Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động kinh doanh thương mại

pdf 300 trang Đức Chiến 04/01/2024 960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động kinh doanh thương mại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfvan_de_bao_ve_quyen_so_huu_tri_tue_trong_hoat_dong_kinh_doan.pdf

Nội dung text: Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động kinh doanh thương mại

  1. VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
  2. 3 BỘ CÔNG THƯƠNG VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI (BỘ SÁCH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ) NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG HÀ NỘI - 2010
  3. 4 Mã số: HN 03 ĐH 10
  4. 5 LỜI NÓI ĐẦU Ngày 11 tháng 01 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này mở ra cơ hội to lớn trong việc phát triển kinh tế đất nước nhưng chúng ta phải đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội trong hoạt động thương mại, đặc biệt là tuân thủ các cam kết quốc tế về bảo vệ Quyền Sở hữu trí tuệ. Việc cam kết bảo hộ các Quyền Sở hữu trí tuệ trước hết là do nhu cầu của sự phát triển và giao lưu quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế, thương mại diễn ra ngày càng sôi động. Bảo hộ quốc tế Quyền Sở hữu trí tuệ là một hoạt động có tính tất yếu, khách quan, không ngừng được phát triển, thể hiện trên hai hướng: mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ bằng các thiết chế quốc tế và không ngừng chi tiết hoá nội dung bảo hộ. Điều này, ngày càng gắn chặt với quan hệ thương mại song phương, khu vực và toàn cầu. Việc gắn bảo hộ sở hữu trí tuệ với thương mại quốc tế, một mặt, sẽ tạo điều kiện để có những cơ chế bảo hộ quốc tế hữu hiệu hơn về sở hữu trí tuệ, mặt khác, cũng sẽ gây ra rất nhiều sức ép và khó khăn cho các nước có trình độ khoa học công nghệ thấp, đang trong quá trình hội nhập kinh tế phải thực thi các cam kết quốc tế về sở hữu trí tuệ như Việt Nam. Việc hội nhập sâu hơn vào các quá trình kinh tế quốc tế được coi là một trong những nhiệm vụ chiến lược cấp bách và có tầm quan trọng hàng đầu hiện nay của Nhà nước ta. Sau hơn 20 năm đổi mới, đến nay Nhà nước ta đã thiết lập được một hệ thống bảo hộ Quyền Sở hữu trí tuệ khá đầy đủ. Xét ở phương diện lập pháp, hệ thống bảo hộ Quyền Sở hữu trí tuệ của Việt Nam không khác biệt nhiều lắm so với các hệ thống hiện có tại nhiều nước, kể cả các nước phát triển. Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia vào rất nhiều các điều ước quốc tế quan trọng. Hệ thống pháp luật trong nước về bảo hộ và thực thi Quyền Sở hữu trí tuệ ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, xét về tính hiệu quả, hệ thống bảo hộ Quyền Sở hữu trí tuệ của Việt Nam đang đứng trước những thách thức và đòi hỏi lớn, cần được tiếp tục hoàn thiện. Việc đổi mới tổ chức, cơ chế và phương thức bảo hộ Quyền Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam phải được giải quyết trên cơ sở phân tích một cách khách quan thực trạng hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiện có, rút ra những nguyên nhân, đánh giá các ưu điểm và nhược điểm của hệ thống này và kinh nghiệm quốc tế; từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao và hoàn thiện cơ chế thực thi Quyền Sở hữu trí tuệ cũng như toàn bộ hệ thống bảo hộ Quyền Sở hữu trí tuệ ở nước ta.
  5. 6 Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc vận dụng tốt vai trò SHTT sẽ là chìa khoá thành công của các doanh nghiệp trong nước. Nhưng nhìn chung, đại bộ phận các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn chưa thực sự quan tâm và đầu tư công sức vào lĩnh vực này một cách bài bản. Có thể thấy hoạt động SHTT là sự tổng hợp của nhận thức về SHTT và các hành động cụ thể để phát huy có hiệu quả nhất công cụ quan trọng này trong hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng cho đến nay, nhận thức về SHTT của đa số các doanh nghiệp còn tỏ ra tån t¹i nhiều yếu kém. Cuốn sách “Vấn đề bảo vệ Quyền Sở hữu trí tuệ trong hoạt động kinh doanh thương mại” được ra đời nhằm đáp ứng cho các doanh nghiệp nói riêng và các cơ quan, đơn vị, cá nhân liên quan nói chung có những hiểu biết nhất định về Quyền SHTT trong hoạt động kinh doanh thương mại khi Việt Nam đã và đang hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Kết cấu của cuốn sách gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ Chương 2: Các điều ước quốc tế và pháp luật của Việt Nam liên quan đến Quyền Sở hữu trí tuệ Chương 3: Thương hiệu - vấn đề Bảo vệ Quyền Sở hữu trí tuệ trong hoạt động thương mại của các doanh nghiệp Phần phụ lục: giới thiệu tới bạn đọc một số thông tin chung nhất về tình hình vi phạm Quyền Tác giả và một số vấn đề tranh chấp liên quan đến SHTT và danh mục một số thuật ngữ liên quan đến SHTT. Cuốn sách ra đời với hy vọng giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam và độc giả quan tâm khác những nội dung về Quyền Sở hữu trí tuệ, có thêm hành trang về lý luận cũng như thực tiễn khi tham gia vào hoạt động thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay. Trong quá trình thực hiện khó tránh khỏi những sơ suất, Nhà xuất bản Công Thương rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện cuốn sách trong những lần tái bản tiếp theo. Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về: Nhà xuất bản Công Thương Địa chỉ: 46 Ngô Quyền, Hà Nội Điện thoại: 04 - 3826 0835 Email: nxbct@moit.gov.vn NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG
  6. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 7 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 1.1 CÁC KHÁI NIỆM CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ 1.1.1 Khái niệm về Quyền Sở hữu trí tuệ(1) a) Tài sản trí tuệ Tài sản trí tuệ là các sản phẩm sáng tạo trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh (bí quyết sản xuất và bí mật thương mại). b) Quyền sở hữu trí tuệ Theo nghĩa rộng, Quyền Sở hữu trí tuệ là các quyền hợp pháp đối với tài sản trí tuệ. Các nước có luật pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ vì hai lý do chính. Thứ nhất là đưa ra khái niệm luật định về quyền nhân thân và quyền về tài sản của những người sáng tạo trong hoạt động sáng tạo của họ và các quyền của công chúng được tiếp cận những sáng tạo đó. Thứ hai là để thúc đẩy hoạt động sáng tạo, như biện pháp có chủ đích trong chính sách của Chính phủ và phổ biến cũng như áp dụng các kết quả của hoạt động sáng tạo nhằm khuyến khích kinh doanh lành mạnh góp phần vào sự phát triển kinh tế và xã hội. Theo Luật Sở hữu trí tuệ ngày 29 tháng 11 năm 2005 “Quyền Sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm Quyền (1) Intellectual property rights (IPR).
  7. 8 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI Tác giả và Quyền liên quan đến Quyền Tác giả, Quyền Sở hữu công nghiệp và Quyền đối với giống cây trồng”. Như vậy theo Luật Sở hữu trí tuệ, Quyền Sở hữu trí tuệ được chia thành 3 nhóm chính đó là: Quyền Tác giả và quyền liên quan, Quyền Sở hữu công nghiệp và Quyền đối với giống cây trồng. Với các khái niệm trên, về bản chất của SHTT cơ bản là thống nhất, chỉ khác biệt đôi chút trong việc phân chia theo các nhóm đối tượng. Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu các vấn đề của Quyền Sở hữu trí tuệ theo 3 nhóm như Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định. Tuy nhiên để đảm bảo tính lôgíc trong kết cấu của cuốn sách, một số khái niệm thuộc nhóm Quyền Sở hữu công nghiệp như Nhãn hiệu hàng hoá, Tên gọi xuất xứ, Chỉ dẫn địa lý sẽ được đề cập trong phần trình bày về Thương hiệu của cuốn sách này. 1.1.2 Quyền Sở hữu công nghiệp Quyền Sở hữu công nghiệp (SHCN) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với Sáng chế, Kiểu dáng công nghiệp, Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, Nhãn hiệu, Tên thương mại, Chỉ dẫn địa lý, Bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và Quyền Chống Cạnh tranh không lành mạnh. Đối tượng sở hữu công nghiệp bao gồm: Sáng chế, Kiểu dáng công nghiệp, Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, Bí mật kinh doanh, Nhãn hiệu, Tên thương mại và Chỉ dẫn địa lý. 1.1.2.1 Bằng độc quyền sáng chế (Patent) Bằng độc quyền sáng chế là một văn bằng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (hoặc một cơ quan khu vực nhân danh một số quốc gia) cấp trên cơ sở một đơn yêu cầu bảo hộ, trong đó mô tả một sáng chế và thiết lập một điều kiện pháp lý mà theo đó sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền chỉ có thể được khai thác một cách bình thường (sản xuất, sử dụng, bán, nhập khẩu) với sự cho phép của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế. 1.1.2.1.1 Điều kiện cấp Bằng độc quyền sáng chế Một sáng chế(1) phải đáp ứng một số tiêu chuẩn mới có thể được bảo hộ Bằng độc quyền sáng chế. Sáng chế đó trước hết phải thuộc đối tượng (1) Luật Sở hữu trí tuệ 2005 của Việt Nam: Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên.
  8. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 9 được bảo hộ sáng chế, có khả năng áp dụng công nghiệp (hữu ích), phải mới, phải biểu lộ, minh chứng cho một “bước tiến sáng tạo” rõ ràng (phải không là hiển nhiên) và việc bộc lộ sáng chế trong đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế phải đáp ứng một số chuẩn mực nhất định. a) Đối tượng được bảo hộ sáng chế Để đáp ứng được tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế, sáng chế phải thuộc đối tượng được bảo hộ sáng chế. Đối tượng được bảo hộ sáng chế và không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế do luật pháp quy định(1) và thường được định nghĩa bằng những ngoại lệ của việc bảo hộ sáng chế, nguyên tắc chung là việc bảo hộ sáng chế được dành cho các sáng chế ở mọi lĩnh vực công nghệ. Hiệp định TRIPS(2) (Điều 27.2 và 27.3) đã chỉ rõ rằng các quốc gia Thành viên có thể loại trừ việc bảo hộ sáng chế đối với một số loại sáng chế nhất định, ví dụ những sáng chế mà việc khai thác thương mại sẽ là trái với đạo đức hoặc trật tự xã hội. b) Khả năng áp dụng công nghiệp (có ích) Một sáng chế, để được cấp Bằng độc quyền sáng chế, phải là một sáng chế có khả năng được áp dụng cho các mục đích thực tế chứ không chỉ thuần tuý là lý thuyết. Nếu sáng chế là một sản phẩm hay một phần của sản phẩm thì sản phẩm đó phải có khả năng được sản xuất. Và nếu (1) Điều kiện chung đối với sáng chế được bảo hộ: Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Có tính mới; b) Có trình độ sáng tạo; c) Có khả năng áp dụng công nghiệp. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây: a) Có tính mới; b) Có khả năng áp dụng công nghiệp. Các Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa sáng chế: 1. Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học; 2. Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc, huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính; 3. Cách thức thể hiện thông tin; 4. Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ; 5. Giống thực vật, giống động vật; 6. Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà không phải là quy trình vi sinh; 7. Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật. (2) Các khía cạnh có liên quan đến thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS - Trade-Related Aspects of Intellectual Property Rights).
