Luận văn Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

pdf 102 trang vanle 2650
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_doi_moi_to_chuc_va_hoat_dong_cua_he_thong_phan_phoi.pdf

Nội dung text: Luận văn Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG NGUYỄN HỒNG THANH ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG NƯỚC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Hµ Néi – 2008
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG NGUYỄN HỒNG THANH ®æi míi tæ chøc vµ ho¹t ®éng cña hÖ thèng ph©n hµng ho¸ trong n•íc trong bèi c¶nh héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế Mã số : 60.31.07 luËn v¨n th¹c sü kinh tÕ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S BÙI THỊ LÝ Hµ Néi – 2008
  3. LỜI CẢM ƠN Luận văn này được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ của Khoa Sau Đại học Trường Đại học Ngoại Thương. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Tiến sỹ Bùi Thị Lý, Chủ nhiệm Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Đại học Ngoại Thương và các thầy cô giáo đã tận tình hướng dẫn và cung cấp cho tôi những ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ, động viên tôi để hoàn thành luận văn này. T¸c gi¶ Nguyễn Hồng Thanh
  4. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cần thiết của đề tài: Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trạng thái nền kinh tế nước ta đã thay đổi theo hướng cung đối với nhiều loại hàng hóa không những có khả năng đáp ứng nhanh chóng và đầy đủ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, ngày càng nâng cao về số lượng, chất lượng và mẫu mã mà còn có khả năng xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản, Việt Nam đang giữ vị trí hàng đầu thế giới đối với một số mặt hàng như cà phê (thứ 2 thế giới), hạt điều (số 1 thế giới), gạo (thứ 2 thế giới), hạt tiêu (số 1 thế giới). Năng lực sản xuất gia tăng mạnh mẽ trong khi khả năng xuất khẩu chỉ đáp ứng được một phần khiến việc tiêu thụ hàng hóa và tổ chức hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước trở thành một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm và trở thành những trọng tâm của phát triển thương mại trong nước trong bối cảnh hiện nay. Chỉ có trên cơ sở tổ chức tốt hệ thống phân phối hàng hóa trong nước thì việc tiêu thụ hàng hóa mới được đẩy mạnh, qua đó góp phần phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả của hoạt động thương mại. Từ ngày 12/1/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo lộ trình cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, Việt Nam đã đưa vào phạm vi cam kết ngành dịch vụ phân phối. Đây là một ngành kinh tế quan trọng, có đóng góp lớn trong tổng thu nhập quốc dân đồng thời cũng có mức độ nhạy cảm cao với ổn định kinh tế xã hội trong nước. Nếu tính cả hoạt động sửa chữa động cơ ô tô, xe gắn máy, đồ dùng cá nhân và gia đình thì từ năm 2000 tới nay, dịch vụ phân phối chiếm khoảng 14% GDP . Đây cũng là một ngành thu hút nhiều lao động. Theo thống kê trong vài năm trở lại đây, lao động trong lĩnh vực phân phối chiếm khoảng 11,5% tổng lao động của cả nước, tương đương với ngành công nghiệp chế biến . Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp trước đây, việc điều tiết hàng hóa lưu thông trong hệ thống phân phối là do sự áp đặt chủ quan của các cơ quan quản lý Nhà nước. Hiện nay, phần lớn các mặt hàng chúng ta đang để cho cơ chế thị trường tự điều tiết hoạt động phân phối. Việc mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới sẽ đặt dịch vụ phân phối của nước ta và các doanh nghiệp ngành phân phối nói riêng trước những cuộc cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh thị phần. Họ sẽ mất đi hàng rào bảo hộ để đương đầu cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ có tiềm lực mạnh về các hệ thống phân phối hàng hóa mà còn dày dạn các kinh nghiệm và thủ pháp cạnh tranh phân phối. Từ đó, một nhu cầu đặt ra đối với các nhà quản lý, các cơ quan chức năng là phải đổi mới tổ chức và hoạt động
  5. của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước để đáp ứng với tình hình mới, góp phần giảm sức ép cạnh tranh và hỗ trợ các nhà phân phối giữ được vị trí nhất định trên thị trường trong nước. Nhìn lại thị trường nội địa, những năm qua các hệ thống phân phối hàng hóa đã phát triển một cách tự phát cả về số lượng và quy mô mở rộng, bước đầu đáp ứng nhu cầu đa dạng về hàng hóa tiêu dùng cho cả sản xuất và dân cư, tác động đến phát triển sản xuất trong quá trình chuyển đổi theo nền kinh tế thị trường. Đã xuất hiện một số hệ thống phân phối hàng hóa hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam, tuy nhiên nhìn chung hệ thống phân phối hàng hóa trong nước còn chưa được định hình rõ nét. Người tiêu dùng trong nước chưa có nhiều cơ hội để mua được sản phẩm có giá rẻ và chất lượng tốt. Trước sức ép cạnh tranh gay gắt của tự do hóa tiếp cận thị trường trong lĩnh vực dịch vụ phân phối trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu năng cao năng lực tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước, qua đó phát huy vai trò thương mại đủ năng lực hướng dẫn sản xuất định hướng theo nhu cầu thị trường, tạo các tiền đề cho phát triển sản xuất trong nước được đặt ra như một nhu cầu bức xúc của thực tiễn quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay. Những yêu cầu này cũng đã được đặt trong Nghị quyết của Đảng và là nội dung trọng yếu để triển khai đề án tổ chức thị trường trong nước của Chính phủ, đồng thời cũng là một trong những giải pháp lớn để hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Xuất phát từ thực tế trên, người viết chọn nghiên cứu đề tài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” 2. Tình hình nghiên cứu: Cho đến nay cũng có một số tài liệu trong và ngoài nước đề cập đến các khía cạnh khác nhau của dịch vụ phân phối và hệ thống phân phối hàng hóa. Một số tài liệu trong nước chủ yếu dưới dạng các văn bản pháp quy, đề án, nghiên cứu do các dự án tài trợ hoặc của các Hiệp hội, ngành hàng, quy hoạch phát triển của chính phủ ví dụ như “Đề án phát triển thị trường nội địa đến năm 2010” do Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) biên soạn năm 2003, “Đề án phát triển thương mại trong nước đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” do Bộ Công Thương biên soạn năm 2007, “Quy chế quản lý kinh doanh và tổ chức hệ thống phân phối” đối với một số mặt hàng thiết yếu như phân bón, xăng dầu, sắt thép, xi măng, dược phẩm, Tài liệu nước ngoài nghiên cứu về dịch vụ phân phối và hệ thống phân phối gồm “Distribution services-Background note by the Secretariat” do Ban Thư ký WTO biên soạn năm 1998, “Regulation and Performance in the Distribution Sector” do Pilat, D. biên soạn năm 1997, “Impact on Services: Distribution, The
  6. Single Market Review” do Ủy ban Châu Âu biên soạn năm 1997 và “Retail Distribution Channel Barriers to International Trade” do trường Đại học Havard, Hoa Kỳ biên soạn năm 1995. Ngoài ra, các chủ đề liên quan tới các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối và công tác xây dựng hành lang pháp lý điều chỉnh các cam kết, những tác động của sự bất ổn định trong tổ chức và hoạt động hệ thống phân phối sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang giành được quan tâm trên báo chí, truyền hình, đài phát thanh và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Các luồng thông tin này tuy khá phong phú nhưng còn rải rác, không mang tính tổng hợp, nhìn nhận chung. Một số ít thông tin thậm chí còn chưa đảm bảo tính chính xác. Ngoài ra, một số cơ quan chức năng, các Tổng công ty cũng đã tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá về một số kênh phân phối lẻ một số mặt hàng có tầm quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên xét về tổng thể, hiện chưa có nghiên cứu cụ thể nào về hệ thống phân phối hàng hóa trong nước và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hoạt động của hệ thống này, đặc biệt trong bối cảnh nước ta vừa trở thành thành viên của WTO và đang triển khai thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối. 3. Mục tiêu nghiên cứu: Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, người viết đặt mục tiêu tổng hợp một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống phân phối hàng hóa, nghiên cứu các đặc điểm về tổ chức và vận hành thực tế của hệ thống trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để từ đó xây dựng một nhóm các giải pháp góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống này trong tình hình mới. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Một số nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra trong luận văn này bao gồm: - Nêu được một số lý luận cơ bản về ngành dịch vụ phân phối và hệ thống phân phối hàng hóa (định nghĩa, tầm quan trọng và cơ cấu ngành), - Hệ thống hoá những văn bản pháp lý điều chỉnh cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước, - Phân tích các cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam tại WTO, tổng hợp các rào cản pháp lý đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và đánh giá các tác động tiềm năng đối với việc mở cửa hệ thống phân phối hàng hóa trong nước, - Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước và chỉ ra các nguyên nhân cản trở hoạt động phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp phân phối trong nước, - Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống phân phối hàng hóa trong nước,
  7. 5. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu: + Phạm vi nghiên cứu: Các đặc trưng, cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước + Đối tượng nghiên cứu: Là hệ thống phân phối hàng hóa trong nước 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn này sử dụng các phương pháp: - Thu thập và xử lý thông tin tại bàn (desk research), - Tổng hợp, phân tích các nguồn số liệu, tài liệu tham khảo, thống kê, so sánh, dự báo kinh tế. 7. Kết cấu luận văn: Ngoài phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 Chương: CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG NƢỚC CHƢƠNG III: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG NƢỚC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
  8. MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, PHỤ LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1 I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1 1. Khái niệm và phân loại dịch vụ phân phối hàng hóa 1 1.1. Khái niệm 1 1.2. Phân loại 1 2. Khái niệm, tổ chức và phân loại hệ thống phân phối hàng hoá 2 2.1. Khái niệm hệ thống phân phối hàng hóa 2 2.2. Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa 4 2.3. Phân loại hệ thống phân phối hàng hóa 7 2.4. Hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa 10 2.5. Các thành viên của hệ thống phân phối hàng hóa 12 3. Tầm quan trọng của hệ thống phân phối hàng hóa với nền kinh tế 14 3.1. Đối với phát triển kinh tế 14 3.2. Đối với hoạt động của các doanh nghiệp 16 3.3. Đối với người tiêu dùng 18 4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với hệ thống phân phối hàng hóa trong nước 18 4.1. Lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế 18 4.2. Tổng quan tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 20 4.3. Xu hướng của hệ thống phân phối hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu đặt ra với Việt Nam 21 4.3.1. Xu hướng phát triển của hệ thống phân phối hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 21 4.3.2. Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống phân phối hàng hóa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 23
