Luận văn Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quổc tế

pdf 133 trang vanle 1820
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quổc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_hoat_dong_cua_cac_trung_gian_tai_chinh_tren_thi_tru.pdf

Nội dung text: Luận văn Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quổc tế

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG MAI NGỌC KHA HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH QUỔC TẾ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ HÀ NỘI - 2008
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG MAI NGỌC KHA HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH QUỔC TẾ Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị Việt Hoa Hà Nội - 2008
  3. MỤC LỤC Mục lục Danh mục các ký hiệu viết tắt Danh mục các bảng biểu Mở đầu . Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 1.1. Các vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán . 1.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán 1.1.2. Khái niệm thị trường chứng khoán 1.1.3. Phân loại thị trường chứng khoán . 1.1.3.1. Phân loại theo hàng hóa 1.1.3.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn 1.1.3.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường 1.1.4. Vai trò của thị trường chứng khoán 1.1.5. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán 1.1.5.1. Chính phủ 1.1.5.2. Các doanh nghiệp 1.1.5.3. Các nhà đầu tư cá thể 1.1.5.4. Các trung gian tài chính 1.2. Các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán . 1.2.1. Khái niệm trung gian tài chính . 1.2.2. Phân loại trung gian tài chính 1.2.2.1. Các tổ chức nhận tiền gửi 1.2.2.2. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng 1.2.2.3. Các trung gian đầu tư 1.2.3. Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán 1.2.3.1. Hoạt động phát hành chứng khoán 1.2.3.2. Hoạt động kinh doanh chứng khoán 1.2.3.3. Đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán 1.2.3.4. Môi giới chứng khoán 1.2.3.5. Tư vấn đầu tư chứng khoán 1.2.3.6. Quản lý danh mục đầu tư 1.2.3.7. Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán 1.2.3.8. Thanh toán và lưu ký chứng khoán
  4. 1.2.3.9. Các hoạt động khác Chương 2. Thực trạng hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2.1. Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 2.2. Các trung gian tài chính Việt Nam 2.2.1. Sơ lược về hệ thống tài chính Việt Nam 2.2.2. Các ngân hàng thương mại 2.2.3. Các tổ chức bảo hiểm 2.2.4. Các công ty chứng khoán 2.2.5. Các công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư 2.2.6. Các công ty tài chính . 2.2.7. Các công ty cho thuê tài chính 2.3. Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam . 2.3.1. Các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam 2.3.1.1. Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi luật các tổ chức tín dụng 2.3.1.2. Luật Doanh nghiệp 2.3.1.3. Luật kinh doanh bảo hiểm 2.3.1.4. Luật chứng khoán 2.3.2. Hoạt động phát hành chứng khoán 2.3.3. Hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán 2.3.3.1. Hoạt động bảo lãnh, phát hành trái phiếu chính phủ 2.3.3.2. Hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp 2.3.3.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành cổ phiếu 2.3.4. Hoạt động kinh doanh chứng khoán . 2.3.5. Hoạt động tư vấn niêm yết, đầu tư chứng khoán 2.3.6. Các hoạt động khác 2.4. Đánh giá kết quả hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam . 2.4.1. Kết quả hoạt động . 2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
  5. Chương 3. Giải pháp thúc đẩy hoạt động của các Trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế 3.1. Xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế 3.1.1. Các cam kết trong lĩnh vực tài chính và lộ trình hội nhập 3.1.2. Cơ hội và thách thức với thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập tài chính quốc tế 3.1.2.1. Cơ hội 3.1.2.2. Thách thức 3.2. Mục tiêu phát triển thị trường tài chính, chứng khoán Việt Nam đến năm 2010 và định hướng 2020 3.3. Hoạt động của các trung gian tài chính - nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán ở Việt Nam 3.4. Giải pháp thúc đẩy hoạt động của các Trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế 3.4.1. Các giải pháp vĩ mô 3.4.1.1. Các giải pháp tạo đà cho sự phát triển kinh tế . 3.4.1.2. Giải pháp hoàn thiện chức năng và tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước 3.4.1.3. Các giải pháp phát triển thị trường chứng khoán . 3.4.2. Các giải pháp vi mô 3.4.2.1. Tăng cường tiềm lực tài chính của các Trung gian tài chính 3.4.2.2. Phát triển các nghiệp vụ mới trên thị trường chứng khoán . 3.4.2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực hoạt động của các Trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán . 3.4.2.4. Đa dạng hóa các tổ chức tài chính nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường tài chính quốc gia . 3.4.2.5. Hình thành và phát triển các công ty đầu tư chứng khoán Kết luận . Tài liệu tham khảo Phụ lục
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT Ký hiệu Tiếng Việt CBTT Công bố thông tin CK Chứng khoán CPH Cổ phần hóa CTCK Công ty chứng khoán CTCP Công ty cổ phần CTCTTC Công ty cho thuê tài chính CTTC Công ty tài chính DATC Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng Doanh nghiệp DN Doanh nghiệp DNNN Doanh nghiệp nhà nước GDP Tổng sản phẩm quốc nội IPO Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng KBNN Kho bạc Nhà nước NHNN Ngân hàng Nhà nước NSNN Ngân sách Nhà nước SCIC Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước SGDCK Sở giao dịch chứng khoán TCPH Tổ chức phát hành TNHH Trách nhiệm hữu hạn TPCP Trái phiếu Chính phủ TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán TTLKCK Trung tâm lưu ký chứng khoán UBCKNN Uỷ ban chứng khoán Nhà nước WTO Tổ chức thương mại Thế giới
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng Nội dung Trang Bảng 2.1 Quy mô niêm yết tại SGDCK Tp.HCM Bảng 2.2 Quy mô niêm yết tại TTGDCK Hà Nội Bảng 2.3 Một vài chỉ tiêu của SGDCK Tp.HCM qua các năm Bảng 2.4 Một vài chỉ tiêu của TTGDCK Hà Nội qua các năm Bảng 2.5 Doanh thu ngành bảo hiểm qua các năm Bảng 2.6 Số lượng các Công ty chứng khoán qua các năm Bảng 2.7 Một số cuộc đấu giá và IPO lớn của các Trung gian tài chính năm 2007 Bảng 2.8 Giá trị giao dịch chứng khoán qua các năm
  8. DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ Sơ đồ, biểu đồ Nội dung Trang Sơ đồ 1.1 Các dòng vốn qua hệ thống tài chính Biểu đồ 2.1 Tỷ trọng Tín dụng Ngân hàng so với GDP
  9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung khi chúng ta đã chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) vào cuối năm 2006. Hội nhập kinh tế quốc tế trong đó hội nhập thị trường tài chính - một cấu thành quan trọng của nền kinh tế đang đứng trước rất nhiều những cơ hội và thách thức trong bối cảnh mới. Thị trường chứng khoán, bộ phận quan trọng của thị trường tài chính trong thời gian qua đã có được những bước phát triển nhất định. Lý thuyết và thực tiễn cho thấy thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng huy động nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước được thu hút vào nền kinh tế là rất lớn. Huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng của thị trường chứng khoán và của cả hệ thống tài chính quốc gia. Các trung gian tài chính là những chủ thể quan trọng bậc nhất trên thị trường tài chính, hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán là tất yếu và có ý nghĩa to lớn trong quá trình phát triển của thị trường. Phát triển hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán là hướng đi chiến lược trong sự phát triển lâu dài của các trung gian tài chính trong xu thế hội nhập. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đi vào hoạt động được hơn bảy năm, đã gặt hái được những thành tựu bước đầu tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn nhiều bất cập. Thực tế cho thấy trong những năm qua, hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán đã thúc đẩy sự phát triển bứt phá của thị trường, góp phần huy động một nguồn vốn khổng lồ cho phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, sự tham gia của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán cũng còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được hết vai trò quan trọng của mình trong xu thế hội nhập
  10. 2 tài chính quốc tế. Vì vậy phân tích hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán và đưa ra các giải pháp để thúc đẩy hoạt động của các trung gian tài chính góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế là vô cùng cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế cũng như thị trường chứng khoán đã thu hút được nhiều đề tài nghiên cứu về chứng khoán và trung gian tài chính. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập, hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng và phát triển đòi hỏi sự nghiên cứu sâu rộng về các hoạt động này. Vì vậy, học viên lựa chọn đề tài: “Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế”. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động của các trung gian trên thị trường chứng khoán nhằm phù hợp với xu thế hội nhập tài chính quốc tế - xu thế tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế thế giới. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống và làm rõ một số vấn đề lý luận chung về thị trường chứng khoán, hoạt động của trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. - Phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán đặc biệt trong xu thế hội nhập quốc tế về tài chính hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán trong xu thế hội nhập. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi hình thành tháng 07/2000 đến nay.
  11. 3 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với việc sử dụng các phương pháp cụ thể như phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích (phân tích định tính và phân tích thống kê). Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh để làm sáng tỏ hơn các kết luận rút ra trong từng hoàn cảnh cụ thể. 7. Kết cấu luận văn Tên Luận văn: “Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế.” Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán. Chương 2: Thực trạng hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Chương 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động của các trung gian tài chính Việt Nam trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế.
  12. 4 CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. Các vấn đề cơ bản về thị trƣờng chứng khoán 1.1.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của thị trƣờng chứng khoán Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển kinh tế qua diễn biến trên thị trường chứng khoán. Là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, được hiểu một cách chung nhất, là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ chuyển đổi và các công cụ phái sinh) giữa các chủ thể tham gia. Việc trao đổi mua bán này được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước. Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ 15, tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán trao đổi các vật phẩm hàng hoá. Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc họ thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị trường”. Buổi họp đầu tiên diễn ra năm 1453 tại một lữ quán của gia đình Vanber tại thành phố Bruges (Vương quốc Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu vẽ hình ba túi da và chữ Bourse. Ba túi da tượng trưng cho ba nội dung của thị trường, là thị trường hàng hoá, thị trường ngoại tệ và thị trường chứng khoán. Còn chữ Bourse biểu tượng cho sở giao dịch. Vì thế sở giao dịch sau này còn gọi là Bourse. Đến năm 1547, thị trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ và được dời tới thành phố cảng Antwepen, từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Một thị trường như vậy cũng được thành lập ở London (Vương quốc Anh) vào thế kỷ 18 và sau đó là một loạt thị trường tại Pháp, Đức, Ý cũng được thành lập. Sau một
  13. 5 thời gian hoạt động đã cho thấy, thị trường không có khả năng đáp ứng được yêu cầu của ba loại giao dịch khác nhau. Vì thế, thị trường hàng hoá được tách ra thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát triển thành thị trường hối đoái. Thị trường chính thức trở thành thị trường chứng khoán. Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị trường hàng hoá và thị trường hối đoái. 1.1.2. Khái niệm thị trƣờng chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Với chứng khoán nợ, chẳng hạn như trái phiếu, chủ sở hữu có quyền được nhận lãi định kỳ và nhận toàn bộ giá trị cam kết, sau một thời hạn nhất định, từ giá trị tài sản của tổ chức phát hành. Khác với chứng khoán nợ, cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với một phần tài sản khi công ty được bán đi, kèm theo với một phần lợi nhuận do tài sản đó làm ra. Ngoài ra, cổ đông còn có quyền tham gia quản lý công ty thông qua quyền tham gia và bỏ phiếu tại Đại hội cổ đông, quyền mua trước đối với cổ phiếu phát hành mới. Với các đặc tính đó, chứng khoán được xem là các tài sản tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc vào giá trị kinh tế cơ bản của các quyền của chủ sở hữu đối với tổ chức phát hành. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại thị trường chứng khoán tập trung - Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường giao dịch phi tập trung – thị trường giao dịch qua quầy (Over - the Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như
  14. 6 vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Điều này xuất phát từ chức năng cơ bản của thị trường tài chính là dẫn vốn từ những người có vốn sang những người cần vốn. Các thành viên quan trọng của hệ thống tài chính bao gồm Chính phủ, các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình, các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Sự chuyển dịch vốn này được thực hiện theo sơ đồ : Gián tiếp Những người có vốn Vốn Các trung Vốn Những người cần vốn (Người tiết kiệm) gian tài chính (Người đầu tư) - Các hộ gia đình Vốn - Các tổ chức kinh tế - Các tổ chức kinh tế - Chính phủ - Chính phủ - Các hộ gia đình - Nước ngoài - Nước ngoài Vốn Các thị trường Vốn tài chính Trực tiếp Sơ đồ 1.1.Các dòng vốn qua hệ thống tài chính Sơ đồ trên cho thấy, sự chuyển dịch vốn trong hệ thống tài chính được thực hiện thông qua hai con đường, trực tiếp và gián tiếp. Những người cần vốn có thể huy động trực tiếp từ những người có vốn bằng cách bán các chứng khoán cho họ. Các chứng khoán này được mua bán rộng rãi trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Cách thức thứ hai là dẫn vốn gián tiếp, thông qua các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính như các ngân hàng thương mại, các tổ chức bảo hiểm và các trung gian tài chính khác có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn trong nền kinh tế, đồng thời, các tổ chức này cũng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính như các dịch vụ đại lý, bảo lãnh, thanh toán.
