Thực trạng và tác động của việc sử dụng đất đai đến quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và tác động của việc sử dụng đất đai đến quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- thuc_trang_va_tac_dong_cua_viec_su_dung_dat_dai_den_quan_he.pdf
Nội dung text: Thực trạng và tác động của việc sử dụng đất đai đến quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay
- CHÍNH TRỊ - KINHThực trạng TẾ và HỌC tác động của việc sử dụng đất đai Thực trạng và tác động của việc sử dụng đất đai đến quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay Trần Hồng Hạnh * Tóm tắt: Bài viết trình bày thực trạng sử dụng đất đai ở Tây Nguyên và tác động của nó đến mối quan hệ dân tộc ở vùng này. Tại Tây Nguyên, mặc dù đã được Chính phủ đặc biệt quan tâm nhưng vấn đề đất đai vẫn còn nhiều bất cập trong quản lý và sử dụng đất đai. Tình trạng thiếu đất sản xuất khá phổ biến và chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt là trong cộng đồng các dân tộc thiểu số. Sự cộng cư của các tộc người cùng với những thụ hưởng chính sách đất đai và các chính sách dân tộc khác giữa các tộc người và giữa các nông, lâm trường với người dân đã có những tác động, cả tích cực và tiêu cực, đến sự ổn định và phát triển của vùng Tây Nguyên, đáng chú ý là tính bền vững trong sử dụng tài nguyên đất và khối đại đoàn kết dân tộc. Từ khóa: Đất đai; tộc người; dân tộc; quan hệ dân tộc; đoàn kết dân tộc; Tây Nguyên. 1. Mở đầu chỗ và các cư dân mới đến Tây Nguyên (cả Tây Nguyên nằm ở phía Tây Nam Việt di cư có kế hoạch và di cư tự do lên Tây Nam, là trung tâm của miền núi Nam Đông Nguyên, chủ yếu là từ miền Bắc vào). Trong Dương, gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk đó, cư dân tại chỗ của Tây Nguyên chỉ có 12 Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với 2 thị xã, tộc người, nhưng đến nay, tại Tây Nguyên, 52 huyện, 77 phường, 47 thị trấn và 598 đã có 54 tộc người cùng chung sống.(1) xã(1). Tây Nguyên có những hành lang tự Trong những năm qua, kinh tế vùng Tây nhiên thông với Nam Lào và Đông Bắc Nguyên đã có những bước phát triển mạnh, Campuchia; nằm trong Tam giác phát triển với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong khu vực biên giới ba nước Việt Nam - Lào - nước (GDP) thời kỳ 2001 - 2012 đạt bình Campuchia. Tây Nguyên có hệ thống đường quân 12,47%/năm, cao hơn tốc độ tăng giao thông liên hoàn nối với các tỉnh duyên trưởng chung của cả nước (7,14%/năm) và hải miền Trung và Đông Nam Bộ; có các cửa khẩu quốc tế, quốc gia trên tuyến hành (*) lang Đông - Tây, do vậy, có nhiều điều kiện Tiến sĩ, Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. ĐT: 0988065688. phát triển kinh tế mở. Email: tranhanh73@yahoo.com. Bài viết là sản phẩm Tổng số dân của Tây Nguyên là của đề tài TN3/X05 “Quan hệ tộc người và chiến 5.379.600 người với mật độ dân số trung lược xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong phát 2 triển bền vững Tây Nguyên” thuộc Chương trình bình là 99 người/km . Đa dạng tộc người là Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước hiện tượng phổ biến ở vùng Tây Nguyên “Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - hiện nay. Đây là kết quả của quá trình tăng xã hội vùng Tây Nguyên” (KHCN-TN3/11-15). (1) Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê dân số tự nhiên và cơ học của các cư dân tại 2012, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.16. 71
