Quản trị kinh doanh - Đánh giá cviện trợ khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Quản trị kinh doanh - Đánh giá cviện trợ khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- quan_tri_kinh_doanh_danh_gia_cvien_tro_khi_nao_co_tac_dung_k.pdf
Nội dung text: Quản trị kinh doanh - Đánh giá cviện trợ khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao
- Đỏnh giỏ viện trợ khi nào cú tỏc dụng , khi nào khụng, và tại sao
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao Ngời dịch: Nguyễn Thị Thanh Minh Nguyễn Thị Việt Phơng Hoàng Quốc Hùng Phạm Hồng Vân Nguyễn Đình Thọ Vũ Đức Dũng Ngời hiệu đính: Nguyễn Quốc Thắng Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Ngân hàng Thế giới Bình luận về cuốn Đánh giá viện trợ: Khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao Cuốn sách tốt nhất và đầy đủ nhất về ảnh hởng của viện trợ. Mọi ngời quan tâm đến mối quan hệ giữa các nớc giàu và nớc nghèo (ai mà không?) đều nên đọc. Tôi hy vọng tất cả những cơ quan chịu trách nhiệm phân phối viện trợ đều buộc cán bộ quản lý của mình phải đọc cuốn sách này. Alberto Alesina, Giáo s kinh tế, Đại học Harvard Nếu các nhà tài trợ muốn nghiêm túc sử dụng viện trợ để giúp ngời dân thoát khỏi đói nghèo, họ cần đọc cuốn sách này trớc khi làm bất kỳ điều gì. Bằng chứng của tác giả đa ra cho thấy có thể tăng cờng hiệu quả viện trợ lên rất nhiều nhờ những thay đổi đơn giản nhng căn bản trong chính sách viện trợ. Giáo s Jan Willem Gunning, Đại học Oxford Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế châu Phi Cuốn Đánh giá viện trợ là một bớc tiếp theo trong quá trình đổi mới t duy của Ngân hàng Thế giới về chiến lợc phát triển và viện trợ. Đây là một bớc đi xa hơn khỏi thế giới chật hẹp tân cổ điển của các thị trờng hoàn hảo. Shigeru Ishikawa, Giáo s Danh dự, Đại học Hitotsubashi Đánh giá viện trợ đa ra một tình huống tuyệt vời trong đó viện trợ có thể và đã có tác dụng - đó là khi nó hỗ trợ cho các cải cách trong chính sách và quản lý nhà nớc là yếu tố chủ đạo để tăng trởng nhanh và giảm đói nghèo. Nhng đồng thời cũng có một bi kịch là một phần rất lớn viện trợ vẫn đang bị lãng phí. Đánh giá chân thực và mới mẻ này về viện trợ nói chung và viện trợ của Ngân hàng Thế giới là một tài liệu quan trọng cho những ngời làm chính sách liên quan tới cải cách cải cách các cơ quan quốc tế và viện trợ. Nancy Birdsall, Thành viên Cao cấp, Quỹ Hoà bình Carnegie Một phân tích mới mẻ về một chủ đề quan trọng, viết một cách tinh tế, thẳng thắn và dũng cảm. Robert Klitgaard, Giáo s Cao cấp về Phát triển và An ninh Quốc tế của Ford, Giám đốc trờng Sau đại học RAND Đánh giá Viện trợ là cuốn thứ bảy trong tập Báo cáo Nghiên cứu Chính sách với dự định mang đến cho bạn đọc đông đảo kết quả nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới về các vấn đề chính sách phát triển. Các báo cáo này tổng kết những điều đợc biết và cha biết về các vấn đề này và góp phần tranh luận về các chính sách công cộng thích hợp cho các nớc đang phát triển. Tham khảo mạng internet theo địa chỉ
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Mục lục Lời nói đầu xiii Nhóm làm báo cáo xv Tổng quan Đổi mới t duy về đồng tiền và các ý tởng viện trợ 1 Môi trờng quốc tế mới 8 T duy mới về chiến lợc phát triển 11 Tiền cũng quan trọng - trong một môi trờng chính sách tốt 15 Viện trợ có thể làm bà đỡ cho các chính sách tốt 19 Tiền cũng quan trọng - trong một môi trờng thể chế tốt 22 Viện trợ có thể làm bà đỡ cho các thể chế hiệu quả 24 Tiền, nhng cũng nhiều ý tởng hơn 26 1. Tiền cũng quan trọng - Trong một môi trờng chính sách tốt 32 Các nớc khác nhau - vận mệnh khác nhau 33 Tại sao có sự chênh lệch? 36 Với các nớc có cơ chế quản lý tốt 38 Viện trợ cha u tiên các nớc có cơ chế quản lý tốt 46 Viện trợ có trọng điểm 48 2. Viện trợ có thể làm bà đỡ cho các chính sách tốt 53 Đồng tiền- lợi hay hại đối với cải cách? 54 ý thức làm chủ - tiền cũng không thể mua đợc 56 Khuyến khích cải cách 60 Nếu cam kết - cung cấp tiền, nếu không cam kết - cung cấp ý tởng 65 3. Tiền cũng quan trọng - Trong một môi trờng thể chế tốt 68 Tính bất phân định? 70 Chi tiêu công cộng - Chất lợng chứ không phải số lợng 83 Các nhà tài trợ nên làm gì? 88 4. Viện trợ có thể làm bà đỡ cho các thể chế hiệu quả 94 Cung ứng công cộng tốt hơn 95 Cung ứng công cộng không qua cơ quan công cộng 104 Làm cho viện trợ có tác động giúp dịch vụ công cộng tốt hơn 107 ix
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao 5. Tiền, nhng cũng cần nhiều ý tởng hơn 115 Việt Nam: điều chỉnh không cần tín dụng 117 Phân quyền và cải cách giáo dục ở En Xanvađo, Pakixtan và Braxin 120 Camêrun: nguồn tài chính cho y tế và việc cung cấp dịch vụ 124 Sáng kiến duy tu đờng bộ ở châu Phi 126 Kết luận 128 Phụ lục 133 Đánh giá tác dụng của viện trợ đối với tăng trởng 133 Giải thích về thành công hay thất bại của các chơng trình điều chỉnh cơ cấu 138 Phân tích tính bất phân định của viện trợ nớc ngoài 143 Tác động của tự do công dân và chế độ dân chủ tới hoạt động của chính phủ 148 Đánh giá tác động của nghiên cứu phân tích 152 Khung 1. Định nghĩa viện trợ 7 2. Tính lợng viện trợ 9 3. Định nghĩa về cơ chế quản lý tốt: chính sách và thể chế 14 4. Chức năng của Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển 15 5. Quan điểm của các bên liên quan về mức độ hiệu quả của viện trợ 27 1.1 Viện trợ và các nớc nghèo mắc nhiều nợ 47 2.1 Cải cách chế độ lơng hu 61 4.1 Viện trợ và tập quyền 97 4.2 Một sự trỗi dậy hữu ích của các tổ chức phi chính phủ 106 4.3 Tái định c trong phát triển 110 5.1 Cải cách các cơ quan viện trợ trong những năm 1990 131 Hình 1. Dòng tài chính đổ vào các nớc đang phát triển 8 2. ODA so với GNP, các nhà tài trợ chính10 3. Khoảng cách giữa mô hình và thực tế ở Zambia, 1961-94 10 4. Tăng trởng GDP tính theo đầu ngời ở các quốc gia có thu nhập thấp nhng có cơ chế quản lý tốt 11 5. Kết quả hoạt động dự án theo môi trờng chính sách và thể chế 16 6. Viện trợ song phơng và quan hệ thuộc địa 17 7. Bầu cử, nhiệm kỳ, và khả năng cải cách thành công 20 8. Đầu t công cộng từ một đôla của doanh thu từ thuế hay viện trợ phát triển chính thức 21 9. Thành công trong các dự án cung cấp nớc nông thôn với các mức độ tham gia khác nhau của đối tợng thụ hởng 25 10. Sự phân bổ viện trợ trên thực tế, 1996 và sự phân bổ tối u để giảm nghèo 26 x
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Mục lục 1.1 Tử vong ở trẻ sơ sinh ở một số nớc, 1967 và 1994 34 1.2 Quản lý kinh tế và tăng trởng ở một số nớc đang phát triển 38 1.3 Tốc độ tăng trởng và mức thu nhập 39 1.4 Viện trợ và tăng trởng ở một số nớc đang phát triển, 1970-1993 40 1.5 Tác động cận biên của việc tăng viện trợ thêm 1% GDP đối với tăng trởng 41 1.6 Tăng trởng kinh tế và nghèo khổ 43 1.7 Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh nhờ lợng viện trợ tơng đơng 1% GDP 44 1.8 Tác động cận biên của lợng viện trợ tơng đơng 1% GDP tới đầu t t nhân 45 1.9 Viện trợ song phơng, đa phơng và NHTG tính bình quân đầu ngời và mức thu nhập 46 1.10 Viện trợ và dân số 47 1.11 Phân bổ viện trợ song phơng 1970-1993 49 1.12 Phân bổ viện trợ đa phơng 1970-1993 50 1.13 Nghèo khổ và chính sách, 113 nớc đang phát triển, 1996 51 2.1 Dămbia: Viện trợ và chính sách 56 2.2 Gana: Viện trợ và chính sách 58 2.3 Bôlivia: Viện trợ và chính sách 59 3.1 Phân bổ các nguồn viện trợ, theo loại hình và ngành 69 3.2 Bất phân định hoàn toàn 70 3.3 Bất phân định một phần 71 3.4 Một đôla viện trợ và chi tiêu Chính phủ 73 Ước lợng từ mẫu nhiều nớc Ước lợng theo từng nớc và từ mẫu nhỏ 3.5 Một đôla viện trợ và chi tiêu đầu t công cộng 76 3.6 Viện trợ song phơng và chi tiêu của Chính phủ 76 3.7 Một đôla viện trợ cho nông nghiệp và chi tiêu cho nông nghiệp 77 3.8 Một đôla viện trợ cho giáo dục, y tế và chi tiêu cho giáo dục, y tế 78 3.9 Chi tiêu của Chính phủ cho y tế tính % GDP và tình trạng sức khoẻ 86 4.1 Sự tham gia của ngời hởng lợi và thành công dự án 98 4.2 Tự do công dân và xác suất thất bại các dự án của NHTG 99 4.3 Chi phí và lợi ích khi thêm một tuần công cho công tác phân tích 113 5.1 Việt Nam: viện trợ và chính sách 119 5.2 Pakistan: Tỷ lệ nhập học của trẻ em gái từ 5 đến 8 tuổi 122 5.3 Camêrun: Thay đổi về mức sử dụng các trung tâm y tế, 1990-1991 125 Hình khung 2 Tổng viện trợ ODA và viện trợ chính thức đã điều chỉnh của OECD 9 3 Các thể chế, chính sách và tăng trởng 14 Bảng 1.1 Thu nhập đầu ngời thực tế so với Mỹ 35 xi
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao 2.1 Đặc điểm của các chơng trình điều chỉnh cơ cấu thành công và thất bại 59 3.1 Viện trợ trong tổng chi tiêu đầu t ở hai nớc châu Phi (phần trăm) 80 3.2 Đánh giá tác động của dự án khi các nguồn viện trợ là bất phân định 81 Bảng phụ lục A.1.1 Ước lợng tác động của viện trợ đối với tăng trởng 136 A.1.2 Các nớc trong bảng số liệu 137 A.2.1 Dự tính kết quả của việc điều chỉnh vốn vay 142 A.3.1 Tác động của viện trợ nớc ngoài đối với tổng chi tiêu, chi tiêu thờng xuyên và chi đầu t, 1971-1990 146 A.3.2 Tác dụng của tín dụng u đãi đối với chi tiêu ngành của chính phủ, 1971-1990 147 A.4.1 Đặc điểm cơ bản của các nhân tố phi quản lý quyết định tới lợi suất kinh tế của các dự án chính phủ 150 A.4.2 Tác động của các chỉ tiêu về tự do công dân đối với lợi suất kinh tế của các dự án chính phủ, có đối chứng với các biến số về kinh tế và dự án 151 A.5.1 Tác động của ESW đối với kết quả dự án và mức sinh lời kinh tế 155 xii
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Lời nói đầu rong viện trợ nớc ngoài kiến thức cũng không kém phần quan trọng so với tiền T bạc. Giúp các nớc và các cộng đồng hình thành kiến thức cần thiết cho phát triển là vai trò cơ bản của viện trợ. Và viện trợ cũng là một lĩnh vực cần học hỏi liên tục khi các bài học thành công và thất bại trở nên rõ ràng. Đánh giá viện trợ là đóng góp cho quá trình học hỏi không ngừng này. Cuốn sách góp phần vào việc “đổi mới t duy về viện trợ” mà cộng đồng quốc tế đang tiến hành - đổi mới t duy theo hai nghĩa. Thứ nhất, với việc kết thúc chiến tranh lạnh, có những ngời đặt vấn đề là liệu có cần thiết phải viện trợ hay không trong một thế giới mà các thị trờng vốn liên hệ chặt chẽ với nhau. Với xu hớng này, chúng tôi đã chứng minh đợc rằng viện trợ từ nớc giàu sang nớc nghèo vẫn có vai trò của nó. Thứ hai, các nớc đang phát triển và các nớc phát triển đều đang xem xét lại vai trò của viện trợ dới ánh sáng của mô hình phát triển mới. Viện trợ hữu hiệu có thể giúp phát triển thể chế và cải cách chính sách là các yếu tố tối quan trọng cho quá trình phát triển. Trong suốt 50 năm qua dù đã có rất nhiều cố gắng nhng sự nghèo khổ trên thế giới vẫn là một vấn đề nghiêm trọng. Nghiên cứu về viện trợ, tăng trởng và giảm nghèo khổ cung cấp những bằng chứng quan trọng để chúng ta tăng cờng hiệu quả của viện trợ. Báo cáo này tóm tắt những kết quả nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Thế giới về hiệu quả viện trợ. Công trình nghiên cứu gốc đã hoặc sắp đợc công bố trên các tạp chí chuyên môn. Còn báo cáo này có mục đích phổ biến các kết quả nghiên cứu cho các đối tợng độc giả rộng hơn. Cần nhấn mạnh rằng có những khía cạnh quan trọng trong hợp tác phát triển mà công trình nghiên cứu này cha đề cập đến. Báo cáo này chỉ hạn chế ở những lĩnh vực mà chúng tôi có những phát hiện mới. Viện trợ thông qua các hoạt động khác nhau nhằm cung cấp tiền của và những ý tởng. Có hai chủ đề chính đợc nêu trong báo cáo này. Chủ đề thứ nhất là viện trợ muốn có hiệu quả phải đúng lúc, và chủ đề thứ hai là nó đòi hỏi phải kết hợp tiền và ý tởng một cách hợp lý. Xác định viện trợ đúng lúc rất quan trọng để giúp các nớc cải thiện chính sách và thể chế của mình. Khi các nớc cải cách các chính sách kinh tế của mình, viện trợ đúng lúc có thể giúp tăng cờng ích lợi của cải cách và duy trì sự ủng hộ của công chúng. Cũng tơng tự nh thế, ở cấp địa phơng khi các cộng đồng tự tổ chức lại với nhau để cải thiện dịch vụ thì viện trợ đôi khi có thể quyết định đến thành công hay thất bại của các sáng kiến này. xiii
