢN LÝ CƠ SỞ GIÁO DỤC CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRUNG HỌC TÀI LIÊU TẬP HUẤN CÔNG TÁC TỔ TRƯỞNG CHUYÊN MÔN CÁC TRƯỜNG THCS, THPT HÀ NỘI, 7-2011 1
  2. BAN SOẠN THẢO 1. Ông Hoàng Đức Minh, Cục trưởng Cục NG&CBQLCSGD - Chủ biên 2. Bà Nguyễn Thị Minh Phương, NCVCC Viện KHGD Việt Nam - Đồng chủ biên 3. Ông Lê Trần Tuấn, Chuyên viên chính Vụ Giáo dục Trung học. 4. Bà Trần Thị Minh Hằng, Trưởng khoa Quản lý giáo dục Học viện Quản lý giáo dục 5. Bà Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, Phó Trưởng khoa Quản lý giáo dục Học viện QLGD 6. Bà Vũ Thị Ngọc Anh, NCVC Viện Khoa học giáo dục Việt Nam 7. Ông Phạm Quang Huân, Phó Viện trưởng Viện NCSP -Trường ĐHSP Hà Nội 8. Bà Trần Thị Hải Yến, Phó Hiệu trưởng Trường THPT Trần Phú, Hà Nội 9. Ông Phạm Tuấn Anh, Trưởng phòng CBQLCSGD Cục NG&CBQLCSGD 10. Ông Nguyễn Đức Luyện, Chuyên viên chính Cục NG&CBQLCSGD 2
  3. CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ Giáo dục và Đào tạo Bộ GD&ĐT Đại học sư phạm ĐHSP Sở Giáo dục và Đào tạo Sở GD&ĐT Cao đẳng sư phạm CĐSP Phòng Giáo dục và Đào Phòng GD&ĐT Trang Tr tạo Giáo viên GV Học sinh HS Cán bộ quản lý giáo dục CBQLGD Trung học cơ sở THCS Hướng dẫn viên HDV Trung học phổ thông THPT Học viên HV Giáo dục GD Kế hoạch KH Đồng chí Đ/c Tổ chuyên môn TCM Tổ trưởng chuyên môn TTCM Kế hoạch cá nhân KHCN Trắc nghiệm khách TNKQ quan Kế hoạch chuyên môn KHCM Phương pháp dạy học PPDH Chương trình CT Sách giáo khoa SGK Giáo dục phổ thông GDPT Phổ thông PT Nhà xuất bản Nxb Công nghệ thông tin CNTT Giáo viên chủ nhiệm GVCN Dạy học DH Phương pháp PP MỤC LỤC 3
  4. Trang Bảng kê các chữ viết tắt 2 Lời nói đầu 5 Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vào dạy học – giáo dục – quản lý nhà 7 trường Chuyên đề 1: Những vấn đề chung về quản lý tổ chuyên môn trong 51 trường trung học I. Mục tiêu 51 1. Mục tiêu chung 51 2. Mục tiêu cụ thể 51 II. Nội dung 51 1. Khái quát về quản lý, lãnh đạo, quản lý giáo dục 51 2. Khái quát về trường THCS và THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân 54 3. Tổ chuyên môn trong trường THCS và THPT 58 4. Tổ trưởng chuyên môn và quản lý tổ chuyên môn 60 Chuyên đề 2. Xây dựng kế hoạch của tổ chuyên môn I. Mục tiêu 1. Mục tiêu chung 2. Mục tiêu cụ thể II. Nội dung 1. Những vấn đề chung xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn 2. Xây dựng kế hoạch hoạt động trong năm học của tổ chuyên môn 3. Hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch chuyên môn cá nhân 4. Một số kỹ thuật có thể vận dụng hiệu quả vào việc xây dựng KHTCM và KHCN 5. Thực hành tổng hợp: Xây dựng kế hoạch năm học của tổ chuyên môn Chuyên đề 3. Tổ trưởng chuyên môn với công tác quản lý hoạt động dạy học trong trường tung học I. Mục tiêu 1. Mục tiêu chung 2. Mục tiêu cụ thể II. Nội dung 1. Hoạt động dạy học và chương trình giáo dục phổ thông 2. Tổ trưởng chuyên môn với công tác quản lý dạy học 3. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học của tổ trưởng chuyên môn Chuyên đề 4. Tổ trưởng chuyên môn với công tác quản lý phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên trong trường trung học 4
  5. I. Mục tiêu 1. Mục tiêu chung 2. Mục tiêu cụ thể II. Nội dung 1. Vai trò của tổ trưởng chuyên môn trong việc phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên 2. Những yêu cầu về đội ngũ giáo viên của trường THCS, THPT 3. Quản lý phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho GV trong tổ chuyên môn 4. Kiểm tra, đánh giá giáo viên Hướng dẫn triển khai tập huấn ở địa phương LỜI GIỚI THIỆU 5
  6. Ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông, tổ chuyên môn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc chuẩn bị các điều kiện thực hiện các hoạt động dạy - học trong nhà trường. Người tổ trưởng chuyên môn được ví như “cánh tay nối dài của Lãnh đạo nhà trường”, trực tiếp điều hành các công việc cụ thể trong hoạt động dạy - học. Công tác lãnh đạo, quản lý của tổ trưởng chuyên môn là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của tổ chuyên môn, góp phần quan trọng đến chất lượng giáo dục của các nhà trường. Trong những năm qua, vấn đề bồi dưỡng tăng cường năng lực cho đội ngũ hiệu trưởng, phó hiệu trưởng và giáo viên trong các nhà trường đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo hết sức quan tâm. Tuy nhiên, đối với đội ngũ tổ trưởng chuyên môn thì chưa có sự quan tâm thỏa đáng, chưa có những tài liệu mang tính đặc thù để tập huấn bồi dưỡng. Trước yêu cầu thực tiễn hiện nay, việc bồi dưỡng tăng cường năng lực quản lý cho tổ trưởng chuyên môn là vấn đề cấp thiết, là một trong những giải pháp có tính đột phá nâng cao chất lượng dạy - học ở các nhà trường nói chung và trường trung học nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngày 19 tháng 5 năm 2011, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Kế hoạch số 242/KH-BGDĐT triển khai tập huấn bồi dưỡng cốt cán các tỉnh, thành phố về công tác của tổ trưởng chuyên môn trong trường THCS, THPT với mục tiêu: Bồi dưỡng cho cốt cán cấp tỉnh, thành phố về kiến thức, kỹ năng công tác tổ trưởng chuyên môn trường THCS, THPT; hướng dẫn đội ngũ cốt cán cấp tỉnh, thành phố tiếp tục triển khai bồi dưỡng cho giáo viên làm công tác tổ trưởng chuyên môn ở trường THCS, THPT. Thực hiện Kế hoạch trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai tổ chức xây dựng tài liệu tập huấn với tiêu đề: “Tài liệu tập huấn tổ trưởng chuyên môn trong trường trung học cơ sở, trung học phổ thông”. Tài liệu được mở đầu là nội dung “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vào dạy học – giáo dục- quản lý nhà trường” cùng 4 chuyên đề: 1. Chuyên đề 1: Những vấn đề chung về quản lý tổ chuyên môn trong trường trung học 2. Chuyên đề 4: Xây dựng kế hoạch của tổ chuyên môn 3. Chuyên đề 2: Tổ trưởng chuyên môn với công tác quản lý hoạt động dạy học trong trường trung học 4. Chuyên đề 3: Tổ trưởng chuyên môn với công tác quản lý phát triển chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên trường trung học Các chuyên đề nêu trên cố gắng bao quát kiến thức, kỹ năng quản lý chủ yếu của TTCM ở trường THCS, THPT. Tài liệu được trình bày đan xen, kết hợp giữa lý thuyết và tổ chức các hoạt động nhằm tăng cường tối đa khả năng vận dụng, thực hành của các học 6
  7. viên tham gia tập huấn. Tài liệu được biên soạn bởi tập thể tác giả có nhiều kinh nghiệm từ các cơ quan: Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Học viện Quản lý giáo dục, Trường ĐHSP Hà Nội và đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục của một số trường THCS, THPT trong toàn quốc. Tài liệu đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp quí báu của các nhà khoa học, các nhà giáo và các CBQL có bề dày kinh nghiệm ở các Sở GD&ĐT, các trường THCS, THPT. Các tác giả dù đã có nhiều cố gắng, song trong sự vận động phát triển không ngừng về khoa học quản lý và thực tiễn giáo dục của trường THCS, THPT, chắc chắn tài liệu chưa đáp ứng được mọi nhu cầu của đội ngũ TTCM, đồng thời khó tránh khỏi thiếu sót. Trong quá trình triển khai, Hội đồng biên soạn mong tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, nhà giáo, nhà quản lý thực tiễn và học viên để bổ sung, điều chỉnh tài liệu thêm hoàn thiện và hữu ích. Hội đồng biên soạn chân thành cảm ơn mọi ý kiến đóng góp cho việc nâng cao chất lượng của tài liệu. HỘI ĐỒNG BIÊN SOẠN QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 7
  8. VÀO DẠY HỌC - GIÁO DỤC - QUẢN LÝ NHÀ TRƯỜNG I. HỒ CHÍ MINH NHÀ GIÁO DỤC KIỆT XUẤT CỦA NHÂN DÂN VÀ THỜI ĐẠI Bác Hồ được UNESCO tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc - Danh nhân văn hoá thế giới. Ông Hans D'orvin - P.Tổng Giám đốc UNESCO (đương nhiệm) gọi Hồ Chí Minh là người thày của Văn hoá hoà bình. Hồ Chí Minh cũng là nhà giáo dục kiệt xuất của nhân dân, thời đại. Người đã để lại cho nhân dân ta, đội ngũ người làm công tác giáo dục hiện nay và mai sau kho tàng vô giá những tư tưởng giáo dục cách mạng, bao quát nhiều lĩnh vực của sự nghiệp đào tạo lớp người mới của dân tộc. Không chỉ là nhà tư tưởng giáo dục, Người còn là nhà quản lý giáo dục thực tiễn, nhà sư phạm tài năng, mẫu mực, trong sáng của một nhân cách vô cùng cao đẹp, những cử chỉ giáo dục nhân đạo hết lòng vì người học, tấm gương sáng về "Học không biết chán, dạy người không biết mỏi". Tư tưởng giáo dục của Người định hình cho triết lý phát triển giáo dục Việt Nam ngay những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nó bao quát cả năm cấp độ: Nền giáo dục, Hệ thống giáo dục quốc dân, Nhà trường, Bài học và Nhân cách. Tư tưởng này vừa kế thừa tinh hoa văn hoá của dân tộc, vừa thâu góp tinh hoa văn hoá của thời đại, hướng tới việc xây dựng và phát triển một nền giáo dục Việt Nam toàn dân quán triệt các mục tiêu: Dân chủ, Nhân văn, Hiện đại, một nền giáo dục làm "Phát triển hài hoà những năng lực sẵn có" của thế hệ trẻ Việt Nam. Do tư tưởng giáo dục của Người, đất nước từ chỗ 95% nhân dân còn mù chữ thành đất nước có sức mạnh văn hoá làm thất bại hai cuộc xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ Bước vào thiên niên kỷ mới, UNESCO từng có khuyến cáo: "Quốc gia nào, cộng đồng nào coi nhẹ giáo dục hoặc không biết cách làm giáo dục thì đều lạc hậu và điều này còn tồi tệ hơn là sự phá sản". Tư tưởng giáo dục của Bác Hồ là di sản vô giá cho các thế hệ người Việt Nam nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của giáo dục và làm giáo dục hiệu quả. Tư tưởng này luôn luôn là kim chỉ nam cho việc thực hiện công cuộc đổi mới giáo dục, chiến lược giáo dục chiến lược con người để đất nước vững bước hoàn thành công nghiệp hoá - hiện đại hóa và thực hiện sự hội nhập quốc tế. II. TẤT THÀNH - ÁI QUỐC - CHÍ MINH : NẾP NHÀ - LẬP CHÍ - THÂN DÂN 1. Câu đối ngày Bác đi xa Câu chuyện sau đây thường được kể lại: Ngày Bác đi xa, Sài Gòn còn nằm trong vòng kìm kẹp của Mỹ - Thiệu. Cần thông báo cho đồng bào, nhưng công khai thì không 8
  9. được. Một bộ phận kẻ thù của cách mạng tuy kính nể Bác nhưng bọn đầu sỏ còn ngoan cố. Một tờ báo Sài Gòn đã cho đăng đôi câu đối sau: Chí khí tráng sơn hà, kim cổ anh hùng duy hữu nhất Minh tinh quang vũ trụ, Á Âu hào kiệt thị vô song. Cái hay của đôi câu đối là chữ đầu của vế trên và vế dưới khớp lại thành tên Bác: "Chí Minh" và nội dung là tổng kết đánh giá sự nghiệp vĩ đại của Bác: Chí khí quyện vào sông núi, anh hùng xưa nay hiếm có ai như Người Ngôi sao sáng này bừng trong vũ trụ, hào kiệt từ Á sang Âu khó người nào sánh nổi. Tác giả đôi câu đối còn khuyết danh. Có người nói một nhân sĩ Sài Gòn tưởng nhớ Bác, lại có tài liệu cho rằng đó là lời viếng Bác của lãnh tụ một nước lớn, bạn thân thiết của Bác. Ở thời điểm tháng 9-1969, đọc đôi câu đối trên, đồng bào ta tự hào về Bác, quý trọng tấm lòng và tài năng tác giả viết được hai vế đối hay, hàm súc, song cứ nghĩ liệu nhân loại này, thế giới này có đồng thuận với sự ca ngợi đó không? Điều này đã sớm được giải đáp: Trên hành tinh này biết bao bạn bè đồng chí dù có thế vị khác nhau đều công nhận: Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, là con người tiêu biểu cho Nhân đạo và Nhân loại, là nhân cách của thời đại. Bác là lãnh tụ Cộng sản duy nhất được tôn vinh là Danh nhân văn hoá thế giới. Mỗi cán bộ giáo dục chúng ta vô cùng tự hào phấn khởi vì Bác trên con đường cứu nước giải phóng dân tộc, lúc khởi thuỷ là một nhà giáo - thầy giáo Nguyễn Tất Thành. Bác sĩ Nguyễn Kính Chi, nhân sĩ đáng kính là học trò của Bác tại trường Dục Thanh (trường giáo dục thanh niên) đã kể lại trong hồi ký của mình: "Trên bờ phía nam của sông Phan Thiết, cách cửa biển chừng vài cây số lúc bấy giờ có mấy ngôi nhà nho nhỏ lợp ngói âm dương, chung quanh không tường không vách chỉ có những song gỗ lưa thưa, những hôm trời nồm gió biển thổi vào mát rượi. Đó là trường học Dục Thanh của Hội Liên thành. Trường và Hội đều đã được lập ra trong phong trào Duy Tân mấy năm trước. Trong hoàn cảnh hồi bấy giờ, đó là hành động yêu nước nhằm mở mang dân trí khuyến khích thực nghiệp. Trường dạy cả chữ Hán, chữ Pháp và chữ Quốc ngữ cho khoảng sáu, bảy mươi học sinh từ lớp tư đến lớp nhất. Thầy Thành dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ cho lớp ba và lớp tư. Thầy Thành ở đấy được bảy, tám tháng. Bỗng một buổi sáng thứ hai vào khoảng tháng 10 năm 1911 có tin thầy đã bỏ đi và không cho ai biết. Học sinh rất xôn xao. Người 9
