Quản trị tài chính - Chương 3: Quản lý tín dụng nhà nước

pdf 85 trang vanle 2370
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Quản trị tài chính - Chương 3: Quản lý tín dụng nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfquan_tri_tai_chinh_chuong_3_quan_ly_tin_dung_nha_nuoc.pdf

Nội dung text: Quản trị tài chính - Chương 3: Quản lý tín dụng nhà nước

  1. Chương 3: QUẢN LÝ TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC 1.1. Tính tất yếu khách quan và bản chất của tín dụng Nhà nước 1.1.1. Tính tất yếu khách quan của tín dụng nhà nước Thuật ngữ "tín dụng" xuất phát từ chữ La tinh: Creditum có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Trong tiếng Anh được gọi là "credit", tiếng Nga được gọi là "kpegum", theo ngôn ngữ dân gian ở Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng đã xuất hiện cùng với sự phân công lao động xã hội, sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã hình thành sự nợ nần lẫn nhau, những quan hệ vay mượn để thanh toán. Như vậy tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, là sự vận động của quy luật giát rị. Tín dụng nhà nước là hoạt động vay - trả giữa Nhà nước với các tác nhân hoạt động trong nền kinh tế, phục vụ cho mục đích quản lý vĩ mô của nhà nước. Tín dụng nhà nước ra đời và phát triển là xuất phát từ các lý do sau đây: Thứ nhất: Do quy mô chi ngân sách Nhà nước ngày càng mở rộng và tăng lên, nhưng thu ngân sách Nhà nước luôn bị hạn chế bởi những giới hạn nhất định như tốc độ tăng trưởng nền kinh tế, các định chế pháp lý, điều đó thường dẫn đến sự thiếu hụt nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước. Thiếu vốn cho đầu tư không những làm cho nhà nước thiếu hậu thuẫn về ngân sách để điều chỉnh kinh tế vĩ mô mà còn làm cho việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng phải dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước sẽ gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, nếu chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước hàng năm mặc dù có xu hướng tăng lên thì nguồn vốn đầu tư vẫn rất thiếu. Do đó việc phát huy tốt hơn vai trò của tín dụng nhà nước để mở rộng kênh nguồn vốn ngân sách Nhà nước thông qua huy động vốn là một tất yếu khách quan để tăng cường chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước Thứ hai: Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế thị trường không phải là một mô hình kinh tế hoàn hảo mà còn chưa đựng những khuyết tật thuộc bản chất 98 vốn có của nó như không chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội, phân hoá giàu nghèo và bất bình đẳng làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, gây mất ổn định kinh tế, chính trị, 91
  2. xã hội và dẫn đến việc hình thành cơ cấu kinh tế tự phát, sứpt mất cân đối, bất ổn định của một quốc gia cuộc khủng hoảng toàn diện của kinh tế thế giới từ bản thời kỳ 1929 - 1933 là một minh chứng thực tế chủ ra rằng cơ chế thị trường bản thân nó không thể đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững. Chính vì lý do này mà mô hình kinh tế hỗn hợp đang ngày càng chiếm ưu thế, ở đó vai trò điều tiết của Nhà nước ngày càng được khẳng định. Thực hiện vai trò điều tiết kinh tế, Nhà nước thường sử dụng các công cụ tài chính công như: thuế, phí, chi ngân sách Nhà nước ngoài ra Nhà nước còn sử dụng công cụ tín dụng và coi đó là một trong những biện pháp điều tiết vĩ mô hữu hiệu của nhà nước trong những giai đoạn lịch sử nhất định của quá trình phát triển kinh tế nhà nước. Thứ ba: Một đặc điểm phổ biến và nổi vật trong phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới hiện nay là hướng ra bên ngoài, hội nhập cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới bằng việc đẩy mạnh các hoạt động ngoại thương và các hoạt động đối ngoại khác. Hơn nữa, xu thế toàn cầu hoà và tự do hoá các luồng vốn là một tất yếu trong thế kỷ XXI. Chính sự phát triển của kinh tế thế giới và sự mở rộng các hoạt động đối ngoại cũng như xu thê toàn cầu hoá, tự do hoá các luồng vốn là cơ sở phát sinh các mối quan hệ tín dụng của Nhà nước giữa các quốc gia với nhau. Từ những lý do trên đây có thể kết luận rằng, tín dụng Nhà nước là một đòi hỏi tất yếu khách quan của Nhà nước. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã phát triển, các chủ thể kinh tế - tài chính khẳng định được vị trí trên thị trường trong và ngoài nước thì vai trò của hoạt động tín dụng nhà nước sẽ giảm dần, việc ưu đãi trong hoạt động tín dụng nhà nước không được ưu chuộng vì nó tiềm ẩn sự bất bình đẳng và có thể bóp méo hoạt động của thị trường tài chính lành mạnh. 1.1.2. Bản chất của tín dụng nhà nước Tín dụng nhà nước ra đời, thoạt tiên để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước cho các khoản tiêu dùng thường xuyên và không tham gia vào chu trình tái sản xuất của nền kinh tế. Qua quá trình phát triển, chức năng bù đắp thiếu thụ ngân sách Nhà nước của tín dụng nhà nước được sử dụng tích cực hơn nhằm bù đắp những khoản chi cho đầu tư phát triển nền kinh tế, tăng thêm nguồn lực tài chính cho nhà nước để thực thi các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Tín dụng nhà nước là một dạng của tín dụng nói chung Chức năng cơ bản của tín dụng nhà nước là bù đắp thiếu hụt ngân sách và phân phối lại các nguồn vốn để thoả mãn nhu cầu đầu 92
  3. tư của các chủ thể theo kế hoạch, định hướng của nhà nước. Tuy nhiên, tín dụng nhà nước lại là một hình thức tín dụng đặc biệt vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội và chính trị. Sự kết hợp hài hoà lợi ích kinh tế, chính trị và xã hội là đặc trưng của tín dụng nhà nước và là mục tiêu hoạt động, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả hoạt động của công tác quản lý tín dụng nhà nước. Lợi ích kinh tế thể hiện trực tiếp trên lợi tức tiền vay, thể hiện gián tiếp qua việc thụ hưởng các tiện nghi công cộng, có thêm việc làm do đầu tư của Nhà nước mang mại. Đối với vay nợ nước ngoài, lợi ích kinh tế không chỉ thể hiện trên lợi tức tiền vay mà còn mang lại cho nước chủ nợ nhiều lợi ích khác nhau về thuế quan, về xuất nhập khẩu hàng hoá Lợi ích chính trị, xã hội của tín dụng nhà nước thể hiện ở lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ, ở trách nhiệm và mối quan tâm của Chính phủ đối với dân chúng chẳng hạn như cho vay đầu tư, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo. Trong quan hệ đối ngoại, lợi ích chính trị thể hiện qua mối quan hệ chính trị, ngoại giao giữa nước chủ nợ và nước con nợ. Với đặc tính kinh tế và xã hội trên đây, tín dụng nhà nước thường có các đặc điểm sau: - Nguồn vốn để cho vay là vốn của ngân sách Nhà nước được cân đối để cho vay đầu tư hoặc nguồn vốn huy động theo kế hoạch của nhà nước để phục vụ đầu tư phát triển theo chủ trương của nhà nước. - Tổ chức tín dụng làm nhiệm vụ quản lý, huy động và cho vay là hệ thống những đơn vị, cơ quan chuyên môn của nhà nước, được thành lập theo quyết định của Chính phủ - Đối tượng của tín dụng nhà nước là những tổ chức, cá nhân, các dự án đầu tư theo các chương trình, mục tiêu, định hướng theo chủ trương của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. - Hoạt động không vì mục đích lợi nhuận - Về lãi suất huy động thường thấp nhất trên thị trường vốn vì nó có độ an toàn cao nhất còn lãi suất cho vay là lãi suất ưu đãi,do nhà nước điều tiết phù hợp với yêu cầu, đặc điểm, điều kiện cụ thể của đất nước và chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng thời kỳ. 93
  4. Như vậy tín dụng nhà nước vừa có nội dung kinh tế vừa có nội dung xã hội và chính trị đồng thời là công cụ tài chính hữu hiệu của Nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị và xã hội. 1.2. Vai trò của tín dụng Nhà nước 1.2.1. Tín dụng Nhà nước là một công cụ sắc bén trong việc lành mạnh hoá nền tài chính - tiền tệ quốc gia Đối với lĩnh vực tài chính, tín dụng Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc tạo dựng và phân bổ nguồn vốn một cách hiệu quả cho các hoạt động đầu tư thuộc trách nhiệm của tài chính quốc gia. Nếu việc sử dụng nguồn vốn được thực hiện không có hiệu quả dưới hình thức cấp phát thì khả năng huy động nguồn vốn và can thiệp vào nền kinh tế của Nhà nước rất hạn chế. Nếu huy động vốn bằng các hình thức tăng thuế, phí, lệ phí thì không những mục đích huy động nguồn vốn khó có thể đạt được, mà nền sản xuất có thể sẽ bị bóp méo. Trong cả hai trường hợp, sự phát triển của nền tài chính quốc gia đều bị đe doạ. Ngược lại, vấn đề lại được giải quyết một cách hiệu quả bằng cơ chế tín dụng. Tính chất đòn bảy đi từ cơ chế sử dụng nguồn vốn hiệu quả tới hoạt động huy động vốn. Trên thị trường, động cơ đầu tư vào tín dụng nhà nước cũng tăng lên do các nguy cơ về lạm phát tiềm ẩn (hình thành do vấn đề chi tài chính quốc gia không hiệu quả, tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách ) không còn nữa. Như vậy, tính cưỡng chế trong hoạt động vay mượn của Nhà nước trên thị trường không cần thiết nữa. Thực tế, với các công cụ nợ của Nhà nước hiện nay như trái phiếu, tín phiếu Nhà nước đã có thể tập trung một cách nhanh chóng một khối lượng vốn theo nhu cầu với thời hạn dài và chi phí không cao. Khả năng này sẽ giúp Nhà nước chủ động trong việc điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự cải thiện tiềm lực tài chính quốc gia. Đối với lĩnh vực tiền tệ, vai trò của tín dụng nhà nước cũng hết sức quan trọng. Việc xoá bỏ cơ chế tiền tệ hoá thâm hụt ngân sách là nền tảng cho việc lành mạnh hoá khu vực tiền tệ - ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định giá trị đồng nội tệ. Không dừng lại ở đó, cơ chế tín dụng nhà nước ra đời còn là cơ sở để tách các hoạt động tín dụng mang tính kinh tế - xã hội khỏi hoạt động có tính thương mại của khu vực trung gian tài chính, chuyển hoạt động kinh doanh của các tổ chức trung gian tài chính sang cơ chế thị trường hoàn toàn. Việc tách 94
  5. bạch tín dụng chính sách và tín dụng ngân hàng còn có tác dụng tích cực trong việc hạn chế rủi ro về tính thanh khoản của NHTM. 1.2.2. Tín dụng nhà nước góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Mục tiêu đầu tiên được đặt ra đối với tín dụng nhà nước là thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô nề kinh tế - vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp. Nếu như khủng hoảng thừa, khủng hoảng thiếu, suy thoái kinh tế theo chu kỳ, phân hoá giàu nghèo là các hệ quả của cơ chế thị trường, thì đây chính là mục tiêu phải giải quyết của tín dụng nhà nước. Để có thể giải quyết được những vấn đề này, tín dụng Nhà nước một mặt phải tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề cần thiết cho phát triển kinh tế bền vững, nhằm trực tiép hoặc gián tiếp lôi kép các tác nhân thị trường phát triển các lĩnh vực, ngành nghề, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng mong muốn mặt khác, tín dụng nhà nước sẽ tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực công nghệ mới, có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm xã hội nhằm cải thiện đời sống, rút ngắn khoảng cách với các nước, cũng như không tụt hậu hoặc đi lệch xu hướng phát triển kinh tế thế giới, khu vực. 1.2.3. Tín dụng nhà nước góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, xoá bao cấp về đầu tư Nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư là vấn đề tiên quyết đối với tín dụng Nhà nước. Chỉ có hiệu quả của các dự án đầu tư tín dụng Nhà nước mới tạo nền tảng cho sự phát triển của các hoạt động tín dụng nhà nước nói riêng, thị trường nợ của Chính phủ và thị trường tài chính nói chung. Để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động đầu tư, các cơ chế, chính sách quản lý tín dụng được Nhà nước đưa rất chặt chẽ nhằm kiểm tra, giám sát trước và trong khi cho vay một cách nghiêm ngặt. Dưới các áp lực này, chủ đầu tư buộc phải tăng cường công tác hạch toán kế toán, phải chứng minh và chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nguồn vốn tín dụng nhà nước về khả năng tạo ra nguồn thu nhập cao hơn chi phí đầu tư để không chỉ bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra mà phải trả lãi của khoản tín dụng. 95