  9. CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG NƢỚC 26 I. Tổng quan hệ thống phân phối hàng hóa trong nƣớc 26 1. Hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống 31 2. Hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại 36 II. Hành lang pháp lý điều chỉnh hệ thống phân phối hàng hóa trong nƣớc 40 1. Các văn bản pháp lý điều chỉnh việc thành lập và hoạt động doanh nghiệp (gia nhập thị trường) 40 2. Hệ thống luật pháp điều chỉnh hoạt động trên thị trường 41 3. Hệ thống chính sách khuyến khích sự phát triển trên thị trường 42 4. Hệ thống các văn bản pháp lý triển khai cam kết về dịch vụ phân phối của Việt Nam khi gia nhập WTO 43 III. Cơ hội và thách thức đối với hệ thống phân phối hàng hóa trong nƣớc trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 46 1. Cam kết quốc tế về mở cửa dịch vụ phân phối của Việt Nam 46 2. Cơ hội đối với hệ thống phân phối hàng hóa trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 49 3. Thách thức đối với hệ thống phân phối hàng hóa trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 51 CHƢƠNG III: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG NƢỚC TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 55 I. Kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng hệ thống phân phối hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 55 1. Kinh nghiệm của Thái lan 55 2. Kinh nghiệm của Trung Quốc 57 3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 61 II. Phƣơng hƣớng phát triển hệ thống phân phối hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 63 1. Quan điểm tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa trong nước 63 2. Phương hướng tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa trong nước 65
  10. III. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa trong nƣớc 69 1. Giải pháp đổi mới tổ chức của hệ thống phân phối hàng hóa 69 1.1. Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa theo mô hình kênh đơn lẻ truyền thống 69 1.2. Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa theo mô hình liên kết dọc 70 1.3. Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa liên kết ngang 74 1.4. Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa liên kết dọc ngang hỗn hợp 76 2. Các giải pháp hoàn thiện hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa 77 2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo môi trường ổn định để phát triển hệ thống phân phối hàng hóa 77 2.2. Thành lập các Hiệp hội-diễn đàn của các thành viên của hệ thống phân phối hàng hóa 78 2.3. Xây dựng và thực thi chiến lược phát triển hệ thống phân phối hàng hóa của doanh nghiệp 79 2.4. Thiết lập hệ thống phân phối hàng hóa gắn liền với gây dựng thương hiệu 79 2.5. Phát triển cơ sở hạ tầng của hệ thống phân phối hàng hóa trên thị trường nội địa 79 2.6. Phát triển các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistic để giảm chi phí giao dịch và hỗ trợ hoạt động xuất-nhập khẩu và thương mại nội địa 80 2.7. Phát triển thương mại điện tử 81 2.8. Hỗ trợ đầu tư và khuyến khách đầu tư phát triển thương mại trong nước 81 2.9. Nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hệ thống phân phối hàng hóa trong nước 82 KẾT LUẬN PHỤ LỤC
  11. DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, PHỤ LỤC BẢNG BIỂU Bảng II.1.: Tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế năm 2007 Trang 27 Bảng II.2.: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong Trang 28 nước giai đoạn 2003-2007 Bảng II.3.: Việt Nam-Thị trường bán lẻ hấp dẫn thứ 4 thế giới Trang 30 Biểu đồ II.4.: Tỷ trọng các loại hình phân phối trong hệ thống phân phối Trang 31 trong nước Biểu đồ II.5.: Tỷ trọng đầu tư các ngành trong nền kinh tế Trang 31 Bảng II.6: Tính ưu việt của hệ thống đại lý hoa hồng của Công ty Cổ Trang 35 phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) Bảng II.7.: So sánh hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống và hiện đại Trang 36 Biểu đồ II.8.: Mô hình hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại Trang 40 Bảng II.9.: Cam kết cụ thể về quyền phân phối của Việt Nam trong Hiệp Trang 47 định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ Bảng III.1.: Thành viên hệ thống bán lẻ của Thái lan Trang 55 Bảng III.2: Tổng hợp cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối hàng Trang 59 hóa của Trung Quốc khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO SƠ ĐỒ Sơ đồ I.1.: Một số hệ thống phân phối hàng hóa đại diện Trang 7 Sơ đồ I.2: Các dòng lưu chuyển trong hệ thống phân phối hàng hoá Trang 11 Sơ đồ I.3.: Các cấp độ hội nhập kinh tế khác nhau Trang 19 Sơ đồ II.1: Hệ thống phân phối hàng nông sản, thực phẩm Trang 29 Sơ đồ II.2.: Hệ thống phân phối hàng tiêu dùng thông thường Trang 29 Sơ đồ II.3.:Hệ thống phân phối hàng công nghiệp tiêu dùng lâu bền Trang 30 Sơ đồ II.4.:Hệ thống phân phối hàng chuyên ngành Trang 30 Sơ đồ II.5.: Hệ thống phân phối xi măng của Tổng Công ty Xi măng Việt Nam Trang 32 Sơ đồ II.6.: Hệ thống phân phối thép của Tổng Công ty thép Việt Nam Trang 33
  12. Sơ đồ II.7: Hệ thống phân phối hàng may mặc của Tổng Công ty Dệt Trang 34 may Việt Nam Sơ đồ II.8.: Mô hình hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại Trang 37 PHỤ LỤC Phụ lục 1: Quy hoạch tổng thể của Bộ Công Thương về phát triển mạng lưới chợ trên phạm vi toàn quốc đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 Phụ lục 2: Tổng mức bán lẻ hàng hóa phân theo thành phần kinh tế thời kỳ 1996-2007 Phụ lục 3: Đóng góp của ngành Thương mại và một số ngành trong GDP thời kỳ 1996-2007
  13. 1 CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 1. Khái niệm và phân loại dịch vụ phân phối hàng hóa 1.1. Khái niệm Sản xuất và dịch vụ là hai lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế xã hội. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có rất nhiều loại dịch vụ khác nhau như dịch vụ vận tải, dịch vụ logistics, dịch vụ viễn thông, dịch vụ tài chính, dịch vụ pháp lý, đã và đang được cung cấp để phục vụ nhu cầu của nền kinh tế, trong đó có một dịch vụ quan trọng là dịch vụ phân phối. Theo định nghĩa đơn giản nhất trong lĩnh vực marketing, dịch vụ phân phối hàng hóa là quá trình đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến với người tiêu dùng cuối cùng. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, dịch vụ phân phối không chỉ đơn thuần là mang tính chất của dịch vụ vận tải mà còn gắn liền với các phân ngành dịch vụ khác như đóng gói, quảng cáo, logistics, và có đóng góp giá trị gia tăng đáng kể vào sản phẩm. Dịch vụ phân phối còn mang ý nghĩa thuận lợi hóa thương mại, thúc đẩy dòng lưu chuyển hàng hóa, tăng tốc độ quay vòng vốn cho doanh nghiệp cũng như đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng. 1.2. Phân loại Dịch vụ phân phối hàng hóa được phân loại chính thức trong tài liệu mã số MTN.GNS/W/120 (thường được gọi tắt là tài liệu W/120) do các nước thành viên WTO xây dựng trong Vòng Uruguay và phần lớn dựa trên Danh mục Phân loại tạm thời các sản phẩm chính của Liên hiệp Quốc (CPC), theo đó lĩnh vực dịch vụ này được định nghĩa bao gồm bốn nhóm dịch vụ chính: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ và nhượng quyền thương mại (franchising)2. Các đại lý hoa hồng khác với những nhóm còn lại ở chỗ họ tiến hành giao dịch thay mặt cho người khác, ví dụ họ bán những mặt hàng được cung cấp và thông thường những hàng này thuộc sở hữu của người khác cho những người bán buôn, bán lẻ hoặc các cá nhân. Phân ngành dịch vụ bán buôn bao gồm việc bán hàng cho những người bán lẻ, những doanh nghiệp sử dụng của các ngành công nghiệp, thương mại, các tổ chức hoặc các đơn vị chuyên môn, hoặc cho những người bán buôn khác. Những 2 Mặc dù việc sử dụng Danh mục W/120 nói trên không có tính bắt buộc, nhưng hầu hết các thành viên WTO đã và đang sử dụng Danh mục này làm cơ sở cho việc xây dựng lộ trình cho các cam kết của họ. Mỗi loại trong 4 nhóm dịch vụ nói trên đều được tham khảo Danh mục CPC: dịch vụ đại lý hoa hồng (CPC 621), bán buôn (CPC 622), dịch vụ bán lẻ (CPC 631 + 632 + các nhóm dịch vụ này có thể tìm thấy trong tài liệu của Liên hiệp Quốc 1991. Trong số 36 thành viên có 6111 + 6113 + 6121) và nhượng quyền thương mại (CPC 8929). Thông tin chi tiết về cam kết trong dịch vụ phân phối, chỉ có 4 thành viên không dẫn chiếu tới Danh mục CPC, nhưng đều có dẫn chiếu đến Danh mục W/120.
  14. 2 người bán lẻ bán hàng phục vụ mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình. Những người nhượng quyền thương mại tiến hành bán một số quyền và ưu đãi cụ thể, ví dụ như quyền sử dụng một mô hình bán lẻ cụ thể hoặc một thương hiệu.3 Bên cạnh đó, danh mục CPC cũng quy định chi tiết “Dịch vụ chính do các nhà bán buôn và bán lẻ thực hiện là bán lại hàng hoá, kèm theo hàng loạt các dịch vụ phụ trợ có liên quan khác như: bảo quản lưu kho hàng hoá, lắp ráp, sắp xếp và phân loại đối với hàng hoá khối lượng lớn, bốc dỡ và phân phối lại đối với hàng hoá khối lượng nhỏ, dịch vụ giao hàng, dịch vụ bảo quản lạnh, các dịch vụ khuyến mãi do những người bán buôn thực hiện, và các dịch vụ liên quan đến việc kinh doanh của người bán lẻ như chế biến phục vụ bán hàng, dịch vụ kho hàng và bãi đỗ xe”. Trong thực tế, sự phân biệt giữa các nhóm nhà phân phối hàng hóa có thể không rõ ràng. Nhiều doanh nghiệp cùng thực hiện một vài chức năng, hoặc nhà sản xuất cũng có thể tự mình thực hiện chức năng phân phối. Hơn nữa, định nghĩa về dịch vụ phân phối có thể chưa thực sự phản ánh đầy đủ vai trò ngày càng rộng của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Ví dụ, sự thay đổi trong lĩnh vực sản xuất hướng tới các kỹ thuật sản xuất được kiểm soát chặt chẽ đã khiến hệ thống phân phối hàng hóa trở nên phức tạp. Bên cạnh những hoạt động mà danh mục CPC phần nào đã tiên lượng trước như bảo trì lưu kho, quảng cáo và đóng gói, các nhà phân phối phải thực hiện thêm một số chức năng như đặt cọc, kiểm soát và quản lý chất lượng. Theo Hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân cấp I của Việt Nam qui định tại Nghị định 75/CP-NĐ, ngày 27/10/1993 và Quyết định số 143 TCTK/PPCĐ, ngày 22/12/1993 về việc ban hành hệ thống ngành kinh tế quốc dân cấp II, III, IV của Tổng cục Thống kê thì khu vực dịch vụ (không bao gồm các ngành tiện ích công cộng và xây dựng) được chia thành 9 ngành với 16 phân ngành, trong đó có ngành phân phối được chia thành 4 phân ngành (bán buôn, bán lẻ, đại lý, nhượng quyền thương mại). Như vậy là cách phân loại trong Nghị định 75 là tương đương với cách phân loại của Tổ chức Thương mại Thế giới. 2. Khái niệm, tổ chức và phân loại hệ thống phân phối hàng hoá 2.1. Khái niệm hệ thống phân phối hàng hóa Đứng dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác nhau về hệ thống phân phối hàng hóa. Đối với người tiêu thụ, hệ thống phân phối hàng hóa được xem là một khâu trung gian giữa họ và người sản xuất. Đối với chính bản thân người phân phối hàng hóa, hoạt động chuyển quyền sở hữu hàng hóa lại được họ 3 Mặc dù phân ngành nhượng quyền thương mại được phân loại trong Danh mục CPC như một nhóm dịch vụ phân phối, nhưng nó khác về chất so với ba nhóm còn lại. Phân ngành này liên quan nhiều đến những thoả thuận bằng hợp đồng, theo đó một nhà phân phối hàng hóa có quyền sử dụng một cơ sở bán lẻ hoặc một thương hiệu.