  15. 7 1.1.3. Phân loại thị trƣờng chứng khoán Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, người ta có thể phân loại thị trường chứng khoán theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta có thể xem xét ba cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn. Các phân tích sau đây sẽ thể hiện từng cách thức phân loại đó. 1.1.3.1. Phân loại theo hàng hoá Theo các loại hàng hoá được mua bán trên thị trường, người ta có thể phân thị trường chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường các công cụ dẫn suất. Thị trường trái phiếu (Bond Markets) là thị trường mà hàng hoá được mua bán tại đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành các công cụ này là, nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hay dài hạn. Khác với thị trường nợ, thị trường cổ phiếu (Stock Markets) là nơi giao dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty, khi tài sản này được đem bán. Cổ phiếu không có thời hạn xác định. Thị trường các công cụ dẫn suất (Derivative Markets) là nơi các chứng khoán phái sinh được mua và bán. Tiêu biểu cho các công cụ này là hợp đồng kỳ hạn (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn (Options). Thị trường này ngày càng trở nên quan trọng đối với các nhà quản lý tài chính. Nó cung cấp các công cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là công cụ đầu cơ lý tưởng cho các nhà đầu tư.
  16. 8 1.1.3.2. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Primary Market) là thị trường phát hành các chứng khoán. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư. Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội. Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên các giác độ sau: Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã phát hành. Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn, thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc huy động và sử dụng vốn. Việc tăng tính lỏng của tài sản sẽ tạo điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý, làm cơ sở cho việc tăng hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty. Thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Thông qua cơ chế bàn tay vô hình, vốn sẽ được chuyển tới những công ty nào làm ăn có hiệu quả cao nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội.
  17. 9 1.1.3.3. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trƣờng Thị trường chứng khoán có thể được tổ chức theo hai cách. Cách thứ nhất là tổ chức thành các Sở giao dịch (Stock Exchange), tại đây, người mua và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán. Chính vì vậy, người ta còn gọi Sở giao dịch chứng khoán là thị trường tập trung, nơi giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán của các công ty lớn, hoạt động có hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán. Khác với thị trường tập trung, thị trường giao dịch phi tập trung - thị trường giao dịch qua quầy (Over - the - Counter Market) là thị trường của các nhà buôn, những người tạo lập thị trường (Market Makers). Các nhà buôn có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như các nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Ở thị trường này không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra qua điện thoại hay mạng máy tính. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường lớn hơn rất nhiều so với thị trường Sở giao dịch. 1.1.4. Vai trò của thị trƣờng chứng khoán Thứ nhất, thị trường chứng khoán, với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có của các công ty và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các ngân hàng thương mại. Thị trường chứng khoán khuyến khích tính cạnh tranh của các công ty trên thị trường. Sự tồn tại của thị trường chứng khoán cũng là yếu tố quyết định để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là các yếu tố đảm bảo cho sự phân bổ có hiệu quả các nguồn lực trong một quốc gia cũng như trong phạm vi quốc tế. Thứ hai, thị trường chứng khoán góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, thông qua việc buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra
  18. 10 công chúng, giải toả sự tập trung quyền lực kinh tế của các tập đoàn, song vẫn tập trung vốn cho phát triển kinh tế. Việc tăng cường sự giám sát của xã hội đối với quá trình phân phối đã giúp nhiều nước tiến xa hơn tới một xã hội công bằng và dân chủ. Thứ ba, thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý doanh nghiệp. Khi quy mô của doanh nghiệp tăng lên, môi trường kinh doanh trở nên phức tạp hơn, nhu cầu về quản lý chuyên trách cũng tăng theo. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho việc tiết kiệm vốn và chất xám, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Cơ chế thông tin hoàn hảo tạo khả năng giám sát cao của thị trường chứng khoán đã làm giảm tác động của các tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và những người làm công. Thứ tư, hiệu quả của quốc tế hoá thị trường chứng khoán. Việc mở cửa thị trường chứng khoán làm tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng các cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước. Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo cơ hội cho Chính phủ huy động các nguồn tài chính mà không tạo áp lực về lạm phát, đồng thời tạo các công cụ cho việc thực hiện chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ. Thứ sáu, thị trường chứng khoán cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai. Việc thay đổi giá chứng khoán có xu hướng đi trước chu kỳ kinh doanh cho phép Chính phủ cũng như các công ty đánh giá kế hoạch đầu tư cũng như việc phân bổ các nguồn lực của họ. Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế. 1.1.5. Các chủ thể tham gia thị trƣờng chứng khoán Thị trường chứng khoán là một thực thể phức tạp mà ở đó có sự tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể này có thể tham gia với mục đích huy động vốn, đầu tư vốn, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, hay quản lý Nhà nước. 1.1.5.1. Chính phủ
  19. 11 Chính phủ tham gia vào thị trường chứng khoán với hai tư cách: Thứ nhất, Chính phủ với tư cách là người tổ chức và quản lý thị trường mà đại diện ở đây là Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, các bộ chủ quản. Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và quản lý thị trường chứng khoán, đồng thời soạn thảo các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Thứ hai, Chính phủ tham gia thị trường như là một nhà phát hành và kinh doanh chứng khoán. Để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng, Chính phủ có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. Trái phiếu Chính phủ, Tín phiếu Kho bạc là những loại hàng hoá quan trọng của thị trường chứng khoán. Ngân hàng Nhà nước có thể tham gia thị trường khi sử dụng nghiệp vụ thị trường mở để thực thi chính sách tiền tệ. Chính phủ cũng có thể tham gia thị trường cổ phiếu khi cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hoặc muốn tham gia quản lý, nắm quyền kiểm soát các doanh nghiệp. 1.1.5.2. Các doanh nghiệp Các doanh nghiệp là chủ thể quan trọng trên thị trường chứng khoán. Các doanh nghiệp cung cấp các loại hàng hoá chính cho thị trường chứng khoán. Pháp luật từng nước quy định cụ thể loại hình doanh nghiệp nào được phép phát hành chứng khoán. Về cơ bản, các công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu để thu hút vốn trên thị trường. Công ty có thể tự mình phát hành chứng khoán hoặc phát hành thông qua đại lý hoặc bảo lãnh phát hành. Đẩy mạnh hoạt động phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp sẽ đa dạng hoá các công cụ đầu tư, đồng thời tạo điều kiện phát triển các dịch vụ cho các trung gian tài chính như nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành, nghiệp vụ ngân hàng tín thác, nghiệp vụ tư vấn phát hành. 1.1.5.3. Các nhà đầu tƣ cá thể Các nhà đầu tư cá thể là các cá nhân và các hộ gia đình. Họ mua bán chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời và qua đó, một lượng tiết kiệm khổng lồ được huy động cho phát triển kinh tế. Các nhà đầu tư có thể tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các nhà đầu tư có tổ chức, các trung gian tài chính. Hoạt
  20. 12 động kinh doanh chứng khoán của các nhà đầu tư cá thể tạo ra tính sôi động của thị trường, đồng thời tạo điều kiện để các trung gian tài chính phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường. 1.1.5.4. Các trung gian tài chính Các trung gian tài chính là một chủ thể quan trọng của thị trường chứng khoán, với tư cách là nhà phát hành chứng khoán, nhà kinh doanh chứng khoán và là thành viên hỗ trợ cho hoạt động của thị trường qua các nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh phát hành, tư vấn và môi giới đầu tư, cho vay chứng khoán và cho vay để mua chứng khoán, thanh toán và quản lý chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư và quản lý quỹ đầu tư. Sự tham gia của các trung gian tài chính thực sự thúc đẩy phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. 1.2. Các trung gian tài chính trên thị trƣờng chứng khoán 1.2.1. Khái niệm trung gian tài chính Chức năng cơ bản của thị trường tài chính là chuyển tiền từ những người tiết kiệm tới những nhà đầu tư. Việc chuyển tiền trong hệ thống tài chính được thực hiện thông qua hai con đường, trực tiếp và gián tiếp. Phần lớn lượng vốn trong nền kinh tế được chuyển bằng con đường gián tiếp, thông qua các trung gian tài chính. Trung gian tài chính (Financial Intermediaries) là tổ chức tài chính, một loại hình doanh nghiệp mà tài sản chính của nó là các tài sản tài chính. Điều này khác với các doanh nghiệp thông thường với các tài sản chính là các tài sản thực như nhà cửa, trang thiết bị, nguyên vật liệu [23]. Các tổ chức tài chính cho các khách hàng vay hoặc mua các chứng khoán trên thị trường đồng thời cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng, từ việc cung cấp các phương tiện thanh toán, bảo quản tài sản, tư vấn, môi giới đến các dịch vụ bảo hiểm v.v cho các nhà đầu tư. Trung gian tài chính nắm giữ các giấy nhận nợ được phát hành bởi những người đi vay (Chứng khoán sơ cấp) và đồng thời bán các giấy nhận nợ của chính nó (Chứng khoán thứ cấp) cho những người tiết kiệm.