  10. nào cũng tiếc không những vì thầy dạy chu đáo mà còn vì ai nấy đều cảm thấy người thầy này dạy học không chỉ vì kiếm sống mà còn vì cái lẽ gì khác". 2/. Nếp nhà - Lập chí - Thân dân Từ thầy giáo Nguyễn Tất Thành đến nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Vương, Lý Thụy, ông Chín và rồi lãnh tụ Hồ Chí Minh trong bất cứ hoàn cảnh nào, địa điểm nào, Bác cũng thực hiện: Cách mạng là giáo dục, giáo dục phục vụ cách mạng. Bác là Anh hùng giải phóng dân tộc - Danh nhân văn hoá thế giới vì Người đã thâu góp và phát triển tinh hoa của dân tộc, thời đại. Song để đi đến sự thâu góp này thì khởi nguyên Bác được thừa hưởng một "Nếp nhà", nhân tố quan trọng tạo nên tính cách một con người, cái khắc tạo vào con người những nguyên tắc sống cơ bản để nên người, thành người. Chú bé Nguyễn Sinh Cung và sau này người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã được nuôi dưỡng trưởng thành trong một gia đình hấp thu những điều cao đẹp của Nho gia phương Đông. Từ năm 1923, Bác từng tâm sự với nhà thơ Xôviết Ôxíp Mandenxtam: "Tôi xuất thân từ một gia đình nhà Nho Việt Nam. Bên nước tôi những gia đình như thế thanh niên đều theo học đạo Khổng". Khi khai lý lịch với tư cách đại biểu tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản (1935) tại Matxcơva ở mục thành phần gia đình, Bác đã không ngần ngại ghi "Nhà nho". "Nhà nho" ở gia đình Nguyễn Tất Thành ứng xử theo nguyên tắc: "Khiêm - Cung - Tín - Mẫn - Huệ" (Khiêm tốn, Cung kính, Trung tín, Cần mẫn, Huệ ái) Không phải ngẫu nhiên mà hai anh em Bác đã được ông ngoại đặt tên cho là Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung. Phải chăng cụ Hoàng Đường đã gửi vào các cháu niềm kỳ vọng "Khiêm - Cung" sẽ là lý tưởng hành động sống của các cháu trong cuộc đời. "Nhà nho" trong gia đình Bác được thấm nhuần nguyên tắc Tu thân và Xử thế: */ "Phú quí bất năng dâm Bần tiện bất năng di Uy vũ bất năng khuất" (Giàu sang không thể quyến rũ Nghèo khổ không thể chuyển lay 10
  11. Uy vũ không thể khuất phục) */ "Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu" (Trợn mắt xem khinh ngàn lực sĩ Cúi đầu làm ngựa trước nhi đồng) Trong diễn văn bế mạc Đại hội Đảng lần thứ 2 tại chiến khu Việt Bắc năm 1951, những ý tưởng trên đây của Mạnh Tử, Lỗ Tấn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh với các đồng chí của mình. "Nếp nhà" mà Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành lớn lên là "Nếp nhà" với: "Gia đạo nhân văn Gia phong trong sáng Gia pháp nghiêm minh Gia giáo nền nếp Gia cảnh thuận hoà" Từ "Nếp nhà" này chú bé Nguyễn Sinh Cung đã bộc lộ cái "chí" của mình từ lúc 5 tuổi: "Con siêng hơn hòn núi Con đường lười hơn con" (Thơ Con Đường) Ta lớn mau mau Vượt qua ao lớn (Thơ Biển) Từ ông ngoại và cha, chú sớm hấp thụ tinh hoa trong "Tứ thư" của Nho gia, rồi "Minh tâm bảo giám", "Ấu học ngũ ngôn thi" với các thông điệp: "Nhất sinh hành thiện Thiện do bất túc Nhất nhật hành ác Ác tự hữu dư" (Một đời làm điều thiện 11
  12. Mà điều thiện chưa đủ Một ngày làm điều ác Thì điều ác đã thừa) (Minh Tâm bảo giám) Đạc sơn thông đại hải Luyện thạch bồ thanh thiên Thế thượng vô nan sự Nhân tâm tự bất kiên (Đào núi lấp biển Luyện đá vá trời Mọi điều không có gì khó cả Chỉ sợ con người không đủ kiên nhẫn) (Ấu học ngũ ngôn thi) Các ý tưởng này đã truyền vào tâm thức Nguyễn Sinh Cung, để rồi sau này trên bước đường hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã có những lời tự sự hoặc lời khuyên thanh niên: "Thiện ác nguyên lai vô định tính Đa do giáo dục đích nguyên nhân" (Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên) "Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí cũng làm nên" Trên con đường lập chí, Nguyễn Tất Thành đã được thân sinh - ông Bảng Sắc trang bị cho một vốn tri thức nền tảng. Khi ở Huế dù gia cảnh khá thanh bần, song ông Bảng Sắc đã mua tân thư cho các con đọc để họ sớm có nhận thức mới. Trạc tuổi 13, Nguyễn Tất Thành đã làm quen với các từ "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" và anh đã có chí hướng tìm đến cội nguồn các phạm trù này. Nhà nghiên cứu Kôbêlép người Nga kể lại: 12
  13. "Qua tác phẩm "Thú tội" của Rousseau, Thành biết được rằng chàng thanh niên Rousseau trước khi trở thành nhà khai sáng vĩ đại đã có tới mười năm lưu lạc trên các nẻo đường của các nước châu Âu và ông đã học được nhiều ở một ngành khoa học quan trọng và cũng là khó khăn nhất - khoa học về cuộc sống". Thành nung nấu chí "vượt biển" tìm đến các con đường mà Rousseau đã đi - Anh tâm sự với nhà thơ Ôxíp Mandenxtam: "Lần đầu tiên vào tuổi 13 tôi đã nghe những từ: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi bấy giờ thì người da trắng nào cũng đều là người Pháp cả. Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau cái từ ấy. Nhưng trong các trường bản xứ, bọn Pháp dạy như vẹt. Chẳng những chúng tôi không được phép đọc các nhà văn mới, mà thậm chí còn bị cấm đọc cả Rousseau và Montesquieu. Phải làm sao đây? Tôi quyết định đi ra nước ngoài. Tôi lần mò đến tận bờ biển và thế là tôi đã ra đi. Năm ấy tôi hai mươi mốt tuổi". Đỉnh cao kiến thức trong hành trình lập chí của Nguyễn Ái Quốc là sự giác ngộ Chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên trong hành trình đi tới đỉnh cao này Nguyễn Ái Quốc luôn luôn biết trau chuốt các giá trị của đạo Khổng và tiếp nhận tinh hoa của các nguồn ánh sáng khác rồi gộp bội chúng lại, tìm ra cho bản thân mình, dân tộc mình con đường giải phóng. Bác từng khuyên các đồng chí của mình: "Chúng ta, người Việt Nam, hãy tự học, tự tu dưỡng bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử và hãy nghiên cứu về cách mạng trong các tác phẩm của Lênin". (Phát biểu trên báo Thanh niên Quảng Châu số 80, ngày 20/02/1927) Cuốn Hồ Chí Minh truyện do Nhà xuất bản Tam liên Thượng Hải ấn hành năm 1949 đã ghi lại nhận thức của Bác: "Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao. Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. 13
  14. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy". (Sđd tr 91) Nguyễn Ái Quốc khẳng định từ năm 1921: "Đức Khổng vĩ đại đã khởi xướng nền đại đồng và thuyết giải quyền bình đẳng về của cải. Ngài nói tóm tắt là: Nền hoà bình trên thế giới chỉ nảy nở từ một nền đại đồng trong thiên hạ. Người ta không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng. Sự công bằng sẽ xoá bỏ sự nghèo khổ" (1, 35). Sau này năm 1927, trên báo Thanh niên, Người nhấn mạnh: "Nếu Khổng Tử còn sống ở thời đại chúng ta thì chắc hẳn bậc vĩ nhân ấy sẽ sớm tuỳ thời biến dịch và sẽ nhanh chóng trở thành người kế tục xứng đáng của Lênin". Năm 1950, trong Hội nghị bàn về công tác huấn luyện tại chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh đã cho treo song song thông điệp của Khổng Tử với lời dạy: "Học nhi bất yếm, giáo nhân bất quyện" mà Người dịch là "Học không biết chán, dạy người không biết mỏi" và thông điệp của Lênin "Học, học nữa, học mãi". Nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện đã có một nhận xét khá xác đáng: "Giữa các nhà Mácxít và các bậc chân nho không chỉ có sự tương đồng trong các mục tiêu chính trị mà còn có cả sự thân thiết trong lĩnh vực tư tưởng khiến đôi bên dễ dàng gần gũi nhau. Nhiều nhà nho đã nhảy vọt từ đạo Khổng sang học thuyết của Mác. Trường hợp nổi tiếng nhất chắc chắn là trường hợp của Hồ Chí Minh". "Nếp nhà" - "Lập chí" là nền móng để Nguyễn Ái Quốc hướng tới đỉnh cao văn hoá mà ở con người này là văn hoá "Thân dân". Nhà thơ Xô viết Ôxíp Manđenxtam đã dự cảm rất sâu sắc khi lần đầu tiên gặp Nguyễn Ái Quốc năm 1923 (lúc đó Nguyễn Ái Quốc 33 tuổi) tại Matxcơva. "Cả diện mạo của Nguyễn Ái Quốc toát lên sự lịch thiệp và sự tế nhị. Từ Nguyễn ái Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải nền văn hoá châu Âu mà có lẽ nền văn hoá tương lai. Qua phong thái thanh cao trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc ta như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái trên toàn thế giới". "Văn hoá tương lai" mà Ôxíp Manđenxtam đề cập ở đây chính là văn hoá của một con người suốt đời chỉ có một ham muốn: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học hành". 14
  15. Từ một ý tưởng của nho gia trong sách Đại học, Hồ Chí Minh đã nói đến phạm trù thân dân. Sách Đại học nêu: "Đại học chi đạo Tại minh minh đức Tại tân dân" Tân dân = làm mới nhân dân. Cách diễn đạt này có thể coi là tích cực khi nho gia khuyên người quân tử phải biết làm mới nhân dân, đem đến cho nhân dân cuộc sống mới. Cái tài tình và sâu sắc của Hồ Chí Minh là thêm vào (trong cách viết của người Việt) một chữ "H". "Tân dân" thành "Thân dân" đã làm cho tư tưởng của Nho gia nhân văn hơn, cao đẹp hơn, chí tình, chí nghĩa hơn. Nói chuyện với tri thức Thủ đô năm 1956, Bác Hồ tóm tắt lý tưởng của con người trong 11 chữ "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân". Người giải thích: "Minh minh đức là chính tâm" Thân dân tức là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết" (8, 215).(1) Quan điểm "Thân dân" của Hồ Chí Minh tuy dựa vào luận điểm của nho gia "Dân vi bản", "Dân vi quí", song phản ảnh tâm thức của người Việt Nam. Trong Di chúc trước lúc đi xa, Người nhấn mạnh: "Đầu tiên là công việc đối với con người" (1969) Suốt quá trình lãnh đạo Nhà nước, Người luôn luôn căn dặn đồng chí của mình: "Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân: Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi Nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi Nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi Nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có lỗi " (1955) Quan điểm "Thân dân" của Hồ Chí Minh xem xét con người với thái độ: "Mỗi con người đều có cái thiện, cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi" (12, 558). 15
  16. Đất nước chúng ta đã đi vào con đường hội nhập sâu với thế giới trước bối cảnh toàn cầu hoá. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (9/1950 - 1956) đã đào tạo được những con người Việt Nam có các phẩm chất "Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm" chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ là bọn thực dân Pháp. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956 - 1979) tiếp tục thành quả cuộc cải cách lần thứ nhất đã đào tạo những con người đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới là đế quốc Mỹ. Cuộc cải cách lần thứ ba từ 1979 và ngày nay là cuộc Đổi mới giáo dục đang thực hiện đào tạo thế hệ trẻ có khả năng đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu. Chỉ có thể thành công trong sự nghiệp vĩ đại này nếu xây dựng mỗi gia đình Việt Nam thành "Gia đình học hiệu". Năm 1947, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào thời kỳ nóng bỏng và gian khổ, Bác Hồ đã giao cho chính quyền Thanh Hoá, các vị trí thức Thanh Hoá mà đại diện là các ông Đặng Thai Mai, Lê Thước nhiệm vụ xây dựng các gia đình tỉnh Thanh Hoá thành "Gia đình học hiệu", mỗi người dân Thanh Hoá là một "tiểu giáo viên". Ngày nay, UNESCO phát động các quốc gia kiến tạo xã hội học tập đã lưu ý vấn đề gia đình học hiệu (learning family). Tự hào thay ý tưởng của thời đại đã được Bác cảm nhận từ trước đó hàng mấy thập niên khi đất nước còn vô vàn khó khăn và Bác đã truyền tâm ý của mình cho đồng chí, cho nhân dân thực hiện ý tưởng này. "Nếp nhà" là cái cơ bản để có gia đình học hiệu, để tuổi trẻ lập được chí và rồi lập thân, lập nghiệp. Phát động thế hệ trẻ lập thân, lập nghiệp song không lập chí làm sao lập được thân, lập được nghiệp. Ngày 26/5/1946, trong một lần đến thăm một đơn vị thanh niên, Bác căn dặn: "Các em cần làm được như lời Tôn Trung Sơn đã nói "Những người thanh niên tốt muốn làm việc to chứ không muốn làm quan lớn". Sau đó Bác trao cho họ lá cờ "Trung với nước, hiếu với dân". Bác còn căn dặn thanh niên: "Người ta thường nói: Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó. Chúng ta phải nhận rằng thanh niên ta rất hăng hái. Nhưng chúng ta cũng phải nhận rằng phong trào thanh niên ta còn chật hẹp, mặc dầu từ ngày Cách mạng tháng Tám đến nay, thanh niên có cơ hội để phát triển một cách mau chóng và rộng rãi hơn. Vậy nên nhiệm vụ của các bạn là phải tìm đủ mọi cách để gây một phong trào thanh niên to lớn và mạnh mẽ. 16