  9. 10 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI sáng chế đó là một quy trình hay một phần của quy trình thì quy trình đó phải có khả năng thực hiện hay “sử dụng” quy trình đó trong thực tiễn. “Khả năng áp dụng” và “khả năng áp dụng công nghiệp” là các thuật ngữ tương ứng phản ánh khả năng chế tạo hay sản xuất trong thực tế cũng như khả năng thực hiện hay sử dụng trong thực tiễn. Thuật ngữ “công nghiệp” trong thuật ngữ trên có nghĩa riêng trong hệ thống thuật ngữ của lĩnh vực sáng chế. Theo ngôn ngữ phổ thông, hoạt động “công nghiệp” nghĩa là hoạt động kỹ thuật ở một quy mô nhất định và khả năng áp dụng “công nghiệp” của một sáng chế nghĩa là việc áp dụng (sản xuất, sử dụng) sáng chế đó bằng những phương tiện kỹ thuật ở một quy mô nhất định. c) Tính mới Tính mới là một yêu cầu cơ bản trong bất kỳ xét nghiệm nào về mặt nội dung và là một điều kiện không phải bàn cãi để xét cấp Bằng độc quyền sáng chế. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, tính mới không phải là những gì có thể chứng minh hay xác định được; chỉ việc thiếu tính mới là có thể chứng minh được. Một sáng chế được đánh giá là mới nếu không bị coi là đã biết trước nếu sử dụng tình trạng kỹ thuật đã biết. “Tình trạng kỹ thuật đã biết” được hiểu một cách chung nhất là toàn bộ những kiến thức đã có trước khi đơn yêu cầu được nộp hoặc đã có trước ngày ưu tiên của đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế, bất kể nó tồn tại dưới dạng bộc lộ bằng văn bản hay miệng. Câu hỏi đặt ra về những gì được coi là cấu thành “tình trạng kỹ thuật đã biết” tại một thời điểm xác định vẫn còn là một chủ đề gây tranh cãi. Có quan điểm cho rằng việc xác định tình trạng kỹ thuật đã biết chỉ phải được tạo ra từ những kiến thức được bộc lộ, biết đến ở riêng quốc gia bảo hộ mà thôi. Cách này sẽ loại bỏ những kiến thức từ các quốc gia khác, nếu nó không được du nhập vào quốc gia đó trước khi tạo ra sáng chế, ngay cả khi những kiến thức này được lưu truyền rộng rãi ở nước ngoài trước ngày tạo ra sáng chế. Một quan điểm khác về tính mới dựa trên sự phân biệt giữa bộc lộ qua xuất bản phẩm in ấn và các loại hình bộc lộ khác như thông qua việc công
  10. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 11 bố miệng hay việc sử dụng trước đó và địa điểm xảy ra việc công bố hay bộc lộ. Việc bộc lộ một sáng chế mà bộc lộ này sẽ trở thành một phần của tình trạng kỹ thuật đã biết có thể xảy ra theo ba cách: - Mô tả sáng chế đó trong một ấn phẩm hoặc xuất bản dưới hình thức khác; - Mô tả sáng chế đó theo cách trình bày miệng trước công chúng, việc bộc lộ như vậy được gọi là bộc lộ qua việc nói, trình bày miệng; - Sử dụng công khai sáng chế đó, hay bằng cách đưa công chúng vào các hoàn cảnh khiến cho bất kỳ người nào trong số họ cũng có thể sử dụng sáng chế, đây là “dạng bộc lộ thông qua sử dụng”. d) Trình độ sáng tạo (không hiển nhiên) Đối với yêu cầu về trình độ sáng tạo (cũng được gọi là “không hiển nhiên”), vấn đề đặt ra là liệu có hay không có việc một sáng chế “được xem hiển nhiên đối với một người có trình độ kỹ thuật trung bình trong lĩnh vực tương ứng” có thể là tiêu chuẩn khó nhất phải xác định trong quá trình xét nghiệm nội dung. Việc đưa yêu cầu như vậy vào luật pháp về sáng chế là dựa trên giả thuyết rằng không bảo hộ cho những gì đã được biết là một phần của tình trạng kỹ thuật đã biết, hoặc cho những gì mà một người với trình độ trung bình có thể suy luận ra như một hệ quả hiển nhiên của tình trạng kỹ thuật. Thuật ngữ “trình độ trung bình” nhằm loại trừ chuyên gia “giỏi nhất” có thể có. Thuật ngữ này nhằm giới hạn ở những người có trình độ kỹ thuật trung bình trong cùng lĩnh vực tại quốc gia liên quan. Cũng cần lưu ý rằng tính mới và trình độ sáng tạo là những tiêu chuẩn khác nhau. Tính mới tồn tại nếu có bất kỳ sự khác biệt nào giữa sáng chế và tình trạng kỹ thuật đã biết. Vấn đề “có trình độ sáng tạo hay không?” chỉ đặt ra nếu đã có tính mới. Thuật ngữ “trình độ sáng tạo” diễn tả quan niệm rằng sẽ là không đủ nếu sáng chế được yêu cầu bảo hộ chỉ là mới, nghĩa là khác so với những gì đã tồn tại trong tình trạng kỹ thuật, nhưng sự khác biệt này phải có được hai đặc tính. Thứ nhất, phải có “tính sáng tạo”, có nghĩa đó phải là kết quả của một ý tưởng sáng tạo, và phải là một
  11. 12 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI trình độ ở mức có thể nhận thấy. Cần phải có sự khác biệt rõ ràng có thể xác định được giữa tình trạng kỹ thuật và sáng chế yêu cầu bảo hộ. Đây là lý do tại sao luật pháp trong lĩnh vực này đưa ra khái niệm “bước tiến” hay “tiến bộ” so với trình độ kỹ thuật đã biết. Thứ hai, người ta đòi hỏi bước tiến hay tiến bộ phải có ý nghĩa quan trọng và có tính căn bản đối với sáng chế. Để đánh giá bản chất của sự khác biệt mà dựa vào đó tạo nên một trình độ sáng tạo, phải xem xét đến toàn bộ tình trạng kỹ thuật đã biết. Vì vậy, khác với việc đánh giá tính mới, đối tượng của yêu cầu bảo hộ đang được xét nghiệm được so sánh không phải với riêng từng xuất bản phẩm hay bộc lộ dạng khác, mà là so sánh với kết hợp của những tài liệu hay công bố đó, miễn sao việc kết hợp là hiển nhiên đối với một người có trình độ kỹ thuật trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật liên quan. Việc kết hợp có thể là tổng hợp, nếu xét thấy yêu cầu bảo hộ xác định một tập hợp các đối tượng bảo hộ được biết riêng rẽ khác nhau. Trong hầu hết các trường hợp, cần đánh giá trình độ sáng tạo trên 3 khía cạnh, đó là: - Vấn đề cần giải quyết - Giải pháp cho vấn đề đó - Các ưu điểm (nếu có) của sáng chế so với tình trạng kỹ thuật đã biết trước. Nếu vấn đề đã được biết đến hay đã là hiển nhiên, việc xét nghiệm sẽ xem xét tính độc đáo của giải pháp được yêu cầu bảo hộ. Nếu không tìm thấy trình độ sáng tạo nào trong giải pháp đó, vấn đề đặt ra là liệu kết quả có hiển nhiên hay bất ngờ bởi bản chất hay quy mô của nó. Nếu một người có trình độ kỹ thuật trung bình trong lĩnh vực cũng có thể nêu ra vấn đề, giải quyết nó theo cách được yêu cầu bảo hộ, và dự liệu được kết quả, thì giải pháp coi như thiếu trình độ sáng tạo. e) Bộc lộ sáng chế Một điều kiện nữa về khả năng cấp Bằng độc quyền sáng chế là liệu sáng chế đó đã được bộc lộ đầy đủ trong đơn hay chưa. Đơn cần phải bộc lộ được sáng chế theo một cách thức đủ rõ ràng để một người có trình độ trong lĩnh vực kỹ thuật hoặc lĩnh vực công nghệ đó có thể thực hiện sáng chế.
  12. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 13 Việc mô tả phải đưa ra được ít nhất một cách thức thực hiện sáng chế. Phải thực hiện điều này dưới dạng những ví dụ, nếu có thể, có tham chiếu các hình vẽ mô tả (nếu cần). Ở một số nước yêu cầu người nộp đơn phải bộc lộ được cách thức tối ưu mà họ biết để thực hiện được sáng chế trong bản mô tả. Cho dù có hay không có một xét nghiệm nội dung, một số hệ thống luật pháp vẫn quy định thủ tục phản đối trước hay sau khi cấp Bằng độc quyền sáng chế. Thủ tục phản đối được quy định nhằm cho phép bên thứ ba có thể đưa ra ý kiến phản đối việc cấp Bằng độc quyền sáng chế. Để những ý kiến phản đối đó được nêu ra, nội dung của đơn yêu cầu bảo hộ phải được thông báo tới công chúng. Việc này do Cơ quan Sáng chế thực hiện bằng việc công bố một thông báo trong một xuất bản phẩm chính thức hay trên công báo có hiệu lực cho việc: - Để ngỏ đơn Bản mô tả bao gồm cả yêu cầu bảo hộ để công chúng xem xét nếu muốn; - Cơ quan sáng chế sẽ (trừ khi có thủ tục phản đối được nộp trong thời hạn quy định) cấp Bằng độc quyền sáng chế; - Bằng độc quyền sáng chế đã được cấp trên cơ sở đơn yêu cầu. 1.1.2.1.2 Soạn thảo và nộp đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế a) Xác định sáng chế Nhiệm vụ đầu tiên khi soạn thảo một đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế là việc xác định sáng chế. Việc này bao gồm: - Tóm lược tất cả những đặc điểm cần thiết để khi kết hợp với nhau sẽ giải quyết một vấn đề kỹ thuật cụ thể; - Xem xét cụ thể sự kết hợp này để xác định theo đánh giá chủ quan liệu nó có thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện cấp Bằng độc quyền sáng chế, đặc biệt đối với trình độ sáng tạo. Chính trong quá trình này chúng ta mới nhận thức được đầy đủ về bản chất của sáng chế và điều này có ý nghĩa quan trọng giúp việc soạn thảo phần mô tả và yêu cầu bảo hộ.
  13. 14 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI b) Các yêu cầu của việc soạn thảo đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế Thực tiễn và các yêu cầu trong việc soạn thảo đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế tại mỗi quốc gia là khác nhau. Tuy nhiên, có ba yêu cầu cơ bản tiêu biểu mà việc soạn thảo đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế phải tuân thủ. Yêu cầu thứ nhất là đơn yêu cầu bảo hộ chỉ nên đề cập tới duy nhất một sáng chế, hoặc một nhóm các sáng chế kết nối với nhau tới mức tạo thành một ý tưởng sáng tạo chung duy nhất. Yêu cầu này, thường được gọi là “tính thống nhất của sáng chế”, đặc biệt quan trọng khi yêu cầu bảo hộ được soạn thảo. Thứ hai, phần mô tả phải bộc lộ sáng chế một cách rõ ràng và đầy đủ để có thể đánh giá được sáng chế, và để một người có trình độ kỹ thuật trung bình cũng có thể thực hiện được sáng chế đó. Đây là điều tối quan trọng, bởi vì một trong các chức năng chính của bản mô tả là cung cấp những thông tin kỹ thuật mới cho bên thứ ba. Một khái niệm quan trọng cần lưu ý trong yêu cầu này là “một người có trình độ trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng”. Điều này cho phép đơn giản hoá bản mô tả bởi sự giả định rằng người đọc tài liệu là người có kiến thức, hiểu biết, do vậy sẽ không cần thiết phải mô tả mọi chi tiết cơ sở của sáng chế. Thứ ba, để được tiến hành, đơn yêu cầu bảo hộ phải bao gồm các yêu cầu bảo hộ để xác định rõ phạm vi bảo hộ. Yêu cầu bảo hộ phải rõ ràng và súc tích và được phần mô tả chứng minh đầy đủ. Yêu cầu cơ bản thứ ba này cũng rất quan trọng vì các yêu cầu bảo hộ chính là cơ sở để xác định phạm vi bảo hộ sáng chế. Chính qua việc căn cứ vào những yêu cầu bảo hộ mà bên thứ ba có thể biết họ có thể và không được làm gì. Yêu cầu bảo hộ không được mở rộng hơn hoặc khác với những gì đã được mô tả. Nội dung soạn thảo đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế gồm những phần chính sau: - Phần đầu của bản mô tả tiêu biểu bao gồm hai yếu tố: tên của sáng chế và trình bày vắn tắt về lĩnh vực kỹ thuật mà sáng chế thuộc về. Phần này thường ở dạng một đoạn giới thiệu ngắn bắt đầu với cụm từ “ Sáng chế này thuộc ”.
  14. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 15 - Phần thứ hai của bản mô tả về tình trạng kỹ thuật của sáng chế: khi soạn thảo phần này, người đại diện sở hữu công nghiệp thường nêu ra những vấn đề tồn tại hay các khó khăn mà sáng chế sẽ giải quyết. Phần thứ hai của bản mô tả có vị trí quan trọng trong việc cung cấp một sự hiểu biết đầy đủ về sáng chế và đặt nó vào một bối cảnh khác hẳn với tình trạng kỹ thuật đã biết. - Phần thứ ba của bản mô tả là tóm tắt sáng chế bằng những thuật ngữ sao cho dễ hiểu. Người đại diện sở hữu công nghiệp thường sẽ mô tả sáng chế bằng các thuật ngữ khái quát tương ứng với những gì mà họ dự định sử dụng trong yêu cầu bảo hộ độc lập. Khi áp dụng kỹ thuật này, họ sẽ tránh được những tranh chấp, xung đột có thể phát sinh trên cơ sở khác biệt giữa sáng chế được mô tả và sáng chế được xác định theo yêu cầu bảo hộ. - Trong phần thứ tư của bản mô tả, thường có hai yếu tố, đó là mô tả vắn tắt các hình vẽ, nếu hình vẽ là cần thiết, và phần mô tả chi tiết của một hoặc nhiều phương án thực hiện sáng chế ví dụ nếu sáng chế liên quan tới một số đối tượng kỹ thuật, có thể sử dụng các hình chiếu, mặt cắt, phối cảnh sơ đồ các bộ phận của đối tượng. Các yếu tố của hình vẽ được mô tả phải được đánh số trong hình vẽ và các số này được sử dụng trong phần mô tả phương án thực hiện. Các yêu cầu bảo hộ là phần trung tâm hay phần cốt lõi của bất kỳ sáng chế nào bởi vì chúng xác định phạm vi bảo hộ hay chính là mục đích của một sáng chế, đó là việc xác định rõ phạm vi độc quyền mà Bằng độc quyền sáng chế đem lại. Vì vậy, đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của người đại diện sở hữu công nghiệp khi chuẩn bị đơn, sử dụng các từ ngữ và soạn thảo yêu cầu bảo hộ trong đó xác định sáng chế bằng các thuật ngữ chỉ ra đặc điểm kỹ thuật được bộc lộ trong bản mô tả mà không đề cập đến các ưu thế thương mại. Các yêu cầu bảo hộ do người đại diện sở hữu công nghiệp soạn thảo thường bắt đầu với phần yêu cầu bảo hộ độc lập, khái quát kèm theo sau là các yêu cầu bảo hộ ở phạm vi hẹp hơn. - Phần yêu cầu khái quát được thảo ra sao cho tránh không trùng với tình trạng kỹ thuật đã biết vào thời điểm chuẩn bị đơn. Người đại diện sở hữu công nghiệp phải soạn thảo các yêu cầu bảo hộ tiếp theo với phạm vi
  15. 16 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI thu hẹp hơn và hy vọng rằng sẽ có được các yêu cầu bảo hộ vững chắc hơn để có thể chống chọi lại với tình trạng kỹ thuật thích hợp bất kỳ do Cơ quan Sáng chế đưa ra trong khi xét nghiệm, hay do bên thứ ba đưa ra trong giai đoạn phản đối hay làm mất hiệu lực. Cần nhấn mạnh rằng để yêu cầu bảo hộ vững chắc hơn, trong mỗi yêu cầu bảo hộ đi kèm theo sau yêu cầu bảo hộ độc lập cần phải có một số yếu tố của sáng chế bổ sung. - Những yêu cầu bảo hộ phạm vi hẹp hơn kèm theo sau yêu cầu chính thường dẫn chiếu tới một hoặc các yêu cầu trước đó. Chính vì vậy, người ta thường gọi chúng là các yêu cầu bảo hộ phụ thuộc. Những đặc điểm trong mỗi yêu cầu bảo hộ phụ thuộc phải được minh chứng với các cơ sở trong bản mô tả. Điều này thường được lý giải rằng đây là những đặc điểm được ưa thích tạo ra cách thực hiện kỹ thuật tốt hơn của sáng chế. Yếu tố cuối cùng của một sáng chế là phần tóm tắt. Phần tóm tắt đưa ra một tóm tắt ngắn gọn về tên sáng chế và bản chất của sáng chế. Phần này giúp cho bên thứ ba có thể nắm bắt thông tin nhanh chóng về nội dung cơ bản của sáng chế. Cần nhấn mạnh rằng phần này thường không được dùng để diễn giải phạm vi bảo hộ. Nguyên tắc chỉ đạo là phần tóm tắt cần soạn thảo sao cho có thể dùng để đáp ứng một cách hữu hiệu như là một công cụ tìm kiếm cho mục đích tra cứu thông tin trong lĩnh vực kỹ thuật cụ thể. Do vậy, phần tóm tắt phải ngắn gọn vừa đủ để bộc lộ. Nói chung phần này thường gồm từ 50 đến 150 từ. 1.1.2.1.3 Xét nghiệm đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế Khi xem xét quá trình xét nghiệm đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế tại Cơ quan Sáng chế. Có ba bước chính cần được đề cập tới, đó là: - Xét nghiệm hình thức - Tra cứu - Xét nghiệm nội dung. Trong mỗi bước thủ tục thông thường là tiến hành trao đổi, chủ yếu là dưới dạng văn bản, giữa một xét nghiệm viên của Cơ quan Sáng chế và người nộp đơn. Người đại diện sở hữu công nghiệp đóng vai trò người trung gian nhận thông tin từ Cơ quan Sáng chế, tư vấn cho người nộp đơn