  6. 1.2.4. Tín dụng nhà nước giúp các doanh nghiệp mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh Cơ chế kinh tế thị trường luôn được tạo ra lệnh pha giữa nhu cầu và khả năng thanh toán của các tổ chức, đơn vị kinh tế. Tín dụng ra đời như là một đòi hỏi tất yếu khách quan để giải quyết sự lệch pha này và như vậy nó có tác dụng duy trì sự liên tục cũng như khả năng mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất của các đơn vị kinh tế. Đối với tín dụng nhà nước, tác dụng mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thể hiện ở các khía cạnh. Thứ nhất, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuộc diện đầu tư tín dụng của Nhà nước sẽ có động cơ mở rộng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức đầu tư mới hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, tăng quy mô thông qua việc trực tiếp nhận được các khoản tín dụng của Nhà nước hoặc sự bảo lãnh, bảo hiểm tín dụng hay hỗ trợ lãi suất của Nhà nước Thứ hai, Hoạt động đầu tư của Nhà nước sẽ lôi kéo các thành phần kinh tế trong nền kinh tế mở rộng sản xuất kinh doanh thông qua việc tạo ra các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho sản xuất, hoặc phát triển một số khâu nào đó của chu trình sản xuất. Vấn đề có nghĩa sâu rộng hơn nữa là sự phát triển của cơ chế tín dụng nhà nước đã tạo ra một thị trường tài chính năng động, thực hiện tốt chức năng chu chuyển, điều hoà các nguồn tài chính trong nền kinh tế - vấn đề thiết yếu đối với việc duy trì liên tục và mở rộng phát triển nền sản xuất hàng hoá. 1.3. Nội dung hoạt động của tín dụng Nhà nước Cũng như hoạt động tín dụng nói chung, tín dụng Nhà nước bao gồm 2 mặt hoạt động; hoạt động huy động nguồn vốn và hoạt động sử dụng vốn 1.3.1. Các hình thức huy động vốn 1.3.1.1. Huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu Phát hành trái phiếu là một kênh tạo nguồn vốn hiệu quả trong việc điều tiết kinh tế nói chung, cũng như trong hoạt động tín dụng nhà nước, đặc biệt ở các nước có thị trường tài chính phát triển. Việc phát hành trái phiếu có ưu điểm là khả năng tập trung nguồn vốn nhanh, với khối lượng lớn và chi phí tương đối thấp. Sở dĩ như vậy là vì, đối với một quốc gia thì nhà nước là cơ quan quyền lực cao nhất, có độ 96
  7. an toàn cao nhất, nên trái phiêú không chỉ phải trả lãi suất thấp mà còn có tính thanh khoản cao, và điều đó làm cho thời hạn của trái phiếu hầu như không có giới hạn, có thể rất ngắn, hoặc rất dài. Bên cạnh đó, với đặc tính trên đây, trái phiếu do Nhà nước phát hành cũng đã trở thành một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính, đặc biệt nó đã được coi là công cụ an toàn trong hoạt động của hệ thống các trung gian tài chính và là một công cụ quan trọng trên thị trường mở. Vì lý do này, việc phát hành trái phiêú Nhà nước đã trở thành một hoạt động thường xuyên ở hầu hết các nước, kể cả các nước có thặng dư về ngân sách. Tuy nhiên, trái phiếu của Nhà nước, với những đặc tính trên đây lại tiềm ẩn những tác động tiêu cực nhất định đối với thị trường tài chính, đặc biệt đối với các thị trường chưa phát triển. Với những ưu thế về tính an toàn và khả năng thanh khoản cao, các loại trái phiếu này có thể trở thành nơi đến hấp dẫn đối với tất cả các nhà đầu tư, hạn chế các hoạt động đầu tư trực tiếp cũng như các hoạt động tín dụng khác, những lĩnh vực có khả năng sinh lợi lớn hơn so với tín dụng nhà nước. 1.3.1.2. Huy động vốn thông qua vay nợ, viện trợ của nước ngoài Là một cơ chế tài chính của Chính phủ ngoài phần vốn vay nợ, viện trợ được chuyển từ NSNN sang việc huy động vốn tín dụng nhà nước còn được thực hiện thông qua việc vay nợ và nhận viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, đối với việc vay nợ nước ngoài, chi phí thực còn bao gồm cả sự biến động về tỷ giá. Chính vì vậy, bên cạnh vấn dề lãi suất, cần quan tâm tới xu hướng biến động của tỷ giá để thực hiện các nghiệp vụ phòng chống rủi ro tỷ giá, hoặc có các biện pháp sử dụng hiệu quả hơn. 1.3.1.3. Huy động vốn thông qua việc đi vay các quỹ Khác với hoạt động kinh doanh tiền tệ của các trung gian tài chính trên thị trường, ở đó việc huy động vốn được thực hiện dưới tất cả các hình thức nhận tiền gửi, phát hành phiếu nhận nợ, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu Việc huy động vốn thông qua hình thức tín dụng nhà nước được thực hiện dưới hình thức phát hành trái phiếu và mua buôn nguồn vốn từ các trung gian tài chính như các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, các quỹ tài chính tập trung của nhà nước (nếu có), các công ty tài chính, các công ty tiết kiệm, các ngân hàng thương mại Nói cách khác, ngoài việc phát hành trái phiếu, nhà nước có thể vay từ các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí Lý do cơ bản nằm sau cơ chế huy động vốn này là thời 97
  8. hạn của tín dụng nhà nước thường rất dài, và do đó việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức phi trái phiếu sẽ gặp khó khăn. Ngược lại, đối với các trung gian tài chính khác, với chức năng, nhiệm vụ chuyên môn riêng có, chúng có thể liên tục huy động được các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và tính liên tục của các khoản đầu tư này giúp cho các thể chế tài chính có thể tạo dựng được những nguồn vốn dài hạn nhất để cho vay trên thị trường. 1.3.1.4. Huy động vốn thông qua nguồn vốn nhận uỷ thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước Ngoài các hình thức huy động vốn trên đây, tín dụng nhà nước còn có thể thực hiện hình thức nhận nguồn vốn uỷ thác từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước như uỷ thác từ các tổ chức bảo hiểm, các quỹ hưu trí, quỹ khám chữa bệnh bắt buộc. 1.3.2. Các hình thức sử dụng nguồn vốn 1.3.2.1. Cho vay đầu tư Cho vay đầu tư là việc Quỹ hỗ trợ phát triển cho các chủ đầu tư vay vốn để thực hiện dự án. Ưu điểm của hình thức tín dụng đầu tư này là có khả năng thực hiện quản lý, giám sát nguồn vốn chặt chẽ ở các khâu trước và trong khi cho vay. Tuy nhiên, để thực hiện việc cho vay đầu tư thì phải luôn có sẵn nguồn vốn theo tiến độ thực hiện dự án đầu tư. 1.3.2.2. Bảo lãnh tín dụng đầu tư Bảo lãnh tín dụng đầu tư là cam kết của Quỹ hỗ trợ phát triển với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Trong trường hợp bên đi vay không trả được nợ hoặc trả không đủ nợ khi đến hạn, Quỹ hỗ trợ phát triển sẽ trả nợ thay cho bên đi vay. Khác với cho vay đầu tư, nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước sẽ không xuất hiện lúc bảo lãnh và cũng không xuất hiện trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển trừ khi con nợ không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. 1.3.2.3. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư là việc Quỹ hỗ trợ phát triển hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn củ các tổ chức tín dụng để đầu tư dự án, sau khi dự án đầu tư 98
  9. hoàn thành đưa vào sử dụng và trả được nợ. Đây thực chất không phải là một loại hình tín dụng, song nó là động cơ, là nhân tố hỗ trợ cho hoạt động tín dụng. Nói cách khác, nếu không có hoạt động hỗ trợ lãi suất sau đầu tư có thể sẽ không có các hoạt động tín dụng thuộc đối tượng điều tiết của Nhà nước. Do vậy việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư luôn gắn liền với hoạt động tín dụng đầu tư của nhà nước. 1.4. Các nguyên tắc trong quản lý hoạt động tín dụng 1.4.1. Nguyên tắc huy động vốn 1.4.1.1. Nguyên tắc bảo đảm cân đối tài chính tiền tệ quốc gia Việc huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước mặc dù có những vai trò nhất định đối với việc điều tiết kinh tế vĩ mô và thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là càng huy động nhiều nguồn vốn tín dụng nhà nước càng tốt cho sự phát triển thị trường tài chính và nền kinh tế. Quy mô của nguồn vốn huy động của tín dụng nhà nước trong tổng nguồn vốn đầu tư xây dựng tuỳ thuộc vào yêu cầu và nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp về đầu tư sang cơ chế thị trường, xoá bao cấp về đầu tư, mở rộng nguồn vốn đầu tư thì quy mô và đối tượng đầu tư bằng hình thức cấp phát không hoàn lại giảm dần, quy mô và đối tượng đầu tư bằng hình thức tín dụng tăng lên. Tuy nhiên cùng với chuyển đổi nền kinh tế ở các nước đang phát triển, thì quy mô của tín dụng nhà nước trong tổng đầu tư đến một lúc nào đó sẽ giảm dần để phù hợp với thị trường hoá nền kinh tế. Song, trong một nền kinh tế thị trường hỗn hợp, thì tín dụng nhà nước cũng có thể tồn tại ở một giới hạn nào đó để đáp ứng yêu cầu điều chỉnh nền kinh tế theo ý đồ của Nhà nước. Do việc huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước có ảnh hưởng rất lớn tới việc điều tiết tài chính - tiền tệ, nên quản lý nguồn vốn huy động tín dụng nhà nước thường được thực hiện theo cơ chế tập trung, thống nhất. Việc huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước nằm trong một số các ràng buộc tài chính tiền tệ quốc gia sau: - Huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước phải đặt trong quan hệ với các kênh huy động khác, bảo đảm cân đối tích luỹ, tiêu dùng, đầu tư trong nền kinh tế; 99
  10. - Nợ nước ngoài của Nhà nước phải cân đối trong tổng nợ nước ngoài để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn nợ nước ngoài; đảm bảo khả năng chi trả nghĩa vụ nợ của Nhà nước trong tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm theo nguyên tắc: Tổng dư nợ nước ngoài/GDP: 50% Tổng dư nợ nước ngoài / xuất khẩu :150%; Tổng nghĩa vụ trả nợ / xuất khẩu: 20% Tổng nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ / thu NSNN :12% - Huy động tín dụng đầu tư nhà nước phải cân đối với nhu cầu sử dụng nguồn vốn thực tế (trên cơ sở các dự án đầu tư tín dụng nhà nước khả thi), hạn chế tình trạng vốn chờ dự án; - Huy động nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước cần được xem xét, cân đối trong mối quan hệ điều tiết tiền hàng, nhằm ổn định và phát triển thị trường tài chính lành mạnh. 1.4.1.2. Nguyên tắc cân đối thời hạn huy động nguồn vốn Xuất phát từ những đặc điểm của ngành xây dựng, sản phẩm xây dựng cơ bản có thể khẳng định việc huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước thường có tính chất dài hạn. Trong một nền kinh tế thị trường với các nhu cầu và khả năng không được định trước thì việc huy động nguồn vốn dài hạn chỉ có thể phát triển được nếu các hình thức huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước trở thành các hàng hoá có tính lỏng cao trên thị trường tài chính. Hàng loạt các đòi hỏi có tính hệ quả đã xuất hiện, đó là: - Hình thức huy động nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước được chứng khoán hoá - Lãi suất phải thị trường hoá; - Cơ chế phát hành phải được thực hiện thông qua đấu thầu - Phải tăng cường phát hành chứng khoán Chính phủ trên thị trường thứ cấp. 100
  11. 1.4.1.3. Nguyên tắc xác định lãi suất huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước Lãi suất trong huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước là lãi suất thị trường, thực hiện thông qua việc đấu thầu chứng khoán Chính phủ trên các trung tâm hoặc sở giao dịch chứng khoán. Thực hiện cơ chế đấu thầu trong huy động nguồn vốn tín dụng nhà nước vừa giúp tập trung nguồn vốn nhanh, chi phí huy động vốn thấp, vừa bảo đảm việc hình thành một mức lãi suất chỉ đạo trên thị trường. Hơn nữa, việc thực hiện cơ chế đấu thầu còn là nền tảng cho sự phát triển thị trường thứ cấp của trái phiếu Chính phủ, làm tăng tính thanh khoản cho trái phiếu Chính phủ, củng cố quy mô và thời hạn của loại chứng khoán này. 1.4.2. Nguyên tắc quản lý sử dụng nguồn vốn tín dụng nhà nước - Sử dụng nguồn vốn phải đúng mục tiêu và tiến độ đầu tư của từng dự án nhằm duy trì sự điều tiết vĩ mô như mong muốn và bảo đảm cho dự án đầu tư hiệu quả. Việc phân bổ nguồn vốn sai đối tượng sẽ làm mất cơ hội đầu tư vào các lĩnh vực cần điều tiết của Nhà nước vì nguồn vốn tín dụng đầu tư nhà nước chịu các giới hạn nhất định và việc phân bổ nguồn vốn không đúng với dự toán 108 sẽ ảnh hưởng tới kết quả đầu tư của dự án - Quản lý và sử dụng nguồn vốn phải đảm bảo việc truy hoàn nguồn vốn tín dụng. Thẩm định tính hiệu quả của dự án để quyết định thực hiện việc đầu tư tín dụng mới là điều kiện cần trong hoạt động tín dụng. Vấn đề quyết định đối với việc truy hoàn vốn trong hoạt động tín dụng là quá trình kiểm tra, giám sát việc sử dụng nguồn vốn. - Lãi suất cho vay linh hoạt theo khả năng sinh lợi của từng dự án, theo diễn biến thị trường nhưng thấp hơn lãi suất thị trường cùng kỳ. - Bảo toàn và phát triển nguồn vốn tín dụng thông qua một cơ chế xử lý rủi ro thích hợp. 1.4.2.1. Nguyên tắc cho vay Nếu như việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng nguồn vốn tín dụng là điều kiện đủ đối với việc nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng thì các nguyen tắc cho vay là điều kiện cần. Đối với tín dụng đầu tư nhà nước các nguyên tắc cho vay cũng có vai trò tương tự. Các nguyên tắc cho vay phải bảo đảm đúng đối tượng, 101
  12. đảm bảo các điều kiện tiền đề cho việc thu hồi và các cam kết khác khi rủi ro xảy ra. Thường thì, đối với tín dụng đầu tư nhà nước, nó bao gồm: - Dự án đầu tư thuộc diện Nhà nước cho vay theo hình thức ưu đãi. - Dự án đầu tư đã được thẩm định về tính hiệu quả, phương án tài chính và phương án trả nợ. - Có đủ vốn đối ứng để thực hiện chương trình (dự án); - Chủ đầu tư có năng lực hành vi dân sự tư cách pháp nhân; - Có đủ điều kiện về bảo đảm tiền vay - Có quyết định đầu tư hoặc đăng ký kinh doanh - Chủ đầu tư thực hiện đầy đủ các cam kết khác nhằm hạn chế rủi ro tín dụng (cam kết thực hiện hoạt động bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm tài sản hình thành từ nguồn vốn vay tín dụng ) Cơ quan quản lý tín dụng nhà nước sẽ quyết định việc cấp hay không cấp tín dụng nhà nước cho chủ đầu tư theo các nguyên tắc cho vay trên đây và phải chịu trách nhiệm toàn bộ về quyết định của mình. Để đảm bảo tính hiệu quả của quyết định tín dụng, cơ quan quản lý tín dụng nhà nước sẽ được quyền đòi hỏi và tiếp cận các vấn đề sau: - Yêu cầu chủ dự án cung cấp mọi tài liệu có liên quan tới dự án đầu tư, để xác minh đúng đắn tính khả thi của dự án, của phương án tài chính và phương án trả nợ; - Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng nguồn vốn trong quá trình đầu tư. - Áp dụng các biện pháp xử lý trong các trường hợp xảy ra các vi phạm hợp đồng tín dụng. Một số các vấn đề quyền hạn của chủ đầu tư cũng có thể được đưa ra trong quá trình đàm phán tín dụng, đó là quyền khởi kiện khi tổ chức cho vay vốn tín dụng đầu tư nhà nước vi phạm hợp đồng tín dụng như thẩm định dự án không khách quan, áp dụng lãi suất không theo cơ chế hiện hành, giải ngân không theo cam kết. 102