  21. 13 Nói một cách khác, trung gian tài chính là cầu nối giữa những người cần vốn và những người có vốn. Các tổ chức này tích tụ, tập trung vốn từ những người có vốn và phân phối tới những người cần vốn. Có nhiều hình thức trung gian: Trung gian về quy mô diễn ra khi các tổ chức tài chính chấp nhận những khoản tiết kiệm nhỏ từ phía các cá nhân và tổ chức, trên cơ sở đó, tích tụ, tập trung thành những lượng vốn lớn để cho vay các tổ chức kinh tế và Chính phủ. Trung gian về rủi ro phá sản là việc các tổ chức tài chính sẵn sàng cho các tổ chức và cá nhân vay với mức mạo hiểm cao hơn trong khi cung cấp các công cụ ít rủi ro hơn cho các nhà đầu tư. Trung gian về thời hạn thanh toán được thực hiện khi các trung gian tài chính cung cấp những công cụ có tính thanh khoản cao cho những người tiết kiệm và sẵn sàng chấp nhận các công cụ có tính lỏng thấp từ phía các nhà đầu tư. Bằng cách này, trung gian tài chính đã chuyển được thời hạn của vốn từ ngắn hạn sang trung hạn và dài hạn. Các trung gian tài chính có thể đảm nhiệm trung gian về thông tin, bằng cách thu thập và xử lý thông tin thay cho những người tiết kiệm. Trên cơ sở chuyên môn hoá và tiết kiệm nhờ quy mô, các trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí thông tin một cách đáng kể. Thực hiện nguyên tắc sàng lọc và giám sát, các trung gian tài chính đã thay mặt những người tiết kiệm để giám sát những người đi vay. Dịch vụ tư vấn và các thông tin gián tiếp do các trung gian cung cấp (chẳng hạn ngân hàng bảo lãnh hay mở rộng cho vay với một doanh nghiệp nào đó), có thể làm tăng hiệu quả cho quyết định của những người đầu tư. Các trung gian tài chính cũng chia sẻ rủi ro và tận dụng lợi thế về quy mô trong việc đa dạng hoá đầu tư của mình làm tăng tính an toàn cho những người tiết kiệm. Hoạt động trung gian của các tổ chức tài chính có thể làm giảm rủi ro, làm giảm chi phí và tăng hiệu quả trong việc tích tụ, tập trung và phân phối vốn cho nền kinh tế. Để nghiên cứu cụ thể hơn các trung gian tài chính, cần phân loại trung gian tài chính. 1.2.2. Phân loại trung gian tài chính
  22. 14 Có nhiều cách phân loại trung gian tài chính. Theo Frederic S. Mishkin[23], các trung gian tài chính có thể được phân thành ba nhóm chính: Nhóm các tổ chức nhận tiền gửi, nhóm các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng và nhóm những trung gian đầu tư. Phân tích dưới đây đề cập tới các trung gian tài chính theo cách thức phân loại đó. 1.2.2.1. Các tổ chức nhận tiền gửi Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng. Các trung gian tài chính này nhận tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức để cho vay. Do bộ phận tiền gửi thường chiếm tỷ trọng cao trong nguồn vốn nên để đảm bảo khả năng thanh toán, các tổ chức này thường đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản cao như Tín phiếu, Trái phiếu Chính phủ. Với chức năng tạo tiền, hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi có tác động lớn tới lượng tiền cung ứng. Đây là loại hình trung gian tài chính có vai trò quan trọng trong thị trường tài chính, song với lý do để đảm bảo an toàn cho thị trường, các tổ chức này cũng được sự quan tâm quản lý chặt chẽ của các cơ quan quản lý Nhà nước. 1.2.2.2. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng là các trung gian tài chính mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là thu nhận vốn một cách định kỳ trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm nhằm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm dựa trên quy luật số lớn. Các tổ chức này có thể lượng hoá được các khoản chi trả cho việc hạn chế, phòng ngừa, khắc phục những tổn thất do các rủi ro gây ra, và do đó, có thể xác định lượng tiền đầu tư và các tài sản kém lỏng hơn trên thị trường chứng khoán như Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu. Các tổ chức này bao gồm các công ty bảo hiểm nhân thọ, các công ty bảo hiểm cháy và tai nạn, các quỹ trợ cấp tư nhân, các quỹ hưu trí.
  23. 15 1.2.2.3. Các trung gian đầu tƣ Các trung gian đầu tư bao gồm các công ty tài chính, các quỹ, các công ty chứng khoán. Các công ty tài chính nhận vốn bằng cách bán các cổ phiếu và trái phiếu. Các tổ chức này có thể cho vay tiêu dùng thông qua cho vay mua trả góp các tài sản như nhà cửa, ô tô, xe máy. Các công ty tài chính thành viên của tập đoàn, ngoài việc cho vay hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, còn tham gia huy động và điều hoà vốn giữa các đơn vị thành viên. Các quỹ đầu tư huy động vốn bằng cách bán các chứng chỉ quỹ đầu tư sau đó đầu tư vào các danh mục chứng khoán có mức độ rủi ro phù hợp. Việc này tạo cơ sở cho việc đa dạng hoá đầu tư, tăng tính chuyên nghiệp và giảm chi phí đầu tư. Các công ty chứng khoán cung cấp một danh mục đa dạng các dịch vụ tài chính, bao gồm cả dịch vụ môi giới, tư vấn và quản lý danh mục đầu tư, dịch vụ ngân hàng đầu tư (bao gồm cả việc bảo lãnh phát hành các chứng khoán thuộc khu vực công và khu vực tư nhân, trợ giúp trong lĩnh vực hợp nhất và sáp nhập các công ty), thực hiện giao dịch mua bán (với tư cách là đối tác trong giao dịch) các cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ của thị trường tiền tệ. Các hoạt động này đem lại một phần thu nhập quan trọng cho các công ty chứng khoán dưới dạng phí và chênh lệch giá chứng khoán. Bên cạnh đó, các công ty này còn hoạt động với tư cách là trung gian tài chính khi thực hiện các hoạt động vay và cho vay với mục đích tăng thu nhập. Việc phân loại các loại hình trung gian tài chính trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối. Bởi lẽ, các trung gian tài chính đã và đang phát triển theo xu hướng đa năng, cung cấp đa dạng các sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng. Sự phát triển đa dạng của các trung gian tài chính tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, song hoạt động của các trung gian tài chính cũng cần được quản lý chặt chẽ để tăng tính hiệu quả. 1.2.3. Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trƣờng chứng khoán
  24. 16 Thị trường chứng khoán là một thực thể phức tạp, ở đó có sự tham gia của rất nhiều đối tượng khác nhau, với các mục đích khác nhau. Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán được chia thành hai nhóm. Thứ nhất, các trung gian tài chính phát hành các chứng khoán nhằm huy động vốn cho chính họ và thực hiện mua bán chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư chứng khoán. Thứ hai, trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thị trường qua các nghiệp vụ đại lý, bảo lãnh chứng khoán, tư vấn, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và quản lý quỹ đầu tư, thanh toán và lưu ký chứng khoán, cho vay. Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán là khác nhau, phụ thuộc vào quy định của luật pháp từng nước. Trên thế giới tồn tại ba mô hình cơ bản: Thứ nhất, mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô hình này, không có bất kỳ sự tách biệt nào giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các ngân hàng đa năng được phép cung cấp đầy đủ các dịch vụ: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Mô hình này được áp dụng tại các nước thuộc Bắc Âu như Hà Lan, Thuỵ Sỹ và Áo. Mô hình ngân hàng đa năng toàn phần cho phép các trung gian tài chính tận dụng triệt để các lợi thế về nhân lực, vật lực để cung cấp các dịch vụ tổng hợp cho khách hàng. Việc đa dạng hoá các dịch vụ tài chính cũng cho phép các trung gian tài chính đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, san sẻ rủi ro giữa các lĩnh vực đầu tư, tăng khả năng chống đỡ của các trung gian tài chính trước các biến động kinh tế. Tuy vậy, hoạt động ngân hàng đa năng gây khó khăn cho công tác quản lý thị trường và ảnh hưởng tới việc kiểm soát khả năng thanh toán của hệ thống ngân hàng. Thứ hai, mô hình ngân hàng đa năng một phần. Trong mô hình này, các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập các công ty con, có tư cách pháp nhân độc lập, do vậy loại bỏ được nhược điểm của mô hình đa năng toàn phần, tạo ra sự độc lập tương đối giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán. Mô hình đa năng một phần được áp dụng tại Vương
  25. 17 quốc Anh, Canada và Úc. Tuy nhiên, mô hình này có nhược điểm là tạo ra sự trùng chéo về tổ chức, làm giảm hiệu quả hoạt động của các trung gian tài chính. Thứ ba, mô hình chuyên doanh. Mô hình này thể hiện sự phân biệt có tính pháp lý giữa hai ngành ngân hàng và chứng khoán. Hoạt động kinh doanh chứng khoán do các công ty chứng khoán thực hiện và các ngân hàng thương mại không được phép kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng tại Mỹ, Nhật Bản. Tuy nhiên, mô hình chuyên doanh tỏ ra không còn phù hợp trước xu thế phát triển các tổ chức tài chính theo hướng đa năng. Hiện nay, các nước áp dụng mô hình chuyên doanh cũng đang chuyển sang áp dụng mô hình đa năng một phần bằng cách nới lỏng các điều kiện để cho phép các ngân hàng tham gia thị trường chứng khoán. Các phân tích trên cho thấy, mỗi mô hình đều có những ưu nhược điểm riêng và không có mô hình nào là tối ưu đối với một quốc gia. Việc lựa chọn mô hình hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán phụ thuộc vào quan điểm của các nhà quản lý thị trường, vào sự phát triển của các trung gian tài chính và phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường chứng khoán. Cho dù theo mô hình nào, hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán bao gồm các hoạt động sau: 1.2.3.1. Hoạt động phát hành chứng khoán Trung gian tài chính trước hết là một doanh nghiệp và thị trường chứng khoán được xem là một kênh dẫn vốn quan trọng đối với loại hình doanh nghiệp đặc biệt này. Luật pháp từng nước có quy định khác nhau, song về cơ bản, các trung gian tài chính có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư để huy động vốn trên thị trường. Việc phát hành chứng khoán của các trung gian tài chính chịu sự điều tiết của nhiều luật khác nhau như Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng và Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm Các ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, công ty chứng khoán thường phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ
  26. 18 chuyển đổi, trong khi đó, các quỹ đầu tư chứng khoán phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư để huy động vốn. Các chứng khoán do các trung gian tài chính phát hành thường có độ hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư do uy tín của các trung gian tài chính và thường có tính thanh khoản cao hơn so với trái phiếu, cổ phiếu của các doanh nghiệp khác phát hành. Với tính chất chuyên nghiệp, với uy tín cao trên thị trường tài chính, hoạt động phát hành chứng khoán của các trung gian tài chính có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp thông thường khác, do đó, thường có khối lượng huy động lớn và chi phí vốn thấp hơn. Các trung gian tài chính cũng là những tổ chức tiên phong trong việc sáng tạo ra các công cụ huy động mới có tính hấp dẫn cao. Các trung gian tài chính cũng được xem là đối tượng huy động vốn quan trọng trên thị trường chứng khoán quốc tế. 1.2.3.2. Hoạt động kinh doanh chứng khoán Với tư cách là nhà đầu tư có tổ chức, hoạt động kinh doanh chứng khoán của các trung gian tài chính được xem là yếu tố trợ giúp cho việc tăng chất lượng và hiệu quả của thị trường. Bởi lẽ, hoạt động kinh doanh chứng khoán của các trung gian tài chính có tính chuyên nghiệp cao, có quy mô lớn và có tính đa dạng hoá cao. Tuỳ theo tính chất của từng loại hình trung gian tài chính, hoạt động kinh doanh chứng khoán của các trung gian tài chính cũng khác nhau. Tuy nhiên có thể chia hoạt động kinh doanh chứng khoán của các trung gian tài chính thành hai nhóm: Hoạt động ngân quỹ và hoạt động đầu tư chứng khoán. Trong hoạt động ngân quỹ, các trung gian tài chính thường đầu tư ngắn hạn vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao, chủ yếu nhằm dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán, nhu cầu dự phòng và nhu cầu tích trữ. Các chứng khoán thường được lựa chọn cho mục đích này là tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi có thể được chuyển nhượng. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác hoạt động chủ yếu trên thị trường tín dụng. Do đặc điểm nguồn vốn, các tổ chức này thường tập trung
  27. 19 cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và cho vay thế chấp. Nhu cầu thanh toán và dự phòng đối với tổ chức tín dụng là rất lớn và việc đáp ứng các nhu cầu này không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng mà còn ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề an toàn của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động kinh doanh chứng khoán của các tổ chức này thường tập trung nhiều hơn ở hoạt động ngân quỹ và các tổ chức tín dụng là thành viên quan trọng của thị trường tín phiếu kho bạc. Hoạt động ngân quỹ là cầu nối quan trọng giữa thị trường tín dụng và thị trường chứng khoán. Khi thị trường tín dụng trầm lắng, một bộ phận vốn trên thị trường tín dụng sẽ được dịch chuyển sang thị trường chứng khoán thông qua hoạt động kinh doanh chứng khoán của các trung gian tài chính. Ngược lại, khi nhu cầu tín dụng tăng lên, các trung gian tài chính sẽ bán các chứng khoán để tăng lượng vốn cho hoạt động tín dụng. Việc dịch chuyển vốn giữa hai thị trường giúp cho các tổ chức tín dụng có thể sử dụng tối đa các nguồn vốn để nâng cao hiệu quả hoạt động. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa hai thị trường tín dụng và thị trường chứng khoán làm tăng hiệu quả hoạt động của thị trường tài chính. Sự phát triển của thị trường chứng khoán ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân quỹ của các trung gian tài chính. Hoạt động này đòi hỏi sự sẵn có các công cụ có tính thanh khoản cao, chi phí giao dịch thấp và tính ổn định của thị trường. Đôi khi, sự thiếu ổn định của thị trường chứng khoán đã ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng và qua đó, có những ảnh hưởng tiêu cực đối với thị trường tín dụng. Trong thực tế, nhiều tổ chức tín dụng đã gặp khó khăn về khả năng thanh toán, thậm chí mất khả năng thanh toán do những biến động của thị trường chứng khoán. Việc mất khả năng thanh toán của các ngân hàng thương mại thường dẫn theo những phản ứng dây chuyền gây đổ vỡ hệ thống ngân hàng và làm mất an ninh kinh tế. Đây chính là lý do các nhà quản lý thường muốn hạn chế hoạt động kinh doanh chứng khoán của các tổ chức tín dụng.