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 thậm chí cao hơn so với nhiều vùng khác Nguyên tính đến năm 2013 đạt 5.464,1 (Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông nghìn ha; trong đó, đất sản xuất nông Hồng). Cơ cấu kinh tế của vùng này có nghiệp là 2.000,4 nghìn ha (chiếm 36,6% bước chuyển dịch tích cực, chuyển mạnh từ tổng diện tích tự nhiên của cả vùng), đất kinh tế tự cung tự cấp là chính sang sản lâm nghiệp - 2.815,1 nghìn ha (51,5%), đất xuất hàng hóa. Những thay đổi trong cơ cấu chuyên dùng - 209,4 nghìn ha (3,7%) và đất kinh tế đã góp phần cải thiện đời sống của ở - 53,7 nghìn ha (1%). So với những năm người dân, làm giảm tình trạng đói nghèo ở trước đây, diện tích đất sản xuất nông các cộng đồng dân cư, trong đó có các dân nghiệp ngày càng tăng và tăng mạnh nhất, tộc thiểu số. Tuy nhiên, Tây Nguyên hiện sau đó đến diện tích đất chuyên dùng; đất ở vẫn là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao thứ hai cả cũng có xu hướng tăng nhưng không đáng nước, chỉ xếp sau vùng Trung du và miền kể; trong khi đó, diện tích đất lâm nghiệp núi phía Bắc. tuy vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất nhưng lại có xu 2. Thực trạng sử dụng đất đai ở Tây Nguyên hướng ngày càng giảm kể từ năm 2009 Tổng diện tích đất tự nhiên của Tây (Bảng 1). Bảng 1: Hiện trạng sử dụng đất ở Tây Nguyên Trong đó Năm Tổng diện tích Đất sản xuất Đất lâm Đất chuyên Đất ở nông nghiệp nghiệp dùng Diện tích (Nghìn ha) 2007 5464,0 1626,9 3122,5 142,0 43,5 2008 5464,1 1667,5 3081,8 157,7 45,5 2009 5464,2 1985,2 2830,3 202,8 53,1 2012 5464,2 1985,2 2830,3 202,8 53,1 2013 5464,1 2000,4 2815,1 209,4 53,7 Cơ cấu (%) 2007 100,0 29,8 57,1 2,6 0,8 2008 100,0 30,5 56,4 2,9 0,8 2009 100,0 36,3 51,8 3,7 1,0 2012 100,0 36,3 51,8 3,7 1,0 2013 100,0 36,6 51,5 3,8 1,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê qua các năm về Hiện trạng sử dụng đất phân theo địa phương. Tây Nguyên có diện tích đất bazan chiếm phát triển khá nhanh ở vùng(2)Tây Nguyên, 74,25% tổng số đất bazan của cả nước với trên 1,5 triệu ha và có hàng chục vạn ha đất (2) Trần Việt Hùng (2013), Phát triển Tây Nguyên đen, đất phù sa thích hợp với nhiều loại cây trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - trồng, thuận lợi phát triển một nền nông Phần 2, (2) nguyen/3159-phat-trin-tay-nguyen-trong-thi-k-y-mnh- nghiệp đa dạng . Với những lợi thế về thổ cong-nghip-hoa-hin-i-hoa-phn-2.html, ngày 12/1/2013 nhưỡng và khí hậu, sản xuất nông nghiệp (Truy cập ngày 5/6/2014). 72
- Thực trạng và tác động của việc sử dụng đất đai tạo nên một số vùng sản xuất hàng hóa tập 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3 trung, thâm canh cây công nghiệp như cà tháng 12 năm 2004 về sắp xếp, đổi mới các phê, hồ tiêu, cao su, chè, mía, điều, dâu nông, lâm trường quốc doanh, hầu hết các tằm, bông. nông, lâm trường đã được chuyển đổi thành Từ đầu những năm 2000 đến nay, cơ cấu các công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) sử dụng đất ở Tây Nguyên có sự thay đổi một thành viên nông, lâm nghiệp, các công đáng kể: một diện tích lớn đất nông, lâm ty cổ phần hoặc Ban Quản lý rừng. Đến nghiệp chuyển đổi thành đất cho các dự án cuối năm 2012, trên địa bàn Tây Nguyên có phát triển, giao thông, thủy lợi, thủy điện, 58 công ty nông nghiệp (trong đó, có 41 khu công nghiệp, khu đô thị mới, khu du công ty trực thuộc các tổng công ty trung lịch, khu dân cư nông thôn ương và 17 công ty trực thuộc tỉnh), 59 Để khắc phục tình trạng mất rừng và công ty lâm nghiệp và 58 Ban Quản lý rừng quản lý rừng bền vững, trong khoảng 10 (chưa bao gồm các vườn quốc gia)(4). năm gần đây, ngành lâm nghiệp đã có Nhìn chung, diện tích đất các nông, lâm những bước chuyển hướng quan trọng, từ trường nắm giữ lớn, nhưng hiệu quả kinh tế khai thác gỗ rừng tự nhiên là chính sang thấp. Một số công ty nông, lâm nghiệp đã trồng mới, khoanh nuôi, giao khoán bảo vệ phân định rõ nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh rừng, gắn khai thác với chế biến theo kế và nhiệm vụ công ích, đổi mới cơ chế quản hoạch. Do vậy, xã hội hóa tài nguyên rừng lý và