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao Về các lĩnh vực hoạt động khác nhau, chúng tôi thấy viện trợ có tác động lớn – nhng chỉ ở các nớc có thu nhập thấp và có cơ chế quản lý tốt.Trớc khi các nớc tiến hành cải cách, tài chính có rất ít tác dụng. Do đó, các nhà tài trợ phải dựa vào các công cụ của mình để hỗ trợ phát triển trong môi trờng bị bóp méo – và báo cáo xem xét chi tiết khi nào viện trợ có tác dụng và khi nào thì không. Để có tác động lớn hơn đối với việc giảm nghèo khổ trên phạm vi toàn cầu thông qua phát triển công bằng và bền vững, viện trợ nớc ngoài đòi hỏi phải có sự hợp tác ba bên giữa các nớc nhận viện trợ, các cơ quan viện trợ và các nớc tài trợ. Nớc nhận viện trợ cần phải hớng về các chính sách và thể chế tốt. Sự tham gia tích cực của xã hội dân sự có thể giúp duy trì đợc cơ chế quản lý tốt ở các nớc đang phát triển. May mắn là nhiều nớc nghèo đang tiến hành các cuộc cải cách nghiêm túc về chính sách và quản lý nhà nớc, do đó môi trờng đã tạo nhiều thuận lợi cho viện trợ có hiệu quả trong hàng thập kỷ qua. Các cơ quan phát triển cần chuyển trọng tâm khỏi mục tiêu tổng lợng giải ngân và đánh giá hoạt động dự án một cách cục bộ sao cho viện trợ có hiệu quả cao hơn. Các cơ quan này cần phải đợc đánh giá theo mức độ phân bổ các nguồn lực của mình, cả nguồn kiến thức và tài chính, với mục đích khuyến khích cải cách chính sách và đổi mới thể chế nhằm cải thiện đời sống của ngời dân. Rất may là các cơ quan đa phơng và song phơng đang tự đổi mới và hợp tác với nhau để hoạt động trở nên hiệu quả hơn. Cuối cùng, dân chúng của các nớc tài trợ cần tiếp tục ủng hộ viện trợ. Rất tiếc là tại thời điểm viện trợ đợc coi là hiệu quả nhất nh hiện nay thì lợng viện trợ lại giảm sút và đang ở mức thấp nhất. Báo cáo này có mục đích kêu gọi các nớc tài trợ tiếp tục cung cấp viện trợ và tham gia tích cực vào sự nghiệp phát triển và hợp tác phát triển. Phát triển có hiệu quả hơn có nghĩa là cải thiện cuộc sống của hàng trăm triệu ngời dân: bữa ăn đợc đầy đủ hơn, con cái khoẻ mạnh hơn, nhiều trẻ em đợc tới trờng hơn. Đây là những mục tiêu đáng để chúng ta phấn đấu – và nếu đợc quản lý tốt thì viện trợ có thể đóng góp rất nhiều. Joseph E. Stiglitz Phó chủ tịch cao cấp phụ trách kinh tế phát triển Chuyên viên kinh tế trởng Ngân hàng Thế giới Tháng 11-1998 xiv
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Nhóm làm báo cáo Báo cáo nghiên cứu chính sách này do David Dollar và Lant Pritchett thuộc Nhóm Nghiên cứu phát triển viết. Đây là đỉnh cao của chơng trình nghiên cứu về hiệu quả viện trợ do Lyn Squire khởi xớng và giám sát. Các công trình nghiên cứu làm tiền đề cho báo cáo này là của các tác giả nh Craig Burnside, Claus Deiningger, Shanta Devarajan, William Easterly, Deon Filmer, Jonathan Isham, Dani Kaufmann, Elizabeth King, Jennie Litvack, Luis Serven, Lyn Squire, Vinaya Swaroop và Jakob Svensson. Các tác giả đã sử dụng nhiều và trích dẫn các đánh giá và nghiên cứu của các đơn vị khác trong Ngân hàng Thế giới. Hầu hết các nghiên cứu nền đã đợc trình bày và thảo luận ở hội thảo Quỹ đầu t hải ngoại Nhật Bản (OECF) - Ngân hàng Thế giới “Tầm nhìn Hợp tác Phát triển mới cho thế kỷ XXI” (Tokyo, tháng 9-1997). Các tác giả cũng ghi nhận những hỗ trợ nghiên cứu quý báu của Mita Chakraborty, Charles Chang, Giuseppe Iarossi và Pablo Zoido-Lobaton và những hỗ trợ hành chính tuyệt vời của Emily Khine, Kari Labrie và Raquel Luz. Lawrence MacDonald đã giúp đỡ rất tận tình trong suốt quá trình chuẩn bị báo cáo. Bruce Ross-Larson cùng Jessica Moore và Sharifah Albukhary đã hiệu đính lại báo cáo trớc khi xuất bản. Những ý kiến trong báo cáo nghiên cứu chính sách này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Hội đồng Quản trị Ngân hàng Thế giới hay của các chính phủ mà Hội đồng đại diện. xv
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan Tổng quan Đổi mới t duy về đồng tiền và các ý tởng viện trợ Viện trợ nớc ngoài đôi khi rất thành công. Bốtxoana và Viện trợ nớc ngoài Hàn Quốc vào những năm 1960, Inđônêsia vào những năm đôi khi rất thành 1970, Bôlivia và Gana vào cuối những năm 1980, Uganđa và công - nhng đôi khi Việt Nam vào những năm 1990 là những dẫn chứng cho lại thất bại hoàn thấy các nớc đã thoát ra từ khủng hoảng để có đợc sự phát toàn triển nhanh chóng. Viện trợ nớc ngoài giữ một vai trò quan trọng trong từng sự biến đổi, đóng góp các ý tởng về chính sách phát triển, đào tạo các nhà hoạch định chính sách công và tài trợ cho cải cách và mở rộng các dịch vụ công cộng. Viện trợ nớc ngoài cũng làm biến đổi toàn bộ các ngành. Hoạt động đổi mới, đầu t và chính sách trong nông nghiệp, những yếu tố đã tạo nên Cách mạng Xanh - cải thiện đời sống của hàng triệu ngời nghèo trên thế giới - đã đợc hỗ trợ tài chính, đợc ủng hộ và phổ biến thông qua sự hợp tác của các nhà tài trợ song phơng và đa phơng. Các chơng trình có sự tài trợ và phối hợp của quốc tế đã làm giảm mạnh bệnh tật chẳng hạn nh bệnh mù do nớc sông và tiến hành các chơng trình tiêm chủng mở rộng chống lại các bệnh cơ bản ở trẻ em. Hàng trăm triệu ngời, nếu không nói là đã đợc đổi đời, thì cũng đã đợc tới trờng, sử dụng nớc sạch, vệ sinh, điện, trạm y tế, đờng sá và tới tiêu - tất cả đều nhờ viện trợ nớc ngoài. Ngợc lại, đôi khi viện trợ nớc ngoài cũng thất bại hoàn toàn. Trong khi Môbutu Sese Seko, nhà độc tài của Daia trớc kia theo báo cáo là một trong những ngời có tài sản cá nhân kếch xù nhất thế giới (dĩ nhiên đợc đầu t ở nớc ngoài) thì viện trợ quy mô lớn của nớc ngoài trong hàng thập kỷ qua cũng không đem lại một chút tiến bộ nào. Daia (hiện nay là Cộng hoà Dân chủ Cônggô) chỉ là một trong một số các dẫn chứng về việc nguồn viện trợ đợc cung cấp đều đặn mà không tính đến - nếu không muốn nói là khuyến khích - sự bất tài, tham nhũng và các chính sách lệch hớng. Lấy Tandania làm ví dụ, trong 20 năm qua các nhà tài trợ đã rót vào đây một lợng lớn tiền tài trợ, 2 tỷ đôla cho việc xây dựng đờng sá. Mạng lới đờng sá đã đợc cải thiện hay cha? Cha. Do thiếu duy tu, bảo dỡng, đờng sá thờng bị hỏng nhanh hơn so với mức xây dựng mới. 1
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao Do đó, ở những giai đoạn và địa điểm khác nhau, viện trợ nớc ngoài hoặc rất hiệu quả, hoặc hoàn toàn không hiệu quả hoặc hiệu quả ở mức độ nào đó. Đây có lẽ là điều mong đợi trong nửa thế kỷ qua của hàng loạt các nỗ lực với vô số các nớc tài trợ, hàng trăm nớc nhận tài trợ, hàng chục ngàn các hoạt động cụ thể và gần một nghìn tỷ đôla tiền viện Viện trợ tài chí nh trợ. Nhng sự nhận thức muộn mằn này chỉ có giá trị nếu nó phát huy tác dụng tạo ra đợc sự hiểu biết. Lịch sử sôi động về viện trợ đã đa trong một môi trờng đến những cải thiện về viện trợ nớc ngoài, tạo cơ hội để tiếp chí nh sách tốt tục cải cách. Câu hỏi cấp bách đặt ra là: Làm thế nào để viện trợ phát triển có thể giảm tình trạng nghèo khổ trên phạm vi toàn cầu một cách hiệu quả nhất? Cần sớm có câu trả lời cho vấn đề này. Mặc dù trong 50 năm qua việc giảm nghèo đã đạt đợc nhiều tiến bộ hơn so với bất kỳ giai đoạn nào có thể so sánh đợc trong lịch sử nhân loại, nhng nghèo khổ vẫn còn là một vấn đề gay cấn mang tính toàn cầu. Hơn 1 tỷ ngời sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực - với mức sống dới 1 đôla/ngày, thậm chí thiếu cả những dịch vụ cơ bản mà ngời dân ở các nớc phát triển cho là lẽ đơng nhiên phải có: nớc sạch, vệ sinh, điện, trờng học. Thật trớ trêu và đáng buồn là khi cải cách kinh tế trải qua hàng thập kỷ mới tạo ra đợc môi trờng tốt nhất cho viện trợ có hiệu quả thì các nhà tài trợ đột nhiên cắt giảm mạnh viện trợ. Năm 1997, các nhà tài trợ OECD dành cho viện trợ một khoản nhỏ nhất trong GNP của mình - nhỏ hơn 0,25% - mức thấp nhất kể từ khi các số liệu thống kê mang tính so sánh đợc bắt đầu thu thập vào những năm 1950. Phải cần thêm khoảng 50% viện trợ nữa mới trở lại đợc mức của năm 1991. Có rất nhiều nghiên cứu xuất sắc về viện trợ nớc ngoài1. Tuy nhiên, có ba lý do quan trọng để xem xét lại lĩnh vực đã đợc quan tâm theo dõi này. Thứ nhất, những thay đổi mới đây trong môi trờng kinh tế và chính trị toàn cầu - nhất là việc chiến tranh lạnh kết thúc và dòng vốn t nhân ồ ạt đổ vào các nớc đang phát triển - đã tác động tới bức tranh toàn cục của viện trợ phát triển tới mức ngời ta phải đặt ra rất nhiều câu hỏi cho vấn đề tồn tại của viện trợ. Thứ hai, chiến lợc phát triển thay đổi đòi hỏi có một phơng thức viện trợ mới với vai trò nh một biện pháp chiến thuật trong chơng trình nghị sự luôn thay đổi. Thứ ba, một bằng chứng thực tế gần đây đã giúp trả lời đợc câu hỏi thế nào là viện trợ hiệu quả và thế nào là viện trợ không hiệu quả. Đổi mới t duy về viện trợ đã dẫn tới những phát hiện 2
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan sau: Viện trợ tài chính phát huy tác dụng trong môi trờng chính sách tốt. Hỗ trợ tài chính ở các nớc đang phát triển có cơ chế quản lý kinh tế tốt sẽ giúp tăng trởng nhanh hơn, giảm tình trạng nghèo khổ và đạt đợc các chỉ tiêu xã hội. ảnh hởng của nó là rất lớn: với cơ chế quản lý đất nớc tốt thì 1% GDP viện trợ sẽ làm giảm 1% nghèo khổ và cũng giảm tơng tự nh vậy tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, trong môi trờng yếu kém, tiền lại có tác động ít hơn nhiều. Tăng 10 tỷ đôla viện trợ một năm sẽ cứu đợc 25 triệu ngời thoát khỏi nghèo khổ - nhng chỉ đối với các nớc có cơ chế quản lý kinh tế tốt. Nếu trái lại, cho dù có tăng 10 tỷ đôla viện trợ cho tất cả các lĩnh vực thì cũng chỉ cứu đợc 7 triệu ngời khỏi cảnh kiếm ăn lần hồi. Cải thiện thể chế và chính sách kinh tế ở những Giá trị của các dự án nớc đang phát triển là chìa khóa để tạo bớc nhảy vọt về phát triển là ở chỗ lợng trong việc giảm tình trạng nghèo khổ. Đúng vậy, thể chế và chí nh trong thập kỷ qua vấn đề quản lý và chính sách đã có sách đợc củng cố những cải thiện đáng kể, nhng nếu tiếp tục cải cách với để có thể cung cấp cùng một quy mô thì hàng năm sẽ cứu thêm đợc 60 triệu các dịch vụ một ngời nữa thoát khỏi nghèo khổ. Khi các nớc mong muốn cách hiệu quả cải cách, thì viện trợ nớc ngoài có thể đóng góp sự hỗ trợ cần thiết - về ý tởng, đào tạo và tài chính. Ngợc lại, những cố gắng hòng "mua" những cải thiện về mặt chính sách ở những nớc không có nỗ lực cải cách đã thất bại thảm hại. Viện trợ hiệu quả bổ sung cho đầu t t nhân. ở những nớc có cơ chế quản lý kinh tế tốt thì viện trợ nớc ngoài không thay thế cho sáng kiến t nhân. Đúng vậy, viện trợ đóng vai trò nh nam châm "hút" đầu t t nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 đôla trên 1 đôla viện trợ. Đối với những nớc đã cam kết cải cách thì viện trợ góp phần củng cố niềm tin tởng cho khu vực t nhân và hỗ trợ các dịch vụ công cộng quan trọng. Tại những môi trờng bị bóp méo nghiêm trọng thì viện trợ lại "loại trừ" đầu t t nhân, điều này giải thích tại sao trong những trờng hợp nh vậy tác động của viện trợ lại rất nhỏ. Giá trị của các dự án phát triển là ở chỗ thể chế và chính sách đợc củng cố để có thể cung cấp các dịch vụ một cách hiệu quả. Viện trợ đem lại cả sự hiểu biết lẫn tài chính. Hầu hết viện trợ đợc phân bổ qua các dự án đầu t trong những lĩnh vực cụ thể nh đờng sá, cấp nớc, hoặc giáo dục. Tuy nhiên, tài trợ theo dự án thờng không làm tăng chi tiêu của ngành hơn nhiều so với viện trợ không 3
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao điều kiện, không hoàn lại - bởi vì viện trợ nói chung là bất phân định (không quy định mục đích sử dụng cụ thể - ND). Do vậy, việc chọn những lĩnh vực đang đợc đề cao nh chăm sóc sức khoẻ ban đầu hoặc giáo dục cơ sở cũng cha thể bảo đảm rằng tiền đã đợc sử dụng một cách hiệu quả. Viện trợ cung cấp tài chính cho toàn bộ khu vực công và chất lợng tổng thể của các chính sách và thể chế là yếu tố cơ bản để bảo đảm đạt đợc lợi suất cao từ việc đầu t này. Những phát hiện này cho thấy đóng góp quan trọng nhất của các dự án không phải để tăng nguồn tài chính cho các ngành cụ thể nào đó, mà là để giúp cải thiện việc cung cấp dịch vụ bằng cách củng cố các thể chế địa phơng và thể chế ngành. Việc tạo ra đợc kiến thức với sự trợ giúp của viện trợ sẽ dẫn tới một số cải thiện trong những ngành cụ thể, trong khi một phần tài chính của viện trợ sẽ mở rộng các dịch vụ công cộng nói chung. Một xã hội dân sự tích cực sẽ cải thiện các dịch vụ công cộng. Một ý tởng tốt mà rất nhiều dự án trong những năm qua đã tạo ra là phơng thức tham gia (từ dới lên - ND) đợc áp dụng trong việc cung cấp dịch vụ, thờng đem lại những cải thiện lớn. Các dự án viện trợ tốt nhất đã hỗ trợ cho các sáng kiến làm thay đổi cách làm ăn của khu vực công cộng. Phơng thức áp đặt từ trên xuống mang tính kỹ trị đợc áp dụng cho việc thiết kế dự án và cung cấp dịch vụ đã không phát huy tác dụng trong những lĩnh vực phát triển quan trọng - cấp nớc nông thôn, giáo dục cơ sở, quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhiều lĩnh vực khác. Viện trợ có thể nuôi dỡng cải cách, thậm chí trong Viện trợ tài chí nh những môi trờng bị bóp méo nghiêm trọng - nhng đòi hỏi cần phải chú trọng phải kiên nhẫn và chú trọng tới vấn đề ý tởng chứ không một cách hiệu quả phải tiền. ở một số nớc nghèo nhất trên thế giới, chính hơn nữa tới các nớc phủ không đa ra đợc những chính sách và dịch vụ hiệu có thu nhập thấp quả, đó là lý do tại sao viện trợ giữa chính phủ này với nhng có cơ chế chính phủ khác không thu đợc những kết quả tốt. Tuy quản lý kinh tế tốt nhiên, ở cấp ngành hoặc địa phơng thờng vẫn có những nhà cải cách thành công, viện trợ đôi khi rất hiệu quả trong việc hỗ trợ những sáng kiến này. Công việc này có sự tham gia của nhiều nhân viên và chỉ phải chi tiêu rất ít. Viện trợ thành công ở đây nhằm giúp các nhà cải cách xây dựng và thử nghiệm các ý tởng của mình. Để viện trợ hiệu quả hơn trong việc giảm nghèo đòi hỏi phải tiến hành năm biện pháp cải cách chính sách. Thứ nhất, viện trợ tài chính phải chú trọng một cách hiệu quả hơn nữa tới những nớc có thu nhập thấp mà có cơ chế 4