  17. Theo ý tôi, muốn đạt mục đích đó, thì mỗi thanh niên, nhất là mỗi cán bộ phải kiên quyết làm bằng được những điều sau đây: a) Các sự hi sinh khó nhọc thì mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta hưởng trước (tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ lạc). b) Các việc đáng làm, thì có khó mấy cũng quyết làm cho kì được. c) Ham làm những việc ích quốc lợi dân. Không ham địa vị và công danh phú quý. d) Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc. đ) Quyết tâm làm gương về mọi mặt, siêng năng, tiết kiệm, trong sạch. e) Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc, nên nói ít, làm nhiều, thân ái đoàn kết. Tôi lại khuyên các bạn một điều nữa, là chớ đặt những chương trình kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cũng cần phải thiết thực; nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ chỗ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hiện được, hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không được" (5, 185 - 186). 3/. Tất Thành - Ái Quốc - Chí Minh và nhân cách con người có 3H & 3T Trong hành trình cách mạng, Bác Hồ mang nhiều tên, song "Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh" gợi mở và thúc đẩy thế hệ trẻ Việt Nam sống có mục đích, sống với lòng yêu nước, sự bền chí và thông minh. Một nhà giáo dục khả kính của Việt Nam từ " Tất Thành - Ái Quốc - Chí Minh " đã thu hoạch về 3H-3T của người thanh niên trên con đường sáng nghiệp. Tất Thành : Tính mục đích: Thế tự lập (T1) Ái Quốc : Lòng yêu nước: Tình gắn bó (T2) Chí Minh: Sự bền chí thông minh: Tâm ổn định (T3) (Tất Thành & Ái Quốc) : Tư duy Hiện thực (H1) (ái Quốc & Chí Minh): Lý tưởng Hoài bão (H2) (Tất Thành & Chí Minh) : Làm việc Hiệu quả (H3) "Nếp nhà - Lập chí - Thân dân" trong hành trình cách mạng của Bác Hồ mãi mãi là di sản vô giá cho ngành giáo dục, cho các nhà trường rèn luyện thế hệ trẻ đưa đất nước tiến đến đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu. Hiện thực 17 Ái Quốc Tất Thành Tình gắn bó Thế tự lập Con người sáng nghiệp Chí Minh Tâm ổn định
  18. Hiệu quả Hoài bão III. BÁC HỒ NGƯỜI KHAI SÁNG CHO TƯ DUY VÀ CHIẾN LƯỢC HÀNH ĐỘNG XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP Ở VIỆT NAM NGAY NHỮNG NGÀY ĐẦU CỦA CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG 1/. Vấn đề "Xã hội học tập" mà ngày nay các quốc gia coi là tiêu điểm của chính sách phát triển đã được Bác Hồ khai sáng trong tư duy và chiến lược hành động cho nước ta ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng. Xã hội học tập chỉ thành hình và phát triển khi người quản lý thúc đẩy được mọi người dân có nhu cầu học tập, có khát vọng học tập. Nhu cầu này gắn liền với việc quản lý hỗ trợ cho nhân dân nâng cao năng lực tiếp nhận sự học tập và mở rộng cơ hội học tập cho nhân dân. Quản lý phải làm sao cho bộ ba "Nhu cầu - Năng lực - Cơ hội" gắn bó chặt chẽ với nhau. Không tạo ra nhu cầu đích thực thì dù có ra sức nâng cao năng lực và mở rộng cơ hội đến đâu cũng không thể hiện thực được mục tiêu về xã hội học tập. Song khi đã tạo ra nhu cầu - Người dân có tha thiết học mà người quản lý không giúp người dân có năng lực để "Học được" và cơ hội "Được học" thì cũng không thể hình thành xã hội học tập. 18
  19. Nhu cầu càng lớn thì năng lực và cơ hội càng phải được nâng cao và mở rộng và ngược lại càng nâng cao năng lực và mở rộng cơ hội học tập thì càng phải thúc đẩy nhu cầu. Để cho ba nhân tố này rời rạc với nhau thì không thể nói đến xã hội học tập. Xã hội học tập hội tụ và làm phát triển ba nguồn vốn: vốn con người, vốn tổ chức, vốn xã hội (human capital, organizational capital, social capital), nó là nhân tố đưa quốc gia tăng trưởng có chất lượng và phát triển bền vững. Nhu cầu xã hội Năng lực học tập Cơ hội Hiện nay có quan niệm xã hội phải tiến tới "Kinh tế tri thức", đạt "Kinh tế tri thức", mới có thể xây dựng xã hội học tập. Không ai phủ nhận tầm quan trọng của kinh tế tri thức tạo ra nhu cầu rộng lớn và điều kiện thuận lợi về học tập để có một xã hội học tập đích thực và bền vững. Tuy nhiên cứ phải chờ có "Kinh tế tri thức" mới xây dựng được xã hội học tập thì những nước nghèo, những nước chậm phát triển và đang phát triển sẽ mất bao nhiêu năm (?) mới đi tới xã hội học tập. Thực tế của Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và suốt năm 1946 đã chứng minh một điều khác hẳn. Khi bắt đầu xây dựng chính quyền cách mạng (2/9/1945), 95% nhân dân còn mù chữ, nạn đói đã làm kiệt quệ nền kinh tế; giặc ngoại xâm với những kẻ thù hung bạo xảo quyệt nhất can thiệp vào nước ta. Bác Hồ người chèo lái con thuyền cách mạng trong lúc đất nước còn nguy nan đã chấn hưng dân khí, khai sáng cho dân tộc ý chí quyết tâm đẩy lùi cái dốt của bản thân, cái dốt của cộng đồng, của đất nước. Bác đã lãnh đạo, tạo cho toàn dân có nhu cầu trở thành một dân tộc thông thái, làm cho mọi người giác ngộ "Dân cường nước thịnh", "Dân mạnh nước giàu" và trên cơ sở này Người tổ chức cho chính quyền cách mạng dù còn trứng nước có các phương án quản lý hiệu quả nâng cao năng lực học tập của mọi người và mở rộng cơ hội học tập cho mọi người. 19
  20. 2/. Ngày 2/9/1945 tiếp theo bản Tuyên ngôn độc lập mà vị Chủ tịch nước long trọng đọc trước quốc dân đồng bào, tuyên bố sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước thế giới, Chính phủ đã nêu ra chương trình, nội dung chính của chính sách phát triển đất nước. Mục tiêu của giáo dục trong chương trình này đã được khẳng định: "Nền giáo dục mới đang ở thời kỳ tổ chức. Chắc chắn là bậc sơ học sẽ cấp bách. Trong thời hạn rất ngắn sẽ thi hành lệnh bắt buộc học chữ quốc ngữ để chống nạn mù chữ đến triệt để. Vấn đề vô cùng quan trọng ấy chúng ta chẳng chờ đến lúc sự sinh hoạt trở nên bình thường mới giải quyết mà ngay trong hoàn cảnh eo hẹp này chúng ta phải kiên quyết tiến hành. (Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Hồ Chủ tịch giao cho việc trình bày chính sách nội chính của Chính phủ. Tư liệu: Những sự kiện giáo dục phổ thông 1945 - 1985. Viện Khoa học Giáo dục 1985, tr2)". Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Người nêu nhiệm vụ giáo dục - chống giặc dốt là nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới với lời khẳng định: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" (4, 8). Trong tháng 9 năm 1945, Người có bức thư tâm huyết gửi học sinh các lứa tuổi với lời kêu gọi tha thiết: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em" (4, 33). Tháng 10/1945, Người ra lời kêu gọi chống nạn thất học như một mệnh lệnh hội tụ toàn dân tộc đưa đất nước vào công cuộc đại nghĩa mở ra kỷ nguyên mới của đất nước. Người viết: "Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp cho những tá điền những người làm của mình. Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới để xứng đáng mình là một phần tử trong nước có quyền bầu cử và ứng cử. Công việc này mong anh chị em thanh niên sốt sắng giúp sức" (4, 37). Dưới sự lãnh đạo của Bác chỉ có 4 tháng của năm 1945 hệ thống giáo dục quốc dân với các thiết chế: Nha bình dân học vụ, Nha giáo dục phổ thông, Hội đồng cố vấn học chính đã hình thành. Trong hoàn cảnh lúc đó hệ thống này đã tạo ra những cơ hội cho 20
  21. nhân dân xoá được nạn thất học, hé mở những cánh cửa cho nhân dân phát triển sự tiến hoá. Bước sang năm 1946, dù còn biết bao sự bộn bề của các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự của đất nước, Bác Hồ vẫn dành cho sự nghiệp giáo dục sự chăm lo tỉ mỉ chu đáo. Kiên trì quốc sách của một đất nước dưới chính thể mới là làm cho ba lĩnh vực: kinh tế, giáo dục, quốc phòng phải luôn luôn gắn bó với nhau, Bác đã chỉ đạo cho chính quyền mới coi giáo dục là then chốt của sự kết hợp này. Người nói lên ước nguyện của người cũng là mục tiêu của chế độ mới: "Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Người thẳng thắn nói với công bộc của chính quyền mới: "Chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết giá trị của tự do của độc lập khi mà dân ăn no mặc đủ Chúng ta phải thực hiện ngay: "Làm cho dân có ăn Làm cho dân có mặc Làm cho dân có chỗ ở Làm cho dân có học hành Các mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó" Chỉ trong năm 1946, Bác đã viết hàng chục bài báo, thực hiện hàng chục lần tiếp xúc với nhân dân để khích lệ mọi người ham học, ham dạy. Gây ngạc nhiên cho thế hệ ngày nay là tại thời điểm này (1946), Người đã có thông điệp "Học suốt đời" (nói chuyện với đồng chí Nguyễn Thị Định), "Phải làm cho dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thông thái" (có hàm ý như các yêu cầu xây dựng kinh tế tri thức - Nói chuyện với đồng bào Hải Phòng khi đi Pháp về 10/1946). Vị Chủ tịch nước coi lĩnh vực giáo dục bình dân là tiêu điểm cho sự phát triển hệ thống giáo dục quốc dân (ngày nay chính là giáo dục cộng đồng); Người nói với anh chị em giáo viên bình dân học vụ: "Anh chị em yêu quí! Chương trình của Chính phủ ta là làm thế nào cho đồng bào cả nước ai cũng có ăn, có mặc, có học. Vậy nên khẩu hiệu của chúng ta là: 1. Tăng gia sản xuất 2. Chống nạn mù chữ 21
  22. Anh chị em làm việc mà không có lương bổng, thành công mà không có tiếng tăm, anh chị em là những người "Vô danh anh hùng". Tuy là vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em. Tôi mong rằng trong một thời kỳ rất ngắn lòng hăng hái và sự nỗ lực của anh chị em sẽ có kết quả rất vẻ vang: đồng bào ta ai cũng biết đọc, biết viết. Cái vinh dự đó thì tượng đồng, bia đá nào cũng không bằng" (4, 220). Trước khi bước lên máy bay đi Pháp (4/5/1946), Người còn căn dặn cụ Huỳnh Thúc Kháng, lúc đó là Quyền Chủ tịch nước: "Chú ý đến công việc bình dân học vụ". Ngay sau khi đi Pháp về, Bác tổ chức kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá 1 thành lập Chính phủ mới (từ 3/11/1946). Dù có rất nhiều công việc khẩn trương của thời gian nóng bỏng này (Thực dân Pháp tạo ra những gây chiến khiêu khích ngay trong lòng Hà Nội), Bác vẫn quan tâm đến sự nghiệp bình dân học vụ. Ngày 5/11/1946, Người viết văn kiện "Công việc khẩn cấp bây giờ" chỉ ra nhiệm vụ và phương hướng kháng chiến toàn quốc. Tối cùng ngày Bác đến thăm các lớp bình dân ở Trường Hàng Than và khu phố Hàng Bún (Hà Nội) sát nơi đóng quân của quân đội Pháp. Vào từng lớp học Bác ân cần hỏi học viên làm những nghề gì, học viên trả lời người thì kéo xe, người đi ở, người đi bán kẹo rong, người làm nội trợ, Bác khen thầy trò trường Hàng Than: "Thầy siêng dạy, trò siêng học thế là tốt lắm". Ngày 24/11/1946 (trước Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 gần một tháng), Bác đọc diễn văn khai mạc Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất, Bác kêu gọi các nhà văn hoá Việt Nam xây dựng nền văn hoá mới sửa đổi được: "Tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm cho ai ai cũng có lý tưởng tự chủ độc lập". Bác kêu gọi các nhà văn hoá chú ý đến việc học tập của nhi đồng, giáo dục cho nhân dân thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ. Từ tháng 3 năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa bắt đầu và bước vào giai đoạn gian khó nhất, về công tác tại Thanh Hoá, Bác Hồ đã giao cho lãnh đạo Thanh Hoá qua các ông Lê Thước, Đặng Thai Mai xây dựng Thanh Hoá có các "Gia đình học hiệu", người dân Thanh Hoá thành "Tiểu giáo viên". Ngày nay, đề cập vấn đề xã hội học tập, UNESCO nêu ra vấn đề "Gia đình học hiệu" (learning family). Tự hào thay ý tưởng của thời đại đã được Bác cảm nhận từ trước đó hàng mấy thập niên khi đất nước còn vô vàn khó khăn và Người đã truyền tâm ý cho đồng chí, cho nhân dân hiện thực được ý tưởng này. Những sự kiện của Bác Hồ với ngành giáo dục thời kỳ đầu chính quyền cách mạng tháng 9 năm 1945 - tháng 12 năm 1947 càng chứng tỏ vai trò của công tác quản lý khi nắm chắc 3 khâu cơ bản: Thúc đẩy nhu cầu - Nâng cao năng lực - Mở rộng cơ hội của người dân 22
  23. trong lĩnh vực giáo dục và biết gắn bó ba khâu này vào với nhau thì đó là tiền đề quan trọng cho việc xây dựng và phát triển xã hội học tập dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả lúc khó khăn. 3/. Sau gần bẩy thập niên phát triển nền giáo dục cách mạng nước ta ngày nay trong những năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới đã có mặt bằng giáo dục với số người lớn biết chữ 90,3%, tỷ lệ thanh thiếu niên 6 - 24 tuổi được học tại các nhà trường là 64%, chỉ số phát triển giáo dục là 0,82 (Báo cáo phát triển con người 2005). Nếu tính trong số 177 quốc gia và vùng lãnh thổ có mặt trong Báo cáo phát triển con người thì giáo dục nước ta có thứ hạng 93. Giá trị và thứ hạng này cho phép chúng ta có thể khẳng định: Những tiền đề xây dựng xã hội học tập ở nước ta đã có, dù rằng mặt bằng kinh tế của nước ta còn khá thấp trong tương quan chung (chỉ số kinh tế mới đạt 0,572 xếp thứ 122/177 nước). Tiêu chí Giá trị chỉ số Thứ hạng Lĩnh vực Giáo dục 0,82 96/177 Kinh tế 0,572 122/177 Xây dựng xã hội học tập của nước ta dù có những tín hiệu tốt song còn đó những thách thức. Dù số người biết chữ có tỷ lệ cao, nhiều trường học mở ra, số thanh thiếu niên được đi học đông, song để có một nền học vấn thiết thực từ nhu cầu không phù phiếm, tạo cho công dân có kỹ năng đời sống phát triển cộng đồng bền vững thì vấn đề lại còn nhiều nỗi băn khoăn. Nước ta đang thực hiện chương trình giáo dục cho mọi người (Education for All- EFA), các chương trình phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, những dự án mở rộng trung học phổ thông, những ý tưởng đưa đại học tinh hoa thành đại học đại chúng nhằm tạo ra nền móng của "Xã hội học tập". Có thể khẳng định rằng các chương trình này chỉ có ý nghĩa nếu ta quán triệt được các ý tưởng giáo dục nhân văn và thân dân của Bác Hồ kính yêu. IV. MỘT THÔNG ĐIỆP CÓ Ý NGHĨA VĨNH HẰNG Ngày 13/09/1958 đến thăm lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc đặt tại Hội trường Trường Bổ túc Công nông Trung ương (nay là Học viện Quản lý Giáo dục), Bác Hồ sau khi ân cần thăm hỏi khích lệ lớp học, nói về vị trí của giáo dục trong giai đoạn mới đã ra lời kêu gọi: 23
  24. "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" Lời kêu gọi của Bác trở thành thông điệp cốt lõi của chiến lược phát triển giáo dục, chiến lược phát triển con người của đất nước. 1/. Thông điệp là kết tinh tư tưởng "giáo dục thân dân" coi giáo dục vừa là mục tiêu vừa là sức mạnh của quá trình phát triển. Để lĩnh hội ý kiến sâu sắc của lời dạy, cần nhắc lại vài sự kiện lịch sử của nền giáo dục cách mạng gắn với công việc của vị Chủ tịch nước. Ngày 03/9/1945 trong phiên họp đầu tiên của chính phủ, Bác đã nêu những nhiệm vụ cấp bách của nền Dân chủ Cộng hoà mà trong dó giáo dục được Người đặt vào vị trí then chốt: Người nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu"; Người yêu cầu "Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập". Ngay năm học đầu tiên của nước Việt Nam mới, năm học 1945-1946, Bác gửi thư cho toàn thể học sinh và giao nhiệm vụ cho ngành giáo dục Việt Nam: Một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược ở Nam Bộ từ 23/9/1945 và toàn quốc từ 19/12/1946 có làm cho những mục tiêu của nền giáo dục mới chưa triển khai trên phạm vi toàn quốc. Nhưng ở vùng tự do, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính quyền cách mạng đã phát triển nền giáo dục mới theo ý tưởng của Hồ Chí Minh. "Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Người nhấn mạnh một trong các nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ ngay trong lúc kháng chiến gian khổ: Mở mang giáo dục để cho ai nấy cũng đều biết đọc, biết viết. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc đưa đất nước vào cục diện mới: Khôi phục phát triển kinh tế theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà. Liên tiếp trong các năm 1955-1958, Hồ Chủ tịch đã dày công chỉ đạo cho toàn Đảng toàn dân đưa phát triển kinh tế, phát triển giáo dục gắn bó với nhau. Trong thời gian 24
  25. này, Bác đã đến thăm nhiều trường học, nhiều hội nghị giáo dục và có gần 30 bài nói chuyện hoặc huấn thị quan trọng cho ngành giáo dục, cho các thầy cô giáo, học sinh từ đại học đến mẫu giáo. Người đề cập một tổng thể các vấn đề giáo dục từ phương thức phát triển đến cách dạy học, sự rèn luyện tu dưỡng của thầy trò. Bác đặt giáo dục và kinh tế trong một chỉnh thể phát triển thống nhất với nhau. Người đặt yêu cầu phải có biện pháp làm cho hai lĩnh vực này hỗ trợ lẫn nhau. Tại Đại hội giáo dục phổ thông toàn quốc 3/1956, Bác chỉ thị: Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau. Giáo dục có khó khăn thì kinh tế phải khắc phục. Chúng ta đồng tâm hiệp lực thì kinh tế cũng thành công, giáo dục cũng thành công. Người mong các cán bộ làm công tác giáo dục nhận thức được: Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa. Việc đào tạo cán bộ giáo dục cần phải coi là hàng đầu. Tuy không có gì là oanh liệt nhưng làm tròn nhiệm vụ này cũng là anh hùng, tập thể anh hùng. 2/. Thông điệp là sự kế thừa chọn lọc và phát triển ý tưởng của tiền nhân Ôn lại thông điệp của Bác Hồ xin được nhắc đến danh nhân Quản Trọng. Là nhà chính trị Trung Hoa cổ đại (725-645 TCN), ông từng có lời phát biểu sau đây: Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc Thập niên chi kế, mạc như thụ mộc Chung thân chi kế, mạc như thụ nhân. (Trù liệu việc một năm không gì bằng trồng lúa Trù liệu việc mười năm không gì bằng trồng cây Trù liệu việc cả đời không gì bằng trồng người). Nhà chính trị văn hóa Hồ Chí Minh khi tìm đường cứu nước đã nghiên cứu tư tưởng chính trị của các danh nhân Tiên Tần và các dòng tư tưởng khác. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, Người chắt lọc cái hay gạt đi cái dở của các tư tưởng này để xây dựng những quan điểm chính trị giáo dục thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Quản Trọng, còn nói: "Đạo trị nước trước hết phải làm cho dân giàu" (Đạo trị quốc tất tiên phú dân), song ông quan niệm: "Dân giàu thì dễ sai, dân nghèo thì khó trị" (Dân phú tắc dĩ sử dã, dân bần tắc nan trị dã ). Ông bày cho nhà cầm quyền: 25
  26. Trị dân như trị thủy Mục dân như mục súc Dưỡng dân như dưỡng thảo (Trị dân như trị nước Nuôi dân như nuôi súc vật Chăm dân như chăm cây cỏ). Có thể thấy rằng: Lý tưởng chính trị, lý tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, của Quản Trọng là hoàn toàn khác nhau. Đối với Hồ Chí Minh giáo dục và chính trị vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh thúc đẩy nhau và đều hướng vào lợi ích của nhân dân, hạnh phúc của nhân dân (Lợi vi bản). Lưu ý là ngay sau phát biểu luận đề này (luận đề "Vì lợi ích "), Bác nhắn nhủ cô giáo, thầy giáo: "Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng nề nhưng rất vẻ vang. Mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ". 3/. Thông điệp là phương châm cho chiến lược giáo dục mà việc tổ chức giáo dục, dạy học phải hướng vào người học, lấy lợi ích của người học làm mục tiêu chủ đạo của quá trình đào tạo. Bác mở đầu thông điệp bằng cụm từ "Vì lợi ích" với hàm ý như một lời nhắc nhở mọi cán bộ giáo dục, giáo viên cần có tư duy mới về công tác giáo dục, dạy học. Với tầm nhìn chính trị giáo dục sắc bén, Người tiên liệu các thách thức đặt ra cho nền giáo dục cách mạng khi nhiệm vụ tổ chức việc học hành không chỉ cho một thiểu số cư dân mà phải cho toàn dân. Không thể chỉ lấy nhiệt huyết và quyết tâm rồi theo cách làm cũ mà thành công trong công việc điều hành tiến trình đào tạo. Cần nhìn cho rộng suy cho kỹ (Nhãn quang ưng đại, tâm ưng tế) đối với công việc có tầm quan trọng đặc biệt và có quan hệ đến từng tế bào của đời sống xã hội, đời sống mỗi gia đình, mỗi công dân. Dân chủ hóa đời sống giáo dục chỉ hiện thực trên cơ sở tư duy mới, cách làm mới. Thông điệp định hướng cho sự phát triển nhà trường phải từ bỏ được phương thức sư phạm quyền uy, ban ơn, xây dựng phát triển phương thức sư phạm của tinh thần cộng tác dân chủ, "Thầy quý trò, trò kính thầy"; từ bỏ lối dạy học không chú ý đến nhu cầu của người học, hoàn cảnh của người học, nguyện vọng của người học, "lợi ích - chức năng" của người học trong cuộc sống cộng đồng. 26
  27. Ích lợi của việc học là điều kiện cần, song lợi ích của người học phải là điều kiện đủ trong chiến lược giáo dục cho mọi người. Sự nhất quán trong quan điểm giáo dục của Bác là phải xây dựng phát triển được nền giáo dục, hệ thống giáo dục kiểu nhà trường, cách dạy học vì lợi ích của nhân dân, vì lợi ích của người học. Đó là nền giáo dục dân tộc, dân chủ nhân văn, lao động, thiết thực giải quyết các vấn đề phát triển của đất nước về chính trị, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, nền giáo dục phải chứa đựng các thiết chế "hợp với hoàn cảnh mới của đất nước". Thông điệp: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" của Bác Hồ có ý nghĩa vĩnh hằng. Đó mãi mãi là phương châm hành động của nền giáo dục Việt Nam nhằm phục vụ có kết quả sự nghiệp phát triển đất nước bền vững, giải quyết thiết thực, toàn diện và sâu sắc các vấn đề phát triển con người của nước ta. VI. VĂN HOÁ DẠY HỌC HỒ CHÍ MINH: THÀY QUÝ TRÒ, TRÒ KÍNH THÀY, DẠY ĐỂ NÊN NGƯỜI VÀ HỌC ĐỂ LÀM NGƯỜI 1. Đặc trưng nhân cách con người Việt Nam thời đại mới a/. Bác Hồ coi "Thiện" là cái gốc trong Đạo làm người Bác nêu ra "Thiện" đối lập với "ác" "Chính" đối lập với "Tà". Người dạy: "Trong xã hội tuy có trăm công nghìn việc song những công việc ấy chưa làm hai thứ việc Chính và việc Tà. Làm việc Chính là người thiện. Làm việc Tà là người ác. Siêng năng (Cần), tằn tiện (Kiệm), trong sạch (Liêm) là Chính, là Thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là Tà, là ác".(5, 643) Người nhấn mạnh: "Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh". (5, 645) Trong bài thơ "Nửa đêm" (Dạ bán), Người viết: Thụy thì đô tượng thuần lương hán 27
  28. Tỉnh hậu tài phân thiện ác nhân Thiện ác nguyên lai vô định tính Đa do giáo dục đích nguyên nhân. Ngủ thì ai cũng như lương thiện Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên. Như vậy theo Hồ Chí Minh giáo dục và tự giáo dục có vai trò quan trọng hình thành tố chất "Thiện" trong mỗi con người, tất nhiên đó phải là một nền giáo dục lấy lý tưởng là sự phát triển nhân văn, dân chủ và lao động. b/ Trên nền tảng tố chất "Thiện" muốn nên người phải rèn luyện hệ thống các phẩm chất. "Trung Hiếu, Nhân - Trí - Dũng, Cần - Kiệm - Liêm - Chính" Các quốc gia ngày nay đi vào nền kinh tế tri thức trước bối cảnh toàn cầu hoá đều xác định chiến lược con người, chiến lược về nguồn lực người. Chiến lược này phải bắt đầu từ vấn đề nhận thức toàn diện đến quyết tâm, hiện thực phạm trù nhân cách, có quan điểm đúng đắn về hướng đi và có giải pháp khả thi để hình thành và phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ. Đối với đất nước chúng ta, điều rất may mắn trong khi thực hiện chiến lược này chúng ta có di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Những gợi ý của Người, những lời dạy của Người chính là kim chỉ nam cho chúng ta hiện thực được chiến lược có ý nghĩa trọng đại này. Chiến lược con người Việt Nam mới mà Hồ Chí Minh vạch ra đặt trên nền tảng hệ giá trị đạo làm người. Hệ giá trị này kết tinh đạo lý của dân tộc và cập nhật các quan điểm nhân cách của thời đại mới. Hồ Chí Minh đưa khái niệm "Trung - Hiếu" vốn là các khái niệm sâu đậm trong tâm thức người Việt Nam đến một chất mới phù hợp với chế độ mới. Người cho rằng đạo đức của chế độ mới cao rộng hơn, không chỉ có hiếu với bố mẹ và "Trung" với một cá nhân ai đó mà Trung với nước, Hiếu với dân. Khái niệm Trung với nước, Hiếu với dân được Người thể hiện trong bài thơ tặng cụ Võ Liêm Sơn một nhân sĩ yêu nước khi cụ tham dự Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai (16 - 20/7/1948). Người viết: Tặng Võ công 28
  29. Thiên lý công tầm ngã Bách cảm nhất ngôn trung Sự dân nguyện tận hiếu Sự quốc nguyện tận trung Công lai ngã hân hỉ Công khứ ngã tư công Tặng công chỉ nhất cú Kháng chiến tất thành công (5, 540) (Ngàn dặm cụ tìm đến Một lời trăm cảm thông Thờ dân trọn đạo hiếu Thờ nước vẹn lòng trung Cụ đến tôi mừng rỡ Cụ đi tôi nhớ nhung Một câu xin tặng cụ Kháng chiến ắt thành công). "Trung với nước - Hiếu với dân" lời của Hồ Chí Minh nói với cụ Võ Liêm Sơn hơn 60 năm trước đây đã thấm vào nếp nghĩ, nếp sống của mỗi người dân Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến hào hùng chống xâm lược, qua công cuộc xây dựng kiến thiết đất nước. Ngày nay, nó là lý tưởng cao cả nhất của thế hệ trẻ Việt Nam. Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ thống "Ngũ thường" mới cho dân tộc Việt Nam. Kế thừa Khổng học, biết chắt lọc các tinh hoa và đặt vào hoàn cảnh của một đất nước phải tiến hành cuộc kháng chiến chống bọn xâm lược, xây dựng đời sống mới, Người xác định: "Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra, lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít mà những tính tốt như sau ngày càng nhiều thêm". Tính tốt đó là:"Ngũ thường" mới, mà theo Người bao gồm: "Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm" Người giải thích: 29