  16. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 17 thủ tục thích hợp cho từng giai đoạn, nhận các chỉ dẫn của người nộp đơn và phúc đáp các thông báo của Cơ quan Sáng chế. a) Thẩm định hình thức, ngày nộp đơn và ngày ưu tiên Trước khi xét nghiệm hình thức, đơn yêu cầu được kiểm tra để đảm bảo đáp ứng mọi yêu cầu cần thiết đối với ngày nộp đơn. Đây là bước kiểm tra cơ bản vì nếu ngày nộp đơn không được thiết lập, đơn yêu cầu sẽ bị coi như chưa được nộp và sẽ không được xử lý tiếp nữa. Ngày nộp đơn là quan trọng trong toàn bộ quy trình thủ tục vì đó là ngày căn cứ làm mốc để xác định các bước thủ tục khác, như thời hạn bảo hộ của Bằng độc quyền sáng chế, và khi cần, xác định ngày ưu tiên của đơn yêu cầu bảo hộ kế tiếp tại quốc gia khác theo quy định của Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp. Ngày nộp đơn (hay ngày ưu tiên) cũng được dùng làm căn cứ để đánh giá tính mới và trình độ sáng tạo. Quyền ưu tiên có thể dựa trên đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế đã nộp tại quốc gia, khu vực hay quốc tế trong vòng 12 tháng trước đó. Hiệu lực của quyền này là để thay thế ngày nộp đơn từ trước cho ngày nộp đơn sau đó tại một quốc gia nhất định. Điều này đặc biệt quan trọng khi dùng nó để xác định tình trạng kỹ thuật dùng để đánh giá tính mới và trình độ sáng tạo so với tình trạng kỹ thuật đã biết. Quyền ưu tiên có thể có được tại tất cả các nước là thành viên của Công ước Paris hoặc là thành viên của Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, theo luật pháp quốc gia của một số nước, quyền ưu tiên được cấp trên cơ sở có đi có lại giữa các quốc gia không phải là thành viên của Công ước Paris. Quyền ưu tiên đem lại rất nhiều thuận lợi về mặt thực tiễn đối với người nộp đơn muốn hưởng bảo hộ tại một hay nhiều nước. Người nộp đơn không buộc phải nộp đơn tại quốc gia mình và tại các nước khác vào cùng một thời điểm, vì người nộp đơn có tới 12 tháng để quyết định xem mình muốn hưởng sự bảo hộ tại quốc gia nào. Người nộp đơn có thể sử dụng thời hạn đó để sắp xếp các bước cần tiến hành thích hợp để đảm bảo sự bảo hộ tại các quốc gia khác nhau vì quyền lợi của bản thân. Xét nghiệm hình thức thường được tiến hành ngay khi đơn đã được công nhận ngày nộp đơn. Về cơ bản, việc này bao gồm xem xét các điểm
  17. 18 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI sau: việc đại diện của một đại diện sở hữu công nghiệp (nếu có), nội dung đơn yêu cầu, thông tin trình bày về tác giả sáng chế, các yêu cầu có tính hình thức đối với bản mô tả, các yêu cầu bảo hộ và bản vẽ và kèm theo một bản tóm tắt. Người nộp đơn có một cơ hội để sửa chữa bất kỳ sai sót bảo hộ nào trong giai đoạn xét nghiệm hình thức nếu những sai sót đó không được sửa chữa trong một thời hạn nhất định, Cơ quan Sáng chế sẽ từ chối đơn yêu cầu bảo hộ. b) Tra cứu Tùy thuộc vào thủ tục xét nghiệm quy định trong từng hệ thống luật pháp, việc tra cứu có thể tiến hành theo thủ tục riêng và từ trước, hoặc đồng thời với xét nghiệm nội dung. Trong mỗi trường hợp, mục tiêu của việc tra cứu là nhằm xác định tình trạng kỹ thuật đã biết thuộc lĩnh vực cụ thể liên quan đến sáng chế. Khi tiến hành việc tra cứu Cơ quan Sáng chế tìm trong bộ sưu tập tài liệu của mình để xác định xem có tài liệu nào mô tả về giải pháp giống hoặc tương tự như giải pháp đã được mô tả trong đơn yêu cầu. Nếu việc tra cứu được tiến hành theo thủ tục riêng so với xét nghiệm nội dung, một báo cáo kết quả tra cứu sẽ được gửi cho người nộp đơn, trong đó nêu: - Danh mục tài liệu tìm thấy trong khi tra cứu, mà bộc lộ đối tượng giống hoặc tương tự với sáng chế; - Những yêu cầu bảo hộ trong đơn cần phải so sánh với tài liệu đối chiếu cụ thể nào. Bản báo cáo kết quả tra cứu cũng có thể đưa ra thông tin về phạm vi tra cứu, đó là các loại tài liệu có thể đã được tra cứu, đối với tài liệu thuộc giai đoạn nào và các lĩnh vực công nghệ cụ thể đã tra cứu. Tra cứu về bản chất chính là tra cứu tài liệu trong bộ sưu tập các tài liệu sáng chế đã được sắp xếp trước đó vì mục đích tra cứu theo từng lĩnh vực công nghệ cụ thể. Những tài liệu sáng chế có thể được bổ sung bằng các bài báo trong các tạp chí kỹ thuật và các tài liệu khác được gọi là tài liệu phi sáng chế (non-patent). Tập hợp các tài liệu này thường được gọi là “kho tư liệu”.
  18. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 19 Cơ quan Sáng chế chỉ có thể tiến hành tra cứu các tài liệu trong kho tư liệu. Ngoài ra cũng có thể thực hiện tra cứu những dữ liệu thương mại qua máy tính có nối mạng, cũng như trên Internet. Việc tra cứu không mở rộng ra ngoài các xuất bản phẩm, ấn phẩm đã được công bố kể cả, cũng không xác định xem liệu có việc bộc lộ qua sử dụng công khai hay không. Dạng bộc lộ này, nếu có, sẽ chỉ được xem xét trong giai đoạn xét nghiệm nội dung nếu việc sử dụng đó do bất kỳ một bên thứ ba nào thông báo với Cơ quan Sáng chế. Việc tra cứu trước tiên bao hàm tất cả các lĩnh vực công nghệ trực tiếp liên quan, sau đó có thể mở rộng sang các lĩnh vực tương tự, nhưng việc cần phải tra cứu mở rộng như vậy phải do xét nghiệm viên đánh giá xác định cho từng trường hợp riêng, có tính đến kết quả của việc tra cứu trong lĩnh vực công nghệ liên quan trực tiếp. Cần phải nhận thức rõ rằng mặc dù tính đầy đủ là điều lý tưởng cho việc tra cứu, song điều đó có thể không nhất thiết đạt được bởi vì những lý do bất khả kháng như sự thiếu hoàn hảo của bất kỳ hệ thống phân loại và tìm kiếm thông tin nào, và sẽ bất hợp lý về mặt kinh tế khi chi phí bị hạn chế trong những phạm vi bó buộc. c) Thẩm định nội dung Mục đích của thủ tục xét nghiệm nội dung là để đảm bảo rằng đơn yêu cầu bảo hộ đáp ứng những điều kiện nhất định để được cấp bằng độc quyền sáng chế. Về thực chất, việc này nhằm ngăn chặn không cấp Bằng độc quyền sáng chế khi: - Sáng chế không thuộc đối tượng bảo hộ sáng chế theo một số quy định pháp luật cụ thể; - Sáng chế đó không mới, không mang tính sáng tạo và/hoặc không có khả năng áp dụng công nghiệp; hoặc - Sáng chế đó không được bộc lộ đầy đủ trong hồ sơ đơn đã nộp một cách rõ ràng và đầy đủ. Cũng như xét nghiệm hình thức, người nộp đơn có cơ hội bác bỏ bất kỳ ý kiến phản đối nào được đưa ra trong giai đoạn xét nghiệm nội dung, và nếu người nộp đơn không thực hiện việc đó trong thời hạn quy định, Cơ quan Sáng chế sẽ từ chối cấp bằng độc quyền sáng chế.
  19. 20 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI Vì lợi ích của cả người nộp đơn và công chúng, có quy định về cơ hội sửa đổi đơn. Không chỉ những thiếu sót được khắc phục để đảm bảo cấp một Bằng độc quyền sáng chế chất lượng hơn mà kể cả những sửa đổi nhằm làm sáng tỏ việc bộc lộ sẽ đưa ra một bản mô tả sáng chế tốt hơn và một định nghĩa chính xác hơn về phạm vi bảo hộ. Tuy nhiên không phải mọi sửa đổi đều được phép. Theo nguyên tắc chung, một sửa đổi không hợp lệ nếu nó nằm ngoài phần bộc lộ ban đầu trong đơn. Cần lưu ý rằng vì mục đích của bất cứ luật sáng chế nào đều nhằm bảo hộ các sáng chế, do vậy Cơ quan Sáng chế chỉ từ chối cấp Bằng độc quyền sáng chế nếu kết quả xét nghiệm rõ ràng loại bỏ khả năng cấp bằng. Nhìn chung, mọi thắc mắc được giải quyết theo hướng đảm bảo quyền lợi cho người nộp đơn, bởi sự phán xử cuối cùng có giá trị hiệu lực hoặc các vấn đề khác của một Bằng độc quyền sáng chế thường do toà án quyết định. d) Cấp và công bố Nếu và khi quá trình xét nghiệm đã đi tới một kết luận có lợi cho người nộp đơn, nghĩa là mọi yêu cầu đòi hỏi về hình thức và nội dung đã được đáp ứng, và giả định rằng không có sự phản đối nào hoặc đã có phản đối song không thành, Cơ quan Sáng chế sẽ cấp Bằng độc quyền sáng chế cho đơn yêu cầu bảo hộ. Cơ quan Sáng chế sẽ tiến hành một số thủ tục nhất định: Thứ nhất, khi cấp một Bằng độc quyền sáng chế, các chi tiết của Bằng độc quyền sáng chế đó được ghi vào Sổ Đăng bạ Bằng độc quyền sáng chế. Sổ Đăng bạ Bằng độc quyền sáng chế thường lưu giữ các dữ liệu thư mục như số Bằng độc quyền sáng chế, tên và địa chỉ của người nộp đơn/người được cấp Bằng độc quyền sáng chế, tên tác giả sáng chế, số đơn gốc, ngày nộp đơn, chi tiết về đơn ưu tiên và tên của sáng chế. Tuy nhiên, trong đó không có thông tin kỹ thuật. Ngoài ra, tại một số nước có quy định việc nộp lệ phí hàng năm để duy trì hiệu lực của Bằng độc quyền sáng chế, sổ Đăng bạ sẽ lưu giữ các chi tiết về thời điểm thanh toán lệ phí, và cũng có thể liệt kê chi tiết về các hợp đồng li-xăng hay chuyển nhượng có thể đã được ghi nhận. Do vậy, sổ Đăng bạ có thể rất hữu ích đối với các bên thứ ba, đặc biệt là các đối thủ cạnh tranh với người được cấp Bằng độc quyền sáng chế, bởi nó bộc lộ tình trạng thực tế của Bằng độc quyền sáng chế đó. Tại một số quốc gia, toà án còn chấp nhận bản sao có xác
  20. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 21 nhận của một trích lục từ sổ Đăng bạ như bằng chứng xác thực về tình trạng của Bằng độc quyền sáng chế. Thứ hai, Cơ quan Sáng chế còn công bố trên Công báo việc cấp Bằng độc quyền sáng chế với các thông tin thư mục theo luật định. Thông tin do Công báo đưa ra có thể gồm bản tóm tắt hay yêu cầu bảo hộ chính, hoặc nếu có hình vẽ thì thường là hình minh hoạ. Thứ ba, một Văn bằng bảo hộ được cấp cho người nộp đơn, đây là một tài liệu pháp lý xác lập quyền sở hữu của người đó đối với Bằng độc quyền sáng chế. Cơ quan Sáng chế có thể cấp bản sao của một Bằng độc quyền sáng chế vào cùng thời điểm đó. Cuối cùng, Cơ quan Sáng chế còn tự công bố các tài liệu sáng chế dưới dạng bản in. Bản sao của mỗi tài liệu sáng chế được Cơ quan Sáng chế đưa ra sử dụng tại thư viện về sáng chế như một nguồn thông tin kỹ thuật, và cung cấp cho bên thứ ba với điều kiện thanh toán một khoản phí. Phần lớn Cơ quan Sáng chế cũng công bố đơn sau 18 tháng tính từ ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn. Như đã đề cập ở trên, để duy trì hiệu lực của Bằng độc quyền sáng chế, hàng năm, theo thời hạn quy định trong Bằng độc quyền sáng chế, phải thanh toán cho Cơ quan Sáng chế một khoản lệ phí gia hạn hay phí duy trì. Tại một số quốc gia, có tồn tại hệ thống xét nghiệm hoãn theo yêu cầu, khoản phí duy trì vẫn phải nộp trước khi được cấp Bằng độc quyền sáng chế. Tại các quốc gia khác, lệ phí duy trì hiệu lực không buộc phải nộp hàng năm, nhưng có thể được thanh toán theo giai đoạn hiệu lực ví dụ như từ 3 tới 5 năm một lần. Chỉ có một số ít quốc gia không yêu cầu nộp khoản lệ phí duy trì hiệu lực. 1.1.2.1.4 Quyền của chủ sở hữu và các hành vi vi phạm a) Độc quyền của Chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế Theo quy định của pháp luật, người được cấp Bằng độc quyền sáng chế có quyền quyết định ai sẽ được và không được phép khai thác sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế của mình. Người đó có thể duy trì quyền này trong thời hạn có hiệu lực của Bằng độc quyền sáng chế, với
  21. 22 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI điều kiện anh ta phải nộp đầy đủ các khoản lệ phí duy trì hay gia hạn. Các quyền có được theo pháp luật của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế đối với sáng chế của mình thường bị hạn chế theo nhiều cách khác nhau: Thứ nhất, các yêu cầu bảo hộ độc quyền có thể bị toà án sửa đổi hoặc hủy bỏ hiệu lực đối với những khiếm khuyết không được phát hiện ra trước khi cấp Bằng độc quyền sáng chế. Thứ hai, khi sáng chế là sự cải tiến hoặc phát triển từ một Bằng độc quyền sáng chế có trước, chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế có thể phải được cấp li-xăng và trả thù lao cho chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế trước đó. Thứ ba, các quyền của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế thường bị hạn chế bởi luật về sáng chế, và điều này không liên quan đến vấn đề hiệu lực của Bằng độc quyền sáng chế của người đó. Một li-xăng không tự nguyện có thể được cấp cho bên thứ ba nếu có thể chứng minh rằng sáng chế được cấp Bằng độc quyền sáng chế không được đưa vào sử dụng hay có sử dụng nhưng ở mức độ bị coi là không đủ tại quốc gia đó. Thứ tư, hạn chế pháp lý thứ tư đối với quyền của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế trong việc khai thác sáng chế của mình là sáng chế được cấp Bằng độc quyền sáng chế đó có thể được Chính phủ sử dụng hoặc bên thứ ba được Chính phủ cho phép sử dụng, vì lợi ích công cộng, theo các điều kiện được quy định bởi một thoả thuận hay quyết định của toà án. Ngoài ngoại lệ về những hạn chế như đã đề cập, việc cấp Bằng độc quyền sáng chế cho phép chủ sở hữu ngăn cản người khác khai thác sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế. Quyền của chủ sở hữu được gọi là độc quyền bởi nó không cho phép người khác khai thác sáng chế và bởi vì chủ sở hữu là người duy nhất được phép khai thác sáng chế đó miễn là những người khác không được trao quyền ví dụ như thông qua li-xăng để khai thác. Độc quyền này của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế có hai cách thực hiện chính trong thực tiễn, đó là bảo hộ chống lại hành vi vi phạm và khả năng chuyển nhượng hoặc cấp li-xăng một phần hay toàn bộ quyền. Vấn đề li-xăng sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế sẽ được xem xét tại phần sau.