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan quản lý kinh tế tốt. Trong môi trờng chính sách tốt, viện trợ tài chính là chất xúc tác để tăng trởng nhanh, đạt đợc các chỉ số xã hội nhanh hơn, và đầu t t nhân cao hơn (chơng 1). Tuy nhiên, trong một môi trờng yếu kém thì viện trợ lại có ít tác động hơn nhiều. Rõ ràng là, những nớc nghèo có chính sách tốt cần phải nhận đợc nhiều tài chính hơn so với những nớc cũng nghèo nh vậy nhng có cơ chế quản lý kinh tế yếu kém. Tuy nhiên, cho tới đầu những năm 1990 lợng tài chính đổ vào những nớc có cơ chế quản lý tốt và những nớc có cơ chế quản lý tồi là nh nhau. Hơn thế nữa, phần lớn viện trợ vẫn tiếp tục dành cho những nớc có thu nhập trung bình, những nớc không cần tới hình thức viện trợ này. Hoàn toàn có thể tập trung viện trợ một cách hiệu quả hơn vào những nớc nghèo nhng có cơ chế quản lý tốt. Thứ hai, viện trợ trên cơ sở chính sách phải đợc dành để nuôi dỡng cải cách chính sách trong những nớc cải cách đáng tin cậy. Kinh nghiệm cho thấy rằng nguồn viện trợ có điều kiện nghiêm ngặt nhng không đợc giới lãnh đạo và chính trị trong nớc ủng hộ mạnh mẽ nói chung sẽ không tạo ra đợc sự thay đổi bền vững nào (chơng 2). Vấn đề ở đây là nguồn tài chính trên thực tế vẫn tiếp tục đợc dành cho các chính phủ chỉ cải cách xuông. Tài trợ trên cơ sở chính sách chỉ nên dành cho những nớc đã có thành tích lớn hoặc có cơ sở lạc quan rõ ràng (ví dụ nhằm hỗ trợ cho những hành động cải cách cụ thể đợc trong nớc khởi xớng hoặc một chính phủ vừa mới thắng cử bằng cơng lĩnh cải cách). Các chính phủ mới lên nắm quyền sau xung đột thờng là những ứng viên tốt cho viện trợ. Tại những nớc có chính sách yếu kém và không có động thái cải cách đáng tin cậy thì viện trợ nên giữ vai trò khiêm tốn và kiên nhẫn hơn trong việc phổ biến ý tởng, truyền bá kinh nghiệm của các nớc khác, đào tạo các nhà lãnh đạo và hoạch định tơng lai và tăng cờng năng lực tranh luận về chính sách trong xã hội dân sự đợc thông tin đầy đủ. Các biện pháp này tơng đối rẻ và không mâu thuẫn với đề xuất cho rằng phần lớn nguồn tài chính nên dành cho các nớc có cơ chế quản lý kinh tế tốt. Thứ ba, hàng loạt các hoạt động viện trợ phải đợc thiết Viện trợ trên cơ sở kế trên cơ sở các điều kiện của các quốc gia và ngành chí nh sách cần phải (chơng 3). Thậm chí ở những nơi có thể chế và chính sách dành để nuôi dỡng yếu kém thì các nhà tài trợ vẫn cố gắng tìm ra một cái gì cải cách chí nh sách đó hữu ích để tài trợ. Chắc chắn chăm sóc sức khoẻ ban ở những nớc đáng đầu hoặc giáo dục cơ sở là những lĩnh vực cần phải tài trợ? tin cậy Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy viện trợ thờng mang tính 5
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao bất phân định, bởi vậy cái mà bạn thấy không phải là cái mà bạn nhận đợc. Trong trờng hợp các dự án tơng tự đằng nào cũng phải đợc tiến hành, tiền tài trợ cho các dự án và ngành cụ thể không nhất thiết phải "cứng nhắc" - mà đơn giản chỉ tăng thêm ngân sách cho chính phủ. Do đó, trong một môi trờng bị bóp méo thì cho dù các dự án có đợc lựa chọn hoặc nguồn tài chính của các nhà tài trợ có đợc phân bổ lại một cách mạnh mẽ cho các hoạt động đợc đề cao thì cũng cha chắc đã bảo đảm tính hiệu quả của viện trợ. Để xác định mức độ hiệu quả của tài trợ, các nhà tài trợ cần xem xét một cách tổng thể việc phân bổ và quan trọng hơn cả là mức hiệu quả của chi tiêu công cộng. Chỉ phân bổ các khoản chi tiêu không thôi thì không bảo đảm cho sự thành công bởi chất lợng của chi tiêu công cộng cũng quan trọng nh số lợng chi tiêu. ở những nớc có cơ chế quản lý kinh tế tốt (cả về chính sách kinh tế vĩ mô và cung cấp các dịch vụ công cộng), viện trợ có thể đợc bổ sung dới dạng hỗ trợ ngân sách, điều này sẽ đơn giản hóa về mặt hành chính và giảm bớt chi phí quản lý. ở những nớc có chính sách nói chung tốt nhng khả năng cung cấp dịch vụ công cộng yếu, viện trợ dự án phải là chất xúc tác nâng cao tính hiệu quả của các chi tiêu công cộng. Các nớc không có chính sách tốt, không có dịch vụ công cộng hiệu quả, hoặc không phân bổ chi tiêu hợp lý sẽ không có lợi nhiều từ viện trợ; và viện trợ trớc hết phải tập trung vào việc cải thiện cho cả ba lĩnh vực này. Thứ t, các dự án cần tập trung vào việc tạo ra và chuyển giao kiến thức và năng lực. Vai trò chính của các dự án phát triển phải là hỗ trợ cho những thay đổi về mặt thể chế và chính sách nhằm cải thiện việc cung cấp các dịch vụ công cộng (chơng 4). Thậm chí, ở những nơi mà tiền có thể không giải quyết đợc vấn đề thì kiến thức và năng lực thể chế của địa phơng do viện trợ làm chất xúc tác tạo ra lại có thể giúp giải quyết đợc. Đối với những dự án mang tính đổi mới thì việc đề ra mục tiêu, tiến hành đánh giá nghiêm túc kết quả và phổ biến thông tin mới là cần thiết. Nhận thức đợc khi nào viện trợ phát huy tác dụng trong việc cung cấp dịch vụ - và khi nào không - là một trong những đầu ra quan trọng nhất của viện trợ phát triển. Trong rất nhiều trờng hợp, các phơng thức đổi mới đợc áp dụng cho việc cung cấp dịch vụ sẽ thu hút sự tham gia đông đảo hơn của các cộng đồng địa phơng và việc ra quyết định sẽ đợc phân cấp. 6
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan Khung 1 Định nghĩa viện trợ của chính phủ tài trợ quản lý (chẳng hạn Sự khác biệt giữa Viện trợ phát triển chính Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ hoặc thức (ODA) và Tài chính phát triển chính Quỹ hợp tác kinh tế hải ngoại của Nhật thức (ODF) là gì? ODA là một phần của Bản). Viện trợ đa phơng do các nớc ODF, trong đó có yếu tố viện trợ không giàu có đóng góp và do các tổ chức nh hoàn lại cộng với cho vay u đãi và phải Chơng trình phát triển Liên hợp quốc và chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ. Tài Ngân hàng Thế giới quản lý. Trong số tất chính phát triển chính thức là tất cả các cả viện trợ phát triển chính thức thì nguồn tài chính mà chính phủ các nớc khoảng 1/3 là viện trợ đa phơng. phát triển và các tổ chức đa phơng dành Một phần viện trợ song phơng cho các nớc đang phát triển. Một số mang tính điều kiện, nghĩa là nó phải khoản tài trợ này có mức lãi suất gần với đợc sử dụng để mua sắm hàng hóa và lãi suất thơng mại. "Viện trợ nớc ngoài" dịch vụ của nớc tài trợ. Các nghiên cứu thờng liên quan tới Viện trợ phát triển cho thấy viện trợ theo hình thức này đã chính thức và thờng dành cho các nớc làm giảm giá trị của viện trợ khoảng 25% nghèo nhất và là trọng tâm của nghiên cứu và có sự nhất trí rộng rãi rằng viện trợ này, nhng nhiều phát hiện lại có thể áp song phơng không điều kiện sẽ hiệu quả dụng với hình thức rộng hơn là Tài chính hơn. Một số nớc thuộc OECD có một xu phát triển chính thức. hớng rõ rệt là tránh hình thức viện trợ có Cả hai loại viện trợ này đều có thể điều kiện này. Năm 1995, viện trợ dới chia thành song phơng và đa phơng. hình thức này chỉ chiếm khoảng 1/5 tổng Viện trợ song phơng do các cơ quan số viện trợ. Thứ năm, do các phơng pháp truyền thống đã trở nên Do các phơng pháp bất lực nên các cơ quan viện trợ cần phải tìm ra đợc truyền thống đị trở những phơng thức thay thế để hỗ trợ cho những quốc gia nên bất lực nên các có nền kinh tế bị bóp méo nghiêm trọng (hình 5). Các cộng cơ quan viện trợ cần đồng dân c và chính phủ là những thực thể không đồng phải tìm ra đợc nhất và thậm chí trong những môi trờng khó khăn nhất những phơng thức vẫn ẩn chứa những ý tởng cải cách. Các nhà tài trợ cần thay thế để hỗ trợ phải kiên nhẫn, linh hoạt và tìm kiếm cơ hội để nuôi d ỡng cho những quốc gia những nỗ lực cải cách này. Nhiều khi những ý tởng sẽ trở có nền kinh tế bị bóp nên hữu hiệu hơn so với nguồn tài chính quy mô lớn. Khả méo nghiêm trọng. năng làm việc của các nhà tài trợ trong những môi trờng này bị cản trở bởi “lề lối phê chuẩn và giải ngân”, theo đó không đánh giá cao các hoạt động quy mô nhỏ cần nhiều nhân lực. Trớc đây, các cơ quan thờng chú trọng vào tiến độ giải ngân và vào các biện pháp thực hiện mang nghĩa vật chất nhỏ hẹp của các dự án "thành công" mà họ tài trợ; nhng chẳng có biện pháp nào trong số đó cho biết đợc nhiều về mức độ hiệu quả của viện trợ. Thay vào đó, đánh giá về viện trợ phát triển cần tập trung vào mức độ mà các nguồn tài chính đã đóng góp để cải thiện môi trờng chính 7
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao sách. Đánh giá này cần chú trọng vào mức độ sử dụng nguồn lực của các cơ quan trong việc thúc đẩy cải cách chính sách và thay đổi thể chế để tạo ra đợc những kết quả tốt hơn. Đây không phải là những câu hỏi dễ trả lời, nhng những nghiên cứu độc lập của các cơ quan phát triển - với sự tham gia của các nhà hoạch định chính sách của các nớc đang phát triển và những nớc hởng thụ dự án - có thể giúp xác định đợc liệu các cơ quan này đang làm một công việc tốt hay không. Môi trờng quốc tế mới Viện trợ nớc ngoài là một hiện tợng nổi lên sau Viện trợ đị giảm sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngay từ khi bắt đầu, nó đã có khi lên tới đỉnh điểm hai mục tiêu tồn tại song song, nhng thực chất lại mâu vào năm 1991 thuẫn với nhau. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trởng dài hạn và giảm nghèo ở những nớc đang phát triển; động Hình 1: Dòng tài chí nh cơ chính của các nhà tài trợ là kết hợp giữa tinh thần vị tha đổ vào các nớc đang và mối quan tâm mang tính cá nhân hơn là xét về lâu dài phát triển an ninh kinh tế chính trị của họ sẽ có lợi khi các nớc nghèo tăng trởng. Mục tiêu thứ hai là tăng cờng lợi ích Tỷ đôla năm 1995 chiến lợc và chính trị ngắn hạn của các nớc tài trợ. Viện trợ đợc dành cho những chế độ là đồng minh chính trị của Vốn t các cờng quốc phơng Tây lớn. Vì vậy, các mục tiêu nhân chiến lợc và mục tiêu phát triển có ẩn chứa mâu thuẫn nhng không nhất thiết phải thể hiện ra. Hãy xem xét Tài chí nh phát trờng hợp của Bôlivia và Daia. Cả hai nớc này đều nhận triển chí nh thức viện trợ của Mỹ, một phần vì những lý do chiến lợc, tuy Viện trợ phát nhiên kết quả lại rất khác nhau. Bôlivia sử dụng các nguồn triển chí nh thức lực tơng đối có hiệu quả sau các cuộc cải cách vào giữa những năm 1980 và thập kỷ vừa qua đã ổn định và bớc đầu đã thành công. Daia trớc đây thì ngợc lại, khó có thể nhận ra đợc một lợi ích nào trong những năm qua khi họ là nớc nhận viện trợ chủ yếu. Nguồn: Tài chính phát triển Trong những năm 1970 và 1980, viện trợ nớc ngoài từ toàn cầu 1998 các nớc thuộc OECD tăng liên tục (hình 1)2. Năm 1991, viện trợ phát triển chính thức đã đạt tới con số đỉnh điểm là 69 tỷ đôla (theo giá năm 1995, xem khung 1 và 2). Tuy nhiên, vào những năm 1990, có ba sự kiện đã làm giảm tầm quan trọng tuyệt đối và tơng đối của viện trợ nớc ngoài: các vấn đề về ngân sách ở các nớc OECD, chiến tranh lạnh kết thúc và nguồn vốn t nhân đổ vào các nớc đang phát triển tăng mạnh. 8
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan Trong những năm gần đây, các nớc OECD đang phải đấu tranh để kiểm soát việc thâm hụt ngân sách và kiềm chế việc gia tăng trong chi tiêu của chính phủ. Mặc dù viện trợ cho nớc ngoài chiếm một phần rất nhỏ của ngân sách, nhng nó là một trong những hạng mục đầu tiên phải cắt giảm. Trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1997, tất cả các nhà tài trợ lớn đều giảm tỷ lệ viện trợ trong GNP của mình (hình 2). Mỹ là nớc giảm viện trợ mạnh nhất, vào năm 1997 viện trợ của nớc này chỉ còn chiếm 0,08% GNP. Thuỵ Điển và các nớc Bắc Âu khác có truyền thống là những nớc hào phóng cũng chỉ đóng góp 1% GNP cho viện trợ. Nhng trong số các nớc lớn thì Pháp là nớc duy nhất đóng góp hơn 0,45%. Tựu chung thì năm 1997 các nớc OECD chỉ đóng góp đợc 0,22% GNP. Việc chiến tranh lạnh kết thúc đã ảnh hởng tới quyết định của một số nớc. Tầm quan trọng chiến lợc của viện trợ đã giảm đi; do đó có nguy cơ mất đi sự hỗ trợ to lớn của chính phủ các nớc tài trợ. Khung 2 Tí nh lợng viện trợ là nhỏ nếu lãi suất quốc tế là 5% và đợc coi là lớn Uỷ ban hỗ trợ phát triển của OECD công bố nếu lãi suất quốc tế là 10%. thông tin về tình hình viện trợ của các thành viên cho các quốc gia đang phát triển - đó là viện trợ Hình khung 2: Tổng viện trợ ODA và Viện cộng với phần giải ngân ròng của các khoản cho trợ Chí nh thức đã điều chỉnh của OECD vay u đãi có tỷ lệ không hoàn lại tối thiểu là 20%. Tỷ đôla năm 1993 Một cách khác để tính viện trợ là bóc tách phần không hoàn lại ra khỏi mỗi khoản vay u đãi rồi Viện trợ cộng với các khoản viện trợ 100% không hoàn lại. phát triển Với cách này, Chang, Fernandez-Arias và Serven chính thức của OECD (1998) đã tính đợc số viện trợ mà 103 quốc gia đã nhận đợc (xem số liệu). Có ba điểm đáng lu ý về số liệu mới này. Thứ Viện trợ chính thức nhất, con số đã điều chỉnh này dờng nh thấp hơn đã điều chỉnh so với cách tính cũ. Thứ hai, hai số liệu này tơng quan chặt chẽ với nhau và đều cho kết quả tơng tự về mặt phân tích kinh tế lợng. Hầu hết viện trợ là dới dạng viện trợ không hoàn lại, do đó cách tính mới này không ảnh hởng nhiều lắm tới cách tính tổng thể. Tác động về mặt kinh tế vĩ mô của viện trợ là nh nhau cho dù sử dụng cách tính lợng viện trợ nào đi chăng nữa (xem chơng 1). Thứ ba, so với cách tính của OECD thì số liệu viện trợ đã điều chỉnh cho thấy viện trợ vào những năm 1990 đã giảm xuống rất nhiều. Lý do là vì lãi suất quốc Nguồn: Chang, Fernando-Arias và Serven 1998 tế trong những năm gần đây thấp, do vậy phần viện trợ trong các khoản vay u đãi cũng nhỏ hơn. Phần viện trợ trong khoản vay với lãi suất 2% đợc coi 9