  30. "Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Những người đã không ham, không e, không sợ gì, thì việc gì là việc phải họ đều làm được. Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng không có lợi ích riêng, phải lo toan. Lúc Đảng giao việc thì bất kỳ to nhỏ đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói, không sợ người ta phê bình mình mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn. Trí: Vì không có việc tư túi làm mù quáng cho nên đầu óc trong sạch sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc, vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng người gian. Dũng là dũng cảm, gan góc; gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng, có gan chống lại những sự vinh hoa phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho Tổ quốc không bao giờ rụt rè nhút nhát. Liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài. Không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ". Ngũ thường của Nho gia hướng vào "Trung Hiếu" hạn hẹp, Ngũ thường của Hồ Chí Minh kế thừa nội dung chân chính của Nho gia và hướng vào lợi ích của đất nước, nhân dân, cách mạng: Trung với nước, Hiếu với dân. Hồ Chí Minh xác định đó là đạo đức cách mạng. Người nhấn mạnh: "Nó là đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người" (5, 252). Nguyện vọng tha thiết của Hồ Chí Minh là làm cho dân tộc từ bỏ những thói xấu lười biếng, gian giảo, tham ô mà chế độ thực dân đã đầu độc. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (3/9/1945), vị Chủ tịch nước xác định nhiệm vụ cấp bách của nhà nước mới là phải giáo dục lại nhân dân, làm cho dân tộc Việt Nam trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Nền tảng của việc giáo dục đó theo Người là thực hiện: "Cần - Kiệm - Liêm- Chính" Hồ Chí Minh mong mỏi tha thiết mỗi người Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam phải lấy "Cần - Kiệm - Liêm - Chính" là phương châm sống trong cuộc sống mới. ở nhiều bài nói chuyện với cán bộ, thanh niên, nhân dân về sự tu dưỡng, hành động của họ trong công 30
  31. cuộc xây dựng kiến thiết chế độ mới, vấn đề "Cần - Kiệm - Liêm - Chính" thường được Người nhắc nhở với những giải thích phát triển vừa giản dị, vừa sâu sắc làm cho các phạm trù này dù hình thức diễn đạt có tính cổ điển mà ý tưởng lại vô cùng sống động trong hoàn cảnh mới của đất nước. Đồng chí Võ Nguyên Giáp kể lại: Ngày 19/5/1946, trong dịp sinh nhật Bác Hồ, các đại biểu trong Ban vận động đời sống mới đến chúc thọ Bác, xin Bác cho cuộc vận động một khẩu hiệu, Bác nói: "Các chú muốn có một khẩu hiệu ư! Cần Kiệm Liêm Chính Chí Công Vô Tư. Khẩu hiệu đó". Một đồng chí thưa với Bác khẩu hiệu này đã quen thuộc xin Bác một khẩu hiệu mới. Bác cười rồi nói: "Hàng ngày ta phải ăn cơm uống nước, phải thở khí trời để sống. Những việc đó ngày xưa ông cha ta phải làm, bây giờ chúng ta phải làm, con cháu ta sau này cũng phải làm. Vậy ăn cơm, uống nước, thở khí trời để đem lại cuộc sống cho con người thì đó là những việc không bao giờ cũ cả. Cần Kiệm Liêm Chính Chí Công Vô Tư đối với đời sống mới cũng như vậy". (Võ Nguyên Giáp. Những chặng đường lịch sử - NXB Văn học, Hà Nội 1977, tr 450). Sau này năm 1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Người đã nói thêm về Cần Kiệm Liêm Chính như sau: "Trời có bốn mùa: Xuân Hạ Thu Đông Đất có bốn phương: Đông Tây Nam Bắc Người có bốn đức: Cần Kiệm Liêm Chính Thiếu một mùa thì không thành trời Thiếu một phương thì không thành đất Thiếu một đức thì không thành người" (5, 631) Ở lời dạy này, Bác đã gắn ba phạm trù Thiên, Địa, Nhân - Trời, Đất, Con người (Tam tài) để nêu bật một vấn đề cốt lõi về nhân cách con người của chế độ mới. Hồ Chí Minh còn nêu ra mối liên hệ khăng khít của các phạm trù này: "Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm Chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần 31
  32. Cần kiệm liêm là gốc rễ của chính Một người phải cần kiệm liêm nhưng còn phải chính trước mới là hoàn toàn. "Tự mình phải chính trước mới giúp được người khác chính. Mình không chính mà muốn người khác chính là vô lý". Nói rộng ra, theo Hồ Chí Minh một dân tộc biết cần kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. c/. Hồ Chí Minh coi phạm trù "Tình" (Tấm lòng), "Nghĩa" (Trách nhiệm) là điểm tựa cho các phẩm chất "Trung - Hiếu", "Nhân - Nghĩa - Trí - Dũng - Liêm", "Cần - Kiệm - Liêm - Chính" phát triển một cách bền vững. Xuất phát từ lý tưởng Mác - Lênin, Người đã đưa các giá trị "Tình - Nghĩa" (Tấm lòng - Trách nhiệm), vốn là các giá trị thiêng liêng trong cuộc sống của người Việt Nam đến trạng thái mới, chất lượng mới. Đó là tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Khi hỏi các đồng chí của mình: "Các chú có biết nhân dân ta sống với nhau thế nào không?" và được nghe trả lời "Thưa Bác, nhân dân ta có câu: Tắt lửa tối đèn có nhau", Người đã nhắc nhở: "Đúng là như vậy! Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà". Người căn dặn: "Hiểu Chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được". Người khẳng định: "Mấy chục năm nay nhân dân ta thực hành chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách ra sức làm tròn nhiệm vụ cách mạng và sống với nhau có tình có nghĩa" (12, 554). d/. Các giá trị đạo đức nhân cách Bác Hồ nói với học sinh Các giá trị: Trung - Hiếu, Nhân - Trí - Dũng, Cần - Kiệm - Liêm- Chính, Tình - Nghĩa đã được vị Chủ tịch nước nói với các em học sinh thanh thiếu niên với tấm lòng của "Một người anh lớn lúc nào cũng ân cần mong mỏi cho các em được giỏi giang" một cách dung dị như sau: 1 - Phải siêng học 2 - Phải giữ sạch sẽ 3 - Phải giữ kỷ luật 32
  33. 4 - Phải làm theo đời sống mới 5 - Phải thương yêu giúp đỡ cha mẹ anh em (Thư gửi các cháu thiếu nhi sau khi Người đi Pháp về 24/10/1946, 4.421) - Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào - Học tập tốt, lao động tốt - Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt - Giữ gìn vệ sinh - Thật thà, dũng cảm (Thư gửi Thiếu niên - Nhi đồng toàn quốc nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Đội TNTP tháng 5/1961 - 10, 356; 10, 356) Người xác định thế hệ trẻ là người chủ của nước nhà. Người mong họ phải rèn luyện đạo đức cách mạng để chuẩn bị trở nên người công dân tốt, người cán bộ tốt của đất nước. Hồ Chí Minh đã xác định cho thanh niên học sinh việc rèn luyện nhân cách theo các mục tiêu: "- Yêu Tổ quốc: Cái gì trái với quyền lợi của Tổ quốc, chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu nhân dân: Việc gì hay người nào phạm đến lợi ích chung của nhân dân chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu lao động: Ai khinh rẻ lao động, chúng ta kiên quyết chống lại - Yêu khoa học: Cái gì trái với khoa học chúng ta kiên quyết chống lại. - Yêu đạo đức: Chúng ta phải thực hiện đức tính trong sạch, chất phác, hăng hái, cần kiệm xoá bỏ hết những vết tích nô lệ trong tư tưởng và hành động". Người cũng khuyên họ luôn luôn phải có động cơ học tập đúng đắn với việc đề ra câu hỏi "Học để phụng sự ai" và Người góp ý: Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu nước mạnh tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà. Học phải đi đôi với hành: Khi ở nhà phải thương yêu cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ về công việc, giúp đỡ về tinh thần (học được điều gì tình hình trong nước và thế giới thì nói lại cho cha mẹ nghe). 33
  34. Ở trường thì phải đoàn kết giúp đỡ anh chị em thi đua học tập, phải đoàn kết giữa thầy và trò cho trường mình luôn luôn tiến bộ. Ở xã hội: Các cháu có thể giúp được nhiều việc có ích. Thí dụ tuyên truyền vệ sinh, giúp đỡ các em nhi đồng, xung phong dạy bình dân học vụ". (Bài nói với học sinh các trường trung học Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương Hà Nội. Ngày 18/12/1954. 7-398 - 399). 2/. Dạy đẻ nên người và Học để làm người a/. Bác Hồ coi dạy học là con đường chủ đạo để hình thành và phát triển nhân cách Người nhấn mạnh mục tiêu của việc học "Học để làm việc, làm người " Người chỉ ra cái "Học" đích thực là cái "Học gắn liền với Hành", học gắn với lao động sản xuất với thực tiễn, kết hợp Học và Tự học. Người dạy: "Một người học xong đại học có thể gọi là có tri thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có tri thức một nửa. Tri thức của y là tri thức học sách chưa phải tri thức hoàn toàn. Y muốn thành người tri thức hoàn toàn thì phải đem tri thức đó áp dụng vào thực tế" (5, 235). Hồ Chí Minh chê những người "Xem nhiều sách để mà loè, để làm ra ta đây", Người coi những con người đó không phải là biết lý luận. Người khuyên mọi người phải chữa được bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông. Hồ Chí Minh khẳng định con đường học vấn là rộng lớn, muốn đạt được học vấn đích thực thì phải có đạo đức trong sáng, có sự chính tâm, sự thành ý biết đem kết quả học tập của mình phục vụ cho hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh khuyên thế hệ trẻ phải biết kết hợp lao động trí óc và lao động chân tay, Người dạy: "Lao động chân tay cũng phải có văn hoá mà người lao động trí óc cũng phải làm được lao động chân tay. Nếu lao động trí óc không làm được lao động chân tay và lao động chân tay không có trí óc thì đó là người lao động bán thân bất toại". (Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai 7/5/1958. 9, 174). Trong quá trình học tập, Người căn dặn phải luôn luôn khiêm tốn: "Cái gì biết thì nói biết, không biết thì nói không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập" (8, 499). Người khuyên phải biết "Tự động học tập", "Lấy tự học làm cốt": Ở tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" (1947), khi nói về công tác huấn luyện cán bộ, Người đã có chỉ dẫn: 34
  35. "Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào". Người dạy thêm: "Sắp xếp thời gian và bài học phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau" (5, 273). Sau này khi nói về công tác huấn luyện và học tập (1950), Người lại nhấn mạnh: "Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học". Người khuyên: "Không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập" (6, 50). Những lời dạy ngắn gọn của Người làm nổi bật lên tính cần thiết của việc tự học và mối liên hệ khăng khít của các chủ thể tham gia quá trình tự học. b/. Trường học do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở ở PắcBó thể hiện tinh thần sư phạm hợp tác Năm 1941, Bác từ nước ngoài trở về trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng mà sở chỉ huy là hang Pắc Bó (Cao Bằng). Một trong những công tác trước mắt của Đảng lúc bấy giờ là mở các lớp huấn luyện về Chương trình Việt Minh, Điều lệ Hội cứu quốc cho cốt cán người địa phương và quần chúng trung kiên. Số này, phần lớn là đồng bào Nùng, chữ quốc ngữ không biết, nghe và nói tiếng phổ thông chưa thạo. Bác cho rằng, muốn huấn luyện cách mạng cho số cán bộ này phải dạy văn hoá cho họ và thông qua dạy văn hoá mà tuyên truyền đường lối cách mạng. Bác chỉ định các đồng chí Cao Hồng Lĩnh, Lê Quảng Ba, Bảo An làm thầy giáo và đồng chí Cao Hồng Lĩnh làm Tổ trưởng tổ giáo viên xung phong với nhiệm vụ lập ra kế hoạch dạy học. Lúc này thấy đồng chí Cao Hồng Lĩnh còn lúng túng, Bác ân cần hướng dẫn đồng chí suy nghĩ về 5 điều sau: Huấn luyện cho ai? Huấn luyện những gì? Huấn luyện trong bao lâu? Huấn luyện ở chỗ nào? Lấy gì ăn mà huấn luyện? Trên nền của 5 điều trên, đồng chí Cao Hồng Lĩnh đã phác thảo kế hoạch mở lớp, rồi các lớp học dần hình thành và hoạt động. Với hoàn cảnh lúc đó, trường học thật đơn sơ: một lán nhỏ lợp bằng lá rừng, sàn bằng các khúc gỗ nhỏ đặt sát nhau. Lớp học dự phòng là một hang đá - để phòng lúc thời tiết xấu hoặc khi giặc lùng sục thì rút vào đó. Học viên dự huấn luyện mang theo gạo, ngô, muối, rau để tự túc, một phần trích ra để nuôi thầy, đồng thời họ còn tăng gia sản 35
  36. xuất để tự cải thiện. Lúc đầu chưa có giấy bút. Bác gợi ý cho thầy trò lấy than củi, que cứng làm bút, dùng mặt đá nhẵn, mặt đất phẳng làm giấy. Trời rét quá thì đốt lửa cho ấm để học, vừa có than để viết. Bác quy định Tổ giáo viên, mỗi tuần cùng Bác hội ý một lần về kết quả học tập và tình hình sức khoẻ của học viên. Ai làm tốt, Bác khen, làm chưa tốt, Bác chỉ bảo, uốn nắn. Bác trò chuyện với người học để biết kết quả dạy của giáo viên. Thường sau buổi học, Bác hỏi học viên có hiểu bài không. Nếu nhiều người không hiểu, Bác giải thích thêm. Cuối ngày, Bác căn dặn tổ giáo viên: "Làm thầy phải hiểu trò, các chú lên lớp mà cứ thao thao bất tuyệt chuyện trong nước và thế giới thì không ai hiểu cặn kẽ đâu. ở đây già có, trẻ có, ta phải tìm ra nội dung thích hợp dạy cái gì cho thiết thực, dễ hiểu". Ngoài việc mở lớp cho người lớn tuổi, Bác còn gợi ý mở lớp cho trẻ em ở bản. Bác khuyên: "Trẻ em là tương lai của nước nhà, đạo làm cha mẹ ai cũng mong con em được học hành. Con em nhân dân được ăn học sẽ ủng hộ cách mạng. Điều cần thiết khi tổ chức lớp là làm sao cho trò ham học, thầy ham dạy". Bác tham gia soạn bài giảng cho tổ giáo viên. Một số buổi, Bác trực tiếp dạy lịch sử nước nhà, với lời mở đầu: "Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam" và bài địa lí Cao Bằng: "Cao Bằng đông bắc giáp Tàu Hà Giang, Bắc Cạn ở vào phía Tây" Đây là những tài liệu do Bác soạn và đem dạy ở các lớp, được các học viên thuộc mọi lứa tuổi thích thú. Một số học viên kể lại: Bác quy định mỗi học viên trong ngày phải học thuộc một đoạn thơ hoặc về địa lí, hoặc về lịch sử. Vào buổi sáng tiếp đó, mọi người ngồi thành vòng tròn để cùng kiểm tra lẫn nhau, dưới sự điều khiển của Bác. Bác cho một người xung phong đọc trước, rồi lần lượt theo phía tay phải, ai cũng phải đọc phần kể của mình. Bác chấm kết quả với thang điểm: Người nhớ tốt, đọc lưu loát đạt mức được "đi máy bay", trung bình "đi ôtô", ngắc ngứ nhiều "đi xe bò". Những người đạt mức "đi xe bò", Bác nhắc hôm sau phải cố gắng hơn. Cách cho điểm của Bác, không làm ai xấu hổ, vì ai cũng được "đi" bằng một phương tiện vận chuyển nhất định, chỉ khác nhau về tốc độ mà thôi, nên vẫn khích lệ được sự cố gắng của từng người, đồng thời cũng động viên mọi người phải chăm học. 36