hình thức tổ chức, tạo quyền tự chủ và và nghề rừng - một hướng đi bền vững - đa dạng hóa nguồn vốn tại doanh nghiệp(5). được đặc biệt đẩy mạnh kể từ năm 2005, Tuy nhiên, về cơ bản, việc chuyển đổi sang khi có Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg mô hình các công ty nông, lâm nghiệp thực ngày 23 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, chính quyền địa (3) Văn phòng Chính phủ (2013), Thông báo Kết luận phương đã thí điểm giao rừng, khoán bảo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải tại vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng trong Hội nghị Bảo vệ và phát triển rừng các tỉnh Tây buôn, làng đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ Nguyên, Số 159/TB-VPCP ngày 11 tháng 4 năm 2013, Hà Nội, tr. 2. ở Tây Nguyên. Kết quả Hội nghị “Bảo vệ (4) Trung Thành Ngọc, Phương Tuyết, Hùng Long và phát triển rừng các tỉnh Tây Nguyên” Sơn (2014), Sắp xếp, đổi mới hoạt động nông, lâm trường: ngày 14 tháng 3 năm 2013 cho thấy khu Quản lý đất đai lỏng lẻo, 2014/01/06/sap-xep-doi-moi-hoat-dong-nong-lam- vực Tây Nguyên có 7 mô hình quản lý rừng truong-bai-1/, Nhân dân, ngày 6/1/2014 (Truy cập ngày bền vững; trong đó, các dự án quốc tế hỗ 16/7/2014). Cũng có thể xem: Vũ Tuấn Anh (2014), trợ 3 mô hình, còn lại là các địa phương chủ “Mấy vấn đề về đổi mới quản lý nhà nước đối với đất đai ở Tây Nguyên”. Trong: Viện Hàn lâm Khoa (3) động triển khai . học xã hội Việt Nam, Chương trình Tây Nguyên 3 Đối với vùng Tây Nguyên, có thể nói, và Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2014), Kỷ yếu Hội vấn đề nông, lâm trường được coi là nan thảo “Phát triển kinh tế - xã hội đặc thù vùng Tây Nguyên: Những vấn đề cốt yếu và giải pháp”, Thành giải và gây nên nhiều tranh luận trong thời phố Buôn Ma Thuột, ngày 25-26/4/2014, tr. 77-90. gian gần đây. Sau hơn 10 năm, kể từ Nghị (5) Vũ Dũng Minh (2013), Ðổi mới các nông, lâm trường quốc doanh, quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày tuc/item/20250002-.html, ngày 4/5/2013 (Truy cập 26 tháng 6 năm 2003 và Nghị định số ngày 16/7/2014). 73
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 chất vẫn chỉ là “bình mới rượu cũ”. Nhiều nông, lâm trường giữa các cơ quan chức mô hình công ty TNHH một thành viên có năng chưa đồng nhất nhưng có thể thấy rõ nguồn gốc từ các nông, lâm trường vẫn tình trạng phần lớn các nông, lâm trường mang tính hình thức và hành chính cao, hiện nay sử dụng đất kém hiệu quả. Vi chưa tách biệt rõ ràng giữa chức năng kinh phạm Luật Đất đai trong các nông, lâm tế với chức năng hành chính; do đó, chưa trường quá nhiều, kéo dài nhiều năm nhưng tạo động lực để các doanh nghiệp phát triển chậm giải quyết, nhất là ở khu vực Tây và có hiệu quả kinh tế thực sự. Tình trạng Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Việc cấp thua lỗ của các nông, lâm trường quốc giấy chứng nhận quyền sử dụng cho các doanh không còn hiếm ở Tây Nguyên. loại đất của các nông, lâm trường chậm, gây Ngoài ra, còn tình trạng để hoang hóa một khó khăn cho quá trình sắp xếp, đổi mới(7). diện tích lớn đất đai ở nhiều công ty nông, 3. Tác động của sử dụng đất đai đến lâm nghiệp trong khi nhiều người dân, đặc quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên biệt là các dân tộc thiểu số, đang thiếu đất 3.1. Tác động tích cực sản xuất cũng khá phổ biến. Không thể phủ nhận những thành tựu to Tình trạng vi phạm Luật Đất đai và Luật lớn mà vùng Tây Nguyên đã đạt được kể từ Bảo vệ và phát triển rừng vẫn diễn ra khá sau giải phóng. Các chính sách về di dân có mạnh mẽ ở Tây Nguyên. Kết luận của Phó kế hoạch từ cuối những năm 1970 và đầu Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải tại những năm 1980, sự thành lập và phát triển Hội nghị “Bảo vệ và phát triển rừng