  22. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 23 Một hành vi vi phạm quyền độc quyền của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế là việc một bên thứ ba khai thác sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế mà không được cho phép. Việc tạo ra sáng chế, cụ thể là sự triển khai ứng dụng công nghiệp, thường tiêu tốn khá nhiều chi phí của người nộp đơn hay chủ sở hữu tương lai của sáng chế đó. Vì vậy, chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế mong muốn được thu hồi lại những chi phí đó bằng việc khai thác sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế của mình, mà cụ thể là thông qua việc bán các sản phẩm của sáng chế hoặc chứa đựng sáng chế. b) Thực thi quyền Việc thực thi một Bằng độc quyền sáng chế hoàn toàn chỉ do chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế đó tiến hành. Chính anh ta là người có trách nhiệm phát hiện mọi hành vi vi phạm và lưu ý người gây ra hành vi vi phạm về việc vi phạm đó. Trong nhiều hệ thống pháp luật, có một nguyên tắc tuyệt đối là chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế không thể đe dọa khởi kiện mà lại không chịu rủi ro bị phản đòn, kể cả các thiệt hại nếu việc đe dọa bị chứng minh là không có cơ sở. Mục đích chính của quy định như vậy trong luật pháp là nhằm ngăn chặn không để chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế đe dọa các khách hàng của những người bị cáo buộc là vi phạm khi không kiện người vi phạm nguyên gốc. Trên thực tế đó thường là một bức thư lịch thiệp thông báo sự hiện hữu của Bằng độc quyền sáng chế ngụ ý rằng người được cấp Bằng độc quyền sáng chế sẽ thưa kiện nếu hành vi vi phạm vẫn tái diễn. Lá thư như vậy tỏ ra hiệu quả trong việc ngăn chặn hành vi vi phạm. Nếu người vi phạm vẫn tỏ ra ngoan cố, chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế có thể cân nhắc xem anh ta có muốn thỏa thuận li-xăng hay không. Rất nhiều vụ tranh chấp khi chớm hình thành đã được giải quyết thông qua những thoả thuận li-xăng, điều kiện li-xăng tuỳ thuộc vào năng lực đàm phán, sự thoả thuận của các bên. Nhưng nếu chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế tỏ ra không sẵn lòng cấp li-xăng theo điều kiện mà người nhận li-xăng chấp thuận, anh ta có thể phải tiến hành thủ tục pháp lý bằng cách kiện hành vi vi phạm và để xin lệnh cấm của toà án nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm. Đòn phản công bất di bất dịch của người vi phạm, khi
  23. 24 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI muốn theo đuổi tranh tụng là yêu cầu hủy bỏ hiệu lực của Bằng độc quyền sáng chế. Phần lớn các vụ tranh chấp về vi phạm Bằng độc quyền sáng chế không hề được đưa ra toà án mà thường được giải quyết thông qua thương lượng. Nếu trong số đó có vụ được giải quyết thông qua các hình thức pháp lý chính thức, thì cũng chỉ có một số ít vụ phải đi xa hơn giai đoạn chuẩn bị xét xử, và kết cục phổ biến là giải quyết thỏa thuận hòa giải giữa các bên, có thể với sự trợ giúp của một trọng tài không chính thức. c) Các hình thức vi phạm Có nhiều hình thức nảy sinh vi phạm về quyền sáng chế. Trước hết, đó là tình huống khi Bằng độc quyền sáng chế bị một bên thứ ba cố ý vi phạm (ví dụ là việc sao chép y nguyên sáng chế hoặc sao chép sáng chế đó với những thay đổi hay sửa chữa nhỏ). Hình thức vi phạm này có thể xảy ra do bên thứ ba bất cẩn, hoặc vì anh ta đã được người đại diện sở hữu công nghiệp của mình tư vấn rằng Bằng độc quyền sáng chế hay một hoặc nhiều yêu cầu của bằng là không có giá trị hiệu lực. Với hình thức vi phạm trên thì không phải tranh cãi về vấn đề liệu đã có hành vi vi phạm hay chưa. Nếu mọi đặc tính của sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế bị sao chép thì chắc chắn đã có hành vi vi phạm và vấn đề duy nhất cần giải quyết là liệu các yêu cầu của Bằng độc quyền sáng chế đó có giá trị hiệu lực hay không. Tình huống thứ hai nảy sinh khi hành vi vi phạm là cố ý, nhưng đã thực hiện một vài nỗ lực nhằm tránh để lộ ra hành vi vi phạm. Điều này thường xảy ra khi một sáng chế bị bộc lộ khi bán sản phẩm liên quan tới sáng chế đó, hoặc bị bộc lộ trong một tài liệu sáng chế đã phát hành, hoặc trong một số ấn phẩm khác khiến bên thứ ba có được những ý tưởng. Những tài liệu trên thường đưa ra những vấn đề và cách giải quyết chúng. Khi đó, bên thứ ba có thể cố gắng tạo ra một cách thức, giải pháp, phương án thay thế nhưng vẫn để thực hiện cùng nhiệm vụ. Trong khi bên thứ ba có thể cố gắng một cách thật sự nhằm tạo ra một giải pháp không bị đụng với sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền, đồng thời với việc vận dụng ý tưởng cơ bản của tác giả sáng chế, thì kết quả thường không vượt ra khỏi phạm vi yêu cầu bảo hộ của Bằng độc quyền sáng chế đó. Đây có lẽ là
  24. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 25 hình thức vi phạm phổ biến nhất mà chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế thường phải đối mặt và là nguyên nhân của hầu hết các tranh chấp. Tình huống cuối cùng là một hành vi vi phạm xảy ra ngẫu nhiên. Khi chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế tình cờ thấy một thứ gì đó thể hiện những ý tưởng của mình, ngay lập tức anh ta sẽ cảm thấy rằng sáng chế của mình đã bị sao chép. Điều này cũng không nhất thiết là đúng, bởi có thể có rất nhiều người cũng có thể cùng đang tìm kiếm cách giải quyết cho một vấn đề cụ thể vào cùng một thời điểm. Chẳng hạn như, phòng nghiên cứu của những tổ chức lớn khác nhau có thể cùng nghiên cứu về cùng một vấn đề. Tương tự như vậy có thể có rất nhiều công ty được đề nghị dự thầu một hợp đồng để giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó hoặc nhằm đạt được một kết quả nhất định, và kết cục là để thực hiện điều đó có thể sẽ có rất nhiều ý tưởng giống nhau được nêu ra mà có thể đã được bộc lộ trong một sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế. Vì vậy, mặc dù chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế có thể cảm thấy rằng sáng chế của mình bị sao chép, thì trên thực tế, bên thứ ba có thể đã đạt đến được một giải pháp tương tự hoặc nếu không nói là một giải pháp giống hệt thông qua một con đường khác. d) Các yếu tố chứng minh hành vi vi phạm Để chứng minh một hành vi vi phạm chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế phải chứng minh tất cả những yếu tố sau: - Việc thực hiện một hành vi bị ngăn cấm; - Hành vi bị ngăn cấm được thực hiện sau khi công bố đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế, hoặc sau khi cấp Bằng độc quyền sáng chế mà không có việc công bố trước đó; - Hành vi bị ngăn cấm được thực hiện tại quốc gia cấp Bằng độc quyền sáng chế; - Hành vi bị ngăn cấm phải liên quan tới một sản phẩm hoặc một quy trình thuộc phạm vi yêu cầu bảo hộ của Bằng độc quyền sáng chế. 1.1.2.1.5 Các hành vi bị ngăn cấm Một hành vi bị ngăn cấm, yếu tố quan trọng nhất trong việc chứng minh vi phạm là hành vi liên quan tới việc chế tạo, sử dụng, bán hoặc
  25. 26 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI nhập khẩu sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, hoặc việc sử dụng quy trình đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, hay việc chế tạo, sử dụng, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm thu được trực tiếp từ quy trình đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế. Việc chế tạo một sản phẩm nghĩa là sản phẩm được mô tả và yêu cầu bảo hộ trong Bằng độc quyền sáng chế được thực hiện có thể coi là sản xuất, đặc biệt khi sản phẩm được sản xuất nhằm mục đích thương mại. Phương thức sản xuất và số lượng sản phẩm không liên quan tới hành vi vi phạm một sản phẩm được cấp Bằng độc quyền sáng chế đã đề cập. Tuy nhiên, có ba ngoại lệ chính mà luật pháp hầu hết các quốc gia đặt ra đối với hành vi không vi phạm quyền độc quyền trong việc sản xuất một sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, đó là: - Khi sản phẩm được cấp Bằng độc quyền sáng chế được làm ra chỉ vì mục đích nghiên cứu khoa học và thí nghiệm; - Khi bên thứ ba đã bắt đầu làm ra sản phẩm trước ngày nộp đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế cho sáng chế trong sản phẩm đó; - Khi sản phẩm được cấp Bằng độc quyền sáng chế được thực hiện theo một li-xăng không tự nguyện hoặc theo sự cho phép của chính phủ vì lợi ích công cộng. Đối với các quy trình đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, chỉ có việc làm ra những sản phẩm thu được trực tiếp từ quy trình được cấp Bằng độc quyền sáng chế mới là hành vi bị ngăn cấm. “Trực tiếp” trong ngữ cảnh này nghĩa là “ngay lập tức” hay “không có sự chuyển đổi hay biến đổi thêm nữa”. Khi chứng minh hành vi vi phạm đối với các sản phẩm thu được trực tiếp từ một quy trình được cấp Bằng độc quyền sáng chế là việc chứng minh rằng quy trình được cấp Bằng độc quyền sáng chế đã được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm đó. Luật pháp hầu hết các quốc gia thường đưa ra 5 ngoại lệ về hành vi vi phạm độc quyền đối với việc sử dụng một sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, đó là:
  26. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 27 - Sử dụng sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế chỉ vì mục đích nghiên cứu khoa học hoặc thí nghiệm; - Sử dụng sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế do chính chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế đưa ra thị trường tại quốc gia đó hoặc được sự cho phép của chủ sở hữu; - Sử dụng sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế trên các phương tiện giao thông quá cảnh qua quốc gia đó; - Sản phẩm được cấp Bằng độc quyền sáng chế do bên thứ ba có đặc quyền được tiếp tục tạo ra sản phẩm; - Sản phẩm được cấp Bằng độc quyền sáng chế được sử dụng theo một li-xăng không tự nguyện hoặc với sự cho phép của chính phủ vì lợi ích công cộng. Việc bán một sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế là hành vi bị ngăn cấm bất kể sản phẩm được bán đó là do chủ sở hữu, hoặc được sự cho phép của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế. Bất kỳ sản phẩm nào tương ứng với phần mô tả sáng chế và được yêu cầu bảo hộ trong Bằng độc quyền sáng chế, kể cả những sản phẩm được làm ra mà không có sự cho phép của chủ sở hữu, đều là sản phẩm được bảo hộ theo Bằng độc quyền sáng chế. Việc nhập khẩu một sản phẩm đơn giản có nghĩa là đưa một món hàng chứa đựng hay cấu thành sản phẩm đã được bảo hộ theo Bằng độc quyền sáng chế vào quốc gia bảo hộ, bất kể được nhập khẩu từ quốc gia nào đều là hành vi vi phạm. Hơn nữa, ở đây cho dù việc nhập khẩu có được tiến hành vì mục đích sử dụng, buôn bán hay phân phối miễn phí đều không phải là vấn đề ngoại lệ. Kể cả việc một sản phẩm nhập khẩu được hưởng quyền bảo hộ Bằng độc quyền sáng chế tại nước mà sản phẩm được sản xuất hay tại quốc gia xuất khẩu sản phẩm đó cũng không có ý nghĩa khác. Nguyên tắc đối với việc sử dụng, bán và nhập khẩu sản phẩm đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế như đã đề cập, cũng áp dụng đối với việc sử dụng, bán và nhập khẩu sản phẩm trực tiếp thu được từ một quy trình đã được bảo hộ theo Bằng độc quyền sáng chế. Yếu tố thứ hai trong việc chứng minh một hành vi vi phạm đó là hành vi bị ngăn cấm phải được thực hiện sau khi công bố sáng chế, hoặc trong
  27. 28 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế hoặc trong Bằng độc quyền sáng chế đã cấp. Sẽ là vô lý nếu bên thứ ba bị buộc tội có hành vi vi phạm khi các chi tiết về sáng chế còn chưa được công bố cho công chúng để họ có thể tự xem xét cái gì bị ngăn cấm. Yếu tố thứ ba trong việc chứng minh một hành vi vi phạm là Bằng độc quyền sáng chế không vượt ra khỏi biên giới của quốc gia cấp Bằng độc quyền sáng chế đó. Luật về sáng chế của một quốc gia này không có hiệu lực tại một quốc gia khác. Tuy nhiên, đối với một số ít các quốc gia, đặc biệt là các nước thuộc Khối liên hiệp Anh, có thể mở rộng phạm vi của một Bằng độc quyền sáng chế thuộc Vương quốc Anh tới các quốc gia khác bằng việc nộp đơn yêu cầu của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế đó, thường là trong thời hạn 3 năm kể từ ngày cấp Bằng độc quyền sáng chế, để đăng ký Bằng độc quyền sáng chế đó tại quốc gia liên quan. Yếu tố thứ tư trong việc chứng minh một hành vi vi phạm thường là điểm quyết định trong mọi tranh chấp về Bằng độc quyền sáng chế. Tại mọi quốc gia, phạm vi bảo hộ của một Bằng độc quyền sáng chế được xác định bởi các yêu cầu bảo hộ. Ý nghĩa của các yêu cầu bảo hộ này chung cuộc sẽ được toà án giải thích. Cách thức để toà án diễn giải yêu cầu ngược lại phụ thuộc vào luật pháp từng quốc gia và trong chừng mực nào đó còn là các nguyên tắc và quy định. Vì vậy, một yêu cầu bảo hộ có ý nghĩa như thế nào sẽ phụ thuộc vào hệ thống tư pháp mà ở đó yêu cầu bảo hộ được giải thích. Các toà án, đặc biệt trong hệ thống CommonLaw (thông luật), hướng tới việc xác định cấu trúc nào mà ngôn từ của phần yêu cầu định ra, và xem xét liệu cấu trúc bị cáo buộc vi phạm có tương ứng với cấu trúc mà ngôn từ trong yêu cầu bảo hộ định ra hay không. Khi cố gắng giải đáp vấn đề liệu một kết cấu cụ thể nào đó có vi phạm một yêu cầu bảo hộ trong Bằng độc quyền đối với sáng chế hay không, yêu cầu bảo hộ này phải được tách ra thành các yếu tố riêng lẻ, và những yếu tố này được đem so sánh với các yếu tố của kết cấu bị coi là vi phạm để xem chúng có quan hệ gì với nhau hay không. Trên thực tế, nếu yêu cầu bảo hộ có thể được phân tích để tương ứng với hành vi bị cáo buộc là vi phạm mà ngôn từ của yêu cầu bảo hộ không bị suy diễn quá rộng, khi đó có thể nói là
  28. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 29 đã có một hành vi vi phạm thực sự. Mặt khác, nếu yêu cầu bảo hộ chứa đựng một đặc điểm giới hạn nào đó mà không thể tìm thấy trong hành vi bị cáo buộc là vi phạm thì có thể nói là không có hành vi vi phạm. Tuy nhiên việc chứng minh một hành vi vi phạm không phải luôn luôn rõ ràng. Ví dụ, sự thay đổi về mặt hình dạng sẽ không tránh khỏi vi phạm nếu không có thay đổi nào trong kết quả thu được. Những thay đổi về trật tự các bước tiến hành trong một quy trình sẽ không tránh khỏi vi phạm nếu vẫn thu được kết quả như vậy. Hơn nữa, sự hiện diện của những yếu tố bổ sung khác trong một hành vi bị cáo buộc là vi phạm không giúp tránh khỏi hành vi vi phạm nếu tất cả các yếu tố được nêu ra trong phần yêu cầu bảo hộ của Bằng độc quyền sáng chế cùng đều có mặt. Một trong những lĩnh vực khó khăn nhất của việc giải thích yêu cầu bảo hộ là việc xác định liệu đã có sự thay thế các yếu tố tương đương trong một hành vi bị cáo buộc là vi phạm. Đây còn được gọi là “học thuyết về các yếu tố tương đương” khá nổi tiếng trong thực tiễn tranh chấp về Bằng độc quyền sáng chế tại nhiều quốc gia. Nói một cách vắn tắt, học thuyết này đề xướng rằng một người vi phạm không được phép tiếp tục hành vi của mình khi anh ta về căn bản đã vận dụng sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế khi chỉ đơn giản thay một yếu tố của sáng chế bằng một yếu tố thay thế có chức năng và kỹ thuật tương đương với yếu tố được nêu ra trong yêu cầu bảo hộ Bằng độc quyền sáng chế, bất kể việc thay đổi đó được người vi phạm sử dụng thực ra có là một cải tiến hay không. Học thuyết tương đương bị hạn chế áp dụng chỉ trong các trường hợp khi yếu tố thay thế do người vi phạm sử dụng thực hiện chức năng cơ bản giống như và tạo ra một kết quả về cơ bản là giống với yếu tố nêu trong phần yêu cầu bảo hộ . 1.1.2.1.6 Các biện pháp Chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế có thể áp dụng Các biện pháp mà chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế có thể áp dụng khi có hành vi vi phạm xảy ra thường được quy định trong luật pháp quốc gia về sáng chế và thường ở hai hình thức, đó là biện pháp hình sự và dân sự. Nói một cách khái quát, biện pháp dân sự được áp dụng đối với mọi trường hợp vi phạm, còn các biện pháp hình sự chỉ được áp dụng trong một số hoàn cảnh cụ thể khi hành vi vi phạm được thực hiện một cách cố ý.
