Nghiên cứu của CEPR - Từ cuộc tranh luận trong “kinh tế học vĩ mô về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam

pdf 16 trang vanle 2940
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu của CEPR - Từ cuộc tranh luận trong “kinh tế học vĩ mô về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_cua_cepr_tu_cuoc_tranh_luan_trong_kinh_te_hoc_vi.pdf

Nội dung text: Nghiên cứu của CEPR - Từ cuộc tranh luận trong “kinh tế học vĩ mô về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam

  1. NGHIÊN CỨU CỦA CEPR Bài nghiên cứu NC-08/2008 Từ cuộc tranh luận trong “kinh tế học vĩ mơ về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam T.S Nguyễn Đức Thành TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
  2. © 2008 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Bài Nghiên cứu NC-08/2008 Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội Nghiên cứu của CEPR Từ cuộc tranh luận trong “kinh tế học vĩ mơ về kiều hối” đến những gợi mở cho thực tiễn ở Việt Nam1 TS. Nguyễn Đức Thành2 Tĩm tắt Bài viết này là một nỗ lực thử tổng kết những nội dung cơ bản của một nhánh đang phát triển mạnh gần đây trong kinh tế học ứng dụng là “kinh tế học vĩ mơ về kiều hối.” Việc hệ thống hố nội dung trong nhánh lý thuyết này cho thấy dịng kiều hối tạo ra những hiệu ứng vừa tích cực lẫn tiêu cực đến nền kinh tế. Bài viết cũng tổng kết các nghiên cứu định lượng mới nhất về vấn đề này ở Việt Nam, và chỉ ra rằng ảnh hưởng của dịng kiều hối lên nền kinh tế nước ta phản ánh cả hai chiều hướng nêu trên. Trên cở sở tổng hợp những phát hiện từ các mơ hình lý thuyết và thực nghiệm, tác giả đưa ra một số gợi ý chính sách nhằm phát huy những tác động tích cực của dịng kiều hối trong dài hạn. Quan điểm được trình bày trong bài nghiên cứu này là của (các) tác giả và khơng nhất thiết phản ánh quan điểm của CEPR. 1 Một phiên bản của bài nghiên cứu này đã được cơng bố trên Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, Số 04/2008. 2 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR), Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc Gia Hà Nội. 1
  3. Mục lục 1. Giới thiệu 3 2. Khái niệm và khuynh hướng gần đây của kiều hối trên thế giới 4 3. Cuộc tranh luận trong “Kinh tế học vĩ mơ về kiều hối” 5 4. Những nghiên cứu gần đây về kiều hối ở Việt Nam 9 5. Những gợi mở về vấn đề kiều hối ở Việt Nam 11 Tài liệu tham khảo 12 2
  4. 1. Giới thiệu Vì các lý do lịch sử cũng như kinh tế, hiện nay cĩ khoảng hơn 3 triệu người Việt Nam sống và làm việc ở nước ngồi (gần 3.6 % dân số). Trong số đĩ, khoảng 80% sống ở các nước cơng nghiệp phát triển, nơi cĩ mức sống và thu nhập cao hơn trong nước rất nhiều. Thêm vào đĩ, do chính sách khuyến khích xuất khẩu lao động, số lượng người Việt Nam lao động ở nước ngồi cũng tăng lên mạnh mẽ. Những người này thường xuyên gửi tiền về cho gia đình, thoạt tiên chủ yếu dưới hình thức tiết kiệm. Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường trong nước, các cơ hội đầu tư tăng lên, đồng thời, chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối nĩi chung và kiều hối3 nĩi riêng được điều chỉnh theo hướng cởi mở hơn, tạo thuận lợi cho cả người gửi lẫn người nhận đã khuyến khích một số lượng lớn Việt kiều gửi tiền về trong nước. Bảng 1 cho thấy tổng lượng kiều hối chảy vào Việt Nam qua các năm trong giai đoạn 1999-2006 trong mối tương quan với một số chỉ tiêu vĩ mơ khác. Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Kiều hốia* 1200 1757 1754 2067 2631 3500 4290 6000 GDPb 28300 29626 31938 34865 39300 45447 52800 60900 Tổng giá trị xuất khẩub 11540 14449 15027 16706 20149 26458 32442 39826 Cán cân thương mạib 1080 378 627 -1054 -2582 -2287 -2429 -2776 FDIb 1412a 1298a 1300a 2023 1894 1878 1954 2400 ODAb 970 1361 958 1073 1258 1394 1432 1380 Tỷ giá hối đối hiệu lực thực (USD)c 103 100 100.1 98.3 90.6 89.3 93.2 96.7 *: chuyển qua hệ thống ngân hàng thương mại, ước lượng của NHNN : ước luợng sơ bộ thơng qua tin tức trên báo chí của tác giả (a): theo Hernández-Coss (2005) (b): theo IMF (2003, 2007) (c): trung bình kỳ, từ IMF (2007) trừ năm 1999 từ IMF (2003) Bảng 1. Lượng kiều hối và một số chỉ tiêu vĩ mơ, Việt Nam 1999-2006 (giá hiện hành, triệu USD) Nguồn: Hernández-Coss (2005) và IMF (2003, 2007) Do quy mơ của tổng lượng kiều hồi gửi về đã trở nên rất đáng kể, dịng tiền này đã trở thành một nguồn tài chính lớn đến mức cĩ thể so sánh với các dịng vốn nước ngồi, kể cả FDI lẫn ODA. Trong năm 2007, lượng kiều hối lớn đến mức nĩ đã cĩ tác động đáng kể đến việc điều hành chính sách tiền tệ và kinh tế vĩ mơ ở nước ta. 3 Dịch từ tiếng Anh: remittance. Thuật ngữ "kiều hối" ở đây khơng thật sự chính xác, vì nĩ khơng chỉ bao gồm tiền của Việt kiều gửi về nước mà cịn của các cơng dân việt Nam sinh sống, học tập, lao động ở nước ngồi (mà khơng phải Việt kiều) gửi về. Cĩ thể hiểu chung đĩ là "tiền của người Việt gửi về nước." 3