các rầm rộ một loạt các nông, lâm trường quốc tỉnh Tây Nguyên” đã chỉ rõ: “Tây Nguyên doanh nhằm tăng cường một khối lượng lớn vẫn là vùng trọng điểm về vi phạm Luật người dân di cư từ nơi khác đến (chủ yếu là Bảo vệ và phát triển rừng, bình quân hàng người Kinh) và phát triển kinh tế Tây năm đã phát hiện được hàng chục nghìn vụ Nguyên đã làm thay đổi diện mạo Tây vi phạm; ở một số trọng điểm, tụ điểm phá Nguyên, tạo động lực phát triển đáng kể rừng nghiêm trọng đã hình thành đường dây cho vùng đất này. Với chủ trương phát triển phá rừng có hệ thống”(6). Tương tự như vậy, các nông, lâm trường và xây dựng khu kinh theo tài liệu của Bộ Tài nguyên và Môi tế mới ở Tây Nguyên, nhiều vùng đất trống, trường tham mưu để Chính phủ báo cáo đồi núi trọc đã được cải tạo và phát triển Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa thành những khu vực canh tác rộng lớn và XIII, đến tháng 6 năm 2013 tại các nông trù phú. Nền kinh tế tự cấp tự túc chuyển lâm trường, vườn quốc gia, khu bảo tồn dần sang kinh tế nông, lâm công nghiệp thiên nhiên, tình trạng vi phạm Luật Đất đai mang tính hàng hóa, trong đó chú trọng diễn ra hết sức nóng bỏng với diện tích cho phát triển ruộng nước, các cây công nghiệp thuê, mượn, chuyển nhượng trái pháp luật dài ngày và các dịch vụ chế biến nông sản. lên đến hơn 14.600 ha đất; hơn 78.000 ha bị Điều này đã tạo đà cho sự phát triển vùng người dân lấn chiếm, xảy ra tranh chấp chưa được giải quyết và hơn 428.000 ha (6) Văn phòng Chính phủ (2013), Tlđd, tr.2. chưa sử dụng hoặc sử dụng vào mục đích (7) Trung Thành Ngọc, Phương Tuyết, Hùng Long khác. Mặc dù số liệu về quản lý đất tại các Sơn (2014), Tlđd. 74
- Thực trạng và tác động của việc sử dụng đất đai nguyên liệu rộng lớn và nhiều chuỗi giá trị số chính sách liên quan đến đất ở và nhà ở cho ngay trong vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó, người nghèo của Chính phủ trong thời gian nhiều dân tộc thiểu số đã chuyển từ du qua (đặc biệt là Quyết định số 132/2002- canh, quảng canh sang định canh định cư QĐ/TTg, Quyết định số 154/2002-QĐ/TTg, và có đời sống tương đối ổn định; do vậy, Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg và Quyết tình trạng du canh du cư cũng giảm hơn so định số 167/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng với trước giải phóng. Việc đẩy mạnh những Chính phủ) đã thể hiện tính nhân văn sâu vùng chuyên canh và đa canh, đặc biệt là sắc, giúp cho đồng bào nghèo trong cả nước với sự có mặt của các dân tộc di cư (nổi nói chung và các tỉnh Tây Nguyên nói riêng trội là người Kinh - nhóm cư dân di cư có có nhà ở ổn định, từng bước nâng cao mức kế hoạch đến Tây Nguyên theo chủ trương sống, góp phần ổn định an sinh xã hội(8). phát triển kinh tế mới của Chính phủ) đã Một số nông, lâm trường quốc doanh, giúp cho các cộng đồng cư dân thuộc các một vài đơn vị quốc phòng đóng quân trên dân tộc khác nhau có điều kiện gần gũi, địa bàn Tây Nguyên đã có những đóng góp trao đổi và học tập kinh nghiệm sản xuất thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, của nhau. đoàn kết dân tộc và an ninh chủ quyền quốc Tinh thần đoàn kết vốn có từ lâu đời gia. Với nhiệm vụ chính là góp phần phát trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam một triển kinh tế - xã hội trong khu vực nói lần nữa (không chỉ trong những cuộc cách chung và phát triển kinh tế của đơn vị nói mạng giải phóng đất nước) được thử thách riêng, nhiều nông, lâm trường đã thu hút, và thể hiện thông qua sự chia sẻ, cho mượn huy động và tạo công ăn việc làm cho đông đất sản xuất (chủ yếu là đất nương rẫy, đất đảo đồng bào dân tộc thiểu số; thông qua luân canh bỏ hóa) giữa những nhóm dân tộc đó, từng bước nâng cao năng lực làm việc thiểu số tại chỗ với một số nhóm cư dân di cho đội ngũ này. Không chỉ chú trọng phát cư tự do từ miền Bắc vào đầu những năm triển sản xuất (phát triển vùng cà phê, hồ 1990 (chủ yếu là người Thái, Tày, Nùng và tiêu, cao su, lúa nước, xây dựng một số nhà một bộ phận người Kinh). Ngược lại, những máy chế biến nông sản, nhà máy chế biến đối tượng nhận được sự giúp đỡ của các mủ cao su, sản xuất phân bón vi sinh ), cộng đồng cư dân tại chỗ ở Tây Nguyên một số nông, lâm trường quốc phòng (điển cũng chia sẻ những kinh nghiệm sản xuất, hình là Binh đoàn 15) còn ổn định và phát những hỗ trợ trực tiếp thiết thực hàng ngày triển khu dân cư bằng cách tăng cường xây cho những người đã hỗ trợ, cưu mang mình. dựng các cơ sở hạ tầng (đường giao thông Thậm chí, ở một số địa phương, thông qua liên thôn, liên xã, hệ thống lưới điện cao những hỗ trợ trong sản xuất và cuộc sống thế, trạm biến áp đến các buôn, làng), hỗ trợ hàng ngày, những con người ấy ngày càng hiểu nhau, trở nên thân thiết đến mức đã (8) Phạm Thị Phước An, Chính sách hỗ trợ người phát triển mối quan hệ láng giềng của họ nghèo về nhà ở tại các tỉnh Tây Nguyên, thành mối quan hệ thông gia hoặc kết nghĩa cua-trung-uong/Chinh-sach-ho-tro-nguoi-ngheo-ve- anh em. nha-o-tai-cac-tinh-Tay-Nguyen_80_1766_2.aspx (Truy Chương trình định canh định cư và một cập ngày 5/6/2014). 75
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 và phát triển giáo dục xây dựng nhiều xếp sau các vùng: Bắc Trung Bộ và Duyên trường tiểu học và trung học cơ sở, nhà trẻ hải miền Trung, Trung du và miền núi phía mẫu giáo, y tế xây dựng bệnh viện và các Bắc, Đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, phân viện, trạm xá v.v.(9) sản lượng gỗ được khai thác ở tỉnh Gia Lai 3.2. Tác động tiêu cực là lớn nhất, đạt 330.400 m3 (năm 2012), và Môi trường Tây Nguyên bị ảnh hưởng đứng thứ 2 trong tổng số 63 tỉnh thành nghiêm trọng bởi sự phát triển rầm rộ của trong cả nước, chỉ xếp sau tỉnh Bình Định - các nông lâm trường quốc doanh vào cuối 332.600 m3 (năm 2012)(11). Do vậy, tổng những năm 1970 và đầu những năm 1980. diện tích rừng của Tây Nguyên cũng suy Nhiều cánh rừng tự nhiên với sự đa dạng giảm nhiều, giảm từ 3.868.400 ha, chiếm sinh học cao đã bị thay thế bởi những đồn 70,66% tổng diện tích tự nhiên (năm 1980) điền trồng cây công nghiệp (cao su, cà phê, xuống còn 2.050.000 ha (năm 2005)(12) và hồ tiêu, điều ), các khu chế xuất và tích trữ 1.772.744 ha (đối với rừng có trữ lượng), hàng hóa. Bên cạnh đó, tình trạng di cư tự đạt độ che phủ tính đến đầu năm 2013 chỉ do vẫn đang tiếp tục diễn ra. Tuy không còn 32,4%(13). phổ biến và trầm trọng như 20 năm trước, Rừng bị thu hẹp và suy giảm đã làm song tình trạng phá rừng vẫn tiếp diễn ở giảm nguồn sống của người dân tộc thiểu những khu vực có nhiều đồng bào di cư từ số. Nhiều dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây miền Bắc vào Tây Nguyên, đáng chú ý là ở Nguyên có truyền thống làm nương rẫy những khu vực có đông đồng bào Hmông di theo phương thức luân canh; họ có tập quán cư tự do. Ngoài ra, việc quy hoạch phát bỏ hoang hóa đất trong một thời gian nhất triển thủy điện và khai thác bauxit có ý định để phục hồi độ màu của đất. Tập quán nghĩa kinh tế - xã hội lớn nhưng đã có này được duy trì đều đặn và phổ biến khi những tác động tiêu cực đến môi trường, tài dân số chưa tăng áp lực lên đất đai và nguyên đất, rừng, nguồn nước và đời sống nguồn đất vẫn dồi dào. Bên cạnh đó, họ của đồng bào trong các vùng dự án. Hệ quả cũng khai thác các sản vật từ rừng làm là rừng của Tây Nguyên đến nay đã bị suy nguồn sống phụ và coi như là một nguồn kiệt nghiêm trọng. Tổng diện tích đất có thu nhập bổ trợ cho thu nhập chính từ sản rừng ở Tây Nguyên ngày càng giảm, bất chấp những nỗ lực trồng rừng và khôi phục (9) Nguyễn Xuân Sang (2006), “Binh đoàn 15 - Kinh rừng