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan Đã có một thời kỳ vốn t nhân ồ ạt đổ vào các quốc gia Viện trợ giảm xuống đang phát triển. Vào những năm 1970 và 1980 nguồn tài ở khắp mọi nơi chính chính thức - đó là tiền của các nhà tài trợ song phơng và các tổ chức đa phơng - chiếm khoảng một nửa nguồn tài chính mà các nớc phát triển đổ vào các nớc đang phát triển (xem hình 1). Tuy nhiên, do năm 1996 nguồn vốn của t nhân đã tăng lên hơn 250 tỷ đôla nên nguồn tài chính chính thức dành cho các nớc đang phát triển hiện chỉ còn chiếm một phần t tổng nguồn tài chính đổ vào. Hình 2: ODA so với GNP, các nhà tài trợ chí nh, 1991 và 1997 Phần trăm ODA so với GNP Thụy Điển Pháp Canada Đức Nhật Bản Anh Italia Mỹ OECD Nguồn: Các chỉ số phát triển thế giới 1998 Tuy nhiên, dòng vốn t nhân tập trung phần lớn vào rất ít nớc - và một số dòng vốn mang tính chất bất ổn. Thời kỳ đầu t ồ ạt này của t nhân vào cuối những năm 1970 đã giảm xuống khi khủng hoảng nợ bắt đầu xảy ra vào năm 1982. Đợt đầu t vốn lớn tiếp theo xảy ra vào giữa những năm 1990, nhng khủng hoảng tài chính nổ ra ở Đông á vào năm 1997 đã làm cho đầu t nớc ngoài giảm mạnh. Lợng tiền của t nhân đổ vào các nớc đang phát triển từ năm 1996 đến 1997 đã giảm 80 tỷ đôla. Trong bất cứ trờng hợp nào, dòng vốn t nhân sẽ tiếp tục đổ vào một số ít nớc (chủ yếu là) có thu nhập trung bình. Năm 1996, 26 nớc nhận đợc 95% đầu t t nhân; số còn lại cho 140 nớc đang phát triển khác. Đối với một quốc gia có thu nhập thấp điển hình, viện trợ vẫn là nguồn tài chính chủ yếu của nớc ngoài, chiếm tới 7-8% GNP. Các thành tựu phát triển vào những năm 1990 đã làm thay đổi mạnh môi trờng cho viện trợ nớc ngoài. Chiến 10
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan tranh lạnh chấm dứt đã mở ra những khả năng mới: viện trợ sẽ không còn bị hạn chế bởi các mục tiêu chiến lợc, do đó nó sẽ có khả năng đạt hiệu quả hơn nhằm đáp ứng mục tiêu cơ bản là tăng trởng dài hạn và giảm nghèo.3 Tuy nhiên, với tình hình ngân sách eo hẹp và dòng vốn t nhân gia tăng các nhà tài trợ rõ ràng đang cân nhắc lại tầm quan trọng và giá trị của viện trợ nớc ngoài. T duy mới về chiến lợc phát triển Viện trợ nớc ngoài, một trong nhiều cách để thúc đẩy sự Nếu tất cả các khoản phát triển, cần phải phù hợp với một chiến lợc tổng thể rộng lớn. viện trợ cho Dămbia Trớc đây điều kiện chính trị và niềm tin vào chiến lợc phát đợc đa vào đầu t triển trong nớc và quốc tế đã quyết định cơ cấu của các tổ chức, một cách hiệu quả thì các công cụ và việc thực hiện hoạt động viện trợ. Nhng những ngày nay nớc này đị niềm tin này đang thay đổi nhanh và ngày càng mạnh mẽ. trở nên giàu có. ở thời kỳ đầu của viện trợ phát triển, chính phủ đợc coi là tác nhân tích cực cho sự thay đổi. Ngời ta nghĩ rằng tại các nớc đang phát triển, thị trờng không tồn tại và không có khả năng phát triển. Thị trờng quốc tế bị lũng đoạn do sự cấu kết với chủ nghĩa thực dân, cũng nh do sự sụp đổ của thị trờng hàng hoá và tín dụng trong thời kỳ Đại suy thoái vào những năm 1930. ở nhiều nớc đang phát triển, làn sóng độc lập đầu tiên đã tạo ra t tởng lạc quan về những chính phủ mới, coi đó là những tác nhân cho sự thay đổi về chính trị, xã hội và kinh tế. Việc chính phủ này viện trợ cho chính phủ khác đã có một lý do hợp lý, coi đó là cách tốt nhất để thúc đẩy sự phát triển. Các nhà kinh tế phát triển không chỉ tin rằng các nớc Hình 3: Khoảng cách giữa nghèo bị kìm hãm chủ yếu bởi thiếu nguồn nhân lực và vật mô hình và thực tế ở lực (điều này đã và vẫn đúng) mà còn tin rằng nghèo khổ Dămbia, 1961-94 trong n ớc và các khiếm khuyết của thị tr ờng quốc tế đã Nghìn đôla Mỹ năm 1995 không cho các nớc đang phát triển đợc tiếp cận với các Thu nhập tính theo đầu 4 ngời mà Dămbia lẽ ra đã nguồn vốn đầu t cần thiết để phát triển kinh tế. Việc tính đạt đợc nếu tất cả viện trợ đều đợc đa vào đầu t toán “yêu cầu” về nguồn tài chính cho đầu t hoặc ngoại và nếu đầu t là để phục vụ mục đích tăng trởng theo hối (hoặc cả hai) để phục vụ cho mục đích tăng trởng của mô hình hai khoản thâm các quốc gia - và so sánh những yêu cầu này với cái hiện hụt có - đã nhấn mạnh tới quy mô thiếu hụt cần bù đắp. Cách ứng phó mang tính tự phát là lấp chỗ trống bằng viện trợ nớc ngoài thông qua việc chuyển nhợng số ngoại hối có thể đầu t. Nếu vấn đề chỉ là tiền thì việc “làm cho đồng tiền chuyển động” là một mục tiêu thích hợp của viện trợ Thu nhập tính theo đầu ngời và các cơ quan viện trợ thì lúc đó sự đóng góp của viện trợ của Dămbia có thể tính bằng đôla. 11
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao Nguồn: Easterly 1997 Thật đáng buồn, thời gian đã tác động tiêu cực tới t tởng lạc quan tốt đẹp về các chiến lợc phát triển dựa vào nguồn tài trợ mang tính tích luỹ do chính phủ khởi xớng. Giả sử viện trợ phát triển chỉ cung cấp tài chính cho đầu t và đầu t thực sự đóng vai trò quan trọng nh các mô hình trớc đã dự đoán, thì trong trờng hợp này viện trợ dành cho Dămbia lẽ ra phải là nguồn tài chính tạo ra sự tăng trởng nhanh, đẩy thu nhập bình quân đầu ngời lên trên 20.000 đôla, trong khi trên thực tế thu nhập đầu ngời vẫn dừng ở mức khoảng 600 đôla (hình 3). Hai mơi năm qua đã chứng kiến sự sụp đổ của các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sự trì trệ của các mô hình thay thế nhập khẩu hàng đầu của những năm 1970 (Mêhicô và Braxin) và thất bại kinh tế xảy ra trên phạm vi rộng khắp (nếu không nói là sự tan rã hoàn toàn) của châu Phi sau khi giành đợc độc lập, châu lục này đã theo đuổi chiến lợc do nhà nớc khởi xớng5. Hai mơi năm qua cũng đã đợc chứng kiến cảnh mức thu nhập và xuất khẩu của các nền kinh tế Đông á tăng ngoạn mục - trớc tiên là Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Hồng Công (hiện đã đợc trả về cho Trung Quốc) và Xingapo, sau đó là Thái Lan, Malaixia, Inđônêsia và sau hàng loạt các cuộc cải cách quan trọng là Trung Quốc; việc Chilê nổi lên nh một nền kinh tế Mỹ Latinh năng động nhất và sự phục hồi gần đây của các quốc gia khác; và những thành công gặt hái đợc ở châu Phi, nh Bốtxoana và Môrixơ. Thực tế cho thấy hoàn toàn có thể phát triển nhanh, nhng phải dựa vào thị trờng và vào một nhà nớc hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ chứ không phải thống trị nền kinh tế. Bởi vậy, có ba giai đoạn nhìn nhận sự phát triển khác Một chơng trình nghị nhau. ở giai đoạn đầu, khiếm khuyến thị trờng đợc xem sự rộng lớn hơn ra đời nh xảy ra trên quy mô toàn diện và phổ biến, còn chính cùng với chiến lợc phủ thì đợc coi là giải pháp duy nhất để chữa tất cả những mới căn bệnh này. ở giai đoạn thứ hai tơng đối ngắn này thì thất bại của chính phủ đợc coi là hiện tợng phổ biến và toàn diện, còn thị trờng nếu không phải là giải pháp thì cũng là hy vọng duy nhất. Quan điểm thứ ba nh hiện nay - mang tính thực dụng nhng không thoả mãn về mặt lý luận - là ở chỗ cả thị trờng và chính phủ đều gặp phải những thất bại lớn nhng thờng không mang tính toàn diện. Điều này ý muốn nhấn mạnh rằng chính phủ nên chú trọng vào những lĩnh vực mà các vấn đề trở nên trầm trọng nhất khi thiếu sự can thiệp, nhng chính phủ phải có đủ năng lực để cải thiện tình hình. “Chúng ta cần công nhận 12
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan cả hạn chế và u thế của thị trờng, cũng nh bất lợi và thuận lợi của việc chính phủ can thiệp nhằm sửa chữa các khiếm khuyết của thị trờng” (Stiglitz, 1989, tr. 202). Chiến lợc phát triển nổi lên từ quan điểm này là chiến lợc hai mục tiêu - thực thi các chính sách định hớng thị trờng, thúc đẩy tăng trởng (môi trờng kinh tế vĩ mô ổn định, luật pháp hiệu quả, tự do hoá thơng mại, v.v ) và bảo đảm việc cung cấp các dịch vụ công cộng quan trọng mà thị trờng t nhân không thể cung cấp một cách chu đáo và công bằng. Các nớc đang phát triển có các cơ quan nhà nớc chất lợng cao và các chính sách phù hợp đã tăng trởng nhanh hơn nhiều so với những nớc không có những yếu tố đó -thu nhập tính theo đầu ngời tăng 2,7% so với mức -0,5% (khung 3). Nói một cách đơn giản, những thất bại trong hoạch định chính sách, xây dựng thể chế và cung cấp các dịch vụ công cộng đã trở thành rào cản đối với phát triển còn trầm trọng hơn so với việc thiếu vốn. Cùng với chiến lợc mới, một chơng trình nghị sự rộng lớn hơn cũng đã ra đời. Phát triển trớc đây tập trung vào việc tăng thu nhập đầu ngời. Nhng trên thực tế, các quốc gia đang phát triển lại quan tâm tới những cải thiện rộng hơn về mặt chất lợng cuộc sống - thu nhập cao hơn, đúng vậy, nhng đồng thời cũng phải giảm nghèo, tăng cờng sức khoẻ, nâng cao trình độ văn hoá và phát triển bền vững môi trờng. Chơng trình nghị sự mới đợc thể hiện trong những mục tiêu do cộng đồng các nhà tài trợ đề ra, có tham khảo ý kiến của đối tác là các quốc gia đang phát triển: Tới năm 2015 giảm một nửa số ngời sống trong tình trạng nghèo khổ cùng cực. Tới năm 2015 phổ cập giáo dục tiểu học ở tất cả các quốc gia. Tới năm 2005 đạt tiến bộ trong vấn đề bình đẳng về giới và quyền lực của phụ nữ bằng cách xoá bỏ sự chênh lệch về giới trong giáo dục tiểu học và trung học. Tới năm 2015 giảm hai phần ba tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dới 5 tuổi và ba phần t tỷ lệ tử vong khi sinh nở. Trớc năm 2015, thông qua hệ thống chăm sóc sức khoẻ ban đầu để tạo điều kiện cho tất cả phụ nữ và chị em đang trong độ tuổi sinh đẻ đợc tiếp cận ở mức tối đa với các dịch vụ y tế liên quan đến vấn đề sinh nở. Tới năm 2005 thực hiện các chiến lợc quốc gia về phát triển bền vững ở tất cả các nớc nhằm bảo đảm nguồn lực môi trờng đã bị mất đi đợc tái tạo ở từng 13
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao quốc gia và trên toàn cầu cho tới năm 2015. Khung 3 Định nghĩa về cơ chế quản lý tốt: Chỉ số về chính sách kinh tế sử dụng trong hình chí nh sách và thể chế khung 3 đã kết hợp ba yếu tố nêu trong các nghiên cứu thực tiễn để phản ánh tình hình tăng tr ởng của Quản lý tốt bao gồm các thể chế và chính sách các nớc đang phát triển: lạm phát, thặng d ngân dẫn tới sự phát triển nhanh và giảm đợc nghèo sách, và mở cửa thơng mại, nh Sachs và Warner đã khổ ở một đất nớc nào đó. Các nớc đang phát tính đợc (1995). Một nớc với các chính sách triển rút ra đợc những chính sách tốt và không không phù hợp sẽ có tỷ lệ lạm phát cao, mất cân đối tốt từ chính kinh nghiệm của họ và họ học hỏi lẫn ngân sách lớn và chế độ thơng mại đóng (Nicaragoa nhau. Việc quản lý tốt khó nhng không phải là vào những năm 1980 chẳng hạn). Một ví dụ về quốc không thể đo lờng đợc bằng cách sử dụng một gia có chính sách kinh tế phù hợp là Uganđa vào số chỉ số thay thế. giữa những năm 1990. Hình khung 3: Các thể chế, chí nh sách và Việc đo lờng chất lợng thể chế bao gồm một tăng trởng đánh giá về sức mạnh của hệ thống pháp quyền, chất Tỷ lệ tăng trởng hàng năm so với GDP thực tế tí nh lợng của bộ máy hành chính Nhà nớc và mức độ theo đầu ngời phổ biến của tham nhũng. Nh khủng hoảng 1997- 1998 cho thấy, Inđônêsia là nớc có chất lợng thể chế kém. Bốtxoana là một ví dụ khác có chất lợng thể chế cao. Khi các nhà tài trợ có nhiều nỗ lực để hỗ trợ cho cơ chế quản lý tốt, họ thờng muốn mở rộng cách tính này chứ không hạn chế ở các chỉ số về thể chế và kinh tế vĩ mô nh đã trình bày ở đây. Ví dụ, những nỗ lực nhằm cải thiện hệ thống giáo dục và y tế là rất quan trọng để thúc đẩy thành công.Và sự hỗ trợ từ phía chính phủ cho việc mở rộng và nghiên cứu nông nghiệp và cho các nỗ lực đoàn kết cộng Cao đồng có một đóng góp quan trọng cho thành công Cao của Đông á (Ishikawa 1960, 1978). Điểm chung ở Thấp Thấp đây là định nghĩa về “quản lý tốt” đợc đúc kết từ những kinh nghiệm thực tiễn của các nớc đang phát Chính sách kinh tế Chất lợng thể chế triển. Nguồn: Burnside và Dollar 1998. Những mục tiêu này đợc chi tiết hoá trong báo cáo Kiến tạo thế kỷ XXI: Vai trò của hợp tác phát triển của Uỷ ban hợp tác phát triển (khung 4). Tất cả điều này muốn nói tới một vai trò khác của viện trợ. Viện trợ phát triển chú trọng chủ yếu vào việc hỗ trợ cho các thể chế và các chính sách phù hợp chứ không phải để cấp vốn. Dĩ nhiên tiền cũng là một vấn đề quan trọng nhng viện trợ hiệu quả phải mang lại cả tài chính lẫn ý tởng - và một trong những điều cốt lõi là tìm ra đợc sự kết hợp đúng đắn cho cả hai nhằm giải quyết những tình huống và vấn đề khác nhau. 14