  28. 20 Khác với hoạt động ngân quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán của các trung gian tài chính tập trung vào các chứng khoán có tính thanh khoản thấp hơn và với thời hạn đầu tư dài hơn. Chiến lược đầu tư chứng khoán của các trung gian tài chính được xây dựng với các danh mục đầu tư đa dạng: Danh mục đầu tư trái phiếu, danh mục đầu tư cổ phiếu, danh mục đầu tư hỗn hợp. Các loại trung gian tài chính khác nhau thường lựa chọn các danh mục đầu tư khác nhau, với các mức độ rủi ro khác nhau: Các ngân hàng thương mại, các tổ chức bảo hiểm và các tổ chức tín dụng khác thường đầu tư nhiều hơn vào trái phiếu Chính phủ, các Quỹ đầu tư chứng khoán đầu tư vào các chứng khoán được giao dịch trên thị trường tập trung, các Quỹ đầu tư mạo hiểm đầu tư vào chứng khoán do các doanh nghiệp mới phát hành, thường được giao dịch trên thị trường giao dịch qua quầy. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của các trung gian tài chính ngày càng phát triển. Sự phát triển của thị trường chứng khoán cùng với sự xuất hiện và phát triển thị trường các công cụ dẫn suất đã làm tăng khả năng đầu tư chứng khoán của các trung gian tài chính. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của các trung gian tài chính làm tăng tính chất chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư chứng khoán và làm tăng tính sôi động của thị trường. 1.2.3.3. Đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán Hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc các trung gian tài chính giúp cho tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, phân phối chứng khoán hộ tổ chức phát hành, nhận mua chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua số chứng khoán chưa phân phối hết của tổ chức phát hành. Cơ sở để các trung gian tài chính có thể thực hiện hoạt động đại lý, bảo lãnh phát hành bắt nguồn từ vị thế của các trung gian tài chính trên thị trường. Như chúng ta đã biết, các doanh nghiệp khi có nhu cầu vốn, họ có thể tìm cách phát hành chứng khoán. Doanh nghiệp có thể tự đảm nhiệm việc phân phối chứng khoán. Song trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề cần giải quyết.
  29. 21 Thứ nhất, doanh nghiệp phải thực hiện các công việc trước khi phát hành. Các công việc này bao gồm: phân tích thị trường để xác định khả năng huy động vốn và các yếu tố có liên quan như chi phí vốn, chi phí phát hành, lựa chọn công cụ huy động vốn với các tính chất đặc trưng, làm các hồ sơ giấy tờ và các thủ tục xin phép phát hành. Để thực hiện các công việc này, đòi hỏi doanh nghiệp phải am hiểu các kiến thức về pháp lý, về thị trường, phải thu thập và xử lý các thông tin để đánh giá kỹ lưỡng khả năng phát hành, mà điều này không phải bao giờ cũng là dễ dàng đối với doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp thực hiện tất cả các công việc đó, với tư cách không phải là tổ chức chuyên nghiệp, chi phí và thời gian cho việc phát hành sẽ là yếu tố quan trọng cần cân nhắc đối với doanh nghiệp. Các trung gian tài chính với lợi thế chuyên môn hoá cao có thể dễ dàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện các công việc đó với chi phí thấp hơn, đồng thời, tư vấn cho doanh nghiệp về các yếu tố pháp lý và kỹ thuật. (Chẳng hạn: Giúp doanh nghiệp lựa chọn loại chứng khoán phù hợp, xác định lãi suất danh nghĩa, chuẩn bị các hồ sơ giấy tờ có liên quan ) Thứ hai, doanh nghiệp có thể phải đối mặt với rủi ro không huy động đủ vốn, và trong trường hợp đó, chi phí phát hành trên một đồng vốn huy động sẽ gia tăng đáng kể, thậm chí doanh nghiệp có thể bị lỡ cơ hội kinh doanh khi thời hạn huy động vốn kéo dài, hoặc không huy động đủ vốn. Trong khi đó, các trung gian tài chính, các tổ chức có uy tín và có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức huy động vốn trên thị trường, có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong việc phát hành chứng khoán. Thứ ba, trong nhiều trường hợp, theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp bắt buộc phải thực hiện phát hành qua hình thức bảo lãnh hoặc đại lý. Trong hình thức đại lý, bảo lãnh phát hành, tổ chức đại lý, bảo lãnh được hưởng phí đại lý, bảo lãnh. Phí này thường được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên khối lượng chứng khoán được phân phối. Tỷ lệ này phụ thuộc vào quy định của pháp luật, vào tính chất của đợt phát hành, loại hình bảo lãnh và phụ thuộc quan hệ giữa tổ chức phát hành với tổ chức phân phối chứng khoán.
  30. 22 Nói chung, phí phát hành có thể thay đổi từ một vài phần trăm tới trên mười phần trăm lượng vốn huy động. 1.2.3.4. Môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Nghề môi giới xuất hiện cùng với sự xuất hiện của thị trường chứng khoán và thường được xem là đặc quyền của các công ty chứng khoán. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các trung gian tài chính, nhiều tổ chức khác cũng tham gia vào thị trường môi giới như các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính. Sự tham gia ngày càng nhiều hơn của các trung gian trong hoạt động môi giới làm tăng tính cạnh tranh, và trên cơ sở đó, làm giảm chi phí trong giao dịch chứng khoán cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ môi giới. Việc thực hiện nguyên tắc trung gian của thị trường chứng khoán (mua bán các chứng khoán thông qua môi giới) nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư tiết kiệm chi phí về giao dịch cũng như đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư và cho cả thị trường. Để có thể thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán, các trung gian tài chính phải có đủ các điều kiện cần thiết theo yêu cầu của Luật chứng khoán. Các yêu cầu này bao gồm: Yêu cầu về vốn pháp định, yêu cầu về giấy phép hành nghề đối với giám đốc và các môi giới, các yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật và phải được Uỷ ban chứng khoán cấp giấy phép hoạt động môi giới. 1.2.3.5. Tƣ vấn đầu tƣ chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động phân tích, đưa ra các khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. Một trong những trở ngại quan trọng đối với thị trường tài chính là vấn đề thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Các nhà đầu tư cá thể rất khó khăn trong việc thu thập và xử lý thông tin. Các trung gian tài chính, với lợi thế chuyên môn hoá cao, với các kênh thông tin tin cậy, có thể dễ dàng hơn trong vấn đề này và có thể chia sẻ thông tin với các nhà đầu tư. Bằng cách thức này, các nhà đầu tư cá thể có thể tiết kiệm chi phí và tăng chất lượng giao dịch.
  31. 23 Có hai hình thức tư vấn là tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Hình thức tư vấn trực tiếp được thực hiện khi các trung gian tài chính phân tích, xử lý các tình huống đầu tư của chính khách hàng, từ đó có những khuyến nghị trực tiếp trên cơ sở một khoản lệ phí tư vấn thoả thuận. Với cách thức thứ hai, các trung gian tài chính có thể chia sẻ các thông tin của mình thông qua việc phát hành các báo cáo phân tích trên các tạp chí, sách báo chuyên đề. Việc phát hành các tài liệu này làm tăng uy tín và tạo thu nhập cho các trung gian tài chính. Có thể nói, tất cả các trung gian tài chính đều tham gia hoạt động này, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp. Các trung gian tài chính phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của những lời tư vấn của mình đối với khách hàng và trong nhiều trường hợp, hoạt động tư vấn phải được quản lý và cấp phép. Tuy nhiên, trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư vẫn phải tự chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình. 1.2.3.6. Quản lý danh mục đầu tƣ Quản lý danh mục đầu tư là hoạt động quản lý tài sản của khách hàng thông qua việc mua, bán và nắm giữ các chứng khoán theo uỷ thác và vì quyền lợi của khách hàng. Hoạt động này có thể được thực hiện bởi các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư, các trung gian tài chính phải đảm bảo tách biệt giữa tài sản của khách hàng với tài sản của mình. Việc mua, bán, nắm giữ các chứng khoán chỉ được thực hiện khi có sự uỷ thác hoặc theo lệnh của khách hàng. Trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư, các trung gian tài chính sẽ nhận được lệ phí quản lý tài sản từ phía khách hàng. Hoạt động này cũng góp phần tăng uy tín và phát triển các hoạt động khác như hoạt động lưu ký, thanh toán, tư vấn. Tuy nhiên, các trung gian tài chính phải tôn trọng và ưu tiên quyền lợi của khách hàng trước quyền lợi của bản thân, và chỉ có vậy, các trung gian tài chính mới tạo lòng tin của công chúng đầu tư. 1.2.3.7. Quản lý quỹ đầu tƣ chứng khoán Quỹ đầu tư chứng khoán được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tư mà tài sản chủ yếu của quỹ là các chứng khoán được đầu tư theo các mục tiêu đã
  32. 24 được xác định trong điều lệ quỹ. Các quỹ này có thể được tổ chức theo mô hình công ty hoặc mô hình tín thác. Đây là loại hình đầu tư phát triển nhất, phổ biến đối với công chúng đầu tư. Do lợi ích từ chuyên môn hoá, lợi thế từ quy mô và từ đa dạng hoá hoạt động đầu tư, các quỹ đầu tư có thể tăng tính an toàn và hiệu quả của hoạt động đầu tư chứng khoán. Sự xuất hiện đa dạng các loại hình quỹ đầu tư với các chứng chỉ quỹ đầu tư có các mức độ rủi ro khác nhau đã tạo nhiều cơ hội lựa chọn hơn đối với các nhà đầu tư, từ đó tăng mức hấp dẫn của thị trường đối với công chúng đầu tư. Các quỹ này được uỷ thác cho các công ty quản lý quỹ quản lý. Các công ty quản lý quỹ là pháp nhân và phải được cấp phép và chịu sự quản lý của Uỷ ban chứng khoán. Các trung gian tài chính muốn thực hiện hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thường phải thành lập công ty thành viên. Hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán có thể mang lại một phần thu nhập đáng kể cho các công ty quản lý quỹ dưới dạng phí và các khoản thưởng theo kết quả hoạt động của quỹ. Đồng thời, nó còn giúp các trung gian tài chính duy trì và phát triển mối quan hệ với các khách hàng của mình. Điều này đã thúc đẩy các trung gian tài chính trong việc giành giật quyền được tham gia phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư. 1.2.3.8. Thanh toán và lƣu ký chứng khoán Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán. Hoạt động này thường được các ngân hàng thương mại hoặc các công ty chứng khoán thực hiện. Bảo quản các chứng chỉ chứng khoán nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, tránh mất mát, hư hỏng chứng khoán, đảm bảo cho các chứng khoán được mua bán là chứng khoán thực, giảm chi phí cho việc kiểm định, vận chuyển chứng khoán. Đồng thời, việc quản lý chứng khoán tại các trung tâm cũng giúp cho quá trình phi vật chất hoá các chứng khoán được thuận lợi. Trung gian tài chính thực hiện lưu giữ, bảo quản chứng khoán cũng tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để tăng thu nhập.