của chính quyền và nhân dân địa tế kết hợp với quốc phòng”. Trong: Ban Chỉ đạo Tây phương. Thời gian gần đây, tuy diện tích Nguyên và Công ty Tư vấn đào tạo và Phát triển rừng bị chặt phá đã giảm nhiều so với trước Đông Dương, Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.78 - 81. đây nhưng vẫn còn cao nhất trong tổng số 6 (10) Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống kê vùng trong cả nước, giảm từ 1.008.900 ha 2012, Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.448. (11) (năm 2005) xuống còn 621.200 ha (năm Tổng cục Thống kê (2013), Sđd, tr.443 - 444. (12) “Tây Nguyên - Vùng đất giàu đẹp của Tổ quốc”, (10) 2012) . Sản lượng gỗ khai thác ở Tây trong: Ban Chỉ đạo Tây Nguyên và Công ty Tư vấn Nguyên đứng thứ 4 với 309.300 m3 (năm đào tạo và Phát triển Đông Dương (2006), Tây 2005) tăng lên thành 620.300 m3 (năm Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.18 - 22. 2012) trong tổng số 6 vùng của cả nước, (13) Văn phòng Chính phủ (2013), Tlđd, tr.2. 76
- Thực trạng và tác động của việc sử dụng đất đai xuất nông nghiệp. Hiện nay, môi trường và đai. Cụ thể, việc tổ chức khai thác và bố trí điều kiện sống ấy của người dân về cơ bản đất chưa hợp lý; công tác cấp đất, giao đất đã bị phá vỡ trong khi phương thức và điều rừng, đất ở nhiều nơi còn chồng chéo; việc kiện sống mới của đồng bào ở nhiều nơi xử lý tranh chấp, lấn chiếm đất không triệt chưa được tạo ra, củng cố và phát triển, để. Trong quá trình giao đất, chưa có sự điều đó gây nên những khoảng trống về vật đánh giá, kiểm tra hiện trạng đất trên thực chất và tinh thần cho đồng bào. tiễn, hồ sơ đất thiếu chính xác, ranh giới sử Đất rừng và đất lâm nghiệp bị thu hẹp dụng đất không rõ ràng. Ngoài ra, áp lực trong khi đất nông nghiệp lại tăng lên; nhưng, của dân di cư tự do cũng gây nên tình trạng có một nghịch lý là, người dân, đặc biệt là thiếu đất và phá vỡ kế hoạch sử dụng đất người dân tộc thiểu số, lại thiếu đất canh tác. của địa phương. Một nguyên nhân khác là Thực hiện Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg do lợi ích kinh tế: thu nhập từ trồng một số ngày 8 tháng 10 năm 2002 của Thủ tướng loại cây công nghiệp cho thu nhập cao (cao Chính phủ về việc giải quyết đất sản xuất và su, cà phê, hồ tiêu ) và giá đất tăng đã dẫn đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở đến tình trạng mua bán đất ồ ạt (đặc biệt là Tây Nguyên thì có trên 85.000 hộ thiếu đất giữa những người di cư - chủ yếu là người (gần 60% số hộ), cần phải cấp trên 50.000 Kinh - và những người dân tộc thiểu số tại ha(14). Đến nay, mặc dù Nhà nước đã có chỗ), xâm canh và chiếm đất. Bên cạnh đó, những chính sách đặc thù, trong đó có công tác quản lý, sử dụng đất của các lâm những chính sách định canh định cư, nhằm trường lỏng lẻo, nhiều nơi còn tùy tiện cải thiện đời sống và nhu cầu về đất của trong giao khoán hoặc để hoang. Hơn nữa, người dân nhưng tình trạng thiếu đất vẫn cũng phải kể đến sự khác biệt về trình độ chưa được giải quyết triệt để. phát triển kinh tế - xã hội của các cư dân Đáng lưu ý, tình trạng mâu thuẫn, tranh trong vùng, về quan niệm và thói quen sử chấp, khiếu kiện kéo dài về đất đai diễn ra dụng đất rừng và đất sản xuất của họ. Cuối khá phổ biến ở các tỉnh Tây Nguyên. Các cùng là sự can thiệp, kích động, lợi dụng lôi mâu thuẫn, tranh chấp đất ở Tây Nguyên kéo của các thế lực thù địch trong và ngoài thường diễn ra trong những nhóm đối tượng nước.