Quản trị kinh doanh - Chương 5: Thu thập dữ liệu định lượng

pdf 61 trang vanle 2460
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Quản trị kinh doanh - Chương 5: Thu thập dữ liệu định lượng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfquan_tri_kinh_doanh_chuong_5_thu_thap_du_lieu_dinh_luong.pdf

Nội dung text: Quản trị kinh doanh - Chương 5: Thu thập dữ liệu định lượng

  1. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng CHƢƠNG 5 THU THẬP DỮ LIỆU ĐỊNH LƢỢNG 5.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÕ CỦA DỮ LIỆU ĐỊNH LƢỢNG 5.1.1. Khái niệm Như đã giới thiệu trong chương 1, dữ liệu định lượng hay còn được gọi là dữ liệu thống kê là là những dữ liệu được lượng hóa (dưới dạng các con số thống kê chẳng hạn) được thu thập trên một mẫu lớn các quan sát và thường thông qua phương pháp điều tra (dùng bảng câu hỏi). Để có thể phân tích và xử lý dữ liệu định lượng, hiện nay người ta thường dùng đến các phần mềm phân tích thống kê như SPSS, STATA hay SAS 5.1.2. Vai trò Vì bản chất dữ liệu định lượng là dữ liệu thống kê được thu thập từ một mẫu lớn với độ đại diện nhất định cho tổng thể nghiên cứu nên dữ liệu định lượng có thể giúp cho nhà nghiên cứu kiểm định được các sự kiện, dự báo và kiểm định mối quan hệ giữa các biến trong nghiên cứu của mình. Nhờ điều này, kết quả nghiên cứu sẽ có khả năng được nhân rộng. Đây chính là điều mà dữ liệu định tính không thể mang lại. Nhờ những vai trò này, dữ liệu định lượng là loại dữ liệu được các nhà nghiên cứu sử dụng trong nghiên cứu mô tả và nghiên cứu nhân quả (đặc biệt trong nghiên cứu mô tả). Trong một cuộc nghiên cứu marketing, dữ liệu định lượng cũng thường được các nhà nghiên cứu sử dụng ở giai đoạn sau so với dữ liệu định tính. 5.2. PHƢƠNG PHÁP THU THẬP DỮ LIỆU ĐỊNH LƢỢNG (PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU TRA) 5.2.1. Tổng quan về phƣơng PTITpháp thu thập dữ liệu định lƣợng (phƣơng pháp điều tra) Nhìn chung, phương pháp phổ biến mà các nhà nghiên cứu thường sử dụng để thu thập dữ liệu định lượng là điều tra (survey). Theo đó, nhà nghiên cứu sẽ đặt một hệ thống những câu hỏi cấu trúc (structured questions) thông qua một bảng câu hỏi (questionnaire) để hỏi về cảm tưởng, suy nghĩ và hành động của đối tượng trả lời (respondents) nhằm thu thập dữ liệu trên một mẫu lớn. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, đặc biệt là internet thì phương pháp quan sát ngày cũng càng sử dụng nhiều hơn và dần được xem như một phương pháp thu thập thông tin định lượng phục vụ cho nghiên cứu mô tả. Mặc dầu vậy, điều tra vẫn là phương pháp trụ cột chính được các nhà nghiên cứu sử dụng nhằm thu thập dữ liệu định lướng. Đó chính là lý do chúng tôi nhấn mạnh 42
  2. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng phương pháp này trong khuôn khổ môn học nghiên cứu marketing. Tuy nhiên, điều tra không phải là công cụ hoàn hảo. Bên cạnh những lợi thế thì phương pháp này cũng có những nhược điểm nhất định như trình bày trong bảng 5.1 sau đây. Chính vì lý do này, ta thường thấy phương pháp điều tra được sử dụng ở giai đoạn sau của cuộc nghiên cứu, sau khi nhà nghiên cứu đã dùng các phương pháp nghiên cứu định tính. Bảng 5.1 Lợi thế và hạn chế của phƣơng pháp điều tra Lợi thế - Là phương pháp phù hợp giúp nhà nghiên cứu có thể thu thập thông tin trên một mẫu lớn, do đó có thể nhân rộng kết quả nghiên cứu cho tổng thể nghiên cứu - Với phương pháp điều tra, nhà nghiên cứu sẽ không gặp nhiều khó khăn trong việc quản trị công cụ thu thập thông tin (bảng hỏi) và dễ dàng khi ghi chép lại những câu trả lời của những người được hỏi - Có thể dễ dàng sử dụng các kỹ thuật phân tích thống kê (đặc biệt với sự phát triển của các phần mềm phân tích thống kê (SPSS, STATA ) như hiện nay - Có thể nghiên cứu cả những khái niệm hoặc mối quan hệ không trực tiếp đo lường được Hạn chế - Khó khăn khi phát triển những câu hỏi dùng để đo lường thái độ và hành vi của đối tượng nghiên cứu - Khó thu thập được những thông tin chiều sâu về hành vi và thái độ của đối tượng nghiên cứu như trong các phương pháp nghiên cứu định tính - Tỉ lệ trả lời bảng câu hỏi có thể thấp PTIT 5.2.2. Các phƣơng pháp điều tra Với sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, nhiều phương pháp điều tra mới được tạo ra. Tuy nhiên, các phương pháp này vẫn có thể chia làm 3 nhóm chính: điều tra thông qua người phỏng vấn (person-administered survey), điều tra dựa vào việc tự quản trị bảng hỏi của khách hàng (self-administered survey) và điều tra thông qua điện thoại (telephone-administered survey). a. Điều tra thông qua người phỏng vấn (person-administered survey) Đây là phương pháp điều tra mà trong đó nhà nghiên cứu sẽ sử dụng những người phỏng vấn đã qua đào tạo để quản trị bảng hỏi. Theo phương pháp này người phỏng vấn và người được hỏi (đối tượng nghiên cứu hay còn gọi là người được phỏng vấn) gặp nhau trực tiếp để hỏi và trả lời bảng câu hỏi. Địa điểm phỏng vấn thường ở 43
  3. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng các trung tâm thương mại, trên đường phố, trên phương tiện giao thông công cộng hay tại địa điểm của người được phỏng vấn (nhà ở, văn phòng). Trong phương pháp điều tra này, mức độ chính xác của dữ liệu thu thập phụ thuộc vào kỹ năng đặt câu hỏi một cách khéo léo, sự tinh tế trong việc nêu câu hỏi nhằm theo dõi và kiểm tra đối tượng phỏng vấn. Như vậy, chất lượng dữ liệu phụ thuộc khá nhiều vào người hỏi (người phỏng vấn hay phỏng vấn viên). Yêu cầu đối với phỏng vấn viên trong phương pháp điều tra này thương rất cao, bao gồm: - Không được thiên kiến hay xen quan điểm cá nhân vào câu hỏi, hoặc hướng đối tượng phỏng vấn vào cách trả lời. - Phải trung thực, không bịa ra câu trả lời, bớt câu hỏi, tự điền câu trả lời - Có kỹ năng giao tiếp, giọng nói, ngữ điệu, y phục phù hợp với hòan cảnh và đối tượng phỏng vấn. Phương pháp điều tra này có 4 ƣu điểm lớn là: - Người phỏng vấn trực tiếp gặp đối tượng nên có thể thuyết phục đối tượng trả lời. - Các thông tin về gia cảnh của người được phỏng vấn thì người phỏng vấn có thể quan sát mà không cần hỏi. - Trong khi quản trị bảng hỏi, người phỏng vấn có thể kết hợp câu hỏi và hình ảnh để giải thích (các quảng cáo, giới thiệu sản phẩm). - Khi người được phỏng vấn gặp câu hỏi khó hiểu, họ có thể nhận được trợ giúp từ phía người phỏng vấn: người phỏng vấn có thể giải thích để đối tượng hiểu đúng câu hỏi. Tuy nhiên, nhƣợc điểm của phương pháp này là: - Chi phí cao. Chi phí mà nhà nghiên cứu phải bỏ ra trong phương pháp này là chi phí trả cho phỏng vấn viênPTIT (theo ngày làm việc hoặc theo bảng câu hỏi quản trị được), chi phí di chuyển, quà tặng cho người được phỏng vấn (trong một số trường hợp nhất định) - Có thể gặp phải sự không hợp tác của người được phỏng vấn: người được phỏng vấn thường không muốn nói chuyện với người lạ. - Sự có mặt của người phỏng vấn, thái độ cứng nhắc của người hỏi có thể làm người trả lời né tránh hoặc trả lời không thật câu hỏi. - Tâm lý sợ bị nhận diện của người trả lời có thể ảnh hưởng đến thiện chí, cách trả lời của họ. - Khó huy động được phỏng vấn viên chuyên nghiệp và sẵn lòng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam. - Có tỉ lệ từ chối trả lời khá cao. 44
  4. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Để khắc phục một số hạn chế trên, người nghiên cứu có thể tiến hành phỏng vấn cá nhân tại các trung tâm thương mại. Đặc điểm của phương pháp phỏng vấn tại trung tâm thương mại là có thể chọn mẫu đa dạng, ít phải di chuyển, chi phí thấp, thủ tục phỏng vấn dễ tiêu chuẩn hóa Nhưng thời gian phỏng vấn thường rất ngắn, vì thế nội dung phỏng vấn bị hạn chế. Do vậy, người phỏng vấn phải được chuẩn bị trước các câu hỏi để chủ động tranh thủ thời gian phỏng vấn. b. Điều tra dựa vào việc tự quản trị bảng hỏi của khách hàng (self-administered survey) Với phương pháp này, bằng cách nào đó (thư tín, internet, email ), nhà nghiên cứu gửi cho đối tượng điều tra một bảng câu hỏi và chờ trả lời. Phương pháp này không phải bao giờ cũng tốt, nhưng nó có những ưu điểm mà các phương pháp khác lại không có. Những ưu điểm của phương pháp này là: - Phương pháp điều tra này có lợi thế là giúp nhà nghiên cứu có thể đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau, kể cả vấn đề riêng tư. Lý do là vì do người trả lời bảng câu hỏi không gặp mặt người hỏi nên người trả lời tự chủ khi trả lời câu hỏi, không bị chi phối bởi người hỏi. - Người được hỏi không bị giới hạn chặt chẽ về thời gian nên có thể suy nghĩ chín chắn trước khi trả lời, và vào thời gian thuận tiện nhất. - Với phương pháp điều tra này, nhà nghiên cứu có thể thu thập được thông tin trên diện rộng do chi phí thấp; mặt khác, đối tượng được hỏi ở xa, tản mát vẫn có thể tham gia vào nghiên cứu được bằng phương pháp này. - Mặc dù không thể sử dụng được những công cụ trợ giúp như video hay hình ảnh, với phương pháp điều tra này, nhà nghiên cứu vẫn có thể sử dụng tài liệu, ấn phẩm đi kèm để minh họa cùng với bảng câu hỏi. Bên cạnh những ưu điểm,PTIT phương pháp này có hạn chế là: - Tỷ lệ trả lời thấp. Với phương pháp điều tra này, khoảng từ 10-15% số người được hỏi trả lời là đã có thể được coi là thành công. Trong trường hợp điều tra bằng thư tín, tỉ lệ trả lời có thể xuống tới dưới 3%. - Mặt khác, người trả lời có thể không đại diện cho ý kiến hay quan điểm của những người không trả lời, do đó kết quả tổng thể nghiên cứu có thể bị sai lệch. Ngoài ra, trong một số trường hợp mà đối tượng nghiên cứu không biết chữ hoặc có hạn chế về ngôn ngữ, thì phương pháp này cũng hạn chế được sử dụng. - Phương pháp điều tra này nhấn mạnh tính tự chủ của người trả lời, do đó, nhà nghiên cứu sẽ khó kiểm soát được người trả lời. Vì vậy, chất lượng dữ liệu sẽ có vấn đề nếu người được hỏi hiểu sai câu hỏi hay trả lời câu hỏi một cách qua loa, không trung thực, khách quan 45
  5. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng - Lợi thế chi phí thấp có thể không thực hiện được, thậm chí chi phí điều tra có thể trở thành cao nếu tỷ lệ người trảlời thấp. - Đối với nhiều người trả lời, do có tính tự chủ, họ sẽ thường đọc toàn bộ câu trả lời rồi mới trả lời. Trong trường hợp này, một số câu hỏi cuối bảng câu hỏi có thể ảnh hưởng đến câu trả lời ở phía đầu. Để cải tiến hiệu quả của phương pháp điều tra này, nhà nghiên cứu thường sử dụng một số giải pháp sau: - Liên lạc trước với người được hỏi để thông báo về cuộc điều tra cũng như giới thiệu mục đích của cuộc điều tra và mời người được hỏi tham gia - Chuẩn bị kỹ càng đoạn giới thiệu và hướng dẫn điền bảng hỏi ở phía đầu bảng câu hỏi hoặc ở trang trước đó - Kích thích vật chất: đôi khi nhà nghiên cứu thường sử dụng món quà nhỏ cho người tham dự kèm theo bảng câu hỏi được mời điền - Chuẩn bị kỹ càng về hình thức bảng hỏi để kích thích người trả lời. - Với điều tra qua thư tín, phong bì chứa bảng hỏi cũng được để ý kỹ càng: phong bì cần trang trọng, giấy tốt, in chữ đẹp ghi tên người nhận, địa chỉ, hình thức trang trí đặc biệt để gây sự chú ý, dễ nhận biết. Thư phải kích thích người nhận trảlời và gửi lại bảng câu hỏi đã trả lời. Thư in trên giấy tốt, chữ rõ đẹp Đồng thời, trong phương pháp điều tra này, nhà nghiên cứu thường chuẩn bị phong bì trả lời: phong bì có dán tem, in địa chỉnơi nhận để người trả lời gửi lại bảng câu hỏi đã hòan tất câu trảlời. c. Phương pháp điều tra qua điện thoại (Telephone-Administered survey) Đây là phương pháp điều tra được tiến hành bằng cách bố trí một nhóm người phỏng vấn tập trung phỏng vấn khách hàng với nhiều máy điện thoại kết nối với tổng đài (và/hoặc máy tính) để dễ kiểm tra người phỏng vấn. Phương pháp này được áp dụng khi số đông người được PTIThỏi trong tổng thể nghiên cứu có máy điện thoại; và khi cuộc điều tra đòi hỏi phải có một mẫu nghiên cứu phân bốrộng trên các vùng địa lý thì phương pháp điều tra bằng điện thoại là tiện lợi nhất. Phỏng vấn bằng điện thoại có những ưu điểm sau: - Có thể hỏi nhiều người trong một thời gian ngắn, trên diện rộng (mà người phỏng vấn không phải di chuyển xa). - Trong quá trình phỏng vấn, nếu bị gián đoạn (ví dụ do người được phỏng vấn bận), người phỏng vấn có thể gọi lại để tiếp tục phòng vấn. Mặt khác, hoạt động phối kiểm, bổ sung được thực hiện thuận lợi trong phương pháp điều tra này. - Do trong phương pháp điều tra này, người được phỏng vấn không phải ngồi trực diện trước người hỏi, điều này giúp người trả lời tự tin hơn. 46