  37. Tháng 8/1942, Bác sang Trung Quốc liên lạc với những người Việt Nam đang là lực lượng kháng Nhật ở đó. Trước khi đi, Bác dặn đồng chí Cao Hồng Lĩnh và các giáo viên trong tổ: "Ta còn nghèo, chưa có tiền để giúp dân, nhưng có những điều ta đáp ứng được nguyện vọng của dân. Đó là việc dạy cho họ và con em họ học chữ và giác ngộ họ về mục tiêu cách mạng. Đoàn thể phát triển đến đâu, cần tổ chức các lớp học ngay đến đó". Đồng chí Cao Hồng Lĩnh kể lại: "Trường học giữa rừng Pắc Bó (1941), về sau này phát triển mạnh ra các vùng khác của Cao Bằng. Đầu năm 1944, tại châu Hồng Phong (nay là huyện Hà Quảng), có hàng trăm người đi học và châu Hồng Phong được gọi là nơi gieo mầm văn hoá". Từ điểm sáng Nhà trường Pắc Bó (1941), đến nay nền giáo dục cách mạng, cả nước ta đã có trên 15.000 nhà trường. Điều hành mạng lưới nhà trường này có hàng vạn cán bộ quản lí giáo dục. Tất cả trường sở hôm nay không phải đơn sơ như trường Pắc Bó hồi nào, có nhiều trường tuy còn khó khăn, nhưng đã to lớn hơn nhiều. Nội dung, phương pháp và điều kiện đào tạo đã khác xa so với trường Pắc Bó trước đây, song vấn đề quản lí các yếu tố này vẫn là chuyện nóng hổi và thực tế câu chuyện quản lí nhà trường Pắc Bó do Bác Hồ điều hành luôn là bài học hữu ích cho mọi cán bộ quản lí giáo dục. Xin rút ra đôi điều thu hoạch: 1- Người cán bộ quản lí (CBQL) của bất cứ nhà trường nào phải luôn luôn có quan điểm hệ thống về quá trình đào tạo. 5 Điều Bác căn dặn tổ giáo viên nói trên thực sự nhắc nhở mỗi CBQL và giáo viên phải biết điều hành đồng bộ các vấn đề: đối tượng, nội dung, phương thức, môi trường, và điều kiện đào tạo. Hiện nay có không ít CBQL nhà trường lúng túng trước "mê cung" công việc nhà trường, không tìm ra lối gỡ và chạy vòng quanh những cái không phải là thiết yếu của việc đào tạo. Phong cách quản lí không tiếp cận hệ thống; không nắm lấy khâu ưu tiên và trọng yếu trong hoạt động đào tạo thì không thể nào tạo ra hiệu quả và chất lượng đào tạo đích thực. 2/. Tính ưu việt và cũng là nét nổi bật trong tiến trình xây dựng nhà trường mới nửa thế kỉ qua là ta đã phát triển kiểu giảng dạy từ phương thức "sư phạm quyền uy" chuyển sang phương thức "sư phạm của tình bạn, dân chủ". Học sinh - người học trong quá trình tiếp nhận tri thức, vừa là đối tượng đào tạo cũng là chủ thể đào tạo. Nền giáo dục Việt Nam mới trong bất kì hoàn cảnh nào cũng tuân theo phương châm "Làm phát triển những năng lực sẵn có của các em" (Thư Bác Hồ gửi học sinh nhân ngày khai trường, 9/1945). Những luận điểm "Tất cả vì học sinh thân yêu", "Dạy học lấy học sinh làm trung tâm", không phải là khẩu hiệu đơn thuần. Chúng chứa đựng tính nhân văn cao cả và hành động cách mạng trong phương pháp đào tạo của nhà trường Việt Nam. Ngày 37
  38. nay ở Việt Nam vận dụng quan điểm của UNICEF xây dựng "Trường học thân thiện - Học sinh tích cực". Thật ra triết lý này đã có ở Việt Nam và người khai sinh ra nó là Bác Hồ kính yêu. Để đạt mục tiêu này, vai trò quản lí nhà trường của người CBQL là rất quan trọng. Người CBQL phải là tác nhân lãnh đạo gắn kết thầy và trò để những lực lượng này hợp tác thiện chí, chặt chẽ; biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Muốn vậy, người CBQL phải hỗ trợ giáo viên, để họ phối hợp hài hoà quyền uy và sự khoan dung, hiểu được học sinh để có kế hoạch và phương pháp dạy học sinh đạt kết quả theo hoàn cảnh và nhu cầu của họ. Người CBQL còn phải quan tâm sát sao tới học sinh, rèn luyện cho họ sự bạo dạn và bản lĩnh trong ứng xử thực hiện kỹ năng đời sống. 3/. Công việc Bác điều hành trường Pắc Bó là bài học sâu sắc cho người CBQL nhà trường, đó là biết phát huy cái tâm của thầy vì sự tiến bộ của người học, đồng thời tạo ra viễn cảnh cho trò dù là một đơn vị kiến thức nhỏ; đây chính là cái gốc để có được động lực dạy và học trong nhà trường (cách kiểm tra và cho điểm của Bác vừa đúng nguyên tắc dạy học tạo ra viễn cảnh, vừa độc đáo). Dân chủ hoá sự phát triển giáo dục, dân chủ hoá quản lí nhà trường, một cuộc vận động lớn của ngành GD&ĐT. Cuộc vận động này có nhiều thành tựu, cần được tổng kết. Trong việc tổng kết, những người CBQL giáo dục, quản lí các nhà trường nên thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, nhân dịp Người đến dự lễ khai mạc Trường Đại học Nhân dân Việt Nam (ngày 19/01/1955): "Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu, điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải "cá đối bằng đầu "Muốn có bầu không khí dân chủ này thì người hiệu trưởng phải luôn luôn là tác nhân chủ đạo gắn kết các lực lượng sư phạm trong nhà trường". Sự chỉ đạo của Bác với "Nhà trường Pắc Bó" dù đã lui xa gần bảy thập kỷ nhưng ý tưởng của sự chỉ đạo này với nhà trường Việt Nam hôm nay vẫn giữ nguyên tính sinh động của nó. VI. VĂN HOÁ QUẢN LÝ HỒ CHÍ MINH : CỘNG HƯỞNG NHÂN VĂN LÝ TƯỞNG QUẢN LÝ & HÀNH ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO NHÀ TRƯỜNG Nói đến văn hoá quản lý là nói đến những nét đẹp trong lý tưởng quản lý và hành động quản lý đạt đến các mục tiêu nhân văn và hiệu quả đích thực. Bác Hồ đãhội tụ một cách sâu sắc hài hoà những khía cạnh này trong cuộc đời mình. Xin trình bầy dưới đây những thu hoạch về đặc trung văn hoá quản lý Hồ Chí Minh. 38
  39. 1/. Quản lý là sự đi thức tỉnh tâm hồn con người. Một học giả nước ngoài nhận xét : " Hồ Chí Minh cụ không chỉ là một người chỉ huy, cụ là người đi thức tỉnh tâm hồn con người". Quản lý học hiện đại ngày nay thường đề cập kiểu quản lý "SM" (Soul management). Đó là sự quản lý kết hợp hài hoà Đức trị và Pháp trị, sự quản lý khêu gợi được lương tâm, thúc đẩy được được lương năng và phát triển được lương tri của con người. Hồ Chí Minh không để lại chuyên luận riêng về quản lý song Người có những thông điệp, có những lời dạy và chính cuộc đời, tấm gương đạo đức của Người là một tập Đại thành về quản lý theo tinh thần "SM". Người có lời dạy: "Mỗi con người có cái thiện , cái ác ở trong lòng ta phải làm sao cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi" (Toàn tập tập 12. trang 558). Theo Hồ Chí Minh người quản lý có hai nhiệm vụ chủ yếu: "Tu thân và Xử thế". Tu thân chính là sự tự quản lý và Xử thế là tác động đến các quan hệ người trong quá trình quản lý . Sự tu thân được Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong thông điệp. "Dục thành đại sự nghiệp Tinh thần cảnh yiếu đại" (Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần phải cao. Toàn tập tập 3. tr265). Sự Xử thế được Người lưu ý trong thông điệp: "Xử thế nguyên lai phi dị dị Nhi kim xử thế cánh nan nan" (Xử thế tư xưa không phải dễ, mà nay xử thế khó khăn hơn. Tập 3 Tr 271) Hồ Chí Minh coi sự xử thế luôn luôn khó khăn bởi vì cuộc sống vận động không ngừng. Nagỳ hôm nay phức tạp hơn ngày hôm qua do quan hệ người rất đa dạng. Chung quanh người quản lý có năm nhân vật: Đối thủ, Đối tác, Đồng minh, Đồng chí, Tri âm tâm giao. Người quản lý phải có sự tỉnh táo và khéo léo đưa đối thủ thành đối tác, đưa đối tác thành đồng minh, đưa đồng minh thành đồng chí, đưa đồng chí thành tri âm tâm giao theo phương châm: "Sống không ngoan, sống bao dung, sống tử tế, sống hẳn hoi". Hồ Chí Minh đã sống như vậy trong cuộc đời mình và giáo dục cho đồng chí, cho học trò làm theo mình. 39
  40. Sự quản lý của Hồ Chí Minh nhằm làm cho con người trước việc sai, việc xấu không dám làm, không nỡ làm, không thể làm, còn trước việc đúng việc tốt thì tự giác làm, tự nguyện làm, tự tin làm. Hồ Chí Minh biết phối hợp cả đạo lý, cả pháp lý , cả công lý tác động đến con người để thực hiện mục tiêu trên. 2/. Quản lý Đúng và Khéo. Đúng và Khéo là các từ Người đã sử dụng nhiều lần trong chuyên luận "Sửa đổi lối làm việc". Chuyên luận này được Người viết tại chiến khu Việt Bắc năm 1947 khi Kháng chiến chông Pháp mới bùng nổ Tác phẩm nhanh chóng trở thành cẩm nang quản lýổch cán bộ các cấp Đảng và Chính quyền. Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới tác phẩm vẫn giữ nguyên tính thời sự. Giáo trình quản lý hiện đại thường có lời khuyên: "Người quản lý phải chọn được việc đúng mà làm và làm đúng, làm tốt việc đã chọn" (Righit Doyng - Doyng Righit ). Tinh tế thay ý này đã được Hồ Chí Minh nói từ năm 1947. "Đảng ta hy sinh tranh đấu đoàn kết lãnh đạo nhân dân tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đó đã có kết quả vẻ vang. Nhưng nếu mỗi cán bộ mỗi đảng viên làm việc đúng hơn khéo hơn thì thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa. Cán bộ đảng viên làm việc không đúng không khéo thì còn nhiều khuyết điểm" (Tập 5 Tr 233). Quản lý bất kỳ công việc gì xét cho cùng là xử lý hai phạm trù: Cái gì và cách gì tức là chọn nội dung gì và phương pháp nào trong điều hành . Nếu hai phạm trù này đều có giá trị (+) thì mục tiêu đặt ra có kết quả. Nếu nội dung (+) mà phương pháp (-) hoặc nội dung (-) mà phương pháp (+) thì cũng không thành công. Sẽ có nhiều khuyết điểm và hạn chế nếu nội dung (-) và phương phâp (-); Điều mà Bác chỉ ra là không đúng và không khéo. Để làm việc Đúng và Khéo Bác căn dặn cán bộ (tức là người quản lý) phải có lòng tự trọng và tự tin. Bác dạy: "Ai cũng phải có lòng tự trọng và tự tin, không có lòng tự trọng và tự tin là người vô dụng" (Tập 5 Tr 282). Người cảnh báo mười hai bệnh mà cán bộ quản lý gặp phải sẽ hỏng việc đó là: (i). Bệnh ba hoa (ii). Bệnh địa phương (iii). Bệnh ham danh vị 40
  41. (iv). Bệnh thiếu kỷ luật (v). Bệnh cẩu thả (vi). Bệnh xa quần chúng (vii). Bệnh chủ quan (viii). Bệnh hình thức (ix). Bệnh ích kỷ (x). Bệnh hủ hoá (Hủ lậu - tha hoá bt) (xi). Bệnh thiếu ngăn nắp (xii). Bệnh lười biếng Người nhắc nhở: "Mắc phải một bệnh trong mười hai bệnh đó là hỏng việc. Vì vậy chúng ta phải ráo riết phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh này" (tập 5 Tr 267) Trong Tác phẩm Sửa đổi lối làm việc Người còn có những lời bàn sâu sắc về công tác tổ chức cán bộ, cách dùng người cách lãnh đạo nói chung, kiểm soát nói riệng theo tinh thần cầu thị thực tiễn nhân văn. Có tới hai lần Bác căn dặn cán bộ: "Học ăn, Học nói, Học gói, Học mở" (Tập 5 Tr 247, Tr 301) Học ăn tức là học cách lĩnh hội vấn đề Học nói là học cách diễn đạt vấn đề. Học mở là học cách triển khai vấn đề. Học gói là học cách kết thúc vấn đề Trước đó trong năm 1946 khi Cách mạng mới giành được chính quyền Người có những phát biểu khuyên cán bộ quản lý những việc rất tinh tế như sau: *. Người dặn: "Phải cần mà phải cẩn" (Tập 4 Tr 39) Người yêu cầu cán bộ quản lý vừa chăm chỉ, vừa cẩn thận trong công việc. *. Người lưu ý: "Tự động mà không được tự tiện" 41
  42. Theo người: "Tự động là không phải tựa vào ai là tự minh biết biến báo xoay sở tự mình bết thực hành công tác theo nhiều hình thái mới mẻ phong phú Phải rèn luyện tinh thần tự động mạnh mẽ nhưng phải bỏ tính cái gì cũng tự tiện" (Tập 4 Tr 40,41). *. Người nhắc nhở sự kết hợp: "Lãnh đạo kỹ thuật và lãnh đạo tinh thần" (Tập 4 Tr.149) Ý tưởng này trong quản lý hiện đại thường nói người quản lý phải có naqưng lực chuyên môn và năng lực liên nhân cách. *. Người yêu cầu cán bộ quản lý thực hiện được ba việc. - Khổ cán - Hạnh cán - Thực cán Bác giải thích: "Khổ cán là làm việc hết sức mình, Hạnh cán là làm việc có chất lượng, Thực cán là làm việc có năng suất hiệu quả" (Tập.4 Tr.152) *. Bác dặn cán bộ quản lý: "phải biết chứng mực" (Tập.4 Tr.358) Bác lấy chuyện một vị tướng tài danh vì ngông cuồng không biết "Tri túc và Tri chỉ" (biết đủ biết dừng) nên sự nghiệp đã thảm bại để khuyên cán bộ phải biết chừng mực khi tiến hành công việc và ứng xử. Ngày nay sách báo quản lý hiện đại thường có lời khuyên. Người quản lý phải biết "Tri độ", "Tri giới hạn", phải ý thức "Cốc nước đã đầy chỉ thêm một giọt là tràn ly" . 3/. Quản lý là biết "công thủ vận trù". Trong tác phẩm Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) viết năm 1944, Bác có bài thơ Học dịch kỳ (Học đánh cờ). Bài thơ ngắn chỉ có 12 câu song có thể coi là một "Đại giáo khoa" có tính hiện đại cho người cán bộ quản lý. Xin rút ra một số thu hoạch sau về bài thơ này và sự vận dụng vào quản lý nhà trường. Nguyên văn bài thơ chữ Hán: I Bế tọa vô liêu học dịch kỳ Thiên binh vạn mã cộng khu trì Tấn công thoái thủ ưng thần tốc 42
