Phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động của nữ giới tại Việt Nam

pdf 14 trang Đức Chiến 06/01/2024 310
Bạn đang xem tài liệu "Phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động của nữ giới tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfphan_tich_cac_yeu_to_tac_dong_den_su_tham_gia_luc_luong_lao.pdf

Nội dung text: Phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động của nữ giới tại Việt Nam

  1. 1 Mã số: 344 Ngày nhận: 26/12/2016 Ngày gửi phản biện lần 1: Ngày gửi phản biện lần 2: Ngày hoàn thành biên tập: 25/1/2017 Ngày duyệt đăng: 25/1/2017 PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ THAM GIA LỰC LƯỢNG LAO ĐỘNG CỦA NỮ GIỚI TẠI VIỆT NAM Bùi Anh Tuấn1, Nguyễn Thị Lan Anh2 Tóm tắt Nghiên cứu này phân tích các yếu tố tác động đến sự tham gia lực lượng lao động3 (LLLĐ) của nữ giới tại Việt Nam, sử dụng đến số liệu được thu thập từ bộ điều tra lao động việc làm và điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình trên 63 tỉnh thành của Tổng cục Thống kê giai đoạn 2011 – 2014. Bài nghiên cứu đã dựa trên việc xác định được vai trò quan trọng của LLLĐ nói chung và LLLĐ nữ nói riêng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua hàm sản xuất Cobb-Douglas và mô hình Solow mà tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân thật sự khiến cho tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới lại thấp và tăng chậm như hiện nay, từ 72.6% năm 2011 lên 73.6% năm 2014. Sau khi xem xét các mô hình của một số tác giả trên thế giới đã từng nghiên cứu vấn đề tương tự, mô hình tác động cố định FEM được sử dụng để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới sự tham gia LLLĐ của phụ nữ Việt Nam. Lúc này, biến phụ thuộc tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới được giải thích bởi các biến: tỷ lệ nữ giới biết chữ, tỷ lệ nữ giới chưa qua đào tạo, tỷ suất sinh, tỷ lệ nữ giới sống ở thành thị, tỷ lệ nữ giới đã kết hôn, chênh lệch thu nhập bình quân hàng tháng giữa nam và nữ. Kết quả nghiên cứu đã khẳng định rằng có sự tác động của tỷ lệ biết chữ, tỷ lệ không có chuyên môn kỹ thuật (CMKT), tỷ lệ kết hôn của nữ giới và GDP là các yếu tố có tác động đến tỷ lệ tham gia LLLĐ4 của nữ giới nước ta. Trong khi đó, theo kết quả từ mô hình, tỷ suất sinh, tỷ lệ nữ sống ở đô thị và chênh lệch thu nhập giữa hai giới không được chứng minh là có ảnh hưởng gì đến tỷ lệ này. 1 Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam/Associate Professor, Doctor, President of Foreign Trade University, Vietnam Email: buianhtuan.bgh@ftu.edu.vn 2 Cử nhân, Khoa Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương, Việt Nam/Bachelors of International Economics, Foreign Trade University, Vietnam Email: nguyenlananh3110@gmail.com 3 Điều kiện về độ tuổi được tính là có thể tham gia lao động được tính là từ 15 tuổi trở lên 4 Là chỉ tiêu đánh giá sự tham gia LLLĐ, được tính theo công thức của Tổng cục Thống kê: â ố ổ ở ê ạ độ ế ỷ ệ Đ â ố ổ ở ê
  2. 2 Từ khóa: LLLĐ, sự tham gia LLLĐ, nữ giới Abstract To analyze factors affecting female labour force5 participation in Vietnam, statistics utilized was collected from labour and employment investigation and population variation and family planning carried out by General Statistics Office of Vietnam in 63 Vienamese provinces/cities during 2011 - 2014. Basing on defining the important role of labour force, especially female labour force to economic - social development through Cobb-Douglas production function and Solow model, actual reasons causing low and slowly increasing female labor force participation rate from 72.6% (2011) to 73.6% (2014) are discovered. On the basis of research models for similar subjects by several authors in the world, fixed effects model (FEM) is used to analyze the factors affecting the female labor force participation in Vietnam. Accordingly, the dependent variable of female labor force participation ratio is explained by the variables: the ratio of female literate, the proportion of untrained females, fertility rate, the proportion of women living in urban areas, percentage of married women, average income disparities between men and women each month. As a result, it is confirmed that the impact of the literacy rate, the non-technical expert rate, the proportion of married women and GDP have affected participation ratio of female labor force6 in our country. Meanwhile, according to the results from the model, the birth rate, the percentage of women living in urban areas and the income gap between the sexes are not proved to have any effect on this ratio. Keyword: labour force, labour force participation, female 5 Age condition for calculating is 15 years old and above 6 It is the criteria for assessing labour force participation, calculated by General Satistical Office as following: *100%