  13. 1.4.2.2. Nguyên tắc bảo lãnh tín dụng đầu tư Thông thường, hoạt động bảo lãnh tín dụng đầu tư được thực hiện với các nguyên tắc sau: - Dự án đầu tư thuộc diện khuyến khích đầu tư của Nhà nước - Tính hiệu quả của dự án đầu tư được thẩm định; - Kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của dự án đầu tư. - Trách nhiệm đối với các trường hợp tổn thất tín dụng xảy ra được phân chia cho cả hai bên - người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Hai điều kiện đầu (điều kiện thứ nhất và thứ hai) xuất phát từ yêu cầu của hoạt động bảo lãnh tín dụng. Trong hoạt động bảo lãnh tín dụng,người bảo lãnh sẽ phải thanh toán các nghĩa vụ nợ nếu chủ đầu tư không có khả năng trả nợ đúng cam kết. Vì vậy, người bảo lãnh, tổ chức bảo lãnh phải thẩm định thận trọng phương án tài chính và phương án trả nợ của chủ đầu tư. Điều kiện đủ để đảm bảo tính hiệu quả của dự án đầu tư bằng nguồn tín dụng là công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng nguồn vốn. Do đó, nhà bảo lãnh có quyền và nghĩa vụ trong việc kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng nguồn vốn tín dụng của chủ đầu tư. Đó là nguyên tắc hoạt động tín dụng của các tổ chức kinh doanh tiền tệ. Trong kinh doanh, lợi nhuận gắn liền với rủi ro và để hạn chế phần nào rủi ro, các tổ chức buộc phải nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm trong việc thẩm định dự án; kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng nguồn vốn cho vay. Việc quy định cụ thể tỷ lệ gánh chịu rủi ro khi tổn thất tín dụng xảy ra là phù hợp với nguyên tắc kinh doanh trên thị trường và nâng cao ý thức trách nhiệm của tổ chức trực tiếp cấp tín dụng đối với dự án đầu tư đã được bảo lãnh. 1.4.2.3. Nguyên tắc hỗ trợ lãi suất (sau) đầu tư Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư thực chất là phần bù chênh lệch lãi suất giữa lãi suất ưu đãi đầu tư nhà nước và lãi suất vay theo hình thức tín dụng thương mại để đầu tư sau khi dự án đầu tư đã hoàn thành đưa vào sử dụng. Lãi suất kinh doanh của các 103
  14. tổ chức tài chính - tín dụng xoay quanh mức lãi suất thị trường, trong khi khả năng sinh lợi của các dự án đầu tư thuộc diện điều tiết của Nhà nước thường thấp và rất đa dạng, nên cơ chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cũng phải linh động. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính hiệu quả của nguồn vốn đầu tư nhà nước, việc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư sẽ chỉ diễn ra khi có đủ điều kiện như: - Đối tượng đầu tư thuộc diện điều tiết của Nhà nước; - Dự án đầu tư được tổ chức tín dụng chấp thuận cho vay với các nguyên tắc thị trường trên cơ sở thẩm định tín dụng của tổ chức tín dụng. - Việc giải ngân nguồn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chỉ được thực hiện khi dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng, chủ đầu tư đã hoàn trả nghĩa vụ nợ thuộc trách nhiệm của chủ đầu tư; - Nguồn vốn hỗ trợ lãi suất sau đầu tư được chuyển thẳng tới tổ chức cấp tín dụng đầu tư nhà nước. 2. QUẢN LÝ CÁC HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC 2.1. Quản lý các hoạt động huy động vốn tín dụng nhà nước 2.1.1. Quản lý hoạt động huy động vốn trong nước Huy động vốn TDNN trong nước được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng cơ bản nhất vẫn là hình thức phát hành trái phiếu. Sau đây là những nội dung cơ bản về huy động vốn trong nước bằng hình thức phát hành trái phiếu. Trái phiếu và các loại trái phiếu a. Trái phiếu Đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các khái niệm khác nhau về trái phiếu song nhìn chung khi nói đến khái niệm trái phiếu, người ta thường đề cập đến chức năng xác nhận cam kết vay nợ của người phát hành trái phiếu (người đi vay) đối với người mua trái phiếu (người cho vay) trong việc hoàn trả tiền vốn gốc và lãi vay 104
  15. theo kỳ hạn đã cam kết. Như vậy, có thể hiểu trái phiếu là chứng chỉ vay nợ của nhà phát hành đối với nhà đầu tư. Sự cam kết đó được thể hiện trong các nội dung sau của trái phiếu: - Mệnh giá: là giá trị được ghi trên bề mặt của trái phiếu và nó được coi là khoản vốn gốc mà nhà phát hành phải trả cho nhà đầu tư khi trái phiếu đáo hạn. - Lãi suất danh nghĩa: là tỷ lệ lãi suất mà nhà phát hành hứa trả cho nhà đầu tư trái phiếu, thông thường nó được tính bằng tỷ lệ nhất định so với mệnh giá. - Kỳ trả lãi: là khoảng thời gian giữa hai lần trả lãi liên tiếp, tuỳ vào đặc điểm từng loại trái phiếu mà kỳ trả lãi của chúng là khác nhau, thông thường tiền lãi được trả theo định kỳ (theo năm hoặc nửa năm). Trong trường hợp này, tiền lãi trả theo định kỳ được xác định bằng mệnh giá nhân với lãi suất danh nghĩa. Cũng có loại trái phiếu không trả lãi định kỳ mà trả lãi vào những thời điểm nhất định. Ví dụ, như trả vào thời điểm phát hành hoặc thời điểm đáo hạn. - Thời hạn: là khoản thời gian từ khi trái phiếu được phát hành cho đến khi trái phiếu đáo hạn. Thời hạn của trái phiếu cũng được coi như thời hạn vay tiền của nhà phát hành đối với người mua trái phiếu (nhà đầu tư) - Giá phát hành: là giá trái phiếu tại thời điểm phát hành, thông thường nó được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá. Ngoài các nội dung chủ yếu trên đây, một số loại trái phiếu còn có các thoả thuận khác như: cam kết cho phép nhà phát hành mua lại trái phiếu trước khi trái phiếu đáo hạn, cam kết cho phép nhà đầu tư được phép chuyển đổi từ trái phiếu sang một loại chứng khoán khác trước khi trái phiếu đáo hạn Trái phiếu là chứng chỉ thể hiện quan hệ vay mượn giữa nhà phát hành và nhà đầu tư nên để bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư thông thường có sự tham gia của bên thứ ba là người uỷ thác. Người uỷ thác thường là các tổ chức tài chính có uy tín, có năng lực chuyên môn để có thể hiểu rõ các cam kết của nhà phát hành và nhà đầu tư, họ tham gia với tư cách là đại diện quyền lợi cho tất cả các nhà đầu tư. b. Các loại trái phiếu - Căn cứ vào tính chất có thể chuyển nhượng của trái phiếu, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu Chính quyền địa phương (dưới đây 105
  16. gọi tắt là TPCP) bao gồm: trái phiếu ghi danh và trái phiếu vô danh. Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu gi rõ họ tên và địa chỉ của người mua trái phiếu, nên việc chuyển nhượng trái phiếu thường gặp nhiều khó khăn. Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi họ tên và địa chỉ của người mua trái phiếu, việc chuyển nhượng trái phiếu được thực hiện dễ dàng hơn. - Căn cứ vào kỳ hạn của trái phiếu, TPCP bao gồm trái phiếu ngắn hạn, trái phiếu trung hạn và trái phiếu dài hạn. Quan niệm về kỳ hạn của trái phiếu ở mỗi quốc gia trong từng thời kỳ khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay, trái phiếu ngắn hạn có kỳ hạn dưới 1 năm, trái phiếu trung hạn có kỳ hạn từ 1 đến dưới 5 năm, trái phiếu dài hạn có kỳ hạn từ 5 năm trở lên. - Căn cứ vào chủ thể phát hành, TPCP bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ, do Chính phủ phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ bao gồm: - Tín phiếu KBNN là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn dưới 1 năm do KBNN phát hành nhằm phát triển thị trường tiền tệ và huy động vốn đề bù đắp thiếu hụt tạm thời của NSNN trong năm tài chính. Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, do KBNN phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt NSNN theo dự toán NSNN hàng năm đã được Quốc hội quyết định. - Trái phiếu công trình trung ương là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do KBNN phát hành, nhằm huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cho các dự án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. - Trái phiếu đầu tư là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do các tổ chức tài hính nhà nước, các tổ chức tài chính, tín dụng được Thủ tướng Chính phủ chỉ định phát hành nhằm huy động vốn để đầu tư theo chính sách của Chính phủ. - Trái phiếu ngoại tệ là loại trái phiếu Chính phủ, có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do Bộ Tài chính phát hành cho các mục tiêu theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ. 106
  17. - Công trái xây dựng tổ quốc do Chính phủ phát hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân để đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước. Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là loại trái phiếu có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, do các doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn cho các dự án đầu tư theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ. Trái phiếu chính quyền địa phương là loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn từ 1 năm trở lên do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh uỷ quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bàn phát hành, nhằm huy động vốn cho các dự án, công trình thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách địa phương, đã ghi trong kế hoạch nhưng phải chưa được bố trí vốn ngân sách trong năm. 2.1.1.2. Trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu a. Đối với tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương và trái phiếu ngoại tệ. - Kho bạc Nhà nước tổ chức triển khai thực hiện việc phát hành tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương và trái phiếu bằng ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu chi của ngân sách Nhà nước và các dự án, công trình quan trọng thuộc phạm vi cân đối của Ngân sách trung ương. - Căn cứ tổng mức vốn phát hành trái phiếu trong năm và kế hoạch phát hành đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt, Kho bạc Nhà nước chủ động tổ chức triển khai thực hiện việc phát hành trái phiếu theo nhu cầu và tiến độ chi của ngân sách Nhà nước. Việc phát hành trái phiếu theo phương thức bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định cho từng đợt phát hành. b. Đối với trái phiếu đầu tư - Quỹ hỗ trợ phát triển, các tổ chức tài chính, tín dụng được chủ động tổ chức phát hành trái phiếu đầu tư phát triển của Nhà nước theo kế hoạch hàng năm và kế hoạch phát hành trái phiếu đã báo cáo Bộ Tài chính. 107
  18. - Việc huy động vốn phải phù hợp với tiến độ giải ngân vốn vay, nguồn thu hồi nợ và đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm đến mức thấp nhất các chi phí về huy động vốn. Không huy động vốn khi chưa có nhu cầu sử dụng hoặc nguồn vốn hiện tại vẫn đáp ứng được nhu cầu vay vốn của dự án. c. Đối với trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh - Điều kiện phát hành trái phiếu: Tổ chức phát hành là doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ chỉ định làm chủ đầu tư và phát hành trái phiếu để huy động vốn cho các dự án. Dự án đầu tư hoàn thành thủ tục đầu tư theo quy định của pháp luật. Được Bộ trưởng Bộ Tài chính bảo lãnh thanh toán hoặc uỷ quyền cho các tổ chức tài chính nhà nước, tổ chức tín dụng nhà nước thực hiện. Mức phí bảo lãnh tối đa là 0,05%/năm trên số tiền thực tế bảo lãnh hàng năm. Phí bảo lãnh thanh toán phần ngoài phần sử dụng để trả phí uỷ quyền bảo lãnh (nếu có), số còn lại được nộp ngân sách Nhà nước. - Khi có nhu cầu phát hành trái phiếu, doanh nghiệp gửi đến Bộ Tài chính các tài liệu sau: Đơn đề nghị phát hành trái phiếu kèm theo phương án phát hành thuyết minh rõ về tổng mức vốn dự kiến huy động; thời hạn, lãi suất; kế hoạch trả nợ vốn vay khi đến hạn; nguồn trả nợ; biện pháp tổ chức phát hành, thanh toán trái phiếu. Văn bản về việc cho phép doanh nghiệp được phép phát hành trái phiếu để huy động vốn cho dự án. Dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt Giấy đề nghị Bộ Tài chính thực hiện bảo lãnh thanh toán. Các tài liệu khác có liên quan. - Trong thời hạn 30 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp pháp, hợp lệ, Bộ Tài chính có ý kiến thoả thuận bằng văn bản để doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu. 108