  15. 3 coi là bản chất và là cốt lõi của một hệ thống phân phối. Người sản xuất lại nhấn mạnh vào việc lựa chọn các trung gian khác nhau để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng và do vậy coi hệ thống phân phối hàng hóa là hình thức đại diện chuyển sản phẩm qua các trung gian khác nhau. Theo một cách hiểu chung nhất, hệ thống phân phối hàng hóa là hình thức và cách thức thể hiện quyền phân phối nhằm lưu thông và mua bán hàng hóa qua các loại hình thương mại: truyền thống, hiện đại, điện tử, internet và các loại hình khác trong tương lai thông qua các mạng lưới, kênh, chuỗi và riêng lẻ dưới các dạng bán buôn và bán lẻ sau: đại công viên mua sắm, công viên mua sắm, khu thương mại, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, đại siêu thị, kho bán buôn, siêu thị các loại, trung tâm phân phối, cửa hàng tiện ích, các cơ sở bán lẻ, gian hàng mua sắm, cửa hàng, cửa hiệu, tiệm tạp hóa, cửa hàng bán lẻ, cửa hàng hè phố, đại lý, hội chợ, triển lãm, gian hàng, sạp hàng, kiốt, chợ các loại, chuỗi cung ứng, hệ thống kho vận, Theo một định nghĩa khác, hệ thống phân phối hàng hóa có thể được coi là hệ thống tổ chức và công nghệ thích ứng, cân đối nhằm thực hiện và khai thác hợp lý nhu cầu của thị trường, đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến với khách hàng đúng lúc, đồng thời thực hiện một chức năng quan trọng khác là kênh chuyển tải thông tin hai chiều từ nhà sản xuất đến với khách hàng và ngược lại. Những thông tin về tính năng, công dụng và hướng dẫn sử dụng đóng một vai trò quan trọng trong định hướng tiêu dùng của người tiêu dùng, giúp họ có thể tận dụng được tối đa công năng của sản phẩm. Các thông tin liên quan phát sinh trong quá trình sử dụng, tiêu dùng sản phẩm sẽ được các khách hàng phản hồi tới người sản xuất để có những điều chỉnh thích hợp, kịp thời về công đoạn sản xuất, thiết kế mẫu mã, công nghệ sản xuất, Ở một góc độ khác, hệ thống phân phối hàng hóa là một tập hợp xác định các doanh nghiệp và cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau mà qua đó doanh nghiệp sản xuất thực hiện bán sản phẩm cho người sử dụng hoặc tiêu dùng cuối cùng. Nói cách khác, hệ thống phân phối là hệ thống quan hệ của một nhóm các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình đưa hàng hóa từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Hệ thống phân phối hàng hóa cũng là tổng hợp các mối quan hệ tồn tại giữa các tổ chức có liên quan trong quá trình mua và bán hàng hóa. Đây là đối tượng phải chịu sự tổ chức và quản lý của Nhà nước. Xét trên bình diện vĩ mô, hệ thống phân phối hàng hóa của vô số doanh nghiệp tạo nên hệ thống thương mại, hệ thống phân phối hàng hóa chung rất phức tạp của toàn bộ nền kinh tế. Đây là các hệ thống lưu thông, tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp trên thị trường, theo nhiều chiều, nhiều hướng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Hệ thống phân phối hàng hóa vĩ mô của một quốc gia có chức năng làm phù hợp cung cầu hàng hóa trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Hệ thống phân phối hàng hóa này bao gồm tất cả các dòng chảy hàng hóa của nền
  16. 4 kinh tế từ người sản xuất tới người tiêu dùng cuối cùng (cả tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất) nhằm đảm bảo cung cầu phù hợp và đạt các mục tiêu của xã hội. Toàn bộ hệ thống phân phối hàng hóa vĩ mô là đối tượng nghiên cứu để hoạch định các chính sách tổ chức và quản lý lưu thông phân phối của nhà nước. Kênh phân phối hàng hóa là một cấp độ thấp hơn của hệ thống phân phối hàng hóa. Theo đó, kênh phân phối hàng hóa là bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống hàng hóa bên cạnh các nhà phân phối hàng hóa. Một kênh phân phối gồm một nhóm các nhà phân phối có cùng cấp độ và cùng phân phối một mặt hàng nhất định với những đặc điểm riêng. Mạng lưới các kênh phân phối hàng hóa với các mối quan hệ hữu cơ tạo nên một hệ thống phân phối hàng hóa. 2.2. Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa Là tiến hành trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập, thiết lập, thỏa thuận, sắp xếp, sắp đặt, chuẩn bị, lên kế hoạch cho việc hình thành một và/hoặc các hình thức và cách thức, loại hình thương mại của hệ thống phân phối để tiến hành phân phối. Ta có thể nhận thấy một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức hệ thống phân phối như sau: Xét trên quan điểm quản lý vĩ mô, việc tổ chức một hệ thống phân phối hàng hóa phải tuân thủ theo 4 nguyên tắc cơ bản là: (i) Nhiều kênh, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền, (ii) Các thành phần kinh tế được tham gia bình đẳng, (iii) Nhiều phương thức phân phối khác nhau để thuận lợi cho người tiêu dùng, (iv) Ít tầng nấc trung gian không cần thiết để giảm chi phí và tăng hiệu quả. Ngoài ra tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa phải đảm bảo thêm một số yêu cầu sau:  Đảm bảo nguyên tắc về hiệu quả kinh tế nghĩa là phải đảm bảo phân chia các công việc phân phối tối ưu giữa các thành viên trong hệ thống. Các hệ thống hoạt động trong các biên giới về địa lý, về kinh tế và về con người tối ưu. Nguyên tắc chuyên môn hóa và phân công lao động phải được vận dụng triệt để trong tổ chức và phát triển hệ thống phân phối. Mỗi hệ thống phải đảm bảo có tổng chi phí phân phối thấp nhất tương ứng với mỗi mức độ dịch vụ phân phối cung cấp cho khách hàng. Quá trình tổ chức phát triển hệ thống phải đảm bảo mức độ bao phủ thị trường mục tiêu thích hợp, khắc phục tình trạng các doanh nghiệp không xác định rõ phạm vi thị trường của họ.  Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa phải nâng cao được hiệu quả hoạt động của hệ thống trong dài hạn nhờ thúc đẩy chuyên môn hóa và phân công lao động hợp lý. Mỗi thành viên trong hệ thống với những nguồn lực của mình thường thích hợp với việc thực hiện một số công việc phân phôi chuyên môn hóa, người
  17. 5 quản lý hệ thống phải nghiên cứu để phân chia các công việc phân phối cho các thành viên sao cho họ có thể thực hiện với hiệu quả cao nhất.  Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa phải bao trùm toàn bộ tổng thể chứ không chỉ tổ chức từng khâu lưu thông, từng cấp độ phân phối hay từng quan hệ mua bán cụ thể. Cần hướng tới việc thiết lập những kênh phân phối liên kết dọc để có khả năng điều hành hoạt động của cả hệ thống nhằm thực hiện những mục tiêu thị trường nhất định. Khi xác định hình thức và mức độ liên kết giữa các thành viên trong hệ thống, nhà quản lý hệ thống cần xác định khả năng quản lý của mình. Những hệ thống tự chảy dựa trên các quan hệ thương mại ngẫu nhiên sẽ không cho phép người quản lý điều hành hệ thống hoạt động theo kế hoạch.  Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa phải đảm bảo sự hợp tác toàn diện và lâu dài giữa các thành viên. Tổ chức hệ thống phân phối phải thúc đẩy hình thành các mối quan hệ liên kết cả dọc và ngang giữa các doanh nghiệp trên thị trường. Đặc biệt trong nền kinh tế chuyển đổi với nhiều quan hệ thị trường chưa hoàn chỉnh ở nước ta càng tồn tại nhiều hành vi, thủ đoạn của các thành viên vì lợi ích riêng đã làm thiệt hại đến lợi ích của toàn hệ thống. Bởi vậy, để tăng kết quả và hiệu quả hoạt động của hệ thống, các thành viên của nó cần phải sử dụng một số hoặc tất cả các cơ chế sẵn có để tạo ra sự hợp tác trong kênh phân phối. Trong tổ chức hệ thống phân phối đòi hỏi các thành viên phải giải quyết các mối quan hệ theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi, các bên có mục tiêu chung.  Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa phải năng động, linh hoạt, thích ứng với những thay đổi không ngừng của thị trường và môi trường kinh doanh Hệ thống phân phối hàng hóa hoạt động trong một môi trường phức tạp chịu sự chi phối của nhiều yếu tố và lực lượng khác nhau. Khi những yếu tố môi trường thay đổi, nhà quản lý hệ thống cũng phải thay đổi chiến lược và biện pháp quản lý của mình để thích ứng với những hoàn cảnh thị trường mới. Những yếu tố môi trường chủ yếu ở Việt Nam đang có nhiều biến đổi ảnh hưởng tới hoạt động của các hệ thống phân phối. Các thành viên phải hiểu rõ những biến động trên thị trường để tổ chức lại các kênh phân phối của mình. Tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa phải có sự phân biệt giữa các vị trí thành viên trong hệ thống, theo đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng sản phẩm và trên từng hoàn cảnh thị trường cụ thể, đảm bảo tính bổ trợ lẫn nhau. Người sản xuất thường tổ chức và quản lý quá trình tiêu thụ sản phẩm xuôi xuống phía dưới hệ thống, còn người bán lẻ khi tổ chức thì tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa ngược lên phía người sản xuất. Những người bán buôn đối mặt với các quyết định thiết kế hệ thống phân phối hàng hóa từ cả hai phía. Sản phẩm khác nhau, thị trường khác nhau tất yếu phải sử dụng những kiểu, phương thức phân phối
  18. 6 khác nhau. Đó cũng chính là nguyên tắc để tổ chức hệ thống phân phối hàng hóa theo dạng liên kết dọc, ngang, hỗn hợp. Việc tham gia vào hệ thống phân phối hàng hóa là trực tiếp hoặc gián tiếp quản lý, nắm giữ vốn hoặc cổ phần, thâu tóm, kết hợp, phối hợp, liên kết, liên doanh, gia nhập, sáp nhập, bảo trợ, tiếp nhận vào một và/hoặc các loại hình thương mại của hệ thống phân phối để tiến hành phân phối. Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, lưu thông hàng hóa là khâu trung gian cần thiết giữa sản xuất và tiêu dùng, nó là tiền đề của sản xuất và cũng là hậu cần của sản xuất. Theo quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển, sản xuất và tiếp sau sản xuất, việc trao đổi sản phẩm của sản xuất là cơ sở của mọi chế độ xã hội. Đến nay, luận điểm này vẫn còn nguyên giá trị của nó. Trình độ phát triển ngày càng cao của sản xuất đòi hỏi sự hoàn thiện của hệ thống phân phối và ngược lại, hệ thống phân phối hoạt động “trôi chảy” góp phần thúc đẩy hiệu quả của hoạt động sản xuất. Trong suốt quá trình phát triển hàng hóa, hệ thống phân phối đạt những trình độ phát triển ngày càng cao hơn từ đơn giản tới phức tạp, từ phạm vi của một địa phương rồi mở rộng ra thị trường của một quốc gia và vươn ra tầm quốc tế. Việc hàng hóa được trao đổi, mua bán trên thị trường thông qua hệ thống phân phối hàng hóa nhằm mục đích đưa hàng hóa từ sản xuất ra tới khâu lưu thông và tới người tiêu dùng cuối cùng với mục đích tối đa hóa lợi nhuận, đồng thời sử dụng hiệu quả và giảm thiểu tối đa các chi phí. Một kênh phân phối tiêu biểu phải có đủ các kênh “nhánh” gồm mạng lưới đại lý, bán buôn, bán lẻ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Hệ thống phân phối hàng hóa của một quốc gia có tổ chức như các hệ thống mạng lưới do chúng bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn nhau, nói cách khác, các thành viên của nó liên quan với nhau trong quá trình hoạt động. Nó là một hệ thống các thành tố liên quan tới nhau và phụ thuộc với nhau trong quá trình tạo ra kết quả là hàng hóa được người tiêu dùng mua và sử dụng. Có 3 yếu tố cơ bản phản ánh đến tổ chức của hệ thống phân phối hàng hóa: - Chiều dài của hệ thống phân phối được xác định bởi số cấp độ trung gian có mặt trong hệ thống phân phối. Khi số cấp độ trung gian trong hệ thống phân phối tăng lên, hệ thống được xem như tăng lên về chiều dài. Ví dụ: Hệ thống phân phối hàng hóa từ Người sản xuất -> Người bán buôn -> Người bán lẻ -> Người tiêu dùng là dài hơn hệ thống phân phối hàng hóa từ Người sản xuất -> Người tiêu dùng. - Bề rộng của hệ thống phân phối hàng hóa biểu hiện ở số lượng trung gian ở mỗi cấp độ trung gian. - Các loại trung gian ở mỗi cấp độ của hệ thống phân phối.