  3. 3 1. Giới thiệu kém. Bởi thế, khi tham gia vào các hoạt động kinh tế, lao động nữ thường tham gia LLLĐ đóng vai trò to lớn trong việc nâng vào các ngành dịch vụ - ngành đang được cao đời sống vật chất, thúc đẩy kinh tế tăng đất nước tập trung phát triển và đang nằm trưởng, tạo sự phồn vinh cho xã hội. LLLĐ trong mục tiêu hướng đến của quá trình là “những con người sử dụng sức lao động chuyển dịch cơ cấu kinh tế. LLLĐ cũng giúp một cách có ý thức nhằm phục vụ cho nhu tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập, giảm đói cầu của bản thân cũng như của người khác”, nghèo, nâng cao đời sống của chính họ, và và sức lao động không bao giờ cạn kiệt. Bởi sau đó họ lại tiếp tục tái sản xuất, tái đầu tư vậy, theo Mác thì sức lao động được coi là vào lao động để nâng cao chất lượng thông một trong ba nguồn lực chính của quá trình qua hoạt động đào tạo – giáo dục, nhờ thế sản xuất bên cạnh đối tượng lao động và tư mà tăng cơ hội có việc làm, tăng thu nhập và liệu lao động. Ông cũng cho rằng có 4 yếu nâng cao chất lượng cuộc sống. Do đó, việc tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là lao tham gia LLLĐ của con người trong đó có động, vốn, đất đai và tiến bộ về mặt công phụ nữ cần được chú trọng thúc đẩy để xây nghệ - kỹ thuật. Sự ra đời của hàm sản xuất dựng nền tảng vững chắc cho quá trình phát Cobb-Doughlas về sau cũng là dựa trên cơ triển mạnh mẽ về sau của quốc gia. Đặc biệt, sở đó: nữ giới ở nước ta còn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng giới tồn tại rất rõ nét trong khi Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế Trong đó, Y đại diện cho tổng sản lượng giới thì việc họ gia nhập vào TTLĐ cần nội địa mà nền kinh tế sản xuất ra, L là tổng được khuyến khích hơn bao giờ hết để góp số người lao động tham gia các hoạt động phần đưa đất nước lên tầm cao mới. kinh tế và K là tổng vốn xã hội đầu tư cho nền sản xuất. A được xem là hệ số liên quan Vậy điều gì sẽ thúc đẩy hay làm giảm đi đến công nghệ, khi công nghệ được áp dụng sự tham gia vào LLLĐ của nữ giới Việt cho quá trình sản xuất càng tiên tiến thì hệ Nam? Đây là câu hỏi cần được giải đáp kịp số này càng lớn. Theo hàm này, LLLĐ đóng thời, vì trong bối cảnh toàn cầu hóa, các vai trò trọng yếu vào sự tăng trưởng kinh tế, quốc gia cũng dần ý thức được rằng xa hơn là yếu tố đầu vào của sản xuất không thể cả tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội thiếu và với quy mô LLLĐ lớn thì khả năng mới là điều cần phải đạt đến. Khi sự tham gia tăng sản lượng quốc dân càng cao. gia LLLĐ của nữ được quan tâm một cách đầy đủ cũng là lúc nước ta dần tiến sâu hơn Do đó, việc thúc đẩy sự tham gia vào vào hội nhập quốc tế, tạo cơ hội cho nền LLLĐ là vô cùng cần thiết để có thể góp kinh tế quốc dân được tăng trưởng mạnh mẽ phần tăng trưởng kinh tế. Nhất là đối với nữ và ổn định hơn, đồng thời rút ngắn đi giới, bởi lẽ nữ giới cũng chiếm gần nửa bộ khoảng cách về giới và mở ra một tương lai phận lao động, khoảng 48.5% - 48.6% trong tốt đẹp hơn cho Việt Nam. giai đoạn 2011 – 2013. Nữ giới tuy về mặt thể lực thì khó bằng nam giới nhưng về trí Mục tiêu cốt lõi của bài nghiên cứu là lực, tay nghề, độ khéo léo cũng không thua phân tích sự tác động của một số yếu tố kinh
  4. 4 tế - văn hóa – giáo dục - xã hội tiêu biểu đến 2.1.1 Yếu tố giáo dục sự gia nhập vào TTLĐ của nữ giới Việt Nam. Dựa trên cơ sở đó, tác giả sẽ đưa ra Giáo dục được xem là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự thay đổi đến việc phụ nữ những giải pháp hợp lý nhằm cải thiện chỉ tiêu tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới. tham gia LLLĐ. Trình độ học vấn càng cao thì tỷ lệ tham gia LLLĐ nói chung và của nữ Đối tượng nghiên cứu được xác định là giới nói riêng càng tăng. Khi một con người các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của càng có sự đầu tư cho hoạt động giáo dục phụ nữ vào LLLĐ, bao gồm: yếu tố kinh của mình là họ kỳ vọng sẽ đạt được thu nhập tế(GDP), yếu tố bất bình đẳng giới trong cao hơn nhờ sự giáo dục đó, và với kỳ vọng kinh tế (chênh lệch thu nhập bình quân giữa này nên khả năng họ tham gia LLLĐ là cao hai giới), yếu tố địa lý - xã hội (tỷ lệ sinh hơn. Becker (1964) đã tập trung nghiên cứu sống ở đô thị, tỷ suất sinh, tỷ lệ phụ nữ có sự ảnh hưởng của việc đầu tư vào vốn nhân gia đình), yếu tố giáo dục (tỷ lệ biết chữ, tỷ lực đến thu nhập, và ông đưa ra kết luận lệ không có CMKT). Các dữ liệu liên quan quan trọng nhất là bên cạnh những sự đầu tư đến những yếu tố này sẽ được thu thập trong về sức khỏe, sự nhập cư, các vấn đề liên 63 tỉnh thành trên lãnh thổ Việt Nam. quan đến giá cả hàng hóa và thu nhập chung trên thị trường, thì đầu tư về giáo dục và đào 2. Cơ sở lý thuyết và tổng quan tình hình tạo kỹ năng nghề nghiệp vẫn được xem là nghiên cứu đáng lưu tâm nhất. Ông đã minh chứng được 2.1 Cơ sở lý thuyết về các yếu tố ảnh mối tương quan giữa trình độ học vấn và thu hưởng đến sự tham gia LLLĐ của nữ giới nhập: khi mà học vấn càng cao thì thu nhập Theo như UNDP, có 5 yếu tố làm nên chỉ càng tăng. Ông cho rằng việc thu nhận kiến số bất bình đẳng giới (GII) bao gồm nền thức ở trường học cũng như là rèn luyện kỹ tảng giáo dục, vị trí trong quốc hội, sinh sản năng chuyên môn nghề nghiệp