  6. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng - Dễ chọn mẫu, khối lượng lấy mẫu lớn, rải rác khắp các điểm trên một không gian lớn. - Tỷ lệ trả lời khá cao. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là do người phỏng vấn không thấy người trả lời, nên thiếu mối giao cảm thông qua thái độ cử chỉ của người trảlời. Mặt khác, phỏng vấn bị giới hạn bởi những điều nghe được, thiếu hẳn tư liệu trực quan. 5.3. CHỌN MẪU VÀ XÁC ĐỊNH CỠ MẪU NGHIÊN CỨU Chọn mẫu và xác định cỡ mẫu là công việc quan trọng và cần thiết trong nghiên cứu marketing, đối với cả nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng. Tuy nhiên, do đặc thù riêng của các phương pháp nghiên cứu định tính, việc chọn mẫu và xác định cỡ mẫu trong nghiên cứu định tính thường mang yếu tố chủ quan hơn là trong nghiên cứu định lượng. Trong nghiên cứu định tính, không có nguyên tắc và công thức cụ thể cho việc chọn mẫu và xác định cỡ mẫu, ngược lại các nhà nghiên cứu thường dựa trên kinh nghiệm để làm công việc này (kinh nghiệm về chọn mẫu và xác định cỡ mẫu trong các phương pháp nghiên cứu định tính (phỏng vấn chuyên sâu cá nhân vs phỏng vấn nhóm) đã được trình bày trong chương 4). Trong nghiên cứu định lượng, đặc biết đối với phương pháp khảo sát, điều tra (bằng bảng hỏi), việc chọn mẫu và xác định cỡ mẫu càng trở nên quan trong vì một số lý do được trình bày dưới đây. Do đặc thù của nghiên cứu định lượng nên một số kỹ thuật chọn mẫu và xác định cỡ mẫu cũng được áp dụng trong những ngữ cảnh nhất định. Mục 5.3 này nhằm vào việc giới thiệu nhưng kỹ thuật chọn mẫu và xác định cỡ mẫu được sử dụng trong nghiên cứu định lượng, đặc biệt, trong phương pháp khảo sát, điều tra. 5.3.1. Một số định nghĩa và vấn đề liên quan a. Một số định nghĩa PTIT Việc chọn mẫu và xác định cỡ mẫu liên quan đến nhiều thủ tục và vấn đề. Do vậy, trước khi đề cập đến các kỹ thuật này, chúng ta phải làm rõ một số khái niệm liên quan: Phần tử: Một phần tử là một đơn vị trong đó thông tin vềnó được thu thập và làm cơ sở cho việc phân tích. Thông thường trong lấy mẫu nghiên cứu marketing, những phần tử là con người, tuy vậy cũng có những loại phần tử khác như là: gia đình, cửa hàng hoặc doanh nghiệp. Tổng thể: Một tổng thể l à sựtập hợp các phần tử. Có 2 loại tổng thể trong nghiên cứu marketing: - Tổng thể chủ đích (target population): Là tổng thể được yêu cầu bởi đặc trưng thông tin cần nghiên cứu. 47
  7. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng - Tổng thể lấy mẫu (sampling population): Là tổng thể thực tế được chọn trên yêu cầu thông tin cần nghiên cứu. Cấu trúc mẫu (sampling frames): Cấu trúc mẫu là một danh sách các phần tử lấy mẫu. Ví dụ: đối với một nghiên cứu nhằm vào mục tiêu đánh giá sự hài lòng của sinh viên về các khía cạnh chất lượng dịch vụ đào tạo của sinh viên năm thứ 4 của một trường đại học. Tổng thể chủ đích là tất cả sinh viên đang học năm thứ 4 đã theo học từ năm đầu tiên theo danh sách của phòng Giáo vụ. Tuy nhiên, một số sinh viên đã bỏ học vì chuyển sang trường khác, hoặc vì lý do nào đó. Số sinh viên còn lại là tổng thể lấy mẫu. Danh sách các sinh viên này là cấu trúc mẫu. Mỗi sinh viên trong danh sách là một phần tử lấy mẫu. b. Những lý do của việc chọn mẫu Trong nghiên cứu marketing nói riêng và trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nói chung, việc lấy mẫu để điều tra thay vì phải điều tra toàn bộ được thực hiện bởi các lý do sau: - Những người ra quyết định thường bị giới hạn về mặt thời gian, do đó họ phải dựa vào bất kỳ thông tin nào có thể dùng được trong thời gian đó. - Đối với qui mô tổng thể nghiên cứu lớn, chi phí cho một cuộc điều tra toàn bộ rất lớn, sẽ gặp hạn chế về kinh phí. Vì vậy việc điều tra trên một mẫu sẽ có ưu thế hơn nhưng vẫn bảo đảm thu thập đầy đủ thông tin thích hợp. - Trong một số trường hợp, việc tiến hành điều tra toàn bộ tổng thể vẫn không thể nâng cao độ chính xác của thông tin trong khi lại tốn kém chi phí và mất nhiều thời gian. c. Vấn đề sai số trong việc chọn mẫu Thay vì điều tra toàn bộ (census), các nhà nghiên cứu chỉ thu thập các thông tin từ các phần tử trong mẫu được chọn, sau đó sử dụng các kết quả này để ước lượng cho tổng thể, vì vậy luôn luôn xuấtPTIT hiện sự sai biệt về trị số mẫu và trị số tổng thể. Sai số này gồm hai loại: Sai số lấy mẫu (sampling errors) Sai số lấy mẫu là sai số xảy ra do những phần tử khi tiến hành chọn không đại diện cho tổng thể, nghĩa là có sự khác biệt giữa trị số mẫu với trị số trung bình tổng thể. Vì thực tế không thể có một đọan nhỏ hơn của tổng thể làm đại diện chính xác cho tổng thể, nên sai số lấy mẫu sẽ hiện diện vào bất cứ lúc nào khi nhà nghiên cứu chọn mẫu dù người nghiên cứu có cẩn thận đến mức nào. Do đó, sai số này là kết quả của sự ngẫu nhiên. Mặt khác, sai số lấy mẫu cũng có thể xảy ra khi nhà nghiên cứu chọn phương pháp lấy mẫu và/hoặc xác định cỡ mẫu không phù hợp. Sai số lấy mẫu có thể giảm thiểu bằng cách tăng kích thước của mẫu. 48
  8. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Sai số không lấy mẫu (non sampling errors) Sai số không lấy mẫu liên quan đến bất kỳ sự việc gì (ngoài sai số lấy mẫu) có thể làm xuất hiện các sai số hay độ chệch trong kết quả nghiên cứu. Những sai số này bao gồm: - Thiết kế bảng hỏi tồi - Người trả lời bỏ dở nửa chừng do cảm thấy bảng hỏi quá dài hoặc chán. - Người phỏng vấn chỉ dẫn, hoặc giải thích các hướng dẫn sai; ghi chép không đầy đủ. - Do sai lầm khi hiệu chỉnh và mã hóa dữ liệu. - 5.3.2. Các phƣơng pháp chọn mẫu Hiện nay, các nhà nghiên cứu có thể sử dụng nhiều phương pháp chọn mẫu. Các phương pháp này có thể được chia thành 2 nhóm: chọn mẫu phi xác suất (non- probability sampling methods) và chọn mẫu xác suất (probability sampling methods). a. Phương pháp chọn mẫu phi xác suất Trong chùm phương pháp này, có các phương pháp chọn mẫu sau Chọn mẫu thuận tiện (Convenience sampling) Theo cách chọn mẫu này, người nghiên cứu chọn ra các đơn vị lấy mẫu dựa vào “sự thuận tiện” hay “tính dễ tiếp cận”. Với phương pháp chọn mẫu thuận tiện, nhà nghiên cứu rất khó xác định tính đại diện của mẫu. Sự lựa chọn các đơn vị mẫu mang tính chủ quan của người nghiên cứu, do đó, phương pháp này ít được sử dụng rộng rãi. Chọn mẫu phán đoán (Jugment sampling) Theo phương pháp chọn mẫu phán đoán, những đơn vị của mẫu được chọn dựa vào điều mà nhà nghiên cứu suyPTIT nghĩ có thể thỏa mãn một tiêu chuẩn nào đó. Giống như cách chọn mẫu thuận tiện, trong chọn mẫu phán đoán, sự lựa chọn các đơn vị mẫu mang tính chủ quan của người nghiên cứu. Đặc biệt, trong trường hợp nhà nghiên cứu phán đoán nhầm (ví dụ, người ăn mặc đẹp là người có thu nhập cao) thì tính đại diện của mẫu có thể sẽ không đạt được. Chọn mẫu kiểm tra tỷ lệ (Quota sampling) Chọn mẫu kiểm tra tỷ lệ là phương pháp chọn mẫu mà trong đó người nghiên cứu cố gắng bảo đảm mẫu được lựa chọn có một tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ tổng thể theo các tham số quan trọng nào đó (tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp ). Các phần tử trong mẫu cũng được chọn theo chủ ý của người nghiên cứu chứ không phải dựa vào quy luật ngẫu nhiên. Chẳng hạn, nếu xác định kích thước mẫu cần điều tra là 100, và giới tính là một tham số quan trọng đối với nội dung điều tra (chẳng hạn việc sử dụng kẹo sôcola); khi đó, nếu biết được tỷ lệ giới tính nữ- nam của tổng thể là 51:49 (tỷ lệ 49
  9. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng bách phân) thì mẫu được chọn sẽcó 51 nữvà 49 nam. Đây là một ví dụ đơn giản. Trong thực tế, tùy thuộc nội dung điều tra, người ta xác định tỷ lệ theo nhiều tham số như tuổi tác, giới tính, thu nhập Chọn mẫu tích lũy nhanh (Snowball sampling) Theo phương pháp này, những đơn vị lấy mẫu (hay phần tử) ban đầu được lựa chọn bằng cách sử dụng các phương pháp xác suất, nhưng những đơn vị bổ sung tiếp đó được xác định từ thông tin được cung cấp bởi các đơn vị lấy mẫu ban đầu (quy nguyên). Dù phương pháp xác suất nào được sử dụng để lựa chọn những đơn vị lấy mẫu ban đầu, thì toàn bộ mẫu vẫn được coi là mẫu phi xác suất vì những quy nguyên theo sau được chứa đựng trong mẫu ấy. Kích thước mẫu và thời gian hao phí giảm đi là những thuận lợi chủ yếu của kỹ thuật lấy mẫu tích lũy nhanh. Tuy nhiên, cách chọn mẫu “nhờ giới thiệu” này có thể có sai lệch vì những người được giới thiệu ra thường có một số đặc điểm tương đồng về nhân khẩu học hay tâm lý, sở thích. Do đó, phương pháp này chỉ được sử dụng khi các phần tử mà chúng ta muốn nghiên cứu rất khó tìm. b. Phương pháp chọn mẫu xác suất Phương pháp chọn mẫu xác suất thực hiện việc chọn các phần tử của mẫu dựa trên việc sử dụng các quy luật phân phối xác suất trong thống kê toán. Tuy nhiên, trong phần này, do đối tượng nghiên cứu của môn học nên chúng tôi không trình bày tỉ mỉ như trong thống kê học, mà chủ yếu giới thiệu phương pháp để trên cơ sở đó có thể lựa chọn phương pháp chọn mẫu thích hợp cho từng mục tiêu nghiên cứu marketing. Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản (simple random sampling) Chọn mẫu ngẫu nhiên là một quá trình chọn lựa mẫu sao cho mỗi đơn vị lấy mẫu trong cấu trúc có một cơ hội hiện diện trong mẫu bằng nhau. Chọn mẫu ngẫu nhiên có hai loại: chọn mẫu ngẫu nhiên có sự thay thế hoặc là không có sự thay thế. Trong PTITlấy mẫu ngẫu nhiên có sự thay thế thì một phần tử đã được chọn luôn luôn được thay thế trước khi thực hiện sự lựa chọn kế tiếp. Cách này có khả năng lấy trên cùng một cá thể nhiều lần. Do vậy, trong nghiên cứu marketing, lấy mẫu ngẫu nhiên không thay thế được sử dụng chủ yếu. Ưu điểm của phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản là dễ hiểu, dễ thực hiện; trung bình mẫu là một sự tính toán khách quan của trung bình tổng thể nghiên cứu; phương pháp tính toán đơn giản, dễ dàng. Nhược điểm của phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên là trong nhiều trường hợp, sự biến thiên của tổng thể nghiên cứu rất rời rạc và không theo quy tắc, thì lấy mẫu ngẫu nhiên không được dùng đến vì nó kém chính xác; mẫu có thể không mang tính đại diện, hoặc bị lệch. Để lựa chọn các phần tử, nhà nghiên cứu cần phải đánh dấu và lập danh sách toàn bộ tổng thể để sử dụng bảng số ngẫu nhiên, bốc thăm, quay số, Công việc này khó thực hiện được khi tổng thể là quá lớn. Mặt khác, với phương pháp này, mẫu được chọn có thể bị phân tán, do 50
  10. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng vậy tốn kém chi phí và khó khăn trong đi lại khi thu thập dữ liệu. Chính vì những lý do này, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản được áp dụng có kết quả khi tổng thể nghiên cứu không phân tán quá rộng về mặt địa lý; các phần tử trong tổng thể có khá nhiều sự đồng nhất về đặc điểm muốn nghiên cứu. Chọn mẫu ngẫu nhiên có hệ thống (Systematic random sampling) Chọn mẫu có hệthống với sự bắt đầu ngẫu nhiên là một phương pháp chọn mẫu được tiến hành bằng cách lấy từng đơn vị thứ k từ một tổng thể nghiên cứu có thứ tự. Đơn vị đầu tiên được chọn một cách ngẫu nhiên, k được gọi là khoảng cách lấy mẫu. Ưu điểm của phương pháp chọn mẫu có hệ thống là mẫu được thiết lập dễ dàng, dễ thực hiện trên hiện trường (điều tra theo đường phố), mẫu được phân tán đều khắp tổng thể nghiên cứu và kết quả tính toán chính xác hơn so với lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản. Nhược điểm của phương pháp chọn mẫu này là có thể một mẫu được lấy chỉ bao gồm những đơn vị có cùng một dạng, và cần thiết phải có danh sách các đơn vị lấy mẫu theo thứ tự. Vì thế phương pháp chọn mẫu có hệ thống thường được áp dụng khi thứ tự của các đơn vị lấy mẫu là ngẫu nhiên, gần như có sự phân nhóm trong tổng thể nghiên cứu. Chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng (Stratified random sampling) Khi tổng thể nghiên cứu được cấu tạo bởi nhiều tập hợp không đồng nhất liên quan đến những đặc điểm nghiên cứu, để thực hiện lấy mẫu cần phải phân tầng tổng thểnghiên cứu thành từng nhóm có những đặc điểm tương đồng. Lấy mẫu phân tầng là chọn một mẫu ngẫu nhiên đơn giản từ mỗi nhóm trong tổng thể nghiên cứu. Tùy theo đặc điểm nghiên cứu, tổng thể có thể được phân tầng theo nhiều tiêu thức khác nhau; và có thể phân tầng một cấp (một tiêu thức) hoặc nhiều cấp (nhiều tiêu thức). Khi chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng có thể theo tỷ lệ (tỷ lệ mẫu tương ứng với tỷ lệ tổng thể) hoặc không theo tỷ lệ. Ưu điểm của phương phápPTIT chọn mẫu là sự phân nhóm có thể làm gia tăng mức độ chính xác của việc đánh giá các đặc điểm tổng thể nghiên cứu; thực hiện thuận tiện, mẫu khá toàn diện. Nhược điểm của phương pháp này là cần phải lập danh sách các đơn vị lấy mẫu theo từng nhóm; tốn kém chi phí đi lại, đặc biệt khi tổng thể nghiên cứu trải rộng trên một vùng địa lý rộng lớn. Với những ưu điểm và nhược điểm trên, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng thường được áp dụng khi tổng thể nghiên cứu có sự phân bố của đặc điểm nghiên cứu rất rời rạc, hay tập trung trên những điểm nhỏ bị phân tán của tổng thể. Chọn mẫu theo cụm (cluster sampling) Chọn mẫu theo cụm là phương pháp chọn mẫu được tiến hành bằng cách lấy những nhóm riêng biệt hoặc những cụm của những đơn vị nhỏ hơn. Những cụm của mẫu có thể được chọn bằng cách lấy mẫu ngẫu nhiên hay lấy mẫu có hệ thống với một sự khởi đầu ngẫu nhiên. 51