  19. 7 2.3. Phân loại hệ thống phân phối hàng hóa Có một số các tiêu chí khác nhau để phân loại các hệ thống phân phối hàng hóa. Nếu căn cứ trên cấu trúc của hệ thống phân phối, có thể chia hệ thống phân phối hàng hóa thành hai loại (i) Hệ thống phân phối hàng hóa trực tiếp từ người sản xuất đến người tiêu dùng và (ii) Hệ thống phân phối hàng hóa qua các kênh trung gian. Trên cơ sở đó, ta có thể mô hình hóa một số hệ thống phân phối có tính đại diện như sau: Sơ đồ I.1.: Một số hệ thống phân phối hàng hóa đại diện 1 Ngƣời sản xuất Ngƣời tiêu dùng cuối cùng 2 Ngƣời sản xuất Ngƣời bán buôn Ngƣời tiêu dùng cuối cùng 3 Ngƣời sản xuất Ngƣời bán lẻ Ngƣời tiêu dùng cuối cùng 4 Ngƣời sản Đại lý Ngƣời bán buôn Ngƣời bán Ngƣời tiêu xuất lẻ dùng cuối cùng Nếu căn cứ theo mức độ liên kết giữa các thành viên trong hệ thống, hệ thống phân phối hàng hóa có thể được chia thành hai kiểu tổ chức hệ thống phân phối chính là các hệ thống phân phối truyền thống và các hệ thống marketing liên kết dọc. (i) Hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống: Các hệ thống phân phối truyền thống chính là các dòng vận động của hàng hóa trên thị trường hình thành một cách ngẫu nhiên và tự phát. Các doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống không muốn phụ thuộc lẫn nhau quá nhiều trong quá trình kinh doanh. Vì lợi ích kinh tế mà mỗi người thường tập trung hoạt động của họ vào một số công việc cụ thể của hệ thống phân phối hàng hóa. Những người tham gia vào hệ thống phân phối hàng hóa tự phát tìm kiếm lợi ích bất cứ khi nào, ở đâu và bằng mọi cách có thể. Họ cũng tìm cách cải tiến những quan hệ phân phối cho hiệu quả những không có trách nhiệm đầy đủ trước kết quả cuối cùng của hệ thống phân phối hàng hóa. Chính cơ chế thị
  20. 8 trường tự do và tín hiệu giá cả đã tạo nên các hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống. Ví dụ về hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống là các nhà trung gian thương mại sẵn sàng tham gia vào quá trình đưa sản phẩm từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao. Nhiều trung gian thương mại mua và bán bất cứ loại hàng hóa nào nếu thấy có chênh lệch giá và lợi nhuận. Các quan hệ buôn bán trong các hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống thường không liên tục và ổn định. Các thành viên chỉ tham gia vào mua bán trong hệ thống khi họ vẫn thấy còn có thể thu được lợi nhuận. Các thành viên sẽ tự động rời bỏ hệ thống phân phối hàng hóa nếu thấy lợi ích không còn. Bởi vậy, các hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống có thể bị phá vỡ nhanh chóng bởi một thành viên nào đó nếu họ thấy quan hệ kinh doanh không còn hấp dẫn. Có thể mô tả hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống như một tập hợp ngẫu nhiên các doanh nghiệp và cá nhân độc lập về chủ quyền và quản lý, mỗi người đều ít quan tâm đến hoạt động của cả hệ thống phân phối. Đây là một mạng lưới rời rạc, kết nối một cách lỏng lẻo các nhà sản xuất, bán buôn, bán lẻ hoạt động độc lập có buôn bán trực tiếp với nhau, tích cực thương lượng về các điều khoản mua bán. Nhược điểm của hệ thống phân phối hàng hóa kiểu này là thiếu sự lãnh đạo tập trung, hiệu quả hoạt động kém và có nhiều xung đột tai hại. (ii) Hệ thống phân phối hàng hóa liên kết dọc: Đây là hệ thống phân phối hàng hóa có chương trình trọng tâm và được quản lý chuyên nghiệp được thiết kế để đạt hiệu quả phân phối và ảnh hưởng thị trường tối đa. Các thành viên trong hệ thống có sự liên kết chặt chẽ với nhau và hoạt động như một thể thống nhất. Cơ quan quản lý hệ thống phân phối liên kết dọc có thể kiểm soát được hoạt động của hệ thống phân phối này và chủ động giải quyết xung đột. Nó mang lại hiệu quả kinh tế theo quy mô trong phân phối và giúp xóa bỏ những công việc trùng lặp. Để hoạt động phân phối có hiệu quả, cần phát triển hệ thống phân phối hàng hóa liên kết dọc. Nếu tiếp cận hệ thống phân phối theo các “lát cắt” thì có thể phân loại theo 3 cách tiếp cận chủ yếu sau: (i) Tiếp cận dọc: Theo cách tiếp cận này thì hệ thống phân phối hàng hóa đơn giản nhất là hệ thống trong đó hàng hóa được phân phối trực tiếp từ người sản xuất tới người tiêu dùng. Hệ thống này được gọi là hệ thống trực tiếp hoặc vô cấp. Mặc dù có những ưu điểm về tốc độ luân chuyển của dòng hàng hóa và sự giao tiếp chặt chẽ giữa người sản xuất và người tiêu dùng nhưng hệ thống này cũng có những hạn chế do đòi hỏi vốn đầu tư và trình độ quản lý phức tạp, không tạo điều kiện cho chuyên môn hóa của người sản xuất. Việc mở rộng quy mô cũng gặp nhiều khó khăn khi số lượng và chủng loại mặt hàng tăng lên, thị trường tiêu thụ được mở rộng.
  21. 9 Hệ thống phân phối hàng hóa đơn cấp là hệ thống phân phối dọc trong đó, hàng hóa được đưa từ nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu qua nhà bán lẻ và đến người tiêu dùng. Đặc điểm của hệ thống phân phối này là giúp giải phóng cho nhà sản xuất chức năng lưu thông để chuyên môn hóa và phát triển năng lực sản xuất, đảm bảo một trình độ xã hội hóa cao hơn, ổn định và hợp lý hơn trong xúc tiến bán hàng. Tuy nhiên, loại kênh này vẫn bị hạn chế ở chỗ vẫn chưa phát huy được triệt để phân công lao động xã hội ở trình độ cao. Các nhà sản xuất và bán lẻ đôi khi kiêm cả chức năng bán buôn và do vậy làm hạn chế trình độ xã hội hóa của lưu thông, hạn chế đến cả tính hiệu quả và hợp lý của phân bố hàng hóa dự trữ ở các kênh. Vì vậy, loại hình này chỉ áp dụng có hiệu quả đối với một số kiểu bán lẻ nhất định, một số mặt hàng đơn giản xác định, trong những khoảng cách không gian so với điểm phát luồng hàng hóa nhất định, phục vụ cho một số loại nhu cầu thường xuyên, ổn định của người tiêu dùng xác định. Mô hình hệ thống phân phối hàng hóa hai cấp có thêm sự tham gia của người bán buôn. Hình thức này rất phổ biến trong phân phối mặt hàng tiêu dùng vì các nhà sản xuất mặt hàng này không có khả năng giao tiếp với hàng ngàn cửa hàng bán lẻ khắp trên thị trường mục tiêu. Do vậy, các nhà sản xuất hoặc nhà nhập khẩu sẽ làm việc trực tiếp với các nhà bán buôn để tiến hành mua bán, tập hợp, chỉnh lý, dự trữ hàng hóa và làm hậu cần cho thị trường bán lẻ tổng hợp. Mô hình phân phối ba cấp có bổ sung thêm đại lý hoa hồng. Hệ thống phân phối này có mức độ chuyên mô hóa sâu nhất và có thể đáp ứng yêu cầu của phân công lao động xã hội về lao động giữa cả sản xuất và lưu thông, cho phép xã hội hóa tối đa hoạt động thương mại trên mọi vị trí thị trường bán lẻ và ở mọi điểm phân bố dân cư. Quy mô và sự chuyên môn hóa càng cao, cơ cấu mặt hàng càng phức tạp, trình độ xã hội hóa thị trường càng lớn thì quy mô hệ thống này càng lớn và vai trò điều chỉnh luồng hàng và tốc độ vận động dòng chảy trong hệ thống càng cao. Tuy nhiên mô hình này nếu không được tổ chức hợp lý và khoa học có thể làm kéo dài bất hợp lý thời gian lưu thông và do vậy có nguy cơ làm tăng chi phí phân phối. (ii) Tiếp cận ngang: Trên bất cứ cấp độ nào của hệ thống phân phối theo chiều dọc cũng có thể được “rẽ ngang” và tạo thành hệ thống phân phối hàng hóa ngang theo phạm vi nhóm mặt hàng kinh doanh hay theo phương pháp công nghệ kinh doanh và dịch vụ phục vụ. Theo cách tiếp cận ngang có thể nhận thấy sự liên kết và hội tụ của các cơ sở kinh doanh trên cùng một mặt bằng hoặc một mức độ của hệ thống phân phối. Điển hình nhất là sự liên kết và hội tụ của các nhà bán lẻ tại các chợ, trung tâm thương mại hoặc siêu thị hoặc các nhà bán buôn tại các sàn giao dịch hay sở mua bán hàng hóa. Theo cách tiếp cận ngang có thể nhận thấy sự liên kết và hội tụ của các cơ sở kinh doanh trong một lĩnh vực cụ thể hoặc ở một khâu tác nghiệp xác định hoặc liên minh theo một thỏa ước thương mại xác định ví dụ như chợ nguyên liệu, hội chợ theo ngành hàng, Ưu điểm của các hệ thống phân phối ngang là tạo ra sự
  22. 10 tương hỗ lẫn nhau làm cho dòng hàng hóa trong mỗi kênh riêng lẻ có thể chảy nhanh hơn, quy mô của từng kênh riêng lẻ có thể phát triển. Tuy nhiên, hạn chế của nó là có thể tạo ra xung đột giữa các kênh riêng lẻ với nhau nhằm thu hút khác hàng. Để giải quyết các mâu thuẫn này cần có các Hiệp hội được tổ chức một cách phù hợp. (iii) Tiếp cận theo chức năng của các trung gian phân phối Các trung gian phân phối bao gồm các thể nhân và pháp nhân kinh tế hợp thức đứng giữa nhà sản xuất và nhà tiêu dùng thực hiện chức năng phân phối hàng hóa để tìm kiếm lợi nhuận cho họ. Nếu phân loại theo chức năng, các trung gian phân phối thường được chia làm hai lại là trung gian bán buôn và trung gian bán lẻ. Theo quy định của pháp luật trong nước, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh . Các hoạt động của trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại . Hoạt động mua bán hàng hóa của văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam không được định danh là trung gian thương mại. 2.4. Hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa Để có thể cải thiện tổ chức và hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa, chúng ta cần hiểu được hoạt động của hệ thống. Hệ thống phân phối hàng hóa hoạt động thông qua các dòng vận động (dòng chảy) để đảm bảo hàng hóa đến được với người tiêu dùng như: chuyển quyền sở hữu, đàm phán, vận động vật chất của hàng hóa, thanh toán, thông tin, xúc tiến đặt hàng, chia sẻ rủi ro tài chính, thu hồi, tái sử dụng lại bao gói. Các dòng chảy này kết nối các thành viên của hệ thống phân phối với nhau. Hệ thống phân phối hàng hóa được ví như dòng chảy vì các hoạt động diễn ra trong hệ thống là một quá trình vận động liên tục không ngừng. Mỗi dòng chảy là một tập hợp các chức năng phân phối được thực hiện bởi các thành viên tham gia hệ thống phân phối. Hàng hóa lưu thông thông qua hệ thống phân phối hàng hóa thông qua cơ chế “kéo-đẩy”. Cơ chế kéo nghĩa là các doanh nghiệp dùng các biện pháp tác động vào nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng để tạo ra mong muốn của họ, để họ tạo nên lực hút hàng hóa ra thị trường. Hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa rất phức tạp do có nhiều dòng vận động trong hệ thống phân phối và nhiều doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào hệ thống phân phối. Sự vận động liên tục, không ngừng chính là bản chất của hệ thống phân phối hàng hóa. Có thể nói, cơ sở hình thành các mô hình hệ thống phân phối hàng hóa là chuyên môn hóa và phân công lao động. Quan hệ giữa các công ty, doanh nghiệp với công ty, doanh nghiệp phân phối hàng hóa sẽ hình thành nên cấu trúc của hệ thống phân phối. Như vậy, cơ cấu của một hệ thống phân phối sẽ thể hiện rõ những chức