là hai mảng tuổi vị thành niên, tử vong ở bà mẹ và đặc nâng cao trình độ giáo dục có ảnh hưởng biệt là sự tham gia vào LLLĐ – một yếu tố tích cực đến thu nhập của mỗi cá nhân. quan trọng nhằm đánh giá mức độ bất bình Thêm nữa, OECD (2001) đã kết luận được đẳng trong quốc gia hay trong khu vực. Việc rằng trình độ học vấn mà cứ tăng lên một xem xét và phân tích các yếu tố tác động đến bậc thì thu nhập lại tăng khoảng 5% đến sự tham gia vào LLLĐ của nữ giới là việc 15%. Theo tính toán, nền tảng giáo dục có làm hết sức cần thiết để có thể xây dựng thể chiếm tới 20% kết quả đầu ra công việc được nền tảng đánh giá được các nguyên của mỗi cá nhân. Trên thực tế, tại Việt Nam, nhân gốc rễ dẫn đến sự thay đổi trong tỷ lệ kết luận này cũng tương đối đúng khi mà tham gia tại Việt Nam và có thể đưa ra được trình độ của lao động nói chung và lao động những giải pháp nâng cao tỷ lệ này. Trong nữ nói riêng càng cao thì thu nhập bình quân bài nghiên cứu này, các yếu tố sẽ được phân hàng tháng của họ càng lớn, nhờ thế mà tỷ lệ loại thành ba nhóm: các yếu tố liên quan đến tham gia LLLĐ của họ cũng gián tiếp tăng giáo dục, đến địa lý – văn hóa – xã hội và lên vì kỳ vọng có được mức lương cao nhằm kinh tế. trang trải cho cuộc sống. Ở cấp độ học vấn hay CMKT càng cao thì thu nhập của lao
  5. 5 động nữ giới càng lớn. Thậm chí, thu nhập còn nghèo nàn, lạc hậu thì khó mà thu hút giữa các trình độ còn có sự chênh lệch được phụ nữ bước vào TTLĐ. Đó là do không hề nhỏ, nhất là giữa trình độ cao đẳng những khu vực đô thị có trình độ phát triển và đại học trở lên. Theo Tổng cục Thống kê, hơn, văn minh hơn nên lối sống, quan điểm tại Việt Nam, nếu như khoảng cách này vào của những người ở đây cũng hiện đại hơn, năm 2011 là 1.112 triệu đồng/người thì đến chịu ảnh hưởng của các nền tư tưởng mới năm 2014, con số là 1.284 triệu đồng/người, hơn, bởi thế mà nữ giới cũng được quan tâm tăng trung bình 3.9%/ năm. Trong khi đó, hơn, từ việc đầu tư cho giáo dục cho đến sự nếu như thuộc về nhóm lao động không có ủng hộ, khuyến khích nữ giới tham gia vào CMKT, lao động nữ giới sẽ chỉ có được các hoạt động kinh tế nhằm gia tăng thu mức lương thấp, cách xa trình độ cao nhất từ nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống. 2.04 triệu đồng/người năm 2011 lên 2.813 Không những thế, ở những nơi như vậy triệu đồng/người năm 2014 với mức tăng cũng sẽ đông dân cư, mọc lên hàng loạt các trung bình là xấp xỉ 9.5%/năm. Nhìn vào khu công nghiệp, doanh nghiệp, các trung khoảng cách này, có thể nhận thấy rằng trình tâm thương mại Cộng với lúc này, nhu độ học vấn, tay nghề lao động có thể ảnh cầu tiêu dùng lớn sẽ giúp tạo ra hàng loạt hưởng khá lớn đến thu nhập của người lao việc làm với các mức thu nhập hấp dẫn, bởi động nữ giới. vậy mà hơn bao giờ hết, nữ giới cần phải tham gia vào LLLĐ nhằm đáp ứng được cả 2.1.2 Yếu tố địa lý – văn hóa – xã hội thị trường rộng lớn đó. Còn ở các khu vực Tình trạng hôn nhân của nữ giới hay tỷ nông thôn còn kém phát triển, tư tưởng xã suất sinh cũng khiến cho tỷ lệ này có sự thay hội cổ hủ, bảo thủ cộng thêm không được đổi. Phụ nữ đóng góp cho xã hội không chỉ tiếp nhận nhiều luồng văn hóa, công nghệ thông qua việc tham gia hoạt động kinh tế mới nên việc phụ nữ được theo học ở trình mà còn qua việc tạo ra thế hệ lao động trong độ cao hơn để có được công việc tốt hơn tương lai. Do phải tập trung vào việc duy trì không mấy được chú trọng, họ gần như chỉ nòi giống nên nhiều phụ nữ không còn cơ tham gia vào các công việc nội trợ, hoặc hội hoạt động kinh tế, tạo ra của cải cho xã không thường xuyên và không chính thức để hội và chấp nhận sống lệ thuộc. Ngược lại, có thể có nhiều thời gian nhất dành cho gia nếu như áp lực sinh con được giảm đi thì đình. Như vậy, nếu tỷ lệ nữ giới sinh sống ở người phụ nữ có thể dành nhiều thời gian đô thị càng lớn thì tỷ lệ tham gia LLLĐ càng hơn cho các công việc bên cạnh việc chăm có thể được gia tăng hơn và ngược lại, tỷ lệ sóc con cái. Theo cách giải thích này, tỷ suất này càng thấp, hay tỷ lệ nữ sống ở nông thôn sinh có tác động tiêu cực đến sự tham gia càng cao sẽ gây ảnh hưởng ngược chiều đến LLLĐ của nữ giới. tỷ lệ tham gia LLLĐ của họ. Bên cạnh đó, nơi sinh sống của người phụ Tuy nhiên, cũng có một cách giải thích nữ cũng có thể có tác động không nhỏ tới tỷ khác cho việc nơi sống có ảnh hưởng ra sao lệ tham gia LLLĐ của họ. Cụ thể, sinh sống đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới. Đó là ở những nơi hiện đại, phát triển thì sự tham do các quốc gia, nhất là những quốc gia gia có thể lớn hơn và ngược lại, những nơi đang phát triển trong đó có Việt Nam đang