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan Khung 4 Chức năng của Uỷ ban hỗ trợ phát Trong thập kỷ rỡi qua, DAC đã hệ thống hoá triển và xuất bản một bộ hoàn chỉnh về Các nguyên tắc để viện trợ có hiệu quả. Những h ớng dẫn và ví dụ Từ khi thành lập năm 1960, Uỷ ban hỗ trợ phát tốt nhất này đề cập những định hớng chính sách triển (DAC) của OECD đã hoạt động với t cách là chủ yếu và các vấn đề vận hành trong những lĩnh một cơ quan chính yếu của các nhà tài trợ song vực chính của quản lý viện trợ nh vấn đề điều phối, phơng lớn có chức năng đề ra chính sách, chiến hỗ trợ dự án, hỗ trợ chơng trình, hỗ trợ kỹ thuật, lợc và đánh giá kết quả thực hiện. mua sắm và đánh giá - cũng nh các khía cạnh cơ Các chơng trình viện trợ song phơng không bản của phát triển nh sự tham gia và điều hành tốt, đợc xem xét và thực hiện trong một môi trờng phi môi trờng và sự bình đẳng về giới. chính trị. Đúng vậy, chúng phải chịu áp lực đáng kể Nhóm Đánh giá viện trợ hiện tại của DAC đã từ phía các nhóm có quyền lợi chính trị và thơng tập hợp đợc những ngời đứng đầu của các bộ mại khác nhau tại các nớc tài trợ. Và các cơ quan phận đánh giá trong các cơ quan phát triển song tài trợ song phơng có thể phải tuân theo những loại phơng và đa phơng để xem xét về năng lực động lực lấy giải ngân làm mục tiêu nh các ngân đánh giá ở các nớc đang phát triển. hàng phát triển đa phơng đã làm, khuyến khích nhân viên của mình chú trọng tới khối lợng phê ở cấp độ chiến lợc, năm 1996 DAC đã cho duyệt chứ không phải tới kết quả của chơng trình. ra đời bản báo cáo, Kiến tạo thế kỷ XXI: Vai trò Sự quan tâm của các cơ quan này vào việc giơng của hợp tác phát triển, xây dựng cơ sở cho sự hợp cao lá quốc kỳ của mình ở những dự án phát triển tác, chủ yếu để đạt bớc tiến cho sự phát triển: về cũng có thể nhiều hơn so với việc phối hợp những nỗ phía các quốc gia đang phát triển là sự cam kết lực để cải thiện khu vực tập thể mà sáng kiến của các mạnh mẽ cho một môi trờng chính sách hiệu quả nhà tài trợ đã đề xuất. và các u tiên phát triển chủ yếu nhằm mục đích DAC là diễn đàn nơi các nhà tài trợ lớn ngồi với cho tăng trởng u tiên ngời nghèo; còn về phía nhau bàn bạc để giữ cho các chơng trình của họ đi các nhà tài trợ là việc tăng cờng sự hỗ trợ về mặt đúng mục tiêu phát triển, nhằm tăng cờng sự hợp tài chính cho những chính sách liên quan tới vấn tác và đánh giá mức hiệu quả của viện trợ. Cứ ba đề chơng trình và mức ngân sách đồng thời nhấn năm thì đến lợt một thành viên của DAC đợc các mạnh tới yếu tố tham gia và xây dựng năng lực thành viên khác trong Uỷ ban xem xét lại chính sách (tạo điều kiện cho chuyển giao “kiến thức và ý và kết quả thực hiện viện trợ của mình, trên cơ sở tởng”) những nghiên cứu do nhân viên của OECD thực hiện Nguồn: Thông tin do nhân viên DAC cung cấp. và hai “thanh tra viên” đặc biệt đợc bổ nhiệm từ Uỷ ban làm trởng nhóm. Từ năm 1994, các Đánh giá hợp tác phát triển này, kể cả các kết luận của DAC đã đợc công bố. Tiền cũng quan trọng - trong một môi trờng chí nh sách tốt Bởi vậy, với t duy mới về phát triển thì điều gì là quan Viện trợ có tác động trọng đối với tăng trởng dài hạn? Môi trờng kinh tế vĩ mô lớn hơn khi các quốc ổn định, chế độ thơng mại mở cửa và quyền sở hữu đợc gia có cơ chế quản bảo hộ, cũng nh bộ máy hành chính công hiệu quả có thể lý tốt. đảm đơng việc cung cấp các dịch vụ nh giáo dục, y tế và các dịch vụ khác. Khi các nớc đang phát triển có cơ chế quản lý tốt thì hỗ trợ tài chính sẽ có tác động lớn tới tăng trởng và vấn đề giảm nghèo, cải thiện các chỉ số xã hội sao cho chúng vợt lên trên mức mà việc quản lý tốt tự nó có thể tạo ra. Công bằng mà nói, viện trợ ít tác động tới sự phát triển của những quốc gia có trình độ quản lý tồi. Viện trợ chỉ 15
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao có tác động lâu dài trong môi trờng lành mạnh cho đầu t hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực. Bằng chứng có thể Hình 4: Tăng trởng GDP lấy từ ba nguồn - các nghiên cứu liên quốc gia, nghiên cứu tí nh theo đầu ngời ở thành công và thất bại của các dự án đầu t do Ngân hàng các quốc gia có thu nhập Thế giới tài trợ và các nghiên cứu tình huống về mức hiệu thấp nhng có cơ chế quả của viện trợ. quản lý kinh tế tốt Rất ít nghiên cứu liên quốc gia chứng minh đợc rằng Tỷ lệ tăng trởng hàng năm viện trợ có tác động mạnh mẽ tới tăng trởng. Tuy nhiên, tình hình sẽ đổi khác, nếu các quốc gia đợc chia theo trình độ quản lý. Nói chung, viện trợ có tác động lớn trong những môi trờng quản lý tốt: 1% GDP viện trợ dẫn đến mức tăng trởng bền vững tơng đơng với 0,5% GDP. Một số nớc có cơ chế quản lý tốt chỉ nhận đợc khoản viện trợ nhỏ nhng đã đạt tốc độ tăng trởng ở mức 2,2% tính theo đầu ngời. Tuy nhiên, với những nớc vừa quản lý tốt vừa có nhiều viện trợ thì tốc độ tăng trởng còn nhanh hơn nhiều - 3,7% tính theo đầu ngời (hình 4). Đối với những nớc có cơ chế quản lý tồi thì không có sự khác biệt nh vậy. Nớc nhận ít viện trợ cũng nh nớc nhận nhiều viện trợ đều tăng Viện trợ nhiều Viện trợ ít trởng một cách chậm chạp (nếu có tăng một chút). Sử dụng Nguồn: Burnside và Dollar những biến số khác không làm thay đổi tình hình. 1998. Tác động của viện trợ không chỉ dừng ở sự tăng trởng. ở quốc gia có cơ chế quản lý tốt, 1% GDP viện trợ sẽ làm giảm 1% nghèo khổ. Viện trợ có tác động tơng tự đối với tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, nhng phải có cơ chế quản lý hiệu quả. Bài học cuối cùng rút ra từ những nghiên cứu liên quốc gia là với cơ chế quản lý tốt, viện trợ sẽ phát huy tác dụng cùng với nguồn vốn của t nhân. Cụ thể là 1% GDP viện trợ sẽ tạo thêm 1,9% GDP đầu t t nhân. Nói cách khác, viện trợ cho những nớc có cơ chế quản lý tốt sẽ củng cố niềm tin của khu vực t nhân và góp phần hỗ trợ cho các dịch vụ công cộng quan trọng. Không cần phải đề cập nhng ở những nớc quản lý tồi, viện trợ sẽ loại trừ đầu t t nhân. Còn có nhiều bằng chứng hơn nữa về mối quan hệ giữa viện trợ, quản lý và phát triển đợc lấy từ các nghiên cứu về thành công và thất bại của các dự án đầu t công cộng do Ngân hàng Thế giới tài trợ - chẳng hạn, về đờng sá, điện và giáo dục. Tại các quốc gia có sự quản lý kinh tế vĩ mô tốt và các thể chế nhà nớc hiệu quả, 86% các dự án là thành công với tỷ lệ hoàn vốn cao hơn nhiều. Tại những quốc gia có hệ thống chính sách và thể chế yếu kém, con số tơng ứng chỉ đạt có 48% (hình 5). Nghiên cứu tình huống về hiệu quả của viện trợ đã đa ra những kết luận tơng tự. Lần nữa, hãy xem xét một số so 16
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan sánh trớc đây: vai trò quan trọng của viện trợ đối với Bôlivia sau cải cách, đợc so với tình trạng viện trợ phi hiệu quả tràn lan ở Nicaragoa, chính sách của nớc này suốt những năm 1980 đều kém hiệu quả; hoặc viện trợ với hiệu quả cao cho Bốtxoana (một trong những quốc gia có chính sách và thể chế tốt nhất) so với nhiều thất bại ở Tandania. Hình 5: Kết quả thực hiện dự án theo môi trờng chí nh sách Với các chí nh sách và thể chế và thể chế tốt hơn Các dự án đạt yêu cầu các dự án cũng đợc (phần trăm so với tổng số) thực hiện tốt hơn. Cao Thấp Cao Chính sách kinh tế Thấp Chất lợng thể chế Nguồn: Ngân hàng Thế giới 1997a. Mặc dù việc minh hoạ để rút ra đợc một sự khác biệt cơ bản giữa quản lý kinh tế tốt và quản lý tồi là cần thiết nhng các chế độ chính sách trên thực tế nằm ở giữa hai thái cực này. Nhiều nớc đang phát triển rơi vào vùng xám giữa quản lý tốt và quản lý tồi. Từ những phát hiện này, nhận xét chính rút ra không phải là tài chính chỉ nên đổ vào những nớc đợc quản lý tốt mà chúng tôi đề xuất viện trợ nên đợc phân bổ trên cơ sở mức độ nghèo khổ và cơ chế quản lý kinh tế. Đối với các quốc gia có mức nghèo khổ nh nhau nhng chế độ chính sách khác nhau thì tài chính nên phân bổ nhiều hơn cho các quốc gia có cơ chế quản lý tốt. Việc phân bổ nguồn viện trợ trên thực tế thờng chịu tác động bởi quyền lợi chiến lợc của các nhà tài trợ. Mặc dù hành vi tài trợ khác nhau, nhng toàn bộ số viện trợ song phơng đều có xu hớng đổ vào các nớc thuộc địa 17
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao trớc đây và các đồng minh chính trị nhiều hơn so với các nền kinh tế mở hay dân chủ. Một quốc gia phi dân chủ nhng trớc đây là thuộc địa nhận đợc viện trợ gấp khoảng hai lần so với một quốc gia dân chủ nhng không phải là thuộc địa và cũng đúng nh vậy đối với một quốc gia đóng cửa trớc kia là thuộc địa so với một quốc gia mở cửa nhng không phải là thuộc địa (hình 6). Kết quả là phần lớn viện trợ song phơng đều đổ vào những nớc có cơ chế quản lý tồi. Đúng vậy, các quốc gia quản lý tồi nhận đợc khoản viện trợ song phơng gần bằng với các quốc gia quản lý tốt (khi đối chứng thu nhập tính theo đầu ngời và dân số). Tổng hợp các dòng viện trợ của các nhà tài trợ lại với Việc trớc đây là nhau sẽ làm lu mờ tiêu chí phân bổ viện trợ. ở các nớc thuộc địa sẽ thu hút Bắc Âu, các biến số mang tính chiến lợc - nh việc trớc đợc nhiều viện trợ kia là thuộc địa hay chế độ biểu quyết của Liên hợp quốc - hơn so với việc có hầu nh chẳng đóng vai trò gì trong việc phân bổ. Viện trợ chí nh sách hợp lý. của các nớc Bắc Âu nhằm vào các quốc gia nghèo nhất, u tiên các nền kinh tế mở và dân chủ. Viện trợ đa phơng Hình 6: Viện trợ song đã hớng đúng hơn so với viện trợ song phơng cho các phơng và quan hệ quốc gia có cơ chế quản lý tốt, mặc dù vẫn cần cải thiện thuộc địa nhiều. Nói chung, khi đợc đa vào các nớc nghèo nhng Đôla theo đầu ngời quản lý tốt thì viện trợ thúc đẩy tăng trởng và giảm nghèo hiệu quả hơn. Viện trợ thêm 10 tỷ đôla nữa sẽ cứu giúp cho 25 triệu ngời thoát khỏi cảnh nghèo khổ hàng năm - nếu viện trợ này là cho các quốc gia có cơ chế quản lý tốt. Nếu trái lại, cho dù viện trợ ở tất cả các lĩnh vực tăng lên cũng Trớc đây là chỉ cứu đ ợc 7 triệu ng ời thoát khỏi nghèo khổ. thuộc địa Trớc đây không Kém dân phải là thuộc địa chủ hơn Dân chủ Có hai lý do để hy vọng rằng viện trợ nớc ngoài trong hơn tơng lai có thể đợc phân bổ hiệu quả hơn. Thứ nhất, chiến tranh lạnh kết thúc, áp lực phải viện trợ cho các đồng minh chiến lợc không còn lớn nh trớc nữa. Vào đầu những năm 1990, viện trợ đã giảm một cách khủng khiếp ở một vài nền kinh tế có chính sách bị bóp méo nghiêm trọng (nh Mianma, Nigiêria, Daia). Thứ hai, xu hớng cải cách kinh tế Trớc đây là đã lan rộng trên phạm vi toàn thế giới ở các quốc gia đang thuộc địa Trớc đây không Đóng cửa phải là thuộc địa phát triển. Do vậy, ngày càng nhiều nớc nghèo ban hành Mở cửa những chính sách tơng đối tốt. Êtiôpia, ấn Độ, Uganđa và Nguồn: Alesina và Dollar 1998 Việt Nam chẳng hạn, có số dân lớn và nhiều ngời nghèo, nhng trong những năm qua đã có rất nhiều nỗ lực cải cách kinh tế. Viện trợ nhằm vào những nớc cải cách có thu nhập thấp này có thể có tác động lớn tới tăng trởng và giảm nghèo. Vì vậy nên phần lớn tài chính không thể đợc sử dụng hiệu quả nếu các nớc cha tiến hành cải cách. Trong những môi trờng đã bị bóp méo nghiêm trọng, các nhà tài trợ cần 18
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan tìm ra những công cụ khác để hỗ trợ cho sự phát triển. Viện trợ có thể làm bà đỡ cho các chí nh sách tốt Ngoài việc cung cấp tiền, viện trợ nớc ngoài cần phải Cải cách chí nh thúc đẩy các chính sách phù hợp và giúp phát triển các thể sách phụ thuộc phần chế. Các tài liệu gần đây cho thấy cải cách chính sách nếu lớn vào các yếu tố không khó khăn về mặt kỹ thuật (ổn định hoá và tự do hoá chí nh trị và xị hội ở thơng mại) có thể tăng thêm 2-3% cho tăng trởng ở các trong nớc. nớc đang phát triển. Do mức tăng trởng bình quân của những nớc này chỉ đạt 1% tính theo đầu ngời nên đây sẽ là một sự cải thiện lớn. Mục tiêu của phần lớn viện trợ phát triển là đẩy nhanh cải cách chính sách và kết quả thu đợc có cả thành công lẫn thất bại. Những cải cách nh vậy phụ thuộc phần nhiều vào các yếu tố chính và xã hội trong nớc, mà những yếu tố này ngời bên ngoài khó mà tác động. Nhng ở những nơi nào viện trợ phát triển dành cho những nớc có chính sách bị bóp méo nghiêm trọng thúc đẩy đợc cải cách chính sách thì khía cạnh phi tài chính của viện trợ thờng là yếu tố quan trọng. Do đó, các nhà tài trợ có thể đi đầu trong việc thúc đẩy cải cách chính sách trong những môi trờng khó khăn mà không mâu thuẫn với khuyến nghị đầu tiên: cấp nhiều tiền hơn cho những nớc thực hiện cải cách chính sách hiệu quả. Trong những môi trờng chính sách nghèo nàn, ý tởng quan trọng hơn tiền. Khó có thể đo lờng đợc một số cách thức thúc đẩy quan trọng nhất của viện trợ nớc ngoài đối với cải cách chính sách. Vào những năm 1990, trên khắp thế giới diễn ra xu thế tự do hoá kinh tế và việc tuyên truyền về những ý tởng chính sách tốt của các cơ quan phát triển chắc chắn đã phát huy tác dụng. Các nhà tài trợ và các tổ chức cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo các nhà hoạch định chính sách ở nớc ngoài. Nhóm cựu sinh viên ở Berkeley, tác giả của hàng loạt các chính sách cải cách ở Inđônêsia vào những năm 1970, là một ví dụ đợc nhắc đến nhiều lần. Nhiều cuộc cải cách đầy ấn tợng ở Mỹ Latinh vào những năm 1980 và 1990 đợc khởi xớng bởi các chính trị gia và các quan chức đã đợc đào tạo lên trình độ cao. Một phần nguồn tài chính của hoạt động đào tạo này đợc lấy từ viện trợ. Một số nỗ lực chỉ có thể có tác dụng trong dài hạn. Vào đầu những năm 1990, chẳng hạn, Ngân hàng Thế giới đã phát động chiến dịch giáo dục quần chúng ở Ucraina nhằm khuấy động cuộc tranh luận về cải cách kinh tế trong xã hội dân sự. Ucraina phải có đợc những chính sách thực sự hợp 19