  29. 30 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI Các biện pháp dân sự thường được áp dụng bao gồm quy định đền bù thiệt hại, lệnh cấm của toà án, hay bất kỳ biện pháp nào khác được quy định trong pháp luật chung như biện pháp tịch thu và tiêu huỷ sản phẩm vi phạm hoặc các phương tiện được sử dụng để sản xuất các sản phẩm đó. Nếu chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế chứng minh được trước toà án rằng có một hành vi vi phạm đã xảy ra, hoặc đang xảy ra thì anh ta có quyền đòi bồi thường thiệt hại, mức bồi thường thiệt hại sẽ do toà án đánh giá. Người gây ra hành vi vi phạm sẽ chỉ đền bù thiệt hại đối với hành vi vi phạm xảy ra kể từ ngày Cơ quan Sáng chế công bố sáng chế trong đơn xin cấp Bằng độc quyền sáng chế hoặc từ ngày cấp bằng độc quyền sáng chế. Mức bồi thường thiệt hại có thể được tính ít nhất là theo hai cách. Thứ nhất, là đánh giá mức độ thiệt hại dựa trên thiệt hại về mặt tài chính do hành vi vi phạm gây ra cho chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế. Thứ hai, mức bồi thường thiệt hại được tính dựa trên sự đánh giá lợi nhuận. Điều này không có nghĩa là chủ sở hữu phải nhận được tất cả mọi khoản lợi nhuận mà người vi phạm thu được từ sản phẩm vi phạm, tuy nhiên việc đánh giá các khoản lợi nhuận có thể rất sát với khoản lợi nhuận thực tế đã thu được. Ngoài ra, mức bồi thường thiệt hại có thể được đánh giá bằng việc xem xét khoản thù lao do các bên nhận li-xăng trả. Trong trường hợp này, tòa án có thể quyết định rằng thiệt hại không thể ít hơn mức thù lao thu được tính theo đầu sản phẩm, vì đó là thiệt hại mà không phải là thù lao thì chắc chắn mức bồi thường thiệt hại sẽ phải được ấn định ở mức cao hơn. Theo luật pháp một số quốc gia, người vi phạm không có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nếu anh ta chứng minh được rằng vào ngày xảy ra hành vi đó anh ta đã không biết được và cũng không có cơ sở hợp lý nào để cho rằng có tồn tại Bằng độc quyền sáng chế đó. Lệnh của tòa án là một quyết định cấm hành vi vi phạm. Trong trường hợp như vậy toà án sẽ ban hành một lệnh cấm yêu cầu người vi phạm chấm dứt các vi phạm đối với sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế. Khi bản thân hành vi vi phạm có thể chưa xảy ra nhưng việc chuẩn bị đã được một bên thứ ba tiến hành nhằm thực hiện hành vi vi phạm (“hành vi vi phạm đang sắp xảy ra”) thì lệnh cấm đó của tòa án nghĩa là việc vi phạm có thể chưa bắt đầu.
  30. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 31 Các biện pháp hình sự tùy thuộc vào cơ cấu của luật hình sự và thủ tục tố tụng hiện hành tại từng quốc gia. Những chế tài hình sự thông thường là phạt tù hoặc phạt tiền, hoặc cả hai. 1.1.2.1.7 Khai thác Sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế Ngoài việc đánh giá chính bản thân sản phẩm, chủ sáng chế còn phải tìm hiểu liệu có một thị trường thích hợp với sản phẩm thu được từ sáng chế của mình không. “Thử nghiệm thị trường” là một giai đoạn mà rất nhiều công ty lớn thực hiện trước khi bắt đầu việc sản xuất hàng loạt. Họ giới thiệu sản phẩm với số lượng hạn chế người được coi là tiêu biểu trong phân khúc thị trường tiềm năng của họ. Các doanh nghiệp nhỏ cũng nên xem xét cân nhắc sử dụng kỹ thuật này trước khi tiêu tốn thời gian và tiền bạc tung ra một sản phẩm để rồi cuối cùng không bán được. Về cơ bản, có hai phương pháp mà tác giả sáng chế có thể sử dụng để đưa ý tưởng của mình vào sản xuất. Anh ta có thể bán hoặc cấp li-xăng ý tưởng về sản phẩm của mình cho một công ty có thiết bị để sản xuất sản phẩm đó. Hoặc thay vào đó, chính anh ta cũng có thể trở thành nhà sản xuất, có thể lập một nhà máy hoặc ký hợp đồng giao thầu khoán việc sản xuất sản phẩm cho một phân xưởng nếu có thể. Một số công ty có khi thờ ơ với các ý tưởng sản phẩm mới. Các công ty này thường bị tràn ngập bởi những ý tưởng không mời từ công chúng, rất ít ý tưởng trong số đó tỏ ra đáng được lưu tâm. Các công ty lớn hơn thông thường có những phòng nghiên cứu và triển khai được đầu tư những khoản tiền lớn. Tất nhiên, các nhà quản lý sẽ thiên vị nghiên cứu những phát triển nội bộ. Các công ty khác lại e ngại tác giả sáng chế có thể thưa kiện rằng các ý tưởng của họ đã bị đánh cắp, khi trên thực tế có thể công ty đó cũng đã đang nghiên cứu cùng một ý tưởng. Các tập đoàn lớn thường công bố các chính sách và thủ tục của họ đối với những ý tưởng sản phẩm mới có nguồn gốc bên ngoài. Một số công ty có cả “bộ phận tiếp nhận ý tưởng”. Hầu hết các công ty đều muốn tác giả sáng chế chỉ gửi cho họ bản sao Bằng độc quyền sáng chế của anh ta về ý tưởng mới. Hoặc, tác giả sáng chế có thể nộp bản sao đơn yêu cầu cấp Bằng độc quyền sáng chế ngay sau khi nộp đơn.
  31. 32 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI Khi một ý tưởng đề xuất không có khả năng được cấp Bằng độc quyền sáng chế được chấp nhận, tác giả sáng chế phải hiểu rõ về chính sách của công ty đối với các ý tưởng không mời trước khi gửi. Một số công ty dành quyền được tùy ý thanh toán cho các ý tưởng khi thấy chúng phù hợp. Nếu việc đề xuất một ý tưởng đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế được chấp thuận, tác giả sáng chế có thể lựa chọn hoặc bán bằng độc quyền sáng chế của mình để có được một khoản tiền thanh toán gọn một lần, hoặc ký kết hợp đồng li-xăng với công ty. 1.1.2.1.8 Li-xăng tự nguyện, không tự nguyện và bắt buộc Li-xăng do chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế cấp được coi là li-xăng “tự nguyện” nhằm phân biệt với li-xăng “bắt buộc” hoặc “không tự nguyện”. Người thụ hưởng một li-xăng tự nguyện có quyền thực hiện các hành vi thuộc bảo hộ độc quyền theo sự cho phép của chủ sở hữu Bằng độc quyền đối với sáng chế. Việc cho phép theo hợp đồng thường được gọi là hợp đồng li-xăng ký kết giữa một bên là chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế và bên kia là người thụ hưởng li-xăng. Ngược lại, người thụ hưởng một li-xăng không tự nguyện có quyền thực hiện các hành vi thuộc bảo hộ độc quyền theo sự cho phép của một cơ quan chính phủ bất chấp ý kiến của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế. a) Về bảo đảm thủ tục và phí đền bù Việc cấp một li-xăng không tự nguyện dẫn đến việc sử dụng một quyền tài sản rất có giá trị của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế. Vì việc cấp một li-xăng như vậy không có sự đồng ý của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế nên một sự đảm bảo về thủ tục hợp lý, bao gồm cả thủ tục khiếu nại hữu hiệu, cần được thiết lập để đảm bảo rằng li-xăng không tự nguyện được cấp và thi hành một cách hợp lệ. Những đảm bảo đó được quy định tại Điều 31 Hiệp định TRIPS. Đặc biệt, cơ quan cấp li-xăng, như cơ quan sáng chế, nên đảm bảo rằng những điều kiện về cấp một li-xăng không tự nguyện đã được đáp ứng, cho phép chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế trình bày ý kiến của mình về vấn đề này. Hơn nữa, cơ quan cấp phải đảm bảo một khoản thanh toán thích đáng do bên nhận li-xăng không tự nguyện trả cho chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế và quy định thủ tục huỷ bỏ li-xăng không tự
  32. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 33 nguyện nếu các cơ sở để cấp li-xăng không tự nguyện đó không còn tồn tại nữa hoặc nếu các nghĩa vụ của một li-xăng không tự nguyện không được bên nhận đáp ứng. Việc cấp một li-xăng không tự nguyện không có nghĩa là người nhận (người được cấp li-xăng) không phải trả phí li-xăng. Ngược lại, luật quốc gia về vấn đề này thường buộc người được cấp li-xăng phải thanh toán một khoản thanh toán xác định trên cơ sở việc thực hiện sáng chế đó. b) Tước bỏ hoặc huỷ bỏ Bằng độc quyền sáng chế trong trường hợp lạm dụng Trong hầu hết mọi trường hợp, trong khi dự liệu việc cấp một li-xăng bắt buộc sẽ tỏ ra hữu hiệu để điều chỉnh việc lạm dụng thì Điều 5A(3) quy định về việc tước hoặc huỷ bỏ hiệu lực một Bằng độc quyền sáng chế trong trường hợp nếu việc cấp li-xăng bắt buộc tỏ ra không hiệu quả. Phần này còn quy định rằng “không được tiến hành thủ tục nhằm tước bỏ hoặc huỷ bỏ hiệu lực Bằng độc quyền sáng chế trước khi hết thời hạn hai năm kể từ ngày cấp li-xăng bắt buộc đầu tiên”. Một số quốc gia quy định về cấp li-xăng bắt buộc kể cả khi không có “hành vi lạm dụng” quyền sáng chế nhưng việc cấp một li-xăng không tự nguyện được cho là cần thiết trong việc bảo vệ lợi ích công cộng. Nói chung một li-xăng không tự nguyện được cấp vì lợi ích công cộng có thể chia thành hai loại, một loại nhằm bảo vệ quyền lợi các tổ chức tư nhân và thứ hai vì bản thân chính phủ đó, hoặc vì một cá nhân hoạt động đại diện cho chính phủ. c) Cấp li-xăng không tự nguyện vì lợi ích của các tổ chức tư nhân Một ví dụ về li-xăng không tự nguyện được cấp vì lợi ích công cộng song nghiêng về các tổ chức tư nhân, trường hợp này được gọi là “Bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc”. Trong tình hình như vậy, và nếu chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc không thể ký kết một hợp đồng li-xăng với chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế chi phối với các điều khoản hợp lý, chủ sở hữu của Bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc có thể đạt được một li-xăng không tự nguyện theo Bằng độc quyền sáng chế chi phối. Nếu không, chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế chi phối có thể ngăn cản việc hoạt động của sáng chế được yêu cầu bảo hộ trong Bằng độc quyền sáng chế phụ thuộc bằng cách từ chối cấp li-xăng.