  43. Cao tài, tất túc tiên đắc chi. II Nhãn quang ưng đại, tâm ưng tế Kiên quyết thời thời yếu tấn công Thác lộ song xa đà một dụng Phùng thời nhất tốt khả thành công. III Song phương thế lực bản bình quân Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân Công thủ vận trù vô lậu toán Tài xưng anh dũng đại tướng quân. Dịch nghĩa: I Bị tù túng, ta học đánh cờ. Thiên binh vạn mã cùng đuổi nhau Tấn công thoái thủ phải hết sức thần tốc. Tài cao, chân nhanh thì được trước II Nhìn phải rộng, nghĩ phải kỹ. Kiên quyết không ngừng chí tấn công; Để mất "nước" thì hai quân xe cũng vô dụng. Gặp "thời" chỉ một quân tốt cũng thành công. III Thế lực hai bên vốn ngang nhau. Kết cục thắng lợi chỉ về một người Phải vận trù trong tấn công phòng thủ. Không để sơ hở mới đáng gọi là đại tướng anh hùng. * 43
  44. * * 2/. Với 3 khổ thơ bốn câu, nhà thơ đưa ta từ chuyện chơi cờ đến những vấn đề trọng yếu của công tác chỉ huy, quản lý. Xin được thu hoạch đôi điều từ góc độ hoạt động quản lý giáo dục (QLGD). a/. QLGD là việc triển khai các mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo theo một thời hạn nhất định nhằm đạt được kết quả mong đợi. Người quản lý cơ quan giáo dục, quản lý nhà trường điều phối nhân lực, tài lực, vật lực của xã hội tổ chức thành đội ngũ, bộ máy, hệ thống, thực hiện kế hoạch đào tạo đã vạch ra. Hiện thực được kế hoạch đào tạo vào cuộc sống thì "thắng lợi", nếu không thì "thua". Công việc CBQLGD xét cho cùng cũng giống người chơi cờ điều khiển "tướng sĩ tượng, xe pháo mã tốt" dồn đối phương vào nước chiếu hết. Cái khác của CBQLGD ở chỗ: Đối phương của họ là sự dốt nát, sự tha hoá, sự không ổn định của phát triển giáo dục. Trong công việc của mình, ở bất cứ hoàn cảnh nào người CBQLGD cũng phải "móc chắc" vào thời gian, nhạy bén bao quát trong điều hành trên cơ sở kết hợp chặt chẽ trí và lực; biến các phương tiện đào tạo thành tác động tổng hợp vào đối tượng đào tạo, tạo ra hiệu quả cao nhất. Đọc khổ thơ: "Tù túng đem cờ học đánh chơi Thiên binh vạn mã đuổi nhau hoài Tấn công thoái thủ nhanh như chớp Chân lẹ tài cao ắt thắng người" chắc chắn mỗi CBQLGD cảm nhận được sự cấp thiết phải quán triệt quy luật kinh tế thời gian đang đặt ra khá khắc nghiệt với quá trình đào tạo đi tới nền kinh tế tri thức. b/. Ý chí kiên quyết thành đạt được các mục tiêu (sự tấn công) trong kế hoạch phát triển và đào tạo có tính nguyên tắc trong hành động thường xuyên của CBQLGD. Tuy nhiên "sự tấn công" phải đặt trên cơ sở có tầm nhìn rộng, có suy nghĩ sâu. Sự thiển cận và nông cạn đối với hoạt động QLGD sẽ đem lại bi kịch không phải chỉ cho một thiểu số người mà cho đông đảo người khi nền giáo dục đã được phổ cập. Cần "Tri Kỷ, Tri Bỉ, Năng Nhược, Năng Cường" tức là biết được chủ quan điểm nào mạnh (M), điểm nào yếu (Y), biết được khách quan cái gì là cơ may (C), cái gì là đe dọa (Đ) đối với cơ quan mình, nhà trường mình là điều cần thiết đầu tiên với CBQLGD. Kết quả quá trình trên giúp cho người CBQLGD "tri thế - tri thời", có giải pháp cho quá trình phát triển đào tạo diễn ra hợp lý. 44
  45. Những sự kiện giáo dục thực tế đã cho ta thấy khi người chỉ huy "lạc nước" thì dù có giáo viên giỏi, có kinh phí nhiều, có cơ sở vật chất sư phạm bề thế vẫn bị thất bại. Trái lại nhiều trường hợp người chỉ huy biết tận dụng tranh thủ thời cơ thì điều kiện đào tạo có bình thường, bất cập vẫn phát triển nhà trường, địa phương mình thành đơn vị giáo dục anh hùng. Khổ thơ: "Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ Kiên quyết không ngừng thế tiến công Lạc nước hai xe đành bỏ phí Gặp thời một tốt cũng thành công" mang ý nghĩa như một bài dạy hàm súc về phân tích "MYCĐ" (SWOT) một kiến thức rất cơ bản về quản lý cho mọi CBQLGD (thường gọi là phân tích điểm "Mạnh" - Strong; điểm "Yếu" - Weak; "Thời cơ" - Opportunity; "Đe dọa" - Threat). c/. Điều hành cơ quan giáo dục, điều hành nhà trường là điều hành một hệ thống động phức tạp và rất đa dạng. Nội lực, ngoài lực chủ quan, khách quan tích hợp vào nhau hình thành bốn trạng thái sau: Chủ quan S (Mạnh) W (yếu) Khách quan O Mạnh và có thời cơ tốt Yếu song có thời cơ tốt (Thời cơ) (SO) (WO) T Mạnh song có đe dọa Yếu và có nhiều đe dọa (Đe dọa) (ST) (WT) - SO (chủ quan mạnh, khách quan có thời cơ tốt) - WO (chủ quan yếu, khách quan có thời cơ tốt) - ST (chủ quan mạnh, khách quan có nhiều đe dọa) - WT (chủ quan yếu, khách quan có nhiều đe dọa) Gặp trạng thái (SO) người CBQL phải biết phát triển mục tiêu (tấn công), đưa giáo dục và nhà trường tới các chất lượng mới. Gặp trạng thái (WO) hoặc (ST) phải biết kiên trì mục tiêu song có sự thận trọng trong việc chọn lựa phương án hành động để ổn định thích ứng hoặc ổn định tăng trưởng giáo dục và nhà trường. 45
  46. Còn gặp trạng thái (WT) phải biết điều chỉnh mục tiêu, cân nhắc kỹ các giải pháp thực hiện để ổn định giáo dục và nhà trường. Như vậy, chỉ đạo tổ chức quá trình đào tạo thực chất là sự "công thủ" về mặt kinh tế - sư phạm. Người quản lý phải nhằm tới sự cân bằng động của hệ thống. Quan điểm "vận trù" công thủ phải được quán triệt vào các khâu khác nhau từ thiết kế chương trình nội dung đào tạo đến tổ chức bài học, giờ học. Quan điểm này đòi hỏi người CBQLGD biết phân tích thật khoa học từng hiện tượng, sự kiện giáo dục; vạch ra các mâu thuẫn, gây cấn, xung đột, tìm ra xu hướng phát triển của sự kiện, lượng hoá được kết quả mong đợi theo các phương án giải quyết khác nhau, không để cho hệ thống bị rò rỉ, sơ hở, mất ổn định. Khổ thơ: "Vốn trước hai bên ngang thế lực Mà sau thắng lợi một bên giành Công thủ vận trù không sơ hở Đại tướng anh hùng mới xứng danh" như lời nhắn nhủ mỗi CBQLGD phải rèn luyện Chí & Minh, biết "vận trù" trong tổ chức, ra quyết định hợp lý đối với quá trình đào tạo. Người CBQLGD sẽ có niềm vui "Đại tướng anh hùng" khi quyết định quản lý mang lại kết quả cho nền giáo dục, cho nhà trường, đem lại hạnh phúc cho học sinh, cho gia đình họ. Chúng tôi xin được thu hoạch thêm về câu thơ "Công thủ vận trù vô lậu toán". Câu thơ này ở các bản dịch đang ấn hành viết là: "Tấn công phòng thủ không sơ hở"; Khái niệm vận trù đã bị mất đi trong nguyên tác mà Bác thể hiện. "Vận trù" được Bác nói đến một lần nữa vào những ngày cuối đời. Ngày 30/7/1969, tiếp nhà toán học Hoàng Tuỵ đến báo cáo "Dự án vận trù học" phân phối hàng hoá để góp phần giải quyết chen chúc trước các cửa hàng, Người khuyên nên tìm cách diễn đạt "Vận trù học" cho dễ hiểu ở Việt Nam. Người cho biết Trương Lương (chiến lược gia của Lưu Bang Hán Cao Tổ - Bt) đã nói câu: "Vận trù ư duy ác chi trung Quyết thắng ư thiên lý chi ngoại" (Ngồi trong màn trướng biết vận trù để chiến thắng ngoài ngàn dặm - Bt) Người nói thêm: Vận trù cũng là tham mưu. Bộ đội ta có nhiều người không học tính toán được nhiều mà làm vận trù cũng khá là nhờ cái này. Rồi Người chỉ vào trái tim mình. 46
  47. (Tư liệu Biên niên tiểu sử, tập 10, tr 385) Điều mà Bác Hồ nói với nhà toán học Hoàng Tuỵ là vấn đề thông minh cảm xúc (Emotion quotient - EQ). Đây là sự thông minh rất cần thiết cán bộ quản lý. CBQLGD không phải chỉ có thông minh trí tuệ (IQ) mà còn cần có thông minh cảm xúc EQ trong điều hành vận trù hoạt động nhà trường. "Vận trù" là sự biết vận động tích cực và trù tính liệu định một cách chu đáo. CBQLGD tích cực vận động nhưng không biết lo liệu chu đáo sẽ không thành công. Tuy nhiên lo liệu chu đáo mà không năng động thì công việc cũng không tiến triển tốt. "Vận trù" khi được sự chỉ đạo bởi lý tưởng nhân văn trong sáng sẽ đem lại kết quả tích cực cho đời sống cộng đồng, cho đời sống sư phạm của nhà trường. VII. PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TỪ QUAN ĐIỂM ĐẾN CHIẾN LƯỢC HÀNH ĐỘNG: SỰ TƯƠNG ĐỒNG TRONG Ý TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ UNDP 1/. Quan điểm về phát triển con người của Liên Hợp quốc Hội nhập vào trào lưu chung của nhân loại từ nghiên cứu sức lao động - vốn con người, nguồn nhân lực đến nghiên cứu về phát triển con người, hơn một thập niên qua từ những năm 90 của thế kỷ trước, ở nước ta đã quảng bá rộng rãi các quan điểm về phát triển con người (Human Development - HD) và quan điểm về chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) mà UNDP (Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc) đã xây dựng và phổ biến. Ý tưởng của UNDP về vấn đề này có thể khái quát như sau: a. Sự phát triển con người - phát triển nhân văn là sự phát triển của con người, do con người và vì con người. b. Sự phát triển con người là sự bao quát vừa nâng cao năng lựa lựa chọn của con người vừa mở rộng cơ hội lựa chọn của con người. c. Sự phát triển con người gắn liền với quá trình dân chủ hóa xã hội, sự phát triển bền vững của cộng đồng, tổ chức cho mọi công dân tích cực, chủ động tham gia vào các quá trình xã hội làm tăng tiến vốn xã hội, vốn tổ chức mà con người là thành viên của xã hội, của tổ chức đó. d. Sự phát triển con người nhằm vào sự đáp ứng không ngừng các nhu cầu của con người từ nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở đến các nhu cầu được giao lưu, được khẳng định, được thăng tiến, được sáng tạo. 47
  48. đ. Sự phát triển con người phải được lượng hóa (đo đạc) thông qua các chỉ số, từ các chỉ số cơ bản về thu nhập, về giáo dục, về tuổi thọ đến các chỉ số khác bao quát những mặt khác nhau của đời sống văn hóa, an ninh về môi trường tự nhiên, môi trường xã hội của con người. UNDP đã chọn ba phương diện: Sức khỏe, học vấn và mức sống là những thành tố quan trọng, tiêu biểu để phản ánh thành tựu về phát triển con người của các cộng đồng, quốc gia khi thực hiện ý tưởng đo đạc phát triển con người bằng chỉ số HDI, chỉ số phát triển con người. Sự ra đời chỉ số HDI và việc xây dựng các Báo cáo phát triển con người (Human Development Report - HDR) đánh dấu một bước tiến trong tư duy về phát triển con người của nhân loại. ý tưởng đo đạc phát triển con người bằng hệ thống chỉ số HDI đã nhanh chóng được nhiều quốc gia và cộng đồng nghiên cứu áp dụng. Từ 1990 đến nay, đã có hàng trăm Báo cáo phát triển con người cấp quốc gia và dưới quốc gia do 120 nước ấn hành hàng năm.người thầy 2/. Tư Tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người Điều rất may mắn cho chúng ta là trong quá trình tiếp cận những ý tưởng về phát triển con người mà UNDP đang quảng bá và đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi của cộng đồng quốc tế, chúng ta có di sản quý báu là tư tưởng về vấn đề phát triển con người Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Di sản này là kim chỉ nam cho chúng ta: Một mặt để chúng ta tiếp thu thuận lợi các ý tưởng hay của nhân loại trên nền tảng tâm thức Việt Nam; mặt khác để chúng ta có cơ sở phương pháp luận đúng đắn hoạch định các chính sách phát triển con người Việt Nam phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tư tưởng về con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh của quan điểm Mác - Lênin, của nhiều tư tưởng phương Đông và phương Tây. Tư tưởng của Bác về con người, giải phóng và phát triển con người xuyên suốt quá trình từ khi là người thanh niên Nguyễn Tất Thành, đến nhà hoạt động cách mạng Nguyễn ái Quốc và Chủ tịch nước Việt Nam Hồ Chí Minh. Hãy bắt đầu từ lời trong Di chúc của Bác. Trước lúc đi xa Bác đã tha thiết căn dặn toàn Đảng, toàn dân: "'Đầu tiên là công việc đối với con người" (12, 503). Đây là điều tâm niệm có tính nhất quán trong suốt cuộc đời của Bác. Điều tâm niệm này được Bác cụ thể hóa bằng những kế hoạch hành động thiết thực để độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc cho con người ở những khía cạnh cụ thể: ăn, mặc, ở, học tập, việc làm 48