  11. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Tương tự với nhóm trong lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng, các cụm là các nhóm phụ riêng biệt với nhau cùng tạo nên tổng thể nghiên cứu. Tuy nhiên, không giống như nhóm, các cụm được tạo nên bởi những phần tử dị biệt, không đồng nhất, miễn sao mỗi nhóm sẽ là đặc trưng của tổng thể nghiên cứu. Ví dụ, nghiên cứu về sinh viên trong một trường đại học, thay vì chọn các phần tử là sinh viên theo kích thước mẫu, có thể chọn đơn vị lấy mẫu là lớp; do vậy không cần phải lập danh sách sinh viên, mà lập danh sách các lớp. Khi thực hiện điều tra, thì tất cả sinh viên trong một lớp được chọn đều được tiếp xúc. Ưu điểm của phương pháp chọn mẫu theo cụm là không cần thiết phải xây dựng một danh sách tất cả các phần tử trong tổng thể nghiên cứu, mà cấu trúc đối với lấy mẫu theo cụm là một danh sách các cụm. Ngay cả khi danh sách các phần tử đã có sẵn, việc lấy mẫu theo cụm vẫn ít tốn kém hơn về chi phí. Nhược điểm của phương pháp này là ở chỗ trong thực tế, lấy mẫu theo cụm không hiệu quả bằng lấy mẫu ngẫu nhiên hay phân tầng. Chẳng hạn, những hộ gần kề nhau thường có đặc điểm tương tự nhau hơn những hộ riêng biệt. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tính đại điện của mẫu, và được thểhiện qua sai số chọn mẫu tăng. Phương pháp chọn mẫu theo cụm được áp dụng khi danh sách đầy đủ các phần tử trong tổng thể nghiên cứu không có sẵn, hoặc khi chi phí điều tra thấp được xem là quan trọng hơn so với yêu cầu vềsự chính xác. 5.3.3. Xác định cỡ mẫu a. Các yếu tố ảnh hưởng Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định cỡ mẫu nghiên cứu như mục tiêu, nội dung và phạm vi nghiên cứu, nguồn lực dành cho nghiên cứu (thời gian, tài chính, ), phương pháp chọn mẫu Tuy nhiên, 3 nhân tố ảnh hưởng trực tiếp nhất đến việc xác định cỡ mẫu nghiên cứu phải kể đến là: Sự phong phú của tổngPTIT thể nghiên cứu: tổng thể nghiên cứu càng phong phú, thông thường cỡ mẫu sẽ càng lớn Độ tin cậy mong muốn khi ước lượng (và trị số z, mức ý nghĩa (p, sig) tương ứng): độ tin cậy càng cao thì cỡ mẫu sẽ phải càng lớn. Thông thường, trong phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu hay sử dụng độ tin cậy là 95% (tương ứng với trị số z=1.95 và mức ý nghĩa là 0.05). Sai số cho phép khi ước lượng (e). Thông thường mức độ sai số chấp nhận của nhà nghiên cứu càng thấp thì cỡ mẫu phải càng lớn. Sai số có thể đo bằng một giá trị thực, cũng có thể được đo bằng %. o Ví dụ 1: Khi điều tra thu nhập trung bình trên một địa bàn dân cư, ta muốn rằng ước lượng về thu nhập trung bình của mẫu sẽ nằm trong 52
  12. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng khỏang trên dưới 50.000 đồng so với trị số trung bình thật của tổng thể nghiên cứu, khi đó E= ± 50.000. o Ví dụ 2: Điều tra mức tiêu thụ trung bình về bia, ta muốn rằng ước lượng về mức tiêu thụ trung bình về bia của mẫu nằm trong khỏang trên dưới 5% hay 0,05 so với trị số trung bình thật của tổng thể nghiên cứu, khi đó: E = ± 0,05 b. Phương pháp xác định cỡ mẫu Hiện nay, không có nguyên tắc cố định về xác định cỡ mẫu trong nghiên cứu định lượng, đặc biệt khi nhà nghiên cứu lựa chọn phương pháp chọn mẫu phi xác suất. Trong trường hợp phương pháp chọn mẫu xác suất, nhà nghiên cứu có thể lựa chọn một trong 2 công thức xác định cỡ mẫu như được trình bày sau đây. Việc lựa chọn phương pháp nào phụ thuộc vào những thông tin mà nhà nghiên cứu có. Xác định cỡ mẫu trong chọn mẫu phi xác suất o Cỡ mẫu khi ước lượng trung bình tổng thể: phương pháp này áp dụng khi nhà nghiên cứu có các thông tin về độ lệch chuẩn và sai số nghiên cứu (đo lường bằng giá trị tuyệt đối) . n: cỡ mẫu . Z: trị số Z tương ứng với độ tin cậy lựa chọn . δ : độ lệch chuẩn . e: sai số chấp nhận (được đo bằng số tuyệt đối) o Cỡ mẫu khi ước lượng tỉ lệ trong tổng thể : phương pháp áp dụng khi nhà nghiên cứu có cácPTIT thông tin về mẫu dưới dạng số % (tỉ lệ nam, nữ ) và sai số chấp nhận được đo bằng % . n: cỡ mẫu . Z: trị số Z tương ứng với độ tin cậy lựa chọn . P : Tỉ lệ phần tử trong tổng thể có đặc điểm mong muốn (Q= 1-P) . e: sai số chấp nhận (được đo bằng số %) 53
  13. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Xác định cỡ mẫu trong chọn mẫu phi xác suất Quyết định về kích thước mẫu trong chọn mẫu phi xác suất thường được xác định một cách chủ quan chứ không dựa theo công thức tính toán như chọn mẫu xác suất. Người nghiên cứu quyết định kích thước mẫu mà theo cảm tính của họ là đại diện cho tổng thể. Trong nhiều cuộc nghiên cứu, sự hạn chế về tài chính là yếu tố quan trọng nhất đối với việc xác định kích thước mẫu thích hợp. Tuy nhiên, theo Hair & al (2010) và nhiều nhà nghiên cứu, việc xác định cỡ mẫu trong trường hợp xác định mẫu khi nhà nghiên cứu áp dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất phụ thuộc vào phương pháp phân tích dữ liệu áp dụng cũng như số lượng các biến (items) phải sử dụng trong phương pháp đó. 5.4. ĐO LƢỜNG VÀ THANG ĐO 5.4.1. Khái niệm và ý nghĩa của đo lƣờng a. Khái niệm Đo lường trong nghiên cứu marketing là quá trình gắn những con số hoặc các biểu tượng đối với những đặc tính của các sự vật, hiện tượng nghiên cứu theo các nguyên tắc đã được xác định để có thể đánh giá, so sánh và phân tích chúng. Không phải các sự vật được đo lường mà người nghiên cứu đo lường các thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Sự vật được hiểu theo nghĩa rộng, có thể là một con người, một nhãn hiệu, một doanh nghiệp, một sự kiện Ví dụ khi nghiên cứu về người tiêu dùng, người nghiên cứu sẽ đo lường mức thu nhập cá nhân, tầng lớp xã hội, trình độhọc vấn, chiều cao, cân nặng, thái độ hay bất kỳ thuộc tính nào khác của họ, hay để đo lường thái độ của khách hàng với nhãn hiệu nước mắm Chinsu, người ta có thể sử dụng những số1, 2, 3, 4 và 5 để biểu thị các mức độ ưa thích của khách hàng đối với nhãn hiệu nước mắm này, trong đó (1) hoàn toàn không thích, (2) không thích, (3) không quan tâm, (4) thích, (5)PTIT rất thích. Đối với một quá trình đo lường, hai vấn đề cần thiết phải đảm bảo là (1) mỗi một con số hoặc kí tự chỉ được gắn với một thuộc tính của sự vật đang được đo lường và (2) việc gắn số hoặc kí tự này phải nhất quán đối với các sựvật được đo lường. b. Ý nghĩa của đo lường Đo lường được xem là công việc cơ bản của nghiên cứu marketing: đo lường những hiện tượng marketing là cơ sở để cung cấp các tin tức có ý nghĩa giúp cho việc ra quyết định. Các quyết định marketing đều được đưa ra trên cơ sở xử lý các dữ liệu đã được đo lường. Chẳng hạn để phân đoạn thị trường theo đặc điểm nhân khẩu, người làm marketing phải có các dữ liệu đo lường đặc điểm nhân khẩu của thị trường: tổng số người; tỷ lệ nam, nữ; tỷ lệ theo từng độ tuổi 54
  14. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Nhờ đo lường mà các đặc tính của sự vật được biến thành dạng dữ liệu mà nhà nghiên cứu có thể phân tích được, các đặc tính khác nhau đó giúp ta phân biệt các sự vật với nhau. Những đặc tính của cá nhân khách hàng và rất nhiều những hiện tượng khác đều là những quan tâm của người nghiên cứu marketing và cần được đo lường, đánh giá. Những thông tin về chúng là cần thiết cho các quyết định Marketing. Có những đặc tính của sự vật là định lượng như mức thu nhập, độ tuổi của khách hàng, nhưng có nhiều đặc tính chỉ ở dạng định tính như mức độ nhận biết, thái độ của người tiêu dùng về một nhãn hiệu hàng hóa chẳng hạn. Đo lường những đặc tính như vậy là hết sức quan trọng trong nghiên cứu arketing. Các cố gắng để gắn các con số cho các đặc tính sự vật là hết sức quan trọng vì các phân tích tính toán và thống kê chỉ có thể thực hiện bằng các con số. 5.4.2. Các thang đo Trong nghiên cứu marketing, việc đo lường có thể được thực hiện bằng cách sử dụng những thang đo giúp cho việc định lượng các vấn đề nghiên cứu. Có bốn loại thang đo lường thường được sử dụng là thang đo định danh (định danh), thang đo thứ tự, thang đo khoảng và thang đo tỷ lệ. Việc và sử dụng thang đo lường nào sẽ định hướng cho việc sử dụng các công cuộc phân tích sau này của người nghiên cứu, đồng thời nó cũng giúp cho việc trình bày công cụ thu thập dữ liệu (cụ thể là bảng câu hỏi) được rõ ràng hơn. a. Thang đo định danh (Nominal scale) Thang đo định danh là thang đo sử dụng các con số hoặc kí tự đánh dấu để phân loại đối tượng hoặc sử dụng như ký hiệu để phân biệt và nhận dạng đối tượng. Thang đo định danh chỉ biểu hiện về mặt ý nghĩa định danh mà hoàn toàn không biểu hiện về định lượng của đối tượng đó. Khi một thang định danh được sử dụng với mục đích chỉ danh, nó tồn tại một quan hệ tương ứng một một giữa con số và đối tượng: một đối tượng tương ứng chỉvới một conPTIT số và mỗi con số chỉ gắn với mỗi đối tượng. Thang đo định danh dùng để chỉ danh các đồ vật, những con số sử dụng trong thang định danh chỉcó tính quy ước như mã số điện thoại, số chứng minh thư Chúng được dùng để xác định các sự vật hoặc các thuộc tính của sự vật nghiên cứu. Thông thường, trong nghiên cứu marketing, thang định danh được sử dụng để xác định những người trả lời và các đặc điểm của họ như giới tính, khu vực địa lý dân cư, nghề nghiệp, tôn giáo, các nhãn hiệu, các thuộc tính của sản phẩm, các cửa hàng và những sự vật nghiên cứu khác. Ví dụ 1: Giới tính của người trảlời : Nữ (0), Nam (1) Ví dụ 2: Tình trạng hôn nhân: Đã có gia đình (1) Chưa có gia đình (0) 55
  15. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng b. Thang đo thứ tự (Ordinal scale) Thang điểm này cung cấp thông tin về mối quan hệ thứ tự giữa các sự vật. Cấp độ của thang đo lường này bao gồm cả thông tin về sự định danh và xếp hạng theo thứtự. Nó cho phép xác định một đặc tính của một sự vật này có hơn một sự vật khác hay không, nhưng không cho phép chỉ ra mức độ sự khác biệt này. Thang đo thứ tự được dùng rất phổ biến trong nghiên cứu marketing để đo lường thái độ, ý kiến, quan điểm, nhận thức và sở thích. Ví dụ, nhà nghiên cứu đang muốn thăm dò sự ưa thích của khách hàng về 5 cửa hàng mà họ đang xem xét bằng cách đề nghị người trả lời xếp hạng ưa thích của họ đối với các cửa hàng đó theo thứ tự ưa thích nhất thì người trả lời sẽ xếp thứ 1, tiếp theo là thứ2, 3, 4 và 5 cho từng cửa hàng. Cách thiết kế thang đo này trên thực tế sẽ như sau: Xin bạn vui lòng sắp xếp các cửa hàng sau đây sau đây từ thích nhất (số 1) đến không thích nhất (số 5) Cửa hàng Cửa hàng Cửa hàng Cửa hàng Cửa hàng A B C D E      Khi sử dụng thang đo lường thứ tự, người nghiên cứu chỉ diễn tả được thứ tự xếp hạng mà không diễn tả được khoảng cách giữa các thứ hạng là bao nhiêu. Cũng như thang định danh, các con số trong thang thứ tự được gán một cách quy ước. Nhưng vì các hạng mục tự nó có trật tự nên hệ thống số phải có trật tự. Người nghiên cứu có thể biến đổi một thang thứ tự mà không làm thay đổi tính chất của nó. Không nhất thiết phải gán các số từ 1 đến 5 để đạt được một sự sắp xếp về sự ưa thích cho 5 cửa hàng nói trên, người nghiên cứu có thể gán các con số10, 25, 30, 45 và 50, và việc này là hoàn toàn hợp lệ. Tuy nhiên, người nghiên cứu cần phải chú ý là nếu sự vật hiện tượng nào được gán bởi số 10PTIT thì sẽ được ưa thích nhiều hơn so với được gán số 25, 30 nhưng nó không có nghĩa là 25 sẽ hơn 10 là 15 đơn vịv à cũng không có ý nghĩa là 25 gấp 10 là 2,5 lần. Người nghiên cứu cần chú ý và xem xét đặc tính này để so sánh với loại thang đo tỷ lệ được đề cập ở phần sau. Cũng giống như thang định danh, các phép toán sốhọc thông dụng như: cộng, trừ, nhân, chia không thể áp dụng trong thang đo thứtự. Thống kê một biến thường dùng cho thang đo định danh là phân tích tần suất, phần trăm, trung vị trong khi đó thống kê hai biến là những phương pháp thống kê dựa trên các quan hệ thứ tự. c. Thang đo khoảngcách (Interval scale) Thang đo thứ tự cho phép người nghiên cứu biểu thị sự khác nhau nhưng chưa cho phép người nghiên cứu có thểso sánh sự khác nhau đó. Thang điểm khoảng có tất 56