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao lý nhng sự hỗ trợ cho giáo dục quảng đại cũng có thể không đạt đợc thành công lớn. Khó có thể xác định đợc một cách chính xác ảnh hởng của việc truyền bá kiến thức, giáo dục các quan chức và khuyến khích tranh luận trong công chúng. Tuy nhiên, các nghiên cứu tình huống cho thấy chúng đều đóng vai trò quan trọng để có đợc một chơng trình cải cách thành công. Một cách thúc đẩy cải cách chính sách nhanh hơn thông qua viện trợ là đặt điều kiện tài trợ, bắt buộc áp dụng một số chính sách nhất định -phơng pháp tiếp cận mà Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới đã áp dụng khá lâu. Các kết quả cha bao giờ đồng nhất với nhau. Trong nhiều trờng hợp, các biện pháp chính sách đã không đợc tiến hành, tuy nhiên, vốn vay vẫn đợc giải ngân. Khoảng một phần ba khoản vay điều chỉnh của Ngân hàng Thế giới đã không đạt đợc mục tiêu cải cách đó: “cải cách chính sách hiếm khi thành công trừ khi chính phủ thực sự bị thuyết phục rằng cần phải cải cách và coi chơng trình cải cách là của chính bản thân mình” (Ngân hàng Thế giới 1997a, tr.37). Mặc dù những năm 1990 đã có những biến chuyển về mặt kết quả, nhng vẫn cần tiếp tục đạt nhiều tiến bộ hơn nữa - kết hợp bài học kinh nghiệm vừa qua của Đông á. Một nghiên cứu gần đây phát hiện ra rằng thành công Các chí nh phủ mới (hay thất bại) của những khoản cho vay điều chỉnh hầu nh lên nắm quyền hào có thể đoán trớc đợc chủ yếu bằng cách xem xét các đặc hứng cải cách hơn. điểm chính trị và thể chế nổi bật của một quốc gia, kể cả việc liệu lãnh tụ của nớc đó có đợc bầu một cách dân chủ hay Hình 7: Bầu cử, nhiệm không và chính phủ nắm đợc quyền hành trong bao lâu. Đối kỳ, và khả năng cải cách với một chính phủ cải cách mới lên nắm quyền thì khả năng thành công thành công lớn hơn so với chính phủ độc đoán nắm quyền Khả năng thành công (%) hành đã lâu (hình 7). Nói chung, các chính phủ mới, kể cả những chính phủ mới nổi lên sau xung đột, thờng tiến hành cải cách với tỷ lệ thành công cao và là các ứng cử viên xứng đáng đợc hỗ trợ. Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng các biến số thuộc sự kiểm soát của Ngân hàng Thế giới nh số Đợc bầ u lợng các điều kiện hay nguồn lực cho công tác chuẩn bị và giám sát, không có tác động đáng kể tới khả năng thành công hay thất bại của cải cách. ý nghĩa: việc áp đặt điều kiện có thể không mang lại cải Không đợc bầu cách lâu bền nếu trong nớc không có động thái mạnh mẽ cho sự thay đổi. Khi các khu vực cử tri trong nớc cam kết cải cách, các khoản cho vay điều chỉnh và viện trợ nớc ngoài có thể giúp thống nhất các thành tựu về mặt chính Số nă m nắ m quyền sách bằng ba cách. Thứ nhất, cho vay có điều kiện là cách Nguồn: Dollar và Svensson 1998. thức để một chính phủ chủ trơng cải cách có thể công khai 20
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan cam kết thực hiện các biện pháp chính sách. Thứ hai, đa ra điều kiện chính là để phát tín hiệu thông báo cho khu vực t nhân biết rằng chơng trình cải cách là đáng tin cậy và điều này sẽ khuyến khích các nhà đầu t hởng ứng nhanh hơn. Thứ ba, viện trợ thúc đẩy tăng trởng trong một môi trờng chính sách tốt. Bởi vậy, nếu các cải cách thúc đẩy nhanh và cải thiện đợc môi trờng chính sách thì hỗ trợ tài chính sẽ phát huy nhiều tác dụng, đổi lại điều đó sẽ giúp tăng cờng sự hỗ trợ về mặt chính trị đối với cải cách. Đây là kết luận Một đôla viện trợ sẽ rút ra từ đánh giá về tám nớc cải cách thành công trong giai đoạn sau chiến tranh (Sachs 1994). Sachs nhận xét rằng làm cho đầu t công trong tất cả các trờng hợp này các chính phủ đã hoàn toàn cộng tăng đúng cam kết cải cách nhng viện trợ kịp thời của nớc ngoài bằng lợng mà bất đóng vai trò quan trọng. Cái mà viện trợ đã làm đó là "giúp kỳ một đồng đôla các chính phủ có chính sách tốt này tồn tại để có đủ thời nào của ngân sách gian giải quyết vấn đề" (tr. 512). Các nhà tài trợ dần dần đã nhà nớc tạo ra. nhận thức đợc bài học này và thực tế cho thấy họ đã thận trọng hơn khi viện trợ trên cơ sở chính sách: trong giai đoạn 1990-1995, tỷ lệ thành công của các khoản cho vay điều chỉnh của Ngân hàng Thế giới lên tới 76%, so với 67% trớc năm 1990 (Ngân hàng Thế giới, 1997a). Hình 8: Đầu t công cộng Do đó, để hỗ trợ cho cải cách chính sách, việc kết hợp từ một đôla của doanh cung cấp một cách kịp thời các ý tởng và tài chính đóng vai thu từ thuế hay viện trợ trò quan trọng cho sự hỗ trợ hiệu quả. Tại những nớc không phát triển chí nh thức có phong trào cải cách, các nhà tài trợ có thể nuôi dỡng chúng thông qua các công trình nghiên cứu, các hoạt động Mức tăng của đầu t công cộng (cent) đào tạo và hỗ trợ kỹ thuật. Những hỗ trợ phi tài chính đó cũng vẫn rất quan trọng khi phong trào cải cách đã phát triển và các kế hoạch cải cách đợc củng cố. Thời điểm cung cấp tài chính trên quy mô lớn cũng cần phải chính xác. Nếu cung cấp quá sớm thì sự khởi đầu của một chơng trình chặt chẽ có thể bị phá vỡ và nguồn tài chính đó có thể không có tác động mấy tới tăng trởng. Nếu cung cấp quá muộn thì cơ hội sẽ qua đi - lỡ dịp phát huy ảnh hởng của cải cách đối với tăng trởng và giúp củng cố cơ chế chính sách. Trong vấn đề quyết định thời gian, các nhà tài trợ phải theo dõi tiến trình cải cách, cũng nh những điều kiện cơ bản để cải cách thành công (chính phủ mới thắng cử chẳng hạn). Đặt điều kiện ràng buộc cũng cần thiết - để cho phép chính phủ cam Doanh thu từ thuế ODA kết với cải cách và tạo tín hiệu thông báo về mức độ nghiêm Nguồn: Feyzioglu, Swaroop túc của cải cách - nhng để có thể hiệu quả cần phải nhấn và Zhu 1998. mạnh một vài biện pháp thực sự quan trọng. 21
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao Tiền cũng quan trọng - trong một môi trờng thể chế tốt Thành phần và mức độ hiệu quả của chi tiêu công cộng ảnh hởng tới cả tăng trởng lẫn giảm nghèo. Mặc dù việc nhà nớc cung cấp một số dịch vụ là cần thiết nhng trong những dịch vụ khác thì sự tham gia của nhà nớc tốt nhất là ở mức trung lập -sự can thiệp này đôi khi làm méo mó nền kinh tế và làm mất đi sự quan tâm và nguồn lực dành cho các nhiệm vụ cấp bách hơn của khu vực nhà nớc. Mặc dù hầu hết viện trợ nớc ngoài đều dành cho các dự án đầu t cụ thể nhng cái bạn thấy cha chắc là cái bạn nhận đợc. Trong nhiều trờng hợp, nguồn tài chính phát triển mang tính bất phân định. Ví dụ, mặc dù mục tiêu của hầu hết các khoản viện trợ là nhằm trang trải các chi phí đầu t nhng các con số ớc tính cho thấy tác động ròng của một đồng đôla viện trợ sẽ làm cho đầu t công cộng chỉ tăng đợc 29 cent - hoàn toàn bằng với lợng mà bất cứ đồng đôla ngân sách nào cũng tạo ra đợc (hình 8). Tơng tự, một đôla viện trợ đợc sử dụng để tài trợ cho các dự án giáo dục có xu hớng làm tăng chi tiêu của chính phủ ở mọi lĩnh vực, ngang với mức một đôla của chính phủ thu từ bất cứ một nguồn nào. Nếu viện trợ mang tính bất phân định thì tác động của “viện trợ bằng tiền” và “viện trợ bằng ý tởng” cần phải đợc đánh giá một cách riêng biệt. Tính bất phân định có nghĩa là một chính phủ có thể sử dụng các nguồn lực bổ sung tuỳ theo sự lựa chọn của chính phủ đó - để tăng chi tiêu, bù đắp phần thuế giảm, hay giảm thâm hụt ngân sách. Mức độ hiệu quả của tài chính phụ thuộc vào chất lợng của tất cả các đầu t và chi tiêu công cộng, chứ không chỉ đơn giản phụ thuộc vào các khu vực và dự án nhận viện trợ. Phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản lý và đánh giá viện trợ. Các cơ quan thờng lấy tỷ lệ thành công của các dự án đơn lẻ làm thớc đo hiệu quả của họ. Thoạt nhìn, cách này dờng nh tập trung vào vấn đề “chất lợng” nhng có thể dẫn tới những biện pháp khuyến khích méo mó, lệ thuộc vào tiêu chí đánh giá thành công. Vì tiền thờng mang tính bất phân định đợc nên tỷ lệ hoàn vốn của bất kỳ một dự án nhận tài trợ nào cũng không cho thấy tác động thực chất của viện trợ. Hơn thế nữa, nếu các tổ chức đợc đánh giá chủ yếu dựa trên tỷ lệ thành công của các dự án (đợc xác định theo nghĩa hẹp, không tính tới phần lợi ích ngoại hiện) thì các nhà quản lý sẽ tránh né những dự án rủi ro, đổi mới mà chỉ muốn thực hiện cái mà họ đã biết. Tỷ lệ hoàn vốn phụ thuộc vào mức hiệu quả nói 22
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan chung của chi tiêu công cộng. Ngoài ra, còn có một câu hỏi quan trọng là dự án đã đợc thực hiện khác đi nh thế nào khi có và không có sự tài trợ. Một khi tính bất phân định đã đợc công nhận thì việc lựa chọn mức viện trợ và công cụ viện trợ đòi hỏi phải có sự Những quốc gia có hiểu biết về chất lợng quản lý tổng thể đối với khu vực khu vực nhà nớc công. Nhng làm thế nào để đánh giá đợc cơ cấu và mức độ cung cấp các dịch vụ hiệu quả của chi tiêu công cộng? Các chính phủ cần phải cân hiệu quả và chất nhắc trong chi tiêu, luôn luôn lu ý tới tác động ròng của chi lợng cao là những tiêu bổ sung cho tăng trởng và giảm nghèo. Và điều đó phụ ứng cử viên hàng đầu thuộc vào cái mà khu vực t nhân sẽ cung ứng khi không có để đợc nhận khoản nhà nớc. Quá nhiều nớc đang phát triển đã dùng ngân sách viện trợ tài chí nh lớn để chi cho các hoạt động không có tiềm năng tăng trởng và không có tác động tới nghèo khổ: các doanh nghiệp nhà nớc phi hiệu quả và lãng phí, trợ cấp nhiên liệu, điện cho tầng lớp trung lu và hơn thế nữa phần lớn trợ cấp là cho ngời giàu, ví dụ nh trợ cấp tín dụng và giáo dục đại học miễn phí. Thêm vào đó, mức hiệu quả của chi tiêu công cộng cũng không kém phần quan trọng nh cơ cấu của chi tiêu công cộng. Nên đánh giá chính phủ không chỉ ở khía cạnh họ chi tiêu bao nhiêu mà còn ở khía cạnh họ thực hiện đợc bao nhiêu. Những quốc gia có khu vực nhà nớc cung cấp các dịch vụ hiệu quả và chất lợng cao là những ứng cử viên hàng đầu để đợc nhận khoản viện trợ tài chính lớn và một phần nên dới dạng hỗ trợ chung cho ngân sách. Cách tiếp cận này công nhận tính bất phân định là một thực tế và tiết kiệm đợc chi phí phân bổ viện trợ (đối với cả nớc nhận viện trợ và nớc viện trợ). Các nghiên cứu về viện trợ nớc ngoài trong một thời gian dài đã chỉ ra sự phối hợp không tốt giữa các nhà tài trợ và gánh nặng nó gây ra cho các nớc đang phát triển. Tài trợ nhiều hơn nữa theo hình thức hỗ trợ chung cho ngân sách sẽ loại bỏ đợc vấn đề này. Nh đã lu ý, nhiều quốc gia có thu nhập thấp đã rơi vào Các nhà tài trợ nên vùng xám giữa quản lý tốt và quản lý tồi. Vì về mặt kỹ thuật sẵn sàng cắt giảm thì việc tiến hành các cải cách kinh tế vĩ mô và thơng mại tài chí nh dành cho dễ dàng hơn so với việc củng cố các thể chế (chẳng hạn bộ các nớc có khu vực máy công vụ và nhà nớc pháp quyền) nên những nớc này nhà nớc hoạt động thờng có các chính sách kinh tế vĩ mô tơng đối tốt nhng kém hiệu quả triền cung cấp các dịch vụ lại không có hiệu quả. Do vậy, cần miên. phải tăng cờng hỗ trợ hơn nữa cho việc xây dựng chể chế và tiến hành cải cách ở những khu vực khác nhau - nhiều ý tởng hơn, ít tiền đi. Phần tài chính lớn hơn nên đổ vào các dự án có giá trị gia tăng đợc tính bằng mức độ đóng góp của quá trình thiết kế và thực hiện dự án vào việc cải thiện 23