  19. d. Đối với trái phiếu chính quyền địa phương - Điều kiện phát hành trái phiếu: Dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu phải thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch đầu tư 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt. Có phương án phát hành trái phiếu được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thông qua. Phương án phát hành trái phiếu phải có các nội dung chủ yếu sau đây: (1) Tên dự án đầu tư sử dụng nguồn phát hành trái phiếu (2) Quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền (3) Hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án (4) Tổng số vốn đầu tư cần huy động và dự kiến nguồn bảo đảm trả nợ của ngân sách cấp tỉnh (5) Khối lượng huy động; thời hạn, lãi suất huy động và phương án trả nợ của ngân sách cấp tỉnh (6) Cân đối ngân sách cấp tỉnh năm báo cáo và khả năng trả nợ của ngân sách các năm tiếp theo (7) Các tài liệu khác nhằm thuyết minh rõ phương án huy động Dư nợ vốn huy động tại thời điểm trình phương án và dư nợ nếu được chấp thuận phát hành trái phiếu bảo đảm không vượt quá 30% vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh, không kể vốn đầu tư bổ sung theo mục tiêu không có tính chất ổn định thường xuyên từ ngân sách trung ương cho ngân sách cấp tỉnh. - Khi có nhu cầu phát hành trái phiếu, UBND cấp tỉnh gửi Bộ Tài chính các tài liệu sau: Văn bản đề nghị phát hành trái phiếu, trong đó nêu rõ tổng mức vốn dự kiến huy động, thời hạn, lãi suất; thời gian dự kiến phát hành; biện pháp tổ chức phát hành thanh toán trái phiếu. 109
  20. Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh thông qua việc phát hành trái phiếu kèm theo phương án phát hành. Các tài liệu khác có liên quan - Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp pháp, hợp lệ, Bộ Tài chính xem xét, có ý kiến thoả thuận bằng văn bản để UBND cấp tỉnh triển khai thực hiện. - Căn cứ ý kiến thoả thuận của Bộ Tài chính, UBND cấp tỉnh có quyết định uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ chức tài chính, tín dụng trên địa bản thực hiện việc phát hành trái phiếu theo các quy định hiện hành. e. Đình chỉnh phát hành trái phiếu: - Bộ Tài chính thực hiện đình chỉ việc phát hành trái phiếu trong các trường hợp sau: Tổ chức phát hành không thực hiện phát hành theo đúng phương án phát hành trái phiếu đã được Bộ Tài chính chấp thuận hoặc không tuân thủ các quy định hiện hành về phát hành trái phiếu. Lãi suất trái phiếu phát hành vượt quá mức lãi suất trần hoặc biên độ lãi suất do Bộ Tài chính thông báo. Mức huy động vượt quá giới hạn cho phép, vượt tổng mức vốn đầu tư của dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu và chỉ tiêu phát hành trái phiếu đã được Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định. - Khi nhận được thông báo của Bộ Tài chính, Chủ tịch UBND cấp tỉnh,Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức phát hành phải thực hiện ngay việc đình chỉ phát hành trái phiếu. Đối với trái phiếu chính quyền địa phương, khi đình chỉ phát hành, Bộ Tài chính đồng báo cáo Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị hình thức xử lý để Thủ tướng Chính phủ quyết định. 110
  21. 2.1.1.3. Các phương thức phát hành trái phiếu Phát hành TPCP được thực hiện theo các phương thức sau: - Phát hành qua hệ thống KBNN - Đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán hoặc Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại Nhà nước - Bảo lãnh phát hành - Đại lý phát hành 2.1.1.4. Điều hành lãi suất và chứng chỉ trái phiếu a. Điều hành lãi suất - Bộ Tài chính thống nhất điều hành mặt bằng lãi suất của tất cả các loại trái phiếu phát hành. - Cơ chế điều hành lãi suất được thực hiện như sau: Định kỳ, căn cứ tình hình thị trường tài chính, tiền tệ. Bộ trưởng Bộ Tài chính thông báo mức lãi suất trần phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức phát hành; thông báo giới hạn biên độ lãi suất phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương so với trái phiếu Chính phủ có cùng kỳ hạn cho Chủ tịch UBND cấp tỉnh để làm căn cứ tổ chức phát hành trái phiếu. Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Tổng Giám đốc (Giám đốc) tổ chức phát hành thực hiện điều hành lãi suất để tổ chức đấu thầu, lãi suất phát hành theo phương thức bảo lãnh và đại lý phát hành trong phạm vi lãi suất trần và biên độ cho phép. Lãi suất trái phiếu phát hành qua hệ thống KBNN theo phương thức bán lẻ do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định cho từng đợt phát hành. Lãi suất được Bộ Tài chính thông báo theo phương thức trả lãi sau hàng năm. Trường hợp thay đổi phương thức trả lãi, Chủ tịch UBND cấp tỉnh. Tổng Giám đốc (Giám đốc) tổ chức phát hành phải thực hiện xác định lại mức lãi suất trái phiếu cho phù hợp, cụ thể: 111
  22. b. Chứng chỉ trái phiếu - Chứng chỉ trái phiếu do tổ chức phát hành in, quản lý và phân phối cho tổ chức, cá nhân mua trái phiếu - Chứng chỉ trái phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên nhưng phải có các nội dung chủ yếu sau: Tên tổ chức phát hành trái phiếu Mệnh giá, số sê ri Thời hạn, lãi suất trái phiếu Tên tổ chức hoặc cá nhân sở hữu trái phiếu (trường hợp trái phiếu có ghi tên) Ngày phát hành, ngày đến hạn thanh toán Chữ ký của người đứng đầu tổ chức phát hành - Trường hợp trái phiếu được phát hành dưới hình thức ghi sổ, tổ chức phát hành hoặc đơn vị được uỷ nhiệm mở sổ theo dõi việc mua trái phiếu của từng tổ chức, cá nhân. Người mua trái phiếu được cấp giấy chứng nhận sở hữu trái phiếu trong đó ghi rõ các thông tin; tên tổ chức phát hành; mệnh giá; thời hạn, lãi suất trái phiếu; tên tổ chức hoặc cá nhân sở hữu trái phiếu; ngày phát hành, ngày đến hạn thanh toán; chữ ký của người đứng đầu tổ chức phát hành. 2.1.1.5. Nguồn trả nợ và phí phát hành trái phiếu a. Nguồn trả nợ Nguồn sách Trung ương có trách nhiệm bố trí nguồn thanh toán gốc, lãi đối với tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình Trung ương và trái phiếu ngoại tệ; Ngân sách địa phương cân đối nguồn hoàn trả trái phiếu chính quyền địa phương. Quỹ hỗ trợ phát triển, các tổ chức tài chính, tín dụng bố trí nguồn hoàn trả gốc, lãi tín phiếu đầu tư; doanh nghiệp có trách nhiệm bố trí nguồn hoàn trả gốc, lãi trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh. Căn cứ kỳ hạn trái phiếu và thời điểm trả lãi, tổ chức phát hành hoặc tổ chức được uỷ quyền chịu trách nhiệm thanh toán kịp thời gốc, lãi cho chủ sở hữu trái phiếu khi đến hạn. 112
  23. b. Phí thanh toán trái phiếu - Phí phát hành, thanh toán gốc, lãi trái phiếu được hạch toán vào chi ngân sách Nhà nước (ngân sách trung ương, ngân sách địa phương), chi phí huy động vốn hoặc giá trị quyết toán công trình theo chế độ quy định. Việc phát hành phí đấu thầu, bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành; phí thanh toán gốc, lãi trái phiếu đối với các loại trái phiếu do Kho bạc Nhà nước phát hành để huy động vốn cho ngân sách Trung ương được thực hiện theo cơ chế sau: Kho bạc Nhà nước thực hiện tạm ứng tồn ngân quỹ Kho bạc Nhà nước để thanh toán các khoản phí phát hành. Định kỳ cuối mỗi kỳ, Kho bạc Nhà nước tổng hợp số phí đã thanh toán gửi Bộ Tài chính (Vụ ngân hàng Nhà nước, Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính) để làm thủ tục hoàn trả số kinh phí đã tạm ứng cho Kho bạc Nhà nước. Việc thanh toán phí đấu thầu, thanh toán tín phiếu kho bạc và trái phiếu ngoại tệ qua Ngân hàng Nhà nước được thực hiện theo cơ chế quản lý tài chính do Bộ Tài chính quy định đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 2.1.2. Quản lý hoạt động huy động vốn nước ngoài 2.1.2.1. Khái niệm vay nợ nước ngoài Vay nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn, trung hoặc dài hạn (có hoặc không phải trả lãi) do Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân Việt Nam (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngoài vay của tổ chức tài chính quốc tế, của Chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác. Vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn vay đến một năm Vay trung hoặc dài hạn là các các khoản vay có thời vạy vay trên một năm. Vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay do cơ quan được uỷ quyền của Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam kỳ vay với bên vay nước ngoài dưới danh nghĩa Nhà nước hoặc Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 113
  24. Vay nước ngoài của Chính phủ bao gồm các khoản vay ưu đãi hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vay thương mại hoặc tín dụng xuất khẩu và vay từ thị trường vốn quốc tế thông qua việc phát hành trái phiếu dưới danh nghĩa nhà nước hoặc Chính phủ (kể cả trái phiếu chuyển đổi nợ) ra nước ngoài. 2.1.2.2. Các hình thức vay nợ nước ngoài của Chính phủ a. Vay ODA ODA được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ, bao gồm: Chính phủ nước ngoài và các tổ chức liên Chính phủ hoặc liên quốc gia - Nguyên tắc vận động ODA Vận động ODA được thực hiện trên cơ sở; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược vay và trả nợ nước ngoài, các chương trình đầu tư công cộng, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, các chương trình quốc gia, quy hoạch và kế hoạch phát triển của các địa phương hoặc các ngành, nhu cầu tiếp nhận vốn, công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm quản lý, năng lực tiếp nhận và sử dụng ODA trong từng thời kỳ. - Danh mục chương trình, dự án ưu tiên vận động ODA. Trước quý IV hàng năm, cơ quan chủ quản thông báo cho Bộ kế hoạch và Đầu tư văn bản danh mục chương trình, dự án ưu tiên vận động ODA, kèm theo đề cương cho từng chương trình, dự án trong đó nêu rõ sự cần thiết, tính phù hợp với quy hoạch, mục tiêu, kết quả dự kiến đạt được, các hoạt động chủ yếu, dự kiến thời hạn thực hiện, dự kiến mức vốn ODA và vốn đối ứng, dự kiến cơ chế tài chính trong nước đối với việc sử dụng vốn ODA (cấp phát từ ngân sách, cho vay lại) dự báo tác động của chương trình, dự án về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ ngoại giao, văn phòng Chính phủ. Bộ Tư pháp (liên quan đến lĩnh vực hợp tác pháp luật với nước ngoài) Ban Tổ chức cán bộ - Chính phủ (liên quan đến lĩnh vực cải cách hành chính) các bộ và cơ quan quản lý ngành xem xét, tổng hợp danh mục chương trình, dự án ưu tiên vận động ODA của các cơ quan chủ quản, thành lập danh mục chương trình, dự án ưu tiên đưa vào báo cáo của Chính phủ để vận động ODA tại Hội nghị thường niên nhóm tư vấn các nhà tài trợ (Hội nghị CG). Danh mục này được Bộ Kế hoạch và Đầu tư rà soát, bổ sung và điều chỉnh hàng năm căn cứ vào tình hình thực hiện cũng như những nhu cầu ODA mới phát sinh. 114
  25. - Phối hợp vận động ODA Bộ Ksế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối của Chính phủ trong việc chuẩn bị hội nghị CG và các diễn đàn quốc tế về ODA cho Việt Nam. Cơ quan cấp bộ, ngành chủ trì chuẩn bị và tổ chức hội nghị điều phối ODA theo ngành với sự phối hợp, đồng chủ trì của Bộ Kế hoạch và đầu tư. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì tổ chức hội nghị vận động ODA theo lãnh thổ với sự hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại nước ngoài chủ động tiến hành vận động ODA theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và đầu tư - Đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung về ODA. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan lập danh mục chương trình dự án ODA của Nhà tài trợ tương ứng và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Đồng thời chuẩn bị nội dung và tiến hành đàm phán, ký kết với nhà tài trợ các điều ước khung về ODA. Sau khi điều ước quốc tế khung về ODA đã được ký kết, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo bằng văn bản cho cơ quan chủ quản về chương trình, dự án được nhà tài trợ đồng ý xem xét tài trợ trong từng thời kỳ để tiến hành các bước chuẩn bị tiếp theo. - Cơ sở đảm phán, ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA. - Cơ sở đàm phán ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA là văn kiện chương trình, dự án ODA (đối với chương trình, dự án đầu tư là báo cáo nghiên cứu khả thi hoặc quyết định đầu tư) đã được cấp có thẩm quyền của Việt Nam phê duyệt. Trong một số trường hợp đặc biệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép sử dụng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi của chương trình, dự án ODA đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt làm căn cứ đàm phán, ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA. Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo quyết định phê duyệt chương trình, dự án ODA của cấp có thẩm quyền cho nhà tài trợ. Sau khi được Nhà tài trợ chấp thuận, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo cho cơ quan chủ quản để phối hợp chuẩn bị nội dung đàm phán điều ước cụ thể về ODA. - Đàm phán điều ước quốc tế cụ thể về ODA. Cơ quan chủ trì đàm phán điều ước quốc tế cụ thể về ODA. 115