  6. 6 hướng đến đô thị hóa, nhiều nơi từng là cũng là cơ hội để các nền văn hóa khác nhau nông thôn, kém phát triển nay được trở du nhập và gây sự ảnh hưởng ít nhiều lên thành các khu đô thị. Để thay đổi một nơi những quan điểm, văn hóa trong nước, bởi từng không hiện đại và thiếu nhiều điều kiện thế mà những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu mất để tăng trưởng thành một nơi hoàn toàn mới, dần đi. Xã hội lúc này không còn quá khắt phát triển hơn hẳn cả bề ngoài lẫn bên trong khe với phụ nữ, nhờ đã rút bớt khoảng cách thì cần có độ trễ nhất định. Đó là khoảng về bất bình đẳng giới. Điều này đã được thời gian để nền văn hóa được tiếp nhận và khẳng định thông qua nhiều bài nghiên cứu, thích ứng với những điều mới, cơ hội mới. trong đó có nghiên cứu kinh điển và lỗi lạc Nhất là những người phụ nữ trước kia ở của Dollar và Gatti (1999), hai ông cho rằng nông thôn, vốn chỉ làm những công việc khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên nông nhàn nay được sống ở một nơi mà họ cũng có thể khiến cho sự bất bình đẳng giới được tiếp cận với khoa học – công nghệ hiện giảm đi, qua sự đo lường về giáo dục dành đại hơn, các việc làm cũng mở ra nhiều với cho hai giới, sức khỏe, về sự bình đẳng kinh mức lương hấp dẫn hơn. Nhưng trình độ học tế và luật pháp của nữ giới trong hôn nhân vấn, CMKT của họ thì chưa đạt được tới cũng như trong xã hội và các quyền năng mức có thể chớp lấy các cơ hội đó nên bản của phụ nữ, đặc biệt trong chính trị. Chính thân họ cũng khó mà có động lực để tham vì thế, khi có sự tăng trưởng về mặt kinh tế, gia LLLĐ (WB, 2009), hoặc có muốn cũng phụ nữ dành được nhiều sự quan tâm hơn, cần tạm thời rút khỏi TTLĐ để tập trung đặc biệt được nâng cao tri thức, nhờ thế sẽ nâng cao tay nghề, CMKT nhằm đáp ứng được trao nhiều quyền lợi và cơ hội việc làm được yêu cầu. Bởi vậy, trong ngắn hạn, nữ hơn với mức lương tốt hơn. Điều này khiến giới sống ở đô thị sẽ có xu hướng không cho phụ nữ có khả năng tham gia LLLĐ cao tham gia nhiều vào LLLĐ, hay nói cách hơn, khiến cho tỷ lệ tham gia vào LLLĐ khác tỷ lệ sống ở thành thị có thể có ảnh được tăng lên. hưởng tiêu cực đến tỷ lệ tham gia vào LLLĐ của nữ giới, với nguyên nhân sâu xa là do Mặt khác, khi nền kinh tế có sự tăng quá trình đô thị hóa. Kết hợp với cách giải trưởng và phát triển mạnh mẽ cũng là lúc có thích trước đó là tỷ lệ ở thành thị có thể tác sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng động cùng chiều với tỷ lệ tham gia LLLĐ ở khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch của nữ giới, ta có thể kết luận rằng trong vụ, giảm tỷ trọng ở khu vực nông – lâm – mỗi giai đoạn, mỗi hoàn cảnh cụ thể, phải ngư nghiệp, đồng thời thu hút nguồn đầu tư xét xem hai mức độ ảnh hưởng tích cực và trong và ngoài nước nhiều hơn vào các khu tiêu cực, cái nào là lớn hơn thì mới có thể vực này. Do đó, cơ hội việc làm càng tăng đánh giá được tác động ròng của yếu tố này lên, đặc biệt ở những lĩnh vực đòi hỏi sự đến sự tham gia của họ. khéo léo, hay tỉ mỉ của phụ nữ như dịch vụ, thương mại, du lịch, công nghiệp nhẹ , 2.1.3 Yếu tố kinh tế khuyến khích nữ giới tham gia nhiều hơn nữa vào TTLĐ. Khi nền kinh tế phát triển, mở rộng giao thương với các nước khác trên thế giới thì
  7. 7 Về vấn đề bất bình đẳng giới trong kinh vực dược phẩm, điện, KHCN, nông nghiệp tế, có thể kể đến việc chênh lệch thu nhập hoặc trở thành thạc sĩ/tiến sĩ sẽ có ảnh bình quân giữa hai giới. Kết hợp với các yếu hưởng lớn đến những người sống ở thành thị tố khác đã được nói tới ở trên, có thể thấy vì những phụ nữ ở đây có nhiều khả năng rằng khi mà sự chênh lệch này càng cao, được tiếp cận với nền giáo dục kỹ thuật. người phụ nữ có thể sẽ ỷ lại nhiều hơn, hoặc Với Long (1958), việc nữ giới tham gia bị coi là yếu thế trong kinh tế so với người đàn ông, và họ càng dễ bị thuyết phục trước vào TTLĐ có liên quan đến trình độ giáo quan điểm xã hội bảo thủ, lạc hậu. Điều này dục của họ hơn là độ tuổi. Đối với những có thể dẫn đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ phụ nữ đạt trình độ cao nhất là tiểu học thì giới trở nên thấp đi, hay nói một cách khác, khả năng họ tham gia LLLĐ là thấp hơn hẳn sự chênh lệch thu nhập của nam – nữ có thể so với nam giới cùng trình độ, nhưng nếu là rào cản gia nhập TTLĐ của phụ nữ, có tác như hoàn thành cấp THPT hay cao đẳng động tiêu cực đến sự tham gia của họ. hoặc hơn nữa thì sự tham gia cao hơn nhiều. 2.2 Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.2.2 Yếu tố địa lý – văn hóa – xã hội 2.2.1 Yếu tố giáo dục Nhắc đến nữ giới thường sẽ được gắn với trách nhiệm dành cho gia đình và các quyết Giáo dục được xem là một yếu tố quan định của họ phụ thuộc nhiều vào quan điểm trọng tác động đến tỷ lệ tham gia LLLĐ và của cả gia đình và xã hội chứ không hẳn là luôn được các nhà nghiên cứu đưa vào phân cá nhân họ. Chính vì vậy, các tác giả sẽ rất tích. Idil (2013), Yakubu (2010) đều cho tập trung vào những yếu tố có liên quan đến rằng giáo dục cũng có ảnh hưởng tích cực tình trạng hôn nhân, tỷ suất sinh, con cái bởi đến tỷ lệ tham gia LLLĐ vì nếu như trình độ họ cho rằng nó sẽ tác động khá lớn đến động học vấn của phụ nữ càng cao càng dễ tìm lực tìm kiếm việc làm của người phụ nữ. việc, đồng thời cũng làm giảm thiểu đi những ý kiến bảo thủ về phụ nữ đã tồn tại Yuko và Fang (2015) đã thấy rằng tỷ lệ lâu nay. Ngân hàng thế giới (2009) khi tìm tham gia của hai nước Hàn Quốc và Nhật hiểu về sự tham gia LLLĐ của nữ giới ở