  5. Mục đích của bài viết này là khảo cứu những quan điểm khác nhau trên thế giới về vấn đề kiều hối và tác động của nĩ đến nền kinh tế vĩ mơ. Bài viết được trình bày như sau. Phần thứ nhất đề cập đến khái niệm chung về kiều hối và khuynh hướng gần đây của nĩ trên thế giới. Phần hai, là phần chính của bài, trình bày các quan điểm khác nhau về ảnh hưởng kinh tế vĩ mơ của kiều hối. Phần ba tĩm lược những kết quả nghiên cứu căn bản gần đây về kiều hối ở Việt Nam. Phần cuối cùng là những nhận định mang tính kết luận. 2. Khái niệm và khuynh hướng gần đây của kiều hối trên thế giới Một cách đơn giản, theo Puri & Ritzema (1999) “Kiều hối (international remittances) cĩ thể được định nghĩa là “phần thu nhập của người lao động ở nước ngồi gửi về nước”. Một cách chi tiết hơn, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) định nghĩa kiều hối của người lao động “là hàng hố và các cơng cụ tài chính do người lao động sống và làm việc ở nước ngồi từ một năm trở lên chuyển về đất nước họ” (dẫn lại từ Addy et al. 2003). Mặc dù việc chuyển tiền (remittances) cĩ thể mang tính quốc tế hoặc nội địa (giữa các vùng khác nhau của cùng một nước) nhưng trong bài viết này khi nĩi đến việc chuyển tiền, chúng tơi chỉ hàm ý là chuyển tiền quốc tế (kiều hối) mà thơi. Một khuynh hướng lớn gần đây đang diễn ra trên thế giới là dịng kiều hối chảy về các nước đang phát triển tăng lên mạnh mẽ. Ngân hàng Thế giới (WB, 2006) cho rằng đây là lợi ích lớn nhất mà các nước xuất khẩu lao động nhận được từ quá trình dịch chuyển lao động tồn cầu. Trong năm 2005, tổng lượng kiều hối chảy vào các nước đang phát triển được ghi nhận lên tới 170 tỷ USD, so với 32,2 tỷ năm 1996 (WB 2006). Dịng kiều hối tiếp tục giữ vị trí lớn thứ hai trong các dịng tài chính chảy vào các nước này, chỉ đứng sau FDI (WB 2004). Thêm vào đĩ, dịng kiều hối cĩ khuynh hướng ổn định nhất trong số các dịng tài chính chảy vào từ bên ngồi. Trong khi các dịng tài chính khác khá bất ổn định, và thậm chí cịn cĩ khuynh hướng giảm từ sau năm 2000, thì kiều hối vẫn tăng một cách vững chắc. Vì đặc điểm tích cực trên, kiều hối đã trở thành mối quan tâm của nhiều cơ quan Chính phủ và các tổ chức phát triển. Ngân hàng Thế giới (WB 2006) lý giải sự tăng lên đột ngột của dịng kiều hối bằng mấy nguyên nhân sau: (a) việc giám sát chặt chẽ hơn các dịng tiền kể từ sau sự kiện 11/9/2001, (b) tiến bộ trong các lĩnh vực hỗ trợ việc chuyển tiền (chi phí hạ hơn, mạng lưới mở rộng), (c) sự cải thiện trong việc cung cấp số liệu, (d) đồng USD mất giá (khiến giá trị các dịng tài chính bằng loại tiền khác tăng lên nếu hạch tốn qua đồng USD), và (e) số người di cư và làm việc ở nước ngồi tăng lên. Người ta cĩ thể thấy đích đến của dịng tiền khá tập trung. Trong năm 2004, mười nước nhận kiều hối nhiều nhất đã chiếm tới một nửa tồn bộ dịng kiều hối tồn cầu. Ba nước nhận kiều hối hàng đầu là Ấn Độ, Trung Quốc và Mexico đã nhận tới 27% tổng lượng kiều 4
  6. hối. Những nước cĩ lượng kiều hối lớn tính theo tương quan với GDP thường là những nước nhỏ và cĩ truyền thống lâu dài tiếp nhận kiều hối. Tầm quan trọng tương đối của kiều hối thay đổi theo từng nhĩm nước phân theo mức thu nhập bình quân đầu người. Với các nước càng nghèo thì vai trị của kiểu hối càng quan trọng. Nĩi tĩm lại, kiều hối hiện nay là một vấn đề kinh tế quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, tác động thực sự của kiều hối đến nền kinh tế của những nước tiếp nhận chúng như thế nào vẫn cịn là đề tài của nhiều cuộc tranh luận trong giới học thuật. Ở nước ta, dường như vấn đề kiều hồi thường được nhìn nhận theo chiều hướng hồn tồn tích cực, coi đĩ như một dịng tài chính chảy vào làm giàu thêm cho đất nước. Mục đích của bài này là chỉ ra rằng, bên cạnh các mặt tích cực, kiều hối cịn cĩ thể gây ra những ảnh hưởng gián tiếp mang tính tiêu cực đối với nền kinh tế. Phần cịn lại của bài viết cĩ những nội dung sau. Phần