  49. Từ tháng 9/1945 và bước sang năm 1946, khi nước nhà mới độc lập, với trọng trách Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Bác đã xác định rõ đời sống ấm no, học vấn của người dân gắn bó mật thiết với tự do độc lập của dân tộc: "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn 2. Làm cho dân có mặc 3. Làm cho dân có chỗ ở 4. Làm cho dân có học hành Cái mục đích chúng ta đi lên là 4 điều đó. Năm 1947, trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài, cuộc kháng chiến chống Pháp mới bắt đầu, bảo vệ chính quyền, bảo vệ đất nước là nhiệm vụ vô cùng cấp bách, Bác kiên trì xác định mục đích của toàn Đảng, toàn dân ta không chỉ là phấn đấu cho sự no ấm mà còn phải quan tâm đến học vấn, đến thực hành dân chủ, những nền tảng cơ bản để nâng cao năng lực, để mở rộng cơ hội cho người dân tiến bộ, phát triển: "Sau hết, chương trình nội chính của Chính phủ và của quân dân ta chỉ có ba điều mà thôi. a. Tăng gia sản xuất để làm cho dân ai cũng đủ mặc đủ ăn. b. Mở mang giáo dục để cho ai nấy đều biết đọc biết viết. c. Thực hành dân chủ để làm cho dân ta ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do". Ba lĩnh vực cơ bản được UNDP coi là quan trọng nhất đối với phát triển con người đã được Bác khẳng định là nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ ta ngay từ năm 1955: "Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. - Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi. 49
  50. - Nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. - Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi. - Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi". Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói đến con người, phát triển con người là phải có các chính sách làm cho con người/nhân dân được ấm no, làm cho con người/nhân dân được học hành và làm cho con người/nhân dân có sức khỏe. Trong sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mọi suy nghĩ, tình cảm và công việc đều hướng về con người, phát triển con người. Và chính Bác, trước sau như một, cũng là người luôn nhìn thấy sức mạnh của nhân dân, tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước: "Để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân". Sức mạnh của nhân dân được Bác nhìn thấy từ thế hệ trẻ, từ những học sinh mới cắp sách đến trường: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em". Nếu nhớ rằng sau Chiến tranh thế giới thứ hai và cho đến nay, thế giới tích cực thực hiện cuộc chiến chống nghèo khổ. Tuy nhiên vẫn còn những nơi, những lúc người ta chấp nhận tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, quên con người là mục tiêu của phát triển, mới thấy hết ý nghĩa những lời dạy, tầm nhìn và tư tưởng sâu sắc của Bác. Bác có sự nhất quán trước sau như một, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời bình cũng như thời chiến, dù đất nước còn nghèo nàn nhưng mục tiêu tối cao mà Bác vạch ra là thực hiện sự phát triển phục vụ cho các mục tiêu chủ yếu của con người, mang lại ấm no, hạnh phúc, mang lại năng lực, cơ hội về học vấn, sức khỏe cho toàn dân. Bác luôn tin tưởng vào nhân dân, coi đó là lực lượng then chốt dựng nước và giữ nước. Thật tự hào thấy rằng với hành trang là tư tưởng về con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với thực tiễn xây dựng đất nước, từ năm 1990, chúng ta không hoàn toàn bỡ ngỡ khi hòa đồng vào dòng tư duy của nhân loại, khi tiếp cận với phạm trù phát triển con người (HD) và chỉ số phát triển con người (HDI). 50
  51. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Chí Minh , về vấn đề giáo dục , NXB Giáo dục Hà nội 1990 2. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Hà nội .2000 3. Võ Nguyên Giáp Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội,2000 4. Bộ Giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp giáo dục - Kỷ yếu Hội thảo khoa học năm 1990, Viện Khoa học giáo dục - Hà nội, Viện Nghiên cứu giáo dục phía Nam - TP Hồ Chí Minh 5. Đào Phan. Suy tưởng trước Ba Đình, NXB Văn hoá - Thông tin Hà nội .1998 6. Nguyễn Khắc Phi. Các tư liệu giới thiệu về Quản Trọng và sách Quản Trọng. 7. Nhiều tác giả. Danh nhân Hồ Chí Minh, NXB Lao động Hà nội .2000 8. Nhiều tác giả. Hồ Chí Minh với sự nghiêp giáo dục, NXB Sự thật - NXB Giáo dục Hà nội .1990 9. Nhiều tác giả. Những vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục Hà nội .1998 10. Phạm Minh Hạc. Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc gia Hà nội .1999 11. Vũ Ngọc Khánh. Minh triết Hồ Chí Minh, NXB Văn hoá - Thông tin Hà nội,1999 51
  52. CHUYÊN ĐỀ 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ TỔ CHUYÊN MÔN TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC I. MỤC TIÊU 1. Mục tiêu chung: Nâng cao hiểu biết cho TTCM về lãnh đạo, quản lý, quản lý giáo dục; Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của TCM trong trường THCS và THPT; Làm rõ chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của TTCM trong quản lý TCM thực hiện các nhiệm vụ theo các qui định hiện hành để định hướng cho việc học tập, bồi dưỡng tăng cường năng lực thực hiện nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục hiện nay. 2. Mục tiêu cụ thể: - Nắm được một số khái niệm về lãnh đạo, quản lý, quản lý giáo dục, người quản lý và vai trò của họ. - Hiểu được một số vấn đề khái quát về nhà trường phổ thông; vị trí vai trò, nhiệm vụ của TCM trong trường THCS và THPT (sau đây gọi là trường trung học). - Hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của TTCM trường trung học theo quy định hiện hành. - Ý thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của TTCM trong trường trung học, chủ động tích cực học tập để thực hiện tốt vai trò của mình trong điều hành hoạt động TCM đạt hiệu quả. II. NỘI DUNG 1. Khái quát về quản lý, lãnh đạo, quản lý giáo dục 1.1. Lãnh đạo Lãnh đạo là khả năng gây ảnh hưởng, động viên, chỉ dẫn, chỉ thị người khác hành động nhằm thực hiện mục tiêu mong muốn. Lãnh đạo là quá trình định hướng dài hạn cho chuỗi các tác động của công tác quản lý. 1.2. Quản lý Quản lý là quá trình tác động có kế hoạch, có chủ đích, hợp qui luật của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý, nhằm sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức, đưa tổ chức đạt đến mục tiêu đã xác định. Nói cách khác, quản lý là quá trình thực hiện các chức năng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra để đưa tổ chức đạt đến mục tiêu đã đề ra. 52
  53. Quản lý giáo dục là những tác động có hệ thống, có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý giáo dục đến hệ thống giáo dục nhằm làm cho hệ thống giáo dục vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học – giáo dục, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất. Như vậy để điều hành hoạt động của TCM môn hiệu quả, TTCM cần cả lãnh đạo và quản lý. Lãnh đạo thể hiện qua các hoạt động xác định tầm nhìn, sứ mạng, hệ giá trị, định hướng hoạt động của tổ để tập hợp các tổ viên cùng hướng về mục tiêu chung, tạo ra sự thay đổi cần thiết trong tổ để thích ứng và phát triển. Quản lý thể hiện qua các hoạt động thực hiện các chức năng để đảm bảo sự ổn định, nhất quán trong các hoạt động của tổ theo chương trình, kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu đã định. 1.3. Người quản lý và các vai trò Người quản lý là người làm việc trong tổ chức, điều khiển công việc của người khác và chịu trách nhiệm trước cấp trên về kết quả hoạt động của họ; chịu trách nhiệm trong việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra con người, tài chính, vật chất và thông tin của bộ phận hay tổ chức một cách có hiệu quả để đưa tổ chức đạt được mục tiêu đã đề ra. Các vai trò cơ bản của người quản lý Có nhiều cách tiếp cận để xác định về vai trò của người quản lý. Ở đây giới thiệu cách xác định vai trò theo Henry Mintzberg- một cách tiếp cận giúp người quản lý ở mọi cấp nhận thấy rõ trách nhiệm và yêu cầu năng lực thực hiện. Theo Mintberg, người quản lý có 10 vai trò chia làm 3 nhóm chính: + Vai trò quan hệ con người (interpersonal roles): bao hàm những công việc trực tiếp với những người khác. Nhà quản lý là người đại diện cho đơn vị mình trong các cuộc gặp chính thức (vai trò người đại diện); tạo ra và duy trì động lực cho người lao động nhằm hướng cố gắng của họ tới mục tiêu chung của tổ chức (vai trò người lãnh đạo); đảm bảo mối liên hệ với các đối tác (vai trò người liên lạc). + Vai trò thông tin (informational roles): bao hàm sự trao đổi thông tin với những người khác. Nhà quản lý tìm kiếm những thông tin cần thiết cho quản lý (vai trò người giám sát); chia sẻ thông tin với những người trong đơn vị (vai trò người truyền tin); và chia sẻ thông tin với những người bên ngoài (vai trò người phát ngôn). + Vai trò quyết định (dicisional roles): bao hàm việc ra quyết định để tác động lên con người. Nhà quản lý tìm kiếm cơ hội để tận dụng, xác định vấn đề để giải quyết (vai trò người ra quyết định); chỉ đạo việc thực hiện quyết định (vai trò người điều hành); phân bổ nguồn lực cho những mục đích khác nhau (vai trò người đảm bảo nguồn lực); và tiến hành đàm phán với những đối tác (vai trò người đàm phán). 53
  54. TTCM muốn hoàn thành nhiệm vụ quản lý tổ theo qui định cần làm tốt tất cả các vai trò này. Yêu cầu về phẩm chất, năng lực của người quản lý Về phẩm chất: -Tận tâm với nghề nghiệp và công việc được giao. -Sống có đạo đức, có văn hóa, tuân thủ pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội. - Có bản lĩnh, tự chủ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Về năng lực: - Năng lực chuyên môn kĩ thuật (hiểu biết về nội dung chuyên môn và phương pháp tác nghiệp có liên quan, có khả năng hướng dẫn, kiểm tra người khác thực hiện, có khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học và ứng dụng các công nghệ hiện đại trong công tác ). - Năng lực quan hệ con người ( tập hợp, định hướng dẫn dắt người khác thông qua giao tiếp, ứng xử, thiết lập và phát triển các mối quan hệ người - người, giải quyết xung đột, động viên khích lệ, tạo động lực cho nhân viên ). - Năng lực tư duy chiến lược (dự báo, xác định tầm nhìn, hoạch định chiến lược, sáng tạo và đổi mới ). Ở phần sau của các chuyên đề, các yêu cầu này sẽ được cụ thể hóa gắn với yêu cầu đối với TTCM để thực hiện được các nhiệm vụ theo quy định. 1.4. Các chức năng quản lý cơ bản Xét theo quá trình quản lý co bốn chức năng quản lý cơ bản mà người quản lý dù ở cấp quản lý nào cũng phải thực hiện, đó là: 1.4.1. Chức năng kế hoạch là quá trình xác định các mục tiêu và lựa chọn các biện pháp tốt nhất để đạt các mục tiêu đó. Nội dung thực hiện chức năng kế hoạch: - Phân tích bối cảnh, xác định mục tiêu phát triển tổ chức. - Lập các kế hoạch thực hiện mục tiêu. - Triển khai thực hiện kế hoạch. - Đánh giá, điều chỉnh kế hoạch (nếu cần). 1.4.2. Chức năng tổ chức là quá trình tiếp nhận, phân phối, sắp xếp các nguồn lực tạo ra một cơ cấu tổ chức thích hợp đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu đề ra để tổ chức phát triển. Nội dung chức năng tổ chức bao gồm: - Xây dựng cơ cấu tổ chức hợp lý và năng động, phù hợp với yêu cầu thực thi nhiệm vụ. - Xây dựng, phát triển đội ngũ đảm bảo yêu cầu của tổ chức. 54
  55. - Xác lập mối quan hệ và cơ chế hoạt động . - Tổ chức công việc khoa học. 1.4.3. Chức năng chỉ đạo Là quá trình tác động, ảnh hưởng tới hành vi thái độ của cấp dưới thông qua các hoạt động hướng dẫn, giúp đỡ, đôn đốc, động viên và thúc đẩy những người dưới quyền làm việc với hiệu quả cao nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Nội dung chức năng chỉ đạo: - Thực hiện quyền chỉ huy, giao việc và hướng dẫn triển khai nhiệm vụ. - Đôn đốc, động viên, kích thích tạo động lực làm việc cho nhân viên. - Giám sát, sửa chữa đảm bảo các hoạt động đúng hướng, bám sát yêu cầu thực thi kế hoạch của tổ chức. - Xây dựng môi trường thúc đẩy các hoạt động phát triển. 1.4.4.Chức năng kiểm tra là quá trình xem xét thực tiễn, đánh giá thực trạng, khuyến khích những cái tốt, phát hiện những sai phạm, điều chỉnh nhằm đạt tới những mục tiêu đặt ra và góp phần đưa toàn bộ hệ thống được quản lý lên một trình độ cao hơn. Nội dung thực hiện chức năng kiểm tra: - Xác định các tiêu chuẩn để đánh giá - Đánh giá kết quả thực tế: thu thập thông tin về đối tượng được kiểm tra; - So sánh kết quả đo đạc thực tế với chuẩn để phát hiện mức độ thực hiện tốt, vừa, xấu của các đối tượng quản lý: - Điều chỉnh. Bao gồm: tư vấn (uốn nắn, sửa chữa); thúc đẩy (phát huy thành tích tốt); hoặc xử lý. 1.5. Phương pháp quản lý Là tổng thế các cách thức tác động có thể có và có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý để triển khai thực hiện các nhiệm vụ của tổ chức đạt được các mục tiêu đã đề ra. Theo nội dung và cơ chế tác động có thể đề cập đến 3 phương pháp quản lý chủ yếu: - Phương pháp hành chính. - Phương pháp tâm lý- xã hội. - Phương pháp kinh tế. Tùy theo điều kiện, đối tượng quản lý, tình huống, khả năng mà TTCM lựa chọn, kết hợp các phương pháp quản lý để đạt hiệu quả quản lý. 2. Khái quát về trường THCS và THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân 2.1 Mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục 55