Bản thấp hơn tỷ lệ trung bình ở khu vực Bắc Thổ Nhĩ Kỳ, phần lớn phụ nữ không học Âu. Sau quá trình nghiên cứu bằng nhiều quá bậc tiểu học và điều này ảnh hưởng tiêu phương pháp khác nhau, tác giả kết luận phụ cực đến tỷ lệ tham gia và gây bất lợi cho họ. cấp cho con có thể cản trở phụ nữ làm các công việc thường xuyên, tức là ảnh hưởng Mehak (2007) cũng đồng tình với quan tiêu cực đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của họ. điểm đó và ông kết hợp các yếu tố để kết luận một người phụ nữ có giáo dục, còn độc Tại vùng Trung Đông và Bắc Phi, Julia thân và trong độ tuổi 15 - 49 có khả năng (2005) sau khi nghiên cứu, thấy kết quả cao nhất là sẽ tham gia vào TTLĐ. Bên cạnh đáng chú ý nhất là tỷ suất sinh có sự tác đó, tác giả cũng sử dụng mô hình Probit và động ngược chiều đến sự tham gia của nữ Logit ước lượng các khu vực thành thị cho giới. Theo Long (1958), nếu một người phụ ra kết quả khi phụ nữ có bằng cấp trong lĩnh nữ có con nhỏ thì người đó sẽ ít khả năng
  8. 8 tham gia LLLĐ hơn người chưa có con. tốt đến việc làm của nữ giới, sự tham gia của Cùng quan điểm, Mehak (2007) cũng như nữ giới vào LLLĐ. Lý giải điều này, tác giả nhiều nhà nghiên cứu khác đã đưa vào mô đã cho rằng lao động nam kiếm được nhiều hình của mình hàng loạt các biến về tình tiền hơn lao động nữ, và vì thế mà nam giới trạng hôn nhân, quan điểm xã hội tại đất luôn được thuê mướn chính thức ở những nước Pakistan. Sử dụng biến giả với giá trị 1 lĩnh vực mà trên thị trường quốc tế chú là đã kết hôn, nếu chưa thì giá trị là 0, kết trọng mở rộng. qủa mô hình cho thấy phụ nữ đã lập gia đình thích ở nhà chăm sóc gia đình nhiều hơn Bên cạnh đó, còn có một bài nghiên cứu TTLĐ của nữ giới. kinh điển khác về mối quan hệ chữ U giữa phát triển kinh tế và tỷ lệ tham gia LLLĐ Trong khi đó, Aboohamidi và Chidmi của nữ giới. Goldin (1995) đã kết luận rằng (2013) sử dụng các dữ liệu của bốn quốc gia khi thu nhập thấp và các sản phẩm nông Ai Cập, Moroco, Pakistan và Thổ Nhĩ Kỳ. nghiệp có chỗ đứng thì nữ giới tham gia với Sau đó, tác giả đã chỉ ra xu hướng chung là tỷ lệ cao nhưng khi thu nhập trung bình tăng tỷ lệ nữ giới biết chữ cũng như tỷ lệ sống ở lên do sự mở rộng của thị trường hoặc có thành thị có ảnh hưởng lớn và thuận chiều công nghệ mới thì tỷ lệ này giảm hẳn. Kết đối với sự tham gia LLLĐ của nữ giới. hợp với các yếu tố giáo dục và văn hóa – xã Ngoài ra, tỷ suất sinh thì có ảnh hưởng tiêu hội trên cơ sở kinh tế, trong mô hình chữ U, cực đến sự tham gia của họ. nửa phần bên trái có xu hướng đi xuống tức là nhóm các vùng miền có tỷ lệ tham gia vào Chưa kể, Idil (2013) nói việc đô thị hóa LLLĐ thấp, đều là những khu vực nghèo cũng góp phần thay đổi đáng kể đến sự tham còn nửa còn lại là những khu vực phát triển gia của phụ nữ hay có thể nói, đô thị hóa tốt hơn. Nhìn chung, một cách gián tiếp, khiến tỷ lệ tham gia vào LLLĐ của nữ giới việc tăng trưởng và phát triển kinh tế có ảnh giảm đi. hưởng đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới, 2.2.3 Yếu tố kinh tế còn theo hướng tích cực hay tiêu cực thì phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác như mức độ Khi nghiên cứu về sự tham gia vào LLLĐ giàu nghèo của quốc gia, quan điểm xã hội của phụ nữ tại các quốc gia đang phát triển, có tiến bộ hay không. Sher Verick (2014) đã cho rằng khi nền kinh tế gặp những cú sốc thì người phụ nữ sẽ 3. Phương pháp nghiên cứu buộc phải tham gia mạnh hơn vào TTLĐ 3.1 Mô tả dữ liệu nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của Dữ liệu đưa vào để nghiên cứu được thu cả gia đình. Tuy nhiên, họ thường nhận thập từ 63 tỉnh, thành trên Việt Nam từ năm được mức lương thấp hơn nam giới và phải 2011 đến năm 2014. Các biến được sử dụng làm những công việc có năng suất thấp. bao gồm: tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giới Sauré và Zoabi (2012) đã bình luận rằng (FLFPR), tỷ lệ biết chữ (LIT), tỷ lệ chưa qua thương mại quốc tế đã phát triển được các đào tạo CMKT (UNED), tỷ lệ sống ở thành lĩnh vực từ đó có khả năng ảnh hưởng không thị (URB), tỷ lệ đã có gia đình (MAR), tỷ
  9. 9 suất sinh (FER), chênh lệch thu nhập giữa Theo lý thuyết, số liệu mảng mà tác giả nam và nữ giới (GAP), GDP các tỉnh thành. sử dụng để nghiên cứu có thể được phân tích dựa trên 3 mô hình: Mô hình hồi quy gộp Dữ liệu thu thập được và đưa vào nghiên (POLS), Mô hình tác động cố định (FEM) cứu là của các tỉnh thành trên Việt Nam, và Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM). Mô hoàn toàn đầy đủ cho mỗi biến và mỗi năm. hình hồi quy số liệu mảng với 63 đối tượng Những thống kê mô tả chi tiết sẽ được thể quan sát và 4 thời điểm quan sát có dạng: hiện tại bảng 1 dưới đây. Bảng 1. Mô tả các biến có trong mô hình hồi quy Tên Số Giá trị Độ lệch Giá Giá trị biến quan trung chuẩn trị lớn sát bình nhỏ nhất nhất FLFPR 252 75.78413 7.58608 56.5 92.2 Trong đó: LIT 252 90.11706 9.03259 50.6 98.4 UNED 252 88.53056 3.16122 83.2 97.9 . i là các tỉnh thành trên lãnh thổ Việt Nam FER 252 2.176667 0.35767 1.3 3.25 và t là các năm nghiên cứu (2011, 2012, URB 252 27.89643 17.3068 9.5 90.7 2013, 2014) MAR 252 66.88413 4.13304 53.7 77.8 . là sai số của quan sát i tại thời điểm t GDP 252 55194.73 90434.2 3501 662523 GAP 252 395.8968 353.15 -679 1631 và thỏa mãn các giả thiết của OLS. Nguồn: Tác giả tự tổng hợp . là biến không quan sát được Sau khi có thống kê về dữ liệu, để có thể Dựa trên những bài nghiên cứu tương tự tiến hành hồi quy mô hình thì cần tìm hệ số về đề tài này, tác giả có dự đoán như sau. tương quan giữa các biến nhằm kiểm tra Bảng 3. Dự đoán về tác động của các biến độc lập mức độ liên hệ giữa các biến. lên biến phụ thuộc Bảng 2. Hệ số tương quan giữa các biến trong mô Tác động được Ký hình Biến độc lập dự đoán đối với hiệu biến phụ thuộc FLFPR LIT UNED FER URB MAR GDP GAP Tỷ lệ biết chữ LIT + FLFPR 1.00 Tỷ lệ lao động chưa qua UNED - đào tạo LIT -0.5 1.00 Tỷ suất sinh FER - UNED -0.24 -0.09 1.00 Tỷ lệ sống ở thành thị URB +/- FER 0.61 -0.41 -0.30 1.00 Tỷ lệ đã lập gia đình MAR - URB -0.52 0.20 -0.12 -0.25 1.00 Chênh lệch thu nhập giữa GAP - MAR 0.66 -0.46 -0.01 0.39 -0.57 1.00 nam và nữ giới GDP -0.46 0.23 -0.13 -0.32 0.51 -0.42 1.00 GDP GDP + GAP -0.60 0.34 0.09 -0.25 0.41 -0.52 0.27 1.00 Nguồn: Tác giả tự tổng hợp Nguồn: Tác giả tự tổng hợp 3.3 Phương pháp ước lượng 3.2 Ước lượng mô hình Đầu tiên, tác giả sử dụng kiểm định Breuch – Pagan Lagrange để quyết định lựa
  10. 10 chọn mô hình POLS hay REM, và kết quả Khác với dự đoán ban đầu, tỷ suất sinh cho thấy REM là sự lựa chọn tốt hơn. Vì FER không có tác động đến quyết định của vậy, kiểm định Hausman sẽ được đưa vào sử một người phụ nữ về việc tham gia vào dụng để xác định REM hay FEM là mô hình LLLĐ. Có thể giải thích điều này là do ở hợp lý. Kết quả là p-value nhỏ hơn 10%, hay Việt Nam, số con cái chưa thể khẳng định nói cách khác FEM là mô hình tốt nhất để được là người mẹ có cần thiết phải dành chạy bộ số liệu đã thu thập. Sau khi tiến toàn bộ thời gian cho con hay không. Nếu hành chạy mô hình FEM, kết quả hồi quy như có nhiều con khiến phụ nữ chịu áp lực cho thấy có một số hệ số hồi quy không có ý về tài chính, họ sẽ có động lực mạnh mẽ để nghĩa ở mức ý nghĩa 10%, đó là FER, URB tham gia TTLĐ để đảm bảo cuộc sống đầy và GAP, do p-value của chúng đều lớn hơn đủ hơn cho con. Mặt khác, cũng có ý kiến 0.1. cho rằng, việc phụ nữ đi làm không mang lại ích lợi, người chồng có thể trang trải được Bảng 4. Kết quả hồi quy của 3 mô hình thì họ sẽ ở nhà nội trợ và chu toàn cho con POLS, FEM, REM cái. Hơn nữa, nhiều người vốn có tư tưởng Biến số OLS REM FEM phụ thuộc vào chồng, hoặc không thể phân LIT -0,141525 -0,1094294* 0,442531 bổ thời gian hợp lý giữa công việc ngoài xã (0,0352584) (0,0598882) (0,0844333) hội và trong gia đình nên đã lựa chọn gia UNED -0,457420 -0,03780 0,170666 đình sẽ là mối quan tâm hơn cả và không (0,0926855) (0,0747626) (0,0641689) muốn gia nhập TTLĐ. Như vậy, tỷ suất sinh FER 5,395125 1,470686 0,9021933 tại Việt Nam sẽ không tác động tới sự tham (0,9133568) (0,7002603) (0,567573) URB -0,064717 -0,08935 0,0095511 gia LLLĐ của nữ giới. (0,0201804) (0,0292634) (0,0315994) Còn đối với biến URB, như đã được phân MAR 0,3819754 -0,1053434 -0,322749 (0,0902624) (0,0961555) (0,0855747) tích và dự đoán trước đó, tác giả chưa thể GDP -0,000011 -0,000015 0,0000157 khẳng định được sự tác động của tỷ lệ nữ (0,0000035) (0,000006) (0,00000008) giới sinh sống ở thành thị đến sự tham gia GAP -0,005602 -0,00252 -0,0009987 của phụ nữ vào TTLĐ. Một phần vì thành (0,0008865) (0,0008525) 0,0007226 thị là nơi đông dân cư và phát triển sẽ mở ra Hệ số tự 96,37152 127,2101 69,89971 nhiều cơ hội việc làm hơn so với nông thôn, do nên sẽ hấp dẫn LLLĐ. Mặt khác, có thể sự (12,91193) (13,40664) 13,69634 đô thị hóa mạnh mẽ và nhanh chóng của R2 0,7156 0,619 0,3450 nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện F-test 87,72 71,15 10,77 đại hóa đất nước sẽ biến những môi trường Hausman _ _ 158,37 test vốn dĩ nhiều cổ hủ trở thành nơi hiện đại. Để Giá trị sai số chuẩn ở trong dấu ngoặc đơn những người sinh sống ở đó, đặc biệt là p-value<0,01, p-value<0,05,*p-value<0,1 những người phụ nữ vốn quen việc lao động chân tay, giản đơn nhiều hơn phải thích Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ kết quả nghi, làm quen với hoàn cảnh mới. Nếu họ trên phần mềm STATA muốn có công việc để trang trải cho cuộc sống, họ nhất thiết phải nâng cao trình độ