  33. 25 Thực hiện nghiệp vụ thanh toán, các trung gian tài chính có thể làm tăng nguồn vốn và thu nhập của mình đồng thời có cơ hội để thực hiện các dịch vụ theo uỷ quyền của khách hàng. Cũng giống như nghiệp vụ lưu ký, nghiệp vụ thanh toán chứng khoán cũng giúp cho việc đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư và tăng tính an toàn, tăng khả năng giám sát của thị trường. 1.2.3.9. Các hoạt động khác Các trung gian tài chính cũng có thể tham gia hỗ trợ thị trường trong vai trò của ngân hàng giám sát, hay cho vay tiền hoặc cho vay chứng khoán, v.v Các hoạt động này có thể tạo thu nhập cho các trung gian tài chính, đồng thời phát triển quan hệ của họ đối với khách hàng. Tóm lại, việc trình bày logic và hệ thống về khái niệm, phân loại, vai trò của thị trường chứng khoán và các trung gian tài chính, các hoạt động cơ bản của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận, nó là cơ sở để phân tích thực trạng hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
  34. 26 CHƢƠNG II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG GIAN TÀI CHÍNH TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1. Sự ra đời và phát triển của thị trƣờng chứng khoán Việt Nam Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của thị trường chứng khoán (TTCK) trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và việc hoàn thiện thị trường tài chính nói riêng, việc thiết lập và phát triển TTCK đã được đặt ra ngay từ đầu thập niên cuối của thế kỷ XX. Ngày 21 tháng 12 năm 1990, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Công ty nhằm điều chỉnh hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Luật này sau đó được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp năm 2005. Đạo luật này đã mở đường quan trọng cho sự phát triển công ty cổ phần, đối tượng chủ yếu cung cấp hàng hoá cho thị trường. Ngày 28 tháng 11 năm 1996, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/CP về việc thành lập Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), cơ quan quản lý Nhà nước về Chứng khoán và TTCK. Trong một thời gian không dài, UBCKNN đã hoàn thành một khối lượng công việc quan trọng nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK. Nhờ quá trình chuẩn bị tích cực đó, ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về Chứng khoán và TTCK, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) trực thuộc UBCKNN. Ngày 20 tháng 7 năm 2000 đánh dấu một bước quan trọng đối với TTCK Việt Nam, TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh (Tp.HCM) khai trương và chính thức hoạt động với hai công ty niêm yết đầu tiên là Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) và Công ty vật liệu Viễn thông (SAM). Ngày 8 tháng 3 năm 2005, TTGDCK Hà Nội cũng ra đời, tiếp theo đó ngày 14 tháng 7 năm 2005, TTGDCK Hà Nội khai trương Sàn giao dịch Chứng khoán thứ cấp. Cùng với sự phát triển của Thị trường chứng khoán, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Luật Chứng khoán đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua. Đây là văn bản pháp luật cao nhất về chứng
  35. 27 khoán và thị trường chứng khoán. Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Nghị quyết Trung ương khoá IX cũng như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong khuôn khổ pháp luật chứng khoán và TTCK, đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua. Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các nhà đầu tư hoạt động trên thị trường. Ngày 8 tháng 8 năm 2007, TTGDCK Tp.HCM nhận quyết định của Thủ tướng và chính thức chuyển thành Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (SGDCK Tp.HCM), với tên giao dịch quốc tế: HoChiMinh Stock Exchange (HOSE). HOSE có nhiệm vụ tổ chức thị trường giao dịch cho chứng khoán của các tổ chức phát hành đủ điều kiện niêm yết tại Sở giao dịch. Qua hơn bảy năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, tính đến hết năm 2007, quy mô thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam đã đạt được những con số đáng ghi nhận sau: Tổng số công ty niêm yết và chứng chỉ quỹ tại SGDCK Tp.HCM và TTGDCK Hà Nội là 284 (SGDCK Tp.HCM 150, TTGDCK Hà Nội 134). Tổng khối lượng cổ phiếu của tất cả các công ty niêm yết trên 2 sàn giao dịch đạt khoảng 6,0 tỉ đơn vị, của trái phiếu là 1,4 tỷ đơn vị. Bảng 2.1. Quy mô niêm yết tại SGDCK Tp.HCM (Tính đến 31/12/2007) Toàn thị Cổ phiếu Chứng chỉ Trái phiếu trƣờng quỹ Số CK niêm yết 528 150 3 375 (1CK) Tỉ trọng (%) 100,00 28,41 0,57 71,02 Khối lượng niêm 5.115.269,37 4.482.309,49 71.409,63 561.550,25 yết (ngàn CK) Tỉ trọng (%) 100,00 87,63 1,40 10,98 Giá trị niêm yết 101.395.215,16 44.823.094,86 714.095,30 55.858.025,00 (triệu đồng) Tỉ trọng (%) 100,00 44,21 0,70 55,09 Nguồn : Sở giao dịch chứng khoán Tp. HCM
  36. 28 Bảng 2.2. Quy mô niêm yết tại TTGDCK Hà Nội (Tính đến 31/12/2007) Toàn thị trƣờng Cổ phiếu Trái phiếu Số CK niêm yết 321 134 187 (1CK) Tỉ trọng (%) 100,00 41,74 58,26 Khối lượng niêm 2.366.134,60 1.535.338,61 830.795,986 yết (ngàn CK) Tỉ trọng (%) 100,00 64,89 35,11 Giá trị niêm yết 98.432.984,70 15.353.386,10 83.079.598,60 (triệu đồng) Tỉ trọng (%) 100,00 15,60 84,40 Nguồn: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội Tổng giá trị vốn hóa thị trường - một trong những con số có tầm quan trọng hàng đầu phản ánh quy mô thị trường chứng khoán - tính đến thời điểm cuối năm 2007 đạt khoảng 500 nghìn tỉ đồng. So với tổng thu nhập quốc nội (GDP) tính theo giá thực tế năm 2007 (ước đạt 1.140 nghìn tỉ đồng), thì tổng giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam đạt khoảng 40% [42], cao hơn rất nhiều so với các thời gian trước đây, thuộc loại khá cao đối với một số nước mà thị trường chứng khoán mới ra đời cách đây bảy năm, vượt xa mục tiêu đề ra cho đến năm 2010 [39]. Tuy nhiên, nếu tính bằng đôla Mỹ (USD) theo tỷ giá hối đoái, thì tổng giá trị vốn hóa thị trường của Việt Nam mới đạt khoảng 30 tỉ USD[42], còn thấp xa so với quy mô của các thị trường trong khu vực, ở châu Á và trên thế giới. Giá trị giao dịch hàng ngày tăng dần qua các năm, đặc biệt tăng cao trong năm 2007. Tính trung bình, giá trị giao dịch tại SGDCK Tp.HCM đạt 700-800 tỷ đồng và TTGDCK Hà Nội đạt 250 tỷ đồng mỗi phiên.
  37. 29 Bảng 2.3. Một vài chỉ tiêu của SGDCK Tp.HCM qua các năm (đơn vị : tỷ đồng) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu 986 570 2.436 2.307 4.237 7.390 136.200 448.230 Tổng giá trị giao dịch cổ phiếu 92 1.033 1.087 2.998 19.887 26.878 38.175 205.732 Nguồn: Sở giao dịch chứng khoán Tp.HCM Bảng 2.4. Một vài chỉ tiêu của TTGDCK Hà Nội qua các năm (đơn vị : tỷ đồng) Năm 2005 2006 2007 Tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu 1.900 73.000 98.000 Tổng giá trị giao dịch cổ phiếu 264 3.919 63.422 Nguồn: Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội Số tài khoản nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán chính thức là trên 300 nghìn tài khoản, mặc dù tăng nhanh so với các thời điểm trước đây, nhưng so với dân số thì chiếm chưa đến 0,4%, thấp rất xa so với nhiều nước trong khu vực, ở châu Á và trên thế giới (Trung Quốc là 7%)[42]. Về cơ cấu nhà đầu tư, nếu như ở các nước, nhà đầu tư tổ chức chiếm khoảng 70%, còn nhà đầu tư cá nhân chỉ chiếm khoảng 30%, thì trên thị trường chứng khoán Việt Nam các con số trên là ngược lại: số nhà đầu tư cá nhân chiếm 70%, các nhà đầu tư tổ chức chỉ chiếm 30%[42]. Chính tỷ trọng đảo ngược này cộng với nguồn vốn còn phụ thuộc lớn từ nguồn vay ngân hàng của các nhà đầu tư cá nhân, nên tính đầu tư theo phong trào còn khá nặng kéo theo sự biến động thất thường trên TTCK. 2.2. Các trung gian tài chính Việt Nam 2.2.1. Sơ lƣợc về hệ thống tài chính Việt Nam Trong giai đoạn đổi mới, đặc biệt là giai đoạn 1995 - 2000, Việt Nam đã tiến hành cải cách mạnh mẽ hệ thống tài chính. Một cải cách quan trọng hàng đầu là
  38. 30 chuyển hoạt động của hệ thống ngân hàng theo mô hình hệ thống ngân hàng hai cấp. Việc tăng cường và hoàn thiện chức năng của Ngân hàng Trung ương đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu duy trì hệ thống tài chính vững mạnh và đáng tin cậy. Việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, góp phần quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và tạo đà cho tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại đã thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ bước đầu có hiệu quả. Việc điều hành Ngân sách nhà nước cũng đạt những thành tựu khả quan với việc giảm bao cấp từ Ngân sách, chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt Ngân sách. Thay vào đó, Chính phủ phát hành các công cụ nợ để bù đắp thâm hụt Ngân sách và tài trợ cho đầu tư. Hệ thống doanh nghiệp cũng được cải cách mạnh mẽ, tạo điều kiện mở rộng hoạt động của các trung gian tài chính. Các trung gian tài chính phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đến cuối năm 2007, Việt Nam đã có 6 Ngân hàng sở hữu nhà nước, 33 Ngân hàng thương mại cổ phần, 5 Ngân hàng liên doanh, 29 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, 1 quỹ tín dụng trung ương, 23 quỹ tín dụng khu vực, 897 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, 13 công ty cho thuê tài chính, 9 công ty tài chính, 40 công ty bảo hiểm, 74 công ty chứng khoán, 30 công ty quản lý quỹ và 45 quỹ đầu tư trong và ngoài nước [26]. 2.2.2. Các ngân hàng thƣơng mại Nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Ngân hàng Việt Nam nói riêng đã trải qua gần hai mươi năm đổi mới, đã thu được những thành tựu rất khả quan, đồng thời cũng đã và đang tiếp tục phải đối mặt với những thách thức suốt tiến trình đổi mới. Trong bối cảnh tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế đang vận động mạnh mẽ theo xu hướng toàn cầu hoá, ngành Ngân hàng Việt Nam không nằm ngoài tiến trình khách quan này. Với trọng trách là một ngành kinh tế huyết mạch trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế đất nước, những năm qua, ngành Ngân hàng Việt Nam đã có những đóng góp rất quan trọng, trước hết là trong việc đổi mới hoạt động và đổi mới chính sách tiền tệ.