  16. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng cả các thông tin của một thang thứ tự và nó còn cho phép so sánh sự khác nhau giữa các thứtự đó. Các con số biểu thị những điểm cụ thể trên thang đo lường. Sự khác nhau giữa 1 và 2 bằng sự khác nhau giữa 3 và 4, và dĩ nhiên sự khác nhau giữa 2 và 4 bằng 2 lần sự khác nhau giữa 1 và 2. Trong thang đo khoảng cách dữ liệu khoảng không có điểm gốc, vị trí của 0 là không cố định. Điểm 0 và các đơn vị đo lường là tùy tiện. Điểm 0 là không cố định nên không thể tính toán tỷ lệ các giá trị của thang đo. Trong ví dụ về nghiên cứu mức độ ưa thích 2 cửa hàng quần áo thời trang A và B, mức độ ưa thích của một người được hỏi được biểu thị theo một thang đo khoảng cách 7 điểm. Cửa hàng A có một điểm số đánh giá là 6, cửa hàng B có điểm sốl à 2, nhưng điều đó không có nghĩa mức độ ưa thích của người này đối với cửa hàng A gấp 3 lần B. Đối với các dữ liệu khoảng, người nghiên cứu có thể làm các phép tính cộng trừ, phân tích những phép thống kê thông thường như số trung bình, độ lệch chuẩn, phương sai, có thể được sử dụng. Nhưng vì đây là thang đo không có điểm gốc qui chiếu nên không làm được phép chia. Mức độ quan trọng của mỗi yếu tố trên nếu được đánh giá trong mối tương quan với các yếu tố khác thì rất có ý nghĩa. Chẳng hạn, thông tin về sản phẩm tính được giá trị trung bình là 1,5 không nói lên điều gì nhưng nếu so sánh với yếu tố thông tin về công ty tính được là 3,5 thì có nghĩa là trong quảng cáo người ta quan tâm chủ yếu hơn vào thông tin về sản phẩm so với thông tin về công ty. Trong thang đo khoảng cách thì thang đo Likert và thang đo lưỡng cực (phổ biến là 5 nấc hoặc 7 nấc) là 2 loại thang đo được sử dụng rất phổ biến trong nghiên cứu marketing để đo lường quan điểm, thái độ, sự hài lòng của khách hàng. Thang đo Likert là thang đo mà các quan điểm mà nhà nghiên cứu muốn thăm dò người trả lời được thiết kế dưới dạng các nhận định và nhà nghiên cứu sẽ đo lường quan điểm của kháchPTIT hàng theo mức độ đồng ý hay không với những nhận định đó.Ví dụ: Dưới đây là những nhận định liên quan đến đặc trưng cá nhân, hoặc sở thích, quan điểm của anh/chị trong cuộc sống. Xin anh/chị vui lòng cho biết quan điểm của mình với những nhận định đó bằng cách khoanh tròn vào số phù hợp, từ 1 (nếu anh/chị rất không đồng ý với nhận định đó) đến 7 (nếu anh/chị rất đồng ý với nhận định đó) Rất Rất không đồng ý đồng ý 1 Tôi luôn thích thử những điều gì mới mẻ và khác biệt 1 2 3 4 5 6 7 2 Tôi là người năng động 1 2 3 4 5 6 7 3 Tôi thích đi ra ngoài và giao tiếp với mọi người xung quanh 1 2 3 4 5 6 7 57
  17. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Mọi người xung quanh thường xin lời khuyên/tư vấn của tôi về 4 1 2 3 4 5 6 7 các sản phẩm mà họ định mua 5 Tôi tự tin về tôi và tương lai của mình 1 2 3 4 5 6 7 Tôi luôn suy nghĩ kỹ trước khi quyết định mua một sản phẩm nào 6 1 2 3 4 5 6 7 đó 7 Tôi thích thử các một sản phẩm trước khi mọi người thử 1 2 3 4 5 6 7 Thang đo lưỡng cực: là thang đo trong đó nhà nghiên cứu thường dùng các cặp tính từ đối lập để đo lường quan điểm, thái độ hay sự hài lòng của khách hàng. Ví dụ: Anh/chị hài lòng như thế nào về cửa hàng A? Không hài lòng chút nào 1 2 3 4 5 6 7 Rất hài lòng d. Thang đo tỷ lệ (Ratio scale) Thang điểm tỷ lệ có tất cả các đặc điểm của thang định danh, thang thứ tựvà thang khoảng cách và ngoài ra nó còn có điểm 0 cố định. Do vậy, với thang đo này, người nghiên cứu có thể xác định, xếp hạng thứ tự, so sánh các khoảng cách hay những sự khác biệt và cho phép tính toán tỷ lệ giữa các giá trị của thang đo. Người nghiên cứu có thể nói đến các khái niệm gấp đôi, một nửa trong thang đo này. Trong nghiên cứu marketing, thang tỷ lệ thường dùng để đo lường chiều cao, trọng lượng, tuổi, thu nhập của các cá nhân, mức bán, doanh số của doanh nghiệp hoặc mức giá mà người tiêu dùng sẵn sàng trảcho sản phẩm. Ví dụ: Thu nhập trung bình năm của anh/chị là bao nhiêu? Xin vui lòng ghi số cụ thể: Trong ví dụ khác, người nghiên cứu có thể đặt câu hỏi để biết trong tổng số 100 điểm cố định, khách hàng đồngPTIT ý chia bao nhiêu điểm cho mỗi cửa hàng trong 5 cửa hàng (A, B, C, D, E) mà họ muốn thăm dò ý kiến khách hàng theo mức độ ưa thích của họ. Một người tiêu dùng đã đánh giá cửa hàng C 60 điểm và chỉ 20 điểm ở cửa hàng D, như vậy, ta có thể hiểu cửa hàng C được ưa thích gấp 3 lần cửa hàng D. Trong thang đo tỉ lệ này, điểm 0 là cố định, 0 điểm biểu thị rằng người này không ưa thích tý nào cửa hàng đó. Thang điểm tỷ lệ là loại thang đo có thể áp dụng tất cả các phương pháp thống kê. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải người nghiên cứu nào cũng luôn luôn sử dụng loại thang đo này. Những thuận lợi của việc lượng hóa này có thể được bổ sung bởi các dữ liệu do 3 loại thang đo kia đưa lại, do vậy cần cân nhắc để lựa chọn loại thang đo thích hợp và sử dụng chúng. 58
  18. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng 5.5. THIẾT KẾ BẢNG CÂU HỎI 5.5.1. Khái niệm và đặc điểm của bảng câu hỏi a. Khái niệm Bảng câu hỏi là một công cụ để thu thập dữ liệu định lượng, nó bao hàm một tập hợp các câu hỏi và câu trả lời theo một logic nhất định. Do vậy, xây dựng bảng câu hỏi là một tiến trình được chính thức hóa nhằm thu thập, ghi chép lại những thông tin xác đáng và được chỉ định rõ với sự chính xác và hoàn hảo tương đối. Tiến trình này có thể bao gồm việc (1) khảo sát thực địa cho việc lựa chọn, tiếp cận và phỏng vấn người trả lời, (2) người phỏng vấn có thể kết hợp những phương tiện khác như tranh ảnh, sản phẩm, catologue và mẫu hàng quảng cáo để giới thiệu cùng người trả lời cũng như (3) sử dụng quà tặng hay thù lao để khuyến khích người trả lời trả lời. Do vậy, nội dung của bảng câu hỏi cần đáp ứng được những mục tiêu của dự án nghiên cứu đưa ra. b. Đặc điểm của một bảng câu hỏi tốt Bản câu hỏi tốt phải giúp điều khiển quá trình đặt câu hỏi và giúp cho việc ghi chép được rõ ràng, chính xác. Bảng câu hỏi có các nhiệm vụ liên quan đến người được phỏng vấn: - Phải chuyển tải nội dung muốn hỏi (hay thông tin yêu cầu đạt được) vào trong các câu hỏi; sau quá trình phỏng vấn, đòi hỏi người nghiên cứu phải có thông tin theo mục tiêu của nghiên cứu. - Giúp người được phỏng vấn hiểu biết rõ ràng các câu hỏi. - Khuyến khích người được phỏng vấn hợp tác và tin rằng những câu trả lời của họ sẽ được giữ kín. - Khuyến khích sự trả lời thông qua sự xem xét lại nội tâm kỹ hơn, lục lại trí nhớ hay liên hệ với những điềuPTIT đã ghi chép. - Hướng dẫn rõ ràng những điều người được hỏi muốn biết và cách trả lời. - Xác định những nhu cầu cần biết để phân loại và kiểm tra lại cuộc phỏng vấn. - Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, bảng câu hỏi phải được lập sao cho người đi phỏng vấn dễ thực hiện và cũng nên tiên liệu trước những yêu cầu để việc xử lý thông tin được hiệu quả. 5.3.2. Qui trình thiết kế bảng câu hỏi Do sự chính xác và thích hợp của các dữ liệu thu thập được phụ thuộc chủ yếu vào bảng câu hỏi, vì vậy thiết kế một bảng câu hỏi tốt sẽ có tác dụng rất lớn đến sự thành công của một dự án nghiên cứu. Việc thiết kế một bảng câu hỏi được coi như là một nghệ thuật hơn là một khoa học, điều đó hàm ý rằng, bạn sẽ chẳng bao giờ sáng 59
  19. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng tạo ra được một bảng câu hỏi phỏng vấn chỉ dựa vào việc đọc sách mà cần phải bắt tay vào soạn thảo và thực hành liên tục. Các nhà nghiên cứu marketing đã tổng kết được 8 bước cơ bản về trình tự thiết kế một bảng câu hỏi (hình 6.1): Hình 6.1. Qui trình thiết kế bảng câu hỏi Bƣớc 1: Xác định các dữ kiện riêng biệt cần tìm Điểm đầu tiên khi bắt tayPTIT vào thiết kế bảng câu hỏi là nhà nghiên cứu cần phải xem xét mục tiêu nghiên cứu để xác định chính xác cái gì cần phải được đo lường. Liệt kê những gì cần đo lường, có thể là danh sách những ý hỏi (items) và câu hỏi riêng biệt4, những nhóm chữ hay từ chủ yếu. Nếu danh sách này quá dài, nhà nghiên cứu cần phải loại bỏ bớt những nội dung quá xa với mục tiêu nghiên cứu để tiết kiệm thời gian và chi phí. Sau đó, dự tính xem những biến số được đo lường sẽ được sử dụng như thế nào, nên dùng loại kỹ thuật phân tích nào để mang lại ý nghĩa cho dữ liệu. 4 Để có được những ý hỏi trong các câu hỏi (items), nhà nghiên cứu có thể vay mượn các thang đo khác trong những nghiên cứu có bối cảnh tương tự. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu sẽ khó tìm kiếm được những thang đo này. Chính vì vậy, trong phần lớn các trường hợp, những items này được thu thập thông qua giai đoạn nghiên cứu định tính (bằng phương pháp phỏng vấn). Nhà nghiên cứu tuyệt đối không dung những suy đoán chủ quan của mình khi đưa ra danh sách những items trong bảng hỏi để đảm bảo tính khách quan và khoa học trong nghiên cứu. 60
  20. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Bƣớc 2: Xác định phƣơng pháp điều tra Trong bước này, người nghiên cứu cần quyết định dùng phương pháp nào để tiếp xúc với người được phỏng vấn (phỏng vấn trực tiếp, gọi điện thoại, gửi thư hay Internet ). Các phương pháp tiếp xúc khác nhau sẽ yêu cầu nội dung, cũng như cấu trúc câu hỏi của bảng câu hỏi khác nhau. Bƣớc 3: Đánh giá nội dung câu hỏi Mục tiêu và nội dung của vấn đề nghiên cứu quyết định nội dung các câu hỏi trong bảng câu hỏi. Thế nhưng, việc có được những thông tin thích đáng từ những câu trả lời hay không lại phụ thuộc rất lớn vào khả năng phác thảo bảng câu hỏi của người nghiên cứu. Do vậy, khi xây dựng các câu hỏi, cần cân nhắc các tiêu chuẩn sau: Câu hỏi đặt ra có cần thiết hay không? Mỗi một câu hỏi đưa ra người nghiên cứu cần phải tự hỏi là câu hỏi đó có đóng góp và làm rõ mục tiêu nghiên cứu hay không, nếu không thì nên loại bỏ những câu hỏi này. Trên thực tế, trong một bảng câu hỏi cũng có một số câu hỏi tuy không thực sự liên quan trực tiếp đến mục tiêu nghiên cứu nhưng nó có thể dẫn dắt, định hướng và giúp cho người phỏng vấn gợi nhớ lại thông tin và trả lời chính xác những thông tin đó. Người trả lời có hiểu được câu hỏi đó không? Người trả lời không hiểu câu hỏi có thể do nhiều nguyên nhân, thông thường là do người nghiên cứu dùng các thuật ngữ không quen thuộc với người được hỏi; thiếu định nghĩa rõ ràng về các thuật ngữ sử dụng; hoặc đặt câu hỏi mơ hồ, bỏ qua những khác biệt về văn phong, thói quen giao tiếp giữa những người có sắc tộc hoặc văn hóa khác nhau Trong bảng câu hỏi, người nghiên cứu cũng nên dùng ngôn từ quen thuộc. Câu hỏi nên được xây dựng đúng cú pháp, văn phạm, tránh dùng câu phức, tránh dùng tiếng lóng hay các thuật ngữ chuyên môn Người trả lời có được nhữngPTIT thông tin cần thiết để trả lời các câu hỏi đó không? Người được hỏi không trả lời được hoặc trả lời không đúng do 2 nguyên nhân: thiếu kiến thức về vấn đề được hỏi hoặc không nhớ sự kiện do câu hỏi đòi hỏi sự hồi tưởng quá nhiều. Để khắc phục tình trạng này, nhà nghiên cứu có thể sử dụng một số biện pháp sau: - Hỏi nhiều câu hỏi để gợi lại trí nhớ. - Xác định khoảng thời gian rõ ràng, thời gian càng xa độ chính xác của câu trả lời càng giảm. - Hỏi các câu hỏi có tính chất liên tưởng, gợi sự liên quan giữa các sự kiện để người trả lời nhớ lại. - Đề nghị người trả lời nêu rõ sự kiện nào họ nhớ chính xác nhất và sự kiện nào còn mơ hồ. 61
  21. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Người trả lời liệu có cung cấp các thông tin đó không? Người trả lời không muốn trả lời hoặc trả lời sai một cách cố ý là do câu hỏi đi vào những vấn đề có tính chất riêng tư, những vấn đề bí mật không muốn tiết lộ, hoặc các câu hỏi nghiên cứu động cơ mà người trả lời e ngại sự đánh giá của người khác khi trả lời Để biết được các thông tin này, người nghiên cứu có thể sử dụng các biện pháp: Dùng câu hỏi gián tiếp, chẳng hạn thay vì hỏi về thu nhập có thể hỏi sang vấn đề chi tiêu. Thăm dò bằng cách gửi thư và không cần cho biết tên và địa chỉ. Thuyết phục người trả lời bằng cách nêu rõ mục đích của cuộc điều tra, gây sự tin tưởng nơi người hỏi. Ngay cả khi một người trả lời có khả năng trả lời cụ thể một câu hỏi nào đó, họ cũng có thể không sẵn lòng để trả lời. Có thể họ phải cố gắng nhiều để trả lời trong một tình trạng hoặc một ngữ cảnh có thể không thấy thích hợp để biểu lộ, hoặc là do mục đích hay nhu cầu về thông tin không rõ ràng, hoặc là do thông tin được hỏi dễ làm người ta mặc cảm. Để gia tăng sự sẵn lòng của người trả lời, người nghiên cứu cần chú ý và sử dụng các kĩ thuật dưới đây: Đặt những câu hỏi nhạy cảm ở cuối bảng câu hỏi. Kết thúc bảng câu hỏi thường là câu cảm ơn người trả lời đã bỏ thời gian tham gia trả lời phỏng vấn. Chẳng hạn như "Bảng câu hỏi kết thúc, xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình trả lời của Ông/Bà (Anh/Chị)". Mở đầu một bảng câu hỏi bằng một đọan văn ngắn gọn tự giới thiệu về mục đích của nghiên cứu. Chẳng hạn như "Xin chào Ông/Bà (Anh/Chị), tôi là đang làm việc cho Công ty Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu về Xin Ông/Bà (Anh/Chị) sẵn lòng giúp chúng tôi trả lời một số câu hỏi. Tôi xin bảo đảm sẽ giữ kín các câu trả lời của Ông/BàPTIT (Anh/Chị). Bƣớc 4: Quyết định dạng câu hỏi và câu trả lời Có hai dạng câu hỏi chính sau: Câu hỏi đóng: Câu hỏi đóng là dạng câu hỏi mà cả câu hỏi lẫn câu trả lời đều được cấu trúc. Nhìn chung, câu hỏi đóng tạo nhiều thuận lợi cho người trả lời do không phải dành nhiều thời gian suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình. Cũng do vậy, thời gian hoàn thành bảng hỏi sẽ nhanh hơn. Lợi thế này đặc biệt phát huy đối với những câu hỏi có nhiều chi tiết. Mặt khác, việc sử dụng các câu hỏi đóng tạo nhiều thuận tiện cho nhà nghiên cứu trong xử lý, tính toán và phân tích dữ liệu. Chính vì những lợi thế này, câu hỏi đóng là hình thức câu hỏi được sử dụng chủ đạo trong các bảng câu hỏi nghiên cứu marketing. Tuy nhiên, khi sử dụng dạng câu hỏi này, nhà nghiên cứu phải ngiên cứu kỹ lượng cách đo lường và đặt câu 62