  11. 11 chuyên môn của mình để đáp ứng được yêu tuyến, phương sai sai số thay đổi, tự tương cầu cao hơn từ những người thuê lao động. quan và phân phối không chuẩn của nhiễu. Do đó, họ sẽ có thể tạm thời rút khỏi TTLĐ Dựa vào bảng 2, có thể nhận thấy không để trang bị đầy đủ kiến thức, tay nghề, kỹ năng trước khi quay trở lại để tìm kiếm công có hệ số tương quan riêng phần nào có giá việc phù hợp. Hoặc vì nhận ra mình không trị tuyệt đối là lớn hơn 0.8, vì vậy không có trường hợp đa cộng tuyến xảy ra trong mô đủ năng lực để cạnh tranh với các đối thủ khác, nhiều người sẽ không có động lực để hình nghiên cứu. tham gia và tự rút khỏi LLLĐ, sống nhờ vào Tiếp đến kiểm định về phương sai sai số những công việc không chính thức hoặc phụ thay đổi sẽ được thực hiện thông qua kiểm thuộc nhiều vào người khác. Chính vì những định Wald chỉ dành riêng cho mô hình FEM. lý do như vậy cho nên trong trường hợp ở Kết quả cho thấy p-value là 0, nhỏ hơn 10%, Việt Nam ta ở giai đoạn 2011 – 2014 này, tỷ điều đó đồng nghĩa với việc mô hình đang lệ nữ giới trên 15 tuổi khó mà ảnh hưởng rõ nghiên cứu có phương sai sai số thay đổi, ràng được đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của họ. đòi hỏi cần phải khắc phục thông qua Robust. Kết quả mô hình sau khi được khắc Trong khi đó, sự chênh lệch giữa thu nhập bình quân hàng tháng giữa nam giới và phục cho thấy các biến vẫn có ý nghĩa thống nữ giới theo mô hình này lại không hề ảnh kê với p-value đều nhỏ hơn 10%. hưởng đến sự tham gia vào LLLĐ của nữ Bảng 5. Kết quả mô hình hồi quy sau khi khắc giới tại Việt Nam. Nếu như theo giải thích ở phục khuyết tật phương sai sai số thay đổi bằng chương đầu, sự chênh lệch này càng cao hồi quy Robust càng khiến cho phụ nữ có tâm lý phụ thuộc Tên Hệ số hồi Sai số tiêu p- vào người đàn ông do thấy mình yếu thế biến quy chuẩn value hơn. Tuy nhiên, sư giải thích này còn chưa LIT 0.4393 0.1573 0.007 đủ chặt chẽ, đồng thời những nghiên cứu UNED -0.1746 0.098 0.08 trên thế giới cũng đã có nhắc đến yếu tố này MAR -0.2709 0.1229 0.031 GDP 0.0000149 0.00000935 0.016 có tác động tiêu cực tới tỷ lệ tham gia LLLĐ Hệ số 68.94934 24.94951 0.007 của nữ giới nhưng lại là ở những quốc gia tự do như Hàn Quốc và Nhật Bản – những nước Nguồn: Tác giả tự tổng hợp có tư tưởng phong kiến khắc nghiệt hơn nước ta rất nhiều nên trong mô hình này Tiếp theo, khuyết tật tự tương quan của biến GAP không ảnh hưởng được đến mô hình sẽ được xem xét thông qua kiểm FLFPR cũng là điều dễ hiểu. định Wooldridge. Kết quả là p-value đạt 0.5, lớn hơn 10%, tức là mô hình không mắc tự Vì những biến này không có ý nghĩa tương quan chuỗi. Cuối cùng, dùng kiểm thống kê nên tác giả đã loại bỏ khỏi mô định Skewness-Kurtosis để làm rõ nhiễu có hình. Như vậy, mô hình mới có bốn biến độc phân phối chuẩn hay không. Kết quả cho lập là LIT, UNED, MAR và GDP. Những thấy p-value của cả hai hệ số Skewness và khuyết tật mà tác giả sẽ xem xét là đa cộng Kurtosis đều bé hơn 10%, với giá trị lần lượt là 0.0011 và 0.0014. Điều đó đồng nghĩa với
  12. 12 việc bác bỏ H0, hay nhiễu có phân phối Như vậy, nếu nữ giới được đào tạo tay nghề, chuẩn. CMKT thì sự tham gia LLLĐ của họ sẽ mạnh mẽ hơn. Theo nghiên cứu cụ thể theo Có thể kết luận là mô hình được nghiên vùng, tỷ lệ nữ giới chưa qua đào tạo ở Đồng cứu tương đối tốt khi khuyết tật duy nhất là bằng sông Cửu Long thấp nhất cả nước và phương sai sai số thay đổi đã được khắc điều này khiến cho tỷ lệ tham gia của họ phục. cũng thấp nhất cả nước (Tổng cục Thống kê, 4. Kết quả nghiên cứu 2011 – 2014). Như vậy, từ bảng 5 có thể xây dựng được Nếu như các yếu tố khác không thay đổi, mô hình kết quả để đi vào phân tích về sau khi tỷ lệ nữ giới trên 15 tuổi lập gia đình cao là: hơn 1% thì tỷ lệ phụ nữ quyết định gia nhập LLLĐ giảm đi trung bình khoảng 0.27%, và ngược lại. Nói cách khác, tỷ lệ phụ nữ kết hôn càng gia tăng thì càng khiến sự tham gia của họ vào TTLĐ giảm đi. Theo nghiên cứu số liệu thống kê, tác giả nhận thấy các tỉnh Mô hình đã thể hiện được sự tác động thuộc khu vực Trung du và Miền núi Bắc Bộ thuận chiều của LIT và GDP, ngược chiều như Lai Châu, Tuyên Quang nắm giữ tỷ lệ của UNED, MAR đến tỷ lệ tham gia LLLĐ kết hôn ở nữ giới cao nhất cả nước và tỷ lệ của nữ giới trong giai đoạn 2011 – 2014. tham gia ở các vùng này cũng tương đối Khi không có thay đổi ở các biến khác, thấp qua các năm. nếu tỷ lệ biết chữ của nữ giới trên 15 tuổi Với điều kiện các yếu tố khác không có tăng 1% thì tỷ lệ nữ giới tham gia LLLĐ sự thay đổi, GDP tăng 1% làm cho tỷ lệ tăng khoảng 0.44% và ngược lại. Điều này tham gia LLLĐ của nữ giới ở nước ta cũng có nghĩa là khi phụ nữ Việt Nam biết chữ, tăng lên trung bình là 0.00000149% và họ có nhiều động lực tham gia LLLĐ hơn, ngược lại. Như vậy, GDP hay tăng trưởng khiến tỷ lệ này được gia tăng. Điều này hoàn kinh tế nước ta nhìn chung có sự ảnh hưởng toàn đúng như dự đoán ban đầu của tác giả. tích cực nhưng tương đối yếu đến sự tham Tỷ lệ mù chữ của nữ giới ở một số tỉnh gia LLLĐ của phụ nữ. thuộc vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ như Cao Bằng, Lai Châu, Yên Bái còn khá Còn khi không có yếu tố khác bất biến thì cao và điều này cũng làm cho tỷ lệ tham gia tỷ lệ này chỉ rơi vào khoảng 68.95%. LLLĐ của họ trở nên thấp hơn so với các nơi khác. 5. Kết luận và kiến nghị 5.1 Kết luận Trong trường hợp các yếu tố khác không đổi, nếu tỷ lệ những người phụ nữ trên 15 Cũng giống như nhiều nghiên cứu trên tuổi không trải qua đào tạo CMKT tăng lên thế giới trước đây về đề tài tương tự, trong 1%, tỷ lệ tham gia TTLĐ của nữ giới ở nước bài nghiên cứu này, tác giả cũng nhận thấy ta sẽ giảm đi trung bình 0.17% và ngược lại. giáo dục có ảnh hưởng đến sự tham gia vào