  39. 31 Tính từ tháng 10 năm 1998 từ khi đưa 2 Luật Ngân hàng vào điều chỉnh hoạt động đến nay đã gần mười năm. Trong quá trình đó, toàn ngành Ngân hàng Việt Nam đã cơ bản đạt được những thành tựu lớn như: Giữ vai trò then chốt trong việc bảo đảm sự ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi và kiểm soát được động thái của lạm phát hàng năm. Phát triển một cấu trúc hạ tầng ngân hàng mới với sự có mặt của bốn hình thức sở hữu ngân hàng cùng hoạt động và phát triển đã tạo thành một mạng lưới đủ rộng để góp phần làm chủ quá trình từng bước tiền tệ hoá nền kinh tế. Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia đã liên tục phát triển và hoàn thiện theo hướng ngày càng giảm dần sự can thiệp chi tiết, trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vào các hoạt động kinh doanh của Tổ chức Tín dụng (TCTD). Về quy mô vốn của hệ thống Ngân hàng, tính đến hết tháng 12/2007, khối Ngân hàng Thương mại (NHTM) Nhà nước có vốn điều lệ cao nhất, đứng đầu là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) với 10.400 tỷ đồng, tiếp theo là Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank) với 7.554 tỷ đồng, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với 7.490 tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long với 744 tỷ đồng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đang trong quá trình cổ phần hóa (CPH), vốn điều lệ trước khi CPH là 4.279 tỷ đồng. Ngoài ra là 1 Ngân hàng Chính sách xã hội với vốn điều lệ 5.988 tỷ đồng, 1 Ngân hàng Phát triển vốn điều lệ 5.000 tỷ đồng[26]. Đối với khối NHTM cổ phần, tính đến tháng 04/2008 có 48 NHTM cổ phần đang hoạt động, tổng vốn điều lệ đạt 48.381 tỷ đồng. Trong số này có tới 24 Ngân hàng có vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên[26]. Riêng khối Ngân hàng liên doanh, vốn điều lệ cao nhất là Indovina Bank 50 triệu USD, kế đến là Shinhanvina Bank 30 triệu USD, Việt Nga 30 triệu USD, Vinasiambank 20 triệu USD, Vid Public 20 triệu USD. Trong khối chi nhánh Ngân hàng nước ngoài vốn điều lệ cao nhất là Bank of Tokyo Misubishi 45 triệu USD, Chinfon Commercial Bank 30 triệu đô la, số còn lại vốn điều lệ đăng ký từ 15 đến 20 triệu đô la Mỹ. Đây đều là chi nhánh của những
  40. 32 ngân hàng có tiềm lực tài chính rất mạnh đứng trong tốp đầu của thế giới và Châu Á[26]. Tổng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch của hệ thống Ngân hàng Việt Nam lên đến hàng nghìn điểm giao dịch trên toàn quốc, tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng tăng dần qua các năm, chiếm tỷ trọng khá cao so với tổng thu nhập quốc nội (GDP): 80 70 60 50 40 30 20 10 0 1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Biều đồ 2.1. Tỷ trọng Tín dụng Ngân hàng so với GDP (%) Như vậy, hệ thống ngân hàng với các NHTM là những trung gian tài chính rất quan trọng trên thị trường tài chính Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế của hệ thống Ngân hàng là rất lớn, với bề dày kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, với cơ sở vật chất tương đối tốt và hệ thống chi nhánh rộng khắp, sự tham gia của các NHTM trên TTCK là rất lớn và ngày càng phát triển. 2.2.3. Các tổ chức bảo hiểm Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương . Kể từ thời điểm đó, ở Việt Nam chỉ có một mình Bảo Việt hoạt động cho đến năm 1994. Từ năm 1994 đến 1998 ngoài Bảo Việt, nhà nước đã cấp
  41. 33 phép hoạt động cho Bảo Minh, VINARE (Tái Bảo hiểm Quốc gia), Bảo Long (Bảo hiểm Nhà Rồng), PJICO (Bảo hiểm Petrolimex), PVI (Bảo hiểm Dầu khí), PTI (Bảo hiểm Bưu điện) và Bảo Việt được tiến hành thí điểm Bảo hiểm nhân thọ. Cùng thời gian này, 03 công ty liên doanh được cấp phép gồm VIA (Bảo Việt và công ty của Nhật), UIC (Công ty TNHH Bảo hiểm Liên hiệp - liên doanh của Bảo Minh và công ty của Nhật) và công ty môi giới Bảo Việt - AON (chuyển thành công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài từ 5/2004). Giai đoạn 1998 – 2004 lần đầu tiên cấp phép cho một công ty bảo hiểm cổ phần ngoài quốc doanh (Viễn Đông) và 02 công ty phi nhân thọ 100% vốn nước ngoài (Allianz, Group Pama), 04 công ty bảo hiểm nhân thọ (Bảo Minh CMG), Prudential, ManuLife, AIA (Bảo hiểm Quốc tế Mỹ) và tiếp tục cấp phép cho các công ty liên doanh khác: Việt Úc, SVI (Công ty liên doanh Bảo hiểm Samsungvina), IAI (Công ty liên doanh Bảo hiểm Châu Á - Ngân hàng Công thương). Giai đoạn 2005 – 2006 được đánh giá là có lộ trình mở cửa nhanh nhất với sự cấp phép hoạt động cho các công ty trong nước: BIC (Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư Phát triển), Bảo hiểm AAA, Toàn Cầu, Bảo Nông, Bảo Tín và các công ty bảo hiểm nước ngoài Bảo hiểm AIG, Bảo hiểm QBE, Bảo hiểm ACE, Liberty, ACE Life, Prevoir, New york Life. Để điều tiết hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Quốc hội đã thông qua Luật Kinh doanh bảo hiểm ngày 9/12/2000. Chính phủ cũng đã triển khai việc soạn thảo và đưa vào thực thi các văn bản hướng dẫn thi hành luật bao gồm Nghị định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm và Nghị định quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm ngày càng thuận lợi với sự ra đời của một số Bộ luật, Luật, văn bản pháp quy liên quan đến bảo hiểm như Luật hàng hải, Luật hàng không, Luật giao thông đường bộ, Luật giao thông đường thuỷ, Luật phòng cháy chữa cháy
  42. 34 Doanh thu của ngành bảo hiểm tăng đều qua các năm và nguồn vốn huy động đầu tư trở lại nền kinh tế là rất lớn, thể hiện qua con số tăng dần qua các năm: Bảng 2.5. Doanh thu ngành bảo hiểm qua các năm Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu 3.051 4.863 7.708 10.327 14.232 15.561 17.752 24.039 toàn ngành Vốn tái đầu 4.205 6.324 12.245 14.000 22.933 29.355 34.125 42.887 tư nền kinh tế Nguồn: Tổng cục thống kê Tính đến hết năm 2007, trên thị trường Việt Nam có 40 doanh nghiệp bảo hiểm trong đó 22 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 8 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 1 công ty tái bảo hiểm và 9 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm với tổng nguồn vốn điều lệ lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng, mạng lưới lên đến 150.000 đại lý [11]. Nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế có xu hướng tăng qua các năm và năm 2007 chiếm khoảng 4% GDP. Như vậy, việc thu hút các tổ chức bảo hiểm tham gia TTCK có một ý nghĩa quan trọng cho việc phát triển thị trường. Với tính chất là tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng, các tổ chức bảo hiểm có thể lượng hoá được nhu cầu thanh toán chi trả các hợp đồng bảo hiểm nên phần vốn đầu tư của họ có thể được sử dụng để đầu tư trên thị trường chứng khoán. Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng phát triển và mang tính cạnh tranh cao. Điều này hứa hẹn một khả năng lớn trong việc tham gia thị trường của một loại trung gian tài chính, nhà đầu tư có tổ chức trên thị trường là các tổ chức bảo hiểm. 2.2.4. Các công ty chứng khoán Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển về quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam là sự lớn mạnh của các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt là các công ty chứng khoán (CTCK). Sự trưởng thành của các CTCK Việt Nam không chỉ thể hiện về sự tăng trưởng số lượng và quy mô vốn mà còn thể hiện rõ nét qua phương thức và chất lượng cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Tính đến cuối năm 2007, UBCKNN đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 74 công ty,
  43. 35 với tổng số vốn điều lệ đạt gần 6.000 tỷ đồng [43]. Trong đó, có gần 50 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ là môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán. Bảng 2.6. Số lƣợng các Công ty chứng khoán qua các năm Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Số lượng 3 8 9 11 13 14 21 74 CTCK Nguồn: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Trong quá trình hoạt động, các CTCK luôn đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới, tính đến cuối năm 2007, ngoài 74 trụ sở chính, mạng lưới hoạt động của các công ty gồm 30 chi nhánh, 22 phòng giao dịch, 32 đại lý nhận lệnh (so với mạng lưới gồm 12 chi nhánh, 9 phòng giao dịch và 13 đại lý nhận lệnh tại thời điểm 31/12/2006)[43]. Cùng với việc mở rộng chi nhánh, hoàn thiện bộ máy tổ chức, nhiều CTCK đã thực hiện tăng vốn điều lệ nhằm nâng cao năng lực tài chính và đáp ứng quy định về vốn pháp định. Sự tăng trưởng về số lượng cũng như sự cạnh tranh nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ của các CTCK đã góp phần đáp ứng được nhu cầu dịch vụ cho số lượng đông đảo nhà đầu tư đang ngày một gia tăng, đồng thời tạo ra áp lực cạnh tranh buộc các CTCK phải tự hoàn thiện mình, nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng và đảm bảo lợi ích cho khách hàng. 2.2.5. Các công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tƣ Thị trường tài chính Việt Nam đang hình thành ngày càng nhiều các công ty quản lý quỹ với các quỹ đầu tư với tiềm lực và khả năng cho vay rất đáng kể. Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng được thành lập với mục đích thu hút tiền nhàn rỗi từ các tổ chức tài chính, quỹ hưu trí, bảo hiểm, công đoàn, doanh nghiệp và cả các nhà đầu tư. Số tiền mà nhà đầu tư đóng góp sẽ được đầu tư theo chiến lược do một công ty quản lý quỹ vạch ra, việc giám sát đầu tư và quản lý tiền sẽ do một ngân hàng giám sát đảm nhiệm. Lợi nhuận của quỹ có được sau khi trừ đi phí phải trả phí cho công ty quản lý quỹ sẽ được chia lại cho nhà đầu tư theo
  44. 36 tỷ lệ góp vốn. Các quỹ đầu tư ở Việt Nam chủ yếu được phân loại như sau: Quỹ đầu tư vào công nghệ, đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư vào bất động sản, quỹ đầu tư vào cổ phiếu niêm yết, đầu tư cơ hội Các quỹ đầu tư được xem là nguồn cung cấp vốn dài hạn cho doanh nghiệp trong bối cảnh mới hiện nay. Tính đến thời điểm cuối năm 2007, tổng cộng trên thị trường chứng khoán Việt Nam có 30 công ty quản lý quỹ với tổng số vốn điều lệ lên đến hàng ngàn tỷ đồng quản lý 45 quỹ đầu tư với tổng số vốn huy động nhiều ngàn tỷ đồng hoạt động đa dạng trong đó có nhiều quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán [42]. 2.2.6. Các công ty tài chính Theo luật TCTD, công ty tài chính (CTTC) được xem là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Việc hình thành và phát triển TTCK là cơ hội cho các công ty tài chính tham gia trong một lĩnh vực kinh doanh mới và đầy tiềm năng. Nền kinh tế Việt Nam trong xu thế hội nhập đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tìm kiếm các lĩnh vực đầu tư hiệu quả, trong đó có mô hình thành lập các CTTC. Hiện tại các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đã được ban hành tương đối đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho các CTTC phát triển, hoạt động an toàn có hiệu quả. Việc thành lập thêm các công ty tài chính sẽ góp phần tạo thêm một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, đáp ứng được nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, phục vụ kịp thời nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân - một lĩnh vực mà các TCTD vừa qua chưa đáp ứng được. Ở góc độ quản lý vĩ mô, CTTC là một công cụ hữu hiệu được sử dụng để điều tiết hoạt động của các trung gian tài chính khác, các NHTM và của hệ thống tài chính. Các CTTC cũng là một chủ thể quan trọng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường tài chính, mang lại xung lực mới cho sự phát triển thị trường tài chính nói riêng và thị trường nói chung.