  26. (1) Cơ quan chủ quản được uỷ quyền chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan đàm phán các điều ước quốc tế cụ thể về ODA không hoàn lại. (2) Bộ Tài chính được uỷ quyền chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan đàm phán các điều ước quốc tế cụ thể về ODA vốn vay. (3) Ngân hàng nhà nước Việt Nam phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị nội dung đàm phán, theo sự uỷ quyền của Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng Chính phủ, tiến hành đàm phán các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với các tổ chức tài chính quốc tế: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), bàn giao vốn và toàn bộ các thông tin liên quan đến chương trình, dự án ODA cho Bộ Tài chính sau khi các đìêu ước cụ thể về ODA có hiệu lực, trừ thoả thuận vay vốn Quỹ tiền tệ quốc tế. - Ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA. Sau khi kết thúc đàm phán, cơ quan chủ trì đàm phán phải thông báo bằng văn bản cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan kết quả đàm phán và gửi kèm dự thảo điều ước quốc tế cụ thể về ODA. Đối với chương trình, dự án sử dụng ODA vốn vay và chương trình, dự án do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sau khi có ý kiến của các cơ quan có liên quan, cơ quan chủ trì đàm phán trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kết quả đàm phán và quyết định người được uỷ quyền thay mặt Chính phủ ký điều ước quốc tế cụ thể về ODA với nhà tài trợ. Đối với những chương trình, dự án sử dụng nguồn ODA không hoàn lại do Thủ trưởng cơ quan chủ quản phê duyệt, sau khi có ý kiến của các cơ quan liên quan, Thủ tướng cơ quan chủ trì đàm phán được Chính phủ uỷ quyền ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA với nhà tài trợ. b. Phát hành trái phiếu Chính phủ hoặc trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh trên thị trường vốn quốc tế Trái phiếu quốc tế và chứng chỉ vay nợ có mệnh giá, có thời hạn, có lãi, phát hành để vay vốn trên thị trường vốn quốc tế phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế của Việt Nam. Trái phiếu quốc tế bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu ngân hàng thương mại quốc doanh và trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước. 116
  27. Trái phiếu Chính phủ Việt Nam phát hành trên thị trường vốn quốc tế được phát hành từng đợt theo quyết định của Chính phủ. Tổ chức phát hành và thanh toán trái phiếu thực hiện theo thông lệ quốc tế và phù hợp với luật pháp Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang xúc tiến chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường trái phiếu quốc tế. 2.1.2.3. Trả nợ nước ngoài Căn cứ vào kế hoạch ngân sách Nhà nước trả nợ nước ngoài hàng năm đã được Chính phủ phê duyệt. Bộ Tài chính tổ chức thực hiện việc trả nợ theo đúng cam kết của Chính phủ với bên cho vay nước ngoài. Trong trường hợp cần thiết Bộ Tài chính chủ trì cùng các Bộ có liên quan đàm phán với các chủ nợ nước ngoài về hạn mức, thời hạn và hình thức trả nợ thích hợp (trả bằng tiền, bằng hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu hoặc chuyển đổi nợ thành đầu tư ) Để tạo nguồn trả nợ đúng hạn và hạn chế rủi ro cho Ngân hàng Nhà nước trong việc vay và trả nợ nước ngoài, thành lập quỹ tích luỹ trả nợ thuộc Ngân hàng Nhà nước do Bộ Tài chính quản lý trên cơ sở nguồn thu nợ từ các dự án vay lại vốn vay và vốn viện trợ nước ngoài của Chính phủ, tiền thu phí bảo lãnh của Chính phủ và các nguồn thu khác do thủ tướng Chính phủ quy định. Bộ trưởng Bộ Tài chính xây dựng quy chế quản lý Quỹ tích luỹ trả nợ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 2.2. Quản lý hoạt động sử dụng vốn tín dụng Nhà nước 2.2.1. Quản lý hoạt động cho vay đầu tư phát triển của nhà nước Cơ chế cho vay Cơ chế cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là tổng thể các hình thức và phương pháp mà Nhà nước sử dụng trong hoạt động cho vay vốn đầu tư nhằm giải quyết các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Cơ chế cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thể hiện trên các nội dung cơ bản sau đây : a. Đối tượng cho vay Đối tượng cho vay đầu tư là các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc danh mục các dự án, chương trình do Chính phủ quyết định cho từng thời kỳ. Danh mục chi tiết các dự án, chương trình vay vốn đầu tư; thời hạn ưu đãi thực hiện theo 117
  28. Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính về qui định cụ thể đối tượng vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Điều kiện vay vốn: - Thuộc đối tượng vay vốn đã qui định ở trên. - Đã hoàn thành thủ tục đầu tư theo qui định của Nhà nước. - Chủ đầu tư là tổ chức và cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. - Đối với dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ thiết bị, chủ đầu tư phải có tình hình tài chính bảo đảm khả năng thanh toán. - Có phương án sản xuất, kinh doanh có lãi. - Được quỹ hỗ trợ phát triển thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ và chấp thuận cho vay trước khi quyết định đầu tư. - Thực hiện các qui định về bảo đảm tiền vay. Đối với tài sản hình thành từ vốn vay thuộc đối tượng mua bảo hiểm bắt buộc, chủ đầu tư phải cam kết mua bảo hiểm tài sản trong suốt thời hạn vay vốn tại một công ty bảo hiểm hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Thời hạn cho vay Thời hạn cho vay là khoảng thời gian mà bên chủ đầu tư vay vốn được quyền sử dụng vốn vay. Thời hạn cho vay được tính từ khi chủ đầu tư nhận khoản vay đầu tiên đến thời điểm trả hết nợ vay theo hợp đồng tín dụng. Thời hạn cho vay các dự án vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được xác định trên cơ sở khả năng thu hồi vốn phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư, nhưng tối đa không quá 12 năm. Một số dự án đặc thù có thời gian thu hồi vốn dài, mức vốn đầu tư lớn được xem xét cho vay với thời hạn tối đa là 15 năm. Lãi suất cho vay - Lãi suất cho vay đầu tư được xác định tương đương 70% lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân của các ngân hàng thương mại nhà nước. Bộ trưởng Bộ tài chính qui định lãi suất cho vay đầu tư trong từng thời kỳ. 118
  29. - Khi lãi suất thị trường có sự biến động từ 15% trở lên, Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định điều chỉnh lãi suất cho vay. Số lần điều chỉnh lãi suất mỗi năm tối đa 2 lần. - Lãi suất cho vay đối với một dự án được xác định tài thời điểm ký hợp đồng tín dụng lần đầu và được giữ nguyên trong suốt thời hạn vay vốn của dự án. - Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn ghi trong hợp đồng tín dụng, được tính trên số nợ (gốc, lãi) đến hạn phải trả theo hợp đồng tín dụng nhưng chưa trả được. Bảo đảm tiền vay - Khi vay vốn đầu tư, các chủ đầu tư được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay. - Trong thời gian chưa trả hết nợ, chủ đầu tư không được chuyển nhượng, bán hoặc thế chấp, cầm cố tài sản đó để vay vốn nơi khác. Khi chủ đầu tư, đơn vị vay vốn không trả được nợ hoặc giải thể, phá sản, việc xử lý tài sản hình thành bằng vốn vay như đối với tài sản thế chấp theo qui định của pháp luật đối với các tổ chức tín dụng để thu hồi nợ. - Trình tự và thủ tục bảo đảm tiền vay, xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp chủ đầu tư không trả được nợ (gốc, lãi) thực hiện theo qui định của pháp luật về bảo đảm tiền vay, giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm như đối với các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Bộ Tài chính về xử lý nợ tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. 2.2.2. Quản lý hoạt động bảo lãnh tín dụng đầu tư 2.2.2.1. Cơ chế bảo lãnh tín dụng đầu tư a. Đối tượng được bảo lãnh - Các dự án thuộc đối tượng vay vốn đầu tư theo qui định của nhà nước nhưng mới được vay một phần hoặc chưa được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. - Các dự án theo danh mục ngành nghề thuộc lĩnh vực và địa bàn được hưởng ưu đãi đầu tư theo qui định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật 119
  30. Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) nhưng không thuộc đối tượng vay vốn đầu tư và không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư của Quỹ hỗ trợ phát triển. b. Điều kiện bảo lãnh - Thuộc đối tượng bảo lãnh vay vốn đầu tư theo qui định của Nhà nước. - Điều kiện dự án được bảo lãnh tương tự như qui định đối với cho vay đầu tư. - Được Ngân hàng phát triển Việt Nam thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ. c. Thời hạn bảo lãnh Thời hạn bảo lãnh được xác định phù hợp với thời hạn vay vốn đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký giữa chủ đầu tư với tổ chức tín dụng cho vay vốn để thực hiện dự án. d. Mức bảo lãnh - Mức bảo lãnh đối với một dự án không vượt qú 70% tổng số vốn đầu tư TSCĐ được duyệt của dự án. - Tổng mức bảo lãnh cho các dự án trong năm của Ngân hàng phát triển Việt Nam triển không vượt quá tổng số vốn cho vay đầu tư trong năm đó. e. Phí bảo lãnh tín dụng đầu tư Chủ đầu tư được bảo lãnh không phải trả phí bảo lãnh cho Ngân hàng phát triển Việt Nam. 2.2.2.2. Hồ sơ và trình tự thẩm định phương án tài chính trong bảo lãnh tín dụng đầu tư. a. Hồ sơ xin bảo lãnh tín dụng đầu tư gồm : - Đơn xin bảo lãnh của chủ đầu tư và văn bản của tổ chức tín dụng yêu cầu bảo lãnh. - Văn bản thẩm định cho vay của tổ chức tín dụng 120
  31. - Phương án sản xuất kinh doanh và trả nợ vốn vay của chủ đầu tư kèm theo bản tính toán hiệu quả kinh tế của dự án vay vốn. - Riêng dự án mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị công nghê, chủ đầu tư phải gửi báo cáo tài chính của doanh nghiệp 2 năm liên tục trước khi đầu tư. Báo cáo nghiên cứu khả thi, hoặc báo cáo đầu tư đã được thông qua theo qui định của pháp luật. - Quyết định đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. - Tổng dự toán hoặc dự toán hạng mục công trình - Đối với chủ đầu tư không phải là doanh nghiệp Nhà nước phải kèm theo danh mục, giá trị tài sản hợp pháp xin thế chấp cho bảo lãnh theo qui định. - Các giải trình bổ sung (nếu có) Các tài liệu trên phải là bản chính hoặc là bản sao có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chủ đầu tư phải có văn bản cam kết chịu trách nhiệm về tính đúng đắn, hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu gửi đến cơ quan bảo lãnh. 2.2.2.3. Quản lý hoạt động bảo lãnh tín dụng đầu tư a. Trình tự lập, thông báo kế hoạch vốn bảo lãnh tín dụng đầu tư. Nội dung phần này tương tự như nội dung lập kế hoạch và thông báo kế hoạch vốn đầu tư ở phần cho vay đã trình bày ở mục 2.1.2. (Phần a). b. Hợp đồng bảo lãnh và thực hiện hợp đồng bảo lãnh - Hợp đồng bảo lãnh : Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng kinh tế được ký bằng văn bản về bảo lãnh tín dụng đầu tư giữa Ngân hàng phát triển Việt Nam với bên được bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh bao gồm các nội dung sau : 1. Tên, địa chỉ Ngân hàng phát triển Việt Nam và chủ đầu tư được bảo lãnh 2. Tổng mức vốn đầu tư của dự án. 3. Tổng số vốn vay đầu tư của tổ chức tín dụng. 4. Số tiền được bảo lãnh 5. Thời hạn bảo lãnh 121
  32. 6. Mức phí bảo lãnh và kỳ hạn thu phí bảo lãnh 7. Các hình thức bảo đảm cho khoản bảo lãnh. 8. Quyền và nghĩa vụ của các bên và các cam kết khác được các bên thoả thuận phù hợp với qui định của pháp luật. - Thực hiện hợp đồng bảo lãnh Đến thời hạn trả nợ, chủ đầu tư không trả được một phần hoặc toàn bộ số nợ vay mà không được tổ chức tín dụng cho hoãn, giãn nợ thì quỹ hỗ trợ phát triển phải trả nợ thay phần còn thiếu cho tổ chức tín dụng; đồng thời chủ đầu tư phải ký khế ước nhận nợ vay bắt buộc với Ngân hàng phát triển Việt Nam về số tiền trả nợ thay với lãi suất phạt bằng 150% lãi suất đang cho vay của tổ chức tín dụng. Ngân hàng phát triển Việt Nam được xử lý tài sản bảo đảm cho bảo lãnh như đối với tài sản thế chấp để thu hồi nợ hoặc khởi kiện theo qui định của pháp luật. 2.2.3. Quản lý hoạt động hỗ trợ lãi suất sau đầu tư 2.2.3.1. Cơ chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư a. Đối tượng được hỗ trợ LSSĐT - Các dự án thuộc đối tượng vay vốn chủ đầu theo qui định của Nhà nước nhưng mới được vay một phần hoặc chưa được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. - Các dự án theo danh mục ngành nghề thuộc lĩnh vực và địa bàn được hưởng ưu đãi đầu tư theo qui định hiện hành của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Sửa đổi) nhưng không thuộc đối tượng vay vốn đầu tư và không được bảo lãnh tín dụng đầu tư của Ngân hàng phát triển Việt Nam. b. Điều kiện được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư - Dự án (hoặc hạng mục công trình độc lập) đã hoàn thành đưa vào sử dụng và đã hoàn trả được vốn vay. - Chủ đầu tư chỉ được nhận hỗ trợ lãi suất đối với số vốn vay của tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam để đầu tư TSCĐ và trong phạm vi tổng số vốn đầu tư TSCĐ được duyệt của dự án. 122
  33. - Một dự án có thể đồng thời được cho vay đầu tư một phần và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư với tổng mức hỗ trợ không quá 85% vốn đầu tư TSCĐ được duyệt của dự án. - Những dự án đã được các quỹ đầu tư hoặc ngân sách Nhà nước các cấp hỗ trợ lãi suất thì không dược hỗ trợ LSSĐT từ Ngân hàng phát triển Việt Nam. c. Nguyên tắc xác định và cấp hỗ trợ LSSĐT - Hỗ trợ LSSĐT được tính cho từng dự án và cấp cho chủ đầu tư sau khi đã trả nợ vay vốn đầu tư (nợ gốc) cho tổ chức tín dụng hoạt độnghợp pháp tại Việt Nam. Tuỳ theo qui mô của dự án, Ngân hàng phát triển Việt Nam cấp hỗ trợ LSSĐT cho chủ đầu tư từ một đến hai lần trong năm. - Đối với những khoản vay được trả trước hạn, mức hỗ trợ LSSĐT được tính theo thời hạn thực vay của khoản vốn đó. - Đối với các dự án khoanh nợ thì thời gian khoanh nợ không được tính vào thời hạn thực vay để tính hỗ trợ LSSĐT và thời hạn hỗ trợ tối đa bằng thời hạn vay ghi trong hợp đồng tín dụng. - Đối với các khoản nợ quá hạn, thời hạn để tính hỗ trợ LSSĐT bằng thời hạn vay của khoản nợ đó ghi trong hợp đồng tín dụng. Việc xem xét hỗ trợ LSSĐT đối với các khoản nợ quá hạn chấm dứt khi hết thời hạn ghi trong hợp đồng hỗ trợ LSSĐT ký giữa chủ đầu tư và Ngân hàng phát triển Việt Nam. 2.2.3.2. Hồ sơ và hợp đồng hỗ trợ LSSĐT a. Hồ sơ xin hỗ trợ LSSĐT Để được xem xét hỗ trợ LSSĐT, chủ đầu tư phải gửi đến Quỹ tín dụng phát triển hồ sơ xin hỗ trợ lãi suất gồm : 1. Đơn xin hỗ trợ LSSĐT 2. Quyết định đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh 3. Quyết định cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 4. Hợp đồng tín dụng ký giữa chủ đầu tư và tổ chức tín dụng cho vay vốn. Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ các hồ sơ theo qui định. Quỹ hỗ trợ 123
  34. phát triển xem xét, nếu chấp nhận thì làm thủ tục ký hợp đồng hỗ trợ lãi suất. Nếu không chấp nhận thì Ngân hàng phát triển Việt Nam có văn bản gửi chủ đầu tư, đồng thời phải báo cáo giải trình và chịu trách nhiệm về ý kiến của mình với cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư. b. Hợp đồng hỗ trợ LSSĐT bao gồm các nội dung sau : - Tên dự án đầu tư - Tổ chức tín dụng cho vay vốn - Tổng mức vốn đầu tư - Số vốn vay - Thời hạn cho vay - Kỳ hạn trả nợ - Số tiền hỗ trợ LSSĐT. - Số tiền hỗ trợ lãi suất có chia ra theo kỳ hạn trả nợ vay vốn tín dụng - Quyền và nghĩa vụ của các bên - Các cam kết khác được các bên thoả thuận theo đúng qui định của pháp luật. Câu hỏi ôn tập và thảo luận chương 3: 1. Trình bầy những vấn đề lý luận cơ bản về Tín dụng Nhà nước. Liên hệ tình hình thực tiễn hiện nay ở Việt Nam. 2. Trình bầy những nội dung cơ bản về Quản lý hoạt động huy động vốn trong nước. Liên hệ tình hình thực tiễn hiện nay ở Việt Nam. 3. Trình bầy những nội dung cơ bản về Quản lý hoạt động huy động vốn nước ngoài. Liên hệ tình hình thực tiễn hiện nay ở Việt Nam. 124
  35. 4. Trình bầy những nội dung cơ bản về Quản lý hoạt động sử dụng vốn tín dụng Nhà nước Chương 4: QUẢN LÝ CÁC QUỸ TÀI CHÍNH CÔNG NGOÀI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC QUỸ TÀI CHÍNH CÔNG NGOÀI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1.1. Đặc điểm các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước Quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước ở từng thời kỳ. Theo quy định của Nhà nước, các địa phương, các bộ, ngành, các doanh nghiệp Nhà nước được quyền chủ động thu, chi, quản lý loại quỹ này theo các quy định hiện hành của pháp luật. Mục đích thiết lập các loại quỹ này là để cho các địa phương, các ngành, các đơn vị có thể huy động các khoản thu và sử dụng chi tiêu một cách linh hoạt, chủ động, phù hợp với các mục tiêu chương trình mà Nhà nước đặt ra. Đây là sự thể hiện nguyên tắc tập trung, dân chủ trong quản lý Nhà nước về kinh tế. So với quý ngân sách Nhà nước, các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước cũng có những điểm giống nhau về các khía cạnh sau: Cho dù các quỹ được thiết lập với các mục đích cụ thể khác nhau nhưng đều nhằm thực hiện sự can thiệp của Nhà nước một cách hữu hiệu vào nền kinh tế thị trường. Mọi quyết định tạo lập cũng như sử dụng quỹ đều là Nhà nước. Nhà nước có toàn quyền chi phối và sử dụng, chịu sự quản lý của chính quyền các cấp, điều hành hoạt động của cá quỹ theo chính sách chế độ của Nhà nước. Nhìn chung, độ lớn của các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước cũng như ngân sách Nhà nước phụ thuộc vào thực trạng của nền kinh tế như GDP, tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế, giá cả, thu nhập, lãi suất v.v Hơn nữa, cho dù nguồn lực của xã hội có được tập trung vào quỹ ngân sách Nhà nước hay quỹ ngoài Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước thì đó thực sự vẫn là sự chuyển giao nguồn lực từ khu vực tư cho khu vực công cộng, từ hàng hoá cá nhân sang hàng hoá công 125
  36. cộng và thực hiện các chương trình phân phối lại thu nhập của Nhà nước. Việc quản lý các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước cần phải chặt chẽ, tránh lạm dụng, thất thoát. Sự khác nhau của quỹ ngân sách Nhà nước và quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước thể hiện ở các điểm cơ bản sau: - Tính chất sử dụng riêng biệt: Căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, trình độ quản lý tài chính Nhà nước trong từng thời kỳ mà Nhà nước cho phép hình thành các quỹ ngoài ngân sách với các mục đích sử dụng riêng biệt. Căn cứ vào cơ chế huy động và sử dụng do Nhà nước quy định, các tổ chức, các ngành, doanh nghiệp thực hiện luân chuyển vốn đúng mục đích của quỹ. Thông thường các quỹ ngoài ngân sách thực hiện "tiền nào dùng vào việc ấy" như tên gọi của quỹ. - Chịu sự điều chỉnh, kiểm tra ít hơn từ phía các tổ chức chính quyền Nhà nước. Cơ chế hoạt động của loại quỹ này được thực hiện một cách linh hoạt. Chính sách chế độ điều chỉnh các quỹ ngoài Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước thường được quy định bằng các văn bản dưới luật tính bắt buộc thấp hơn so với quỹ ngoài ngân sách Nhà nước. - Quỹ ngân sách Nhà nước yếu phục vụ cho các mục tiêu ổn định, thường xuyên, lâu dài của Nhà nước trong khi tính ổn định của các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước thấp hơn quỹ ngân sách Nhà nước. Một số quỹ ngoài ngoài ngân sách Nhà nước hoạt động có tính chất ổn định như: Quỹ của các doanh nghiệp Nhà nước, quỹ Bảo hiểm xã hội. Nhìn chung các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước được hình thành nhằm đáp ứng những mục tiêu nhất định của Nhà nước trong từng thời kỳ. Khi các mục tiêu đó được hoàn thành cũng là lúc chấm dứt hoặc tạm thời ngừng hoạt động của quỹ. Phạm vi hoạt động của quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước thường bị giới hạn trong các chương trình mục tiêu như tên gọi của quỹ. Ví dụ: Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam được thành lập để hỗ trợ tài chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Quỹ trợ giúp pháp lý Việt Nam là quỹ của Nhà nước đặt tại cục trợ giúp pháp lý (Bộ tư pháp) nhằm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, người được hưởng chính sách ưu đãi. 1.2. Phân loại các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước Để thực hiện tốt sự phân cấp quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước cũng như đảm bảo phát huy tính chủ động sáng tạo của các địa phương, các ngành, các đơn vị, 126
  37. trong giai đoạn hiện nay cũng như về mặt xu thế phát triển, số lượng các quỹ ngoài Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước ngày càng nhiều, lượng vốn ngày càng lớn. Vì vậy, việc phân loại các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước có một ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý tài chính Nhà nước. Theo mục đích sử dụng, các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước bao gồm: - Nhóm các quỹ dự trữ, dự phòng. Cuộc đời đầy rủi ro. Cũng giống như mọi gia đình, cá nhân, Nhà nước cũng phải có các khoản dự trữ, dự phòng nhằm có lực lượng vật chất can thiệp mỗi khi xảy ra bất trắc như thiên tai, địch hoạ, khủng hoảng kinh tế v.v Các quỹ này có thể bằng hiện vật như lương thực, xăng dầu, vật tư, kim loại quý hiếm, cũng có thể bằng tiền (nội tệ, ngoại tệ). Ở Việt Nam hiện nay, thuộc nhóm này thường có các loại quỹ chủ yếu sau: Quỹ dự trữ quốc gia; quỹ bảo hiểm xã hội; dự trữ tài chính; quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối ở ngân hàng Trung ương - Nhóm các quỹ chuyên dùng của các doanh nghiệp Nhà nước như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ nghiên cứu khoa học và đào tạo của các tổng Công ty Nhà nước, quỹ dự trữ bắt buộc của các Ngân hàng thương mại; các quỹ được phép thiết lập của các đơn vị sự nghiệp thực hiện theo cơ chế tự chủ tài chính như: quỹ dự phòng ổn định thu nhập, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi và quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp. Vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp cho doanh nghiệp cũng có thể được coi là quỹ chuyên dùng v.v - Nhóm quỹ có tính chất hỗ trợ các hoạt động kinh tế - xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia, như quỹ đầu tư phát triển đô thị, quỹ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, quỹ phát triển nông thôn, quỹ bảo vệ môi trường, quỹ hỗ trợ cải cách hành chính, quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động, quỹ phòng chống ma tuý, quỹ bảo trợ trẻ em, quỹ xoá nạn mù chữ v.v Theo cấp quản lý, các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước có thể chia ra thành các loại: - Các quỹ do chính quyền Trung ương quản lý như Qũy bảo hiểm xã hội, quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài. Nhìn chung hoạt động của các quỹ này liên quan đến các vấn đề vĩ mô, phạm vi ảnh hưởng rộng trong toàn quốc. 127
  38. - Các quỹ do chính quyền địa phương quản lý. Các quỹ này có thể do chính quyền tỉnh, huyện hay thị xã, xã, phường quản lý tuỳ vào nhiệm vụ của các cấp chính quyền trong quản lý kinh tế xã hội từng thời kỳ. Nhìn chung phạm vi hoạt động của quỹ cũng như tác động đến các vấn đề quản lý vĩ mô ở phạm vi hẹp hơn so với các quỹ do chính quyền Trung ương quản lý. Các quỹ do chính quyền địa phương quản lý ví dụ như: quỹ dự trữ tài chính thuộc ngân sách tỉnh, quỹ đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị, quỹ đầu tư phát triển nông thôn v.v 1.3. Một số nội dung chủ yếu nhằm quản lý hiệu quả quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước Xác định rõ mục đích của quỹ, đảm bảo sử dụng quỹ một cách tiết kiệm theo đúng mục đích thành lập quỹ, tránh chiếm dụng, sai mục tiêu, tham ô, lãng phí quỹ. Xây dựng và kiện toàn chế độ tạo lập, sử dụng, phương thức quản lý quỹ phù hợp cho từng thời kỳ. Thực hiện công khai hoá các thành viên góp vốn có điều kiện giám sát hoạt động của quỹ. Thực hiện chế độ kiểm toán chặt chẽ với các hoạt động của quỹ nhằm tránh tư tưởng hình thành "vương quốc độc lập" sử dụng quỹ một cách lãng phí, tuỳ tiện. Áp dụng các phương thức quản lý khác nhau tuỳ theo từng loại quỹ. Nhìn chung các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước đều do nhiều cơ quan tham gia vì vậy việc xác định chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên trong việc quản lý quỹ phải rõ ràng, cụ thể, vừa tránh chồng chéo, vừa tránh sơ hở gây thất thoát tiền quỹ. Các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước phải được gửi vào tài khoản tại Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng, thực hiện chi trả trực tiếp cho các đơn vị giao dịch nhằm giám sát việc sử dụng luân chuyển vốn. Các quỹ phải chịu sự quản lý Nhà nước về tài chính của cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Tổ chức công tác kế toán, theo dõi, cấp phát và quản lý quỹ phải tuân thủ theo các quy định hiện hành của Nhà nước và pháp lệnh kế toán thống kê. Hàng năm báo cáo quyết toán quỹ để các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Nói tóm lại, cùng với việc phát triển các quỹ Tài chính công ngoài ngân sách Nhà nước cần đảm bảo tính chủ động, sáng tạo, xã hội hoá các hoạt động của Nhà nước. Việc nghiên cứu hoàn thiện cơ chế quản lý các quỹ này là hết sức quan trọng, đảm bảo niềm tin cho người góp quỹ vào thực hiện có hiệu quả mục tiêu của Nhà nước. Trong phạm vi của chương trình này chỉ đề cập đến cơ chế quản lý của một số quỹ Tài chính công 128
  39. ngoài ngân sách Nhà nước chủ yếu là quỹ dự trữ quốc gia bằng hiện vật; quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam và quỹ Bũy bảo hiểm xã hội. 2. QUẢN LÝ MỘT SỐ QUỸ TÀI CHÍNH CÔNG NGOÀI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHỦ YẾU 2.1. Quỹ dự trữ quốc gia 2.1.1. Khái niệm về về quỹ dự trữ quốc gia Quỹ dự trữ quốc gia là khoản tích luỹ từ ngân sách Nhà nước, hình thành nên nguồn dự trữ chiến lược (dự trữ quốc gia), do Nhà nước thống nhất quản lý và sử dụng nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh; tham gia 136 bình ổn thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất bức thiết khác của Nhà nước. Dự trữ quốc gia được dự trữ bằng hàng và bằng tiền đồng Việt Nam. Việc tổ chức dự trữ quốc gia phải bảo đảm sự điều hoà tập trung, thống nhất vào một đầu mối của Nhà nước, có phân công cho các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia theo quy định của Chính phủ. 2.1.2. Hệ thống tổ chức dự trữ quốc gia. Cơ quan quản lý dự trữ quốc gia chuyên trách thuộc Bộ tài chính, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về dự trữ quốc gia và tổ chức theo hệ thống dọc gồm Cục dự trữ quốc gia và các đơn vị dự trữ quốc gia khu vực bố trí ở các địa bàn chiến lược trong cả nước. Đơn vị dự trữ quốc gia khu vực có các tổng kho dự trữ trực thuộc, trực tiếp quản lý, bảo quản hàng dự trữ quốc gia và xuất, nhập kho, mua vào, bán ra hàng dự trữ quốc gia. Các đơn vị dự trữ quốc gia thuộc bộ, ngành trực tiếp quản lý, bảo quản hàng dự trữ quốc gia. 2.1.3. Nguyên tắc quản lý quỹ dự trữ quốc gia Quỹ dự trữ quốc gia là một loại dự trữ có tính chất tập trung của Nhà nước, có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo lực lượng hàng hoá can thiệp vào thị trường khi xảy ra các "trục trặc thị trường" và những biến cố khách quan. Việc quản lý quỹ này cần phải quán triệt các nguyên tắc sau đây: 129
  40. Nguyên tắc tập trung thống nhất. Mặc dù quỹ dự trữ quốc gia do nhiều đơn vị thực hiện. Tuy nhiên, việc xuất, nhập quỹ, bán đổi hàng phải chịu sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Chính phủ. Thực hiện nguyên tắc này bảo đảm sự điều chỉnh của Chính phủ một cách chủ động, kịp thời khi xảy ra những sự cố bất ngờ Nhà nước cần phải can thiệp. Tất cả các loại dự trữ của Nhà nước đều phải nghiêm chỉnh thực hiện chế độ quản lý Nhà nước ban hành trong từng thời kỳ. Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán Nhà nước cần hết sức coi trọng trong quản lý quỹ này nhằm tránh thất thoát, đảm bảo có nguồn lực đối phó với mọi tình huống rủi ro xảy ra bất ngờ. Nguyên tắc bí mật Cần phải đảm bảo bí mật không những về chủng loại mà còn về số lượng các mặt hàng dự trữ. Giữ vững nguyên tắc này sẽ tránh được trường hợp các lực lượng thù địch lợi dụng phá hoại an ninh, quốc phòng, kinh tế, chính trị. Nguyên tắc sẵn sàng. Dự trữ quốc gia phải được Nhà nước quan tâm kiểm tra thường xuyên nhằm đáp ứng nhu cầu đột xuất một cách tốt nhất, kịp thời nhất. Quỹ dự trữ quốc gia sau khi xuất phải được bù lại đầy đủ, kịp thời. Hệ thống kho hàng phải được xây dựng một cách bí mật, an toàn, thuận tiện, đáp ứng nhanh nhất những khi tình huống bất trắc xảy ra. Thường xuyên trang bị những kỹ thuật hiện đại để bảo quản vật tư, hàng hoá. Cán bộ làm công tác dự trữ quốc gia cũng cần luôn trau dồi trình độ, đảm bảo sẵn sàng phục vụ khi Nhà nước cần. Có kế hoạch đổi hàng nhằm tránh biến hàng dự trữ thành hàng tồn kho ứ đọng, không đảm bảo chất lượng. Quỹ dự trữ quốc gia phải được sử dụng đúng mục đích, đúng quy định của pháp luật; không được sử dụng quỹ dự trữ quốc gia để hoạt động kinh doanh. Dự trữ quốc gia bằng tiền chỉ được sử dụng để mua hàng dự trữ quốc gia. 2.1.4. Quản lý tài chính quỹ dự trữ quốc gia 2.1.4.1. Nguồn hình thành quỹ dự trữ quốc gia Quỹ dự trữ quốc gia được hình thành từ ngân sách Nhà nước do Quốc hội quyết định. Hàng năm cùng với việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước, Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính rà soát danh mục hàng dự trữ quốc gia, tổng hợp, cân đối trình Chính phủ bổ sung, điều chỉnh danh mục hàng dự trữ quốc gia xác định mặt hàng dự trữ quốc gia, mức dự trữ từng loại hàng, tổng mức dự trữ quốc gia và tổng mức tăng dự trữ quốc gia 130
  41. để Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định. Ngân hàng Nhà nước chi cho dự trữ quốc gia bao gồm: Ngân sách Nhà nước chi cho dự trữ quốc gia, ngân sách chi cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật; ngân sách chi cho công tác quản lý dự trữ quốc gia. Ngân sách Nhà nước chi cho mua hàng dự trữ quốc gia bao gồm: Vốn để mua tăng dự trữ quốc gia được Quốc hội duyệt hàng năm. Vốn bán hàng dự trữ quốc gia theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bộ tài chính có trách nhiệm bảo đảm tiến độ cấp phát vốn mua tăng hàng năm dự trữ quốc gia theo đúng kế hoạch để các cơ quan, đơn vị được phân công quản lý hàng dự trữ quốc gia chủ động mua hàng dự trữ quốc gia; trường hợp các cơ quan, đơn vị được giao quản lý hàng dự trữ quốc gia chưa sử dụng hết vốn phải báo cáo Bộ tài chính xem xét, quyết định để chuyển năm sau tiếp tục sử dụng mua hàng dự trữ quốc gia hoặc bổ sung quỹ dự trữ quốc gia bằng tiền. Ngân sách Nhà nước chi cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật. Ngân hàng Nhà nước chi cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật để phục vụ hoạt động dự trữ quốc gia được bố trí trong dự toán chi đầu tư phát triển hàng năm của các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia. Tiền thanh lý tài sản, kho, vật kiến trúc thuộc hệ thống dự trữ quốc gia được để lại bổ sung nguồn vốn đầu tư. Ngân sách Nhà nước chi cho công tác quản lý dự trữ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước chi cho quản lý dự trữ quốc gia được bố trí trong dự toán chi ngân sách hàng năm của bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia, bao gồm: Chi cho hoạt động của bộ máy quản lý, chi cho thực hiện nhập, xuất, mua, bán, bảo quản, bảo vệ, bảo hiểm hàng dự trữ quốc gia; chi nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, chi cho việc hợp tác quốc tế theo kế hoạch được cấp có thẩm quyền duyệt; chi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo kế hoạch, dự toán, định mức, hợp đồng thuê bảo quản hàng dự trữ quốc gia theo chế độ quản lý tài chính. Quản lý dự trữ quốc gia bằng tiền Hàng năm Thủ tướng Chính phủ quy định tỷ lệ dự trữ quốc gia bằng tiền tối đa không quá 20% tổng giá trị dự trữ quốc gia. Dự trữ quốc gia bằng tiền do Cục dự trữ quốc gia quản lý và được gửi tại kho bạc Nhà nước, được tính lãi suất tiền gửi theo quy định của bộ trưởng bộ tài chính; tiền lãi được nhập vào tiền gốc để bảo toàn và phát triển quỹ dự trữ quốc gia. Nguồn hình thành dự trữ quốc gia bằng tiền là một phần vốn dự trữ quốc gia bố trí trong dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm và số tiền bán hàng dự trữ quốc gia còn lại sau 131
  42. khi thực hiện xong kế hoạch mua hàng dự trữ quốc gia hàng năm của các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia. 2.1.4.2. Lập dự toán ngân sách dự trữ quốc gia Căn cứ chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm sau, trước ngày 10 tháng 6 hàng năm, Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ tài chính hướng dẫn các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia về yêu cầu, nội dung, thời gian xây dựng kế hoạch, lập dự toán ngân sách Nhà nước. Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, cùng Bộ tài chính phối hợp với các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia xây dựng kế hoạch, lập dự toán ngân sách Nhà nước, dự kiến phân bổ vốn tăng dự trữ quốc gia cho năm sau để cân đối, tổng hợp trình Chính phủ trước ngày 20 tháng 7 hàng năm. Giao kế hoạch, dự toán ngân sách Nhà nước và kiểm tra thực hiện kế hoạch, dự toán ngân sách dự trữ quốc gia. Căn cứ Nghị định của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân hàng Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ giao kế hoạch và dự toán ngân sách dự trữ quốc gia cho Bộ tài chính và các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia. Sau khi nhận được chỉ tiêu kế hoạch, Bộ trưởng Bộ tài chính, Bộ trưởng Bộ quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Trưởng ban cơ yếu Chính phủ và Thủ trưởng bộ, ngành được phân công quản lý hàng dự trữ quốc gia chịu trách nhiệm phân bổ, giao kế hoạch, dự toán NSNN cho các đơn vị dự trữ trực thuộc và tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra thực hiện. Bộ tài chính chủ trì cùng Bộ kế hoạch và đầu tư các bộ, ngành liên quan kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, dự toán ngân hàng của các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia, tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị những giải pháp cho việc thực hiện kế hoạch, dự toán NSNN. Định kỳ hàng quý, vào ngày 25 tháng đầu quý, các bộ, ngành quản lý hàng dự trữ quốc gia phải báo cáo nhập, xuất, tồn kho hàng dự trữ quốc gia quý trước gửi Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư. 2.1.4.3. Hạch toán, quyết toán quỹ dự trữ quốc gia Toàn bộ hoạt động dự trữ quốc gia phải được phản ánh đầy đủ kịp thời vào sổ sách kế toán. Chế độ kế toán dự trữ quốc gia được xây dựng căn cứ vào pháp lệnh kế toán thống kê, điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, chế độ kế toán thống nhất của Nhà nước phù hợp với nội dung, đặc điểm của hoạt động dự trữ quốc gia. Các cơ quan dự trữ quốc gia phải chấp hành chế độ thống kê, báo cáo thanh quyết toán 132
  43. định kỳ và hàng năm với cơ quan dự trữ quốc gia cấp trên, cơ quan quản lý trực tiếp và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Bộ tài chính, kho bạc Nhà nước, kiểm toán Nhà nước v.v ). 2.1.4.4. Thanh tra, kiểm tra hoạt động quỹ dự trữ quốc gia Các cơ quan dự trữ quốc gia phải thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch, chính sách, pháp luật theo đúng pháp lệnh thanh tra. Cục dự trữ quốc gia tiến hành thanh tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất các cơ quan dự trữ quốc gia về thực hiện kế hoạch dự trữ, chấp hành các chế độ luật pháp quy định của Nhà nước có liên quan đến hoạt động dự trữ quốc gia, ,iểm tra việc thực hiện các quy phạm, quy trình, định mức tiêu chuẩn về nhập, xuất và bả quản hàng dự trữ. Thực hiện chế độ thưởng phạt nghiêm minh đối với hoạt động dự trữ quốc gia. 2.2. Quản lý tài chính quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam 2.2.1. Khái niệm, nhiệm vụ của quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam Bảo vệ môi trường là bộ phận cấu thành không thể tách rời của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Phát triển kinh tế phải kết hợp chặt chẽ, hài hoà với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường, cần coi đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững. Ngày nay, bảo vệ môi trường không còn chỉ mang tính quốc gia mà còn có tính chất khu vực và toàn cầu, vì thế việc kết hợp giữa phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này là rất quan trọng. Thành lập quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam để huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước nhằm hỗ trợ các chương trình, dự án, các hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước là việc làm hết sức cần thiết. Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam được tạo lập từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước và huy động từ các nguồn vốn khác nhằm hỗ trợ tài chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Về tổ chức: Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam là tổ chức tài chính Nhà nước, quỹ có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ, có bảng cân đối kế toán riêng, có con dấu, được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước và các ngân hàng trong và ngoài nước. 133
  44. Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam hoạt động không vì mục đích lợi nhuận nhưng phải đảm bảo hoàn vốn điều lệ và bù đắp chi phí quản lý. Ngoài trụ sở chính đặt tại Hà Nội, quỹ còn có các văn phòng đại diện tại các tỉnh, trực thuộc Trung ương. Văn phòng giao dịch của quỹ đặt ở nước ngoài. Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam có các nhiệm vụ chủ yếu sau: Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư bảo vệ môi trường. Hỗ trợ tài chính cho các chương trình, dự án, các hoạt động phòng, chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường mang tính quốc gia, liên ngành, liên vùng hoặc giải quyết các vấn đề môi trường cục bộ nhưng phạm vi ảnh hưởng lớn. Tiếp nhận và quản lý nguồn vốn uỷ thác từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để hỗ trợ tài chính cho các chương trình, dự án, hoạt động và nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Tổ chức hướng dẫn xây dựng, thẩm định và xét chọn các chương trình, dự án, hoạt động và nhiệm vụ bảo vệ môi trường được đề nghị tài trợ hoặc hỗ trợ tài chính theo đúng quy định của pháp luật. Sử dụng vốn nhàn rỗi không có nguồn vốn từ NSNN và được sự đồng thuận của tổ chức, cá nhân cung cấp vốn để mua trái phiếu Chính phủ theo quy định của pháp luật. Hoạt động của quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam được thực hiện theo các phương thức sau: Cho vay với lãi suất ưu dãi. Hỗ trợ lãi suất vay Tài trợ và đồng tài trợ Nhận uỷ thác và uỷ thác Mua trái phiếu Chính phủ. Đối tượng được hỗ trợ tài chính của quỹ là các chương trình, dự án, hoạt động và nhiệmvụ bảo vệ môi trường mang tính quốc gia, liên ngành, liên vùng, hoặc giải quyết vấn đề môi trường cục bộ nhưng phạm vi ảnh hưởng lớn các lĩnh vực phòng chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. 2.2.2. Nguồn hình thành của quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam Thứ nhất, Nguồn cấp trực tiếp từ ngân sách Nhà nước bao gồm: Vốn điều lệ do ngân sách Nhà nước cấp ban đầu và bổ sung vốn điều lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Kinh phí ngân sách Nhà nước năm dành cho hoạt động quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Nguồn kinh phí này được xác định trong kế hoạch ngân sách Nhà nước hàng năm. Thứ hai, Các khoản thu nhập hợp pháp trong quá trình hoạt động của quỹ bao gồm: Thu nhập từ hoạt động nghiệp vụ như: Thu lãi cho vay của các dự án vay vốn đầu 134
  45. tư của quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam; thu lãi tiền gửi của quỹ bảo vệ môi trưòng Việt Nam gửi tại kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại; thu phí nhận uỷ thác cho vay lại theo hợp đồng uỷ thác; thu hoạt động nghiệp vụ và dịch vụ khác Thu nhập tự hoạt động tài chính như: Thu lãi từ hoạt động mua, bán trái phiếu Chính phủ; thu từ hoạt động cho thuê tài sản; các khoản thu phạt; thu thanh lý, nhượng bán tài sản của quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam; thu chênh lệch do đánh giá lại tài sản thế chấp khi chủ đầu tư không trả được nợ, tài sản hình thành từ vốn vay của quỹ; thu nợ đã xoá nay thu hồi được. 2.2.3. Sử dụng quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam Về nguyên tắc vốn của quỹ phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, đảm bảo an toàn và cho các mục tiêu sau: - Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi các dự án bảo vệ môi trường theo cơ chế sau: Mức vốn cho vay không vượt quá 70% tổng chi phí của chương trình, dự án đầu tư bảo vệ môi trường. Lãi suất do hội đồng quản lý quỹ quy định cho từng nhóm đối tượng nhưng không vượt quá 50% mức lãi suất cho vay thương mại. - Hỗ trợ lãi suất vay vốn và tài trợ cho hoạt động bảo vệ môi trường theo quy định. - Đầu tư, mua sắm vài sản cố định phục vụ cho hoạt động của quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam không vượt quá 7% vốn điều lệ của quỹ. Toàn bộ công tác đầu tư, mua sắm tài sản cố định của quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam được thực hiện theo các quy định như đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Hàng năm quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam phải xây dựng kế hoạch đầu tư, mua sắm tài sản cố định trình hội đồng quản lý xem xét phê duyệt và thực hiện công tác đầu tư, mua sắm trong phạm vi kế hoạch được duyệt. - Mua trái phiếu Chính phủ từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước trên cơ sở có sự đồng ý của tổ chức, cá nhân cung cấp vốn. Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam được trích lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất do nguyên nhân khách quan phát sinh trong quá trình cho vay như: Tổn thất do thiên tai, hoả hoạn Mức trích lập quỹ dự phòng rủi ro do hội đồng quản lý quyết 135
  46. định hàng năm nhưng tối thiểu bằng 0,2% tính trên dư nợ cho vay hàng năm của quý. 2.2.4. Tổ chức quản lý qũy bảo vệ môi trường Việt Nam Về phân phối thu nhập, chênh lệch thu, chi tài chính hàng năm sau khi trả tiền phạt do vi phạm các quy định của pháp luật, được phân phối như sau: - Trích 10% vào quỹ bổ sung vốn điều lệ - Trích 50% vào quỹ đầu tư phát triển để đầu tư, mua sắm tài sản, đổi mới công nghệ trang thiết bị, điều kiện làm việc. - Trích quỹ khen thưởng và phúc lợi Mức trích hai quỹ thực hiện theo quy định như đối với doanh nghiệp Nhà nước. - Số còn lại sau khi trích lập các quỹ trên sẽ được bổ sung vào quỹ đầu tư phát triển. Kế toán, thống kê và kế hoạch tài chính, quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam được vận dụng chế độ kế toán của quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện kế toán các hoạt động của quỹ. Hàng năm, qũy bảo vệ môi trường Việt Nam có trách nhiệm lập và báo cáo, Bộ tài nguyên và môi trường và Bộ tài chính các kế hoạch sau: - Kế hoạch vốn hàng năm bao gồm: Vốn điều lệ ngân sách Nhà nước cấp bổ sung; vốn ngân sách Nhà nước cấp cho các mục tiêu theo quy định; vốn thu hồi nợ vay; vốn huy động khác. - Kế hoạch sử dụng vốn bao gồm: kế hoạch cho vay đầu tư; kế hoạch hỗ trợ lãi suất; kế hoạch tài trợ không hoàn lại. - Kế hoạch thu - chi tài chính kèm theo thuyết minh chi tiết về các mục chi, thu và các định mức chi tiêu cụ thể. Định kỳ (quý, năm) qũy bảo vệ môi trường Việt Nam lập và gửi báo cáo tài chính cho Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ tài chính; - Báo cáo quý được gửi chậm nhất vào ngày 25 tháng đầu quý sau. - Báo cáo quyết toán được gửi chậm nhất vào ngày 30 tháng 3 của năm sau để Bộ tài chính xem xét, thẩm định và phê duyệt. Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam chịu sự kiểm tra tài chính của Bộ tài chính gồm: 136
  47. - Kiểm tra báo cáo kế toán và báo cáo quyết toán định kỳ hoặc đột xuất. - Kiểm tra chuyên đề theo từng yêu cầu của công tác quản lý tài chính. 2.3. Quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội 2.3.1. Những vấn đề cơ bản về quỹ Bảo hiểm xã hội 2.3.1.1. Khái niệm quỹ Bảo hiểm xã hội Quỹ Bảo hiểm xã hội là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những bên tham gia Bảo hiểm xã hội hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung nhằm để chi trả cho những người được Bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm. Quỹ Bảo hiểm xã hội là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay phương tiện vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn hệ thống Bảo hiểm xã hội tồn tại và phát triển. Quỹ Bảo hiểm xã hội hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những "rủi ro xã hội" của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc san sẻ rủi ro đựoc thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại về kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả NSNN và ngân sách gia đình. Quỹ Bảo hiểm xã hội được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau. Trước hết, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Đây là nguồn lớn nhất và cơ bản nhất của quỹ Bảo hiểm xã hội. Thứ hai, là phần tăng thêm do hoạt động bảo toàn và tăng tửởng quỹ mang lại. Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về Bảo hiểm xã hội và các nguồn vốn khác. Theo mục đích sử dụng của Bảo hiểm xã hội, quỹ Bảo hiểm xã hội phải đảm nhận chi trả những khoản chi chủ yếu như: trả trợ cấp cho các chế độ Bảo hiểm xã hội (khoản chi này chiếm tỷ trọng lớn nhất); chi phí cho bộ máy hoạt động Bảo hiểm 137
  48. xã hội chuyên nghiệp; chi phí bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết và các chi phí quản lý khác. 2.3.1.2. Đặc trưng cơ bản của quỹ Bảo hiểm xã hội - Mục đích của quỹ Bảo hiểm xã hội là nhằm huy động sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước nhằm tạo lập quỹ tài chính để phân phối sử dụng nó, đảm bảo bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi có những sự cố bảo hiểm xuất hiện như: ốm đau, tai nạn, hưu trí, thất nghiệp làm giảm hoặc mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên, từ lao động, nhằm duy trì và ổn định cuộc sống của họ. Như vậy hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội không phải vì mục đích lợi nhuận mà vì phúc lợi, quyền lợi của người lao động của cả cộng đồng. - Quá trình phân phối và sử dụng quỹ được chia làm hai phần: Phần thực hiện chế độ hưu trí mang tính chất bồi hoàn, mức độ bồi hoàn phụ thuộc vào mức đóng góp vào quỹ Bảo hiểm xã hội. Vì vậy có thể nói rằng, quỹ Bảo hiểm xã hội là một quỹ "tiết kiệm dài hạn" (bắt buộc hoặc thoả thuận) đòi hỏi người lao động phải đóng góp đều đặn liên tục mới đảm bảo nguồn chi trả. Nó chỉ khác với quỹ tiết kiệm là không được rút tiền ra trước lúc nghỉ hưu. Nhưng nó lại tạo điều kiện cho việc đầu tư dài hạn để bảo toàn và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội. Phần thực hiện các chế độ còn lại vừa mang tính chất bồi hoàn vừa mang tính chất không bồi hoàn. Nghĩa là khi ngươi lao động đang trong quá trình lao động không bị ốm đau, tai nạn, thì không được bồi hoàn, khi bị ốm đau, tan nạn thì được bồi hoàn, mức bồi hoàn phụ thuộc vào mức độ ốm đau, tai nạn Phần này phản ánh tính chất cộng đồng của quỹ Bảo hiểm xã hội. Vì vậy để đảm bảo cho quá trình sản xuất phát triển bình thường và góp phần thực hiện an toàn xã hội, đòi hỏi không chỉ người lao động mà còn cả người sử dụng lao động và Nhà nước phải có trách nhiệm đóng góp và tổ chức quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội. Tuỳ theo mô hình quản lý Bảo hiểm xã hội của từng nước, quỹ Bảo hiểm xã hội có thể bao gồm nhiều quỹ thành phần như quỹ Bảo hiểm xã hội cho các chế độ Bảo hiểm xã hội dài hạn, quỹ Bảo hiểm xã hội cho các chế độ Bảo hiểm xã hội ngắn hạn hoặc có nước chia ra từng loại quỹ như: qũy bảo hiểm hưu trí, quỹ bảo hiểm thất nghiệp, qũy bảo hiểm ốm đau Tuy nhiên dù có được tổ chức như thế nào thì quỹ Bảo hiểm xã hội cũng nhằm mục đích chủ yếu là chi trả trợ cấp các chế độ Bảo hiểm xã hội cho những trường hợp được bảo 138
  49. hiểm. Ngoài ra các quỹ Bảo hiểm xã hội còn phải trang rải cho bộ máy hoạt động Bảo hiểm xã hội chuyên nghiệp và các chi phí quản lý khác. 2.3.1.3. Vai trò của quỹ Bảo hiểm xã hội Trong nền kinh tế thị trường việc tạo lập quỹ Bảo hiểm xã hội có vai trò rất to lớn, vai trò đó được thể hiện trên các mặt sau đây: Xét về mặt kinh tế, quỹ Bảo hiểm xã hội là một quỹ tài chính độc lập ngoài ngân sách Nhà nước do các bên tham gia bảo hiểm đóng góp nhằm phân phối lại theo luật định cho mọi thành viên khi bị ngừng hay giảm thu nhập gây ra bởi tạm thời hay vĩnh viễn mất khả năng lao động Do đó thông qua quá trình phân phối lại quỹ Bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn xã hội về kinh tế cho mọi thành viên trong xã hội trước những trắc trở rủi ro. Mặt khác với chức năng phân phối lại theo nguyên tắc "lấy của số đông bù cho số ít", Bảo hiểm xã hội góp phần ổn định và thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện quan hệ sản xuất, khuyến khích động viên người lao động an tâm sản xuất. Xét về mặt chính trị xã hội, việc hình thành quỹ Bảo hiểm xã hội sẽ tạo ra hệ thống an toàn xã hội. Bởi vì, khi người lao động mất việc làm, hoặc không còn khả năng lao động phải nghỉ việc, nếu không có nguồn tài chính đảm bảo cho họ khi mất thu nhập thì sẽ có thể đưa họ tới con đường tệ nạn xã hội Tệ nạn đó là nguyên nhân làm cho xã hội rối ren kinh tế, chính trị mất ổn định sẽ làm suy yếu đất nước. Nhưng nếu có Bảo hiểm xã hội chi trả cho họ khi gặp rủi ro để duy trì cuộc sống, thì những hiện tượng tiêu cực xã hội sẽ được hạn chế. Trên góc độ đó có thể nói rằng thông qua việc tạo lập phân phối và sử dụng quỹ Bảo hiểm xã hội sẽ góp phần tạo lập hệ thống an toàn chính trị xã hội, giữ vững trật tự an ninh xã hội. Ngoài ra quỹ Bảo hiểm xã hội cũng là một tụ điểm tài chính quan trọng của thị trường tài chính để đầu tư phát triển kinh tế, xã hội. Một bộ phận lớn của quỹ Bảo hiểm xã hội có thời gian nhàn rỗn rương đối dài có thể dùng để đầu tư phát triển kinh tế và sinh lợi. Việc sử dụng qũy bảo hiểm như vậy sẽ tạo ra sự gắn bó giữa lợi ích của Chính phủ với các tầng lớp những người lao động khác nhau. Như vậy Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm bình ổn đời sống kinh tế - xã hội và góp phần làm vững chắc thể chế chính trị. 139
  50. 2.3.2. Nội dung thu, chi quỹ Bảo hiểm xã hội 2.3.2.1. Nguồn thu các quỹ Bảo hiểm xã hội Nguồn thu quỹ Bảo hiểm xã hội được hình thành chủ yếu từ các quỹ thành phần như sau: - Thu Bảo hiểm xã hội bắt buộc theo nghị định 152/2006NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của luật Bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Thu Bảo hiểm y tế bắt buộc theo nghị định 63/2005/NĐ-CP ngày 16/05/2005 của Chính phủ về ban hành điều lệ Bảo hiểm y tế và văn bản hướng dẫn của cấ có thẩm quyền. - Thu Bảo hiểm y tế tự nguyện theo nghị đinh 63/2005/NĐ-CP ngày 16/05/2005 của Chính phủ về ban hành điều lệ Bảo hiểm y tế và văn bản hướng dẫn của cấp có thẩm quyền. 2.3.2.2. Nội dung chi quỹ Bảo hiểm xã hội - Quỹ Bảo hiểm xã hội bắt buộc sử dụng để chi trả cho các đối tượng được hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội từ ngày 01/01/1995 trở đi bao gồm các khoản: Chi lương hưu (thường xuyên và một lần) Trợ cấp hco người bị tan nạn lao động và người phục vụ người bị tai nạn lao động, trang cấp dụng cụ cho người bị tai nạn lao động. Trợ cấp ốm đai Trợ cấp thai sản Trợ cấp bệnh nghề nghiệp và người phục vụ người bị bệnh nghề nghiệp, trang cấp dụng cụ cho người bị bệnh nghề nghiệp. Chi dưỡng sức và phục hồi sức khoẻ. Tiền tuất (tuất một lần, định xuất cơ bản và nuôi dưỡng) và ma táng phí. Đóng Bảo hiểm y tế cho đối tượng theo quy định 140
  51. Lệ phí chi trả Chi khen thưởng người sử dụng lao động thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Chính phủ. Các khoản chi khác (nếu có) - Quỹ Bảo hiểm y tế bắt buộc, quỹ Bảo hiểm y tế tự nguyện dùng để thanh toán chi phí khám, chữa bệnh cho những người có thẻ, phiếu khám, chữa bệnh theo quy định hiện hành của Nhà nước. 2.3.2.3. Nguyên tắc quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội Trong quá trình quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội cần phải quán triệt các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc tập trung thống nhất trong hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam, thực hiện hạch toán riêng và cân đối thu - chi theo từng quỹ thành phần: Quỹ Bảo hiểm xã hội bắt buộc, quỹ Bảo hiểm y tế bắt buộc và quỹ Bảo hiểm y tế tự nguyện. - Nguyên tắc phù hợp - Nguyên tắc lấy số đông bù số ít - Nguyên tắc mức trợ cấp phải thấp hơn mức tiền lương đang đi làm nhưng thấp nhất phải đảm bảo mức sống tối thiểu. - Nguyên tắc kết hợp bắt buộc với tự nguyện 2.3.2.4. Tổ chức thu, quản lý và thực hiện chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội - Bảo hiểm xã hội các cấp tổ chức thu; quản lý và thực hiện chi trả kịp thời, đầy đủ đúng chế độ, chính sách cho người tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc và Bảo hiểm y tế . - Tổ chức việc chi trả các chế độ bảo hiểm do cơ quan Bảo hiểm xã hội các cấp trực tiếp thực hiện hoặc hợp đồng với các đơn vị sử dụng lao động, cơ sở khám, chữa bệnh và đại diện chi trả tại các xã, phường, thị trấn. - Khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi gian lận, giả mạo hồ sơ, tài liệu để hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế , Bảo hiểm xã hội 141