(14) chính sau: i) nông, lâm trường và người Sự thay đổi cơ cấu sử dụng đất ở Tây dân; ii) người Kinh và dân tộc thiểu số tại Nguyên, đặc biệt là từ đầu những năm chỗ; iii) dân tộc thiểu số tại chỗ và dân tộc 2000, không chỉ làm giảm chất lượng đất thiểu số di cư đến. Tranh chấp đất đai bắt (làm đất bị xói mòn, bạc màu, cứng hóa), hệ nguồn từ ba nguyên nhân cơ bản sau: 1) sự sinh thái và đa dạng sinh học, mà còn làm bất bình đẳng trong quản lý và sử dụng đất suy giảm và ô nhiễm mạch nước ngầm. Tài đai giữa công ty và người dân, và/hoặc giữa nguyên nước của vùng bị mất cân đối các đối tượng người dân khác nhau; 2) hậu quả để lại của các chương trình dự án trước (14) Lưu Văn Sùng (2010), Một số điểm nóng chính trị đây, đặc biệt là chương trình giao đất giao - xã hội điển hình tại các vùng đa dân tộc ở miền núi trong những năm gần đây - Hiện trạng, vấn đề, các rừng và các dự án trồng rừng; và 3) tác bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống (Sách động của kinh tế thị trường đến sử dụng đất chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.52. 77
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 nghiêm trọng về mùa khô; ở những nơi mất số (cả tăng tự nhiên và cơ học) trở nên khó rừng, các con suối khô cạn, mực nước ngầm kiểm soát, thiếu sự minh bạch, rõ ràng và tụt sâu, thiếu nước trở nên nghiêm trọng. hiệu quả trong quy hoạch đất đai và xử lý Tình trạng mất đất, thiếu đất, đặc biệt là tình huống.(15) đất sản xuất, cùng với những hạn chế trong Đặc biệt, mâu thuẫn tộc người và dân tộc quản lý và phân bổ đất đai kèm theo sự lợi càng trở nên phức tạp khi có sự lợi dụng, dụng, kích động và lôi kéo của các thế lực kích động của các thế lực phản động trong thù địch trong và ngoài nước đã góp phần và ngoài nước. Các thế lực thù địch trong dẫn đến những bất ổn về an toàn xã hội và nước và quốc tế luôn tận dụng và lợi dụng an ninh quốc gia. Các điểm nóng bùng phát triệt để những mâu thuẫn dân tộc, đặc biệt năm 2001 ở các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Kon là những mâu thuẫn về đất đai, cùng với Tum, và tái phát năm 2004 ở các tỉnh Đắk những vấn đề tôn giáo, để chống phá Việt Lắk, Đắk Nông và Gia Lai(15) có thể coi là Nam. Với luận điệu tuyên truyền “đuổi hệ quả của tình trạng bất ổn trên. Các cuộc người Kinh về xuôi, đòi lấy ruộng đất” của xung đột đã diễn ra quyết liệt, gây phản ứng các phần tử phản động trong và ngoài nước, dây chuyền và vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái phát. các thế lực phản động và thù địch lợi dụng Điều này đã làm tổn hại đến tình đoàn kết những khoảng trống về vật chất (trong đó, dân tộc và cuộc sống của đồng bào; gây mất cụ thể là mất đất và thiếu đất sản xuất trong lòng tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ và bộ phận lớn cư dân là người dân tộc thiểu chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối số tại chỗ) và tinh thần của người dân để với đồng bào dân tộc thiểu số; gây nghi kỵ kích động biểu tình, bạo loạn và xa hơn nữa giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số. là thực hiện âm mưu chính trị (tư tưởng ly Bên cạnh đó tâm lý hoang mang, lo sợ bị khai) đòi thành lập “Nhà nước Đềga độc trả thù dẫn đến tình trạng phân biệt đối xử lập” ở các tỉnh Tây Nguyên. trong sử dụng lao động người địa phương, 4. Kết luận cụ thể là nhiều người Kinh không thuê Đất đai và những vấn đề liên quan đến mướn người dân tộc thiểu số làm việc trong đất đai vẫn luôn là vấn đề nhạy cảm và một thời gian khá dài. phức tạp không chỉ ở Tây Nguyên mà còn 3.3. Bài học kinh nghiệm ở nhiều vùng khác trên khắp cả nước. Thực tế cho thấy ở vùng Tây Nguyên, Riêng ở Tây Nguyên, mặc dù đã được một trong những nguyên nhân sâu xa của Chính phủ đặc biệt quan tâm nhưng vấn đề hầu hết các mâu thuẫn tộc người, mâu thuẫn đất đai vẫn còn nhiều bất cập. Vẫn tồn tại dân tộc (quốc gia dân tộc) có nguồn gốc từ những bất bình đẳng trong quản lý và sử quản lý, sở hữu và sử dụng đất đai. Đất đai dụng đất đai. Tình trạng thiếu đất sản xuất luôn là vấn đề nhạy cảm và khó giải quyết, khá phổ biến, đặc biệt là trong cộng đồng không chỉ đối với vùng Tây Nguyên mà còn các dân tộc thiểu số, và chưa được giải đối với mọi miền đất nước. Những mâu quyết triệt để. Bên cạnh đó, có sự chênh thuẫn, xung đột liên quan đến đất đai có xu hướng ngày càng tăng khi sự gia tăng dân (15) Lưu Văn Sùng (2010), Sđd, tr.95 - 118. 78