  45. 37 Sự ra đời của các CTTC ở Việt Nam nhằm mục tiêu ban đầu là huy động và điều hoà nguồn vốn trong nội bộ tổng công ty, phục vụ sự phát triển của tổng công ty (sau này phát triển thành các tập đoàn kinh tế). Hiện nay, bên cạnh việc thực hiện các nhiệm vụ của tập đoàn, các CTTC đã đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ để mở rộng thị trường, phục vụ nhiều đối tượng khách hàng trên thị trường tài chính nói chung. Đồng thời, một số CTTC đang chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần, phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng. Điển hình cho xu hướng này là CTTC Dầu khí và CTTC Dệt - May. Mặc dù CTTC ở nước ta mới thực sự phát triển mạnh khoảng 5 năm trở lại đây, nhưng các công ty đã sớm khẳng định được vai trò quan trọng trong việc tạo lập thêm một kênh tài trợ tín dụng mới, hữu hiệu cho các đơn vị thành viên trong Tập đoàn và mở rộng phục vụ tổ chức, cá nhân ngoài Tập đoàn. Hoạt động của các CTTC cũng đồng thời góp phần làm phong phú thêm các dịch vụ tài chính - ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển đa dạng của thị trường tài chính - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Cá biệt một số CTTC đã đạt được những kết quả khả quan, tạo được vị thế trên thị trường, là các đối tác tin tưởng của các định chế tài chính lớn trong nước và quốc tế. Tiểu biểu cho nhóm này là: CTTC Dầu khí và CTTC công nghiệp Tàu thuỷ. Tuy nhiên, những kết quả đạt được của các CTTC chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò của mình trong hệ thống tài chính, thị trường tài chính và nền kinh tế. Tham gia tích cực trên thị trường chứng khoán là một cơ hội để các CTTC đẩy mạnh sự phát triển của mình. 2.2.7. Công ty cho thuê tài chính Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê. Đối tượng phục vụ của
  46. 38 Công ty cho thuê Tài chính (CTCTTC) là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, lĩnh vực mà các ngân hàng thương mại mới chỉ đáp ứng một phần, trong khi các doanh nghiệp đang cần nhiều vốn đầu tư. Do đó, các CTCTTC đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường này. Tuy nhiên, các CTCTTC mới chỉ tập trung chủ yếu tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp. HCM. Tính đến cuối năm 2007, có 9 CTCTTC Việt Nam đã được thành lập, chủ yếu bởi các ngân hàng thương mại (trong đó có 4 ngân hàng quốc doanh là BIDV, Agribank, Vietcombank, Incombank). Ngoài ra, còn có 4 CTCTTC nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Tổng vốn điều lệ của 9 CTCTTC trong nước tính đến cuối năm 2007 là 1.700 tỷ đồng, tăng 47% so với năm 2006; tổng dư nợ cho thuê đạt 11.749 tỷ đồng, tăng 58%; tổng lợi nhuận trước thuế đạt 215,8 tỷ đồng, tăng 34,6%; tỷ lệ nợ quá hạn có xu hướng tăng cao hơn năm 2006, có công ty lên đến 10,97% [22]. Như vậy, các CTCTTC cũng là các tổ chức trung gian tham gia đầu tư đáng kể vào nền kinh tế, tuy nhiên mới chỉ tồn tại dưới hình thức là các Công ty thuộc sở hữu của các NHTM nhà nước và của nước ngoài, số lượng cũng khiêm tốn, hoạt động chưa thực sự phát trỉển. Cần đẩy mạnh hơn nữa hình thức của các trung gian này trong sự phát triển chung của thị trường tài chính. Các phân tích trên cho thấy, các trung gian tài chính là đối tác quan trọng trên TTCK. Các trung gian tài chính Việt Nam trong thời gian qua đã có sự tăng trưởng đáng kể về số lượng, đa dạng về hình thức, mô hình hoạt động và cơ cấu sở hữu. Thị trường hoàn hảo là thị trường mà trong đó, không có bất cứ rào cản nào cho việc gia nhập và rút khỏi thị trường, không có hiện tượng độc quyền và sự can thiệp của Chính phủ phải ở mức độ hợp lý. Để thúc đẩy sự tham gia của các trung gian tài chính trên TTCK cần phải khắc phục các điểm yếu của các Trung gian tài chính. 2.3. Hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam Thị trường chứng khoán chính thức của Việt Nam bắt đầu hoạt động từ thời điểm tháng 7 năm 2000. Qua hơn bảy năm hoạt động của TTCK có thể nhận thấy,
  47. 39 sự tham gia của các trung gian tài chính (TGTC) đã góp phần tăng hiệu quả và tính sôi động của thị trường trong xu thế hội nhập với thị trường tài chính quốc tế. Điều này sẽ được minh chứng qua phân tích hoạt động của các TGTC trên TTCK và qua phân tích các nguyên nhân dẫn đến thành công cũng như hạn chế trong hoạt động của các TGTC trên thị trường. Việc phân tích hoạt động của các TGTC trên thị trường chứng khoán theo từng loại hình TGTC là khó khăn và có thể dẫn tới những trùng lặp. Vì vậy, trong phần tiếp theo các hoạt động của các TGTC trên TTCK được phân tích theo các nhóm hoạt động: Hoạt động phát hành chứng khoán, hoạt động kinh doanh chứng khoán, hoạt động môi giới, hoạt động quản lý danh mục đầu tư và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và các hoạt động khác. Để tìm hiểu hoạt động của các trung gian tài chính trước hết chúng ta xem xét các văn bản pháp lý điều chỉnh các hoạt động này. 2.3.1. Các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của các trung gian tài chính trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam Hoạt động của các trung gian tài chính trên TTCK có thể được thực hiện trên thị trường tập trung và thị trường tự do, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Các hoạt động này chịu chi phối bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Về tổng thể, hoạt động của các trung gian tài chính chịu sự chi phối, điều tiết bởi Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Doanh nghiệp, Luật chứng khoán và các văn bản dưới luật khác. 2.3.1.1. Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi bổ sung luật các tổ chức tín dụng Luật Các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/10/1998. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng ban hành ngày 15/06/2004 và có hiệu lực từ 01/10/2004. Luật đã thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển các loại hình tổ chức tín dụng là: Thống nhất quản lý mọi hoạt động ngân hàng, xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại, đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm an toàn
  48. 40 hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Đầu tư vốn và các nguồn lực khác để phát triển các tổ chức tín dụng nhà nước, tạo điều kiện cho các tổ chức này giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trên thị trường tiền tệ. Các quan điểm này là cơ sở quan trọng cho việc lành mạnh hoá và phát triển các tổ chức tín dụng. Theo Điều 12 Luật sửa đổi bổ sung Luật các tổ chức tín dụng quy định, các tổ chức tín dụng bao gồm: Tổ chức tín dụng nhà nước, tổ chức tín dụng cổ phần, tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước ngoài được mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài và văn phòng đại diện tại Việt Nam. Tổ chức tín dụng nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ. Việc mở rộng quyền hoạt động của các Ngân hàng bao gồm cả các tổ chức tín dụng nước ngoài và cho phép mọi tổ chức, cá nhân có thể tham gia góp vốn đã tạo điều kiện phát triển các loại hình và các hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng Việt Nam. 2.3.1.2. Luật Doanh nghiệp Luật Doanh nghiệp năm 2005 thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003, các quy định về tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã tạo lập môi trường pháp lý chung cho hoạt động của các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam. Luật tạo điều kiện phát huy thế mạnh của mọi thành phần kinh tế, thực hiện chính sách mở cửa, hợp tác kinh tế, khơi dậy tiềm năng và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật. Luật Doanh nghiệp 2005 đã thể hiện được những nội dung chủ đạo sau đây: Luật thể hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tối đa nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Kế thừa những quy định tiến bộ, tích cực của Luật doanh nghiệp năm 1999
  49. 41 và Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, khắc phục những tồn tại, hạn chế như tính thiếu nhất quán, phân biệt đối xử, thiếu bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của mọi chủ thể, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm; có quyền tự chủ và phải tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh, nhà nước tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp. Đổi mới một cách cơ bản chức năng, nhiệm vụ và phương thức quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Nhà nước không can thiệp trực tiếp bằng các biện pháp hành chính, mà hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi thông qua cơ chế, chính sách và có sự quản lý nhà nước để doanh nghiệp phát triển lành mạnh; coi việc khuyến khích, hướng dẫn và trợ giúp là một trong những chức năng chính; coi nhà đầu tư và doanh nghiệp là đối tượng phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Nội dung luật phù hợp với đặc điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế nước ta đang chuyển đổi, vừa đáp ứng yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đón trước được xu thế hội nhập, góp phần xây dựng và tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng, đủ mức hấp dẫn và có sức cạnh tranh so với khu vực. 2.3.1.3. Luật kinh doanh bảo hiểm Luật Kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua ngày 9/12/2000 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/4/2001. Chế độ quản lý nhà nước được hoàn thiện thêm một bước bằng việc ban hành NĐ 45 và NĐ 46 ngày 27/3/2007 và Thông tư 155, Thông tư 156 ngày 20/12/2007 hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm theo xu hướng minh bạch công khai chế độ quản lý nhà nước và thủ tục hành chính, tăng cường tính chủ động cho doanh nghiệp bảo hiểm, nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý kinh doanh bảo hiểm, nâng cao năng lực tài chính và đảm bảo quyền lợi hợp pháp chính đáng cho người tham gia bảo hiểm phù hợp với chuẩn mực quốc tế và cam kết WTO.