  22. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng hỏi, và sử dụng từ ngữ chính xác. Mặt khác, nhà nghiên cứu cũng cần phải thận trọng khi đưa ra các phương án lựa chọn cho người trả lời (các phương án phải đủ, và bao quát được tất cả các ngữ cảnh có thể). Câu hỏi mở: Câu hỏi mở là dạng câu hỏi mà trong đó câu hỏi được cấu trúc còn câu trả lời thì không. Người trả lời có thể trả lời với bất cứ thông tin nào và bất cứ câu nào được coi là thích hợp. Người phỏng vấn sẽ có nhiệm vụ viết lại chính xác những gì có thể thu thập được. Với những câu hỏi mở, người trả lời có thể tự do trả lời câu hỏi theo ý mình tùy theo phạm vi tự do trong nội dung câu hỏi đặt ra cho họ. Nhờ điều này, việc dùng những câu hỏi mở có những ưu điểm là cho phép người nghiên cứu thu được những câu trả lời bất ngờ, không dự liệu trước. Người trả lời có thể bộc lộ rõ ràng hơn quan điểm của mình về một vấn đề nào đó, mà không bị gò bó bởi nội dung câu hỏi. Mặt khác việc dùng câu hỏi mở cũng góp phần giảm bớt sự thất vọng của người trả lời so với câu hỏi đóng là không có cơ hội phát biểu ý kiến, chỉ lựa chọn trong tình huống có sẵn. Câu hỏi mở cũng có tác dụng tốt lúc mở đầu cuộc phỏng vấn, tạo mối quan hệ với người được hỏi. Tuy nhiên, những khó khăn khi sử dụng câu hỏi mở trong nghiên cứu marketing cũng rất nhiều. Thứ nhất, người trả lời có thể gặp khó khăn để hiểu người trả lời khi họ diễn đạt kém. Dạng câu hỏi này ít được dùng trong trường hợp phỏng vấn bằng thư tín vì tâm lý người được hỏi thường ngại viết hơn là nói. Mặt khác, kết quả thu được phụ thuộc vào sự ghi chép của người phỏng vấn, nên có thể bỏ qua những chi tiết quan trọng không ghi chép lại vì cho rằng không cần thiết. Một hạn chế lớn nhất của câu hỏi mở chính là gây nhiều khó khăn khi mã hóa dữ liệu và phân tích chúng. Chính vì những lý do này mà việc sử dụng câu hỏi mở thường bị hạn chế trong các cuộc nghiên cứu marketing, đặc biệt khi nó muốn vươn tới một qui mô lớn. Bƣớc 5: Xác định từ ngữ trongPTIT bảng câu hỏi Bảng câu hỏi là phương tiện giao tiếp giữa người nghiên cứu và người trả lời trong tất cả các phương pháp phỏng vấn. Do vậy, để có thể thu được các dữ liệu và các số liệu có ý nghĩa, nhà nghiên cứu cần phải hiểu được những hiệu ứng tiềm ẩn do việc sử dụng từ ngữ. Tuy nhiên, việc thiết kế bảng câu hỏi mang tính nghệ thuật rất cao cho nên không có qui tắc nhất định để xác định câu hỏi chính xác cho các vấn đề cá nhân. Sau đây là một số chỉ dẫn được rút ra từ kinh nghiệm của các chuyên gia nghiên cứu marketing giúp xác định đúng từ ngữ sử dụng khi thiết kế câu hỏi: Dùng từ ngữ quen thuộc, tránh dùng tiếng lóng và từ chuyên môn. Dùng từ ngữ đơn giản để mọi người có thể hiểu ở bất luận trình độ học vấn nào. Tránh sử dụng các câu hỏi dài bởi vì sẽ dễ làm nản lòng người trả lời, hoặc không theo dõi được. 63
  23. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng Từ ngữ trong câu hỏi càng rõ ràng, chính xác càng tốt; những từ ngữ khó diễn đạt, hoặc khó hiểu “thường xuyên”, “thông thường” cần được ghi chú mức độ rõ ràng Ví dụ: Bạn có thường đi xem phim không? Ít hơn một lần ___ 1-2 lần / tuần ___ 3-5 lần / tuần ___ Hơn 5 lần / tuần ___ Tránh câu hỏi lặp lại, tức là một câu hỏi mà có nhiều câu trả lời cùng một lúc. Ví dụ: “Bạn có cho rằng bánh này vừa ngon vừa ngọt không?”. Tránh các câu hỏi gợi ý, là câu hỏi có hướng dẫn hoặc ngầm đặt câu trả lời. Ví dụ: “Bạn đồng ý rằng sản phẩm A có chất lượng tốt chứ?” Tránh các câu hỏi định kiến: Là câu hỏi mà các khoản mục trả lời được thiết kế thiên về một phía “tiêu cực” hoặc “tích cực”. Tránh các câu hỏi đòi hỏi sự hồi tưởng quá nhiều, và do vậy khi trả lời, người được hỏi sẽ phải phỏng đoán. Bƣớc 6: Xác định cấu trúc bảng câu hỏi Ở bước này, người nghiên cứu sẽ phải sắp xếp các câu hỏi theo một trình tự nhất định, thuận tiên cho người đi phỏng vấn. Một cách tổng quát, người ta có thể chia các câu hỏi thành 5 loại và tạo thành 5 phần chính trong bảng câu hỏi theo chức năng của chúng đóng góp vào sự thành công của cuộc phỏng vấn. Phần mở đầu hoặc câu hỏi hướng dẫn: Có tác dụng mở đầu cuộc phỏng vấn thuận tiện, khởi đầu cho chuỗi những câu trả lời và gây thiện cảm với người được phỏng vấn. Câu hỏi sàng lọc: Có tácPTIT dụng chỉ rõ đối tượng cần được phỏng vấn, tránh phải phỏng vấn những người không có kiến thức về vấn đề đang điều tra. Câu hỏi hâm nóng: Có tác dụng gợi nhớ thông tin và tập trung vào chủ đề nghiên cứu, tránh các cảm xúc đột ngột khi đi vào chủ đề quá nhanh, người trả lời có thể chưa tạo được hứng thú và hồi tưởng thông tin kịp. Các câu hỏi đặc thù: là những câu hỏi đi vào chủ đề nghiên cứu: mức độ thường xuyên khi sử dụng sản phẩm? địa điểm mua? cảm giác về chất lượng? động cơ sử dụng? Các câu hỏi phụ: được sử dụng để thu nhận thêm các thông tin về đặc điểm nhân khẩu của người trả lời (giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp ). Ngoài những phần chính trên, bảng câu hỏi cần phải có những phần chỉ dẫn rõ ràng, phần này mô tả những thủ tục mà người phỏng vấn cần phải theo để thu thập 64
  24. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng thông tin được đễ dàng, nhanh chóng. Một bảng câu hỏi điển hình cần phải có những khoảng trống thích hợp để: - Ghi tên, họ, địa chỉ, số điện thoại của người trả lời, ngày phỏng vấn. - Thời gian bắt đầu và kết thúc phỏng vấn. - Chữ ký của người phỏng vấn. - Chữ ký của các cá nhân có liên quan. - Ngày, giờ cuộc phỏng vấn có hiệu lực. Bƣớc 7: Xác định các đặc tính vật lý của bảng câu hỏi Công việc này bao gồm các bước sau: Xem xét hình dạng bảng câu hỏi, chất lượng giấy, chất lượng in ấn để tạo thiện cảm và lôi cuốn người trả lời tham gia vào cuộc phỏng vấn, có một số trường hợp, nếu chúng ta in bảng câu hỏi trên giấy màu thì cũng có thể gia tăng tỉ lệ trả lời. Trình bày bảng câu hỏi sao cho nó có vẻ ngắn gọn và rõ ràng. Nếu dùng câu hỏi mở thì nên chừa khoảng trống đủ để người được hỏi ghi câu trả lời và diễn đạt ý kiến của mình. Việc in bảng câu hỏi thành tập sách nhỏ đôi khi có tác động thu hút, hấp hẫn hơn là kẹp nhiều trang lại. Khi nhảy quãng câu hỏi trên bảng câu hỏi thì phải chú thích rõ ràng. Ví dụ: Nếu bạn trả lời có ⇒ xin vui lòng chuyển đến trả lời câu 12 Nếu bạn trả lời không ⇒ xin vui lòng trả lời tiếp câu 6 Bƣớc 8: Kiểm tra, hiểu chỉnh bảng hỏi Dù cẩn thận mấy chăng nữa, các bảng câu hỏi sau khi thiết kế cũng khó tránh khỏi lỗi và do đó, sẽ gây khóPTIT khăn khi thu thập dữ liệu. Vì vậy, trước khi thực hiện phỏng vấn chính thức nên tiến hành kiểm tra trước. Việc kiểm tra này có thể được thực hiện bằng cách thử trên một mẫu nhỏ, sau đó xem xét: Người được phỏng vấn có hiểu và trả lời được bảng câu hỏi không? Người phỏng vấn có thực hiện tốt không? Thông tin có ghi nhận tốt không? Thời gian cần thiết để tiến hành phỏng vấn? Sau khi kiểm tra sẽ thực hiện sửa chữa, điều chỉnh lần cuối trước khi thực hiện việc phỏng vấn thử. Điều tra thử: Điều tra thử là việc kiểm tra bảng câu hỏi trên một mẫu nhỏ những người trả lời và thường thực hiện tại hiện trường, nơi mà chúng ta sẽ phỏng vấn thực tế, để phát hiện ra những lỗi nhằm điều chỉnh và hoàn chỉnh bảng câu hỏi. Bất kì 65
  25. Chương 5. Thu thập dữ liệu định lượng quá trình thiết kế bảng câu hỏi nào cũng nên cần thực hiện bước này vì người thiết kế không thể kiểm soát hết tất cả những lỗi có thể xảy ra. Về nguyên tắc, một bảng câu hỏi không nên được sử dụng để điều tra thực địa khi không có điều tra thử. Tất cả những đặc điểm của bảng câu hỏi đều phải điều tra thử, bao gồm nội dung câu hỏi, từ ngữ, thứ tự, hình thức cách trình bày, và lời chỉ dẫn Người trả lời được chọn trong điều tra thử phải nằm trong tổng thể nghiên cứu của cuộc điều tra chính thức để bảo đảm tính không sai biệt của hai cuộc điều tra của cùng một nội dung nghiên cứu. Vấn đề chỉnh sửa câu hỏi, loại bỏ hay bổ sung thêm câu hỏi được thực hiện trong suốt quá trình điều tra thử. Sau khi điều tra thử, dữ liệu sẽ được mã hóa và lập danh bạ mã để tiết kiệm tổng thời gian của dự án nghiên cứu. Đồng thời, xử lí và phân tích dữ liệu trong điều tra thử giúp cho người nghiên cứu sử dụng tốt tất cả các dữ liệu được thu thập từ bảng câu hỏi. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Khái niệm và vai trò của dữ liệu định lượng 2. Trình bày đặc điểm của phương pháp điều tra? 3. Nêu đặc điểm, lợi thế và hạn chế, phạm vi ứng dụng của 3 phương pháp điều tra chính? 4. Nêu đặc điểm, lợi thế và hạn chế, phạm vi ứng dụng của các phương pháp chọn mẫu phi xác suất? 5. Nêu đặc điểm, lợi thế và hạn chế, phạm vi ứng dụng của các phương pháp chọn mẫu xác suất? 6. Thế nào là đo lường? Nếu ý nghĩa của đo lường đối với hoạt động nghiên cứu marketing 7. Nêu đặc điểm, ví dụ và phạm vi ứng dụng của những kiểu thang đo chính? 8. Thế nào là bảng hỏi? TrìnhPTIT bày đặc điểm các dạng câu hỏi chính được sử dụng trong bảng hỏi? Ưu và nhược điểm của chúng? 9. Nêu qui trình thiết kế bảng hỏi? 10. Trình bày những nguyên tắc chính trong thiết kế bảng hỏi? 66
  26. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng CHƢƠNG 6 PHÂN TÍCH DỮ LIỆU ĐỊNH LƢỢNG 6.1. TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU ĐỊNH LƢỢNG VÀ GIỚI THIỆU PHẦN MỀM SPSS 6.1.1. Tổng quan về phân tích và diễn giải dữ liệu định lƣợng a. Phân tích dữ liệu định lượng Một khi dữ liệu định lượng đã được thu thập (bằng phương pháp điều tra), quy trình phân tích và xử lý dữ liệu định lượng bắt đầu. Tuy nhiên, trước khi xử lý dữ liệu, nhà nghiên cứu phải diễn giải các dữ liệu ra một dạng thích hợp. Việc phân tích dữ liệu định lượng được bắt đầu bằng việc tất cả các bảng câu hỏi đã được trả lời và chuẩn bị chúng cho công đoạn phân tích. Những công việc mà nhà nghiên cứu phải quan tâm khi phân tích dữ liệu định lượng bao gồm: - Chuẩn bị, nhập dữ liệu và kiểm tra dữ liệu - Chọn các phương pháp và kỹ thuật thống kê thích hợp nhất để mô tả dữ liệu - Lựa chọn các thống kê thích hợp nhất để kiểm tra những mối quan hệ giữa các dữ liệu và khuynh hướng biến động của chúng Ngày nay, việc ứng dụng tin học để phân tích dữ liệu trong nghiên cứu marketing là hết sức phổ biến. Có một số phần mềm được sử dụng để phân tích dữ liệu trong nghiên cứu marketing như SPSS, STATA, SAS , mỗi loại đều có những ưu nhược điểm nhất định (sự giống và khác nhau giữa các phần mềm này được trình bày trong phụ lục). Do vậy, cần xác định phần mềm nào được sử dụng trong quá trình phân tích để đạt được hiệu quả cao nhất. Trong số các phần mềm này, SPSS được xem là phần mềm thống kê có độ sử dụng phổ biến nhất. Đây là phần mềm được sử dụng bởi những công ty nghiên cứu thịPTIT trường chuyên nghiệp lẫn các nhân viên nghiên cứu thị trường của các doanh nghiệp trên thế giới cũng như ở Việt Nam. b. Diễn giải dữ liệu Diễn giải là làm nổi bật ý nghĩa của dữ liệu, hay nói cách khác diễn giải là quá trình chuyển đổi các dữ liệu thuần túy thành thông tin. Người nghiên cứu sẽ đạt đến mục tiêu của quá trình nghiên cứu khi rút ra kết luận từ những dữ liệu để phân tích. Có hai giai đoạn về suy nghĩ lôgíc dùng để rút ra các suy luận từ dữ liệu và cả hai giai đoạn đều được ta thực hiện dù có ý thức hay không: đó là quy nạp và diễn giải. Để diễn giải tốt, nhà nghiên cứu cần phải lưu ý các vấn đề sau: - Diễn giải một cách trung thực và tỉnh táo, không nên phóng đại hay bóp méo các dữ liệu để gây sự chú ý. 67
  27. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng - Luôn khách quan và đơn giản trong diễn giải, không nên làm phức tạp hóa vấn đề. - Lưu ý đến giới hạn của các mẫu thông tin nhỏ, tức là không nên sa vào “thổi phồng” kết quả quan sát được từ một mẫu nhỏ thành khái quát miêu tả một phạm vi lớn. - Công bằng, khách quan với mọi dữ liệu, không nên có thành kiến hoặc thiên hướng về một kết luận đặc biệt nào. - Chú ý đúng mức đến các câu trả lời quá bất thường. - Phân biệt nguyên nhân và kết quả, không nên nhầm lẫn chúng với nhau. 6.1.2. Giới thiệu phần mềm SPSS Trong khuôn khổ học phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu phần mềm SPSS để phân tích dữ liệu định lượng. Ưu điểm của phân mềm này là tính đa năng và mềm dẻo trong việc lập các bảng phân tích, sử dụng các mô hình phân tích đồng thời loại bỏ một số công đoạn (bước) không cần thiết mà một số phân mềm khác gặp phải. a. Giao diện nhập liệu Kích hoạt SPSS, chúng ta thấy giao diện của SPSS như sau: PTIT 68
  28. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Trong đó: . Variable Name: tên biến (dài 8 kí tự và không có kí tự đặc biệt) . Type: kiểu của bộ mã hóa . Labels: nhãn của biến, trong phần này chúng ta có thể nhập nhiều giá trị của nhãn phù hợp với thiết kế của bảng câu hỏi. Sau khi nhập xong mỗi trị của mã hoá, nhấn Add để lưu lại các giá trị trên. . Value: giá trị của từng giá trị mã hóa (value) tương ứng với nhãn giá trị (value label) của nó. . Missing: ký hiệu câu trả lời đúng ra phải trả lời nhưng bị bỏ qua (lỗi), chú ý là giá trị này phải có nét đPTITặc thù riêng biệt so với giá trị khác để dễ dàng phân biệt trong quá trình tính toán. . Column: thiết đặt độ lớn của cột mang tên biến và vị trí nhập liệu của biến này. . Measure: thang đo lường. Trên cơ sở 4 cấp độ thang đo lường (định danh, thứ tự, khoảng cách và tỉ lệ), SPSS sẽ phân ra thành 3 thang đo (định danh (nominal), thứ tự (ordinal) và scale (khoảng cách và tỉ lệ). Một số chú ý khi nhập liệu . Nhập giá trị khuyết: Trong quá trình phỏng vấn, có những câu hỏi mà đúng ra được được phỏng vấn phải trả lời câu hỏi đó, tuy nhiên, do một số nguyên nhân, người được phỏng vấn bỏ qua một hoặc vài câu hỏi (hoặc câu trả lời) gọi là giá trị khuyết. Để đảm bảo thông tin trong quá trình phân tích, chúng ta cần phải định nghĩa những giá trị này như sau: 69