  23. 11 năng chuyên biệt được phân bổ cho nhóm các thành viên của hệ thống phân phối. Ngoài ra, trong mô hình trên có thể bổ sung các nhân tố bổ trợ cho hệ thống phân phối như các công ty cung cấp dịch vụ vận tải, kho bãi, ngân hàng, cảng biển, tiếp vận, Hệ thống phân phối hàng hóa không chỉ đơn thuần là kênh luân chuyển hàng hóa hay các sản phẩm vật chất mà ta cần nhìn vào sự luân chuyển và hoạt động của các dòng chảy trong kênh gồm dòng chảy vật chất, dòng chảy sở hữu, dòng chảy xúc tiến, dòng chảy thanh toán, trong đó quan trọng nhất phải kể đến dòng chảy sở hữu. Các dòng luân chuyển trong một hệ thống phân phối có thể được minh họa theo sơ đồ dưới đây: Sơ đồ I.2.: Các dòng lƣu chuyển trong hệ thống phân phối hàng hóa Dòng sở hữu Dòng sở hữu Dòng sở hữu Dòng thông tin Dòng thông tin Dòng thông tin Nhà sản Dòng thanh Dòng thanh Ngƣời toán xuất toán Dòng thanh toán tiêu Các nhà Các dùng cuối Dòng vận động bán nhà Nhà Dòng vận động Dòng vận động cùng vật lý buôn vật lý bán lẻ vật lý nhập khẩu Dòng xúc tiến Dòng xúc tiến Dòng xúc tiến - Dòng sở hữu: Quyền sở hữu được chuyển từ nhà sản xuất sang người tiêu dùng cuối cùng - Dòng thông tin: Chuyển thông tin từ nhà sản xuất hay người nhập khẩu tới người tiêu dùng cuối cùng - Dòng thanh toán: Dòng các công cụ thanh toán, các giấy tờ có giá được chuyển từ người tiêu dùng cuối cùng tới người sản xuất hay nhà nhập khẩu thông qua các định chế tài chính trung gian là các ngân hàng, quỹ tín dụng khi hoạt động mua bán diễn ra - Dòng vận động vật lý: Sự di chuyển vật lý của hàng hóa trên các phương tiện vận tải và bằng các phương thức vận tải khác nhau - Dòng xúc tiến: Các biện pháp xúc tiến thương mại từ phía chính phủ hoặc sự hỗ trợ và truyền tin của người sản xuất hay nhập khẩu cho các thành viên của kênh dưới hình thức các hoạt động xúc tiến thương mại
  24. 12 Bên cạnh các dòng chảy, có thể kể đến một số hoạt động chủ yếu diễn ra trong hoạt động phân phối hàng hóa bao gồm: - Thương lượng: Để thỏa thuận phân chia trách nhiệm, quyền lợi trong hệ thống phân phối, các thành viên trong hệ thống thỏa thuận với nhau về giá cả hàng hóa, dịch vụ và các điều kiện phân phối khác - Phân phối vật chất: Vận chuyển, dự trữ và bảo quản hàng hóa - Thành lập các mối quan hệ: tạo dựng, duy trì mối liên hệ với những người mua hàng tiềm năng - Hoàn thiện hàng hóa: Làm cho hàng hóa, dịch vụ đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, tăng tính hấp dẫn của hàng hóa, dịch vụ, từ đó kích thích nhu cầu của người tiêu dùng - Trợ giúp: Tạo lập cơ chế tài chính trợ giúp cho các thành viên của hệ thống phân phối hàng hóa trong thanh toán - Chia sẻ các rủi ro liên quan tới quá trình phân phối: Các thành viên của hệ thống phân phối hàng hóa cần phân chia hợp lý việc thực hiện các chức năng trên, đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh của mình và thỏa mãn tối đa nhu cầu của thị trường 2.5. Các thành viên của hệ thống phân phối hàng hóa Tất cả các chức năng phân phối trong mỗi hệ thống phân phối hàng hóa đều cần được thực hiện bởi một thành viên nào đó của hệ thống nhưng không nhất thiết mọi thành viên đều tham gia vào tất cả các dòng chảy. Các hệ thống phân phối hàng hóa có sự phân công lao động và chuyên môn hóa sâu sắc. Các thành viên nhất định chuyên môn hóa vào một hoặc một số công đoạn phân phối nhất định. Ví dụ các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu sử dụng những trung gian thương mại hoặc các tổ chức bổ trợ khác để thực hiện hoạt động phân phối vì họ thực hiện chức năng phân phối hiệu quả hơn. Các thành viên tham gia hệ thống phân phối hàng hóa được chia làm hai nhóm chính là các thành viên chính thức và hệ thống bổ trợ. Các thành viên chính thức đàm phán phân chia công việc phân phối và chuyển quyền sở hữu hàng hóa. Các tổ chức bổ trợ cung cấp các dịch vụ phân phối chuyên môn hóa trên cơ sở ký hợp đồng với các thành viên của hệ thống. Họ không sở hữu hàng hóa vì vậy họ không chịu trách nhiệm trước kết quả hoạt động cuối cùng của quá trình phân phối. Như vậy, các thành viên của hệ thống phân phối hàng hóa được xác định dựa trên nhưng công việc phân phối mà họ đảm nhiệm trong hệ thống phân phối. Các thành viên trong một hệ thống phân phối hàng hóa chuẩn thường bao gồm nhà sản xuất hoặc nhập khẩu, các trung gian và người tiêu dùng cuối cùng. (i) Nhà sản xuất hoặc nhập khẩu: Người sản xuất hay nhập khẩu là người khởi nguồn của các hệ thống phân phối hàng hóa trên thị trường nội địa. Họ cung cấp hàng hóa nhằm mục đích thỏa mãn nhu
  25. 13 cầu của thị trường. Muốn vậy, hàng hóa của họ phải luôn luôn sẵn sàng cho các thị trường mục tiêu. Bằng việc chuyển các công việc phân phối cho các thành viên khác như người bán buôn và người bán lẻ, người sản xuất có thể tiết kiệm được chi phí. Các trung gian thương mại phân phối sản phẩm của nhiều nhà sản xuất khác nhau vì vậy có thể chia sẻ các chi phí cố định cao trong phân phối cho khối lượng sản phẩm được phân phối lớn hơn. Điều này cho phép họ giảm được chi phí phân phối hàng hóa. (ii) Người trung gian: Người trung gian bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh thương mại độc lập trợ giúp người sản xuất và người tiêu dùng cuối cùng thực hiện các công việc phân phối hàng hóa. Người trung gian thường được chia làm hai loại chính là người bán buôn và người bán lẻ. - Người bán buôn: Là người mua hàng hóa với số lượng lớn ở mức giá hợp lý và bán lại cho thương nhân khác hoặc người bán lẻ trước khi đưa ra với công chúng. Trong một số trường hợp, người bán buôn có thể bán hàng hóa cho người tiêu dùng cuối cùng. Một loại hình bán buôn rất phổ biến ở các nước trên thế giới là thanh toán và mang hàng về (cash & carry) có giảm giá cho khách hàng mua với số lượng lớn tại thời điểm mua hàng và khách hàng tự chịu trách nhiệm vận chuyển hàng về nhà. Trong lịch sử, hình thức này để phục vụ cộng đồng doanh nghiệp nhưng hiện nay ngày càng được mở rộng ra để thu hút các đối tượng khách hàng trong công chúng. Người bán buôn thường được chia làm 3 loại chính:  Người bán buôn sở hữu hàng hóa thực sự  Đại lý, môi giới và người bán buôn hưởng hoa hồng  Chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất. Sở dĩ coi chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất như người bán buôn là do họ thực hiện các chức năng bán buôn là chủ yếu. Mỗi trung gian bán buôn có quy mô, phương thức kinh doanh và sức mạnh thị trường riêng vì vậy họ có thể đóng những vai trò khác nhau trong hệ thống phân phối hàng hóa. - Người bán lẻ: Cá nhân hoặc tổ chức bán hàng hóa trực tiếp ra công chúng, thường thông qua các điểm bán lẻ dưới các hình thức khác nhau. Một đặc điểm quan trọng của người bán lẻ là hàng hóa được bán ra tại một địa điểm cố định như cửa hàng hay kiốt, theo từng lô nhỏ hoặc từng đơn vị hàng hóa cho người tiêu dùng trực tiếp. Hoạt động của người bán lẻ có thể bao gồm cả các dịch vụ bổ trợ như giao hàng tận nhà. Khách hàng của nhà bán lẻ đa phần là các cá nhân hay hộ gia đình. - Đại lý: Là những trung gian, có quyền hoạt động hợp pháp thay mặt người sản xuất và nhà nhập khẩu. Đại lý hoa hồng là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán hàng theo giá mua, giá bán do bên giao đại lý ấn định để được hưởng hoa hồng. Mức hoa hồng được tính theo tỷ lệ phần trăm do các bên thỏa thuận trên giá mua, giá bán hàng hóa. Theo phương thức phân phối đại lý, người
  26. 14 bán và người mua không thực hiện trực tiếp hoạt động phân phối mà phải thông qua một người thứ 3 là đại lý. Hay nói một cách khác, đại lý là các tự nhiên nhân hay pháp nhân tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh theo sự ủy thác của người ủy thác. Đại lý hoa hồng không chỉ thực hiện quyền được ủy thác trong các lĩnh vực mua và bán hàng hóa mà còn trong việc thực hiện các dịch vụ thương mại khác như vận tải, bảo hiểm, quảng cáo, Phương thức phân phối hàng hóa này thường được áp dụng trong trường hợp thương nhân kinh doanh một mặt hàng mới hoặc chưa nắm bắt được một thị trường mới. Ưu điểm lớn nhất của phân phối hàng hóa qua đại lý là doanh nghiệp sản xuất tiết kiệm được chi phí tổ chức mạng lưới phân phối và tận dụng được kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực phân phối của các đại lý hoa hồng. Đại lý sẽ được nhận hoa hồng với cam kết không kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém phẩm chất và giữ đúng giá bán theo yêu cầu của nhà sản xuất. Thông thường, đại lý hoa hồng nắm rõ tập quán tiêu dùng, tình hình thị trường và các quy định pháp luật có liên quan. Đại lý đặc biệt phát huy hiệu quả tại những thị trường mà tập quán đòi hỏi phải mua bán qua trung gian hoặc bản thân doanh nghiệp mua bán không có hiệu quả ví dụ như tại các tỉnh miền núi với địa bàn xa xôi, hiểm trở mà người dân có thói quen mua bán qua đại lý hoặc qua các “đầu nậu” ở địa phương. - Các tổ chức bổ trợ: Ngoài ra, các thành viên tham gia vào hệ thống phân phối hàng hóa còn phải kể đến các tổ chức bổ trợ như vận tải, kho vận, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, quảng cáo, thông tin liên lạc và nghiên cứu thị trường, Các tổ chức bổ trợ là các doanh nghiệp và cá nhân cung cấp cho các thành viên của hệ thống phân phối những công việc phân phối ngoài chức năng mua bán và chuyển quyền sở hữu. Họ ký kết hợp động với những thành viên chính thức của hệ thống phân phối để thực hiện một công việc phân phối nào đó theo nguyên tắc chuyên môn hóa và phân công lao động. Các hệ thống phân phối hàng hóa càng phát triển ở trình độ cao, các tổ chức bổ trợ càng đa dạng và phong phú. Một trong những đặc trưng giữa những nước phát triển và chậm phát triển chính là ở mức độ phong phú của các tổ chức bổ trợ trong phân phối. Nền kinh tế càng phát triển ở trình độ cao, các tổ chức bổ trợ càng nhiều về số lượng và chủng loại. Các tổ chức bổ trợ không chịu trách nhiệm trước kết quả hoạt động của các thành viên chính thức cũng như kết quả cuối cùng của hệ thống phân phối hàng hóa. Tuy nhiên, họ góp phần quan trọng làm cho hệ thống phân phối hàng hóa hoạt động thông suốt và tăng hiệu quả hoạt động của nó. Xu thế phát triển trên thị trường là ngày càng có nhiều tổ chức bổ trợ tham gia vào quá trình phân phối. 3. Tầm quan trọng của hệ thống phân phối hàng hóa với nền kinh tế 3.1. Đối với phát triển kinh tế Hệ thống phân phối hàng hóa từ lâu đã được coi là mạch máu của toàn bộ nền kinh tế. Không chỉ có nhiệm vụ đơn thuần là chuyển hàng hóa từ người sản xuất đến tận tay người tiêu dùng, hệ thống phân phối hàng hóa ngày nay đã trở thành một khâu quan trọng trong chuỗi cung ứng, cung cấp hàng hóa đầu ra và đầu