  50. 42 Theo quy định của pháp luật, doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm. Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm, doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước, công ty cổ phần bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tương hỗ, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài. Trong các nội dung hoạt động được đề cập trong Luật, doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ và đầu tư vốn. Việc đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm được nhấn mạnh tính an toàn, hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu chi trả thường xuyên cho các cam kết theo hợp đồng bảo hiểm. Các tổ chức này chỉ được sử dụng vốn nhàn rỗi của mình để đầu tư ở Việt Nam trong các lĩnh vực: Mua trái phiếu của Chính phủ, mua cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, kinh doanh bất động sản, góp vốn vào doanh nghiệp khác, cho vay theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và gửi tiền tại tổ chức tín dụng Các tổ chức bảo hiểm là các trung gian tài chính có khả năng lớn trong việc tham gia các hoạt động đầu tư trên TTCK. Đây là các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng nên có thể dễ dàng lượng hoá các hoạt động chi trả và có thể đầu tư vào các chứng khoán có độ thanh khoản thấp như trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu. Các tổ chức này cũng dễ tiếp cận khách hàng và phát triển các nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ đầu tư hoặc các nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán. Luật Kinh doanh bảo hiểm ra đời là điều kiện căn bản để các tổ chức này phát triển các hoạt động nói chung và các hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng. 2.3.1.4. Luật chứng khoán Luật chứng khoán ra đời 29/6/2006 là một văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết về chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết chứng khoán, kinh doanh chứng khoán, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Luật và nghị định cũng quy định chi tiết về các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán như: Công ty chứng
  51. 43 khoán, công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát Về khái niệm chào bán chứng khoán ra công chúng: Luật quy định cụ thể việc chào bán chứng khoán ra công chúng là quá trình bắt đầu từ việc tổ chức phát hành chào mời người đầu tư mua chứng khoán của mình và kết thúc bằng việc phát hành chứng khoán. Để bảo vệ công chúng đầu tư và qua đó duy trì lòng tin đối với thị trường chứng khoán, luật pháp về chứng khoán trên thế giới đều có những quy định quản lý hoạt động này, chủ yếu thông qua việc yêu cầu và giám sát tổ chức phát hành thực hiện công bố thông tin ngay từ khi bắt đầu chào mời công chúng đầu tư mua chứng khoán. Các văn bản trước đây như Nghị định 48/1998 và 144/2003 đã sử dụng khái niệm “phát hành chứng khoán ra công chúng” là chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế và trong thực tiễn đã tạo nên nhiều kẽ hở để các tổ chức phát hành lách luật, thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng mà không công khai thông tin theo quy định. (Với lý do là khi chào bán, họ chưa biết là sẽ dẫn đến việc phát hành ra công chúng hay không). Vì vậy, Luật chứng khoán sử dụng khái niệm “chào bán chứng khoán ra công chúng” thay cho khái niệm “phát hành chứng khoán ra công chúng” của các Nghị định 48/1998 và 144/2003 để điều chỉnh bất kỳ hành vi chào mời, bán hay phát hành chứng khoán cho công chúng. Như vậy, khái niệm “chào bán chứng khoán ra công chúng” liên quan chặt chẽ đến phạm vi điều chỉnh của Luật trong lĩnh vực chào bán và phát hành chứng khoán, góp phần khắc phục một trong những trở ngại cơ bản đối với sự phát triển của thị trường chính thức hiện nay, đó là sự thiếu đồng bộ trong luật pháp điều chỉnh việc chào bán chứng khoán ra công chúng của các loại hình doanh nghiệp Về điều kiện và đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng: Theo nguyên tắc, việc chào bán chứng khoán ra công chúng của mọi loại hình doanh nghiệp phải tuân thủ Luật chứng khoán. Các tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng phải đáp ứng đủ điều kiện quy định. Luật chứng khoán ủy quyền cho Chính phủ quy định điều kiện chào bán ra công chúng đối với Doanh nghiệp nhà nước (DNNN),
  52. 44 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần, doanh nghiệp mới thành lập thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc công nghệ cao, chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các trường hợp cụ thể khác để phù hợp với thực tế và chủ trương, chính sách của nhà nước trong từng thời kỳ. Việc chào bán chứng khoán ra công chúng phải được đăng ký với UBCKNN. Trường hợp DNNN chuyển đổi thành công ty cổ phần thực hiện chào bán cổ phiếu ra công chúng được miễn trừ nghĩa vụ đăng ký nhưng phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công bố thông tin và chịu sự giám sát của cơ quan quản lý chuyên ngành. Việc đăng ký với UBCKNN không phải là để cấp phép mà chỉ là để kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của hồ sơ trước khi tuyên bố việc đăng ký có hiệu lực. Về phương thức quản lý chào bán chứng khoán ra công chúng: Theo Luật chứng khoán thì quản lý việc đăng ký chào bán chứng khoán tại Việt Nam là sự kết hợp cả hai mô hình, mô hình quản lý phát hành chứng khoán của Nghị định 48/1998 là cấp phép căn cứ vào các tiêu chuẩn cụ thể. Mô hình quy định tại Nghị định 144/2003 về cơ bản là quản lý theo chất lượng, tuy đã bước đầu chuyển sang chế độ đăng ký. Trên thế giới đây là hai mô hình quản lý phổ biến đối với việc chào bán chứng khoán ra công chúng: Quản lý trên cở sở xem xét điều kiện, tiêu chuẩn của tổ chức phát hành (còn gọi là quản lý theo chất lượng) và chế độ đăng ký trên cơ sở công bố thông tin đầy đủ, không có quy định về điều kiện cụ thể. Mô hình quản lý theo công bố thông tin đầy đủ đòi hỏi các chuẩn mực công bố thông tin phải rõ ràng, các tổ chức phát hành ý thức được trách nhiệm công bố thông tin đầy đủ và chính xác, các tổ chức trung gian trên thị trường có đủ năng lực chuyên môn và chịu trách nhiệm trước pháp luật trong hoạt động kiểm toán, tư vấn và đưa ra ý kiến đánh giá về tổ chức phát hành trong các tài liệu công bố thông tin. Trên những cơ sở đó, người đầu tư tự cân nhắc và ra quyết định đầu tư. Trách nhiệm của Cơ quan quản lý Nhà nước là quy định các chuẩn mực công bố thông tin và giám sát việc công bố thông tin theo đúng quy định.
  53. 45 Trong khi đó, mô hình quản lý theo chất lượng đặt ra một số điều kiện đối với Tổ chức phát hành và cơ quan quản lý là người đánh giá sự “xứng đáng” của Tổ chức phát hành cũng như mức độ công bố thông tin cần thiết Tuy nhiên, khi thị trường phát triển đến một mức độ nhất định, chế độ cấp phép sẽ ít mang tính thị trường và là gánh nặng đối với cơ quan quản lý; hơn nữa các điều kiện đặt ra cho Tổ chức phát hành chứng khoán dễ bị lạc hậu theo thời gian và gây trở ngại cho hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Vì vậy, hầu hết các nước phát triển hoặc các nước mới xây dựng thị trường sau này đều quản lý việc chào bán chứng khoán theo chế độ công bố thông tin đầy đủ. Ví dụ như Mỹ, Nhật, Ba-lan Quản lý theo chế độ công bố thông tin đầy đủ cũng chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của Tổ chức các Uỷ ban chứng khoán quốc tế (IOSCO) mà Việt nam là một thành viên. Nội dung của nguyên tắc đó là tổ chức phát hành phải công bố đầy đủ các thông tin quan trọng đối với việc ra quyết định của người đầu tư và hoạt động quản lý cần đảm bảo tính đầy đủ và chính xác của thông tin. Việc bảo vệ người đầu tư dựa trên cơ sở công bố thông tin chứ không dựa trên bất kỳ sự bảo đảm nào từ phía cơ quan quản lý. Trước đây, khi thị trường chứng khoán mới ra đời, việc quản lý theo chế độ cấp phép có điều kiện là hợp lý, do người đầu tư chưa quen với các hoạt động của TTCK, cơ quan quản lý cũng như các tổ chức trung gian trên thị trường chưa có kinh nghiệm, khung pháp lý chưa đầy đủ. Việc đặt ra các điều kiện sẽ loại bỏ ngay từ đầu các công ty quá nhỏ, không có triển vọng phát triển và có thể làm mất lòng tin của người đầu tư đối với các tổ chức phát hành. Sau hơn bảy năm hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức ở Việt Nam, nhận thức về TTCK trong công chúng đã được nâng lên, các tổ chức trung gian trên thị trường đang phát triển mạnh mẽ, nhưng về cơ bản thị trường vẫn kém phát triển; hệ thống luật pháp còn chưa hoàn chỉnh và chưa đồng bộ; các tổ chức phát hành chưa ý thức đầy đủ nghĩa vụ Công bố thông tin trong một bối cảnh chung của nền kinh tế còn rất thiếu minh bạch. Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay,
  54. 46 việc lựa chọn mô hình quản lý một mặt cần đáp ứng yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như yêu cầu về cải cách hành chính là quản lý theo hướng thị trường, mặt khác phải căn cứ vào mức độ phát triển của thị trường. Xuất phát từ những lý do đó mà luật chứng khoán đã quy định việc quản lý chủ yếu là trên cơ sở công bố thông tin đầy đủ có kết hợp với quy định một số điều kiện cụ thể nhằm ngăn ngừa những tổ chức phát hành quá nhỏ, không đủ uy tín để huy động vốn trên TTCK. Như vậy, các trung gian tài chính có thể thực hiện việc phát hành chứng khoán cho mình, đại lý, bảo lãnh phát hành, phân phối chứng khoán cho khách hàng. Về hình thức bảo lãnh phát hành cổ phiếu: Theo quyết định QĐ 27/2007/BTC chỉ có công ty chứng khoán có mức vốn pháp định từ 165 tỷ đồng trở lên và có thực hiện nghiệp vụ tự doanh mới được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Và về quy chế tổ ch : Tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo 6% trong ba (03) tháng liền trước thời điểm nhận bảo lãnh phát hành. Trường hợp đợt phát hành có tổng giá trị cam kết bảo lãnh lớn hơn hai (02) lần vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành, phải lập tổ hợp bảo lãnh phát hành. Trong trường hợp này, tổ chức bảo lãnh phát hành chính chịu trách nhiệm ký hợp đồng bảo lãnh với tổ chức phát hành, hoàn tất hồ sơ pháp lý về việc bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành với các tổ chức bảo lãnh phát hành khác. Về phát hành trái phiếu ra công chúng: Luật chứng khoán quy định bắt buộc cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. Hoạt động phát hành trái phiếu còn được quy định cụ thể theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP. Theo đó, chủ thể phát hành trái phiếu không chỉ là các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây mà còn có các công ty Trách nhiệm hữu hạn
  55. 47 (TNHH), công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với một nguyên tắc chung là các doanh nghiệp phải tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm và công khai minh bạch thông tin. Về niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán: Điều kiện về vốn tại thời điểm đăng ký niêm yết là từ 80 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Điều kiện về vốn để niêm yết trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán là vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 10 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Tổ chức đã niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM trước khi Nghị định 14/2007/NĐ-CP có hiệu lực, nếu không đáp ứng đủ các điều kiện niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán quy định tại Nghị định này, trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành phải điều chỉnh để đáp ứng đủ điều kiện niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán. Về vốn pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ: Luật và nghị định hướng dẫn cũng quy định cụ thể, theo đó, vốn pháp định cho nghiệp vụ môi giới là 25 tỷ đồng, tự doanh: 100 tỷ đồng, bảo lãnh phát hành: 165 tỷ đồng và tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng. Mức vốn pháp định của công ty quản lý quỹ tối thiểu là 25 tỷ đồng. Bộ Tài chính quy định cụ thể mức vốn pháp định của công ty quản lý quỹ dựa trên quy mô vốn được uỷ thác quản lý. Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đã được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán mà không đáp ứng đủ điều kiện về vốn pháp định theo quy định tại Nghị định này phải làm thủ tục tăng vốn trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Nghị định có hiệu lực thi hành. Ngoài ra, Luật cũng quy định về các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, đại hội các nhà đầu tư Thêm vào đó, để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường, đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán, Luật Chứng khoán quy định về thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty đầu tư chứng khoán (thực chất là Quỹ Đầu tư
  56. 48 chứng khoán dạng pháp nhân) được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần để đầu tư vào chứng khoán. Công ty đầu tư chứng khoán dạng này là loại hình công ty mới, hiện chưa được thành lập ở Việt Nam. Tổ chức và bộ máy của loại hình công ty này mang tính đặc thù cao, do vậy, trong luật chỉ quy định những nguyên tắc cơ bản về việc thành lập và hoạt động của nó, còn các nội dụng cụ thể sẽ do Chính phủ hướng dẫn để đảm bảo tính thực thi và phù hợp với thực tế. Về ngân hàng giám sát, luật không đặt ra các quy định về cấp phép đối với ngân hàng giám sát mà chỉ quy định ngân hàng giám sát thực hiện giám sát việc quản lý quỹ đại chúng khi có giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán. Hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, sự phát triển các tổ chức tài chính theo hướng đa năng, khuyến khích cạnh tranh, chống độc quyền và phân biệt đối xử là một xu hướng có tính tất yếu. Việt Nam đang thực hiện các cam kết quốc tế và các cam kết của WTO, việc phát triển các tổ chức tài chính theo hướng đa năng đã được Đảng và Nhà nước đặt ra trong giai đoạn trước mắt, do đó, cần phải xoá bỏ các phân biệt đối xử, các rào cản trong hệ thống pháp luật. Theo luật quy định hiện hành, các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty chứng khoán độc lập và công ty này phải được Uỷ ban chứng khoán cấp phép. Việc thực hiện mô hình tổ chức tín dụng đa năng một phần làm cho các tổ chức này không tận dụng triệt để lợi thế về cơ sở vật chất, trang bị, hệ thống chi nhánh, đội ngũ cán bộ cũng như gây trùng chéo về tổ chức và hoạt động. Sự tham gia của các tổ chức tài chính nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam được quy định trong quyết định số 238/2005/QĐ-TTg: Tối đa 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của một tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Đối với tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần theo Nghị định số 38/2003/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2003 thì tổng số cổ phiếu niêm yết là số cổ phiếu phát hành ra công chúng theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