thứ nhất giới thiệu thành tựu lý luận chính rút ra từ những cuộc tranh luận trong kinh tế học vĩ mơ về kiều hối, và hệ thống hố các quan điểm về tính tích cực cũng như tiêu cực của dịng tài chính này. Phần thứ hai là một nỗ lực tổng kết những nghiên cứu định lượng gần đây về kiều hối ở Việt Nam, nhằm chỉ ra rằng đã cĩ những bằng chứng cho thấy, bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, kiều hối cĩ thể gây ảnh hưởng tiêu cực lên nền kinh tế. Phần cuối cùng đưa những lưu ý mang tính kết luận. 3. Cuộc tranh luận trong “Kinh tế học vĩ mơ về kiều hối” Sự tăng trưởng nhanh chĩng của các nghiên cứu thực nghiệm cũng như lý thuyết về kiều hối đã định hình nên một nhánh kinh tế học về kiều hối. Như Bouhga-Hagbe (2004) nhận xét: “Các nghiên cứu về kiều hối cĩ thể được chia làm hai mảng: mảng thứ nhất tập trung nghiên cứu động cơ gửi và cách sử dụng kiều hối, mảng thứ hai tập trung vào đánh giá tác động vĩ mơ của kiều hối.” Nĩi cách khác, kinh tế học về kiều hối cũng được chia thành hai nhánh, kinh tế học vi mơ và vĩ mơ về kiều hối như trong kinh tế học nĩi chung. Trong phần này, chúng tơi chủ yếu tập trung mơ tả những thành tựu nghiên cứu cơ bản đã đạt được trong nhánh thứ hai. Đối với những nghiên cứu từ trước cho tới cuối thập kỷ 1990, bài viết của Taylor (1999) cung cấp một tổng kết hữu ích. Tác giả cho rằng sự phát triển gần đây nghiêng về phía lập luận rằng kiều hối cĩ vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển, nơi thị trường tài chính thường khơng hồn hảo. Do đĩ, kiều hối đĩng vai trị như một phương tiện giúp nới lỏng ràng buộc tín dụng. Sự thay đổi về quan điểm đối với vai trị của kiều hối cĩ tác dụng dịch chuyển quan điểm về di chuyển lao động nĩi chung, và định hình nên cái mà tác giả này gọi là “Kinh tế học mới về lao động di cư” (New Economics of Labor Migration). 5
  7. Với những ai mong muốn tìm kiếm một cái nhìn tổng thể mang tính cập nhật và chi tiết hơn, nghiên cứu tổng kết của Rapoport & Docquier (2004) là một nguồn tham khảo đặc biệt giá trị. Trong mảng kinh tế học vĩ mơ về kiều hối, các tác giả phân biệt cách tiếp cận ngắn hạn và dài hạn. Các tác động ngắn hạn cĩ thể được xét xét một cách đơn giản nhất thơng qua khuơn khổ lý thuyết Keynes. Theo cách tiếp cận này, lượng kiều hối được bơm vào nền kinh tế cĩ thể đĩng vai trị như một cú sốc tăng chi tiêu trong các mơ hình truyền thống. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế mở, khi ta cĩ thể áp dụng mơ hình Mundel-Flemming dạng đơn giản với giá cả cố định và một hàng hố hỗn hợp (composite good), kết quả của cú sốc kiều hối cĩ thể khơng đơn giản. Cĩ thể thấy là tác động tổng hợp của bất cứ cú sốc nào từ phía cầu (kể cả kiều hối) phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của dịng vốn quốc tế và chế độ tỷ giá hối đối. Ví dụ, trong trường hợp dịng vốn hồn tồn tự do di chuyển đi liền với chế độ hối đối hồn tồn thả nổi, dịng kiều hối đổ vào trong nước một mặt kích thích tổng cầu, một mặt cĩ tác dụng nâng giá đồng nội tệ. Việc nâng giá làm giảm xuất khẩu rịng, khiến tổng cung suy giảm và hướng tới cân bằng với phần được tạo ra nhờ sức mua của dịng kiều hối, kéo tổng sản lượng trở lại vị trí ban đầu. Dịng kiều hối cũng cĩ thể dẫn tới thay đổi trong mức giá cả tương đối giữa các loại hàng hố khác nhau, và do đĩ là sự tái phân bổ các nguồn lực, đến lượt nĩ sự thay đổi này lại cĩ thể tác động đến các nhĩm xã hội khác nhau ở những mức độ khác nhau. Do đĩ, tác động của kiều hối cĩ thể trở nên phức tạp. Xét trên gĩc độ dài hạn hơn, vai trị của kiều hối đối với phát triển dài hạn đã tạo những cuộc tranh luận trong suốt vài thập kỷ qua. Điểm chính yếu ở đây là người tiếp nhận kiều hối sử dụng khoản tiền nhận được cho tiêu dùng trực tiếp hay là cho đầu tư sản xuất trong tương lai. Rapoport và Docquier (2006) chỉ ra rằng bên cạnh các quan điểm bi quan về cách sử dụng phi sản xuất của kiều hối, cĩ nhiều lý do để tin rằng di cư lao động quốc tế và kiều hối cĩ tác dụng tháo gỡ những khĩ khăn về nguồn lực ở các nước nhận kiều hối, như các hạn chế về tín dụng, tài chính, về tư bản con người và tinh thần doanh nghiệp (entrepreneurship). Các tác giả cũng cho rằng kiều hối cĩ thể gĩp phần làm giảm bất bình đẳng trong thu nhập và thơng qua đĩ đĩng gĩp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tương tự như sự phát triển của các nhánh khác trong kinh tế học, kinh tế học vĩ mơ về kiều