  33. 34 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI d) Cấp li-xăng không tự nguyện vì lợi ích chung của chính phủ hoặc các cơ quan đại diện cho chính phủ Một số quốc gia cho phép chính phủ khai thác các sáng chế mà không cần sự đồng ý của chủ hữu Bằng độc quyền sáng chế, hoặc cho phép bên thứ ba đại diện cho chính phủ để khai thác sáng chế đó. Có ba lĩnh vực điển hình có thể áp dụng quy định này, đó là: phòng thủ quốc gia, kinh tế quốc gia và sức khỏe cộng đồng. Trong hầu hết các trường hợp vì lợi ích công cộng, Quốc gia được cho phép hành động ngược lại với ý chí của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế, khi đó bất kỳ pháp nhân hay thể nhân do Chính phủ chỉ định có thể thực hiện bất kỳ hành động nào được quy định trong Bằng độc quyền sáng chế. Đối với mỗi trường hợp cụ thể, Chính phủ sẽ quyết định cần phải thực hiện những hành động nào. Biện pháp vì lợi ích chung này phù hợp với tình hình khi có những trường hợp khẩn cấp quốc gia. Chẳng hạn như thiết bị y tế, có thể cần phải nhập khẩu thiết bị đó ngay khi có dịch bệnh bất ngờ. Nếu chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế không tự nguyện nhập khẩu hoặc ký kết một hợp đồng li-xăng với các điều khoản hợp lý, chính phủ có thể quyết định yêu cầu một pháp nhân khác nhập khẩu dụng cụ đó hoặc có thể quyết định tự nhập khẩu. Tuy nhiên, ngay sau khi kiểm soát được dịch bệnh thì không còn lý do nào để duy trì biện pháp đó nữa, và chủ sở hữu Bằng độc quyền đối với sáng chế sẽ khôi phục lại quyền kiểm soát hoàn toàn đối với các quyền kèm theo Bằng độc quyền sáng chế. e) Li-xăng bắt buộc theo Hiệp định TRIPS Theo nội dung Chương 5 của Hiệp định TRIPS. Điều 31 của Hiệp định TRIPS cho phép các Thành viên có quyền cho bên thứ ba khai thác một sáng chế đã được cấp Bằng độc quyền sáng chế, thậm chí bên thứ ba được hành động ngược lại ý chí của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế, trừ khi những điều kiện nào đó cần được tôn trọng. Hiệp định này không bắt buộc hay giới hạn những lý do để cấp phép những quyền như vậy. Tại một nước thành viên mà luật pháp nước đó cho phép li-xăng bắt buộc như vậy, bao gồm cả li-xăng do Chính phủ bắt buộc hay thay mặt Chính phủ hoặc li-xăng vì mục đích sử dụng khác đối với sáng chế đã được
  34. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 35 cấp Bằng độc quyền sáng chế mà không được sự cho phép của chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế, thì những điều kiện sau phải được tuân theo: (a) Việc cho phép cấp li-xăng bắt buộc cần phải được xem xét dựa trên những lợi ích cá nhân. Điều này có nghĩa là đơn xin cấp li-xăng bắt buộc phải được xem xét dựa trên từng trường hợp cụ thể. (b) Một li-xăng bắt buộc chỉ có thể được cấp nếu người nhận li-xăng theo đề xuất đã cố gắng để nhận được sự cho phép từ người nắm quyền với những điều kiện điều khoản thương mại hợp lý và những cố gắng đó không có kết quả trong một khoảng thời gian nhất định. Một nước thành viên có thể bỏ qua yêu cầu này trong trường hợp khẩn cấp của quốc gia hay trong những trường hợp cấp bách khác, hoặc trong trường hợp sử dụng vì lợi ích công cộng phi thương mại. (c) Phạm vi và thời hạn của một li-xăng bắt buộc được giới hạn theo mục đích mà nó được cho phép sử dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp công nghệ bán dẫn, một li-xăng bắt buộc chỉ có thể được cấp cho việc sử dụng vì lợi ích công cộng phi thương mại, hoặc để thực hiện một thủ tục được xác định là chống lại việc cạnh tranh. (d) Một li-xăng bắt buộc phải là li-xăng không độc quyền. (e) Một li-xăng bắt buộc không được chuyển nhượng nếu không kèm theo một phần của cơ sở kinh doanh hoặc đặc quyền sản xuất hàng hóa theo li-xăng đó. (g) Một li-xăng bắt buộc chủ yếu được cho phép đối với việc cung cấp cho thị trường trong nước của nước thành viên đã cấp li-xăng. (h) Một li-xăng bắt buộc phải được chấm dứt, tùy thuộc vào sự bảo hộ thích đáng các lợi ích hợp pháp của li-xăng bắt buộc, nếu trong trường hợp chứng minh được là việc cấp li-xăng đã dừng lại và không chắc sẽ tiếp diễn. (i) Tùy theo từng trường hợp, chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế được trả một khoản tiền tương ứng với giá trị kinh tế của quyền sử dụng đã cho phép. (k) Hiệu lực pháp lý của bất kỳ quyết định nào liên quan tới việc cấp một li-xăng bắt buộc tùy thuộc vào việc xem xét lại theo pháp luật hay những cân nhắc độc lập khác của một cơ quan có thẩm quyền đặc biệt cao hơn ở nước thành viên đã cấp li-xăng.
  35. 36 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI (l) Bất kỳ quyết định nào liên quan tới việc đền bù một li-xăng bắt buộc cũng phải tùy thuộc vào việc xem xét lại theo pháp luật hay những cân nhắc độc lập khác của một cơ quan có thẩm quyền đặc biệt cao hơn ở nước thành viên đã cấp li-xăng. (m) Một nước thành viên không bắt buộc phải áp dụng những điều kiện ở các điểm (b) và (f) nói trên khi li-xăng bắt buộc được cấp để cứu vãn một tình thế được xác định là chống lại việc cạnh tranh. Sự cần thiết phải làm đúng theo thực tiễn chống cạnh tranh có thể được tính đến trong khi xác định khoản đền bù đối với những trường hợp như vậy. Cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên có quyền từ chối việc chấm dứt một li-xăng bắt buộc nếu chứng minh được là việc cấp li-xăng như vậy chắc chắn tái diễn. (n) Trong trường hợp phần phụ thuộc giữa hai Bằng độc quyền sáng chế thuộc về hai chủ sở hữu khác nhau, để Bằng độc quyền sáng chế sau không bị khai thác mà không vi phạm Bằng độc quyền sáng chế trước, những điều kiện được thêm sau đây phải được áp dụng: - Sáng chế được yêu cầu bảo hộ trong Bằng độc quyền sáng chế thứ hai phải gắn với một tiến bộ kỹ thuật quan trọng có ý nghĩa về mặt kinh tế liên quan tới sáng chế thuộc Bằng độc quyền sáng chế thứ nhất. - Chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế thứ nhất có quyền đối với một li-xăng chéo (cross-license) dựa trên những điều khoản hợp lý để sử dụng sáng chế thuộc Bằng độc quyền sáng chế thứ hai. - Việc sử dụng Bằng độc quyền sáng chế thứ nhất đã được cho phép không thể chuyển giao trừ khi chuyển giao cùng với Bằng độc quyền sáng chế thứ hai. 1.1.2.1.9 Mẫu hữu ích(1) Tại một số quốc gia, có thể nhận được sự bảo hộ đối với “mẫu hữu ích”. Bản chất của “mẫu hữu ích” chỉ là tên gọi dành cho một số sáng chế, đó là - theo luật pháp của hầu hết các nước có quy định về mẫu hữu ích - các sáng chế trong lĩnh vực kỹ thuật. Điều này lý giải tại sao đối tượng (1) Mẫu hữu ích - theo cách dịch của WIPO - Theo Luật SHTT 2005 của Việt Nam gọi là Giải pháp hữu ích.
  36. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 37 của mẫu hữu ích thường được mô tả như những thiết bị hoặc các vật dụng hữu ích. 1.1.2.2 Kiểu dáng công nghiệp và mạch tích hợp 1.1.2.2.1 Kiểu dáng công nghiệp a) Giới thiệu về kiểu dáng công nghiệp(1) Theo nghĩa rộng, kiểu dáng công nghiệp (KDCN) đề cập đến những hoạt động sáng tạo nhằm tạo ra một hình dáng, trang trí bên ngoài cho những hàng hoá được sản xuất hàng loạt, trong phạm vi giá cả có thể chấp nhận được song vẫn thoả mãn điều kiện là mặt hàng đó phải hấp dẫn người tiêu dùng về thị giác và phải thể hiện một cách hiệu quả chức năng kỹ thuật đã định trước. Về mặt pháp lý, KDCN đề cập đến các quyền được nhiều nước công nhận, tuân theo một hệ thống đăng ký kiểu dáng nhằm bảo vệ những đặc điểm trang trí nguyên mẫu và không mang chức năng kỹ thuật của một sản phẩm công nghiệp hoặc sản phẩm xuất phát từ hoạt động thiết kế kiểu dáng. Sự hấp dẫn về mặt thị giác là điều đáng quan tâm bởi nó ảnh hưởng tới quyết định của người tiêu dùng, đặc biệt đối với những sản phẩm có cùng chức năng kỹ thuật được bầy bán hàng loạt trên thị trường. Trong trường hợp này, nếu tính năng kỹ thuật của các loại sản phẩm do các nhà sản xuất khác nhau tạo ra là tương đương thì sự hấp dẫn về mặt thẩm mỹ cùng với giá cả sẽ quyết định sự lựa chọn của người tiêu dùng. b) Sự phát triển về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp Trong lịch sử, nhu cầu bảo hộ KDCN có liên quan mật thiết với quá trình công nghiệp hoá và sự ra đời của phương thức sản xuất hàng loạt. Tại Anh, luật đầu tiên quy định về bảo hộ KDCN là đạo luật năm 1787 về kiểu dáng và in vải bông, vải lanh, vải in hoa và vải muslin. Đạo luật này đã quy định thời hạn bảo hộ là 02 tháng cho “những ai tạo ra, thiết kế và in ấn hoặc có ý tưởng đó và trở thành chủ sở hữu của bất kỳ hình mẫu nguyên bản hoặc các hình mẫu mới dùng để in vải lanh, bông, vải in hoa (1) Theo Luật SHTT 2005 của Việt Nam: Kiểu dáng công nghiệp là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này.
  37. 38 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI và vải muslin”. Do vậy, người ta đã công nhận sự đóng góp và tầm quan trọng của kiểu dáng trong ngành công nghiệp dệt ngày càng phát triển này. Sự phát triển của công nghiệp hóa và việc ứng dụng các phương pháp sản xuất hàng loạt vào tất cả các lĩnh vực sản xuất đã kéo theo việc mở rộng bảo hộ kiểu dáng trong các lĩnh vực khác (đặc biệt là các hình vẽ điêu khắc được sử dụng trong công nghiệp làm đồ gốm sứ). Điều này đã được ghi nhận một cách tập trung trong Luật Kiểu dáng công nghiệp năm 1842, Đạo luật này đã mở rộng phạm vi bảo hộ đối với “những kiểu dáng mới và nguyên bản, bất kể kiểu dáng này dùng trong trang trí cho mặt hàng hay chất liệu nào, nhân tạo hay tự nhiên và những kiểu dáng như vậy có được áp dụng cho những kiểu mẫu, hình dáng hoặc nhằm trang trí chúng, hoặc sự kết hợp bất kỳ các mục đích đó và bằng phương pháp bất kỳ như in, vẽ, thêu, dệt, khâu hay tạo mô hình, đúc, rập, nổi, chạm khắc, nhuộm, hoặc bằng tay, cơ khí, bằng hóa chất, tách rời hay kết hợp để kiểu dáng đó có thể ứng dụng được”. Chính vì thế kiểu dáng được công nhận là yếu tố căn bản của tất cả các hình thức sản xuất. c) Bảo hộ pháp lý đối với kiểu dáng công nghiệp Hình thức của một hệ thống pháp lý bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cũng giống như những quy định về bảo hộ pháp lý cho tất cả các hình thức sở hữu trí tuệ, đòi hỏi phải có sự cân bằng về mặt lợi ích. Một mặt, cần phải có sự bảo hộ hữu hiệu để luật pháp có thể thực hiện các chức năng của mình trong việc thúc đẩy những yếu tố kiểu dáng trong sản xuất. Mặt khác cần đảm bảo rằng luật pháp không mở rộng bảo hộ một cách không cần thiết ngoài những gì cần để tạo ra những thúc đẩy cho hoạt động kiểu dáng, để những trở ngại đối với việc sử dụng tự do những kiểu dáng có sẵn là ít nhất. Việc thiết lập sự cân bằng này đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng đối với một số vấn đề, trong đó quan trọng nhất là: - Định nghĩa về đối tượng bảo hộ; - Quyền của chủ sở hữu các đối tượng đó; - Thời hạn hưởng quyền; - Phạm vi quyền hạn; - Phương pháp thủ đắc quyền.
  38. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 39 d) Định nghĩa về đối tượng bảo hộ Kiểu dáng như một khái niệm hay ý tưởng. Đối tượng của bảo hộ pháp lý kiểu dáng công nghiệp không phải là vật phẩm hay sản phẩm mà là kiểu dáng được ứng dụng hoặc được thể hiện trên những vật phẩm hay sản phẩm đó. Điều nhấn mạnh là một khái niệm trừu tượng hoặc ý tưởng được coi như đối tượng của bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Bảo hộ kiểu dáng công nghiệp không áp dụng trực tiếp với những vật phẩm hoặc sản phẩm mà dành cho chủ sở hữu quyền độc quyền về kiểu dáng công nghiệp quyền khai thác thương mại những sản phẩm hay những vật phẩm này. Hơn thế, bảo hộ kiểu dáng công nghiệp chỉ áp dụng với những sản phẩm khi nó thể hiện hoặc tái tạo những kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ. Vì thế sự bảo hộ không cản trở những nhà sản xuất khác sản xuất hoặc buôn bán những sản phẩm tương tự với cùng một chức năng kỹ thuật miễn là sản phẩm đó không thể hiện hoặc tái tạo lại những kiểu dáng công nghiệp đã được bảo hộ. Khái niệm hoặc ý tưởng tạo ra kiểu dáng công nghiệp có thể là một vật gì đó được thể hiện thành hai chiều hay ba chiều. Khi định nghĩa về kiểu dáng, Luật đăng ký kiểu dáng công nghiệp năm 1949 của Anh dẫn chiếu tới “các đặc điểm về hình dáng, hình thể, hoa văn hay trang trí” (Điều 1). Nói chung theo định nghĩa này, các từ “hình dáng” và “hình thể” đồng nghĩa với nhau và cả hai thể hiện hình dáng sản phẩm sẽ được làm ra hay nói cách khác thể hiện một cái gì đó ba chiều. Cũng như vậy, người ta coi hoa văn và trang trí là từ đồng nghĩa và cả hai đề cập đến một cái gì đó được dập nổi, được khắc vào hay gắn lên sản phẩm với mục đích trang trí hay nói cách khác là những gì hai chiều. Đạo luật về sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và quyền tác giả năm 1988 của Anh cũng quy định về “quyền đối với kiểu dáng công nghiệp”. Theo Đạo luật này kiểu dáng công nghiệp là “bề ngoài bất kỳ của hình dáng hoặc hình thể (dù bên trong hay bên ngoài) của toàn bộ hay một phần của một vật phẩm” (Điều 213(2)). Việc ứng dụng hay thể hiện trong một vật phẩm Một trong những mục đích cơ bản của bảo hộ kiểu dáng công nghiệp là nhằm khuyến khích yếu tố kiểu dáng của sản phẩm. Do đó, đặc điểm
  39. 40 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI chung của Luật kiểu dáng công nghiệp là một kiểu dáng chỉ được bảo hộ khi nó có thể được sử dụng trong công nghiệp hoặc những sản phẩm được sản xuất với quy mô lớn. Yêu cầu rằng một kiểu dáng công nghiệp phải được ứng dụng vào một sản phẩm thực tế để được bảo hộ là một trong những vấn đề mang tính nguyên tắc nhằm phân biệt mục đích bảo hộ kiểu dáng công nghiệp với bảo hộ Quyền Tác giả, bởi bảo hộ Quyền Tác giả chỉ đơn giản là quan tâm đến những sáng tạo mang tính nghệ thuật. Việc loại trừ những kiểu dáng chỉ mang chức năng kỹ thuật Việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp thông qua hình dáng bề ngoài có thể thấy phổ biến trong nhiều luật kiểu dáng công nghiệp, kiểu dáng chỉ mang chức năng kỹ thuật mà vật phẩm thể hiện sẽ không thuộc đối tượng bảo hộ. Về phần này, ví dụ Điều 25.1 Hiệp định TRIPS quy định các thành viên của WTO có thể quy định mở rộng việc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp với những kiểu dáng được cho là thiết yếu về mặt chức năng hay kỹ thuật. Việc không bảo hộ những kiểu dáng công nghiệp chỉ mang chức năng kỹ thuật là một mục đích cơ bản. Nhiều sản phẩm mà các kiểu dáng công nghiệp được ứng dụng tự bản thân nó không phải là mới và được nhiều nhà sản xuất làm ra với số lượng lớn. Ví dụ như thắt lưng, giày, đinh vít, bạc pitton có thể được hàng trăm nhà sản xuất cùng sản xuất và tất cả các sản phẩm trong mỗi loại đều có cùng một đặc tính. Sự cản trở như vậy là không hợp lý trừ phi kiểu dáng đó hoàn toàn mới mẻ và có tính sáng tạo, đạt được những tiêu chuẩn khắt khe về bảo hộ Bằng độc quyền sáng chế. Tính mới hay tính nguyên bản Đây là yêu cầu của tất cả các luật về kiểu dáng công nghiệp, rằng việc bảo hộ thông qua đăng ký chỉ được cấp cho những kiểu dáng công nghiệp mới hoặc đôi khi được trình bày là nguyên bản. Tính mới của kiểu dáng công nghiệp là lý do căn bản để trao chứng nhận cho người sáng tạo thông qua việc đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp. Trong khi yêu cầu về tính mới được thấy trong luật pháp nhiều nước thì bản chất của tính mới như một điều kiện để được bảo hộ lại rất khác nhau giữa luật pháp các quốc gia.