- Thực trạng và tác động của việc sử dụng đất đai lệch giữa chính sách, trong đó có chính 2. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên và Công ty Tư vấn sách đất đai, và thực hiện chính sách, đặc đào tạo và Phát triển Đông Dương (2006), Tây biệt ở cấp cơ sở. Sự chênh lệch này phần Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nxb Chính nào đã ảnh hưởng bất lợi đến mối quan hệ trị quốc gia, Hà Nội. dân tộc giữa người Kinh và các dân tộc 3. Lưu Văn Sùng (2010), Một số điểm nóng thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên cũng như chính trị - xã hội điển hình tại các vùng đa dân tộc ở giữa các nông, lâm trường với người dân miền núi trong những năm gần đây - Hiện trạng, vấn trong vùng. Hiện trạng sử dụng đất đai ở đề, các bài học kinh nghiệm trong xử lý tình huống, các tỉnh Tây Nguyên đã có những tác Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. động, cả tích cực và tiêu cực, đến quan hệ 4. Tổng cục Thống kê (2013), Niên giám thống tộc người ở vùng này. kê 2012, Nxb Thống kê, Hà Nội. Nhằm thực hiện tốt chính sách đại đoàn 5. Văn phòng Chính phủ (2013), Thông báo Kết kết, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung nước và nâng cao mức sống của đồng bào Hải tại Hội nghị Bảo vệ và phát triển rừng các tỉnh các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, điều Tây Nguyên, Số 159/TB-VPCP ngày 11 tháng 4 năm đặc biệt quan trọng là ưu tiên giải quyết cơ 2013, Hà Nội. bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở và 6. Phạm Thị Phước An, Chính sách hỗ trợ người vấn đề tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào nghèo về nhà ở tại các tỉnh Tây Nguyên, dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, cần có biện pháp quản lý thực hiện quy hoạch đất đai, cua-trung-uong/Chinh-sach-ho-tro-nguoi-ngheo-ve- tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển công nha-o-tai-cac-tinh-Tay-Nguyen_80_1766_2.aspx ty nông, lâm nghiệp bằng cách rà soát lại (Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2014). hoạt động sản xuất của các công ty ấy, trên 7. Trần Việt Hùng (2013), Phát triển Tây Nguyên cơ sở đó, có thể thu hồi những diện tích đất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại sử dụng không hiệu quả của các công ty hóa - Phần 2, nông, lâm nghiệp để giao cho người dân sản te-tay-nguyen/3159-phat-trin-tay-nguyen-trong-thi- xuất. Đồng thời, cần tiếp tục hỗ trợ phát k-y-mnh-cong-nghip-hoa-hin-i-hoa-phn-2.html, ngày 12 triển các ngành nghề phi nông nghiệp cho tháng 1 năm 2013 (Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2014). đồng bào. 8. Vũ Dũng Minh (2013), Ðổi mới các nông, lâm trường quốc doanh, Tài liệu tham khảo tuc/item/20250002-.html, ngày 4 tháng 5 năm 2013 1. Vũ Tuấn Anh (2014), “Mấy vấn đề về đổi mới (Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2014). quản lý nhà nước đối với đất đai ở Tây Nguyên”. 9. Trung Thành Ngọc, Phương Tuyết, Hùng Trong: Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Long Sơn (2014), Sắp xếp, đổi mới hoạt động nông, Chương trình Tây Nguyên 3 và Ban Chỉ đạo Tây lâm trường: Quản lý đất đai lỏng lẻo, Nguyên (2014), Kỷ yếu Hội thảo “Phát triển kinh tế - xã hội đặc thù vùng Tây Nguyên: Những vấn đề cốt moi-hoat-dong-nong-lam-truong-bai-1/, yếu và giải pháp”, Thành phố Buôn Ma Thuột, ngày Nhân dân, ngày 6 tháng 1 năm 2014 (Truy cập ngày 25 - 26 tháng 4 năm 2014. 16 tháng 7 năm 2014). 79
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(93) - 2015 80