hối phát triển thơng qua sự gặt hái kết quả nghiên cứu đan xen giữa lý luận và thực tiễn. Trong số nhiều mối quan tâm và quan điểm rất khác nhau, người ta cĩ thể tạm thời chia ra ba nhĩm quan điểm. Nhĩm thứ nhất bao gồm các tác giả lạc quan về vai trị của kiều hối. Ví dụ, Adams & Page (2003) phát hiện ra rằng cả quy mơ di cư quốc tế (được đo bằng tỷ trọng dân số sống ở nước ngồi) và quy mơ kiều hối gửi về (được đo bằng tỷ lệ của lượng kiều hối trên GDP) đều cĩ tác động đáng kể trong việc xố đĩi giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Ratha (2003) thừa nhận kiều hối là nguồn tài chính tăng trưởng nhanh, quy mơ lớn và ổn định (ít phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế). Nhờ những đặc điểm đĩ, tác giả đặt nhiều kỳ vọng vào kiều hối với tư 6
  8. cách một nguồn tài chính hữu hiệu cho phát triển. Ngân hàng thế giới (World Bank 2003, 2004, 2006) cơng khai ủng hộ quan điểm này. Giuliano và Ruiz-Arranz (2005) lập luận rằng kiều hối cĩ thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhờ đĩng vai trị như một nguồn thay thế cho nguồn tín dụng trên thị trường nội địa. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của họ cho thấy ảnh hưởng tăng trưởng của kiều hối phát huy tác dụng rõ nhất ở các nền kinh tế cĩ thị trường tài chính cịn kém phát triển. Bugamelli và Paternị (2005) cho rằng dịng kiều hối cĩ thể giúp làm ổn định cán cân vãng lai của các nền kinh tế mới nổi, và nhờ thế giúp giảm khả năng tháo lui tư bản ồ ạt ở các nước này. Leĩn-Ledesma và Piracha (2004) phát triển một mơ hình để nghiên cứu hiệu ứng tích cực của kiều hối trên thị trường lao động (tạo cơng ăn việc làm), và khảo sát thực trạng sử dụng kiều hối ở một loạt nước Đơng Âu. Nhĩm thứ hai, trái lại, tấn cơng các quan điểm lạc quan nêu trên hầu như từ tất cả mọi phía. Lucas (2004) tĩm tắt các lập luận chính yếu của nhĩm này như sau: “[khía cạnh tiêu cực của kiều hối nằm ở] khả năng làm suy giảm cung hoặc nỗ lực lao động bắt nguồn từ việc nhận được tiền chuyển về, cùng với hiệu ứng gần giống như “căn bệnh Hà Lan”4 do tỷ giá bị giữ ở mức cao và do đĩ làm giảm động lực sản xuất các mặt hàng cĩ tham gia thương mại quốc tế (tradable goods).” Thêm vào đĩ, Bracking (2003) lập luận rằng một trong những ảnh hưởng cĩ hại của kiều hối nằm ở chỗ những người khơng nhận kiều hối sẽ trở nên nghèo đi, khơng chỉ tương đối mà cĩ thể là tuyệt đối, vì hiệu ứng lạm phát xuất hiện do những người nhận kiều hối tăng chi tiêu. Nĩi cách khác, những hộ gia đình nhận kiều hối làm xĩi mịn sức mua của những hộ khơng nhận kiều hối. Chami, Fullenkamp và Jahjah (2005) cho rằng vì các dịng kiều hối khơng tuân theo hàng vi lợi nhuận (như FDI), nên tác động của nĩ đối với tăng trưởng cĩ thể khơng tích cực như nhiều nguời thường nghĩ. Lập luận của họ dựa trên một mơ hình kinh tế vi mơ cho phép người ta dự đốn hành vi của hộ gia đình tiếp nhận kiều hối. Tiếp đĩ, nhĩm tác giả sử dụng một panel số liệu cho 113 nước trong quãng thời gian 19 năm để kiểm định giả thuyết của họ. Ngay cả niềm tin truyền thống rằng các dịng kiều hối thường đối nghịch với các vận động chu kỳ và do đĩ đĩng vai trị như một nhân tố bình ổn (stabilizer) cũng bị thách thức. Thơng qua việc sử dụng một panel bao gồm số liệu của 87 nước đang từ năm 1970 đến 2000, Buch và Kuckulenz (2004) phát hiện ra rằng các dịng kiều hối thực ra cĩ đặc điểm khá tương đồng với các dịng vốn khác (như FDI và ODA), nhưng về tổng thể dịng kiều hối ổn định hơn. Thêm vào đĩ, Sayan (2006) chỉ ra rằng khơng cĩ bằng chứng rõ ràng ủng hộ giả thuyết chống chu kỳ của các dịng kiều hối đối với nhĩm nước trong nghiên cứu của mình. Một lần nữa, hành vi của dịng kiều hối dường như phụ thuộc vào đặc điểm của mỗi nước. Kể cả khi các dịng kiều hối cĩ khuynh hướng đi ngược lại các chu kỳ, thì Chami et al. (2006) cũng chỉ ra rằng các tác động của chúng là phức tạp. Nhĩm tác giả sử dụng một mơ 4 Hiện tượng do điều kiện kinh tế hoặc mơi truờng được ưu đãi quá mức khiến làm giảm động lực sản xuất, hoặc gây các hiệu ứng phụ lấn át các khu vực sản xuất khác làm giảm năng suất chung của tồn nền kinh tế. Nguồn gốc của tên gọi bắt nguồn từ việc Hà Lan vào thập niên 1960 phát hiện ra nguồn dầu khí rất lớn, đưa lại nguồn thu lớn cho ngân sách. Chính phủ Hà Lan đã thực hiện một chính sách hỗ trợ xã hội rất rộng rãi. Kết quả là người dân Hà Lan cĩ khuynh hướng giảm thời gian lao động và ngành chế tạo cĩ khuynh hướng bị thu hẹp. 7