  40. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 41 e) Các quyền liên quan đến kiểu dáng công nghiệp Những quyền dành cho chủ sở hữu một kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký có hiệu lực một lần nữa nhấn mạnh vào mục đích quan trọng của Luật kiểu dáng công nghiệp trong việc thúc đẩy và bảo vệ những yếu tố kiểu dáng trong sản xuất công nghiệp. Vì vậy, trong khi Quyền Tác giả trao cho tác giả quyền ngăn chặn việc sao chép một tác phẩm thì Luật kiểu dáng công nghiệp trao cho chủ sở hữu độc quyền ngăn chặn việc khai thác trái phép kiểu dáng đó trong sản xuất công nghiệp. Quyền hưởng sự bảo hộ Quyền hưởng sự bảo hộ pháp lý đối với một kiểu dáng công nghiệp thuộc về người sáng tạo (hoặc tác giả hay người khởi đầu) của kiểu dáng công nghiệp đó. Có hai vấn đề liên quan tới việc hoạt động của nguyên tắc này nảy sinh và thường là đối tượng của những quy định pháp luật cụ thể. Trước hết, đó là vấn đề về quyền hưởng sự bảo hộ pháp lý đối với một kiểu dáng công nghiệp do một người làm công hoặc một chủ thầu tạo ra theo nhiệm vụ. Trong trường hợp này, thông thường pháp luật quy định quyền được bảo hộ pháp lý kiểu dáng công nghiệp đó thuộc về người chủ hay thuộc về người yêu cầu thực hiện kiểu dáng công nghiệp. Điều cơ bản trong quy định này là việc sáng tạo kiểu dáng công nghiệp thuộc phạm vi nhiệm vụ mà người làm công đã được trả tiền để thực hiện, do đó người làm công nên tìm kiếm phần thưởng cho những hoạt động sáng tạo với mức thù lao, trách nhiệm hợp lý và những điều kiện khác trong công việc. Tương tự như vậy đối với người chủ thầu, người chủ thầu trả tiền sáng tạo ra kiểu dáng để để sử dụng kiểu dáng do người thuê đó sáng tạo ra. Nhiều kiểu dáng công nghiệp hiện thời được tạo ra với sự trợ giúp của máy vi tính, vấn đề đặt ra là liệu một tác giả hoặc người sáng tạo có nhận được sự bảo hộ pháp lý đối với những kiểu dáng công nghiệp được tạo ra nhờ trợ giúp của máy vi tính hay không. Một cách tiếp cận với vấn đề này là coi máy tính như những công cụ khác mà người thiết kế có thể dùng để trợ giúp trong quá trình tạo ra một kiểu dáng công nghiệp. Trên cơ sở này, người chịu trách nhiệm điều khiển những tính năng của máy tính để tạo ra một kiểu dáng công nghiệp sẽ được coi là tác giả của kiểu dáng công nghiệp đó. Về vấn đề này, Điều 214(2) của Luật Quyền tác giả, Kiểu dáng công nghiệp và Sáng chế năm 1988 của Anh đã có quy định.
  41. 42 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI Theo luật pháp một số quốc gia, quyền đối với kiểu dáng công nghiệp có thể đạt được trong hoạt động sáng tạo và ấn định một kiểu dáng công nghiệp trên một tài liệu hoặc thể hiện kiểu dáng công nghiệp đó trên một vật phẩm. Hệ thống này không yêu cầu bất kỳ thủ tục đăng ký chính thức nào để xác lập quyền độc quyền đối với kiểu dáng công nghiệp. Những ví dụ về hệ thống này như trong Luật của Pháp, và “Luật kiểu dáng công nghiệp” trong luật Quyền Tác giả, Kiểu dáng công nghiệp và Sáng chế năm 1988 của Anh. Quyền độc quyền Quyền không cho người khác được khai thác một kiểu dáng công nghiệp thường bao gồm Quyền độc quyền thực hiện bất kỳ việc nào dưới đây vì mục đích công nghiệp hay thương mại: + Sản xuất sản phẩm ứng dụng hoặc thể hiện kiểu dáng công nghiệp. + Nhập khẩu vật phẩm mà kiểu dáng công nghiệp được ứng dụng hoặc thể hiện. + Bán, cho thuê hoặc chào bán những vật phẩm như vậy. Theo luật pháp một số quốc gia, Quyền độc quyền của chủ sở hữu gồm cả việc không cho người khác lưu giữ bất kỳ vật phẩm nào mà kiểu dáng công nghiệp đó được áp dụng hoặc thể hiện. Đôi khi quyền này được xem là thừa vì nó chỉ giải quyết những hành vi khởi đầu, trong khi quyền này thường đã được kèm theo để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi quyền của chủ sở hữu, vì việc xác định nguồn hàng vi phạm thường dễ hơn là bắt một người đang bán hay chào bán những mặt hàng đó. Do đối lập với Quyền Tác giả, nên đối tượng quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp được chính kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký xác định. Tuy nhiên, người ta thường quy định rằng, chủ sở hữu có quyền không chỉ đối với việc khai thác trái phép chính kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký, mà còn đối với cả việc khai thác trái phép bất kỳ sự bắt chước nào một kiểu dáng mà chỉ khác với kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký ở một vài khía cạnh không dễ nhận thấy. g) Thời hạn bảo hộ Quy định về thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp giữa các nước rất khác nhau. Thời hạn bảo hộ tối đa từ 10-25 năm, thường được chia thành
  42. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 43 nhiều giai đoạn và buộc chủ sở hữu phải gia hạn đăng ký để được kéo dài thời hạn bảo hộ. Thời hạn bảo hộ tương đối ngắn thường liên quan tới những bộ sưu tập kiểu dáng thời trang phổ biến mà chỉ cần được chấp nhận hoặc thành công trong thời gian ngắn, đặc biệt là những lĩnh vực thời trang nhạy cảm như quần áo, giày dép. Theo quy định của Luật SHTT 2005 của Việt Nam: Giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn có hiệu lực từ ngày cấp và chấm dứt vào ngày sớm nhất trong số những ngày sau đây: - Kết thúc mười năm kể từ ngày nộp đơn; - Kết thúc mười năm kể từ ngày thiết kế bố trí được người có quyền đăng ký hoặc người được người đó cho phép khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới; - Kết thúc mười lăm năm kể từ ngày tạo ra thiết kế bố trí. h) Mối quan hệ với Quyền Tác giả Đối tượng được hưởng sự bảo hộ kiểu dáng công nghiệp cũng có thể nhận được sự bảo hộ tương đương từ Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Quyền Tác giả và việc bảo hộ là đồng thời. Cùng bảo hộ nghĩa là kiểu dáng công nghiệp được đồng thời cả hai luật bảo hộ nên người sáng tạo có thể viện dẫn sự bảo hộ của một trong hai luật hoặc của cả hai, Luật Quyền tác giả và Luật Kiểu dáng công nghiệp tùy theo sự lựa chọn của mình. Nghĩa là nếu anh ta không giành được sự bảo hộ của Luật Kiểu dáng công nghiệp do không đăng ký được kiểu dáng công nghiệp đó thì anh ta có thể yêu cầu Luật Quyền tác giả bảo hộ mà không cần tuân theo bất kỳ thủ tục nào. Cuối cùng, sau khi thời hạn bảo hộ của kiểu dáng công nghiệp đăng ký đã hết thì người sáng tạo vẫn được Luật Quyền tác giả bảo hộ. Tuy nhiên, cần lưu ý phân biệt giữa bảo hộ đồng thời với “cùng tồn tại”. Cùng tồn tại sự bảo hộ nghĩa là người sáng tạo phải chọn sự bảo hộ của hoặc là Luật Kiểu dáng công nghiệp hoặc là Luật Quyền tác giả. Nếu anh ta chọn một luật thì không được phép viện dẫn luật khác nữa. Nếu anh ta đã đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp thì khi đăng ký đó hết hạn, anh ta không được yêu cầu bảo hộ theo Luật Quyền tác giả, ít nhất là đối với ứng dụng cụ thể của kiểu dáng công nghiệp đó.
  43. 44 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI Các quyền được trao do việc đăng ký một kiểu dáng công nghiệp là quyền tuyệt đối, nghĩa là nó sẽ bị xâm phạm dù có hay không sự sao chép cố ý. Sẽ có hành vi vi phạm mặc dù người vi phạm hành động một cách độc lập và không hề biết tới kiểu dáng công nghiệp đã được đăng ký đó. Còn theo Luật Quyền tác giả, chỉ có sự vi phạm khi tái bản một tác phẩm được Luật Quyền tác giả bảo hộ. 1.1.2.2.2 Mạch tích hợp Một lĩnh vực khác trong bảo hộ sở hữu trí tuệ là việc bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp. Thiết kế bố trí mạch tích hợp là những sáng tạo của trí óc con người. Chúng thường là kết quả của một sự đầu tư lớn, cả về mặt thời gian nghiên cứu của những chuyên gia trình độ cao cũng như về mặt tài chính. Yêu cầu về sáng tạo những thiết kế bố trí mới để giảm kích thước của những mạch tích hợp hiện hành và đồng thời nâng cao chức năng của chúng vẫn rất cần thiết. Mạch tích hợp càng nhỏ thì càng cần ít nguyên liệu sản xuất, và không gian để chứa chúng cũng sẽ nhỏ hơn. Mạch tích hợp được sử dụng trong rất nhiều loại sản phẩm, bao gồm những sản phẩm dùng trong đời sống hàng ngày như đồng hồ, máy thu hình, máy giặt, ô tô cũng như các thiết bị xử lý dữ liệu tinh vi khác. Trong khi việc sáng tạo một thiết kế bố trí mạch tích hợp mới là sự đầu tư quan trọng thì bản sao của những thiết kế bố trí này lại chỉ đáng giá một phần nhỏ của sự đầu tư đó. Có thể thực hiện bản sao bằng cách chụp lại từng bố trí của mạch tích hợp và chuẩn bị che dấu cho việc sản xuất chúng dựa trên cơ sở là những bức ảnh đã chụp được. Khả năng của những bản sao này là lý do chính để quy định pháp luật bảo hộ thiết kế bố trí. Hội nghị ngoại giao tổ chức tại Washington D.C năm 1989 đã thông qua Hiệp ước về sở hữu trí tuệ liên quan tới mạch tích hợp (Hiệp ước IPIC(1)). Hiệp ước này cho phép các quốc gia thành viên WIPO và của Liên Hợp Quốc hay các tổ chức liên chính phủ tham gia khi đạt được một số tiêu chuẩn cụ thể. (1) Intellectual Property Integrated Circuits (IPIC)
  44. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 45 Hiệp ước có sự liên kết chặt chẽ về mặt nghiên cứu với Hiệp định TRIPS của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). a) Định nghĩa đối tượng bảo hộ - Điều 2 Hiệp ước IPIC đưa ra các định nghĩa sau: “Mạch tích hợp” là một sản phẩm, dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong đó các phần tử - với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn và nhằm thực hiện chức năng điện tử; “Thiết kế bố trí” là cấu trúc không gian ba chiều của các phần tử - với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong của một mạch tích hợp, hay là một cấu trúc không gian ba chiều của một mạch tích hợp dùng cho sản xuất ”. - Theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005 của Việt Nam: Mạch tích hợp bán dẫn là sản phẩm dưới dạng thành phẩm hoặc bán thành phẩm, trong đó các phần tử với ít nhất một phần tử tích cực và một số hoặc tất cả các mối liên kết được gắn liền bên trong hoặc bên trên tấm vật liệu bán dẫn nhằm thực hiện chức năng điện tử. Mạch tích hợp đồng nghĩa với IC, chip và mạch vi điện tử. Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (thiết kế bố trí) là cấu trúc không gian của các phần tử mạch và mối liên kết các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn. b) Nội dung của hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp do Hiệp ước Washington thiết lập Theo Hiệp ước IPIC, mỗi thành viên, trong lãnh thổ của mình, buộc phải đảm bảo việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp, cho dù mạch tích hợp đó có liên quan chặt chẽ với một sản phẩm hay không. Nghĩa vụ này được áp dụng với các thiết kế bố trí nguyên gốc là kết quả nỗ lực trí tuệ của người sở hữu sáng tạo ra chúng, và là mới đối với những người sáng tạo thiết kế bố trí cũng như với những nhà sản xuất mạch tích hợp vào thời điểm họ sáng tạo. Các thành viên có thể bảo hộ thiết kế bố trí dựa vào việc khai thác thương mại hoặc vào ngày nộp đơn đăng ký bảo hộ hay dựa vào việc đăng ký.