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao kết quả hoạt động của các khu vực đó. Cuối cùng, các nhà tài trợ nên sẵn sàng cắt giảm tài chính dành cho các nớc có khu vực nhà nớc hoạt động kém hiệu quả triền miên. Mặc dù việc ngừng cung cấp tài chính không phải là dễ dàng nhng những nỗ lực để phối hợp với khu vực nhà nớc kém chất lợng có thể sẽ chẳng làm đợc điều gì có giá trị hoặc lâu bền. Viện trợ của các nhà tài trợ trong những trờng hợp này nên hớng vào giảm việc cung cấp tài chính và tăng cờng các hoạt động về lâu dài có thể đặt nền móng cho cải cách thể chế và chính sách – một lần nữa quay trở lại với các ý tởng, với một lợng tài chính vừa đủ để làm cho các ý tởng trở thành hiện thực. Điểm chung ở đây là các môi trờng quốc gia khác nhau đòi hỏi các công cụ hỗ trợ khác nhau. Viện trợ có thể làm bà đỡ cho các thể chế hiệu quả Nhiều dịch vụ công cộng quan trọng - chẳng hạn nh phần lớn cơ sở hạ tầng cơ bản - khó (hoặc không thể) phân bổ thông qua thị trờng. Nhng các đặc tính kinh tế làm cho nhà nớc trở thành ứng cử viên cung cấp các dịch vụ này cũng gây trở ngại khi thiết kế các thể chế và chính sách khuyến khích khu vực nhà nớc hoạt động hiệu quả. Một thách thức lớn đối với vấn đề phát triển từ năm 2000 trở đi là làm cho các chính phủ làm tốt chức năng mà họ đáng phải làm. Viện trợ với thiết kế tốt có thể giúp cho các tổ chức nhà nớc hoạt động hiệu quả và quản lý tốt bằng cách giúp tiến hành thử nghiệm, học hỏi, truyền bá và thực hiện những ý tởng mới trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ. ở nơi nào có nhu cầu cần thay đổi thì viện trợ có thể có đóng góp lớn, thờng là qua các dự án. Nh đã đề cập, yếu tố tài chính của một dự án không nhất thiết gắn liền với một ngành cụ thể bởi vì thu ngân sách của chính phủ mang tính bất phân định. Do vậy, mục tiêu chính của các dự án phải là hỗ trợ cải cách thể chế và chính sách của ngành và chỉ ra phơng hớng mới để đạt đợc kết quả phát triển. Điều kiện về lịch sử, pháp lý, chính trị và kinh tế làm cho mỗi nớc có hoàn cảnh đặc thù - và thờng đòi hỏi phải có những kiến thức mới. Viện trợ có thể giúp các chính phủ rút ra các bài học từ chính bản thân mình, hay từ kinh nghiệm của quốc tế và tạo điều kiện cho việc tiến hành thử nghiệm và quan trọng hơn cả là đánh giá. Các dự án viện trợ có thể hỗ trợ các quốc gia cải thiện hoạt động cho toàn bộ các khu vực kinh tế của mình. 24
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan Đáng tiếc là viện trợ đôi khi lại gây ra một phần rắc rối. Hình 9: Thành công Viện trợ trớc đây hầu nh chỉ dành cho (hoặc chuyển qua) trong các dự án cung chính quyền trung ơng và đã tác động tới cách thức cung cấp nớc ở nông thôn với các mức độ tham gia cấp các dịch vụ công cộng. Mặc dù một số chính quyền địa khác nhau của đối tợng phơng có thể cung cấp các dịch vụ hiệu quả hơn nhng thụ hởng các nớc đang phát triển có xu hớng tập quyền một cách không cần thiết đối với việc cung cấp dịch vụ có đóng góp Các dự án thành công (phần của viện trợ. Kiểu thiết kế và quản lý viện trợ truyền thống trăm so với tổng số) cũng đã hạn chế sự tham gia của cộng đồng địa phơng vào việc thiết kế và thực hiện các dự án phát triển. Những phản ứng trớc đây của nhà tài trợ đối với các thể chế yếu kém thờng không có tác dụng. Do năng lực thực hiện kém và do áp lực phải “làm cho đồng tiền vận động”, các cơ quan viện trợ trong một thời gian dài đã cố gắng “làm kén” cho các dự án của mình khi sử dụng hỗ trợ kỹ thuật một cách biệt lập, các đơn vị thực hiện dự án độc lập và các chuyên gia nớc ngoài - chứ không phải cố gắng cải thiện môi trờng thể chế cho việc cung cấp dịch vụ. Những nỗ lực này trong nhiều trờng hợp đã gặp thất bại thảm hại nh hoặc thậm chí còn hơn cả những nỗ lực tác Mức tham gia Mức tham gia ít động tới cải cách chính sách kinh tế vĩ mô. Chúng không nhiều cải thiện đợc các dịch vụ trong ngắn hạn mà cũng không Nguồn: Isham, Narayan và Pritchett 1995. tạo ra những thay đổi thể chế trong dài hạn. Viện trợ bằng nhiều cách có thể giúp cải thiện các thể Những nớc nghèo chế và chính sách ở cấp độ ngành: có chí nh sách tốt lẽ Công trình phân tích của các cơ quan tài trợ, nh ra phải nhận đợc Ngân hàng Thế giới đã đợc chứng minh là làm tăng khả nhiều viện trợ hơn năng thành công của các dự án công cộng. Một nghiên cứu so với những nớc cho biết 10.000 đôla đợc bổ sung vào công việc nghiên có chí nh sách bình cứu đã làm tăng thêm 80.000 đôla lợi ích cho dự án. thờng - nhng trên Trong mẫu điều tra về các dự án cung cấp nớc nông thực tế họ lại nhận thôn có nhận tài trợ, tỷ lệ thành công là 68% đối với những đợc í t hơn dự án mà bên thụ hởng tham gia nhiều nhng chỉ là 12% đối với những dự án mà bên thụ hởng tham gia ít (hình 9). Quan trọng hơn cả là các nỗ lực của nhà tài trợ nhằm tăng cờng sự tham gia của các bên thụ hởng đã góp phần để phơng pháp này đợc áp dụng cho lĩnh vực cung cấp dịch vụ. So sánh các trờng hợp thực hiện thành công dự án ở các nớc cho thấy tầm quan trọng của môi trờng thể chế đối với các hoạt động đầu t công cộng. Nói chung, trong nớc càng có nhiều yếu tố tự do (tự do báo chí, tự do hội họp ) thì càng có nhiều dự án thành công. Để cung cấp 25
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao một cách hiệu quả các dịch vụ cộng đồng thì các ý kiến của công dân phải đợc lắng nghe. Hình 10: Sự phân bổ viện trợ trên thực tế, 1996 và Khoảng 40% dự án của Ngân hàng Thế giới đã tác sự phân bổ tối u để động đáng kể tới việc phát triển thể chế - đó là chúng đã giảm nghèo. góp phần làm thay đổi cách hoạt động của khu vực công. Các phát hiện cho thấy vai trò chủ yếu của các dự án Viện trợ (phần trăm GDP) Sự phân bổ tối viện trợ phát triển là không phải làm đồng tiền vận động u để giảm nghèo mà là hỗ trợ quá trình xây dựng khu vực công thành khu Sự phân bổ vực hiệu quả. Các cơ quan viện trợ có thể đa ra những ý thực tởng về việc làm thế nào để cải thiện dịch vụ và hỗ trợ cho cách tiếp cận sáng tạo. Học hỏi từ những sáng kiến này sẽ cho kiến thức để nhận biết đợc cái gì có tác dụng và cái gì không có tác dụng. Quan điểm này của các dự án phát triển có ý nghĩa quan trọng, tác động không chỉ tới sự lựa chọn và đánh giá dự án mà còn tới cách thức thiết kế và đánh giá các cơ quan tài trợ. Việc đánh giá các dự án trên quan điểm của các nhà tài trợ đặc biệt phải chú trọng tới việc liệu các dự án đó có tác động tích cực đối với các thể chế và chính Chính sách Chính sách Chính sách kém bình thờng tốt sách khu vực hay không. Nguồn: Collier và Dollar 1998. Tiền, nhng cũng nhiều ý tởng hơn Hơn ai hết các nớc đang phát triển đang nắm trong tay số phận của mình. Quản lý kinh tế trong nớc còn quan trọng hơn cả viện trợ tài chính nớc ngoài. Các nền kinh tế bị tụt hậu là do những khiếm khuyết về chính sách và thể chế hơn là do thiếu tài chính. Viện trợ bằng tiền có tác dụng chỉ khi các nớc đạt đợc tiến bộ đáng kể trong cải cách chính sách và thể chế. Những nớc nghèo có chính sách tốt lẽ ra phải nhận đợc nhiều viện trợ hơn so với những nớc có chính sách bình thờng - nhng trên thực tế họ lại nhận đợc ít hơn (hình 10). Viện trợ nớc ngoài đã tập trung quá nhiều vào việc chuyển giao vốn mà (thờng) hiếm khi chú ý tới môi trờng chính sách và thể chế qua đó các nguồn lực có thể lu chuyển. Cách làm này là hậu quả của việc hiểu sai khái niệm phát triển - nhấn mạnh quá nhiều vào tài chính mà bỏ qua chính sách và thể chế - và là do các cơ quan viện trợ phải chịu áp lực từ trong và ngoài nớc. Đối với các cơ quan phát triển thì việc giải ngân (các khoản vay và viện trợ) có thể dễ dàng tính đợc và có xu hớng trở thành một thớc đo đầu ra quan trọng. Các cơ quan viện trợ cảm thấy mình chủ yếu có vai trò chi tiền, do vậy chẳng có gì ngạc nhiên khi phần lớn viện trợ đợc đổ vào các nớc có cơ chế 26
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan quản lý tồi - với kết quả đạt đợc rất ít ỏi. Do đó, cộng đồng quốc tế có thể làm đợc gì có ích trong những môi trờng bị méo mó nhiều nh vậy? Dĩ nhiên vấn đề này chẳng có câu trả lời đơn giản. Trong ba thập kỷ qua, hầu nh chẳng có điều gì khả quan xảy ra ở Mianma hay ở Nigiêria, bởi vậy sẽ quá chủ quan khi nói rằng có một số giải pháp thần kỳ cho các nớc này và các nớc tơng tự. Tuy nhiên, ở những nớc đó cũng có những ví dụ về viện trợ thành công trong việc cải thiện cuộc sống của ngời dân. Chơng cuối cùng của bản báo cáo này đa ra bốn nghiên cứu tình huống về viện trợ có hiệu quả ở những điều kiện khó khăn: điều chỉnh mà không cần vay điều chỉnh ở Việt Nam; hỗ trợ cho phân cấp giáo dục ở En Xanvađo, Pakixtan và Braxin; đổi mới công tác tài trợ cho y tế ở Camêrun; và sáng kiến bảo dỡng đờng sá ở châu Phi. Xuyên suốt những trờng hợp thành công này trong những môi trờng khó khăn là bốn chủ đề: Khung 5 Quan điểm của các bên liên quan về mức độ hiệu quả của viện trợ Để chuẩn bị cho báo cáo này, các thông điệp đã Điều này bảo đảm sự tham gia nhiệt tình của công đợc gửi đi và đợc thảo luận rộng rãi với hàng loạt chúng và duy trì tính bền vững cho dự án. nớc liên quan thuộc khu vực đang phát triển và Toru Shinotsuka, phát triển. Mặc dù chắc chắn sẽ có một số quan điểm khác nhau nhng đã có sự nhất trí cao về Kinh tế trởng, OECD tại Nhật Bản những yếu tố tạo nên thành công trong viện trợ phát triển: Sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức phi chính phủ Chẳng có gì phải ngạc nhiên, những yếu tố này (NGO) trong các dự án phát triển đã chứng tỏ có hiệu hoá ra là một môi trờng chính sách và thể chế quả trong việc tăng cờng ý thức sở hữu và tham gia thuận lợi cho việc đạt đợc nhiều lợi ích từ các của cộng đồng, do đó củng cố sự bền vững của các dự nguồn lực dành cho phát triển; vai trò hàng đầu án, đặc biệt các dự án cung cấp các dịch vụ (và trao của nớc nhận viện trợ trong việc thiết kế và quản quyền) cho các cộng đồng địa phơng. Nhng thái độ lý các chơng trình viện trợ, góp phần củng cố cam của cả các cơ quan tài trợ lẫn chính phủ nhận tài trợ kết đối với thành công và sự điều hành thông đối với sự tham gia của các NGO là quan trọng và ở thoáng nhằm tăng cờng tinh thần trách nhiệm và đây thái độ đó không thuần nhất. Không phải tất cả sự thận trọng. các nhà tài trợ đều hoan nghênh vai trò mạnh mẽ của Benno Ndulu, NGO. Tơng tự nh vậy, ở mỗi nớc thì thái độ tiếp Viện trởng Viện nghiên cứu kinh tế châu Phi nhận sự tham gia của NGO từ phía chính phủ - cha nói tới sự phối hợp - là khác nhau. Thậm chí trong nội bộ một nớc, nh Philippin chẳng hạn, giữa các cấp Khái niệm mới về "làm chủ" đợc nhấn mạnh chính quyền đã có sự khác nhau về quan điểm. Phần trong chiến lợc phát triển mới của Uỷ ban hỗ trợ lớn công tác viện trợ vẫn phải tiến hành và vai trò chỉ phát triển là nhằm mục đích nâng cao mức hiệu đạo của Ngân hàng Thế giới để tăng c ờng sự phối quả và tác dụng bằng cách phân tán trách nhiệm hợp của xã hội dân sự trong quá trình hợp tác phát rủi ro và chi phí cho các bên liên quan. Chính triển là cần thiết. quyền trung ơng của các nớc đang phát triển có vai trò đầu tầu trong việc hoạch định chính sách Cielito Habito, phát triển. Tuy nhiên, đối với hình thức phát triển Bộ trởng Kế hoạch Kinh tế -Xã hội tham gia thì các công dân tham gia - và gánh chịu Cộng hoà Philippin một phần gánh nặng - hợp tác với nhau để bảo đảm Nguồn: OECD/Ngân hàng Thế giới 1998, tr. 23,15,21. 27
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao cho dự án đạt hiệu quả. Công chúng sẽ lập kế hoạch và kêu gọi viện trợ, chịu một số chi phí xây dựng và lãnh trách nhiệm bảo dỡng và quản lý. Tìm một nhà vô địch. Các nớc, các chính phủ và Để cải cách tận gốc cộng đồng là những thành phần không đồng nhất. Trong khi đòi hỏi phải chứng việc xếp Mianma về cơ bản là "nớc có cơ chế quản lý tồi" là minh đợc rằng cải công bằng thì trong cộng đồng và thậm chí trong chính phủ cách trên thực tế có nớc này có thể có những yếu tố hớng tới cải cách. Nếu viện phát huy tác dụng. trợ có thể tìm ra phơng thức hỗ trợ cho những quốc gia cải cách này thì ảnh hởng của nó có thể rất lớn. Sự nhìn nhận dài hạn về những thay đổi mang tính hệ thống. Những nớc cải cách thành công đã nhìn thấy điều gì sẽ có thể khác đi trong 10 năm nữa - khác cả về kết quả (nhiều trẻ em tới trờng hơn, nhiều sinh viên tốt nghiệp hơn, nhiều công ăn việc làm hơn) lẫn quy trình (sự tham gia của cộng đồng vào trờng học, công chúng hỗ trợ rộng rãi hơn cho các chính sách cải cách). Hỗ trợ quá trình tạo ra kiến thức. Mặc dù đặc trng của các nớc cải cách là có tầm nhìn dài hạn nhng họ cần phải thờng xuyên bổ sung chi tiết bằng cách cải tiến và đánh giá. Hơn thế nữa, để cải cách tận gốc đòi hỏi phải chứng minh đợc rằng cải cách trên thực tế có phát huy tác dụng. Đánh giá và cung cấp tài chính cho các hoạt động cải tiến là vai trò chính yếu của viện trợ phát triển. Sự tham gia của xã hội dân sự. Trong những môi trờng bị méo mó nhiều, chính phủ không thể đa ra đợc những chính sách hỗ trợ và các dịch vụ hiệu quả. Bởi vậy, việc chuyển giao tài chính từ chính phủ này sang cho chính phủ khác lại gây ra những kết quả không tốt. Trong trờng hợp này, viện trợ hiệu quả thờng phải có sự tham gia hỗ trợ của xã hội dân sự hoặc để gây áp lực cho chính phủ phải thay đổi hoặc để lôi kéo việc cung cấp dịch vụ trực tiếp về tay mình. Những điểm trình bày ở trên cho thấy các đặc điểm của những môi trờng thuận lợi cho sự thay đổi và việc làm thế nào để các nhà tài trợ có thể tăng cờng đợc những đặc điểm này. Những khoản viện trợ thành công cũng rút ra bài học về hành vi của nhà tài trợ. Tài trợ sẽ có hiệu quả hơn khi: Các cơ quan tài trợ tập trung vào cải cách dài hạn. Điều đáng lu ý đối với thành công trong các môi trờng khó khăn điển hình là các nhà tài trợ cần phải sử dụng nhiều cán bộ và giải ngân nhỏ giọt. Vợt ra ngoài khuôn khổ dự án, thành công này còn hỗ trợ cho các cải cách mang tính hệ thống. Viện trợ hiệu quả trong các môi 28