  29. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng o Nhấn Missing - Hộp hội thoại Missing Values xuất hiện. o Nhấn Discrecte missing values, đặt các trị missing values vào các ô trống, trị được nhập tại các ô trống sẽ đại diện cho những giá trị khuyết. o Chúng ta có thể định nghĩa các giá trị khuyết theo một khoảng giá trị nào đó bằng các nhấn và nhập liệu vào Range plus one optional discrete missing value. . Chèn một biến mới hoặc bảng ghi mới o Nhấn Data/Insert Variable o Nhấn Data/Insert Case o Tìm đến bảng ghi cần thiết: Go to Case . Sắp xếp bảng ghi o Nhấn Sort Case o Sắp xếp theo biến tại Sort by với chiều tăng (Ascending) hoặc giảm (Descending) . Biến một biến thành một bảng ghi o Nhấn Data/TransposePTIT o Variable(s) là những biến cần thay đổi . Kiểm tra giá trị nhập o Nhãn toàn bộ giá trị: Nhấn View/ Value Labels o Kiểm tra một biến nào đó: Utilities/Variables o Kiểm tra bộ mã hoá Utilities/File Info, với bộ mã hoá này, ta có thể kiểm tra lại một lần nữa công việc định nghĩa các biến hoặc cũng có thể làm danh bạ cho việc nhập số liệu sau này. b. Các lệnh cơ bản với SPSS . Compute: Tạo biến mới không hoặc có ràng buộc một điều kiện 70
  30. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Trong quá trình nhập liệu, để có thể rút ngắn thời gian nhập liệu hoặc để phục vụ mục đích phân tích, chúng ta còn có thể tạo ra biến mới từ các dữ kiện và cấu trúc của biến đã nhập. o Nhấn Transform/Compute o Trong ô Target Variable nhập biến mới, trong đó chúng ta cần phải định nghĩa Type&Label để tiện cho việc quản lí và so sánh các giá trị sau này. o Trong ô Numeric Expression nhập giá trị cần gán cho biến mới từ biến đích cho trước. o Tạo biến mới có điều kiện: Nhấn If tiếp theo nhấn Include if case satisfies condition trong hộp hội thoại để thiết đặt điều kiện . Mã hoá lại biến Trong một số trường hợp, do nhu cầu của quá trình phân tích, chúng ta cần phải mã hóa lại các biến. Có hai hình thức mã hoá như sau: o Mã hoá dùng lại tên biến cũ: . Nhấn Transform/Recode/Into Same Variables . Đưa biến cần mã hoá lại vào ô Numeric Variable PTIT . Nhấn If để thiết đặt các điều kiện (nếu có) . Nhấn Old and New Values để thay đổi bộ mã hoá (Trong ô Old Value là giá trị cũ, và New Value là giá trị mới cần nhập, nếu nhập giá trị mới ở thang đo định danh, khoảng cách, tỷ lệ thì nhập tại ô Value, nếu mã hoá giá trị với thang đo khoảng cách và chọn Range) 71
  31. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng o Mã hoá dùng lại không dùng tên biến cũ (lưu trên biến mới): . Nhấn Transform/Recode/Into Different Variables . Tên biến mới được đặt ở ô Name với các thông số thoả mãn một biến bình thường. . Nhãn của biến được thiết đặt tại ô Label, sau đó nhấn Change để lưu. . Các thông số khác được thực hiện như ở mã hoá dùng lại biến cũ. . Chọn một tập hợp các đối tƣợng để phân tích (Select) Dữ liệu định lượng mà nhà nghiên cứu thu thập được có thể rất phong phú. Trong trường hợp nhà nghiên cứu muốn lựa chọn một tập hợp đối tượng trong số đó để phân tích thì họ có thể sử dụng lệnh Select. Cách làm: Data/ SelectPTIT Cases 72
  32. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Sau đó chọn điều kiện để chọn đối tượng xử lý: PTIT 73
  33. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng 6.2. CHUẨN BỊ DỮ LIỆU Quy trình phân tích và xử lý bắt đầu sau khi dữ liệu đã được thu thập. Nhưng trước khi phân tích và xử lý phải diễn giải các dữ liệu ra một dạng thích hợp vì những dữ liệu mới được thu thập vẫn còn ở dạng ''thô'' chưa thể xử lí ngay được mà chúng cần được sắp xếp, được mã hóa theo những cách thức nhất định để dễ dàng cho việc sử dụng máy vi tính trợ giúp xử líPTIT dữ liệu sau này. 6.2.1. Giá trị hóa dữ liệu Sau khi thu thập dữ liệu phải kiểm tra các dữ liệu để bảo đảm chúng có ý nghĩa, tức là có giá trị đối với việc xử lý và phân tích. Việc làm cho dữ liệu có giá trị tiến hành theo hai bước: . Bước thứ nhất: Tiến hành xem xét một cách kỹ lưỡng các phương pháp và các biện pháp đã được sử dụng để thu thập dữ liệu (tức kiểm tra các công cụ dùng để thu thập dữ liệu) . Bước thứ hai: Tiến hành nghiên cứu kỹ các bảng câu hỏi đã được phỏng vấn và những chỉ dẫn về thủ tục phỏng vấn để phát hiện ra những nguyên nhân dẫn đến các sai sót. 74
  34. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng 6.2.2. Hiệu chỉnh dữ liệu Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, quá trình thu thập dữ liệu dù được chuẩn bị chu đáo vẫn còn có thể tồn tại những sai sót, vì vậy phải hiệu chỉnh để dữ liệu có ý nghĩa đối với quá trình nghiên cứu. Hiệu chỉnh dữ liệu là sửa chữa các sai sót về ghi chép hoặc ngôn từ phát hiện được qua kiểm tra. Trong khi hiệu chỉnh cần sửa chữa những sai sót phổ biến sau: . Những cuộc phỏng vấn giả tạo do người đi phỏng vấn tạo ra . Những câu trả lời không đầy đủ (là những câu trả lời không rõ ý hoặc trả lời nửa chừng) . Những câu trả lời thiếu nhất quán. . Những câu trả lời không thích hợp. . Những câu trả lời không đọc được. Có 3 cách tiếp cận được sử dụng để xử lí các dữ liệu ''xấu'' từ các tình huống đó. . Quay trở lại ngƣời đi phỏng vấn hay ngƣời trả lời câu hỏi để làm sáng tỏ vấn đề. Việc liên hệ với các cá nhân để tìm câu trả lời đúng làm nảy sinh hai vấn đề: o Làm tăng chi phí và sẽ quá đắt nếu cuộc khảo sát có quy mô lớn vì chi phí phỏng vấn này đã được tính trong dự án nghiên cứu. Theo kinh nghiệm, người nghiên cứu có thể không cần tìm cách thu thập thêm dữ liệu nếu tỉ lệ các câu hỏi nghi vấn tương đối nhỏ và/hoặc quy mô của mẫu tương đối lớn (tỉ lệ các câu hỏi nghi vấn nhỏ hơn 20% và mẫu lớn hơn 500). o Nếu quyết định đi ngược trở lại để thu thập dữ liệu, những dữ liệu mới có thể sẽ khác với dữ liệu đã được thu thập trong cuộc phỏng vấn đầu tiên do các cá nhân cóPTIT thể không nhớ thông tin cần thiết, cũng như có thể do sử dụng phương pháp khác và điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của câu trả lời (liên quan đến độ tin cậy của cuộc điều tra). . Suy luận từ những câu trả lời khác. Theo cách này, người hiệu chỉnh phỏng đoán từ các dữ liệu khác để làm rõ câu trả lời nào đúng. Nhưng đây là cách làm đầy rủi ro. Nhà nghiên cứu khó có thể minh định được các quy luật để suy luận các câu trả lời. Do đó để an toàn khi hiệu chỉnh dữ liệu, người nghiên cứu cần hết sức thận trọng với phương pháp này, và không nên suy luận một câu trả lời trừ phi biết tương đối chắc chắn về ý định của người trả lời. . Loại toàn bộ câu trả lời. Đây là việc dễ thực hiện nhất. Theo cách này, người hiệu chỉnh chỉ việc loại đi những câu trả lời có nghi vấn. Trong trường hợp quy mô của mẫu tương đối lớn, người hiệu chỉnh có thể loại bỏ toàn bộ các câu trả lời nếu thông tin thiếu nhất quán và người hiệu chỉnh không thể giải quyết vấn 75
  35. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng đề thiếu nhất quán đó trong các dữ liệu được thu thập từ các đối tượng phỏng vấn. Tuy nhiên, khuyết điểm trong cách tiếp cận này là sự thiên vị trong kết quả nếu những người trả lời thiếu nhất quán đó bị loại ra khỏi cuộc nghiên cứu, khi đó kết quả đạt được sẽ bị lệch nếu ý kiến những người trả lời bị loại này khác với những người còn được giữ lại trong mẫu điều tra. Một cách giải quyết khác là tập hợp một báo cáo riêng các loại dữ liệu bị thiếu hoặc không nhất quán, không rầng nếu người nghiên cứu thật sự tin rằng các dữ liệu đó có thể có ích cho việc ra quyết định của các nhà lãnh đạo. 6.2.3. Mã hóa dữ liệu Việc mã hóa có thể được thực hiện vào một trong hai thời điểm, là mã hóa trước và mã hóa sau: . Mã hóa trƣớc Mã hóa trước là việc quyết định chọn các mã số cho các câu hỏi và các phương án trả lời từ khi thiết kế bảng câu hỏi, và do vậy có thể in ngay các mã số lên bảng câu hỏi. Hình thức mã hóa này thích hợp cho các câu hỏi dạng luận lý (chỉ chọn một trong hai cách trả lời: có, không) hay dạng chọn một trong các câu trả lời ghi sẵn. Đối với các câu hỏi này người nghiên cứu đã định rõ được câu trả lời và do đó dễ dàng ký hiệu cho các câu trả lời đó. Việc mã hóa này có tác dụng làm giảm đi rất nhiều khối lượng công việc trong bước chuẩn bị dữ liệu. Để làm rõ ta hãy xem xét ví dụ về một phần trong bảng câu hỏi về sản phẩm ti vi sau đây: PTIT 76
  36. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng . Mã hóa sau Khi các câu trả lời thuộc câu hỏi mở, người nghiên cứu phải tốn nhiều công biên tập vì các câu trả lời theo tình huống tự do, không định sẵn. Khi phỏng vấn, người phỏng vấn phải ghi nguyên văn câu trả lời, và vì thế để chuyển các dữ liệu như vậy sang một hình thức mà máy điện toán có thể đọc được cần phải phân các câu trả lời theo những loại giống nhau và gán cho chúng các ký hiệu mã hóa. Có hai cách để mã hóa sau: o Cách thứ nhất: Người nghiên cứu tiến hành mã hóa các câu trả lời trước khi nghiên cứu thực địa. Trường hợp này, người nghiên cứu phải dự kiến về mặt lý thuyết các câu trả lời hoặc sử dụng kinh nghiệm của các cuộc nghiên cứu trước, đồng thời mất thời gian huấn luyện những người đi phỏng vấn cách phân loại các câu trả lời được ghi nguyên văn đúng loại mã hóa đã dự kiến. o Cách thứ hai: Chờ đến khi thu thập xong dữ liệu mới tiến hành mã hóa. Khi đó, người nghiênPTIT cứu phải xem xét ngẫu nhiên 30% các bảng câu hỏi đã được trả lời để tính toán các loại tình huống trả lời và mã hóa nó. Trước khi mã hóa, phải rà soát lại toàn bộ các câu hỏi đã phỏng vấn để xem xét có còn tình huống trả lời nào khác không. Để tiện lợi cho việc phân tích, không nên phân loại quá 10 tình huống trả lời cho một vấn đề. . Các nguyên tắc thiết lập kiểu mã hóa Để làm cho chức năng mã hóa được tốt hơn cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây trong việc thiết lập các kiểu mã hóa. o Số “kiểu mã hóa” thích hợp: số kiểu mã cần phải đủ lớn để bao quát hết được các sự khác biệt trong dữ liệu. Nếu số lượng mã quá ít thì có thể một số thông tin quan trọng sẽ không được bao quát. 77
  37. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng o Những thông tin trả lời được sắp xếp trong cùng một “loại mã hóa” thì phải tương tự nhau về đặc trưng nghiên cứu. o Ranh giới rõ ràng giữa các “loại mã hóa”. Với các đặc trưng đang được nghiên cứu, những sự khác biệt về thông tin trả lời giữa các “loại mã” phải không giống nhau đến mức đủ xếp vào cùng một “loại mã”. Ví dụ, chúng ta đang nghiên cứu đặc trưng về tuổi tác của người được hỏi, giả sử cần tiến hành mã hóa các tình huống trả lời như sau: - Nhỏ hơn 20 tuổi - Từ 21 tuổi đến 30 tuổi. - Trên 30 tuổi Nếu có một câu trả lời là 20 tuổi 4 tháng thì sẽ không rõ phải được xếp vào loại nào vì ở khoảng thứ nhất phải là 20 tuổi và thứ 2 phải là từ 21 tuổi đến 30 tuổi. Khi đó người nghiên cứu phải làm tròn theo nguyên tắc là 20 tuổi như vậy được xếp vào loại thứ 1. o Nguyên tắc loại trừ giữa các loại mã hóa: các loại mã hóa phải không được chồng chéo lên nhau, cần phải thiết lập chúng như thế nào để bất cứ tình huống trả lời nào cũng chỉ được xếp vào một loại mã hóa thôi. (đã được xếp vào loại mã này thì không xếp vào mã khác) o Nguyên tắc toàn diện: theo nguyên tắc này, cấu trúc của một loại mã phải bao quát được tất cả các tình huống trả lời nhằm đảm bảo tất cả các tình huống đều được mã hóa. o Nguyên tắc “đóng kín” những khoảng cách lớp: theo nguyên tắc này, không được “để mở” khoảng cách lớp của mã hóa, bởi vì việc không chỉ rõ những giới hạn về khoảng cách lớp sẽ làm lu mờ đi những giá trị phân tán ở hai đầu mút của dãy phân phối và do đó sẽ không cho phép tính toán được giá trPTITị trung bình của những quan sát trong mỗi khoảng cách lớp. Ví dụ, xem xét việc mã hóa câu hỏi về thu nhập bình quân đầu người của những người được phỏng vấn: Mức thu nhập Mã hóa Từ 100USD - 200USD 1 Trên 200USD - 300USD 2 Trên 300USD - 400USD 3 Trên 400USD -500 USD 4 Có thể nhận thấy nếu mã hóa như trên thì sẽ chưa đảm bảo “đóng kín” những khoảng cách lớp vì với các tình huống trả lời có thu nhập dưới 100USD hoặc trên 600USD chưa được mã hóa mặc dù tần suất xuất hiện các giá trị ở hai đầu mút này rất nhỏ. 78