  45. 46 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI 1.1.2.3 Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh 1.1.2.3.1 Giới thiệu(1) Gần một thế kỷ qua, bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh đã được thừa nhận là bộ phận cấu thành của bảo hộ sở hữu công nghiệp. Vào năm 1900, tại Hội nghị ngoại giao Brúc-xen về sửa đổi Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp (sau đây được gọi là Công ước Paris), lần đầu tiên sự thừa nhận này được ghi nhận bằng việc bổ sung Điều 10bis vào Công ước. Sau nhiều kỳ hội nghị sửa đổi Công ước, hiện Điều này quy định như sau (theo Stockholm (1967) của Công ước Paris): Bất kỳ hành động cạnh tranh nào trái với thông lệ trung thực trong lĩnh vực công nghiệp hay thương mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Những hành vi sau đây đặc biệt bị cấm: - Mọi hành vi nhằm gây ra sự nhầm lẫn, bằng bất kỳ phương tiện nào, với cơ sở, hàng hóa hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh. - Những tuyên bố sai trái trong công việc kinh doanh nhằm làm mất uy tín của cơ sở, hàng hóa hay hoạt động kinh doanh, thương mại của đối thủ cạnh tranh. - Những chỉ dẫn hoặc tuyên bố sử dụng trong quá trình kinh doanh nhằm lừa dối công chúng về bản chất, quy trình sản xuất, đặc điểm, sự phù hợp về mục đích, hoặc số lượng của hàng hóa. Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh bổ sung một cách hữu hiệu cho việc bảo hộ các Quyền Sở hữu công nghiệp như các sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá đã đăng ký, trong trường hợp một sáng chế hay một dấu hiệu không được bảo hộ bởi một quyền như vậy. Tất nhiên có những trường hợp cạnh tranh không lành mạnh khác như trường hợp trong Điều (1) Theo Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
  46. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 47 10bis(3)2 của Công ước Paris, đó là những tuyên bố sai trái trong quá trình kinh doanh nhằm làm mất uy tín đối thủ cạnh tranh, khi đó việc bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh không thực hiện chức năng bổ trợ như vậy. Điều này xuất phát từ thực tế là khái niệm cạnh tranh không lành mạnh bao hàm nhiều hành vi khác nhau và sẽ được đề cập tới trong các phân tích dưới đây. 1.1.2.3.2 Nhu cầu bảo hộ Một số quốc gia, ở cả khu vực phát triển và khu vực đang phát triển, đã hoặc đang tiếp nhận hệ thống kinh tế thị trường, cho phép tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại trong khuôn khổ pháp luật. Tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được xem là phương tiện thỏa mãn cung và cầu tốt nhất trong nền kinh tế và phục vụ cho lợi ích của người tiêu dùng và nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, ở đâu có cạnh tranh thì ở đó cũng có thể xẩy ra các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Có thể thấy rõ hiện tượng này ở tất cả các nước vào mọi thời điểm, bất kể hệ thống chính trị xã hội hiện hành nào. Việc tự điều chỉnh không chứng tỏ là một phương pháp bảo vệ hiệu quả chống lại cạnh tranh không lành mạnh. Nếu việc tự điều chỉnh được phát triển tốt và được giám sát chung thì thậm chí nó sẽ nhanh hơn, bớt tốn kém và hiệu quả hơn bất kỳ hệ thống tòa án nào. Nhưng việc nó đứng vững được hay bị sụp đổ lại phụ thuộc vào sự giám sát của tất cả những người tham gia. Để ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh một cách hiệu quả, việc tự điều chỉnh phải được trợ giúp bởi một hệ thống thực thi pháp luật, tối thiểu là trong một số lĩnh vực. Các nguyên tắc ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh và nguyên tắc ngăn chặn sự hạn chế kinh doanh (Luật Chống độc quyền) có liên hệ mật thiết với nhau: cả hai đều nhằm đảm bảo hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chúng hoạt động theo những cách khác nhau: Luật Chống độc quyền liên quan tới việc duy trì tự do cạnh tranh bằng cách hạn chế đấu tranh trong thương mại và lạm dụng quyền lực kinh tế, trong khi đó luật về cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới việc đảm bảo công bằng trong cạnh tranh bằng cách buộc tất cả những bên tham gia phải tuân theo các nguyên tắc như nhau. Tuy vậy, cả hai luật này đều quan
  47. 48 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI trọng ngang nhau mặc dù chúng ở những khía cạnh khác nhau và luôn bổ sung cho nhau. 1.1.2.3.3 Cơ sở pháp lý của việc bảo hộ a) Sự phát triển của Luật Cạnh tranh không lành mạnh Tất cả các nước có hệ thống kinh tế thị trường đã đặt ra một số hình thức bảo vệ chống lại thực tiễn kinh doanh không lành mạnh. Tuy nhiên, để làm điều đó, họ đã chọn những cách tiếp cận khác nhau. Trong khi ở các lĩnh vực khác của Luật Sở hữu công nghiệp, như những gì liên quan tới sáng chế, kiểu dáng công nghiệp hoặc nhãn hiệu hàng hóa, người ta nhất trí rằng việc bảo hộ được đảm bảo hữu hiệu nhất bằng một đạo luật chuyên ngành, toàn diện thì cơ sở pháp lý cho việc ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh có thể tìm thấy trong một quy định ngắn gọn về yêu cầu bồi thường thiệt hại tới quy định chi tiết trong một đạo luật đặc biệt. Lý do của sự tiếp cận đa dạng này chỉ mang tính lịch sử đơn thuần. Trong thời gian gần đây, nhiều nước đã thông qua một cơ chế pháp luật đặc biệt về đối tượng hoặc đã thay thế những bộ luật trước đó về cạnh tranh không lành mạnh. Về các hoạt động lập pháp gần đây trong lĩnh vực này, Thụy Sỹ đã thông qua Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh vào năm 1986 trong đó bao gồm một loạt các điều khoản chung và quy định chi tiết về hành vi thị trường đặc trưng, ví dụ như hành vi bắt chước mù quáng; Hung-ga-ri đã thông qua Luật Cấm Hoạt động kinh doanh không lành mạnh vào năm 1990 trong đó quy định về cạnh tranh không lành mạnh và Luật Chống độc quyền; Luật Cạnh tranh không lành mạnh của Tây Ban Nha năm 1991 gồm có một quy định chi tiết về thực tiễn gây hại cho người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh; năm 1991, Bỉ đã thông qua Luật Bảo vệ người tiêu dùng và Các hoạt động thương mại, nhấn mạnh vào ý tưởng bảo vệ người tiêu dùng. b) Bảo hộ quốc tế: Điều 10bis Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp Điều 1(2) Công ước Paris đề cập tới việc ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh cùng với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng hóa trong số các đối tượng của bảo hộ sở hữu công nghiệp, và điều 10bis đưa ra quy định về ngăn cấm cạnh tranh không lành mạnh. Tại hơn
  48. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 49 một trăm năm mươi quốc gia thành viên của Công ước Paris, cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh vì vậy không chỉ thấy trong luật pháp quốc gia mà còn ở mức độ quốc tế. Theo điều 10bis(1) Công ước Paris, các nước thuộc Liên Hiệp Paris có nghĩa vụ đảm bảo việc bảo hộ một cách hữu hiệu chống cạnh tranh không lành mạnh. Điều 10ter(1) của Công ước quy định cụ thể hơn về nghĩa vụ đảm bảo “các biện pháp pháp lý thích hợp”. Đặc biệt, các biện pháp phải được thực hiện để cho phép các tổ chức và hiệp hội đại diện cho các nhà công nghiệp, nhà sản xuất hoặc các thương nhân được khởi kiện, miễn là điều đó không trái với pháp luật của nước có liên quan và không vượt quá các quyền thường được trao cho các hiệp hội quốc gia. Điều 10bis(2) Công ước Paris định nghĩa cạnh tranh không lành mạnh là bất kỳ hành vi cạnh tranh nào trái với các hành vi trung thực trong lĩnh vực công nghiệp hoặc thương mại. Định nghĩa bỏ ngỏ việc quyết định khái niệm “thương mại trung thực” cho toà án quốc gia và các cơ quan hành chính. Các nước thành viên của Liên hiệp Paris cũng được tự do đưa ra sự bảo hộ chống lại một số hành vi nhất định, thậm chí nếu các bên hữu quan không cạnh tranh với nhau. Điều 10bis(3) Công ước Paris đưa ra ba ví dụ cho trường hợp “cụ thể” phải bị cấm. Những trường hợp này chưa hẳn đã toàn diện nhưng là sự bảo hộ tối thiểu mà tất cả các nước thành viên phải đưa ra. Đối với hai trường hợp đầu tiên - gây ra sự nhầm lẫn và làm mất uy tín - có thể được coi là thuộc lĩnh vực “truyền thống” của luật cạnh tranh, đó là bảo hộ đối thủ cạnh tranh. Trường hợp thứ ba - lừa dối - được bổ sung tại Hội nghị sửa đổi ở Lisbon năm 1958, đã tính đến lợi ích của cả người cạnh tranh và người tiêu dùng. Ngoài Điều 10bis và 10ter, Công ước Paris còn có nhiều quy định liên quan tới bảo hộ chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo nghĩa rộng hơn, đặc biệt với những hành vi liên quan tới nhãn hiệu hàng hoá và tên thương mại. c) Bảo hộ quốc gia: Ba cách tiếp cận chính tới Luật Cạnh tranh không lành mạnh Theo Điều 10bis(1) Công ước Paris, các nước thành viên của Liên hiệp Paris phải quy định việc bảo hộ một cách hữu hiệu chống lại cạnh
  49. 50 VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THƯƠNG MẠI tranh không lành mạnh. Mặc dù họ không bị buộc phải đưa ra một thể chế đặc biệt vì mục đích này, nhưng họ phải quy định - ít nhất là trên cơ sở pháp luật hiện hành - sự bảo hộ hữu hiệu chống lại mọi hành vi “trái với các hoạt động thương mại trung thực” và đặc biệt chống các hành vi được đề cập tại Điều 10bis(3). Khi thực hiện nghĩa vụ ràng buộc này, có thể phân ra ba hướng tiếp cận chính. - Bảo hộ dựa trên các quy định pháp luật chuyên ngành Nhiều nước đã thông qua những đạo luật đặc biệt hoặc các quy định cụ thể trong các đạo luật rộng hơn, mà đôi khi được kết hợp với các quy định trong các đạo luật chung như Bộ luật Dân sự, điều chỉnh việc bảo hộ chống lại cạnh tranh không lành mạnh. Những đạo luật này đều quy định các chế tài dân sự hoặc các chế tài hình sự và đưa ra quy định chung rõ ràng (thường dựa theo quy định tại Điều 10bis(2) của Công ước Paris) được bổ trợ bằng những quy định chi tiết về các hình thức của hoạt động thương mại không lành mạnh; các đạo luật thường đưa ra những chế tài dân sự và, đối với một số trường hợp cụ thể cũng có thể áp dụng các hình phạt. Mặc dù nhiều nước cũng đã thông qua đạo luật bổ sung quy định về các hành vi liên quan tới những sản phẩm nhất định (lương thực, thuốc men ), phương tiện thông tin (truyền hình) hay các hoạt động tiếp thị (tặng quà, thưởng ), nhưng đạo luật chống cạnh tranh không lành mạnh vẫn là cơ sở chính cho việc bảo hộ. Phạm vi của đạo luật đó thậm chí còn rộng hơn bởi cho rằng việc vi phạm bất kỳ đạo luật nào khác cũng có thể là một thực tiễn thương mại không lành mạnh vì nó đem lại một lợi thế phi lý trong cạnh tranh so với đối thủ cạnh tranh tuân thủ đúng luật. Tại một số quốc gia, khái niệm về luật cạnh tranh đặc biệt được đưa ra nhằm thông qua một luật chung về hành vi thị trường, hay sự liên hệ với luật chống độc quyền được nhấn mạnh bằng việc thông qua các đạo luật về thiết chế cạnh tranh cũng như sự lành mạnh trong cạnh tranh. - Bảo hộ dựa trên Luật Vi phạm chung và/hoặc Luật về “Mạo nhận” và Bí mật thương mại Đối với nhóm nước thuộc hệ thống luật dân sự, mà theo hướng bảo hộ thương nhân trung thực, thì việc bảo hộ thường được quy định trong luật vi phạm chung. Đối với nhóm nước khác theo hệ thống thông luật, thì các hành vi mạo nhận và vi phạm bí mật thương mại do toà án quy định (ít
  50. Chương 1: Khái quát chung về sở hữu trí tuệ 51 nhất vào lúc ban đầu) là cơ sở chính cho việc bảo hộ các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, đối với việc bảo hộ người tiêu dùng, nhiều nước thuộc hai hệ thống trên đều có những quy định pháp luật riêng điều chỉnh các trường hợp cụ thể về hành vi thị trường không mong muốn, như việc quảng cáo lừa dối, so sánh giá cả, xổ số, trò chơi và trao thưởng; những luật này độc lập với việc bảo hộ người cạnh tranh dựa trên các nguyên tắc của Luật Dân sự hay hệ thống Thông Luật. - Sự kết hợp của cả hai hướng tiếp cận trên Hầu hết các nước thành viên của Công ước Paris - thậm chí cả những nước đầu tiên đã cố gắng điều chỉnh về cạnh tranh không lành mạnh bằng các phương pháp của luật vi phạm chung đều kết hợp các nguyên tắc chung của Bộ luật Dân sự, án lệ và các luật đặc biệt. Nhiều nước theo cơ cấu liên bang thì việc phân chia thẩm quyền pháp lý giữa cơ quan lập pháp liên bang và cơ quan lập pháp tiểu bang dẫn tới một sự kết hợp rất phức tạp về các hình thức bảo hộ khác nhau. Tại một số quốc gia, luật pháp liên bang thậm chí còn không có quyền tài phán về cạnh tranh không lành mạnh khi hành vi chỉ ở mức độ được coi là vi phạm luật chung của một bang. Tại những nước như vậy, việc bảo hộ do các bang quy định và nhìn chung sự bảo hộ được phát triển tốt hơn sự bảo hộ ở cấp liên bang. Đặc biệt ở Hoa Kỳ, khả năng hạn chế của các biện pháp của luật chung đối với cạnh tranh không lành mạnh trước tiên do luật liên bang điều chỉnh thông qua việc thành lập một cơ quan hành chính (Ủy ban Thương mại Liên bang) và gần đây thông qua việc mở rộng quy định của Luật liên bang về Nhãn hiệu hàng hoá (Điều 43(a) của Luật Nhãn hiệu hàng hóa (Đạo luật Lanham)) đối với nhiều hoạt động nhằm lừa dối. Nhưng quy định tiến bộ nhất lại thấy trong “các luật kinh doanh”, “các đạo luật nhỏ của FTC”, “Luật Bảo hộ Người tiêu dùng” và các đạo luật khác do các bang của Hoa Kỳ thông qua. 1.1.2.3.4 Vai trò của pháp luật Mặc dù có nhiều cách tiếp cận như đã đề cập ở trên, tất cả các nước đã đưa ra sự bảo hộ hữu hiệu chống cạnh tranh không lành mạnh đều đặc biệt quan tâm đến việc thực thi luật pháp, và thường cho phép các toà án tự do xem xét. Thành công của luật cạnh tranh không lành mạnh phụ thuộc nhiều vào những gì mà toà án có thể áp dụng được. Rất ít quy định