  9. hình cân bằng tổng quát động ngẫu nhiên (stochastic dynamic general equilibrium model) để khảo sát tác động của các dịng kiều hối đi ngược chu kỳ trong việc hình thành chính sách tài khố và tiền tệ, rồi sau đĩ xem xét các hiệu ứng tác động lên các biến thực và danh nghĩa trong mơi trường nền kinh tế đang diễn biến theo chu kỳ. Nghiên cứu này cho thấy kiều hối làm tăng thu nhập khả dụng và tiêu dùng, và cĩ tác dụng chống lại các cú sốc thu nhập, do đĩ làm tăng phúc lợi hộ gia đình. Tuy nhiên, kiều hối lại làm thay đổi mối tương quan giữa lao động và sản lượng. Ví dụ, trong thời kỳ cĩ suy thối, sản lượng cĩ khuynh hướng giảm và tiền cơng cĩ khuynh hướng giảm. Trong điều kiện khơng cĩ kiều hối, cung lao động sẽ tăng để bù đắp thu nhập suy giảm, gĩp phần hãm sản lượng khơng giảm quá nhanh. Tuy nhiên, do kiều hối đĩng vai trị như một phần “bảo hiểm” chống lại cú sốc thu nhập giảm, nĩ đồng thời khiến cung lao động khơng tăng lên như kỳ vọng. Do đĩ, chu kỳ kinh tế cĩ thể diễn ra nghiêm trọng hơn và làm tăng rủi ro cả về sản lượng lẫn thị trường lao động. Trên cơ sở đĩ, nhĩm tác giả cho rằng chính sách tiền tệ tối ưu trong bối cảnh cĩ kiều hối sẽ chệch khỏi nguyên tắc của Friedman (tăng cung tiền đều đặn ở tốc độ vừa phải), và do đĩ nhấn mạnh sự cần thiết phải cĩ thêm các cơng cụ chính sách độc lập khác. Nhĩm thứ ba bao gồm những người thận trọng với tác động hai chiều, hỗn hợp của kiều hối. Ví dụ, Glytsos (2002a) khảo sát tác động của kiều hối lên cán cân thanh tốn, cán cân tiết kiệm-đầu tư và thay đổi cơ cấu của một số nước Địa trung hải. Sau đĩ, cũng tác giả này (Glytsos, 2002b) phát triển một mơ hình kiểu Keynes để nghiên cứu các hiệu ứng vĩ mơ của kiều hối. Kết quả cho thấy ảnh hưởng của kiều hối mang tính hỗn hợp và phụ thuộc vào đặc điểm của từng nước. Kapur (2003) thảo luận về những ảnh hưởng cĩ thể của kiều hối trên cả hai mặt kinh tế và chính trị. Trên khía cạnh kinh tế, tác giả này lưu ý cả hai mặt tiêu cực và tích cực cĩ thể, ở những tầng bậc khác nhau (hộ gia đình, cộng đồng và quốc gia). Drinkwater et al. (2003) đánh giá tác động của kiều hối lên thị trường lao động bằng cách liên kết hai hiệu ứng ngược chiều nhau: thứ nhất là hiệu ứng kiểu “căn bệnh Hà Lan,” hay giả thuyết cho rằng kiều hối đĩng vai trị một loại bảo hiểm thất nghiệp và do đĩ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp; thứ hai là hiệu ứng được cho là tích cực của kiều hối, nghĩa là kiều hối giúp nới lỏng ràng buộc tín dụng và do đĩ tạo cơng ăn việc làm. Tác động tổng hợp phụ thuộc vào việc hiệu ứng nào lấn át được hiệu ứng cịn lại. Nĩi tĩm lại, vai trị của kiều hối vẫn đang là một đề tài thú vị cho các cuộc tranh luận của giới nghiên cứu. Rất khĩ cĩ thể kết luận là kiều hối thuần tuý tốt hay thuần tuý xấu. Do đĩ, các nghiên cứu thực nghiệm cĩ ý nghĩa rất quan trọng trong từng tình huống cụ thể. Trong phần tiếp theo, chúng tơi điểm qua những nghiên cứu gần đây về kiều hối ở Việt Nam và tiếp đĩ là những bài học từ lý thuyết và kinh nghiệm trên thế giới. 8
  10. 4. Những nghiên cứu gần đây về kiều hối ở Việt Nam Vì quy mơ lớn đáng chú ý của dịng kiều hối, gần đây các cơ quan chức năng và giới nghiên cứu ngày càng quan tâm nhiều hơn đến diễn biến của dịng tài chính này. Kết quả là bắt đầu xuất hiện các nghiên cứu về vấn đề này, trong đĩ cĩ thể kể đến các nghiên cứu như Đặng N. Anh (2005), Hernández-Coss (2005), Sakr (2006), Pfau & Giang T. Long (2006) Nguyễn T. T. Linh (2006) và Nguyễn Đ. Thành (2007). Đặng N. Anh (2005) thảo luận về tầm quan trọng của cộng đồng người Việt ở hải ngoại (Việt Kiều) với tư cách một nguồn đem lại kiều hối và đầu tư, cũng như tư bản con người và cơng nghệ. Tác giả này chỉ ra rằng, bên cạnh những cơ hội hấp dẫn từ một nền kinh tế đang phát triển nhanh và ngày càng được tự do hố, các chính sách của Chính phủ nhằm khuyến khích việc nhận và sử dụng kiều hối là nguyên nhân chính khiến dịng kiều hối tăng vọt trong những năm qua. Trong một nghiên cứu về các kênh chuyển kiều hối từ Canada về Việt Nam, Hernández-Coss (2005) cung cấp một nguồn tham khảo rất tốt giúp chúng ta hiểu biết khơng những về việc chuyển kiều hối từ Canada, mà cịn, ở một mức độ nào đĩ, hệ thống chuyển kiều hối vào Việt Nam nĩi chung. Theo nghiên cứu này, hệ thống chuyển tiền khơng chính thức đã và đang đĩng một vai trị quan trọng, và nhờ “uy tín đã được thừa nhận rộng rãi, mức phí hợp lý, tốc độ và sự tính gần gũi về văn hố,” hệ thống này cĩ thể cạnh trạnh hiệu quả với hệ thống chuyển tiền chính thức mới chỉ bắt đầu phát triển mạnh gần đây. Nghiên cứu này cũng cung cấp một bản tổng kết mang tính cập nhật rất hữu ích về các quy định liên quan đến kiều hối ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước thực tế quy mơ lượng kiều hối ngày càng tăng nhanh và ảnh hưởng kinh tế của nĩ ngày càng rõ ràng, thì số lượng các nghiên cứu định lượng cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về hiện tượng kinh tế này vẫn cịn rất hạn chế. Trong một cơng trình mang tính tiên phong, Sakr (2006) sử dụng một mơ hình kinh tế lượng đơn giản để ước lượng những nhân tố chi phối lượng kiều hối chảy về Việt Nam. Số liệu được sử dụng là chuỗi thời gian cho một số đại lượng vĩ mơ từ năm 1999 đến năm 2005. Kết quả hồi quy cho thấy kiều hối cĩ khuynh hướng tăng lên khi điều kiện kinh tế trong nước và mơi trường đầu tư được cải thiện (thể hiện qua mức GDP trên đầu người và lượng vốn FDI). Ngồi ra, sự cởi mở hơn về các điều kiện thể chế từ nửa sau thập kỷ 1990 cũng là một nhân tố quan trọng. Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cung cấp nhiều thống kê mơ tả hữu ích về vấn đề kiều hối ở Việt Nam thơng qua các bộ số liệu VLSS. Nghiên cứu này cho thấy sự phân phối của kiều hối trong cả nước. Về mặt địa lý, đồng bằng sơng Hồng mà Hà Nội là trung tâm, và vùng Đơng Nam (với trung tâm là TP Hồ Chí Minh) là hai vùng tiếp nhận kiều hồi chủ yếu trên tất cả các mặt: dân số, tổng giá trị và mật độ dân chúng nhận kiều hối. Vào đầu thập niên 1990, hai vùng này, mặc dù chỉ chiếm 38% dân số cả nước, nhưng đã tiếp nhận gần ba phần tư tổng lượng kiều hối tồn quốc. Tuy nhiên, đã cĩ một sự dịch chuyển mạnh trong 9
  11. cơ cấu phân bổ kiều hối những năm sau đĩ. Lượng kiều hối chuyển về hai cực nĩi trên giảm một cách tương đối, và tăng lên ở tất cả các vùng khác, đáng kể nhất là vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng sơng Cửu Long. Sự dịch chuyển này phản ánh một thực tế là trong thập niên vừa rồi, nguồn cung cơng nhân xuất khẩu lao động đã dịch chuyển khỏi hai thành phố lớn và chuyển về các vùng lân cận. Giữa khu vực nơng thơn và thành thị cũng cĩ một sự dịch chuyển đáng kể (Hình 1). Trong khi dân số ở khu vực nơng thơn dần dần giảm đi, thì tỷ trọng kiều hối khu vực này nhận được lại tăng lên đáng kể. Cĩ khả năng là vào giai đoạn đầu, cơ hội xuất khẩu lao động chủ yếu rơi vào khu vực thành thị, nơi người dân cĩ lợi thế về thơng tin đi làm việc ở nước ngồi. Nhưng theo thời gian, một mặt cung lao động từ thành thị giảm, mặt khác thơng tin được lan toả sang khu vực nơng thơn ngày càng nhanh, kết quả là lượng cơng nhân xuất khẩu lao động từ khu vực nơng thơn đã tăng lên nhanh chĩng. 100% 90% 80% 70% 60% Thành thị 50% Nơng 40% thơn 30% 20% 10% 0% 1992/93 1997/98 2003 2004 Hình 1. Phân phối kiều hối theo vùng nơng thơn-thành thị Nguồn: Pfau & Long (2006) Một vấn đề rất quan trọng nhưng đồng thời lại rất chưa rõ ràng, là kiều hối được sử dụng như thế nào. Câu trả lời chính xác cho vấn đề này cĩ thể giúp ích cho việc làm sáng tỏ cuộc tranh luận về hiệu ứng thực sự của kiều hối đối với đời sống kinh tế. Nghiên cứu của Pfau và Long (2006) cho thấy 73% lượng kiều hối được phân bổ cho tiêu dùng trực tiếp, trong khi 14% được dùng cho “xây (và sửa) nhà,” và chỉ cĩ 6% là được dùng cho “đầu tư” nĩi chung, tức là kể cả đầu tư cho giáo dục và đầu tư vào sản xuất nơng nghiệp. Nhằm mục đích hiểu sâu hơn tác động của kiều hối đến tiêu dùng của hộ gia đình, Nguyễn T.T. Linh (2006) thực hiện một nghiên cứu định lượng và phát hiện một số kết quả đáng lưu ý. Thơng qua việc khảo sát kết quả điều tra VLSS 2002, tác giả đã nghiên cứu tác động của việc nhận tiền (cả từ trong nước lẫn nước ngồi) đến cách thức chi tiêu của hộ gia đình ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy những hộ gia đình nhận kiều hối cĩ khuynh 10