  13. 13 LLLĐ của nữ giới tại Việt Nam. Cụ thể, tỷ hoạt động xóa mù chữ, giảm tỷ lệ tái mù chữ lệ nữ giới biết chữ tác động tích cực và tỷ lệ và gia tăng khả năng tiếp tục tham gia nâng nữ giới không có trình độ CMKT tác động cao trình độ sau khi được xóa mù chữ. Đồng tiêu cực đến tỷ lệ tham gia này. thời, Nhà nước nên có sự phân bổ đầu tư hợp lý hơn, tập trung hơn vào mảng đào tạo Phát hiện quan trọng mà tác giả nhấn và dạy nghề nhằm nâng cao tay nghề và mạnh là tỷ lệ nữ giới đã kết hôn thực sự có CMKT của nữ giới. ảnh hưởng tiêu cực đến sự gia nhập TTLĐ của họ do họ phải san sẻ rất nhiều thời gian Về mặt văn hóa – xã hội, do việc kết hôn của mình cho việc chăm sóc gia đình. Bên sẽ có ảnh hưởng đến sự tham gia LLLĐ của cạnh đó, GDP có tác động tiêu cực đến tỷ lệ nữ giới, nên Nhà nước cần ban hành chính tham gia LLLĐ của nữ giới nhưng sự tác sách đãi ngộ hơn cho lao động nữ trong và động này là không đáng kể do ảnh hưởng hậu thời kỳ thai sản, có biện pháp tăng hai chiều của GDP. Tăng trưởng kinh tế vừa cường xây dựng nhà trẻ, trường mầm non. mở ra cơ hội mới về việc làm và thu nhập Giải pháp này sẽ giúp san sẻ những khó cho nữ giới, thu hút được nữ giới tham gia khăn sau kết hôn của phụ nữ, đặc biệt về nhiều hơn nhưng cũng đặt ra thách thức khi mặt thời gian dành cho con cái, và giúp công nghệ tiên tiến nhờ đó cũng được áp động viên phụ nữ vẫn tiếp tục tham gia dụng rộng rãi hơn với các máy móc dần thay TTLĐ sau khi sinh con. thế lao động con người khiến những nữ giới có trình độ CMKT thấp hoặc không có thì sẽ Về mặt kinh tế, như đã đề cập ở phần kết khó mà tham gia được, nhất là khi tỷ lệ nữ luận trên, dù tăng trưởng kinh tế có tác động giới không có CMKT ở nước ta hiện nay là tích cực đến tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ trên 80%. Vì thế mà sự tác động ròng của giới, nhưng còn yếu nên việc tăng trưởng GDP lên tỷ lệ tham gia LLLĐ tuy là tích cực kinh tế vẫn là cần thiết, cần tăng trưởng toàn nhưng không mạnh mẽ. diện hơn, đặc biệt thu hút đầu tư trong và ngoài nước, kiểm soát chặt chẽ vấn đề ưu Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, đãi với vốn đầu tư nước ngoài để tránh thất không có bằng chứng nào cho thấy tỷ suất thu thuế. Đặc biệt, có sự đầu tư nhiều hơn sinh, tỷ lệ nữ giới sinh sống ở thành thị hay cho hoạt động R&D để có thể tạo ra những chênh lệch thu nhập bình quân hàng tháng sản phẩm hiện đại với mức giá hợp lý để có giữa nam và nữ giới có ảnh hưởng đến tỷ lệ thể sử dụng rộng rãi trong hộ gia đình, nhằm tham gia LLLĐ của nữ giới nước ta. giúp người phụ nữ rút ngắn thời gian làm việc nhà. Đó cũng là một giải pháp nhằm 5.2 Kiến nghị san sẻ những khó khăn của phụ nữ sau khi Trên cơ sở những phát hiện về từ kết quả lập gia đình, tạo động lực để họ tham gia nghiên cứu, tác giả có một vài đề xuất như LLLĐ và giữ chân họ ở lại lâu hơn trên sau: TTLĐ. Về mặt giáo dục, các Bộ, Ban, Ngành, các cơ quan hành chính cần quan tâm đến
  14. 14 Tài liệu tham khảo 1. Abbas Aboohamidi và Benaissa Chidmi, 2013, Female Labor Force Participation in Pakistan and some MENA Countries, Texas Tech University. 2. Clarence D.Long, 1958, The Labor Force Under Changing Income and Employment, Princeton University. 3. Claudia Goldin, 1995, The U-Shape Female Labor Force Function in Economic Development and Economic History, The Brookings Institution. 4. Dante Contreras và Gonzalo Plaza, 2010, Cultural Factors in Women’s Labor Force Participation in Chile, Feminist Economics, Quyển tập 16, Số 2 tháng 4/2010, trang 27 – 46. 5. Dollar và Gatti, 1999, Gender Inequality, Income and Growth: Are Good Times Good for Women?, The World Bank. 6. Gary S.Becker, 2002, Investment in Human Capital: A Theoretical Analysis, The Journal of Political Economy, Quyển tập 70, trang 11 – 26. 7. Idil Goksel, 2013, Female labor force participation in Turkey: The role of conservatism, Women’s Studies International Forum, Quyển tập số 41, trang 45 – 54. 8. Julia Robinson, 2005, Female Labor Force Participation in the Middle East and North Africa, Wharton Research Scholars Journal, số tháng 1/2005, trang 4 – 5. 9. Mehak Ejaz, 2007, Determinants of Female Labor Force Participation in Pakistan: An Empirical Analysis of PLSM (2004-05) Micro Data, The Lahore Journal of Economics, Quyển tập đặc biệt, Số tháng 9/2007, trang 1. 10. Sauré và Zoabi, 2012, International Trade, the Gender Wage Gap, Female Labor Force Participation and Growth, Tel Aviv University. 11. Sher Verick, 2014, Female labor force Participation in developing countries, IZA World of Labor 2014, Quyển tập 87, trang 1. 12. UNDP, 2015, Work for Human Development, Hument Develop Report, Việt Nam. 13. Yakubu, 2010, Factors Influencing Female Labor Force Participation in South Africa in 2008, The African Statistical Journal, Quyển tập 11, trang 100 – 101. 14. Yuko Kinoshita và Fang Guo, 2015, What Can Boost Female Labor Force Participation in Asia?, International Monetary Fund. TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ Tổng cục Thống kê Việt Nam: