Quản trị kinh doanh - Nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia

pdf 56 trang vanle 1830
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Quản trị kinh doanh - Nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfquan_tri_kinh_doanh_nhan_to_quyet_dinh_loi_the_canh_tranh_qu.pdf

Nội dung text: Quản trị kinh doanh - Nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia

  1. Nhân tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia
  2. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH LỢI THẾ CẠNH TRANH QUỐC GIA Các phương thức mà doanh nghiệp sử dụng để tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh trong các ngành công nghiệp toàn cầu cho thấy nền tảng cần thiết để hiểu được vai trò nước chủ nhà của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vai trò này không đơn giản. Tìm một hướng tiếp cận mới để hiểu lợi thế quốc gia phải bắt đầu từ nhiều tiền đề. Trước tiên, bản chất của cạnh tranh và các nguồn lợi thế cạnh tranh khác nhau rất xa giữa các ngành, thậm chí trong các phân ngành. Chúng ta cần tách biệt ảnh hưởng của quốc gia lên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong các ngành và phân ngành cụ thể, với các chiến lược cụ thể, chứ không phải một cách tổng thể. Chúng ta phải tính đến những nguồn lợi thế cạnh tranh khác nhau đối với nhiều ngành khác nhau, chứ không chỉ dựa vào một lợi thế tổng quát nào, ví dụ như chi phí nhân công hay lợi thế về quy mô. Do các sản phẩm trong nhiều ngành đã tạo được vị trí khác biệt, chúng ta phải giải thích tại sao một số doanh nghiệp có khả năng tạo được sản phẩm khác biệt so với những doanh nghiệp khác, không chỉ tập trung vào sự khác biệt về giá thành. Thứ hai, các doanh nghiệp cạnh tranh toàn cầu thường có những hoạt động tham gia vào chuỗi giá trị ở ngoài nước. Việc toàn cầu hóa cạnh tranh không loại trừ vai trò của nước chủ nhà về lợi thế cạnh tranh, nhưng thay đổi tính chất của nó. Nhiệm vụ của chúng ta không những phải giải thích tại sao một doanh nghiệp của một nước lại thành công trên trường quốc tế, mà còn tại sao một nước lại được doanh nghiệp ít hay nhiều mong muốn đặt trụ sở để cạnh tranh trong một ngành. Trụ sở của doanh nghiệp là nơi đề ra chiến lược, phát triển các quy trình và sản phẩm chủ lực, và là nơi họ có thể sở hữu những kỹ năng cần thiết. Trụ sở của doanh nghiệp là điểm tựa giúp phát triển chiến lược toàn cầu, trong đó những lợi thế từ nước chủ nhà sẽ được bổ sung thêm từ vị thế toàn cầu. Thứ ba, các doanh nghiệp đạt được và duy trì lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế nhờ có quá trình cải tiến, sáng tạo và đổi mới. Sáng tạo, như trình bày ở trên, bao gồm công nghệ và phương pháp, gồm sản phẩm mới, phương pháp sản xuất mới, cách tiếp thị mới, nhận diện khách hàng mới v.v Việc sáng tạo dẫn đến lợi thế cạnh tranh không chỉ bao gồm đột phá mà gồm cả những nỗ lực liên tục từng bước. Ban đầu các doanh nghiệp đạt lợi thế thông qua thay đổi cơ sở của việc cạnh tranh. Họ duy trì lợi thế đó thông qua việc cải thiện đủ nhanh để giữ vị trí đứng đầu. Điều này không chỉ liên quan đến việc thực hiện lợi thế cạnh tranh đang có, mà còn phải dần dần mở rộng và nâng cao các lợi thế cạnh tranh. Thường điều này có liên quan đến việc chuyển sang hoạt động ở các phân ngành phức tạp hơn. Việc nâng cao và đổi mới yêu cầu phải có đầu tư bền vững để nhận ra những chiều hướng thay đổi thích hợp và thực hiện những thay đổi đó. Như học giả Schumpeter đã nhấn mạnh từ cách đây nhiều thập kỷ: bản chất của sự cạnh tranh là tính năng động. Bản chất của cạnh tranh kinh tế không phải là “cân bằng”, mà là trạng thái không ngừng thay đổi. Cải tiến và sáng tạo trong một ngành là một quá trình không bao giờ kết thúc, không phải là một sự kiện riêng lẻ chỉ xảy ra một lần. Hiện nay, các lợi thế nhanh chóng bị vượt qua hay thay thế. Vai trò của nước chủ nhà đối với việc kích thích các cải tiến và sáng tạo mang tính cạnh tranh là điều cốt lõi trong việc giải Michael Porter 1 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  3. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh thích lợi thế quốc gia của một ngành. Chúng ta phải giải thích tại sao một quốc gia tạo ra được môi trường kinh tế, trong đó các doanh nghiệp cải tiến, sáng tạo và phát triển nhanh hơn, đúng hướng hơn so với các đối thủ quốc tế. Như đã nhấn mạnh trong chương trước, cách hành xử cần thiết để tạo ra và duy trì được lợi thế cạnh tranh không tự nhiên có trong nhiều doanh nghiệp. Chúng ta cần phải hiểu những yếu tố nào trong môi trường quốc gia có thể khắc phục được nhu cầu tự nhiên muốn ổn định và buộc các doanh nghiệp phải tiến lên. Cuối cùng, những doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong các ngành thông thường là những doanh nghiệp không chỉ phát hiện nhu cầu thị trường hay công nghệ mới còn tiềm ẩn, mà còn phải nhanh chóng và tích cực khai thác ngay những cơ hội này. Mỗi một thay đổi lớn về cấu trúc đều có thể loại bỏ những lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp đã đứng đấu, và tạo ra cơ hội mới để thay đổi vị trí cạnh tranh nhờ một phản ứng sớm. Chúng ta phải giải thích được tại sao các doanh nghiệp từ một số quốc gia nhanh chóng và tích cực hơn trong việc khai thác những thay đổi trong các ngành, vốn có thể báo trước những nhu cầu quốc tế. Nhiệm vụ của chúng ta không chỉ là nhận ra sự khác biệt lợi thế cạnh tranh giữa các quốc gia. Tách thức của chúng ta là phải lý giải các khác biệt này một cách thuyết phục. Ai cũng nhận ra rằng lợi thế về quy mô, sự dẫn đầu về công nghệ, và sản phẩm khác biệt sẽ tạo ra điều kiện thương mại: các doanh nghiệp của quốc gia có lợi thế trong một ngành sẽ có thể xuất khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, khả năng đạt được và duy trì những lợi thế cạnh tranh không phải là nguyên nhân, mà là kết quả. Vấn đề thật sự nằm ở chỗ doanh nghiệp nào, từ quốc gia nào sẽ giành được những lợi thế đó. Chúng ta đều biết rằng ở một số quốc gia, các doanh nghiệp có công nghệ cao hơn, sản xuất các sản phẩm chất lượng cao và khác biệt hơn, hoặc những sản phẩm thích hợp với nhu cầu khách hàng hơn. Câu hỏi cho chúng ta là tại sao. NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH LỢI THẾ QUỐC GIA Tại sao một quốc gia thành công trên trường quốc tế ở một ngành cụ thể? Câu trả lời nằm trong bốn đặc tính tổng quát của một quốc gia, định hình môi trường trong đó các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh, từ đó thúc đẩy hay cản trở sự tạo ra lợi thế cạnh tranh. 1. Thứ nhất, điều kiện về yếu tố sản xuất: Vị trí của quốc gia về các yếu tố sản xuất cần thiết để cạnh tranh trong ngành, ví dụ như lao động có tay nghề hay cơ sở hạ tầng. 2. Thứ hai, điều kiện về nhu cầu: Bản chất của nhu cầu trong nước về sản phẩm hay dịch vụ của ngành. 3. Thứ ba, các ngành bổ trợ và có liên quan: Sự có mặt hay thiếu vắng tại quốc gia đó những ngành cung ứng và các công nghiệp liên quan có khả năng cạnh tranh quốc tế 4. Thứ tư, chiến lược, cấu trúc và cạnh tranh của doanh nghiệp: Điều kiện tại quốc gia đó quyết định việc thành lập, tổ chức, quản lý doanh nghiệp như thế nào, và bản chất của cạnh tranh trong nước. Michael Porter 2 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  4. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Các yếu tố quyết định lợi thế quốc gia trên, một cách riêng rẽ hay hệ thống, tạo ra môi trường kinh doanh quốc gia trong đó các doanh nghiệp hình thành và cạnh tranh: sự tồn tại các nguồn lực và kỹ năng cần thiết cho lợi thế cạnh tranh trong một ngành; thông tin để xác định các cơ hội cũng như để định hướng sử dụng nguồn lực và kỹ năng; mục đích của chủ sở hữu, nhà quản lý và nhân viên, những người có liên quan hay trực tiếp thực hiện cạnh tranh; và quan trọng hơn hết, áp lực buộc doanh nghiệp phải đầu tư và sáng tạo. Doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh tại những nơi mà trụ sở của họ cho phép và ủng hộ việc tích lũy nhanh nhất tài sản và kỹ năng chuyên ngành, đôi khi chỉ nhờ vào quyết tâm cao hơn. Doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong ngành khi trụ sở của doanh nghiệp có khả năng cung cấp liên tục các thông tin và hiểu biết về nhu cầu sản phẩm và quy trình. Doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh khi mục đích của chủ sở hữu, nhà quản lý, và nhân viên cùng ủng hộ quyết tâm cao hơn và đầu tư dài hạn hơn. Sau cùng, các quốc gia thành công trong một số ngành nào đó bởi vì môi trường trong các nước đó năng động và thách thức nhất, kích thích và thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng nâng cao và mở rộng lợi thế cạnh tranh. Chiến lược công ty, cơ cấu và đối thủ cạnh tranh Điều kiện về yếu Điều kiện cầu tố sản xuất Những ngành liên quan và bổ trợ Hình 3-1. Các yếu tố quyết định lợi thế quốc gia Các quốc gia có khả năng thành công cao nhất trong các ngành hay các phân đoạn ngành nào đó khi “viên kim cương” của các quốc gia đó (một thuật ngữ chúng ta dùng để chỉ hệ Michael Porter 3 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  5. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh thống các yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh) ở trạng thái thuận lợi nhất. Điều này không có nghĩa là tất cả các doanh nghiệp của quốc gia đó đều thành công trong việc giành được lợi thế cạnh tranh trong ngành. Thật ra, môi trường trong nước càng năng động, thì càng có khả năng một số doanh nghiệp sẽ thất bại, bởi vì không phải mọi doanh nghiệp đều có kỹ năng và nguồn lực như nhau, hoặc đều có khả năng khai thác môi trường trong nước hiệu quả như nhau. Tuy nhiên, doanh nghiệp nào vươn lên trong môi trường như thế sẽ thành công khi cạnh tranh trên thế giới. "Viên kim cương" là một hệ thống các yếu tố có tác động qua lại lẫn nhau. Ảnh hưởng của một yếu tố quyết định tùy thuộc vào các yếu tố khác. Ví dụ, điều kiện về nhu cầu thị trường thuận lợi sẽ không dẫn đến lợi thế cạnh tranh nếu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp không đủ để khiến doanh nghiệp phản ứng với các điều kiện thị trường. Những lợi thế trong một yếu tố có thể tạo ra hay phát triển thêm những lợi thế trong các yếu tố khác. Có khi lợi thế cạnh tranh chỉ phụ thuộc vào duy nhất một hay hai yếu tố, đó là những ngành dựa vào vào tài nguyên thiên nhiên, hay những ngành ít liên quan đến công nghệ hay kỹ năng cao. Lợi thế như thế thường không bền vững, vì vị thế thay đổi nhanh chóng và các đối thủ quốc tế có thể dễ dàng vượt qua. Có đầy đủ các thuận lợi trong toàn bộ "viên kim cương" rất cần thiết cho việc đạt được và duy trì sự thành công khi cạnh tranh trong những ngành sử dụng nhiều tri thức - những ngành hình thành nền tảng của nền kinh tế tiên tiến. Lợi thế trong mỗi yếu tố không phải là điều kiện tiên quyết cho lợi thế cạnh tranh trong một ngành nào đó. Sự tác động lẫn nhau giữa các lợi thế trong các yếu tố quyết định mang lại những lợi ích có tính chất tự củng cố lẫn nhau - mà các đối thủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi muốn vô hiệu hoá hay sao chép. Ngoài ra còn có hai yếu tố có thể ảnh hưởng đến hệ thống quốc gia và cũng cần thiết để hoàn chỉnh lý thuyết của chúng ta. Đó là cơ hội và nhà nước. Cơ hội là những sự kiện phát triển ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp (và cũng thường là ngoài sự quản lý nhà nước của quốc gia), ví dụ như những phát minh cơ bản, những đột phá về kỹ thuật căn bản, chiến tranh, những biến chuyển chính trị bên ngoài và thay đổi lớn về nhu cầu thị trường nước ngoài. Cơ hội có thể gây ra sự gián đoạn, làm thức tỉnh hoặc tái cấu trúc ngành và cung cấp cơ hội cho các doanh nghiệp của một quốc gia nào đó loại bỏ các doanh nghiệp của một quốc gia khác. Cơ hội đã từng đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi lợi thế cạnh tranh ở nhiều ngành. Yếu tố cuối cùng cần thiết cho việc hoàn chỉnh bức tranh toàn cản là nhà nước. Chính quyền các cấp có thể cải tiến hay giảm thiểu lợi thế quốc gia. Có thể thấy vai trò này rõ nhất bằng cách kiểm tra xem các chính sách ảnh hưởng như thế nào đến mỗi yếu tố quyết định. Chính sách chống độc quyền sẽ ảnh hưởng đến sự cạnh tranh trong nước. Các quy định có thể thay đổi điều kiện nhu cầu thị trường trong nước. Đầu tư vào giáo dục có thể thay đổi điều kiện về yếu tố sản xuất. Chi tiêu ngân sách có thể kích thích những ngành bổ trợ và liên quan. Nếu thực hiện chính sách mà không cân nhắc liệu chúng có ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống các yếu tố quyết định ra sao thì dẫn đến khả năng làm giảm lợi thế quốc gia thay vì gia tăng lợi thế cạnh tranh. Michael Porter 4 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  6. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Chương này tập trung xem xét ảnh hưởng của các yếu tố quyết định, trên phương diện riêng rẽ và với tư cách một hệ thống, lên khả năng của các doanh nghiệp tại một quốc gia để đạt được lợi thế cạnh tranh trong một ngành nào đó. Trong chương kế tiếp, chúng ta sẽ đề cập đến cách thức các yếu tố quyết định ảnh hưởng lẫn nhau như thế nào trong hệ thống tiến hoá và năng động của chúng. Đơn vị căn bản khi phân tích để tìm hiểu về lợi thế quốc gia là ngành. Tuy nhiên các quốc gia thành công không chỉ trong một lĩnh vực ngành riêng rẽ, mà trong một nhóm các ngành kết nối với nhau thông qua các mối quan hệ chiều ngang và chiều dọc. Nền kinh tế của một quốc gia bao gồm nhiều nhóm ngành, mà sự hình thành và các nguồn lợi thế (hay sự bất lợi) cạnh tranh phản ánh trạng thái phát triển của đất nước đó. Tuy nhiên, chúng ta sẽ đề cập đến chủ đề toàn bộ nền kinh tế quốc gia phát triển trong điều kiện cạnh tranh quốc tế như thế nào sau này. ĐIỀU KIỆN VỀ YẾU TỐ Mỗi quốc gia đều sở hữu những gì mà các nhà kinh tế học gọi là yếu tố sản xuất. Yếu tố sản xuất là các đầu vào cần thiết cho việc cạnh tranh trong bất kỳ một ngành nào, ví dụ như yếu công, đất trồng trọt, tài nguyên thiên nhiên, vốn và cơ sở hạ tầng. Tuy thuật ngữ này nghe có vẻ kỳ quặc đối với một số người, nhưng nó được sử dụng rất nhiều trong kinh tế học, và rất cần thiết trong học thuyết thương mại (trade theory), vì vậy chúng ta sẽ sử dụng thuật ngữ này xuyên suốt quyển sách này. Lý thuyết chuẩn về thương mại dựa trên yếu tố sản xuất. Theo thuyết này, các quốc gia có nguồn dự trữ yếu tố sản xuất khác nhau. Một quốc gia sẽ xuất khẩu những hàng hóa nào mà quá trình sản xuất sử dụng mạnh yếu tố sản xuất nó có nhiều nhất. Ví dụ, Mỹ là nước xuất khẩu đáng kể các mặt hàng nông nghiệp, điều này phản ánh phần nào sự phong phú về đất canh tác của Mỹ. Những yếu tố sản xuất mà một quốc gia sở hữu rõ ràng đóng một vài trò quan trọng trong lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp của quốc gia đó, chẳng hạn sự phát triển nhanh chóng về sản xuất ở những nước có tiền lương nhân công thấp như Hồng Kông, Đài Loan và gần đây là Thái Lan. Nhưng vai trò của các yếu tố sản xuất khác nhau và phức tạp hơn so với hiểu biết thông thường từ trước đến nay. Trong một quốc gia, những yếu tố quan trọng nhất đối với lợi thế cạnh tranh trong hầu hết các ngành, đặc biệt là những ngành cần thiết cho việc tăng năng suất lao động trong các nền kinh tế tiên tiến, không phải được thừa hưởng mà phải được tạo ra, thông qua các quá trình khác nhau giữa các quốc gia và các ngành. Vì vậy lúc nào cũng vậy, số lượng các yếu tố sản xuất cũng ít quan trọng hơn tốc độ chúng được sản sinh, nâng cao, và chuyên môn hoá cho từng ngành nhất định. Có lẽ, điều đáng ngạc nhiên là quá dư thừa yếu tố sản xuất có thể dẫn đến làm giảm, thay vì làm tăng lợi thế cạnh tranh. Những bất lợi nhất định về yếu tố sản xuất, thông qua ảnh hưởng của chiến lược và sự đổi mới, lại thường đóng góp vào sự thành công lâu dài trong cạnh tranh. CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT SỞ HỮU Michael Porter 5 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  7. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Để hiểu sâu hơn vai trò của những yếu tố sản xuất trong lợi thế cạnh tranh của một quốc gia thì chúng ta phải hiểu thêm ý nghĩa của khái niệm này trên phương diện các ngành. Các yếu tố sản xuất thường được trình bày qua những thuật ngữ tổng quát như đất đai, nhân công, và nguồn vốn, quá chung chung khi phân tích lợi thế cạnh tranh trong những ngành có tính chiến lược rõ ràng. Các yếu tố có thể chia ra thành một số các loại sau: Tài nguyên nhân lực: số lượng, tay nghề, chi phí nhân sự (bao gồm quản lý) tính cả giờ làm việc chuẩn và qui tắc đạo đức trong khi làm việc. Nguồn nhân lực có thể được chia ra thành nhiều loại, như kỹ thuật viên chế tạo công cụ, kỹ sư điện có bằng Tiến sĩ, thảo chương viên viết các chương trình ứng dụng, v.v Tài nguyên vật chất: sự phong phú, chất lượng, khả năng sử dụng, và chi phí về đất đai, nước, khoáng sản hay sản lượng gỗ tiềm năng, nguồn thuỷ điện, ngư trường đánh bắt cá và các yếu tố vật chất khác. Những điều kiện về khí hậu cũng như diện tích và địa thế quốc gia cũng được xem như là một phần nguồn tài nguyên vật chất của quốc gia. Nếu địa thế giáp với nhiều quốc gia là nhà cung cấp, thị trường thì ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển và việc trao đổi về kinh doanh và văn hoá diễn ra dễ dàng. Ví dụ, về mặt lịch sử, Đức đã có ảnh hưởng lớn đến ngành của Thuỵ Điển. Múi giờ cũng quan trọng trong thời đại thông tin liên lạc toàn cầu nhanh chóng. Địa thế của Luân Đôn nằm ở giữa Mỹ và Nhật được xem là một vị trí thuận lợi trong những ngành dịch vụ tài chính bởi vì các doanh nghiệp có trụ sở đặt tại Luân Đôn có thể giao thương với cả Nhật và Mỹ trong suốt cả ngày làm việc. Tài nguyên kiến thức: kiến thức về thị trường, kỹ thuật và khoa học liên quan đến hàng hóa và dịch vụ. Tài nguyên kiến thức đến từ các trường đại học, các viện nghiên cứu thống kê của chính phủ, các tài liệu khoa học và thương mại, các bảng báo cáo và cơ sở dữ liệu nghiên cứu thị trường, các hiệp hội thương mại và các nguồn khác. Các nguồn kiến thức khoa học và kiến thức khác của quốc gia có thể được chia nhỏ ra thành vô số ngành, ví dụ như âm thanh học, khoa học nguyên liệu và hóa học đất đai. Nguồn vốn: tiền vốn và chi chi phí vốn có sẵn để tài trợ cho các ngành. Vốn không phải đồng nhất mà hình thành từ nhiều hình thức khác nhau như những khoản nợ không bảo đảm (unsecured debts), những khoản nợ bảo đảm (secured debts), các cổ phiếu và chứng khoán "nguy cơ" (rủi ro cao, lãi cao), và đầu tư vốn (venture capital). Có rất nhiều thuật ngữ và điều kiện khác nhau gắn liền với mỗi một hình thức. Tổng nguồn vốn trong một đất nước, và những hình thức triển khai vốn, tuỳ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm của quốc gia và cơ cấu thị trường vốn của quốc gia đó, cả hai đều thay đổi tuỳ theo mỗi quốc gia. Sự toàn cầu hoá thị trường vốn và lượng vốn lớn luân chuyển giữa các quốc gia đang dần làm các điều kiện của các quốc gia ngày càng giống nhau hơn. Tuy nhiên, những mặt khác nhau căn bản vẫn tồn tại và có thể tiếp tục tồn tại mãi mãi. Cơ sở hạ tầng: chủng loại, chất lượng và chi phí sử dụng cơ sở hạ tầng cũng ảnh hưởng đến sự cạnh tranh, bao gồm hệ thống giao thông, hệ thống liên lạc, phân phát thư và hàng hóa, thanh toán và chuyển các quỹ, tổ chức y tế v.v . Cơ sở hạ tầng cũng bao gồm hệ thống nhà ở, các tổ chức văn hoá ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc sống và mức độ quốc gia đó thu hút người dân đến sinh sống và làm việc. Michael Porter 6 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  8. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Sự trộn lẫn các yếu tố (được biết như là những tỷ lệ thành phần các yếu tố ) khác nhau nhiều giữa các quốc gia. Các doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh nếu họ bảo đảm những yếu tố chất lượng cao hay chi phí thấp nào đó quan trọng đối với việc cạnh tranh trong một ngành nào đó. Địa thế của Singapore nằm trên tuyến đường thương mại chính giữa Nhật và Trung Đông là trung tâm cho việc sữa chữa tàu bè. Khả năng của Thuỵ Sĩ có thể giao tiếp với nhiều ngôn ngữ và nền văn hoá khác nhau của các nước khác (như Thụy Điển bao gồm các vùng nói tiếng Đức, Pháp và Ý) là một thuận lợi về dịch vụ như ngân hàng, buôn bán và quản lý hậu cần. Đức và Thụy Điển có nhiều nhân công có tay nghề đặc biệt về lĩnh vực quang học. Sự thích hợp giữa các ngành và các yếu tố có mặt ở mỗi quốc gia là điều mà thuyết chuẩn mực về lợi thế so sánh muốn đề cập. Tuy nhiên vai trò của các yếu tố mà quốc gia sở hữu phức tạp hơn. Lợi thế cạnh tranh từ các yếu tố phụ thuộc vào việc chúng được triển khai có khả năng và hiệu quả hay không? Điều này phản ánh sự lựa chọn của các doanh nghiệp trong một quốc gia về việc huy động các yếu tố cũng như kỹ thuật để thực hiện việc này (bao gồm thủ tục và thói quen). Thật vậy, giá trị của những yếu tố đặc biệt có thể bị thay đổi rất nhiều tuỳ theo sự lựa chọn kỹ thuật. Không chỉ làm cách nào triển khai mà những yếu tố ở chỗ nào được triển khai trong một nền kinh tế mới là điều quan trọng, bởi vì các kiến thức kỹ thuật và nguồn nhân lực thường được sử dụng trong nhiều ngành khác nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ có những yếu tố trên thì không đủ để giải thích sự thành công trong cạnh tranh; thật vậy, gần như tất cả các quốc gia đều có nhiều yếu tố hấp dẫn nhưng chưa bao giờ được triển khai trong các ngành thích hợp hay có triển khai nhưng triển khai chưa được tốt. Các yếu tố quyết định khác trong "viên kim cương" sẽ rất hữu ích giúp giải thích lợi thế về yếu tố khi nào sẽ dẫn đến thành công trên phạm vi thế giới bởi vì điều này sẽ hình thành cách các yếu tố được triển khai. Như đã thảo luận ở trước, hầu hết các quốc gia có nền công nghiệp tiên tiến hay thậm chí mới được công nghiệp hoá ngày nay có các yếu tố có thể so sánh dưới dạng cơ sở hạ tầng; các quốc gia đều có tay nghề lao động tốt nghiệp từ trường trung học, thậm chí đại học (ví dụ như Hàn Quốc, có gần khoảng 100% tỷ lệ người biết đọc biết viết và hơn 200 trường đại học). Cùng lúc đó, toàn cầu hoá đã làm cho các vốn yếu tố sẵn có của địa phương trở nên ít cần thiết. Các tập đoàn doanh nghiệp trên toàn cầu có thể tìm kiếm một vài yếu tố từ các quốc gia khác bằng cách mua từ nước ngoài hay triển khai các hoạt động tại các nước đó. Một lần nữa, không chỉ có cách tiếp cận mà khả năng triển khai các yếu tố sao cho có hiệu quả mới là điều quan trọng chính trong hình thành lợi thế cạnh tranh. Điểm cuối cùng đó là các yếu tố nhân lực, kiến thức và vốn có thể di chuyển giữa các quốc gia. Những lao động có tay nghề di chuyển giữa các nước, vì vậy kiến thức kỹ thuật và khoa học cũng di chuyển theo. Sự di chuyển này ngày càng gia tăng bởi thế giới ngày càng nối kết nhiều hơn và việc di chuyển cũng dễ dàng hơn. Việc có sẵn các yếu tố trong mỗi quốc gia không phải là một lợi thế nếu như các yếu tố di chuyển đi nước khác. Các yếu tố quyết định khác sẽ giúp giải thích những quốc gia nào cuốn hút những yếu tố lưu động và ở nơi nào thì chúng được triển khai có năng suất nhất. TÍNH THỨ BẬC GIỮA CÁC YẾU TỐ Michael Porter 7 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  9. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Để hiểu vai trò dài hạn của các yếu tố trong lợi thế cạnh tranh, chúng ta phải nhận ra sự khác biệt giữa các loại yếu tố. Có hai sự khác biệt quan trọng nổi bật nhất. Sự khác biệt đầu tiên là yếu tố cơ bản và yếu tố tiên tiến. Yếu tố cơ bản bao gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, địa thế, nhân công không có tay nghề hay có tay nghề bậc trung, và vốn. Yếu tố tiên tiến bao gồm cơ sở hạ tầng giao tiếp dữ liệu bằng kỹ thuật số hiện đại, nhân sự có học vấn cao như các kỹ sư đã tốt nghiệp và các nhà khoa học tin học và các viện đại học nghiên cứu về các môn khoa học phức tạp. ít có yếu tố sản xuất nào được đơn thuần thừa hưởng bởi quốc gia. Hầu hết chúng phải được phát triển trong suốt thời gian dài thông qua việc đầu tư; và mức độ khó khăn cũng như phạm vi mở rộng của mức đầu tư cần thiết thay đổi rất nhiều. Trong khi khó tránh việc phân chia cấp độ, chúng ta chắc chắn cần phải tìm kiếm và nắm bắt khác biệt giữa yếu tố cơ bản và yếu tố tiên tiến. Những yếu tố cơ bản được thừa hưởng một cách bị động, hay nếu muốn sáng tạo chúng chỉ đòi hỏi đầu tư của xã hội và tư nhân tương đối ít. Những yếu tố như thế ngày càng trở nên hoặc không quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh quốc gia hoặc lợi thế mà chúng cung cấp cho các doanh nghiệp của một quốc gia không kéo dài được bao lâu. Sự quan trọng của các yếu tố cơ bản đã bị giảm sút vì các doanh nghiệp toàn cầu, thông qua các hoạt động ở nước ngoài hay tìm các thị trường quốc tế có thể tiếp cận chúng dễ dàng, cho nên tính cần thiết, hay phổ quát của chúng trở nên ít phổ biến. Những lối suy nghĩ giống nhau khiến lợi ích cho những yếu tố cơ bản thấp đi. Một người công nhân không có tay nghề đang ngày càng bị áp lực về tiền lương cho dẫu ở Mỹ hay Đức. Những yếu tố cơ bản có thể giải thích một vài các doanh nghiệp về mặt hình thức, phản ánh địa thế của các hoạt động được lựa chọn trong các quốc gia khác nhau để khai thác những chi phí yếu tố thấp. Nhưng họ không giải thích địa thế của doanh nghiệp “sân nhà” ở hầu hết các ngành công nghiệp. Những yếu tố cơ bản cũng còn quan trọng đối với những ngành có liên quan đến nông nghiệp hay khai thác (ví dụ như khai thác gỗ hay trồng đậu nành), và trong những ngành đòi hỏi phải có tay nghề hay kỹ thuật trình độ thấp hay kỹ thuật áp dụng rộng rãi. Ví dụ như, xây dựng những dự án dân dụng (chung cư hay trường học) đòi hỏi công việc thiết kế và xây dựng không cao. Các doanh nghiệp Hàn Quốc đã gặt hái được nhiều thành công trên thế giới đối với những dự án như thế, do hầu hết nhân công Hàn Quốc có kỷ cương và chi phí nhân công thấp. Tuy nhiên các doanh nghiệp ở các quốc gia có lương thậm chí ít hơn đang dần thế chỗ các doanh nghiệp Hàn Quốc, và các đối thủ cạnh tranh từ các quốc gia phát triển, ví dụ như Ý đang tìm kiếm những nguồn nhân công rẻ trong địa phương ở các quốc gia nơi họ có thầu các hợp đồng quốc tế hay từ các quốc gia đang phát triển (Ấn Độ) cũng đang làm giảm lợi thế của Hàn Quốc. Cùng với sự giảm sút các dự án ở Trung đông, kết quả là ngành xây dựng của Hàn Quốc bị giảm sút đột ngột, cho thấy rằng những lợi thế từ các yếu tố căn bản thường chỉ kéo dài trong khoảng thời gian ngắn. Ngày nay, những yếu tố tiên tiến trở nên quan trọng nhất trong lợi thế cạnh tranh. Chúng rất cần thiết để đạt được những lợi thế cạnh tranh cao hơn, ví dụ như những sản phẩm đặc trưng tiêu biểu và công nghệ sản xuất độc quyền. Chúng không có nhiều bởi vì để phát triển chúng đòi hỏi mức đầu tư kéo dài và lớn hơn, cả về vốn vật chất và nhân lực. Chính Michael Porter 8 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  10. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh các tổ chức được yêu cầu phải tạo ra những yếu tố tiên tiến thật sự (ví dụ chương trình giáo dục) cũng đòi hỏi nguồn nhân lực và/hoặc kỹ thuật cao hơn. Những yếu tố tiên tiến cũng hiếm thấy trên các thị trường toàn cầu hay tiếp cận từ xa thông qua các chi nhánh trung gian ở nước ngoài. Chúng quan trọng không thể thiếu được dối với thiết kế và phát triển sản phẩm và qui trình của doanh nghiệp, cũng như khả năng đổi mới, mà tốt nhất là nên diễn ra ở trụ sở doanh nghiệp và phải được nối kết mật thiết với chiến lược tổng thể của doanh nghiệp . Vai trò quan trọng của những yếu tố tiên tiến rất rõ ràng trong rất nhiều ngành công nghiệp. Chẳng hạn sự thành công của Đan Mạch về enzym phản ánh nền tảng kiến thức khoa học cao về quá trình lên men, và sự thành công của đất nước này trong ngành sản xuất đồ dùng gia đình chứng tỏ có nhiều nhà thiết kế đồ dùng gia đình được đào tạo từ các trường đại học. Nguồn nhân lực có tay nghề đặc trưng và kiến thức chuyên môn về khoa học ở Mỹ trong cả lĩnh vực phần cứng và phần mềm tin học đã đem lại lợi thế không chỉ trong ngành tin học mà còn trong những ngành khác như điện tử y tế và dịch vụ tài chính. Từ thập kỷ 1950, số lượng rất nhiều kỹ sư Nhật (cho thấy tỷ lệ kỹ sư tốt nghiệp đại học trên đầu người cao hơn các nước khác) giúp ích nhiều hơn cho Nhật Bản trong việc thành công với các ngành hơn là tiền lương thấp của nhân công lao động sản xuất. Điều quan trọng cần phải nhận ra được là những yếu tố tiên tiến của một quốc gia thường được xây dựng trên nền tảng các yếu tố cơ bản. Ví dụ, muốn cung cấp tiến sĩ sinh học cho các doanh nghiệp đòi hỏi có nhiều người tốt nghiệp đại học trong lĩnh vực này. Điều này có nghĩa là những yếu tố cơ bản, trong khi hiếm có lợi thế kéo dài nào, phải có đủ về mặt số lượng và chất lượng khi tính đến việc tạo ra các yếu tố tiên tiến có liên quan. Sự khác biệt quan trọng thứ hai giữa các yếu tố sản xuất là nét đặc trưng. Các yếu tố được tổng quát hoá bao gồm: hệ thống xa lộ, nguồn cung cấp vốn nợ, hay những người lao động có học vấn cao đẳng. Họ có thể làm trong nhiều ngành công nghiệp. Các yếu tố đặc trưng có liên quan đến nhân lực có tay nghề chuyên môn về một lĩnh vực, cơ sở hạ tầng có tính chất cụ thể, kiến thức căn bản về các lĩnh vực riêng biệt và những yếu tố khác có liên quan đến một số ngành hay chỉ trong một ngành đơn lẻ. Ví dụ: viện khoa học với kiến thức chuyên về quang học, một cảng chuyên về vận chuyển chất hoá học, một lực lượng thiết kế nòng cốt cho các nhà sản xuất xe hơi, hay lượng vốn đầu tư cho các doanh nghiệp phần mềm. Những yếu tố tiên tiến có khuynh hướng ngày càng được đặc trưng hoá hơn, mặc dù không phải trường hợp nào cũng đúng. Ví dụ, các lập trình viên vi tính, vốn là một kho dự trữ yếu tố tiên tiến, có thể hoạt động trong nhiều ngành khác nhau. Những yếu tố đặc trưng cung cấp nhiều cơ sở lâu dài và có tính quyết định hơn về lợi thế cạnh tranh so với những yếu tố tổng quát hoá. Những yếu tố tổng quát hoá chỉ bổ trợ những lợi thế ban đầu. Chúng thường được thấy trong các quốc gia, và chúng có khuynh hướng dễ dàng bị lãng quên, bị phá vỡ hay bị đánh cắp thông qua các mạng lưới doanh nghiệp toàn cầu. Các hoạt động phụ thuộc vào những yếu tố tổng quát hoá (như hoạt động dây chuyền có nhân công đòi hỏi phải có công nhân tay nghề bậc trung) thường được áp dụng ở những nơi xa trụ sở doanh nghiệp trong nước. Các yếu tố đặc trưng đòi hỏi phải Michael Porter 9 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  11. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh đầu tư xã hội hay tư nhân phải nhiều hơn, liều lĩnh hơn. Trong nhiều trường hợp, chúng phụ thuộc vào nền tảng của những những yếu tố khái quát hóa sẵn có. Tuy nhiên điều này xảy ra không nhiều. Những yếu tố đặc trưng luôn cần thiết trong những hình thức phức tạp của lợi thế cạnh tranh. Điều này khiến chúng quan trọng trong đổi mới. Những yếu tố đặc trưng rất cần thiết cho các doanh nghiệp trong nước và ít hiệu quả khi áp dụng cho các doanh nghiệp ở nước ngoài. Nó cũng thường hay gây khó khăn cho những doanh nghiệp nước ngoài khi tiếp cận các yếu tố đặc trưng (cũng như các yếu tố tiên tiến). Ví dụ, những doanh nghiệp không phải của Nhật, hay gặp khó khăn trong vấn đề thuê kỹ sư tốt nghiệp hàng đầu của Nhật hay nắm bắt các chương trình nghiên cứu đại học địa phương. Lợi thế cạnh tranh quan trọng và kéo dài nhất ra đời khi một quốc gia sở hữu các yếu tố cần cho việc cạnh tranh trong một ngành nào đó, cả tiên tiến và đặc trưng. Giá trị và chất lượng của các yếu tố tiên tiến và yếu tố đặc trưng quyết định mức độ phức tạp của lợi thế cạnh tranh có khả năng đạt được và tỷ lệ nâng cao lợi thế cạnh tranh. Ví dụ, về quang học, một lý do rất quan trọng tại sao các doanh nghiệp Đức có thể dần dần cải tiến hoạt động sản phẩm và chất lượng là do họ có những kỹ sư tốt nghiệp từ các trường đại học chuyên ngành về quang học và nhiều lao động có tay nghề cao được huấn luyện tại chương trình học nghề đặc biệt. Trái lại, lợi thế cạnh tranh dựa trên các yếu tố khái quát hay căn bản thường khá là đơn giản và chóng kết thúc. Nó chỉ kéo dài cho đến khi một số quốc gia mới, thường là quốc gia đang trên đà phát triển, có thể đuổi kịp và đạt được nó. Những suy nghĩ này giúp giải thích nghịch lý không thể chối cãi đã trình bày trong chương trước. Để kéo dài một lợi thế cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp của một quốc gia phải chối bỏ hay phủ nhận những lợi thế cạnh tranh về yếu tố cơ bản hiện tại mặc dầu chúng vẫn còn hiệu quả áp dụng. Điều gì làm cho các doanh nghiệp quốc gia không phụ thuộc vào những yếu tố khái quát hay căn bản trở thành một vấn đề mà chúng ta phải nhắm tới, các yếu tố quyết định khác trong “viên kim cương” cũng cho một vài câu trả lời. Lợi thế cạnh tranh dựa trên yếu tố sản xuất còn có thêm một tính chất năng động quan trọng: chuẩn mực tạo thành một yếu tố tiên tiến gia tăng thường xuyên, cũng như trạng thái kiến thức, khoa học và thực hành cũng luôn cải thiện. Kiến thức của một kỹ sư tốt nghiệp năm 1t965 so với ngày nay gần như lỗi thời. Chỉ bằng con đường rèn luyện và ngày càng nâng cao kiến thức thì viên kỹ sư tốt nghiệp năm 1965 mới có thể bằng khả năng với kỹ sư tốt nghiệp năm 1990. Theo thời gian, học trở thành Tiến sĩ hay Cử nhân trong lĩnh vực chuyên môn của mình đã trở nên cần thiết khi giải quyết vấn đề. Chuẩn mực về chuyên môn hoá cũng có khuynh hướng tăng cao, bởi vì các yếu tố chuyên môn ngày nay có xu hướng trở thành các yếu tố khái quát ngày mai. Ngày trước một người tốt nghiệp đại học trong ngành kỹ thuật điện là một yếu tố đặc trưng, sẽ tìm thấy công việc trong một số ít ngành có liên quan. Ngày nay, kỹ năng này lại trở thành rất cần thiết trong nhiều ngành và những lĩnh vực chuyên môn phân nhánh phụ đã gia tăng số lượng rất nhanh. Khuynh hướng các yếu tố đánh mất sự đặc trưng hoá theo thời gian là rõ ràng trong các lĩnh vực khoa học, nơi các chuyên môn phân nhánh phụ xuất hiện, nhưng Michael Porter 10 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  12. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh điều này cũng thể hiện rất rõ trong nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng và thậm chí trong nguồn vốn. Tập hợp các yếu tố là cơ sở ngày càng giảm giá trị của lợi thế kéo dài, nếu nó không được đầu tư và không được đặc trưng hoá. Nguồn nhân lực có tay nghề cao và kiến thức, có lẽ là hai loại yếu tố quan trọng nhất cho việc nâng cao lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là các loại tài sản mau xuống cấp, tuy rằng cơ sở hạ tầng cũng khấu hao không kém phần nhanh chóng. Điều này có nghĩa rằng việc sở hữu lợi thế dựa trên yếu tố bất kỳ khi nào cũng không đủ giải thích thành công bền vững của các quốc gia. TẠO RA YẾU TỐ Một điều phân biệt quan trọng khác giữa các yếu tố, điều này đã được nhắc khá rõ trong phần thảo luận trước, là chúng có phải được thừa hưởng hay không, ví dụ như nguồn tài nguyên thiên nhiên, địa thế hay chúng phải được tạo ra. Những yếu tố như thế rất quan trọng để đạt được lợi thế cạnh tranh kéo dài hay ở mức độ cao hơn. Hệ thống viễn thông của một quốc gia hay số lượng các nhà vi trùng học tại một đất nước đã được hình thành thông qua những cá nhân đã đầu tư bởi muốn phát triển chuyên môn, các doanh nghiệp tìm kiếm các công cụ cần thiết cho việc cạnh tranh, hay các tổ chức xã hội, chính phủ hy vọng làm lợi cho xã hội, hay cho nền kinh tế. Cơ chế để tạo ra các yếu tố bao gồm các cơ sở đào tạo giáo dục tư thục hay nhà nước, các chương trình dạy nghề, viện nghiên cứu tư thục hay của chính phủ và các đoàn thể cung cấp cơ sở hạ tầng chẳng hạn như là ban quản lý các cảng do chính phủ sở hữu hay các bệnh viện cộng đồng. Chuẩn mực yếu tố của thế giới ngày càng tăng có nghĩa là các lợi thế cạnh tranh xuất phát từ các yếu tố đòi hỏi không chỉ đầu tư một lần mà phải đầu tư liên tục để nâng cao chất lượng, chứ không phải chỉ chú ý đến việc duy trì các yếu tố hiện thời khỏi bị giảm giá trị. Các yếu tố tiên tiến và yếu tố đặc trưng đòi hỏi sự đầu tư kéo dài nhất, lớn nhất để tạo ra các hình thức khó khăn nhất. Các quốc gia thành công trong các lĩnh vực ngành mà họ đặc biệt chú trọng tạo ra và quan trọng nhất là nâng cao những yếu tố cần thiết. Vì vậy, các quốc gia sẽ có thể cạnh tranh trong các lãnh vực mà họ sở hữu những cơ chế chất lượng cao cho việc tạo ra các yếu tố đặc trưng. Cơ chế tạo ra yếu tố trong một quốc gia thường giúp ích lợi thế cạnh tranh hơn là các yếu tố hiện thời mà các quốc gia đang có. Ví dụ minh hoạ sẽ được trình bày sau. Hơn nữa, vai trò của bộ phận kinh tế tư nhân trong việc tạo ra yếu tố cũng cần thiết cho việc đạt đến lợi thế cạnh tranh trong hầu hết các ngành. Các yếu tố tiên tiến và yếu tố đặc trưng đóng vai trò rất quan trọng cho lợi thế cạnh tranh và chính các doanh nghiệp ở vào vị trí tốt nhất để biết xem lợi thế nào tốt cho việc cạnh tranh. Các đầu tư của chính phủ nhằm tạo ra yếu tố thường tập trung vào yếu tố cơ bản hay yếu tố khái quát. Ví dụ như, đầu tư vào việc nghiên cứu căn bản, nếu đặt nặng vấn đề khả năng gieo mầm mống sự đổi mới vào thương mại, thì sẽ không dẫn đến lợi thế cạnh tranh nếu không được chuyển giao, hay phát triển xa hơn bởi các ngành. Những nổ lực của chính phủ tạo ra những yếu tố tiên tiến và yếu tố đặc trưng sẽ gặp thất bại nếu họ không kết hợp hai điều đó vào ngành bởi vì các cơ quan chính phủ, ai cũng đều biết là chậm chạp và không có khả năng Michael Porter 11 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  13. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh nhận ra những lĩnh vực mới hay nhu cầu chuyên sâu của một ngành nào đó. Tiền đầu tư trực tiếp từ các công ty, tổ chức thương mại, và từ cá nhân trong việc tạo ra yếu tố, cũng như các đầu tư nhà nước hay cá nhân, là đặc tính của những ngành quốc gia thành công trên thế giới. Có sự khác nhau hoàn toàn giữa các quốc gia ở những khu vực mà việc đầu tư vào việc tạo ra yếu tố được thực hiện, cũng như trong bản chất và chất lượng của cơ chế tạo ra yếu tố. Ví dụ như ở Đan Mạch, có hai bệnh viện chuyên điều trị bệnh nhân và hướng dẫn nghiên cứu về bệnh đái đường. Chúng được thành lập bởi hai nhà sản xuất chất insulin của Đan Mạch thuộc đẳng cấp thế giới, tên là Novo Industri và Nordisk Insulin. Ở Đức, các chương trình dạy nghề thường được dạy trong các lĩnh vực như in ấn, dây chuyền tự động, và chế tạo thiết bị. Nước Mỹ có mạng lưới phát triển cao các trường Nông lâm, và Dịch vụ mở rộng nông nghiệp (Agriculture Extension Service), phổ biến những cải tiến trong ngành kỹ thuật nông nghiệp. Ngành khoa học tin học là một lĩnh vực khác, trong đó có rất nhiều chương trình giáo dục và nhiều nổ lực nghiên cứu. Một vài nét khác biệt giữa các quốc gia về cơ chế tạo ra yếu tố nằm trong phạm vi rộng hơn của các ngành công nghiệp. Ví dụ như ở Nhật, tạo ra yếu tố có khuynh hướng thường do cá nhân, trong khi ở Thuỵ Điển, tạo ra yếu tố thường do vai trò của công chúng hơn. Ở Ý, thông thường tạo ra yếu tố thông qua việc chuyển giao kiến thức trong các thế hệ gia đình. Thường thấy trong một quốc gia, đặc tính của cơ chế tổ chức việc tạo ra yếu tố, thông thường một phần là chức năng của các giá trị xã hội, chính trị và lịch sử, theo một cách nào đó, thường giới hạn phạm vi các ngành mà trong đó quốc gia có thể cạnh tranh. Không có một quốc gia nào có thể tạo ra hay nâng cao tất cả các loại yếu tố. Loại nào được tạo ra và nâng cao, có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố quyết định khác, ví dụ như điều kiện về nhu cầu nhà ở, sự đóng góp của những ngành bổ trợ, mục tiêu của các công ty, và tính chất cạnh tranh trong nước. Sự có mặt của các yếu tố tiên tiến và yếu tố đặc trưng trong một quốc gia thường không phải là nguyên nhân của lợi thế quốc gia mà thường là kết quả, ít ra điều này cũng đúng một phần. NHỮNG BẤT LỢI NHẤT ĐỊNH VỀ YẾU TỐ Lợi thế cạnh tranh có thể đến từ một vài bất lợi về mặt yếu tố. Theo khái niệm nghĩa hẹp về cạnh tranh quốc tế, lợi thế cạnh tranh có từ sự phong phú của các yếu tố và các bất lợi trong các yếu tố có thể không được khắc phục do kỹ thuật được xem như định sẵn. Tuy nhiên, trong các cuộc cạnh tranh thật sự, sự phong phú hay chi phí thấp của một yếu tố thường dẫn đến sự triển khai kém hiệu quả. Trái lại, yếu tố bất lợi trong các yếu tố cơ bản, ví dụ như thiếu hụt về tiền lương, thiếu nguyên vật liệu trong nước, hay thời tiết khắc nghiệt, lại thúc đẩy việc đổi mới. Sự gia tăng ổn định về tỷ giá hối đoái giữa các quốc gia cũng có thể có cùng hiệu quả. Kết quả là lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trở nên nâng cao và bền vững hơn. Một bất lợi theo khái niệm nghĩa hẹp của cạnh tranh có thể trở thành một lợi thế trong một khái niệm năng động hơn. Michael Porter 12 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  14. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Ví dụ như các nhà sản xuất thép của Ý, đối mặt với chi phí vốn cao, chi phí năng lượng cao và không có vật liệu thô. Các doanh nghiệp tư nhân, ví dụ như Grupo Lucchini, đã tập trung vào khu vực quanh Lombardy, trong khi các nhà sản xuất thuộc nhà nước hầu hết tập trung về phía nam, gần các cảng chính. Các doanh nghiệp tư nhân đối mặt với chi phí hậu cần cao, do khoảng cách xa cảng và hệ thống vận chuyển kém hiệu quả của nước Ý (do nhà nước quản lý). Kết quả là sự tiên phong trong kỹ thuật các nhà máy sản xuất nhỏ, trong đó nhà sản xuất thép vùng Brescia đã vượt lên - có thể được coi là hàng đầu trên thế giới. Các nhà máy sản xuất nhỏ chỉ cần một số tiền đầu tư vốn nhỏ, sử dụng ít năng lượng, thu lượm kim loại vụn (phế liệu). Ở trình độ nhỏ, chúng rất có hiệu quả và cho phép các nhà sản xuất phát hiện địa thế những nhà tiêu thụ và nguồn vật liệu gần hơn. Các doanh nghiệp của Ý, như Danieli không chỉ chú trọng vào tầm hoạt động nhà máy sản xuất nhỏ mà còn trở thành doanh nghiệp dẫn đầu thế giới về bán thiết bị cho các nhà máy sản xuất nhỏ. Yêu cầu về các yếu tố, đặc biệt là các yếu tố khái quát và yếu tố cơ bản như lao động tay nghề bậc trung hay vật liệu thô, có thể bị loại bỏ, giảm xuống thông qua việc áp dụng sự đổi mới. Tự động hoá sẽ làm giảm nhân công, trong khi các nguyên vật liệu mới làm giảm nhu cầu về các nguyên vật liệu khác. Chi phí cho việc đổi mới khi tiết kiệm các yếu tố thường ít hơn các ích lợi do việc đổi mới đem lại rất nhiều, thỉnh thoảng, thông qua việc đem lại các lợi ích gián tiếp (ví dụ như vấn đề giảm nhân công có thể làm giảm đi tỷ lệ sản phẩm thiếu sót và làm tăng chất lượng sản phẩm) đôi khi rất khó nói trước. Việc áp dụng các phương pháp mới để giảm bớt những bất lợi nhất định không chỉ kinh tế hoá việc sử dụng các yếu tố mà còn có thể tạo ra nhiều lợi thế yếu tố khác, bởi vì các doanh nghiệp của một quốc gia sẽ áp dụng các phương pháp mới để bù đắp những bất lợi nhất định tùy theo điểm mạnh của địa phương đang xét, ví dụ như việc sử dụng cơ sở hạ tầng, vật liệu hay lao động sẵn có tại địa phương. Tuy nhiên, quan trọng hơn hết, việc đổi mới xung quanh các bất lợi yếu tố cơ bản dẫn các doanh nghiệp đến việc ngày càng đổi mới, bằng cách phát triển những lợi thế cạnh tranh phức tạp hơn (ví dụ như kỹ thuật độc quyền, hay lợi thế về quy mô do sử dụng nhiều thiết bị tự động hơn), mà có thể kéo dài lâu hơn và có thể đẩy giá cao hơn. Cùng lúc đó, các doanh nghiệp buộc phải thúc đẩy để nâng cao và chuyên sâu vào các yếu tố khác nhanh hơn như nguồn nhân lực có tay nghề cao hay cơ sở hạ tầng để có thể sánh kịp các đối thủ khác. Ví dụ thể thao cũng góp phần minh họa cho một vài điểm này. Một vài quốc gia chuyên tổ chức cuộc thi trượt tuyết theo đường dốc chướng ngại vật, như Thụy Điển, không có núi cao với các đường trượt tuyết dài. Thay vào đó, họ có những ngọn núi nhỏ và ngắn. Để cải thiện những ngọn núi trở nên hấp dẫn hơn để lôi cuốn các nhà trượt tuyết, họ đã làm thêm nhiều ngã rẽ và bắt buộc các nhà trượt tuyết phải vận dụng những kỹ thuật. Vai trò của những yếu tố bất lợi nhất định ra đời từ sự thực là tỷ lệ và hướng đổi mới là kết quả của cả sự chú ý và nổ lực. Các doanh nghiệp thường có nhiều con đường để đổi mới và phải đối mặt sự không chắc chắn từ tất cả các hướng đi và vấn đề hiệu quả chi phí. Việc đổi mới có tính không liên tục (disruptive). Các doanh nghiệp chỉ nhằm vào những hướng xem là hứa hẹn nhất, và nhất là những hướng có khả năng giải quyết các vấn đề rắc rối cấp bách nhất. Michael Porter 13 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  15. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Việc đổi mới bù lại những sự yếu kém nhất định có khả năng xảy ra nhiều hơn đổi mới để khai thác sức mạnh. Các bất lợi nhất định có thể gây đình trệ sản xuất, đem lại các mối đe dọa và định ra những mục tiêu trước mắt cho việc cải tiến vị thế cạnh tranh. Chúng thúc đẩy hay bắt buộc các doanh nghiệp phải có giải pháp mới. Chủ đề này, nghĩa là áp lực thúc đẩy chứ không phải tính phong phú hay môi trường thuận lợi là nền tảng cho lợi thế cạnh tranh thật sự, sẽ được đề cập trong suốt quyển sách này. Những bất lợi trong các yếu tố cơ bản là một phần khiến các doanh nghiệp tránh xa việc dựa vào các chi phí yếu tố cơ bản và lo tìm kiếm các lợi thế cao hơn. Trái lại, sự phong phú của yếu tố cơ bản sẽ ru ngủ các doanh nghiệp vào sự tự mãn và không có ý chí trong việc áp dụng các kỹ thuật công nghệ tiên tiến, kết quả là lợi thế cạnh tranh thường giảm và việc tăng năng suất cũng giảm. Chỉ có một số những yếu tố bất lợi nhất định có thể thúc đẩy, thay vì ngăn trở sự đổi mới. Thiếu áp lực đồng nghĩa hiếm khi tiến bộ, nhưng nếu có nhiều rủi ro thì sẽ dẫn đến tình trạng tê liệt. áp lực vừa phải, liên quan đến việc cân bằng các lợi thế cạnh tranh trong một vài khu vực và những bất lợi trong các khu vực khác, dường như là sự kết hợp tốt nhất cho việc cải tiến và việc đổi mới. Những bất lợi nhất định đóng góp nhiều nhất cho lợi thế cạnh tranh chỉ khi chúng phát ra những tín hiệu thích hợp về hoàn cảnh mà cuối cùng sẽ kiểm soát các công ty. Các doanh nghiệp sẽ háo hức nhanh chóng giải quyết các vấn đề có khả năng sẽ lan rộng. Một ví dụ điển hình đó là nước Thuỵ Sĩ. Đó là một quốc gia có có lẽ thuộc vào loại thiếu hụt nhân công nhất từ sau Thế chiến thứ hai và không muốn chấp nhận cho nhập cư. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp Thuỵ Sĩ phải nhanh chân hơn hết trong việc nâng cao năng suất của nhân công và tìm kiếm những phân khúc thị trường có giá trị cao hơn, và lâu dài hơn. Các doanh nghiệp từ các quốc gia khác đã tiếp cận được nhiều nguồn cung cấp nhân công và do đó quan tâm đến nhiều khía cạnh khác. Trường hợp rõ ràng nhất về những bất lợi nhất định là khi các doanh nghiệp địa phương phải trả chi phí cao hơn về một yếu tố nào đó so với các đối thủ nước ngoài. Ví dụ như các doanh nghiệp Nhật Bản trong nhiều ngành phải đối mặt vấn đề chi phí đất đai cao và hạn chế không gian xây dựng nhà máy. Để tránh những khó khăn này, họ đã chế tạo ra những kỹ thuật sản xuất "kịp thời" và thiết bị tiết kiệm không gian, điều này làm giảm thiểu lượng hàng hóa dự trữ cần thiết. Thiếu yếu tố, không đáp ứng sẵn và giới hạn nghiêm ngặt về việc sử dụng các yếu tố đặc biệt nào đó và chi phí yếu tố cao giúp kích thích đổi mới. Sự đổi mới cũng sẽ được thúc đẩy nếu các doanh nghiệp của một nước có kinh nghiệm trong khuynh hướng về yếu tố chi phí sớm hơn, ngay cả khi các quốc gia khác bắt kịp. Đặc biệt, sự thay đổi dễ dàng và nhanh chóng trong chi phí và sự đáp ứng các yếu tố trong một nước so với các nước khác dẫn đến các doanh nghiệp địa phương hành động sớm hơn, do tầm quan trọng của các bất lợi nhất định nằm trong việc tập trung sự quan tâm và nổ lực nhắm tới các vấn đề và những hạn chế được xem là quan trọng. Cuối cùng chi phí tương đối cao của một yếu tố trong một nước có thể thúc đẩy đổi mới để khắc phục nó ngay cả khi chi phí tuyệt đối của yếu tố đó tương đương ở các nước khác. Ví dụ, Michael Porter 14 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  16. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh nếu một nước phải đối mặt với chi phí tương đối cao của lao động không có tay nghề và có tay nghề, các doanh nghiệp địa phương sẽ quan tâm đến vấn đề loại bỏ các lao động không có tay nghề cho dẫu mức lương của họ thấp hơn nhiều so với những nơi khác. Điều này đã xảy ra, ví dụ trong nhiều ngành khác nhau ở Ý, nơi các doanh nghiệp đều nằm trong những ngành tự động hóa nhất trên thế giới (Ý cũng là nước dẫn đầu về các doanh nghiệp chế tạo thiết bị tự động). Các yếu tố bất lợi nhất định rất phổ biến trong các ngành mà chúng tôi nghiên cứu và rất quan trọng trong quá trình mà bằng cách đó các doanh nghiệp của một nước đạt được lợi thế cạnh tranh. Vào khoảng đầu thế kỷ 20, BASF và Hoechst (Đức) đã bỏ nhiều năm trong việc nhuộm tổng hợp màu tím chàm để giảm nhập khẩu thuốc nhuộm tự nhiên không có trong nước. Anh có ít áp lực để đổi mới hơn do có sự cung cấp màu tím chàm tự nhiên từ các thuộc địa. Thiếu nguyên liệu thô trong nước là một động lực thúc đẩy thường thấy để đổi mới trong các ngành của một quốc gia. Nguồn lao động hiếm, giá cao, và rất khó thuê là một yếu tố khác dẫn đến sự đổi mới, đặc biệt là ở Đức, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Thụy Điển. Việc thuê nhân công hoặc hạn chế trong việc thuê nhân công làm cho các doanh nghiệp của Ý, Thụy Điển, Nhật Bản rất cẩn thận trong việc thuê mướn nhân công và có xu hướng tự động hóa. Họ cũng nhanh chóng chuyển đổi sang nhiều thị phần đặc trưng hơn. Các bất lợi nhất định về khí hậu và địa lý cũng là một động lực thúc đẩy chung để dẫn đến việc đổi mới. Ví dụ, các doanh nghiệp của Thụy Điển dẫn đầu việc xây dựng nhà tiền chế, bởi vì một phần do mùa xây dựng ở đó rất ngắn và giá nhân công quá cao. Điều này nâng giá tiền các thiết kế xây dựng có hiệu quả cao lên rất nhiều. Ở Nhật Bản và Thuỵ Điển, khoảng cách từ các thị trường đến nới sản xuất đã dẫn đến tỉ lệ đổi mới rất cao trong các phương pháp hậu cần. Vai trò tích cực của các bất lợi nhất định trong việc thúc đẩy đổi mới còn phụ thuộc vào những yếu tố quyết định khác. Ví dụ, các doanh nghiệp phải tiếp cận các nguồn nhân lực thích hợp để hỗ trợ cho sự đổi mới trong ngành, và các điều kiện nhu cầu thị trường nội địa thuận lợi. Một tiền đề khác là những mục tiêu dẫn đến những quyết tâm bền vững đối với ngành sản xuất kinh doanh. Không có quyết tâm, các doanh nghiệp sẽ thu hoạch hoặc rút lui nhường vị trí cạnh tranh khi gặp bất lợi hơn là tiến hành đổi mới. Điểm đặc biệt nổi bật là sự hiện diện của tình hình cạnh tranh trong nước, tạo áp lực cho các doanh nghiệp tìm kiếm các lợi thế lâu dài hơn so với các đối thủ của họ. Do đo, những phần khác của “viên kim cương” tác động đến việc liệu rằng các doanh nghiệp trong nước có đổi mới từ các bất lợi nhất định hay chọn cách giải quyết dễ dàng nhưng ít cho được kết quả như mong muốn hơn (đối với lợi thế cạnh tranh) bằng cách tìm nguồn cung cấp các yếu tố ở nước ngoài. Khi những điều kiện rộng lớn cho việc đổi mới này không hiện diện, các yếu tố bất lợi nhất định sẽ không có hiệu quả. Ví dụ, đối mặt với giá thuê nhân công tương đối cao, các doanh nghiệp điện tử tiêu dùng của Mỹ chuyển các hoạt động cần sức lao động sang Đài Loan và các nước Châu Á khác, với các sản phẩm và quá trình sản xuất tương tự. Hành động đáp trả này chỉ dẫn đến sự bình giá về nhân công, thay vì nâng cao các lợi thế cạnh tranh. Các đối thủ Nhật Bản, đối mặt vối sự cạnh tranh mạnh và một thị trường nội địa đủ mạnh, bắt đầu loại bỏ sức lao động thông qua việc tự động hóa. Làm được điều đo, bắt buộc phải giảm số lượng các thành tố, cắt giảm Michael Porter 15 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  17. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh hơn nữa chi phí và cải tiến chất lượng. Các doanh nghiệp Nhật đã sớm thiết lập các kế hoạch dây chuyền trên nước Mỹ, nơi mà các doanh nghiệp Mỹ có nhu cầu rất lớn. Ví dụ về ngành cắt hoa ở Hà Lan, một nước chúng ta không nghiên cứu sâu, là một thí dụ rõ ràng trong việc tóm lược ảnh hưởng của các yếu tố bất lợi nhất định. Hà Lan từ lâu đã dẫn đầu thế giới, xuất khẩu hơn một tỷ đô la các loại hoa tươi cắt cuống mỗi năm mặc dù khí hậu ở đó lạnh và ảm đạm. Bất lợi nhất định đã dẫn tới sự đổi mới trong các kỹ thuật phát triển nhà kính, những loại hoa mới, bảo trì năng lượng, và các kỹ thuật khác đã được thiết kế nên đã tạo ra các lợi thế cạnh tranh kéo dài trong ngành này. Sự đổi mới của Hà Lan tiến hành theo hướng dùng các nguồn cung cấp lớn gas tự nhiên của Hà Lan, minh họa phương hướng đổi mới như thế nào do bất lợi trong một yếu tố gây ra thường phản ánh nguồn cung cấp của các yếu tố khác. Khí hậu không tốt buộc Hà Lan phải tạo ra phương pháp để cạnh tranh trong nền công nghiệp vốn ưa thích nâng cao các lợi thế hơn là các kỹ thuật trồng tỉa truyền thống. Nó đã cho phép hoa tươi Hà Lan đạt được sự đặc trưng dựa trên sự tươi tốt, chất lượng, và sự đa dạng; tuy nhiên, sự thành công và khả năng của Hà Lan trong việc nâng cao lợi thế cũng phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tiên quyết khác. Một trong những yếu tố đó là sự tồn tại của các tổ chức nghiên cứu chuyên ngành cắt hoa, đóng gói và vận chuyển bằng tàu (như Viện Sprenger và Viện nghiên cứu Aalsmeer). Hà Lan đã phát triển cơ sở hạ tầng có hiệu quả cao trong việc vận chuyển hoa và vận tải hàng không. Ở Hà Lan, nhu cầu nội địa lớn về những bông hoa tươi tốt quanh năm đã tạo nên sự quan tâm của các doanh nghiệp về ngành này. Cạnh tranh nội địa diễn ra ở các nhà trồng và bán đấu giá hoa tươi (có mười nhà ở Hà Lan) và các công ty tiếp thị hoa. Cuối cùng các nhà cung ứng nội địa của các đầu vào quan trọng như nhà kính - họ cũng bán chúng trên thị trường thế giới, đã góp phần vào quá trình nâng cao đổi mới. NHU CẦU THỊ TRƯỜNG Trong một ngành, yếu tố quyết định quan trọng thứ hai về lợi thế cạnh tranh quốc gia là những điều kiện về nhu cầu nội địa về sản phẩm hay dịch vụ của ngành đó. Điều kiện nhu cầu nội địa đã ảnh hưởng phần nào đến mỗi ngành mà chúng ta đã nghiên cứu. Thông qua sự ảnh hưởng của lợi ích về quy mô (economies of scale), trong khi nhu cầu nội địa tạo ra tính hiệu quả tĩnh (static efficiency) nhất định, nhưng quan trọng hơn là tính năng động của nó. Nó hình thành nên tốc độ và tính chất của việc cải tiến và việc đổi mới của các doanh nghiệp trong một quốc gia. Có ba đặc điểm chính quan trọng của nhu cầu nội địa: cấu thành nhu cầu nội địa, kích cỡ và cách thức phát triển nhu cầu nội địa, và cơ chế mà sở thích nội địa của mỗi quốc gia chuyển giao ra thị trường nước ngoài. Sự quan trọng của hai điều sau còn tuỳ thuộc vào điều trước. Chất lượng của nhu cầu nội địa, theo nghĩa sẽ trình bày dưới đây, thì quan trọng hơn số lượng của nhu cầu nội địa trong việc quyết định lợi thế cạnh tranh. SỰ CẤU THÀNH NHU CẦU NỘI ĐỊA Aûnh hưởng quan trọng nhất của nhu cầu nội địa lên những lợi thế cạnh tranh là thông qua đặc điểm và tổng hợp nhu cầu khách hàng trong nước. Các yếu tố nhu cầu nội địa giúp các doanh nghiệp nắm bắt, hiểu, và đáp ứng nhu cầu của người mua. Trong các Michael Porter 16 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  18. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh ngành và phân đoạn ngành, các nước đạt được lợi thế cạnh tranh là những nước có nhu cầu nội địa cung cấp cho các doanh nghiệp địa phương một phác họa rõ ràng và nhanh chóng hơn về nhu cầu của người mua so với những gì các đối thủ nước ngoài có thể thấy được. áp lực của người mua nội địa thúc đẩy các doanh nghiệp địa phương đổi mới nhanh chóng hơn, tạo được lợi thế cạnh tranh cao hơn so với các đối thủ nước ngoài. Sự khác nhau giữa các quốc gia về tính chất nhu cầu nội địa nằm sau những lợi thế này. Dường như toàn cầu hóa cạnh tranh làm giảm tầm quan trọng của nhu cầu nội địa, nhưng vấn đề không phải như thế. Thị trường nội địa thường có ảnh hưởng nhiều lên khả năng của một doanh nghiệp trong việc nắm bắt kịp và hiểu nhu cầu của người mua vì nhiều lý do. Lý do đơn giản đầu tiên là sự quan tâm. Quan tâm đến những nhu cầu cần thiết là vấn đề nhạy cảm nhất, và hiểu được chúng là vấn đề có hiệu quả về mặt chi phí nhất. Đội ngũ phát triển sản phẩm, cũng như các nhà quản lý muốn cải tiến sản phẩm đều dựa trên những ngoại lệ hiếm hoi của thị trường nội địa. Lòng tự hào và tính tự ái cũng tập trung quan tâm vào thành công trong việc đáp ứng được nhu cầu của thị trường nội địa. Cuối cùng, áp lực thúc đẩy từ người mua để nâng cao chất lượng sản phẩm hầu như chỉ rơi vào thị trường nội địa, nơi văn hóa tương đồng giúp tạo ra những mối giao lưu rõ ràng hơn. Tuy nhiên, thị trường nội địa không chỉ quan trọng ở việc các doanh nghiệp thường quan tâm hơn mà các doanh nghiệp còn dễ dàng nắm bắt, hiểu rõ, và có những hành động đáp ứng nhu cầu người mua và tự tin hơn khi tiến hành chúng trên thị trường trong nước. Các doanh nghiệp phải hiểu nhu cầu thông qua tiếp xúc trực tiếp với người mua, tạo mối liên lạc giữa họ và các nhân viên kỹ thuật và quản lý cao cấp của công ty, và nhạy bén nắm bắt thị hiếu của khách hàng. Để thực hiện thành công điều này đối với khách hàng nội địa cũng đã khó. Đối với khách hàng ngoài nước, điều này càng khó bởi vì các doanh nghiệp xa văn phòng chính, vả lại không phải là người bản xứ nên khó chấp nhận và ít được tiếp xúc với người dân ở đó. Thậm chí, các doanh nghiệp con dẫu đã nắm bắt và biết khuynh hướng thay đổi của nhu cầu khách hàng ngoài nước thì cũng không hy vọng tạo sự tin cậy với tổng công ty. Khi nhu cầu thị trường nội địa và thị trường ngoài nước khác nhau, thì thị trường nội địa sẽ chiếm ưu thế. Thiết kế cốt lõi và nền tảng của sản phẩm luôn phản ánh nhu cầu thị trường nội địa. Tất cả những điều quan tâm này giúp doanh nghiệp phát triển chiến lược để giành lợi thế cạnh tranh trong nước. Bán sản phẩm cho khách hàng ngoài nước không phải là sự thay thế thích hợp. Có ba đặc điểm của nhu cầu tiêu dùng nội địa đặc biệt nổi bật trong việc đạt được lợi thế cạnh tranh trong nước. CẤU TRÚC PHÂN ĐOẠN CỦA NHU CẦU Đầu tiên là cấu trúc phân đoạn của nhu cầu nội địa hay sự phân phối nhu cầu đối với nhiều hình thức khác nhau. Trong hầu hết các ngành, người ta đều phân loại nhu cầu. Ví dụ, trong các máy bay thương mại, người ta tạo ra nhiều loại máy bay kích thước và cấu trúc khác nhau thích hợp với các hãng hàng không có cấu trúc lộ trình khác nhau (differing route structure) và các tình huống khác nhau. Vài phân đoạn mang tính chất toàn cầu hơn so với các phân đoạn khác. Các doanh nghiệp của một nước muốn đạt được lợi thế cạnh tranh trên thị phần toàn cầu khi phát hành được nhiều cổ phiếu, thì nhu cầu nội địa chiếm nhiều hơn, trong khi đó ở các nước khác thì ngược lại. Ví dụ, về thiết bị truyền dẫn điện, Thụy Sĩ là nước dẫn đầu về sản xuất thiết bị tạo điện thế cao (HDVC), dùng trong việc truyền tải điện thế ở những Michael Porter 17 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  19. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh khoảng cách dài. Điều này phản ánh nhu cầu tương đối lớn trong lĩnh vực này ở Thụy Sĩ do có nhiều ngành sản xuất giấy và thép với cường độ năng lượng và nguồn điện năng được xây dựng cách xa các trung tâm dân cư ở miền Nam. Người ta nhận thấy rằng kích cỡ của thị phần rất quan trọng đối với lợi thế trong nước, nơi có nhiều lợi thế quy mô. Dĩ nhiên, các quốc gia có thị phần lớn sẽ đạt được lợi thế cạnh tranh trong lợi thế quy mô. Tuy nhiên, trong một nước, phạm vi tuyệt đối của thị phần đóng vai trò rất phức tạp đối với lợi thế cạnh tranh trong nước, bởi vì các doanh nghiệp cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu có thể đạt tỉ lệ lớn dẫu thị trường nội địa của họ nhỏ. Một vai trò nổi bật hơn của cấu trúc thị phần đối với thị trường trong nước là nó tạo được sự quan tâm và các đặc quyền cho các doanh nghiệp trong nước. Người ta quan tâm nhiều nhất và nhanh nhất đến các thị phần lớn. Đối với các thị phần nho, người ta ít quan tâm và ít được ưu tiên về các lĩnh vực như thiết kế sản phẩm, sản xuất, và nguồn thị trường, đặc biệt đối với một ngành mới và đang phát triển nơi các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào việc sáng tạo và hoàn thiện sản phẩm căn bản và theo kịp tốc độ phát triển của nhu cầu. Các thị phần có ít lợi nhuận hơn (ví dụ, những thị phần cấp thấp nhất của thị trường, những thị phần được xem là không bình thường, hoặc những nơi không có các dịch vụ tạo lợi nhuận bổ trợ) cũng sẽ không được quan tâm tới. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng mua trước các thị phần như vậy. Nhưng nếu chúng chưa được mua trước, thì các doanh nghiệp cũng muốn nhường quyền sở hữu thị phần cho các đối thủ nước ngoài. Ví dụ tiêu biểu cho những điều đề cập trên là sự thâm nhập của ngành vận chuyển hàng không tầm ngắn vào các ngành hàng không thương mại. Máy bay hoạt động đều đặn trên những khoảng cách trung bình hoặc ngắn (Airbus) được coi là thị phần mà hãng hàng không Boeing và các doanh nghiệp sản xuất khác ở Mỹ không quan tâm tới. Trong khi đó, ở châu Âu với nhiều thành phố lớn có khoảng cách bay ngắn thì loại nhu cầu này rất cần thiết và rất ít hãng hàng không trong nước đầu tư. Ở Mỹ, do các thành phố xa nhau và lượng giao thông giữa hai thành phố trải đều cho nhiều doanh nghiệp cạnh tranh, nên cần đáp ứng loại máy bay 100 đến 200 chỗ ngồi. Nắm bắt nhu cầu này, liên hiệp các doanh nghiệp Châu Âu tập trung vào lĩnh vực mà các nhà sản xuất ở Mỹ chỉ coi là lĩnh vực thứ hai. Một ví dụ khác là các thiết bị vi sóng. Nhật Bản với địa thế đồi núi, phù hợp sử dụng truyền dẫn vi sóng bằng dây cáp bọc đồng. Nhật Bản phải xây dựng lại cơ sở hạ tầng sau chiến tranh thế giới thứ hai, và Doanh nghiệp Nippon Telephone and Telegraph đã áp dụng vi sóng. Trước chiến tranh, kỹ thuật vi sóng không được phát triển và những nước có cơ sở hạ tầng bị phá hủy nặng nề phải đầu tư nhiều vào cáp. Nhu cầu nội địa tương đối lớn về vi sóng của Nhật Bản khiến các nhà đầu tư bắt đầu quan tâm, và đồng thời ngày càng nâng cao vị trí của nó trên thế giới.Tương tự như thế, các máy xúc hoạt động nhờ sức nước – là công cụ xây dựng điển hình được sử dụng phổ biến nhất trong thị trường nội địa Nhật Bản, trong khi ở những nước phát triển khác mức tiêu tiêu thụ rất thấp. Máy xúc là một trong ít lĩnh vực mà doanh nghiệp Caterpillar không giữ phần chủ yếu của thị trường thế giới, và có một nhóm lớn các đối thủ Nhật Bản cạnh tranh khốc liệt cạnh tranh với họ. Về cấu trúc thị phần, một điểm cần nhấn mạnh: những quốc gia nhỏ có thể cạnh tranh chiếm những thị phần chiếm tỷ lệ quan trọng trong nhu cầu địa phương nhưng lại chiếm Michael Porter 18 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  20. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh tỷ lệ nhỏ ở nơi khác, ngay cả khi kích cỡ tuyệt đối của thị phần lớn hơn các nước khác. Ví dụ, các doanh nghiệp Thụy Điển đã giữ vị trí dẫn đầu lâu năm trong sản xuất công cụ và dịch vụ đường hầm. Tương tự như vậy, các doanh nghiệp Thụy Sĩ từ lâu đã đứng đầu sản xuất các thiết bị và dụng cụ khoan đá để đào các hầm mỏ có đá quá cứng, dạng địa chất thường thấy trong các hầm mỏ của Thụy Sĩ. Các doanh nghiệp Mỹ dẫn đầu về các thiết bị quay trong mỏ, được sử dụng chủ yếu trong khai thác và sản xuất dầu và gas. Đây là thị phần thống trị ở Mỹ. Các doanh nghiệp ở các nước nhỏ hơn thường sử dụng các chiến lược tập trung toàn cầu, trong đó họ tập trung vào một thị phần nhỏ của thị trường thế giới. Trong nhiều ngành công nghiệp, phạm vi của thị phần thị trường nội địa ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh. Ở những ngành dịch vụ và các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu; chúng có thiết kế cao, tạo ra các thị phần nổi bật trên phạm vi rộng trong nước. Các doanh nghiệp áp dụng các kinh nghiệm thành công này thâm nhập vào thị trường nước ngoài. Trong ngành thương mại kinh doanh, ngành thiết bị điều hòa không khí có nhiều thị phần, điều này phản ánh sự khác nhau về khí hậu, dạng thiết kế, và ngành sử dụng cuối cùng. Một trong những lợi thế của các doanh nghiệp Mỹ, khi đối đầu các nước khác về ngành thương mại các thiết bị điều hòa không khí, là hầu hết mọi điều kiện khí hậu và ngành Mỹ đều đã trải qua. Đặc biệt nó còn có giá trị ở nước có thị phần lớn đòi hỏi những hình thức cao hơn về lợi thế cạnh tranh. Sự hiện diện của chúng giúp các doanh nghiệp địa phương nâng cao lợi thế cạnh tranh về lâu dài, và vị trí trong các thị phần này cũng lâu dài hơn. NHỮNG KHÁCH HÀNG YÊU CẦU VÀ ĐÒI HỎI CAO Quan trọng hơn tập hợp các thị phần tự bản thân nó là đặc tính của khách hàng nội địa. Các doanh nghiệp trong một nước đạt được lợi thế cạnh tranh nếu như khách hàng nội địa là, hoặc là một trong những, khách hàng có nhu cầu và đòi hỏi cao đối với sản phẩm hoặc dịch vụ. Những khách hàng này tạo ra các nhu cầu cao cấp nhất. Đối với các khách hàng này, sự tương đồng cả về địa lý và văn hóa này giúp các doanh nghiệp nắm bắt được nhu cầu mới. Trong quá trình phát triển, hai bên dễ dàng liên hệ nhau; đặc biệt khi khách hàng là công ty, nó sẽ phát triển công việc mà các doanh nghiệp nước ngoài khó hòa nhịp. Khách hàng yêu cầu và đòi hỏi cao thúc đẩy doanh nghiệp địa phương phải đáp ứng các chuẩn mực cao như chất lượng sản phẩm, đặc tính và dịch vụ. Ở Nhật Bản, ví dụ, khách hàng có kiến thức rất cao và am hiểu khi mua sắm các thiết bị nghe nhìn. Thiết bị nghe nhìn là một ngành hàng được tiêu thụ khá cao; và người tiêu dùng Nhật Bản thường sưu tập các thông tin về sản phẩm và muốn có mẫu mã mới và tốt nhất. Nhu cầu về chất lượng dẫn đến các nhà sản xuất cải tiến nhanh chóng, và thôi thúc áp dụng những đặc tính mới nhất để tạo ra các mẫu mã mới nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. Khách hàng có nhu cầu và đòi hỏi xuất hiện khiến việc duy trì lợi thế cũng quan trọng như, hoặc quan trọng hơn, việc tạo ra lợi thế. Các doanh nghiệp địa phương được khuyến khích cải tiến và tiến tới những thị phần mới hơn, cao cấp hơn về lâu dài, thường nâng cao lợi thế cạnh tranh trong quá trình phát triển. Khách hàng đòi hỏi cao khi các nhu cầu sản phẩm nội địa trong một ngành đặc biệt đang lâm vào tình trạng thử thách do tình hình của địa phương. Đối với động cơ xe tải chạy Michael Porter 19 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  21. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh bằng dầu diesel, mạng lưới đường phố rộng lớn của Mỹ và dân cư phân bố rộng tạo nên nhu cầu duy nhất. Cummins, Caterpillar, và Detroit Diesel là những đối thủ cạnh tranh mạnh trên thế giới. Về lĩnh vực thiết bị điều hòa, các doanh nghiệp Nhật Bản đã chiếm lĩnh toàn bộ thị trường thế giới bằng những sản phẩm nhỏ gọn và chạy tốt. Ở Nhật , điều hòa không khí rất cần vì mùa hè nóng và ẩm.Tuy nhiên, nhà của người Nhật nhỏ và gần nhau, do đó người dân sẽ không sử dụng loại máy điều hòa kềnh càng và ồn ào. Kết hợp với chi phí điện cao, các doanh nghiệp Nhật buộc phải sản xuất các máy nén không khí quay tiết kiệm điện. Ví dụ này có thể mở rộng sang nhiều ngành khác ở Nhật. Các điều kiện thị trường nội địa của Nhật khiến các doanh nghiệp phải nỗ lực lớn để đổi mới, ví dụ bằng cách sản xuất ra các sản phẩm kei-haku-tan-sho (nhẹ, mỏng, ngắn, nhỏ). Kết quả, một loạt các sản phẩm ra đời với các tính năng gọn, dễ mang, đa chức năng - được ưa chuộng trên thế giới Khách hàng công nghiệp thỉnh thoảng có những đòi hỏi bất thường bởi vì họ gặp phải những yếu tố bất lợi khi cạnh tranh trong chính ngành của họ. Một ví dụ tiêu biểu là ngành dầu hỏa ở Mỹ. Lục địa Mỹ đã bị khoan rất nhiều; và các giếng khoan ngày càng khó khoan và nằm sát nhau hơn. Bất lợi này bắt buộc các nhà cung cấp thiết bị trong lĩnh vực dầu hỏa phải hoàn thiện các kỹ thuật, để giảm thiểu chi phí khoan và đảm bảo có thể thu hồi mũi khoan hoàn toàn ở mỗi giếng khoan. Điều này đã thúc đẩy họ nâng cao chất lượng và duy trì vị trí cao trên thế giới. Nếu các doanh nghiệp giúp đỡ khách hàng nội địa khắc phục những yếu tố bất lợi này, thì họ tạo được lợi thế cạnh tranh ở các ngành trong nước. Khách hàng của một nước có thể có những yêu cầu cao bất thường, gồm địa lý, khí hậu, các nguồn tự nhiên có sẵn, thuế, các chuẩn mực khó điều chỉnh, và các qui định xã hội vì nhiều lý do khác nhau. Ví du, thuế cao áp dụng cho xăng dầu ở Châu Âu đòi hỏi các doanh nghiệp phải sản xuất các động cơ chiếm chổ ít, mã lực cao, những động cơ có hiệu suất xăng thấp so với những động cơ lớn có cùng mã lực. Khi gặp phải sự cạnh tranh, khách hàng cũng có khuynh hướng đòi hỏi nhu cầu cao hơn nếu như họ bị kiểm soát chặt hoặc giữ độc quyền kinh doanh. Áp lực cạnh tranh thúc đẩy các nhà cung cấp quan tâm nhiều hơn đến các sản phẩm mới và nhiều nổ lực để kiểm soát giá ca. Ví dụ, hệ thống phân phối y tế địa phương và tư nhân ở Mỹ, do thúc đẩy đổi mới, là một lợi thế chính yếu cho các nhà cung cấp Mỹ về thiết bị y tế và cung cấp. Tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước thường thúc đẩy họ thử nghiệm mua sắm sản phẩm nhiều hơn. Vai trò của khách hàng có nhu cầu và đòi hỏi cao có thể được thể hiện bằng các kênh phân phối cũng như những khách hàng sử dụng cuối cùng. Ví dụ, ở Mỹ, với sự hiện diện nhiều chuỗi cửa hàng bán kính đeo mắt lớn, các nhà sản xuất kính của Mỹ cắt giảm chi phí, tạo ra nhiều dạng dịch vụ khách hàng, và nhanh chóng giới thiệu nhiều dạng sản phẩm mới. Ý cũng là một ví dụ thú vị, các loại sản phẩm như giày dép, quần áo, vật dụng gia đình và thiết bị chiếu sáng được bán với tỉ lệ lớn hơn thông qua các cửa hàng đặc biệt hơn so với các nước khác. Các nhà bán lẻ này là yếu tố chính tạo áp lực cho các nhà sản xuất Ý liên tục giới thiệu các mẫu mã mới,ø giảm chi phí và như thế đã mang lại hiệu quả. Một dẫn chứng khác ở những nơi khách hàng trong nước có yêu cầu và đòi hỏi cao là “cơn sốt” ở nước đó. Trước chiến tranh thế giới, Nhật Bản đặc biệt đã định hướng sử dụng hình ảnh để ghi lại những chuyến du lịch và những sự kiện trong gia đình, những buổi hẹn hò. Người dân Nhật, họ là những khách hàng rất “khó tính” khi mua máy ảnh, Michael Porter 20 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  22. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh và ngành máy ảnh của Nhật Bản hiện nay đang dẫn đầu thế giới. Người Nhật cũng rất quan tâm đến các sản phẩm viết, bởi vì hầu hết các tài liệu cho đến ngày nay vẫn được viết bằng tay ở Nhật do máy đánh chữ không thể tái tạo hoàn toàn chữ viết Nhật Bản; đối với người Nhật Bản viết chữ đẹp là minh chứng về giáo dục và văn hóa. Do đó Các doanh nghiệp Nhật hay tiến hành đổi mới và dẫn đầu thế giới về viết máy. Người dân Đức rất yêu thích xe hơi và thích biểu diễn màn trình diễn đua xe vào chủ nhật giữa các làn xe cao tốc trên đường rộng dành riêng cho ô tô (autobahns -xa lộä, nơi tốc độ không giới hạn). Khẩu hiệu phổ biến là "tự do tốc độ cho những người tự do". Không có gì ngạc nhiên khi các doanh nghiệp Đức thành công trong loại xe chất lượng cao, bền. Người Mỹ cũng quan tâm khác lạ trong các loại hình giải trí phổ biến (thể thao, phim ảnh, tivi, băng đĩa) giúp Mỹ dẫn đầu thế giới trong ngành này. Người Anh được biết đến công việc làm vườn, và các doanh nghiệp Anh nổi tiếng thế giới về dụng cụ làm vườn. Người Ý được biết đến chất lượng quần áo cao, thức ăn, xe có tốc độ cao và tất cả các lĩnh vực thành công của Ý trên thế giới. “Cơn sốt” trong nước chuyển sang các ngành cạnh tranh trên quy mô cả thế giới với sự thay đổi rất ấn tượng, thỉnh thoảng những “cơn sốt” này không chỉ là nguyên nhân mà còn ảnh hưởng đến sự hiện diện của ngành cạnh tranh cao trong nước. Vấn đề này sẽ được đề cập nhiều hơn ở chương 4. DỰ ĐOÁN NHU CẦU KHÁCH HÀNG Các doanh nghiệp của một nước đạt được lơiï thế nếu doanh nghiệp nắm bắt nhu cầu khách hàng trong nước sớm hơn các doanh nghiệp của các nước khác. Điều này có nghĩa: nhu cầu nội địa cung cấp một tín hiệu đáng lưu ý về nhu cầu khách hàng mà những nhu cầu này sẽ lan rộng ra. Lợi ích rất quan trọng cho không chỉ sản phẩm mới mà còn những cơ sở đang diễn tiến, bởi vì nó kích thích sản phẩm đổi mới không ngừng về lâu dài và khả năng cạnh tranh trong những thị phần đang nổi lên. Lợi ích khác của đoán trước nhu cầu thỉnh thoảng đáp ứng được khách hàng thế giới đòi hỏi cao nhất trong nước, bởi vì khách hàng đòi hỏi cao thường (mặc dù không phải làø luôn luôn) là những người sớm chấp nhận những sản phẩm và dịch vụ mới. Ví dụ trong nhiều ngành công nghiệp, các doanh nghiệp Nhật sớm đối đầu với vấn đề: những người mua rất quan tâm về giá điện, và càng quan tâm hơn do một loạt các báo cáo của chính phủ, dân chúng chú ý và nhiều luật lệ chỉ cho phép tiêu thụ điện năng của sản phẩm trong mức độ giới hạn. Các doanh nghiệp của Nhật đã sớm bắt đầu cải tiến hiệu quả điện năng sản phẩm, và cũng đi trước cả thế giới sau cơn khủng hoảng dầu mỏ đầu tiên (ngược lại, giá điện ở Mỹ vẫn được giữ ở giá thấp). Nhu cầu nội địa mạnh mẽ tạo lợi thế cạnh tranh trong nước chỉ khi dự đoán được nhu cầu nơi khác. Nếu chúng có nét riêng trong nước, chúng sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp địa phương. Nếu nhu cầu nội địa không phản ánh nhu cầu mới kịp thời, đặc biệt nhu cầu đòi hỏi cao, thì các doanh nghiệp của nước đó sẽ gặp bất lợi. Dự đoán nhu cầu xã hội có thể tăng cao bởi vì ở nơi nào đó, giá trị chính trị và xã hội của một nước dự đoán trước nhu cầu sẽ đồng thời xuất hiện. Ví du, sự quan tâm cao và lâu dài đối với người khuyết tật, đã sản sinh ngành chuyên cung cấp sản phẩm cho họ, và đã phát triển ngành có đẳng cấp thế giới. Nhu cầu nội địa của một nước phải được dự đoán trước Michael Porter 21 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  23. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh hoặc ẩn sau nhu cầu thế giới bởi vì một phần, những giá trị thể hiện trong nền văn hóa của nó đang lan rộng hay ở tình trạng tiềm ẩn. Sở thích của người Mỹ về thuận tiện đang phổ biến, giúp họ thành công trên thế giới về thức ăn nhanh, hàng hóa tiêu dùng đã đóng gói, và các ngành khác. Người Mỹ thích sử dụng tín dụng (gấp đôi trong các ngành kỹ thuật quan trọng như kỹ thuật thông tin, được sử dụng để ghi lại tín dụng và làm cho có các thẻ tín dụng này có hiệu lực) đã dẫn đầu trên thế giới về thẻ tín dụng như American Express, Visa, Master Card, và Diners Club. Ngược lại mối quan tâm của người dân Scandinavi đối với phúc lợi xã hội và môi trường ngày nay đang có khuynh hướng đứng đầu ở Mỹ. Các doanh nghiệp Thụy Sĩ và Đan Mạch đã thành công trong nhiều ngành liên quan đến môi trường, dự đoán nhu cầu ngoài nước, như thiết bị kiểm soát ô nhiễm nước. Các điều kiện yếu tố thỉnh thoảng đóng vai trò trong việc định thời gian cho nhu cầu. Sự phụ thuộc của Đan Mạch vào việc nhập khẩu năng lượng, cùng với các điều kiện khí hậu phổ biến và hổ trợ của chính phủ đối với việc đổi mới các nguồn năng lượng, là lý do tại sao Đan Mạch sớm phát triển những nhu cầu sản phẩm cối xay gió. Các doanh nghiệp Đan Mạch đã trở thành những doanh nghiệp dẫn đầu sản xuất và xuất khẩu chúng. Những luật lệ đi trước những nước khác có thể cũng sẽ tạo lợi thế cạnh tranh. Ví dụ, luật lệ của Thụy Sĩ từ lâu đã cho phép lưu thông xe tải to và có tải trọng lớn. Thụy Điển có những khu rừng nổi tiếng thế giới và những khu mỏ nằm ở vùng phía Bắc gồ ghề của đất nước. Do phải vận chuyển gỗ và nguyên liệu khác thường xuyên qua đoạn đường dài, nên cần có những xe tải lớn và có sức bền cực tốt. Đây là một ví dụ tiêu biểu cho thấy luật lệ địa phương phản ánh mạnh mẽ nhu cầu và giá trị địa phương. Thụy Điển có hai doanh nghiệp cạnh tranh dẫn đầu thế giới về xe tải nặng, là Volvo và Saab- Scania, họ thu lợi nhờ luật lệ của Thụy Điển bởi vì nhu cầu về xe tải có kích thước và sức bền đã tăng cao ở nước ngoài. Cùng lúc đó các luật lệ giới hạn kích thước và tải trọng của xe tải ở các nước khác cũng được dễ dàng hơn. MẪU HÌNH PHÁT TRIỂN VÀ KÍCH THỨƠC NHU CẦU Mặc dù cấu hình phức tạp và dự đoán trước nhu cầu không chỉ trong nước mà còn trên thế giới, nên kích cỡ và mô hình tăng trưởng của nhu cầu địa phương có thể tăng cường lợi thế trong nước của một ngành công nghiệp. Khi nói về cạnh tranh trong nước, kích cỡ thị trường trong nước được đề cập khá nhiều, mặc dù quan hệ nhân quả theo hướng nào và lý do chưa được nhất trí. Nhiều tác giả tranh luận rằng thị trường nội địa rộng lớn là một thế mạnh bởi vì tồn tại những ngành kinh tế về quy mô. Các nhà phê bình khác lại thấy rằng đó là một điểm yếu với lý do nhu cầu địa phương có giới hạn buộc các doanh nghiệp phải xuất khẩu - một điểm quan trọng trong các lợi thế cạnh tranh trong các ngành toàn cầu. Thụy Sỹ, Thụy Điển, Hàn Quốc và kể cả Nhật Bản thường là những nước hay được đề cập khi nói đến các quốc gia có nhu cầu địa phương bị giới hạn đã dẫn đến áp lực xuất khẩu. Kích cỡ thị trường nội địa đóng vai trò rất quan trọng đối với lợi thế trong nước và các khía cạnh khác của nhu cầu nội địa cũng hoặc quan trọng hơn. KÍCH THƯỚC CỦA NHU CẦU NỘI ĐỊA Bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư thiết bị với quy mô lớn, phát triển kỹ thuật, và cải tiến dây chuyền sản xuất, kích cỡ thị trường nội địa lớn có thể Michael Porter 22 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  24. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh dẫn đến lợi thế cạnh tranh trong các ngành nơi có lợi thế quy mô hay nghiên cứu. Tuy nhiên, họ phải cẩn trọng bởi vì các doanh nghiệp toàn cầu bán sản phẩm ở nhiều quốc gia. Đầu tư vào các dự án lớn hoặc lâu dài, R&D không chỉ dựa vào nhu cầu nội địa, trừ phi có các biện pháp bảo hộ bằng cách giới hạn xuất khẩu. Nhiều ngành mức độ toàn cầu của Thụy Điển và Thụy Sĩ đã quan sát hoạt động của các doanh nghiệp có đẳng cấp thế giới cao đạt tỉ lệ từ nhiều thị trường nước ngoài khác. Do nền kinh tế quy mô quan trọng phân chia đặc điểm các ngành công nghiệp, trong đó các doanh nghiệp sẽ chuyển đổi đầu tư để tạo được kích cỡ nhu cầu nội địa khi sản xuất những sản phẩm, vấn đề quan trọng nhất là phải đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngoài nước. Đó là vai trò của những yếu tố tiên quyết khác, đặc biệt là những yếu tố cấu thành nhu cầu nội địa. Tuy nhiên, trong nhiều ngành kích cỡ của nhu cầu nội địa rất được chú ý. Các doanh nghiệp địa phương chiếm ưu thế hơn trong việc phục vụ thị trường nội địa so với các doanh nghiệp nước ngoài, đó là kết quả do tương đồng nhau về ngôn ngữ, luật lệ và mối quan hệ văn hóa (thông thường ngay cả các doanh nghiệp nuớc ngoài được cung cấp nhân lực ở ngay địa phương). Mong muốn tiếp cận với nhiều khách hàng trong nước có thể sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp địa phương đầu tư. Các doanh nghiệp nắm bắt nhanh chóng nhu cầu nội địa, dễ dự đoán hơn, trong khi nhu cầu ngoài nước hầu như không chắc chắn ngay cả khi các doanh nghiệp nghĩ rằng họ có khả năng thực hiện được. Trong những trường hợp nghiên cứu của chúng tôi có nêu: hầu hết trên thế giới, những quyết định đầu tư trong nhu cầu nội địa luôn được nhấn mạnh, đặc biệt trong sự phát triển của một ngành công nghiệp. Kích cỡ nhu cầu nội địa là quan trọng nhất đối với lợi thế cạnh tranh trong nước ở những ngành nhất định (hoặc thị phần), nổi bật là đòi hỏi điều kiện R&D cao, những lợi thế về quy mô quan trọng trong sản xuất, bước nhảy vọt lớn trong kỹ thuật, hoặc mức độ không chắc chắn cao. Trong những ngành như vậy, sự tồn tại của nhu cầu nội địa lớn giúp các nhà đầu tư an tâm. Tuy nhiên, nhu cầu nội địa lớn không phải là một lợi thế, trừ phi các nước khác đòi hỏi thị phần. Ví dụ, lĩnh vực nông nghiệp rộng lớn của Mỹ dẫn đến thị trương nội địa lớn về kết hợp thu hoạch. Do sự khác nhau về khí hậu, địa thế, và thực tế các công việc nhà nông, , luật lệ ở Mỹ cho phép kết hợp rộng hơn trên các đường phố công cộng; tuy nhiên cách kết hợp được thiết kế cho Mỹ không áp dụng được ở Châu Âu. Một doanh nghiệp Đức - Claas, đã tiên phong trong việc tạo ra các liên kết phù hợp hơn, hiệu quả hơn trong nhiều điều kiện khác nhau (và khó khăn) của Châu Âu. Nó cũng đã dẫn đầu ở thị trường Châu Âu, mặc dù đã có các doanh nghiệp Mỹ ở đó. Ngược lại, trong ngành thương mại máy bay có độ nhạy cao, nhu cầu nội địa lớn của Mỹ (do dân số đông và phân bố rộng) tạo ra lợi thế lâu dài bởi vì nhu cầu của người Mỹ cao hơn. Thỉnh thoảng, các quốc gia nhỏ hơn muốn đưa ra thị trường bên ngoài một sản phẩm đặt biệt, do các điều kiện địa phương. Ví dụ, do điều kiện thời tiết, và do phụ thuộc vào thương mại, sự tiếp cận đặc biệt đến thị trường Nga gần đó, nên ở Phần Lan nhu cầu về máy phá băng và thiết bị trên tàu có khả năng phá băng rất cao. Cho dầu nhu cầu nội địa về tàu của Phần Lan không chiếm nhiều thị phần trên thế giới, thì dây không phải là vấn đề quan trọng các hãng tàu Phần Lan quan tâm. Do nhu cầu nội địa về máy phá băng cũng cao, nên các thợ đóng tàu ở Phần Lan rất nổi tiếng trên thế giới về lĩnh vực này. Michael Porter 23 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  25. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Kích cỡ nhu cầu nội địa là một lợi thế nếu nó khuyến khích đầu tư, tái đầu tư và tạo ra sự năng động. Bởi vì nhu cầu nội địa cao có thể cung cấp nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp mà trước đây họ thấy ít có nhu cầu để bán sản phẩm của mình trên thế giới; nhưng trái lại nó cũng có thể làm giảm sự năng động và trở nên bất lợi. Các yếu tố tiên quyết khác, làm nổi bật sức mạnh của các đối thủ trong nước, mang tính quyết định liệu một thị trường nội địa lớn có chứng tỏ trở thành điểm mạnh hay điểm yếu. SỐ LƯỢNG KHÁCH HÀNG ĐỘC LẬP Lượng khách hàng độc lập trong nước tạo môi trường tốt để đổi mới hơn là khi có một hoặc hai khách hàng thống trị thị trường nội địa ở một loại sản phẩm hay một một loại hình dịch vụ. Nhiều khách hàng, mỗi người một ý kiến về nhu cầu sản phẩm và với áp lực cạnh tranh, thông tin về thị trường lan rộng ra và sẽ thúc đẩy sự tiến triển. Phục vụ một hay hai khách hàng, ngược lại, có thể duy trì ổn định hiệu quả, nhưng hiếm khi tạo sự năng động tương tự. Nhiều khách hàng độc lập cũng kích thích thâm nhập và đầu tư vào ngành khác nhờ giảm rủi ro doanh nghiệp sẽ bị đào thải ra khỏi thị trường, và bằng cách giới hạn quyền hạn của người mua ưu thế làm giảm toàn bộ lợi nhuận. Vấn đề này sẽ được đề cập nhiều hơn trong chương tới. TỈ LỆ TĂNG TRƯỞNG CỦA NHU CẦU NỘI ĐỊA Tỉ lệ tăng trưởng của nhu cầu nội địa có thể quan trọng đối với lợi thế cạnh tranh cũng như kích cỡ tuyệt đối của nó. Tỉ lệ đầu tư trong một ngành như là, hoặc hơn, một chức năng làm thế nào để thị trường nội địa nhanh chóng phát triển như kích cỡ của nó. Tăng trưởng nội địa nhanh dẫn đến các doanh nghiệp của một nước nhanh chóng ứng dụng các kỹ thuật mới, ít e ngại họ sẽ đầu tư dư thừa, thúc đẩy xây dựng các thiết bị có hiệu quả với quy mô rộng lớn và tự tin rằng chúng sẽ hiệu dụng. Ngược lại, ở những nước có tỉ lệ phát triển thị trường nội địa điều độ hơn, các doanh nghiệp tư nhân có khuynh hướng chỉ mở rộng theo số lượng và bền bỉ bám theo các kỹ thuật mới, điều này dẫn đến dư thừa thiết bị và nhân lực. Phát triển nhu cầu nội địa nhanh chóng rất quan trọng trong suốt những giai đoạn thay đổi kỹ thuật, khi các doanh nghiệp cần sự tin tưởng để đầu tư vào các sản phẩm mới và thiết bị mới. Một trường hợp tiêu biểu cho vấn đề này là ngành chế tạo thiết bị cung ứng chuyên biệt của Ý. Ngành này, ít được đầu tư phát triển ở Ý như nhiều nước Châu Âu khác sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhanh chóng phát triển trong hơn một thập kỷ để dẫn đầu về xuất khẩu ở Châu Âu. Một trong những lý do là sự bùng nổ nhu cầu về các thiết bị chuyên biệt ở Ý trong những năm 1950. Sự tăng trưởng nhanh đã thúc đẩy các nhà sản xuất Ý xây dựng những kế hoạch tự động hóa, quy mô lớn tập trung vào từng loại riêng biệt của các thiết bị chuyên biệt. Các doanh nghiệp Ý cũng bắt đầu cung cấp cho thị phần tư nhân đang nổi lên khắp Châu Âu, dưới tên gọi của những dây chuyền cửa hàng hùng mạnh mới ở Châu Âu. Các nhà sản xuất thiết bị chuyên biệt Châu Âu khác, với thiết bị và tăng trưởng thị trường nội địa ít nổi bật hơn, có khuynh hướng mở rộng theo số lượng; và do đo,ù cơ bản không thay đổi phương pháp sản xuất. Cùng với điều này là việc các doanh nghiệp Ý sản xuất ra thiết bị tương đối gọn, chi phí thấp, phù hợp với nhu cầu của thị Michael Porter 24 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  26. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh trường Ý. Thị phần này đang phát triển và các đối thủ cạnh tranh Châu Âu thì lại yếu kém. Tăng trưởng nhu cầu, như tất cả các khía cạnh khác của lượng nhu cầu, không phải là một lợi thế trừ phi cấu thành nhu cầu được ưa thích. Nhật Bản là một ví dụ khác nơi sự tăng trưởng thị trường nội địa nhanh đã thúc đẩy đầu tư ở nhiều ngành công nghiệp. Trong ngành thép, vỏ xe, xe cần cẩu, và nhiều ngành khác, Nhật Bản có được tăng trưởng thị trường nội địa nhanh sau Mỹ và các nước dẫn đầu Châu Âu. Tăng trưởng nhanh thúc đẩy các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào thiết bị tự động mới nhất. Các nhà sản xuất phương Tây, có thị trường nội địa lâu đời hơn với thiết bị cũ kỹ hơn, chưa sẵn sàng để làm như các nhà sản xuất Nhật. NHU CẦU NỘI ĐỊA BAN ĐẦU. Với điều kiện là nhu cầu nội địa sớm dự đoán trước được nhu cầu khách hàng ở những nước khác, nhu cầu nội địa sớm đối với một loại sản phẩm hoặc một loại hình dịch vụ trong nước giúp các doanh nghiệp địa phương thay đổi trước các đối thủ nước ngoài và thành công trong một ngành nào đó. Họ tạo được bước nhảy khi xây dựng các thiết bị có quy mô lớn và tích lũy được kinh nghiệm.Việc khách hàng địa phương sớm có nhu cầu đối với nhiều loại sản phẩm rất quan trọng trong lợi thế cạnh tranh, bởi vì các doanh nghiệp trong nước luôn quan tâm đến khách hàng địa phương. Các chiến lược cạnh tranh luôn được thiết lập dựa thị phần này, và các dự án đầu tư thường trực tiếp hướng tới họ. Tuy nhiên, một lần nữa, composition của nhu cầu nội địa quan trọng hơn kích cỡ của nó. Nhu cầu nội địa sớm sẽ góp phần tạo nên lợi thế chỉ khi nào nhu cầu nội địa dự toán trước nhu cầu thế giới. Những điều đề cập trên tạo nên một ứng dụng thú vị khi phân tích ảnh hưởng của quốc phòng lên việc chi ngân sách nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của Mỹ. Lĩnh vực quốc phòng là thị trường đầu tiên của Mỹ với hàng hóa cao cấp, và ngân sách quốc phòng to lớn được xem như một lợi thế cho các doanh nghiệp Mỹ. Cần phải có một lợi thế nếu nhu cầu về quốc phòng phản ánh nhu cầu của người dân cả ở Mỹ và nước ngoài, bởi vì các doanh nghiệp nâng cao tài sản và tay nghề để đáp ứng nhu cầu của người dân. Đối với máy bay phản lực, nhu cầu quốc phòng về vận chuyển bằng máy bay phản lực quân đội đầu tiên là một lợi thế quan trọng giúp hãng Boeing trở thành doanh nghiệp dẫn đầu thế giới trong vận chuyển dân dụng- 707 la loại máy bay tương tự, 747 cũng có nguồn gốc từ máy bay quân sự, lấy ra từ kiểu Lookheed C5A trong khi cạnh tranh với máy bay vận chuyển quân sự lớn. Tuy nhiên, trong nhiều ngành khác, nhu cầu quốc phòng không nhất thiết phải là một lợi thế cho các doanh nghiệp Mỹ. Ví dụ, với công cụ vận hành máy vi tính, nhu cầu quốc phòng chỉ có đối với các dạng sản phẩm có ứng dụng nhỏ trong thị trường dân dụng. Các nhà sản xuất thiết bị máy Nhật Bản, không hề bị lệch hướng, đã sản xuất một lượng công cụ vận hành máy đáng kể có ứng dụng chung và trở nên dẫn đầu trên thế giới. Nhu cầu quốc phòng là điểm mạnh hay điểm yếu đối với các doanh nghiệp Mỹ tùy thuộc vào cấu thành của nó- vào việc nhu cầu quốc phòng có thực sự dự đoán trước được nhu cầu dân dụng sau này, và vào kỹ năng chuyển đổi từ ứng dụng quốc phòng đến ứng dụng dân sự. Điều này tạo thay đổi lớn từ ngành này đến ngành kia, nhưng nó cho thấy sự tương đồng giữa nhu cầu quân sự và dân sự đã giảm đi. Michael Porter 25 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  27. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh TÌNH TRẠNG BÃO HÒA SỚM Cũng nổi bật như sự thâm nhập nhu cầu nội địa ban đầu là tình trạng bão hòa sớm và bất ngờ. Thâm nhập sớm giúp các doanh nghiệp địa phương được củng cố. Bão hòa sớm buộc họ phải tiếp tục đổi mới và phát triển. Thị trường nội địa bị bão hòa tạo áp lực giảm giá thành, đưa ra đặc tính mới, cải tiến mẫu mã, và khuyến khích khách hàng thay sản phẩm cũ bằng các kiểu mới. Bão hòa làm leo thang các đối thủ địa phương, buộc cắt giảm giá và đào thải các doanh nghiệp yếu kém nhất. Kết quả có ít các đối thủ địa phương hơn, nhưng mạnh hơn và đổi mới hơn. Một kết quả thường thấy khác của tình trạng bão hòa thị trường nội địa là các doanh nghiệp trong nước nổ lực xâm nhập thị trường nước ngoài, với mục đích duy trì sự tăng trưởng và hoàn thiện năng lực. Đáng chú ý là những ngành chúng ta đã nghiên cứu chỉ nổi bậc trên thị trường thế giới sau khi thị trường nội địa bị bão hòa. Điều này rất đúng ở Nhật Bản và Mỹ, nhưng thực sự ở mỗi nước đều có những trường hợp tương tự. Ví dụ như việc tái xây dựng sau chiến tranh thế giới thứ hai ở Ý bất ngờ kết thúc thúc đẩy các doanh nghiệp xây dựng Ý thành công trên thế giới Bão hòa thị trường nội địa đặc biệt có lợi khi kết hợp với tăng trưởng nổi ở thị trường nước ngoài. Nếu nhu cầu ngoài nước đang tăng cao trong khi nhu cầu nội địa khựng lại, các doanh nghiệp trong nước có động lực mạnh mẽ để bán sản phẩm ra nước ngoài ngay thời điểm các doanh nghiệp nước ngoài thiếu khả năng đáp ứng nhu cầu đang bùng nổ, hoặc đang mãn nguyện do thiếu đối thủ trong nước. Trong nhiều ngành công nghiệp, những giai đoạn này là những giai đoạn nền tảng quyết định xem cuối cùng ai sẽ người dẫn đầu. Một ví dụ tiêu biểu khác là các doanh nghiệp thiết kế xây dựng của Mỹ vươn lên dẫn đầu thế giới những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi hầu hết thế giới bị phá hủy và cần tái xây dựng thì nền công nghiệp và cơ sở hạ tầng của Mỹ vẫn nguyên vẹn. Với khả năng sẵn có và kinh nghiệm từ các dự án trong thời gian chiến tranh, các doanh nghiệp Mỹ nhanh chóng nhảy vào thị trường này do bùng nổ tái xây dựng ở nước ngoài và do thiếu các doanh nghiệp có chất lượng cao. Sự giúp đỡ của Mỹ phần nào cung cấp vốn cho việc tái xây dựng đã không bị ảnh hưởng xấu. Tương tự, các doanh nghiệp Nhật Bản đã giành thị trường thiết bị bán dẫn khi các doanh nghiệp Mỹ không thể đáp ứng nhu cầu chuyển đổi kinh tế vào cuối những năm 70. Kết hợp đầu tư lớn vào kỹ thuật oxit kim loại mới hơn trong khi các doanh nghiệp Mỹ vẫn còn áp dụng kỹ thuật lưỡng cực, giúp cho Nhật Bản dẫn đầu trong ngành này. Với các sản phẩm điện tử tiêu dùng, thị trường nội địa Nhật Bản bão hòa rất nhanh và chu kỳ sống của sản phẩm cực ngắn do tính đồng nhất của thị hiếu kết hợp với nhu cầu và khả năng nhận thức của khách hàng đã được đề cập trước đó. Kết quả, các doanh nghiệp điện tử tiêu dùng Nhật Bản tranh nhau mặt hàng kế tiếp khi khách hàng nước ngoài chỉ mới bắt đầu mua mặt hàng “lỗi thời” ở Nhật Bản. Tình trạng bão hòa nhanh này là một lợi thế bởi vì khách hàng nội địa rất cẩn thận và luôn tìm mua sản phẩm gọn nhe,ï đa đặc tính, phù hợp với điều kiện sống của Nhật Bản. Bão hòa nhanh thúc đẩy nhà sản xuất đổi mới theo chiều hướng được khách hàng ngoài nước đánh giá cao nhưng lại là chiều hướng các đối thủ nước ngoài không quan tâm tới. Michael Porter 26 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  28. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh Cũng như thâm nhập sớm, bão hòa sớm là một lợi thế chỉ khi cấu thành nhu cầu nội địa hướng các doanh nghiệp trong nước đến các sản phẩm và đặc tính sản phẩm mà khách hàng nước ngoài muốn mua. TOÀN CẦU HÓA NHU CẦU NỘI ĐỊA Cấu thành nhu cầu nội địa là nền tảng lợi thế trong nước, trong khi kích cỡ và kiểu tăng trưởng của nhu cầu nội địa có thể làm tăng lợi thế này bằng cách tác động đến đầu tư, xác định thời gian và động cơ. Nhưng cách thứ ba có sự góp phần của điều kiện nhu cầu nội địa, nhờ đó cấu thành nhu cầu nội địa của một nước được toàn cầu hóa, đưa sản phẩm và dịch vụ của nước đó ra nước ngoài. Khách hàng địa phương lưu động và đa quốc gia Nếu khách hàng trong nước là các doanh nghiệp lưu động và đa quốc gia, thì các doanh nghiệp trong nước co lợi thế bởi vì khách hàng nội địa cũng chính là khách hàng nước ngoài. Khách hàng lưu động, du lịch đến nhiều nước, là những khách hàng thường xuyên ở thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, quan trọng hơn, họ giúp củng cố vị trí ở nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước và tạo động lực duy trì vị trí đó bằng cách hạ thấp rủi ro. Điều này tác động lớn đến các ngành du lịch,nhờ đó các khách sạn, dịch vụ cho thuê xe, các doanh nghiệp kinh doanh thẻ tín dụng của Mỹ thu được lợi nhuận rất nhiều. Các ngành khác, chẳng hạn như ngành kinh doanh thức ăn nhanh,cũng bị ảnh hưởng. Cũng tương tự như vậy nếu khách hàng nội địa là doanh nghiệp đa quốc gia với nhiều chi nhánh hoạt động trên nhiều nước. Các doanh nghiệp đa quốc gia thích hợp tác với nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ dựa vào thị trường nội địa, đặc biệt khi mới kinh doanh ra nước ngoài và sau khi họ tạo được vị trí trên thế giới. Điều này xuất phát từ mong muốn dễ dàng giao lưu, giảm rủi ro, tạo hiệu quả chắc chắn khi đầu tư. Việc khách hàng ưa chuộng nhà cung cấp phát triển ngay trong “sân nhà” hơn sẽ thúc đẩy các nhà cung cấp này chuyển sang thị trường nước ngoài và tạo nền tảng cho nhu cầu ngoài nước. Một ví dụ tiêu biểu là ngành kinh doanh thiết bị khoan đất, các doanh nghiệp xuất sắc của Mỹ, doanh nghiệp mỏ địa chất, và nhà sản xuất gỗ, khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng, như doanh nghiệp Caterpillar, hướng sang thị trường nước ngoài. Rồi đến lượt, các doanh nghiệp kinh doanh dụng cụ xây dựng, dụng cụ dùng trong hầm mỏ, máy khoan dầu, kéo các nhà sản xuất động cơ nặng, như Cummin, ra nước ngoài. Các nhà cung cấp phụ tùng xe hơi Mỹ theo chân các doanh nghiệp xe hơi của Mỹ sang Canada, Châu Âu và các nơi khác. Gần đây, các nhà cung cấp phụ tùng xe hơi của Nhật Bản cũng đang theo sau các doanh nghiệp xe hơi Nhật Bản ở nước ngoài. Ảnh hưởng đối với nhu cầu ngoài nước Các điều kiện nhu cầu nội địa có thể điều chỉnh kinh doanh ở nước ngoài là khi nhu cầu nội địa thuyết phục được khách hàng ngoài nước. Một phương pháp chắc chắn là khi một người được đào tạo ở nước ngoài. Họ biết được sự phát triển và giá trị địa phương, từ đó, có khuynh hướng mang những giá trị đó về quê nhà. Kết quả là họ mong muốn dùng hàng hóa và dịch vụ tương tự với những gì họ đã từng dùng khi ở nước ngoài. Ví dụ, quá trình Michael Porter 27 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  29. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh đào tạo dành cho các bác sĩ nước ngoài của Mỹ đã giúp cho các doanh nghiệp thiết bị y tế Mỹ tìm được khách hàng khi họ bán sản phẩm ra nước ngoài. Một hiện tượng tương tự cũng xảy ra do ảnh hưởng từ truyền miệng, thường thấy ở giới khoa học. Các nhà khoa học nước ngoài tìm cách cạnh tranh với các nhà khoa học trong nước, được xem như là những người đứng đầu thế giới. Chương trình làm việc và dụng cụ làm việc của các nhà lãnh đạo thường được đăng trong các báo chuyên về kỹ thuật, hay được truyền tai nhau. Một sản phẩm thu lợi nhuận từ hiện tượng trên là kính hiển vi, các doanh nghiệp Đức (nổi tiếng là Zeiss) thành công trên thế giới một phần do được các nhà nghiên cứu Đức nổi tiếng thế giới hợp tác. Aûnh hưởng từ truyền miệng tương tự có thể xảy ra ở bất kỳ ngành có quy mô thế giới nào, các đối thủ nước ngoài sẽ có khuynh hướng cạnh tranh về máy móc và những đầu vào khác được sử dụng trong ngành công nghiệp. Nhu cầu khách hàng nội địa cũng được chuyển ra nước ngoài thông qua xuất khẩu văn hóa như phim ảnh, các chương trình TV. Nổi bật không kém là sự di cư, điều này tạo ra nền tảng nhu cầu trong nước và một ảnh hưởng truyền miệng đối với vài loại sản phẩm nhất định, du lịch giúp người nước ngoài biết được thị hiếu trong nước.Tuy nhiên trong số này không có điểm nào nổi bật lên như một lợi thế cạnh tranh, trừ phi có nhu cầu nội địa cao. Thông qua đồng minh chính trị hay mối quan hệ lịch sử, nhu cầu nội địa cũng được lan rộng đi. Chúng gắn liền với các nước khác ở hệ thống luật pháp, chuẩn mực sản phẩm, kỹ thuật sản xuất, và sở thích mua sắm. Nước Anh thành công nhờ những nối kết như thế vào những năm 1800 cho đến giữa những năm 1900. Mặc dù sự trợ giúp từ nước ngoài và mối quan hệ chính trị đặc biệt giữa các nước ngày nay ít hiệu quả hơn nhưng ít nhiều nó cũng tương tự như thế. Ví dụ, các nước như Ý, Nhật Bản, chấp nhận sự trợ giúp của nước ngoài để nâng cao nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp họ. Tuy nhiên, quá nhiều doanh nghiệp nước ngoài độc quyền có thể làm hao mòn lợi thế cạnh tranh bằng cách giảm áp lực cải tiến và đổi mới. TÁC ĐỘNG QUA LẠI CỦA CÁC ĐIỀU KIỆN NHU CẦU Rõ ràng là nhiều điều kiện nhu cầu nội địa có thể tăng cường sức mạnh lẫn nhau và tạo nên sự thành công đáng chú ý nhất ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình quá trình phát triển . Ngành chế tạo tivi cho ta một ví dụ tiêu biểu (xem bảng đính kèm). Những yếu tố quan trọng nhất của nhu cầu nội địa là những yếu tố khích lệ đầu tư và đổi mới cũng như cạnh tranh lâu dài trong những thị phần càng ngày càng phức tạp hơn. Đặc biệt, minh họa đòi hỏi khách hàng địa phương, nhu cầu phải dự đoán trước những điều này của các nước khác, sự tăng trưởng nhanh chóng và tình trạng sớm bão hòa. Kết quả thu được nhiều lợi thế hiệu quả hơn và kéo dài hơn so với những lợi thế nhất thời thu được từ kích cỡ và hỗn hợp nhu cầu. Nhiều khía cạnh của nhu cầu nội địa rấtø quan trọng khi thiết lập lợi thế đầu tiên, trong khi các khía cạnh khác tăng cường lợi thế đó hoặc giúp duy trì nó. Các điều kiện nhu cầu ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh cũng phụ thuộc vào những phần khác của “viên kim cương" Ví du,ï không có đối thủ mạnh cạnh tranh trong nước, tăng trưởng nhu cầu nội địa nhanh hoặc thị trường nội địa lớn sẽ gây mãn nguyện hơn là kích Michael Porter 28 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  30. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh thích đầu tư. Không có sự hỗ trợ thích hợp cho các ngành công nghiệp, các doanh nghiệp có thể thiếu khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng nội địa. “Viên kim cương" là một hệ thống trong đó không thể tách biệt vai trò của bất cứ yếu tố tiên quyết nào. Điều kiện nhu cầu trong ngành sản xuất tivi Máy truyền hình cho ta một ví dụ điển hình về tác động qua lại các điều kiện yêu cầu có hiệu quả tăng cường lẫn nhau. Người Nhật có nhu cầu về loại tivi nhỏ, gọn và dễ mang theo đầu tiên do thu nhập bình quân đầu người thấp hơn và do nhà của họ nhỏ, họ luôn cất TV sau khi sử dụng. Mặc dù tiên phong trong ngành này, các doanh nghiệp Mỹ lại đang bận rộn đáp ứng nhu cầu trong nước, dẫn đầu về các nhà máy lớn với tivi kiểu dáng đẹp và có hình ảnh lớn. Các doanh nghiệp Mỹ ít nỗ lực thiết kế các tivi hình ảnh nhỏ tạo sự gọn nhẹ. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhật nỗ lực theo hướng này, hài lòng với việc cấp phép cho kỹ thuật tạo máy móc lớn và mua những TV lớn từ Mỹ. Gìay da Các bộ phận Các dịch vụ của giày dép thiết kế Máy móc xử lý Da đã được chế da biến Hình 3-2 Các ngành cung ứng hàng giày da Ý thành công trên thị trường quốc tế Nhu cầu nội địa ở Nhật Bản đối với tivi, mặc dù mất dần đi sau đó, phản ánh nhu cầu thế giới tốt hơn nhiều so với nhu cầu nội địa Mỹ bởi vì tivi trở thành một phần trong đời sống hàng ngày thay vì thứ gì đó đặt vào phòng khách, và dạng máy gọn nhẹ đã chứng tỏ trở thành sản phẩm được ưa chuộng toàn cầu. Cũng như thế, khách hàng Nhật Bản có kiến thức và đòi hỏi cao về thiết bị điện tử tiêu dùng, điều này dẫn đến những cố gắng mạnh mẽ để cải tiến chất lượng, đặc tính và giá cả. Mặc dù nhu cầu về tivi mất đi ở Mỹ sớm hơn so với Nhật Bản, nhưng thị trường Nhật Bản lại đến với tình trạng bão hòa sớm hơn. Khi các doanh nghiệp Mỹ tiếp tục thu được lợi nhuận kỷ lục, các nhà sản xuất tivi ở Nhật lại gặp phải việc nhu cầu nội địa giảm đi. Michael Porter 29 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức
  31. Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Marketing địa phương Lợi thế cạnh tranh quốc gia Hà Nội, tháng 11/2004 Chương 3: Yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh LỢI THẾ CẠNH TRANH TRONG CÁC NGÀNH CUNG ỨNG Sự hiện diện của các ngành cung ứng cạnh tranh trên thế giới trong một nước tạo lợi thế cho các ngành chuyển động xuôi dòng theo nhiều cách khác nhau. Đầu tiên, thông qua sự tiếp cận hiệu quả, sớm, nhanh chóng và đôi khi ưu đãi các đầu vào có chi phí tốt nhất. Ví dụ, Ý đã liên tiếp dẫn đầu thế giới ngành nữ trang, vàng bạc. Một phần bởi vì các doanh nghiệp khác của Ý sản xuất hai phần ba máy chế tạo nữ trang cho thế giới và cũng đứng đầu thế giới về các thiết bị tái chế các kim loại quý. Ngành nữ trang Ý cạnh tranh gay gắt để phục vụ thị trường nội địa của họ, theo những lý do tôi đã đề cập trên. Kết quả là chi phí hấp dẫn và những doanh nghiệp đáp ứng. Tuy nhiên, chỉ đơn thuần tiếp cận và cung cấp máy móc hay đầu vào sẵn có không phải là phương pháp tốt nhất khi hình thành các ngành cung ứng, dựa vào nội địa mà thành công trên thế giới, cho dẫu đạt điều này dễ dàng. Trong sự cạnh tranh toàn cầu, các thành tố, máy móc, các đầu vào khác luôn sẵn sàng cung ứng cho thị trường toàn cầu, điều này không quan trọng bằng việc các đầu vào đã được sử dụng có hiệu quả như thế nào. Nổi bật hơn trong việc tiếp cận các cơ cấu máy hoặc đầu vào khác là một lợi thế mà nhà cung ứng “sân nhà” cung cấp dựa theo hợp tác đang tiến triển. Như đã mô tả ở chương trước, các nối kết giữa dây chuyền giá trị của các doanh nghiệp và nhà cung cấp của họ quan trọng như thế nào đối với lợi thế cạnh tranh. Nhờ có những hoạt động thiết yếu và các nhà quản lý cao cấp của bên cung ứng đã thiết lập mối liên kết như vậy. Các nhà cung cấp ngoài nước hiếm khi có được sự thay thế hoàn chỉnh, ngay cả khi họ có các chi nhánh địa phương. Tuy nhiên, có lẽ lợi ích quan trọng nhất của các nhà cung ứng dựa vào nội địa là quá trình đổi mới và nâng cao. Lợi thế cạnh tranh xuất hiện từ quan hệ kinh doanh thường xuyên giữa các nhà cung ứng cấp thế giới và ngành công nghiệp. Các nhà cung ứng giúp các doanh nghiệp nắm bắt được phương pháp mới và cơ hội để ứng dụng kỹ thuật mới. Các doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận các thông tin, ý tưởng mới, hiểu biết sâu sắc, và sự đổi mới của các nhà cung ứng. Họ có cơ hội ảnh hưởng đến các nỗ lực về kỹ thuật của các nhà cung ứng cũng như phục vụ, kiểm tra tiến trình công việc. Sự trao đổi của R&D kết hợp các vấn đề cần giải quyết dẫn đến hiệu quả và nhanh chóng hơn. Các nhà cung cấp có khuynh hướng trở thành một đường dẫn để chuyển đổi thông tin và đổi mới từ doanh nghiệp này sang doanh nghiệp khác. Thông qua quá trình này, tốc độ đổi mới trong cả ngành trong nước được gia tốc. Tất cả các lợi ích này sẽ tăng nếu doanh nghiệp của nhà cung cấp ở gần các công ty, giúp làm ngắn dần khoảng cách liên lạc. Ý cung cấp nhiều ví dụ về lĩnh vực trao đổi này. Ví du, trong ngành giày da (hình 3-2) các nhà sản xuất tác động qua lại thường xuyên với các nhà sản xuất da, vì các mẫu mã mới và kỹ thuật sản xuất. Các nhà sản xuất giày tìm hiểu về kết cấu và màu sắc trên bảng vẽ. Về phần mình, các nhà sản xuất da phải am hiểu về khuynh hướng thời trang để thảo kế hoạch cho các sản phẩm mới. Tuy nhiên ở ví dụ này cho thấy không phải tự nhiên đạt được lợi ích từ các nhà cung cấp nội địa. Cả doanh nghiệp và nhà cung cấp phải cùng hợp tác, là chủ đề của các chương sau. Michael Porter 30 Biên dịch: Đoàn Hữu Đức