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan trờng khó khăn thờng thiên về hỗ trợ ý tởng hơn là tiền hay dự án. Tiền có thể là một đầu vào, nh trong các ví dụ ở chơng 5. Các dự án cũng có thể là một đầu vào có ích. Nhng trọng tâm của hỗ trợ trong những trờng hợp này là nhằm cung cấp những ý tởng mới hay giúp tìm kiếm ý tởng mới. Các nhà tài trợ hoạt động bằng phơng thức hợp tác chứ không phải cạnh tranh. Các nghiên cứu về viện trợ trong một thời gian dài đã cho biết số lợng các nhà tài trợ trong thời gian qua đã gia tăng nhanh nhng họ vẫn cha phối hợp chặt chẽ với nhau. Các quốc gia có cơ chế quản lý tốt buộc các nhà tài trợ phải phối hợp với nhau nhng trong các môi trờng yếu kém các nhà tài trợ thờng hay “mạnh ai ngời nấy chạy”. Khó có thể giải thích đợc hành vi này, ngoại trừ việc các nhà tài trợ muốn "cắm cờ của mình" trên một cái gì đó hữu hình. Trong những trờng hợp viện trợ thành công, chúng tôi thấy có sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà tài trợ chú trọng vào sự chuyển đổi rộng lớn hơn, chứ không phải vào từng dự án và sắc cờ cụ thể. Vì mục tiêu của viện trợ là nhằm vào vấn đề tiền và ý Trong trờng hợp tởng nên công việc quản lý và đánh giá trở nên nghiêm viện trợ thành công, ngặt hơn. Các cơ quan tài trợ đang cố gắng hỗ trợ cho cải các nhà tài trợ chú cách chính sách và phát triển thể chế ở cả cấp kinh tế vĩ mô trọng vào sự chuyển lẫn cấp ngành. Thành phần đợc u tiên sẽ là chơng trình đổi rộng lớn hơn, chứ quốc gia hay chơng trình ngành. Các dự án đơn lẻ sẽ đóng không phải vào từng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ ngành phát triển nhng dự án và sắc cờ cụ nên đánh giá những dự án này trớc hết trên cơ sở đóng thể. góp của chúng đối với công cuộc cải cách thể chế và chính sách ngành, nh khi xây gạch để thử móng. “Đánh giá hiệu quả của Ngân hàng Thế giới có thể sẽ chẳng còn chỉ chú trọng tới các hoạt động dự án mà cần phải đo lờng đợc tác động của hàng loạt các hoạt động về ngân hàng ở cấp ngành và quốc gia. Điều này đòi hỏi phải có các công cụ và hình thức mới ” (Ngân hàng Thế giới 1997a, tr.1). Từ thành công và thất bại, các cơ quan tài trợ đã rút ra đợc bài học cho mình. Trong những năm 1990, tất cả các cơ quan tài trợ lớn đều đã tiến hành cải cách với mục tiêu củng cố việc hớng trọng tâm vào kết quả. Hầu hết các cơ quan này cũng đã triển khai các chiến lợc hỗ trợ quốc gia sao cho ngày nay các hoạt động đơn lẻ phải phù hợp với kế hoạch tổng thể hơn của công cuộc cải cách chính sách và thay đổi thể chế. Cũng với tinh thần nh vậy, trọng tâm của đánh giá đã vợt qua cấp độ dự án mà chú trọng vào việc đánh giá tổng thể chơng trình quốc gia. Điều này chắc chắn sẽ dẫn tới câu hỏi: liệu các cơ quan này đã sử dụng 29
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao nguồn lực của mình để thúc đẩy quá trình thay đổi thể chế và chính sách từ đó cải thiện dịch vụ và chất lợng cuộc sống hay cha? Câu hỏi này khó có thể trả lời, nhng lại là câu hỏi nên đặt ra. Hội đồng phát triển hải ngoại vừa qua đã tài trợ cho một đánh giá tác động tổng thể của viện trợ tại tám nớc châu Phi, do chuyên gia của các nớc đang phát triển liên quan và các nớc tài trợ lớn cùng phối hợp tiến hành - dờng nh đây là một phơng pháp hữu hiệu. Tơng tự, các cổ đông của IMF vừa qua đã cử một nhóm các chuyên gia bên ngoài đi đánh giá viện trợ của Quỹ đối với các nớc có thu nhập thấp đang cải cách. Ngân hàng Thế giới cũng đã bắt đầu đề xớng các đánh giá viện trợ quốc gia với nguồn đầu vào do hàng loạt các thành viên của nó cung cấp. Các đánh giá độc lập của các cơ quan phát triển với đầu vào đợc huy động mạnh mẽ từ các nớc đang phát triển chú trọng tới hai vấn đề: Liệu khoản tài chính khổng lồ đó có đợc đầu t vào môi trờng chính sách và thể chế phù hợp không? Các cơ quan đã đóng góp cho cải cách chính sách và thay đổi thể chế cha? Đánh giá những vấn đề phù hợp phải đợc áp dụng vào công tác quản lý và khuyến khích trong nội bộ các cơ quan. Với việc quản lý và đánh giá tốt hơn, các cơ quan phát triển sẽ trở nên: Chọn lọc kỹ hơn - đổ nhiều tiền hơn vào những Có lý do để tin tởng nớc có cơ chế kinh tế tốt. rằng cải cách của Chú trọng tới kiến thức hơn - sử dụng các nguồn các cơ quan tài trợ lực để hỗ trợ cho các phơng thức tiếp cận mới trong lĩnh sẽ thành công. vực cung cấp dịch vụ, mở rộng kiến thức về sự hiệu quả của các phơng thức đó và truyền bá thông tin này, coi đó là công việc chính yếu. Phối hợp tốt hơn - các cơ quan chú trọng tới kết quả sẽ ít quan tâm hơn tới việc cắm cờ của mình trên một dự án cụ thể nào đó mà chú trọng vào việc làm thế nào để các cộng đồng, các chính phủ và các nhà tài trợ phối hợp với nhau cùng cải thiện các dịch vụ. Có ý thức tự phê bình hơn - các cơ quan sẽ không ngừng tự hỏi mình: Tại sao chúng ta làm cái chúng ta đang làm? Và có tác động gì? Khi đã hiểu rõ hơn về phát triển và tác dụng của viện trợ, cùng với việc kết thúc áp lực của chiến tranh lạnh, ngời ta có lý do để tin tởng rằng công cuộc cải cách của các cơ quan viện trợ sẽ thành công. 1 Thậm chí một phần danh mục tài liệu cũng đã bao gồm cả những cuốn sách của các cơ quan tài trợ 30
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tổng quan bên ngoài (Cassen 1986, cập nhật năm 1994); Riddell 1996; Mosley 1987; Krueger, Michalopoulos và Ruttan 1989), các đánh giá thể chế khác nhau và danh mục sách tham khảo về các chủ đề chuyên sâu, nh viện trợ và kinh tế học vĩ mô (White 1992), cho vay trên cơ sở chính sách (Killick 1991), viện trợ và các tổ chức phi chính phủ (Riddell, Bebbington và Peck 1995) và viện trợ và tái thiết sau xung đột (Ngân hàng Thế giới 1998b). 2 Trên cơ sở những số liệu hiện có, trọng tâm của nghiên cứu này là hỗ trợ của các nớc OECD cho các nớc đang phát triển, không đề cập viện trợ Nam-Nam (chẳng hạn, từ Côoét hay Arập Xêút) hay viện trợ mở rộng của Liên bang Xô viết. 3 Trọng tâm của bản báo cáo này là những nỗ lực quốc tế nhằm hỗ trợ cho tăng trởng dài hạn và giảm nghèo ở các quốc gia đang phát triển. Còn có các hình thức hợp tác quốc tế khác nữa không đợc đề cập trong nghiên cứu này, nh các nỗ lực nhằm hạn chế vận chuyển ma tuý qua biên giới hay xúc tiến giải quyết xung đột bằng con đờng hoà giải. Ngoài ra, viện trợ nhân đạo chiếm gần 10% của viện trợ phát triển và chủ yếu là những nỗ lực cứu trợ trong ngắn hạn là vấn đề riêng biệt không đề cập trong báo cáo này. 4 Sự đồng tình lúc đầu là về đầu t vật chất và gần đây là đầu t con ngời - đó là nhận xét thờng thấy mà các tài liệu và thực tế đã chứng minh là sai. Tác phẩm Vở ca kịch châu á cổ của Gunnar Myrdal, đợc viết vào những năm 1950 đã báo hiệu cho thấy giới trí thức đã có cách nhìn tơng đối công bằng giữa vốn nhân lực và vật lực. 5 Sẽ sai lầm nếu quá coi trọng những quan điểm trớc đây hay những ngời có quan điểm đó vì kinh tế học không phải là môn khoa học chính xác và vấn đề luận chứng là vấn đề khó. Một nhà kinh tế phát triển 50 tuổi hoạch định chính sách năm 1960 trong cuộc đời sẽ đợc chứng kiến: cuộc Đại suy thoái, Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt tình trạng thất nghiệp và tăng mức sản xuất của thời chiến, sự nổi lên kỳ diệu của Liên bang Xô viết với chế độ kế hoạch hoá tập trung và việc Nhật Bản đuổi kịp đợc các cờng quốc châu Âu. 31
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Đánh giá Viện trợ: khi nào có tác dụng, khi nào không, và tại sao Chơng 1 Tiền cũng quan trọng - trong một môi trờng chí nh sách tốt Trong nhiều năm qua, nhiều nớc đang phát triển đã Nhiều biện pháp nhận đợc một số lợng viện trợ nớc ngoài rất lớn. Liệu thúc đẩy tăng trởng những khoản viện trợ này có thể làm giảm nghèo và tỷ lệ tử dài hạn cũng góp vong ở trẻ em hay không? Viện trợ nớc ngoài có góp phần phần giảm nghèo. làm tăng thu nhập theo đầu ngời hay không? Viện trợ hiệu quả hơn có tăng thu nhập và giảm nghèo trong tơng lai hay không? Và liệu tác dụng của viện trợ tới tình hình nghèo khổ có thể đợc cải thiện bằng cách phân bổ lại viện trợ giữa các nớc hay không? Cho dù là các mục tiêu trung gian là gì, thì mục tiêu cuối cùng của viện trợ vẫn là thúc đẩy tăng trởng và giảm nghèo. Trong một thế giới lý tởng, viện trợ một triệu đôla cho một nớc sẽ có tác dụng đối với tăng trởng và quá trình giảm nghèo giống nh kết quả khi viện trợ cùng một số tiền cho một quốc gia khác. Thực tế điều này không xảy ra. Một số nớc thu đợc kết quả cao hơn so với các nớc khác. Tại sao? Hiệu quả của viện trợ phụ thuộc chủ yếu vào các thể chế và chính sách của các nớc nhận viện trợ. Với những nớc quản lý kinh tế tốt, viện trợ sẽ làm tăng đầu t t nhân, thúc đẩy tăng trởng, hạ thấp tỷ lệ tử vong ở trẻ em, đẩy nhanh quá trình giảm nghèo. Với các nớc quản lý kinh tế kém, viện trợ có tác dụng rất ít tới quá trình phát triển. Phần đầu chơng này tổng kết các diễn biến tăng trởng khác nhau của các nớc đang phát triển. Tăng trởng góp phần làm giảm nghèo và cải thiện các chỉ tiêu về xã hội, đây chính là lý do giải thích tầm quan trọng của mối quan hệ giữa viện trợ và tăng trởng. Sau đó chơng này xem xét một số bài học thực tiễn về sự tăng trởng, các thể chế, chính sách và câu hỏi đặt ra là - tại sao viện trợ lại có sự ảnh hởng tới sự tăng trởng. Chúng ta cũng sẽ xem xét các mối quan hệ giữa viện trợ và tăng trởng, viện trợ và nghèo khổ, viện trợ và đầu t t nhân. Sau đó là một câu hỏi khác đợc đặt ra: viện trợ (cả song phơng và đa phơng) đã đợc phân bổ nh thế nào. Sau cùng là một số kiến nghị về cách nâng cao hiệu quả viện trợ. 32
- ÀAÁNH GIAÁ VIẽÅN TRÚÅ Tiền cũng quan trọng - trong một môi trờng chí nh sách tốt Các nớc khác nhau - vận mệnh khác nhau Năm 1966, Êtiôpia, ấn Độ và Thái Lan đều là các nớc Tốc độ tăng trởng GDP đầu ngời thực tế luôn thay nghèo. ở đó, đa số ngời dân sống với mức dới 1 đổi, ngay cả trong một thời đôla/ngời/ngày (giá năm 1995). Trong giai đoạn từ năm kỳ ổn định. Trong thời kỳ 1966 đến 1990, so với nhiều nớc đang phát triển khác ấn 1960-1980, chúng tôi đã thấy Độ đã đạt kết quả tốt, thu nhập đầu ngời thực tế tăng gấp hai rằng tốc độ tăng trởng GDP lần và giảm số ngời nghèo xuống còn 53% số dân. Nhng đầu ngời thực tế của ấn Độ cũng trong thời kỳ này, Thái Lan đã tăng thu nhập theo đầu là 1,4%, Ai Cập là 3,4%, Hàn Quốc là 7% Từ giữa ngời lên gấp ba lần và giảm tỷ lệ ngời nghèo xuống còn thập niên 1960 đến giữa thập 2% số dân. Sự khác biệt này đợc Robert Lucas gọi là niên 1970, tốc độ tăng trởng “những kết quả về phúc lợi gây sửng sốt” của tốc độ tăng của Inđônêsia tăng từ 3,9% trởng và phát triển khác nhau. Sự tơng phản giữa Thái Lan lên 7,5%. và Êtiôpia thậm chí càng rõ rệt hơn. Năm 1966, mức thu Tôi không hiểu làm sao nhập bình quân theo đầu ngời của Thái Lan cao gấp bốn lần mà một ngời có thể xem xét mức thu nhập bình quân theo đầu ngời của Êtiôpia. Đến những con số mà lại không năm 1990, thu nhập của Êtiôpia không tăng trởng trong khi xem chúng nh là các khả năng đang trở thành hiện thu nhập theo đầu ngời của Thái Lan cao hơn gấp 10 lần. thực. Có cách nào để Chính Các vấn đề tăng trởng không chỉ vì mục đích tăng phủ ấn Độ có thể làm cho trởng mà còn vì mục tiêu nâng cao mức sống. Năm 1967, nền kinh tế nớc này tăng cứ 1000 trẻ em sinh ra ở Thái Lan thì có đến 84 em bị chết ở trởng nhanh nh Inđônêsia dới một năm tuổi. Đến năm 1994, con số trẻ em tử vong không? Nếu có, chính xác đó là gì? Kết quả của việc đa sau khi sinh ở Thái Lan đã giảm đi 2/3. ấn Độ và Êtiôpia phúc lợi con ngời vào trong cũng có những tiến bộ nhng không bằng Thái Lan. Tỷ lệ trẻ các câu hỏi này là: Một khi tử vong sau khi sinh ở ấn Độ trong thời kỳ này giảm một một ngời bắt đầu suy nghĩ nửa, còn ở Êtiôpia tử vong ở trẻ em chỉ giảm 27%. Các chỉ đến các câu hỏi này thì tiêu xã hội khác cũng phản ánh đợc thực tiễn tơng tự. Vào chẳng còn đầu óc đâu mà năm 1990, Thái Lan đã phổ cập tiểu học cho toàn bộ các bé nghĩ đến các điều khác. Robert E. Lucas, Jr. gái trong khi ở ấn Độ mới chỉ là 91% và ở Êtiôpia là 19%. "Bàn về cơ chế phát triển Tăng trởng không loại bỏ hết nghèo khổ nhng thu kinh tế", tr. 4-5. nhập đầu ngời và các chỉ tiêu xã hội khác đợc cải thiện (hoặc xấu đi). Điều này có nghĩa là tuổi thọ, tỷ lệ nhập học, tử vong ở trẻ em và trẻ em suy dinh dỡng đều có mối liên hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân đầu ngời. Mặc dù trên toàn cầu, mức sống đã cao hơn, song sự khác biệt lớn về mức sống giữa các nớc nói lên tầm quan trọng của quá trình phát triển. Đơn cử đối với tỷ lệ tử vong ở trẻ em; trong giai đoạn từ 1967-1994 hầu hết ở các nớc đang phát triển nói chung, tỷ lệ tử vong ở trẻ em đều đã giảm. Tuy nhiên, mức độ giảm lại có sự khác nhau rất lớn giữa các nớc (hình 1.1). Các quốc gia có nền kinh tế trì trệ nh Daia (Cộng hoà dân chủ Cônggô ngày nay), Êtiôpia, Nigiêria, Dămbia có tỷ lệ tử vong ở trẻ em giảm rất ít, 33