  12. hướng sử dụng một phần lớn hơn trong thu nhập tăng thêm cho việc xây và sửa nhà. Sự chi tiêu như thế cĩ thể thấy rõ nhất ở những nhĩm hộ nghèo nhất và giàu nhất. Từ đĩ, tác giả lập luận rằng trong khi nhĩm hộ nghèo dùng kiều hối để đáp ứng nhu cầu cơ bản cho cuộc sống, thì nhĩm hộ giàu hơn cĩ thể sử dụng kiều hối dưới dạng đầu tư vào bất động sản. Theo quan điểm này, khĩ cĩ thể phân tách bạch hai hành vi “xây và sửa nhà” và “đầu tư” như trong cách phân loại của Pfau và Long (2006). Trong nghiên cứu định lượng gần đây, Nguyễn Đ. Thành (2007) sử dụng kỹ thuật mơ hình hố cân bằng tổng thể (CGE) để phân tích tác động của kiều hối lên nền kinh tế Việt Nam. Kết quả từ nghiên cứu này củng cố quan điểm cho rằng ảnh hưởng của kiều hối lên nền kinh tế của các nước đang phát triển là phức tạp và pha trộn nhiều khuynh hướng khác nhau. Trong khi hộ gia đình cĩ khuynh hướng thu được lợi ích từ việc tăng thêm thu nhập, thì ảnh hưởng lên khu vực sản xuất lại khơng rõ ràng như vậy. Vì dịng kiều hồi chảy về đủ lớn để gây áp lực lên đồng nội tệ và thúc đẩy tiêu dùng của một số mặt hàng, xuất hiện sự dịch chuyển trong cấu trúc của tổng cầu và các nhận tố sản xuất được phân bổ lại. Trong bối cảnh Việt Nam, khi dịng kiều hối tăng nhanh đi kèm với việc hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, kết quả ước lượng từ nghiên cứu này cho thấy giá của tất cả các nhân tố đều tăng, trong khi khu vực sản xuất cơng nghiệp chịu ảnh hưởng lớn nhất và cĩ khuynh hướng bị thu hẹp (các điều kiện khác khơng đổi). Điều này hàm ý rằng ảnh hưởng dài hạn của kiều hối lên mặt cung của nền kinh tế cĩ thể theo chiều hướng tiêu cực, và cĩ thể lấn át những ảnh hưởng tích cực mang tính ngắn hạn từ phía cầu nếu kiều hối khơng được sử dụng cho các mục đích đầu tư. 5. Những gợi mở về vấn đề kiều hối ở Việt Nam Từ thực tiễn của Việt Nam, nhìn chung, tác dụng tích cực và dễ thấy của dịng kiều hối là giúp tăng thu nhập khả dụng của các hộ gia đình, do đĩ làm tăng chi tiêu trong nước. Tuy nhiên, việc tăng chi tiêu đồng thời cĩ khuynh hướng dịch chuyển theo hướng làm tăng cầu hàng tiêu dùng nhập khẩu. Bên cạnh đĩ, trên thị trường ngoại tệ, nếu khơng cĩ sự can thiệp ổn định tỷ giá, lượng cung ngoại tế lớn dẫn đến khuynh hướng tăng giá đồng nội tệ. Điều này dẫn tới làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt Nam với hàng nước ngồi cả ở trong nước lẫn nước ngồi. Do đĩ, tổng cầu về hàng Việt Nam cĩ thể suy giảm. Để khắc phục hiệu ứng tiêu cực và khĩ nhận biết này, cần thực thi các chính sách nhằm giúp nâng cao hiệu quả sử dụng của kiều hối, như định hướng hoặc tạo động lực để kiều hối được sử dụng cho các mục đích mang tính đầu tư cao hơn (cả đầu tư vào sản xuất lẫn đầu tư vào con người như giáo dục). Bên cạnh đĩ, lượng kiều hối gia tăng một phần phản ánh thực tế là lượng lao động của Việt Nam ở nước ngồi ngày càng nhiều (kết quả của chính sách xuất khẩu lao động). Để lực lượng lao động này khi hết hạn hợp đồng trở về nước cĩ thể sử dụng phần tiền họ đã tiết kiệm 11
  13. và gửi về một cách hiệu quả, cần cĩ các chính sách định hướng ngành nghề của người lao động xuất khẩu ở nước ngồi. Nếu các ngành là những ngành cĩ nhiều kỹ năng, khi trở về người lao động cĩ khuynh hướng sử dụng tiền tiết kiệm theo hướng đầu tư nhiều hơn là tiêu dùng thuần tuý. Điều này cũng giúp tạo ra các hiệu ứng phát triển kinh tế tích cực trong dài hạn của kiều hối. Tài liệu tham khảo Adams, Richard H. & John Page (2003), “International Migration, Remittances, & Poverty in Developing Countries,” Policy Research Working Paper No. 3179, World Bank. Addy, David N., Boris Wijkstrưm, & Colleen Thouez (2003), “Migrant Remittances - Country of Origin Experiences - Strategies, Policies, Challenges & Concerns,” paper presented at the International Conference on Migrant Remittances: Developmental Impact & Future Prospects, International Migration Policy Programme (IMP), London, October, 9-10 2003. Bouhga-Hagbe, Jacques (2004), “A Theory of Workers’ Remittances With an Application to Morocco?” Working Paper No. WP/04/194, International Monetary Fund. Bracking, Sarah (2003), “Sending Money Home: Are Remittances Always Beneficial to Those Who Stay Behind?” Journal of International Development, 15: 633-644. Buch, Claudia M. & Anja Kuckulenz (2004), “Worker Remittances & Capital Flows to Developing Countries,” Discussion Paper No. 04-31, Centre for European Economic Research (ZEW). Bugamelli, Matteo & Francesco Paternị (2005), “Do Workers’ Remittances Reduce the Probability of Current Account Reversals?” Policy Research Working Paper No. 3766, World Bank. Chami, Ralph; Connel Fullenkamp, & Samir Jahjah (2005), “Are Immigrant Remittance Flows a Source of Capital for Development?” IMF Staff Papers, Vol. 52: 55-81. Chami, Ralph , Thomas F. Cosimano, & Michael T. Gapen (2006), “Beware of Emigrants Bearing Gifts: Optimal Fiscal & Monetary Policy in the Presence of Remittances,” Working Paper, WP/06/61, International Monetary Fund. Đặng Nguyên Anh (2005), “Enhancing the Development Impact of Migrant Remittances & Diaspora: The Case of Viet Nam,” Asia-Pacific Population Journal, 20: 111-122. 12