  27. 15 vào cho các nhà sản xuất. Một nền kinh tế năng động thì điều kiện tiên quyết là phải có một hệ thống phân phối hàng hóa lành mạnh, hoạt động trơn tru. Hiệu quả hoạt động của các kênh phân phối trong hệ thống phân phối hàng hóa cũng gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới đời sống và hoạt động sinh hoạt thường ngày của người dân và ổn định xã hội, đặc biệt là đối với các mặt hàng có tính nhạy cảm cao như xăng dầu, dược phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu, thực phẩm, kim loại quý, Các trung gian trong hệ thống phân phối hàng hóa sẽ làm cung và cầu trên thị trường phối hợp với nhau một cách trật tự và hiệu quả, hàng hóa sẽ đến được bất cứ nơi nào có nhu cầu một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất thông qua các tín hiệu giá cả của thị trường. Do sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng cũng như do có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên và xã hội giữa các vùng nên thị trường giữa các địa bàn có sự khác nhau. Hệ thống kênh phân phối hàng hóa, đặc biệt là hệ thống thu mua nông sản phẩm đồng thời cung ứng hàng hóa cần thiết tới người sản xuất và người tiêu dùng. Qua đó, hệ thống kênh phân phối hàng hóa, đặc biệt với vai trò của các trung gian sẽ tổ chức các kênh mua sản phẩm, đồng thời cung ứng hàng hóa cần thiết đến người sản xuất và người tiêu dùng. Hệ thống phân phối hàng hóa giúp giải quyết sự khác biệt và không trùng khớp về không gian và thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong nền kinh tế có sự khác biệt về không gian giữa sản xuất và tiêu dùng do nhiều người sản xuất tại nhiều địa điểm khác nhau, nhiều người tiêu dùng ở nhiều nơi khác nhau. Hệ thống phân phối giúp xử lý vấn đề này. Về mặt thời gian, vì sản xuất thường không xảy ra cùng thời gian với nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nên phải dự trữ hàng hóa, hơn nữa nhiều hàng hóa sản xuất mang tính thời vụ còn tiêu dùng xảy ra quanh năm hoặc ngược lại. Hệ thống phân phối hàng hóa với hoạt động dự trữ giúp tạo nên sự ăn khớp về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động dự trữ. Hệ thống phân phối hàng hóa sẽ liên kết các thị trường khu vực trong cả nước tạo nên sự hoạt động thống nhất của thị trường chung. Điều này đặc biệt thể hiện được ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh của thập kỷ 90 của thế kỷ trước, khi thị trường trong nước đang chuyển mình từ tình trạng “phân mảnh” rõ rệt sang một thị trường toàn diện, thống nhất giữa các vùng miền từ miền núi tới miền xuôi, từ miền Bắc tới miền Trung và miền Nam, tạo điều kiện phát huy tối đa sức sản xuất trong nước. Đồng thời hệ thống này cũng là công cụ quan trọng để thực hiện những chính sách phát triển thị trường, chính sách mặt hàng và địa bàn, chính sách lưu thông hàng hóa, đặc biệt là chính sách phát triển thị trường miền núi, nông thôn, qua đó phát huy tác dụng làm ổn định thị trường, phát triển kinh tế miền núi và nông thôn, giảm bớt sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn. Hệ thống phân phối hàng hóa tạo điều kiện liên kết giữa thị trường trong nước với thị trường thế giới. Hệ thống phân phối hàng hóa với các trung gian có trình độ chuyên môn hóa cao, thực hiện các chức năng marketing khác nhau ở các mức độ khác nhau, vừa thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa cũng như tìm được thị trường
  28. 16 nguồn, tạo điều kiện cho nhập khẩu có hiệu quả, qua đó liên kết và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Hệ thống phân phối hàng hóa giữ một vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết các mâu thuẫn cơ bản vốn có của nền kinh tế thị trường và nhờ vậy mà góp phần đảm bảo cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển một cách bền vững. Đầu tiên, đó là mâu thuẫn giữa sản xuất khối lượng lớn, chuyên môn hóa với nhu cầu tiêu dùng theo khối lượng nhỏ nhưng đặc biệt và đa dạng. Đó là mỗi nhà sản xuất chuyên môn hóa sản xuất và bán số lượng lớn một hoặc một số hàng hóa, nhưng mỗi người tiêu dùng chỉ mua một số lượng nhỏ của tập hợp hàng hóa. Có mâu thuẫn này là do thị trường là một tập hợp gồm vô số những người tiêu dùng với những nhu cầu và mong muốn rất khác nhau. Xã hội càng phát triển, thu nhập của dân cư càng tăng lên, nhu cầu tiêu dùng càng đa dạng, phong phú. Trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất phải sản xuất khối lượng lớn để đạt hiệu quả kinh tế theo quy mô. Hệ thống phân phối hàng hóa giúp giải quyết tốt sự khác biệt giữa sản xuất quy mô lớn và tiêu dùng đa dạng khối lượng nhỏ bằng cách mua hàng hóa của nhiều nhà sản xuất khác nhau, bán lại cho nhiều người tiêu dùng tại một địa điểm. Hệ thống phân phối hàng hóa giữ vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình tái sản xuất mở rộng xã hội. Hệ thống phân phối hàng hóa ngày càng củng cố vai trò là động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển và đem lại lợi ích to lớn cho người tiêu dùng. Hệ thống phân phối hàng hóa cung cấp cho các đố tượng tiêu thụ đúng chủng loại hàng hóa mà họ cần, đúng thời gian, tại một địa điểm và ở mức giá mà người tiêu dùng chấp nhận. Khi nhu cầu của người tiêu dùng biến đổi không ngừng, hệ thống phân phối có những thông tin phản hồi từ người tiêu dùng để đặt hàng đáp ứng với những thay đổi đó, hệ thống phân phối hàng hóa cũng có thể tác động tới việc tạo nhu cầu mới cho người tiêu dùng thông qua việc bổ sung vào tập hợp hàng hóa của mình những sản phẩm mới, tạo ra nhiều sự lựa chọn khác nhau Qua quá trình phân phối hàng hóa, hệ thống phân phối hàng hóa nắm bắt được nhu cầu thực tế của thị trường cả về sản phẩm, thời gian và không gian nên có thể truyền tải những thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường cho những người sản xuất và cung ứng hàng hóa để điều chỉnh theo những điều kiện của thị trường. 3.2. Đối với hoạt động của các doanh nghiệp Hệ thống phân phối được coi là một trong những khâu quyết định đối với sự thành bại của một doanh nghiệp trên thương trường vì giúp giải quyết đầu ra cho doanh nghiệp. Nếu bộ phận phụ trách phân phối của doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và không áp dụng đầy đủ các nguyên tắc của vận trù học sẽ dẫn đến hai tác hại, thứ nhất là gây tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, hai là gây tắc nghẽn đầu ra của hàng hóa được sản xuất ra. Giá trị gia tăng mà hệ thống phân phối hàng hóa bổ sung vào sản phẩm ngày càng có giá trị lớn, thậm chí còn lớn hơn giá trị sản phẩm. Điều này có thể được minh chứng trong hình thức phân phối đa cấp, giá bán sản phẩm ở các cấp phân phối có thể gấp hàng chục lần giá của nhà sản xuất. Tuy nhiên, hình thức bán
  29. 17 hàng đa cấp là hoạt động phân phối cần được kiểm soát chặt chẽ để đề phòng những hành vi phi pháp (mà các nhà làm luật gọi là các hành vi bán hàng đa cấp bất chính). Hệ thống phân phối hàng hóa hiện nay không chỉ đơn thuần thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa mà còn thể hiện sự kết hợp nhiều ngành dịch vụ khác nhau như dịch vụ quảng cáo, dịch vụ logistics, dịch vụ vận tải, dịch vụ truyền thông góp phần tạo điều kiện thuận lợi nhất để hàng hóa có thể đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Càng ngày, các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu thường có xu hướng tận dụng tối đa các khâu trung gian trong hệ thống phân phối do lợi thế chuyên môn hóa của họ giúp tối thiểu hóa số lần tiếp xúc, giao dịch để thỏa mãn thị trường mục tiêu. Nhờ những kinh nghiệm, mối quan hệ từ chuyên môn hóa và quy mô hoạt động, các trung gian sẽ đem lại lợi ích cho các nhà sản xuất và xuất khẩu trong việc phân phối hàng hóa, dịch vụ nhiều hơn và hiệu quả hơn so với việc họ tự làm lấy. Các trung gian trong hệ thống kênh phân phối làm cho cung và cầu trên thị trường. Hệ thống phân phối hàng hóa có vai trò liên kết giữa người sản xuất với người tiêu dùng và nhờ đó tác động trực tiếp đến lợi nhuận và giá cả cuối cùng, cũng như đến một loạt những lợi ích khác cho người tiêu dùng để có khả năng lựa chọn những sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ và phù hợp nhu cầu nên đang ngày càng trở thành phương tiện cạnh tranh hữu hiệu của các doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua hệ thống kênh phân phối hàng hóa mà quá trình chuyển dịch hàng hóa gắn liền với nhu cầu thực tế của thị trường cả về sản phẩm, thời gian và không gian nên có thể chuyển tải những thông tin cần thiết về nhu cầu cho người sản xuất để điều chỉnh theo những điều kiện của thị trường. Trước sức ép cạnh tranh gay gắt của quá trình tự do hóa thương mại, yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống phân phối hàng hóa cho các doanh nghiệp Việt Nam mà trước hết là yêu cầu phát huy vai trò của thương mại để tăng cường năng lực hướng dẫn sản xuất định vào nhu cầu của thị trường và tạo ra các tiền đề của phát triển sản xuất trong nước, được đặt ra như một yêu cầu bức xúc của quản lý kinh tế ở nước ta. Vì vậy, bằng việc định hình và tăng cường hiệu quả cho các hoạt động chức năng của hệ thống phân phối hàng hóa mà Nhà nước tạo lập nên những cầu nối để dẫn dắt người sản xuất định hướng vào nhu cầu của thị trường. Hệ thống phân phối hàng hóa còn đóng vai trò chức năng tài chính cung cấp tiền mặt và tín dụng cần thiết cho hoạt động sản xuất hàng hóa. Hiệu quả của việc thực hiện chức năng này tùy thuộc vào tiềm lực tài chính của các thành viên trong hệ thống phân phối hàng hóa và quan hệ của họ với các nhà sản xuất. Hệ thống phân phối hàng hóa còn giữ vai trò như là người chia sẻ rủi ro với các nhà sản xuất. Nếu trước kia, các nhà sản xuất tự phân phối hàng hóa do mình sản xuất ra thì hiện nay một số thành viên của hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại (như siêu thị) đã bắt đầu tự kinh doanh rủi ro. Họ thường mua đứt hàng hóa của các doanh nghiệp (với giá thấp) sau đó tự chịu trách nhiệm về bảo hành, vận chuyển hàng hóa cho khách hàng nhằm thu được lợi nhuận cao hơn.