  38. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng o Nguyên tắc về những khoảng cách lớp: Khoảng cách các lớp nên được quy định tương đương nhau thì tốt hơn là để chúng có độ rộng thay đổi. Nếu không tuân thủ các nguyên tắc này có thể đưa đến tình trạng khoảng cách lớp thiếu sự dàn trải phù hợp. Tuy nhiên, có thể chấp nhận các khoảng cách có độ rộng không tương đương nhau khi đã định rõ các “loại mã” chứa đựng các phần tương đối nhỏ của tổng thể mà những đặc trưng trả lời từ những phần nhỏ đó có thể không cung cấp những thông tin hữu ích nào cả. . Lập danh bạ mã hóa Danh bạ mã hóa gồm nhiều cột, trong từng cột chứa đựng những lời giải thích về những mã hiệu đã được sử dụng trong những trường dữ liệu (data fields) và những mối liên hệ của chúng đối với những câu trả lời của các câu hỏi. Chức năng của danh bạ mã hóa là giúp người làm mã hóa thực hiện việc làm biến đổi từ câu trả lời ra một ký hiệu thích hợp mà máy điện toán có thể đọc được, giúp các nhà nghiên cứu nhận diện các loại biến số khi in bản phân tích bằng máy điện toán. Lượng thông tin tối thiểu được chứa đựng trong một danh bạ mã hóa đối với một câu hỏi bao gồm: số của câu hỏi, số cột cần có trong máy điện toán, tên của biến số, vấn đề của câu hỏi và mã hiệu đã được sử dụng. Ví dụ, có thể lập một danh bạ mã hóa cho mẫu phỏng vấn sản phẩm tivi như sau: Q1. Có hoặc không xem tivi . Không 0 . Có 1 Q2a. Số lần xem tivi . Mỗi ngày/ hầu như mỗi ngày 1 . 4-5 ngày/ tuần PTIT 2 . 2-3 ngày/tuần 3 . 1 lần/ tuần 4 . 2-3 ngày/ tháng 5 . 1 lần/ tháng 6 . Không thường xuyên 7 . Không xem 8 Q2b. Lần xem tivi gần đây nhất . Ngày hôm qua 1 . Trước ngày hôm qua 2 Q2c. Thời gian xem tivi ngày thường 79
  39. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng . Ít hơn 1 giờ 1 . Từ 1 đến 3 giờ 2 . Từ 3 đến 5 giờ 3 . Từ 5 đến 7 giờ 4 . Từ 7 đến 9 giờ 5 . Trên 6 Q2d. Thời gian xem tivi ngày cuối tuần . Ít hơn 1 giờ 1 . Từ 1 đến 3 giờ 2 . Từ 3 đến 5 giờ 3 . Từ 5 đến 7 giờ 4 . Từ 7 đến 9 giờ 5 . Trên 6 6.3. CÁC KỸ THUẬT PHÂN TÍCH CƠ BẢN 6.3.1. Thống kê mô tả Kỹ thuật thống kê mô tả được sử dụng để liệt kê giá trị của các biến theo từng nhóm. Kỹ thuật này được sử dụng khi nhà nghiên cứu muốn kiểm tra mẫu nghiên cứu và/hoặc kiểm tra chất lượng của dữ liệu thu thập (bằng cách kiểm tra các tham số đo lường độ hội tụ trung tâm (bảng 6.1) và độ phân tán (bảng 6.2) của các biến và các tham số về phân phối) Bảng 1- Các tham số đo lường độ hội tụ trung tâm của các biến Tham số MôPTIT tả Ví dụ giá trị trung bình số học của Mean Tuổi trung bình của khách các giá trị trong dãy phân (Trung bình) hàng phối Dãy số về tuổi được chia làm 2 là số nằm giữa của một dãy Median phần: 50% có tuổi trên 32, quan sát sắp xếp từ nhỏ tới (Trung vị) 50% dưới 32 32 là số trung lớn vị Mode Là giá trị có tần suất xuất Dãy số về tuổi: nhóm người (mốt) hiện lớn nhất có tuổi 35 có tỷ lệ cao nhất 80
  40. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Bảng 2- Các tham số đo lường độ hội tụ trung tâm của các biến Tham số Mô tả Ví dụ Khoảng cách giữa giá trị Tuổi khách hàng lớn nhất: Range quan sát nhỏ nhất và lớn 75, nhỏ nhất là 18 (Khoảng biến thiên) nhất Range = 57 Variance mức độ sai lệch của các (phương sai); quan sát so với giá trị trung Std. dev bình (độ lệch chuẩn) Coefficient of variation = độ lệch chuẩn/trung bình (hệ số biến thiên) . Cách thực hiện kỹ thuật thống kê mô tả trên SPSS: Analysis/ Descriptives statistic >> Để thống kê tần suất, tham số của 1 biến, nhà nghiên cứu có thể sử dụng lệnh Frequencies hoặc Descriptives. Còn nếu muốn tính toán các tham số của 1 biến, phân theo nhiều nhóm khác nhau, nhà nghiên cứu có thể sử dụng lệnh Explore (ví dụ, tính mức độ hài lòng trung bình của khách hàng theo 2 nhóm nam, nữ). Nếu muốn lập bảng thống kê tần suất của nhiều biến, nhà nghiên cứu có thể sử dụng lệnh Cross-tabs. PTIT 6.3.2. Kiểm định t đối với tham số trung bình mẫu One sample T test. Giả sử, trong một cuộc điều tra, thu nhập trung bình của các đối tượng phỏng vấn là 33,224 triệu/năm, có giả thiết cho rằng thu nhập của đối tượng mà chúng ta phỏng vấn trên tổng thể là 32 triệu/năm, chúng ta cần kết luận nhận định đó có đúng không. Để kiểm tra nhận định đó, nhà nghiên cứu có thể sử dụng kiểm định T đối với tham số trung bình mẫu (One sample T test). Cách làm: nhấn Analyze – Compare Means – One sample T test. Sau đó, chọn biến cần phân tích vào ô Test Variable(s), đặt giá trị 0 vào ô Test Value. 81
  41. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Bấm Continue và bấm OK ở hộp hội thoại ban đầu, kết quả thu được như sau: PTIT Tại các biểu trên, ta có thể biết giá trị trung bình, độ lệch chuẩn của mẫu. Ngoài ra t=1,34 nên p-value=0,182>0,05 nên chúng ta chưa có cơ sở kết luận nhận định đã đưa ra. 6.3.3. Kiểm định tham số trung bình hai mẫu độc lập (Independent Sample T Test) Giả sử ta muốn so sánh thu nhập trung bình giữa những người có giới tính nam và nữ trên tổng thể có khác nhau hay không. Để làm được điều này, nhà nghiên cứu có thể sử dụng kỹ thuật kiểm định tham số trung bình 2 mẫu độc lập. 82
  42. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Cách làm: - Nhấn Analyze – Compare Means – Independent sample t-test. - Chọn biến thunhap vào ô Test Variables và biến gioitinh vào ô Grouping Variable Kết quả như sau: PTIT 83
  43. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng 6.3.4. Kiểm định tham số trung bình hai mẫu phụ thuộc (Paired sample t-test) Giả sử nhà nghiên cứu nhà nghiên cứu muốn kiểm tra sự khác biệt về mức chi tiêu cho một sản phẩm của một nhóm khách hàng trước và sau chiến dịch quảng cáo của một doanh nghiệp để xem liệu mức chi tiêu của họ có tăng sau chiến dịch quảng cáo hay không. Trong trường hợp này, nhà nghiên cứu có thể sử dụng kỹ thuật kiểm định tham số trung bình hai mẫu phụ thuộc. Cách làm: Nhấn Analyze – Compare Means – Paired sample t-test. Chọn biến cần phân tích vào ô Paired Variables. Kết quả PTIT Vì giá trị t=-0,803 và p-value = 0,435>0,05 nên chúng ta chưa có cơ sở để khẳng định rằng có sự khác biệt về mức chi tiêu cho một sản phẩm của một nhóm khách hàng trước và sau chiến dịch quảng cáo của một doanh nghiệp và mức chi tiêu của khách hàng có tăng sau chiến dịch quảng cáo. 84
  44. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng 6.3.5. Phân tích phƣơng sai (Analysis of variance – ANOVA) Giả sử nhà nghiên cứu muốn so sánh thu nhập trung bình của các đối tượng làm trong những lĩnh vực dịch vụ - thương mại, xây dựng và công nghiệp có khác nhau hay không. Trong trường hợp này, nhà nghiên cứu có thể sử dụng kỹ thuật phân tích phương sai (ANOVA) Cách làm: Nhấn Analyze – Compare Means – One-way ANOVA, sau đó, chọn biến cần phân tích (định lượng) vào ô Dependent List và biến phân loại vào ô Factor 6.4. KỸ THUẬT KIỂM TRA MỐI QUAN HỆ: PHƢƠNG PHÁP HỒI QUI 6.4.1. Tổng quan Việc sử dụng phương pháp hồi qui có thể cho nhà nghiên cứu biết mối quan hệ nhân quả giữa các biến. Hồi qui là phương pháp sử dụng nhiều để dự báo kết quả trong tương lai. Với phần mềm SPSS, nhà nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp hồi qui tuyến tính (ví dụ mối quan hệ giữa các biến dưới dạng y=ax+b hoặc y=ax1+bx2+ ) Cách thực hiện: Analyze >> Regression >> Linear Sau đó, chọn biến phụ thuộc (biến bị tác động – Dependent ) và chọn biến độc lập (biến tác động – Independent). 6.4.2. Hồi quy tuyến tính đơn biến Giả sử chúng ta mong muốn tìm mối tương quan giữa hai biến năm làm việc (biến độc lập) và thu nhập hàng năm (biến phụ thuộc) trên tổng thể, nhà nghiên cứu có thể thực hiện các công việc sau. a. Vẽ sơ đồ, kiểm tra bằng thị giác mối quan hệ Vào Graphs, nhấn ScatterPTIT Chọn Simple và bấm Define 85
  45. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Chọn các biến vào ô Y Axis (biến phụ thuộc) và X Axis (biến độc lập), bấm OK PTIT Chúng ta có thể xem đường hồi quy lí thuyết của dãy dữ liệu bằng cách click hai lần vào chuột. Sau khi một màn hình mới hiện ra, vào Chart – Option, hội hội thoại tiếp theo sẽ hiện ra –Bấm OK – Hội hội thoại sẽ là: 86
  46. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Bấm Fit Options chọn Linear regression Bấm Continue và OK Rõ ràng trên hình vẽ bên, ta có thể hình dung có mối quan hệ tuyến tính (theo đường thẳng) giữa số năm làmPTIT việc và thu nhập/năm. Để kiểm tra một cách chính xác, ta thực hiện thao tác hồi quy. b. Xác định hàm hồi qui Vào Analyze và Regression chọn các biến vào các ô tương ứng 87
  47. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng Vì F=71,115 và p-value=0,000 nên chúng ta có thể khẳng định tồn tại mô hình hay tồn tại mối quan hệ giữa haiPTIT biến năm làm việc và thu nhập trên tổng thể. 88
  48. Chương 6. Phân tích dữ liệu định lượng CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Đâu là những công việc mà nhà nghiên cứu phải quan tâm khi phân tích dữ liệu định lượng? 2. Nêu những bước mà nhà nghiên cứu phải trải qua khi chuẩn bị dữ liệu? 3. Để giá trị hóa dữ liệu, nhà nghiên cứu phải làm gì? 4. Tại sao nhà nghiên cứu phải hiệu chỉnh dữ liệu trước khi phân tích? Hiệu chỉnh dữ liệu liên quan đến vấn đề gì? 5. Trình bày tóm tắt các kỹ thuật phân tích dữ liệu định lượng cơ bản và vai trò của nó? 6. Trình bày tóm tắt các kỹ thuật kiểm tra mối quan hệ cơ bản và vai trò của nó? PTIT 89
  49. Chương 7. Báo cáo kết quả nghiên cứu CHƢƠNG 7 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 7.1. VAI TRÕ CỦA BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Chỉ khi nào bản báo cáo giải thích cho khách hàng hiểu được các số liệu và các kết luận, chứng minh các kết luận đó là đúng và có được những hành động thích hợp, chừng đó mọi cố gắng và phí tổn dành cho việc nghiên cứu mới chứng minh được là đúng. Một bản báo cáo được xem là thành công phải nêu bật được sức sống của các phát hiện về mặt thống kê và phải thuyết phục được các nhà quản lý chấp nhận ứng dụng những phát hiện đó vào thực tế. Một bản báo cáo có 3 vai trò chính: . Là phương tiện mà qua đó các dữ liệu và các phân tích và các kết quả được sắp xếp có hệ thống và cố định vì nó là bản (ghi nhận) duy nhất ghi chép có hệ thống cuộc nghiên cứu và được xem như tài liệu tham khảo cần thiết cho các cuộc nghiên cứu trong tương lai. . Nó phản ánh chất lượng của công trình nghiên cứu: Chất lượng công trình nghiên cứu được đánh giá chủ yếu qua báo cáo vì người lãnh đạo (mà các cuộc nghiên cứu phục vụ) rất ít khi tiếp xúc cá nhân với các nhà nghiên cứu trong công ty của họ và lại càng ít có dịp tiếp xúc nếu cơ quan nghiên cứu ở bên ngoài công ty. Bởi vì bản báo cáo là bản liệt kê của họ về kỹ năng và thành tích về thời gian, về tư duy và sự cố gắng dành cho công trình nhiên cứu có ý nghĩa quyết định đến tương lai của nhà nghiên cứu. . Là hiệu quả của bản báo cáo có thể xác định những hoạt động dễ hiểu, trình bày rõ ràng sẽ giúp cho việc đề ra hoạt động hoặc chính sách thích hợp. Đây là mục tiêu của mọi cuộc khảo sát về thương mại và hành chính. Trong các tình huống khẩn cấp, những bản saoPTIT có tính thuyết phục sẽ giúp cho lãnh đạo đề ra quyết định nhanh chóng khả năng làm tăng mức độ nhận thức và hoạt động đúng của các kết quả qua khảo sát là tiêu chuẩn chủ yếu cho sự thành công của bản báo cáo. Bản báo cáo có thể được trình bày bằng văn bản hoặc slides, lời nói. Sẽ thuận tiện hơn nếu nhà nghiên cứu trình bày các kết quả qua việc thảo luận miệng và chất vấn để kết quả được rõ ràng, làm cho bản báo cáo có chất lượng hơn. Tuy nhiên, chất lượng của cả hai dạng báo cáo bằng văn bản và lời nói tùy thuộc vào khả năng truyền đạt của người báo cáo cáo có tốt hay không, một văn bản báo cáo được trình bày rõ ràng sẽ không bị đánh giá thấp. Vì vậy kỹ năng truyền đạt là kỹ năng quan trọng nhất cho mọi ngành nghề. 90
  50. Chương 7. Báo cáo kết quả nghiên cứu 7.2. NỘI DUNG CỦA BÁO CÁO NGHIÊN CỨU 7.2.1. Các loại báo cáo nghiên cứu Mỗi loại báo cáo là một công việc được đo ni sẵn làm cho thích nghi với đặc trưng của vấn đề, với những thông tin chứa đựng trong nó và cách suy nghĩ, thị hiếu của người dùng nó. Tuy vậy, một cách chung nhất, các kết quả nghiên cứu có thể được báo cáo theo các dạng sau: Báo cáo gốc là bản báo cáo đầu tiên được xây dựng dựa trên các kết quả có được của dự án và được nghiên cứu viết để cho chính mình sử dụng. Nó bao gồm các tài liệu và các bản phát thảo sơ bộ. Nó làm cơ sở cho bản báo cáo cuối cùng và sau dó trở hành tài liệu để xếp vào hồ sơ. Thường thì việc xem nó như một báo cáo bị coi nhẹ nên không được sắp xếp chuẩn các báo cáo cũng như không có tập hồ sơ được sắp xếp có thứ tự khi chúng được lưu giữ. Việc sắp xếp theo thứ tự chỉ được thực hiện khi ta cần đến phương pháp luận hay những dữ liệu này cần để tham khảo hay hỗ trợ cho các công trình nghiên cứu ở tương lai. Báo cáo được phổ biến: Loại báo cáo này được soạn ra từ những kết quả nghiên cứu để đăng tải trong các tạp chí chuyên ngành hoặc trong các chuyên khảo, các tạp chí phổ thông, các tập san Không có hình thức thống nhất cho loại hình báo cáo này do tính chất thay đổi của độc giả và các ấn phẩm. Điều quan trọng để tạo một báo cáo hay một mẫu in được chấp nhận là người viết phải xác định được đặc tính và vấn đề quan tâm của độc giả cũng như chính sách của nhà xuất bản để viết cho thích hợp. Báo cáo kỹ thuật: Loại thường dùng cho các chuyên gia kỹ thuật. Họ quan tâm chủ yếu đến các mô tả chi tiết về toàn bộ quá trình nghiên cứu, trong đó giới thiệu các giả thuyết đã được nghiên cứu, quan tâm đến các chi tiết về mặt lôgíc và ý nghĩa thống kê, cóPTIT thể có những phụ lục phức tạp về phương pháp luận, thủ tục cung cấp các nguồn tài liệu tham khảo. Báo cáo cho lãnh đạo: Loại này phục vụ cho những người ra quyết định (người lãnh đạo). Vì rất bận rộn nên người lãnh đạo chỉ quan tâm chủ yếu phần cốt lõi của công trình nghiên cứu, những kết luận chính cùng những đề xuất và kiến nghị. Báo cáo không được rờm rà và những thông tin về phương pháp luận nên để vào phụ lục để tham khảo nếu cần. 7.2.2. Nội dung của bản báo cáo cho lãnh đạo Tính chất của một bản báo cáo cho lãnh đạo phải được xác định từ những yêu cầu cần biết về thông tin của người lãnh đạo. Thường thì bản báo cáo này phải rõ ràng, 91
  51. Chương 7. Báo cáo kết quả nghiên cứu không phức tạp, ngắn gọn, dễ đọc. Câu văn phải hoàn chỉnh, rõ ràng và được chứng minh bằng số liệu. Một hình thức thông dụng của báo cáo cho lãnh đạo gồm các mục sau: - Trang tựa (Lời nói đầu) - Mục lục - Bản tóm tắt cho lãnh đạo - Phần giới thiệu - Phương pháp luận - Kết quả - Những hạn chế - Những kết luận (rút ra từ dữ liệu) và những đề xuất (xuất phát từ kết luận) - Phụ lục - Danh mục các tài liệu sử dụng Hình thức này là sự sắp xếp một cách hợp lý và có tính qui ước những bước trong việc chuẩn bị bản báo cáo. Trang tựa (lời nói đầu): nên đơn giản, và trang trọng, nêu chủ đề của bản báo cáo, ai soạn thảo và soạn thảo cho ai, ngày hoàn thành và nộp báo cáo. Mục lục: là phần trình bày các mục của bản báo cáo theo thứ tự xuất hiện cùng với số trang của nó. Nếu bản báo cáo có một số bảng biểu, biểu đồ hình vẽ hoặc các minh họa thì phải có bảng phụ lục riêng cho từng loại đặt phía sau bảng mục lục, hoặc từng bản riêng biệt trong các trang cá biệt. Tóm lược cho lãnh đạo: nó giúp cho lãnh đạo nắm bắt nhanh chóng được ý chính của cuộc nghiên cứu. Đối với nhiều vị lãnh đạo, bản tóm lược là cốt lõi của bản báo cáo, ta khôngPTIT nên xem thường. Phần tóm lược sẽ được đặt trước các chứng cứ hay lập luận chi tiết. Nó tóm tắt một cách ngắn gọn các phần chủ yếu của bản báo cáo bao gồm các sự kiện và kết quả chính cùng với các quyết định, bản tóm tắt là bản báo cáo thu nhỏ lại nhưng không thiếu ý. Phần giới thiệu: nhằm định hướng người đọc vào những thảo luận chi tiết của vấn đề đang được nghiên cứu. Thường bao gồm những lý do để làm cuộc nghiên cứu, phạm vi của công việc, sự hình thành phương pháp của vấn đề được nghiên cứu, những mục tiêu cần đạt đến và cơ sở để hình thành cuộc nghiên cứu. Phương pháp luận: phần này mô tả cách thức dùng để đạt đến những mục tiêu. Phần mô tả này phải làm rõ đã sử dụng mô hình nghiên cứu nào? Mô hình thăm dò, mô tả hay là thử nghiệm. Các nguồn dữ liệu đã được nghiên cứu tỉ mỉ 92
  52. Chương 7. Báo cáo kết quả nghiên cứu và sử dụng ra sao, cá chứ lấy mẫu, các loại bảng câu hỏi dã dùng và tại sao lại dùng nó: Số lượng và loại nhân viên nghiên cứu được sử dụng (chẳng hạn những người đi phỏng vấn, giám sát ). Các kết quả: phần này thường dài nhất trong bản báo cáo vì khối lượng các số liệu thu thập ở dạng thô là rất lớn: Để diễn giải các số liệu này, nhà nghiên cứu phải sắp xếp, tổ chức sao cho có thể truyền đạt được ý nghĩa của các dữ liệu. Việc này cần đến các kỹ thuật thống kê và phân tích. Có một số phương tiện giúp ta trình bày kết quả nghiên cứu như các bảng, các biểu đò, đồ thị và khi sử dụng phải giải thích đầy đủ, rõ ràng. Các giới hạn của bản báo cáo: trong cuộc nghiên cứu, có thể nảy sinh một số vấn đề mà phạm vi cuộc nghiên cứu chưa thể đi sâu làm rõ. Khi đó nhà nghiên cứu (tác giả bản báo cáo) phải trình bày rõ những giới hạn đó để độc giả hiểu. Các kết luận và đề nghị: phần này trình bày các kết luận và đề xuất những hành động cần phải làm rút ra từ việc suy luận của kết quả bằng các phương pháp qui nạp hoặc diễn giải. Những kết luận sẽ xác minh hoặc phủ nhận những tiền đề hoặc các giả thuyết đã đưa ra. Những kết luận phải xuất phát hợp lý từ các kết quả để tránh những sai lầm. Từ các kết luận nhà nghiên cứu có điều kiện tốt nhất để nêu lên các đề xuất về các giải pháp trong đó cần chỉ rõ nhiệm vụ của ai, làm gì, ở đâu, lúc nào và tại sao? Các đề nghị không chỉ phụ thuộc vào bản chất của quyết định mà còn phụ thuộc vào kiến thức của nhà nghiên cứu về toàn cảnh của vấn đề. Trong thẩm quyền của mình, các nhà nghiên cứu có thể đề nghị về việc nên có thêm những cuộc điều tra khác về vấn đề này hay các vấn đề khác có liên quan. Phụ lục: phần này cung cấp thêm các chỉ dẫn, các tư liệu đã được đưa ra trong phần chính của bản báo cáo. Tư liệu trong phụ lục chứa đựng nội dung thông tin chi tiết và (hoặc) triPTITển khai thông tin. Ví dụ, một bản sao của câu hỏi dùng để thu thập dữ liệu, những chỉ dẫn cho người phỏng vấn Danh mục tài liệu tham khảo đã được sử dụng: đây là phần cuối cùng trong trình báo cáo. Nó chứa đựng những thông tin chi tiết để tham khảo, hoặc những tài liệu gốc được tìm thấy trong nhiều dạng thông tin chẳng hạn biên bản hội nghị, sách vở, tạp chí. 7.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG KHI CHUẨN BỊ BÁO CÁO NGHIÊN CỨU 7.3.1. Nguyên tắc khi soạn thảo báo cáo Phương tiện cơ bản để truyền đạt các kết quả nghiên cứu là từ ngữ. Mỗi báo cáo đều phải có lời giải thích cho từng kết quả đạt được và người viết báo cáo phải nắm 93
  53. Chương 7. Báo cáo kết quả nghiên cứu được toàn bộ cuộc khảo sát để có thể sử dụng các phương tiện truyền thông khác nhau (từ ngữ, biểu tượng, hình ảnh) truyền cho người khác hiểu được kiến thức đó. Nói chung, khi trình bày một báo cáo, phải theo các nguyên tắc sau: Dễ theo dõi: Bản báo cáo phải có cấu trúc hợp lý, đặc biệt trong phần thân của bản báo cáo cần trình bày rõ ràng và dễ tìm ra các chủ đề. Phải có các dòng tiêu đề để chỉ mỗi chủ đề khác nhau mà chỉ bàn đến một điểm mà thôi. Rõ ràng: Báo cáo phải được viết rõ ràng để tránh bị hiểu lầm và khi không hiểu rõ có thể ra những quyết định sai lầm và gặp phải những thất bại đáng kể. Có thể kiểm tra sự rõ ràng của báo cáo bằng cách để hai hoặc ba người không quen thuộc với cuộc khảo sát đọc trước bản báo cáo. Dùng câu có cấu trúc tốt, tránh dùng ngôn từ chuyên môn: Thông thường nên dùng các từ chuyên môn trong báo cáo. Các thuật ngữ chuyên môn cần được thay thế bằng cách mô tả hoặc giải thích cách làm. Nếu cần thiết phải dùng các từ chuyên môn thì phải xem xét liệu người đọc có hiểu không và cần có bảng giải thích kèm theo. Trình bày ngắn gọn: Một bản báo cáo phải có độ dài cần thiết để đủ trình bày chi tiết các nội dung, tuy nhiên do tâm lý người đọc không muốn đọc những báo cáo dài dòng nên cần phải trình bày gọn nhưng đủ ý, xúc tích. Cần trình bày sát vấn đề, chú trọng sự rõ ràng của vấn đề. Nhấn mạnh các kết luận có tính thực tiễn: Trong báo cáo phải nhấn mạnh các kết luận có tính thực tiễn (đã được kiểm nghiệm qua thực tế để xóa bỏ cảm giác của các nhà kinh doanh cho rằng phát biểu hoặc nhận xét của nhà nghiên cứu thường chỉ có giá trị về lý thuyết và trong các dữ liệu lý tưởng). Sử dụng các phương tiện nhìn trong bản báo cáo: Các phương tiện nhìn như biểu đồ tranh ảnh, đồ thị có thể giúp bản báo cáo thêm sinh động hơn và người đọc bản báo cáoPTIT xem xét các kết quả một cách trực quan hơn. Tuy nhiên, các phương tiện này chỉ có khả năng hỗ trợ chứ không thay được phần lời trong báo cáo. 7.3.2. Những nguyên tắc trình bày bảng Trong báo cáo, khi trình bày hay phân tích nhiều số liệu thống kê chúng ta cần lập các bảng số để dễ theo dõi. Việc trình bày bảng phải tuân thủ một số nguyên tắc quan trọng của việc trình bày bảng sau đây: Tựa (tên) bảng: Tên bảng phải đảm bảo mô tả đúng nội dung của bảng, phải ngắn gọn, rõ ràng và giải thích được các bản chất của việc sắp xếp các thông tin trong bảng. 94
  54. Chương 7. Báo cáo kết quả nghiên cứu Số của bảng: Các bảng phải được đánh số thứ tự để chỉ rõ vị trí của chúng trong hệ thống (ví dụ, bảng 1-a; 1-6 ). Cách sắp xếp các mục: Phải xếp các mục theo một lôgíc hay trình tự sao cho có thể đưa ra các khía cạnh nổi bật nhất của dữ liệu. Đơn vị đo lường: Đơn vị đo lường phải được nêu rõ trong đề mục trừ nó đã rõ ràng. Trong một bảng có thể có một hoặc nhiều đơn vị đo lường cho mỗi khía cạnh nghiên cứu. Tổng số: Trong đa số các trường hợp, tổng số được trình bày sau cùng (dưới) hoặc lề phải. Khi cần nhấn mạnh các tổng số, có thể đặt chúng ở hàng đầu tiên và cần gạch dưới các con số này để tránh nhầm lẫn. Các tổng số phụ thuộc được sử dụng cho mỗi nhóm phân loại riêng biệt. Nếu tổng số được đặt ở cuối bảng thì tổng số phụ phải đặt ngay trong từng nhóm phân loại và ngược lại. Nguồn gốc dữ liệu: Nguồn gốc dữ liệu phải được ghi chú rõ ràng để tiện cho việc tra cứu khi cân thiết. Các ghi chú này phải được đặt ở dưới bảng và về phái bên trái. Chú thích cuối trang: Chú thích được sử dụng để trình bày những điều không thể thực hiện được ở trên bảng, bao gồm một số đặt tính của dữ liệu hay phương pháp tính toán. Lời chú giải được đặt ngay dưới bảng nhưng trước nguồn gốc dữ liệu và phải được định rõ bằng ký hiệu hay bằng chữ (chứ không phải bằng số) để tránh sự nhằm lẫn với các phần khác của bảng. Làm nổi bật: Kỹ thuật làm nổi bật được áp dụng thông qua việc làm tương phản cách in giữa các con số, cùi (hóa đơn, biên lai nhận ) và cả đề để nhấn mạnh bằng cách dùng các dòng chữ đậm và nhạt hay các dòng đôi. 7.3.3. Các nguyên tắc trình bày biểu đồ Các biểu đồ được sử dPTITụng để làm rõ được các phần quan trọng của báo cáo. Biểu đồ là phương tiện giúp thấy rõ các chất liệu được trình bày nên biểu đồ được sử dụng một cách vừa phải. Hiện nay có rất nhiều loại biểu đồ nhưng ở đay chúng ta chỉ xem xét đến các loại biểu đồ như: biểu đồ tuyến, biểu đồ thanh, biểu đồ thanh hai chiều, biểu đồ múi, biểu đồ dạng bản đồ, biểu đồ lượng hình. Các biểu đồ này được định rõ theo mục đích, loại đề mục nghiên cứu, đối tượng phải báo cáo. 7.4. TRÌNH BÀY BÁO CÁO NGHIÊN CỨU Phần lớn các báo cáo nghiên cứu được trình bày dưới dạng văn bản, nhưng sẽ có hiệu quả hơn nếu được trình bày các kết quả nghiên cứu bằng miệng (thuyết trình) tại các cuộc họp liên quan đến các đề tài đó, như thế có thể biết được các phản ứng, trả 95
  55. Chương 7. Báo cáo kết quả nghiên cứu lời các câu hỏi và đối phó lại mọi sự phản đối hoặc nghi ngờ nảy sinh ra. Tuy nhiên việc thuyết trình không thay thế cho báo cáo bằng văn bản. Để buổi thuyết trình có hiệu quả cần thực hiện theo các bước sau đây: Bước 1: Xác định đối tượng nghe thuyết trình: Ai nghe, đặc điểm của họ, thông tin nào về đề tài sẽ được trình bày mà họ biết rồi hoặc chưa biết, họ có khả năng hiểu vấn đề gì mà không cần giải thích tỉ mỉ, những lĩnh vực nào cần phải nhấn mạnh và những câu hỏi mà họ có khả năng sẽ nêu ra. Việc làm này cần thiết để việc truyền đạt có hiệu quả. Bước 2: Lựa chọn kỹ thuật hiểu (truyền đạt): Có 4 hình thức cơ bản của việc phát biểu: Nói ứng khẩu, nói bằng cách dùng trí nhớ, đọc một bài soạn trước, tùy ứng. Không nên sử dụng 2 phương pháp đầu để trình bày kết quả nghiên cứu khi việc trình bày đòi hỏi yếu tố chính xác cao. Nói bằng trí nhớ có thể không truyền đạt được những thông tin quan trọng do nhớ lầm và làm cho cuộc trình bày có thể không linh hoạt. Dù trình bày bằng cách nào thì việc truyền đạt cũng phải được tập dượt và chuẩn bị kỹ. Bước 3: Xem xét việc sử dụng những phương tiện nhìn. Trong khi thuyết trình thường kết hợp kỹ năng truyền đạt với các phương tiện nhìn vì các lý do sau: o Người ta thích nhìn bằng mắt nên sử dụng các phương tiện nhìn giúp cho việc điều khiển buổi họp và duy trì sự chú ý của nhóm. o Trí nhớ được tăng lên: các phương tiện nhìn thích hợp cho phép trí nhớ tăng lên khoảng 50% (nếu chỉ nghe không là 10%). o Việc nhìn thấy sẽ khuyến khích khâu tổ chức: Cách làm cho nhìn thấy bắt buộc người phát biểu phải sắp xếp ý tưởng của minh theo trình tự làm cho thông tin được đơn giản hóa cô đọng, tiết kiệm được cả thời gian và chi phí. o Ít có thể xảy ra sựPTIT hiểu sai. Tuy nhiên, khi lựa chọn các phương tiện nhìn thích hợp, nhà nghiên cứu cần xem xét những điều sau đây: o Cần tạo ra việc nhìn thấy để tăng cường, nổi bật hoặc đơn giản hóa các ý tưởng của người trình bày. o Thông tin thấy được nên dễ hiểu và không nên hỗn độn với quá nhiều chất liệu, một lúc chỉ nên diễn đạt một ý tưởng hay một khái niệm mà thôi. o Hình ảnh nhìn thấy cần đủ lớn để toàn thể người nghe có thể thấy dễ dàng do đó phải chú ý đến khối lượng và vị trí người nghe. o Lựa chọn kỹ thuật trình bày có minh họa nhìn bằng mắt hiệu quả nhất. Sau khi kết quả nghiên cứu đã báo cáo và trình bày cho những người có thẩm quyền ra quyết định thì về nguyên tắc, công việc nghiên cứu xem như hoàn tất và 96