  14. Drinkwater, Stephen; Paul Levince & Emanuaela Lotti (2003), “The Labor Market Effects of Remittances,” Working Paper, University of Surrey. Giuliano, Paola & Marta Ruiz-Arranz (2005), “Remittances, Financial Development, & Growth,” Working Paper WP/05/234, International Monetary Fund. Glytsos, Nicholas P. (2002a), “The Role of Migrant Remittances in Development: Evidence from Mediterranean Countries,” International Migration, 40: 5-26. Glytsos, Nicholas P. (2002b), “Dynamic Effects of Migrant Remittances on Growth: An Econometric Model with an Application to Mediterranean Countries,” Working Paper No. 74, Centre of Planning & Economic Research, Athens, Greece. Hernández-Coss, Rẳl (2005), “The Canada-Vietnam Remittance Corridor: Lessons on Shifting from Informal to Formal Transfer Systems,” World Bank. IMF (2003), “Statistical Appendix: Vietnam,” Country Report 03/382, International Monetary Fund, Washington D.C. IMF (2007), “Statistical Appendix: Vietnam,” Country Report 07/386, International Monetary Fund, Washington D.C. Kapur, Devesh (2003), “Remittances: The New Development Mantra?” paper prepared for the G-24 Technical Group Meeting. Leĩn-Ledesma, Miguel & Matloob Piracha (2004), “International Migration & the Role of Remittances in Eastern Europe,” International Migration, Vol. 42 (4): 65-83. Lucas, Robert E.B. (2004), “International Migration to the High Income Countries: Some Consequences for Economic Development in the Sending Countries,” Mimeo. Nguyễn Đức Thành (2007), “Economywide Effects of International Remittances: A Computable General Equilibrium Assessment for Vietnam,” Chapter 4 in “The Economics of International Migration: A Perspective from the Source Countries,” PhD disseratation, GRIPS, Tokyo. Nguyễn Thị Thùy Linh (2006), “Remittances, Household Expenditure & Investment in Vietnam,” MA Thesis, International University of Japan. 13
  15. Pfau, D. Wade & Giang Thanh Long (2006), “The Growing Role of International Remittances in the Vietnamese Economy: Evidence from the Vietnam (Household) Living Standard Surveys,” paper presented at the Conference on Global Movements in the Asia Pacific, Ritsumeikan Asia-Pacific University (APU), Oita, Japan, Nov. 17-18, 2006. Puri, Shivani & Tineke Ritzema (1999), “Migrant Worker Remittances, Micro-finance & the Informal Economy: Prospects & Issues,” ILO Working Paper No. 21. Rapoport, Hillel and Frédéric Docquier (2006), “The Economics of Migrants’ Remittances,” Chapter 17 in Serge-Christophe Kolm and Jean M. Ythier (2006), Handbook on the Economics of Giving, Reciprocity and Altruism, Vol. 2: 1135-98, Elsevier B.V. Ratha, Dilip (2003), “Workers’ Remittances: An Important & Stable Source of External Development Finance,” Chapter 7 in Global Development Finance 2003, World Bank. Sakr, Khaled (2006), “The Size, Benefits, and Determinants of Migrants’ Remittances in Vietnam” in IMF Country Report No. 06/20: Vietnam Selected Issues, January 2006, p. 34-44. Sayan, Serdar (2006), “Business Cycles & Workers’ Remittances: How Do Migrant Workers Respond to Cyclical Movements of GDP at Home?,” Working Paper No. WP/06/52, International Monetary Fund. Taylor, J. Edward (1999), “The New Economics of Labor Migration & the Role of Remittances in the Migration Process,” International Migration, Vol. 37 (1): 63-88. World Bank (2003), Global Development Finance: Striving for Stability in Development Finance, World Bank, Washington D.C. World Bank (2004), Global Development Finance: Harnessing Cyclical Gains for Development, World Bank, Washington D.C. World Bank (2006), Global Development Finance: Economic Implications of Remittances and Migration, World Bank, Washington D.C. 14
  16. LIÊN HỆ: Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà nội Địa chỉ: Phịng 704, Nhà E4, 144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy Hà nội, Việt nam Tel: (84) 4 3754 7506/ext 704 -714 Fax: (84) 4 3704 9921 Email: Info@cepr.org.vn Website: www.cepr.org.vn © 2008 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội 15