  30. 18 3.3. Đối với ngƣời tiêu dùng Hệ thống phân phối hàng hóa mang lại những tiện ích rất to lớn cho người tiêu dùng. Vai trò đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy là hệ thống phân phối hàng hóa có nhiệm vụ là kênh lưu thông hàng hóa để vận chuyển tới tay người tiêu dùng. Thông qua hệ thống phân phối hàng hóa, người tiêu dùng có thể chủ động và dễ dàng lựa chọn những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của mình. Không chỉ đơn thuần là kênh vận chuyển hàng hóa, hệ thống phân phối hàng hóa còn có có nhiệm vụ quan trọng trong việc tiêu chuẩn hóa và phân loại liên quan đến sắp xếp hàng hóa theo chủng loại và số lượng mà người tiêu dùng mong muốn. Chức năng này của hệ thống phân phối hàng hóa tạo điều kiện cho hoạt động mua hàng được dễ dàng và giảm được thời gian kiểm tra và lựa chọn. Tiêu chuẩn hóa là công việc tìm kiếm các sản phẩm đồng nhất từ các nhà sản xuất có thể thay thế cho nhau. Sau đó sản phẩm được tập trung thành khối lượng lớn ở những địa điểm nhất định. Để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng, sản phẩm được phân chia theo nhóm hàng hóa giống nhau hoặc có liên quan để người tiêu dùng có thể dễ dàng chọn lựa và sử dụng. Phân loại giúp giải quyết vấn đề khác biệt giữa sản phẩm sản xuất và tiêu dùng. Hệ thống phân phối hàng hóa hoạt động tốt giúp người tiêu dùng tiếp cận với hàng hóa dễ dàng hơn và tạo ra nhiều lựa chọn hơn đối với người tiêu dùng. Đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên nghiệp trong hệ thống phân phối hàng hóa hiện đại đóng vai trò là người hướng dẫn, tư vấn khách hàng trong tiêu dùng hàng hóa một cách hiệu quả, đặc biệt là các đối tượng có ít hiểu biết về hàng hóa như nam giới, trẻ em, người già, 4. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với hệ thống phân phối hàng hóa trong nƣớc 4.1. Lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế Trong nội dung của luận văn, thuật ngữ hội nhập kinh tế được sử dụng để chỉ quá trình gắn kết nền kinh tế và thị trường quốc gia với kinh tế và thị trường thế giới và khu vực thông qua các biện pháp tự do hóa kinh tế và mở cửa thị trường. Theo đó, tự do hóa thương mại (loại bỏ các rào cản đối với thương mại hàng hóa và dịch vụ) chỉ là một nội hàm của liên kết/hội nhập kinh tế quốc tế. Liên kết/hội nhập còn bao hàm những nội hàm rộng và cao hơn tự do hóa thương mại (tự do hóa đối với cả sự lưu chuyển của các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh như vốn, công nghệ, nhân công, sự hài hòa và thống nhất về các chính sách kinh tế ). Ngày nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế là việc gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại và liên kết kinh tế đang là trào lưu nổi bật thì hội nhập kinh tế quốc tế không những ngày càng trở thành một xu thế khách quan mà còn đóng vai trò là một công cụ hữu hiệu để phát triển nhanh và bền vững nếu được nắm bắt và vận dụng một cách tích cực. Xu hướng chung hiện nay của các quốc gia và các tổ chức kinh tế-tài chính- thương mại quốc tế là tăng cường mở cửa, bang giao kinh tế thông qua đàm phán cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào cản trở thương mại, các hình thức cạnh
  31. 19 tranh không lành mạnh trong thương mại, mở cửa các lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh để tạo thuận lợi cho thương mại Về mức độ hội nhập kinh tế, theo nhà kinh tế học người Anh Balassa, có 5 mô hình từ thấp đến cao như sau: - Khu vực mậu dịch tự do: Đây là giai đoạn thấp nhất của tiến trình hội nhập kinh tế. Ở giai đoạn này, các nền kinh tế thành viên tiến hành giảm và loại bỏ dần các hàng rào thuế quan, các hạn chế định lượng và các biện pháp phi quan thuế trong thương mại nội khối. Tuy nhiên, họ vẫn độc lập thực hiện chính sách thuế quan đối với các nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), - Liên minh thuế quan: Đây là giai đoạn tiếp theo trong tiến trình hội nhập. Tham gia vào liên minh thuế quan, các thành viên ngoài việc hoàn tất việc loại bỏ thuế quan và các hạn chế về số lượng trong thương mại nội khối, phải cùng nhau thực hiện một chính sách thuế quan chung đối với các nước ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và Liên minh Thuế quan giữa Cộng đồng Kinh tế Châu Âu, Phần Lan, Áo, Thụy Điển, - Thị trường chung: Là mô hình liên minh thuế quan cộng thêm với việc bãi bỏ các hạn chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác. Như vậy, trong một thị trường chung, không những hàng hóa, dịch vụ mà hầu hết các nguồn lực khác (vốn, kỹ thuật, công nghệ, nhân công ) đều được tự do lưu chuyển giữa các nước thành viên. Ví dụ, Cộng đồng Kinh tế Châu Âu trước đây. - Liên minh kinh tế: là mô hình hội nhập ở giai đoạn cao dựa trên cơ sở mô hình thị trường chung cộng thêm việc phối hợp các chính sách kinh tế giữa các nước thành viên. Ví dụ: Liên minh Châu Âu (EU) - Liên minh toàn diện: Là giai đoạn cuối cùng của quá trình hội nhập. Các thành viên thống nhất về chính trị và các lĩnh vực kinh tế, bao gồm cả lĩnh vực tài chính, tiền tệ, thuế và các chính sách xã hội. Như vậy, ở giai đoạn này, quyền lực quốc gia ở các lĩnh vực trên được chuyển giao cho một cơ chế cộng đồng. Sơ đồ I.3. : Các cấp độ hội nhập kinh tế khác nhau Thị trường Liên minh Liên minh Liên minh Khu vực mậu dịch chung toàn diện tự do thuế quan kinh tế
  32. 20 4.2. Tổng quan tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Phù hợp với tiến trình đổi mới và đứng trước những đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế và kinh tế trong nước, Đại hội Đảng lần thứ VII đã chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới của nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) đã quyết định “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII (29/12/1997) đã nêu nguyên tắc hội nhập quốc tế của ta là “tích cực và chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế” và nhấn mạnh nhiệm vụ “chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp, và nhất là các sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và quốc tế”. Với chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế nói trên, sau khi khai thông quan hệ với các Tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) năm 1992, ngày 25/7/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và ký Nghị định thư tham gia Hiệp định CEPT/AFTA, từ 1/1/1996 đã bắt đầu thi hành nghĩa vụ thành viên AFTA. Việt Nam cũng là 1 trong số 25 thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3/1996, và tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11/1998. Ngày13/7/2000, Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ được chính thức ký kết đã đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Ngày 7/11/2006, trải qua 11 năm đàm phán, Việt Nam đã chính thức được kết nạp là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, gia nhập “sân chơi” thương mại toàn cầu. Việc Việt Nam tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế, thương mại ở khu vực và thế giới đòi hỏi chúng ta phải từng bước mở cửa thị trường và tự do hóa thương mại theo các quy định chung của từng loại tổ chức. . Đối với AFTA, Việt Nam đã cam kết và đang thực hiện lộ trình cắt giảm thuế theo CEPT. Đến 1/1/2006, Việt Nam đã phải hoàn thành việc thực hiện cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA. Do vậy, đến thời điểm này hầu hết các sản phẩm (khoảng 97%-98%) nhập khẩu từ ASEAN sẽ có thuế suất CEPT từ 0-5%. Chỉ còn một số ít sản phẩm nằm trong các Danh mục Nhạy cảm, Nhạy cảm cao và Loại trừ (nhóm các sản phẩm không phù hợp với nguyên tắc WTO như thuốc lá, ôtô) Các mặt hàng này cũng đã bắt đầu được giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc vào 1/1/2003 với thuế suất cuối cùng bằng 0 đến 5%. Việt Nam cũng đang thực hiện việc dỡ bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư và thương mại dịch vụ hướng tới mục tiêu thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015 . Đối với diễn đàn APEC, ASEM nguyên tắc chung của hợp tác là các bên cùng đặt ra thời hạn, mục tiêu và không ràng buộc bởi một lộ trình cụ thể, các nước tự nguyện, linh hoạt xây dựng lộ trình và thực hiện.
  33. 21 . Tới nay, nước ta đã ký kết hơn 100 Hiệp định thương mại song phương và đang đàm phán, ký kết một số Hiệp định thương mại tự do trong khuôn khổ đàm phán giữa ASEAN và các đối tác. 4.3. Xu hướng phát triển của hệ thống phân phối hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu đặt ra với Việt Nam 4.3.1. Xu hướng phát triển của hệ thống phân phối hàng hóa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong từng quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu là tác nhân dẫn tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra với tốc độ nhanh. Ở các nước phát triển, nền kinh tế đã chuyển đổi từ cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp sang cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Tỉ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP ở các nước phát triển tăng nhanh và hiện chiếm khoảng 70 - 80 %. Trong các nền kinh tế này, dịch vụ phân phối hàng hóa có tác động rất lớn và là một phận rất quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Một sản phẩm từ lúc nghiên cứu đến khi đưa ra thị trường có 3 công đoạn chính: xác định nhu cầu - tổ chức sản xuất và cuối cùng là tiến hành tiêu thụ. Thay vì trước đây, các nước phát triển chỉ quan tâm đến sản xuất thì nay chuyển công đoạn này sang các nước kém phát triển, nơi có các yếu tố đất đai, lao động rẻ thông qua con đường tự do hoá đầu tư. Các tập đoàn đa quốc gia tập trung khai thác các phát minh, sáng chế, kiểu dáng, giải pháp hữu ích (gắn với đăng ký độc quyền và bảo hộ sở hữu trí tuệ) và đưa sản phẩm đó vào một hệ thống phân phối mạnh cùng với việc triển khai các chiến dịch tuyên truyền, giới thiệu hàng hóa và phương thức phục vụ khách hàng, khuyến mại và quảng bá thương hiệu một cách chuyên nghiệp theo đó, sản phẩm sẽ được tiêu thụ với giá cao hơn nhiều lần so với giá thành sản xuất. Vì vậy, hệ thống phân phối hàng hóa ngày càng trở nên quan trọng, có ý nghĩa quyết định và được các nước phát triển đặc biệt quan tâm. Cách mạng khoa học công nghệ đã và đang phát triển ngày càng mạnh mẽ. Trải qua nhiều thập kỷ, cuộc khoa học kỹ thuật phát triển ngày càng phát triển với những bước tiến bộ vượt bậc. Đến cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, công nghệ thông tin đã có những bước “đột phá”. Trên thực tế, sự phát triển của công nghệ thông tin có những tác động không nhỏ tới hệ thống phân phối, xét cả về cấu trúc và hoạt động. Hình thức phân phối qua mạng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng thể về hệ thống phân phối. Việc sử dụng Internet và các ứng dụng của nó làm thay đổi các thành viên của hệ thống phân phối, các kênh phân phối, phương thức thanh toán và tốc độ lưu chuyển của dòng hàng hóa trong hệ thống phân phối. Trong công nghệ thông tin, hoạt động phân phối trên mạng Internet (e-distribution) sẽ làm biến đổi cách thức, tập quán phân phối hàng hóa. Các khái niệm về các nhà phân phối lớn hay nhỏ sẽ có những thay đổi bởi người ta không đánh giá doanh nghiệp phân phối hàng hóa qua số lượng công nhân hay số lượng điểm phân phối mà chủ yếu dựa vào kết quả kinh doanh. Doanh thu của Ebay, công ty phân phối dưới hình thức đấu giá trực tuyến lớn nhất thế giới đạt 7,5 tỷ USD trong năm 2007 và duy trì được tốc độ
  34. 22 tăng trưởng từ 30-40% trong những năm gần đây. Trong tương lai, việc mở rộng các điểm, các đại lý phân phối ra các khu vực địa lý có thể sẽ giảm, các điểm phân phối ảo trên internet sẽ trở thành xu hướng nổi trội. Thế giới đang tiến tới một nền kinh tế tri thức, một nền kinh tế số. Đây là nền kinh tế mà hàm lượng tri thức trong các sản phẩm đạt mức cao. Điều này mang đến những thay đổi cơ bản trong hệ thống phân phối toàn cầu. Là một nền kinh tế đang phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi, hệ thống phân phối hàng hóa của các quốc gia cũng cần được “số hóa” trên hai khía cạnh là tăng cường tính hiệu quả thông qua việc ứng dụng công nghệ thống tin Toàn cầu hoá ngày nay gắn liền với sự mở rộng thị trường theo các định chế song phương, khu vực và toàn cầu. Thông qua các cam kết về mở cửa thị trường mà sự phát triển của các tập đoàn xuyên quốc gia và đa quốc gia trong lĩnh vực phân phối ngày càng lớn mạnh. Sự hình thành nên các hãng phân phối lớn xuyên quốc gia và đa quốc gia có mạng lưới phủ khắp toàn cầu đã trở thành một thế lực mạnh, áp đặt cuộc chơi cho các nhà sản xuất. Nếu Việt Nam không sớm củng cố, phát triển hệ thống phân phối hàng hóa trong nước tốt trước khi mở cửa thị trường thì Việt Nam chỉ có thể hưởng lợi trong thu hút nguồn vốn FDI do quá trình phân công lại cơ cấu sản xuất trên phạm vi toàn cầu, còn việc để các tập đoàn phân phối nước ngoài vào và chi phối thị trường trong nước là điều khó tránh khỏi trong một tương lai gần. Từ chi phối về phân phối sẽ dẫn đến chi phối về sản xuất. Các nhà sản xuất Việt Nam (chủ yếu có qui mô nhỏ) khó tạo ra lợi nhuận cao để có thể tích tụ, mở rộng qui mô do giá trị gia tăng trong công đoạn sản xuất ngày một thấp, nhất là sản xuất chỉ dừng ở dạng gia công, lắp ráp, thậm chí còn gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm nếu không liên kết được với hệ thống phân phối hàng hóa trong nước. Trong bối cảnh đó, xu hướng phát triển chung của hệ thống phân phối hàng hóa diễn ra ở các nước từ những năm giữa thập kỷ 90 đến nay là:  Tập trung hóa hệ thống phân phối hàng hóa ngày càng cao. Trong bán lẻ, xuất hiện sự thay thế các cửa hàng qui mô nhỏ, độc lập bằng những hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm Qui mô trung bình của các loại hình này (diện tích, doanh số, lao động ) tăng lên đồng thời mật độ của chúng giảm xuống; ngày càng xuất hiện nhiều siêu thị, đại siêu thị và trung tâm thương mại có qui mô cực lớn, kinh doanh theo chuỗi. Sự xuất hiện các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối làm cho mối quan hệ giữa nhà sản xuất, bán buôn và bán lẻ ngày càng chặt chẽ và mật thiết, tạo ra một hệ thống phân phối hàng hóa chuyên nghiệp, liên hoàn, ngày càng hiệu quả  Phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại phát triển, tạo ra cơ hội liên kết các cửa hàng độc lập, có qui mô nhỏ vào cùng một hệ thống có qui mô lớn hơn với sức cạnh tranh và chất lượng dịch vụ cao hơn  Thương mại điện tử là một xu hướng giao dịch mua bán mới, hiện đại, xuất hiện trong thời đại “số hóa” giúp cho khách hàng giao dịch rất nhanh, nhà kinh doanh giảm chi phí mở cửa hàng trong khi vẫn tăng được số lượng khách hàng (kể
  35. 23 cả khách hàng ngoài biên giới quốc gia) với tần suất giao dịch gần như là không giới hạn trong một khoảng thời gian cực ngắn  Các phương thức quản lý mới, tiên tiến (xây dựng thương hiệu, tự động hoá qui trình công nghệ kinh doanh ) phát triển với tốc độ nhanh nhờ ứng dụng các tiến bộ của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, thay thế ngày càng mạnh cho các phương thức quản lý, phương thức giao dịch và loại hình tổ chức kinh doanh truyền thống Hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang tới những thay đổi to lớn lớn về kinh tế, chính trị và khoa học công nghệ, từ đó tác động tới hệ thống phân phối hàng hóa thể hiện ở việc các nhà sản xuất buộc phải đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm đã sản xuất ra, các nhà phân phối đòi hỏi phải tổ chức tốt quá trình lưu thông hàng hóa để tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận, người tiêu dùng đòi hỏi phải có sự lựa chọn dễ dàng hơn khi mua sắm hàng hóa và yêu cầu hàng hóa phải đảm bảo về chất lượng, có thương hiệu, có giá cả hợp lý. Vai trò của Nhà nước ngày càng phải được phát huy đối với lĩnh vực quan trọng là lưu thông hàng hóa và điều tiết thị trường. Để thực hiện chức năng nhà nước đối với lĩnh vực lưu thống hàng hóa, Nhà nước phải định hướng, hỗ trợ, thúc đẩy và điều tiết toàn bộ dòng chảy của hệ thống phân phối, đặc biệt là đối với các mặt hàng quan trọng phục vụ cho sản xuất và đời sống, cũng như an ninh quốc gia đồng thời cần dự báo các tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới hệ thống phân phối hàng hóa. Các công ty của các quốc gia có quyền phân phối tự do ở các thị trường đối với các mặt hàng đã được các quốc gia cam kết trong khuôn khổ các cam kết đa phương và khu vực. Xu thế này đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước về hệ thống phân phối và các doanh nghiệp phân phối nội địa phải có những đối sách thích hợp trong tình hình mới. 4.3.2. Yêu cầu đặt ra đối với hệ thống phân phối hàng hóa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Trước xu hướng đó, Việt Nam cần phải phát triển một hệ thống phân phối hàng hóa đồng bộ và hiện đại, tương thích với xu thế chung, nếu không muốn sa vào nguy cơ tụt hậu, thậm chí bị “bỏ rơi” trong lĩnh vực này. Cụ thể, đối với Việt Nam khi đã hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hoá cho nền kinh tế được đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết, không để xảy ra tình trọng khan hiếm hàng hoá, sốt giá, sốt hàng hay đầu cơ tích trữ hàng hoá để lợi dụng tăng giá. Đây là một nhiệm vụ mang tính chiến lược trong bối cảnh nhu cầu của người tiêu dùng trong nước ngày càng tăng do sự gia tăng dân số, nhu cầu của người sản xuất về nguyên vật liệu đầu vào cũng ngày càng gia tăng cùng với tốc độ phát triển kinh tế. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta là phụ thuộc đầu vào nhập khẩu. Trong bối cảnh nguồn cung các mặt hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết biến động thất thường, thiên tai, bão lụt do sự biến đổi khí hậu toàn cầu và dự trữ lương thực cạn kiệt, các mặt hàng chiến lược làm đầu vào cho nền kinh tế như xăng dầu, sắt thép, chịu sự ảnh hưởng sâu sắc với giá cả
  36. 24 trên thị trường thế giới. Nếu kiểm soát được hệ thống phân phối hàng hóa, đồng nghĩa với việc Nhà nước có thể kiểm soát được giá cả và cung cầu, giải tỏa được áp lực về cung cầu trong những hoàn cảnh khó khăn, giúp bình ổn thị trường. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các nhà lãnh đạo của hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam cần đảm bảo khả năng bao quát thị trường. Trong điều kiện này, do các đặc tính của sản phẩm hàng hóa môi trường kinh doanh, nhu cầu và kỳ vọng của khách hàng thay đổi theo chiều hướng quốc tế hóa nên mức độ bao phủ thị trường trong của hệ thống phân phối hàng hóa cũng được đa dạng hóa. Mức độ bao phủ thị trường có thể thay đổi trong các phương thức phân phối rộng rãi, phân phối có chọn lọc và phân phối đặc quyền. Trong phân phối rộng rãi, nhà lãnh đạo của các kênh phân phối đơn trong hệ thống sẽ cố gắng để đạt được quan hệ kinh doanh với ngày các nhiều thành viên kênh càng tốt. Hầu hết các loại hàng hóa tiện dụng, có giá trị thấp và tần suất lặp lại trong mua sắm của khách hàng cần phải căn cứ vào yêu cầu này để tổ chức hệ thống. Trong phân phối chọn lọc, các nhà lãnh đạo của hệ thống sẽ sử dụng một số lượng hạn chế các thành viên có khả năng. Để lựa chọn các thành viên, người ta thường đưa ra một số tiêu chuẩn đối với thành viên như phạm vi thị trường, điều kiện cơ sở vật chất, kinh nghiệm trong bán hàng thuộc lĩnh vực mà nhà lãnh đạo kênh quan tâm, tổ chức và danh tiếng của thành viên đó, điều kiện tài chính Trong phân phối đặc quyền, nhà lãnh đạo của hệ thống phân phối sản phẩm thông qua một số Tổng đại lý hoặc đại lý đặc quyền nhất định. Những sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật cao đòi hỏi phải có các nhà bán hàng chuyên nghiệp, hoặc những mặt hàng có khối lượng lớn, phạm vi chiếm chỗ trong các kho hàng lớn rất thích hợp với hệ thống phân phối này. Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu đảm bảo cho dòng chảy hàng hóa thông suốt với tốc độ cao và bền vững. Cùng với tốc độ hội nhập ngày càng mạnh mẽ, luồng hàng hóa lưu chuyển trong hệ thống phân phối hàng hóa trong nước ngày càng được tăng cường cả về khối lượng và tốc độ. Điều này đòi hỏi hệ thống phân phối phải được hoàn thiện tương xứng. Nói một cách khác là mạng lưới phân phối phải đủ mạnh và nằm trong tầm kiểm soát của người lãnh đạo hệ thống phân phối. Để thực hiệt tốt công việc phân phối hàng hóa đến người tiêu dùng, hệ thống phân phối phải có các kênh phân phối hiệu quả và khả năng, vị trí lưu trữ hàng hóa tốt. Hệ thống phân phối có các kho hàng rải đều ở các vị trí thị trường chiến lược bao giờ cũng vận hành hiệu quả hơn những hệ thống phân phối khác trong việc đáp ứng nhu cầu của thị trường ngay cả vào mùa cao điểm. Một điểm quan trọng khác là một kho chứa hàng đủ lớn thường cho phép tiếp nhận được một khối lượng hàng lớn do chi phí vận chuyển trên đơn vị thấp hơn những người chỉ có thể tiếp nhận một khối lượng hàng nhỏ hơn. Việc đảm bảo mức độ và yêu cầu kiểm soát và điều khiển các kênh phân phối hàng hóa cũng là một yêu cầu then chốt đặt ra đối với hệ thống phân phối hàng
  37. 25 hóa trong nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Khi thị trường trong nước bước vào quá trình hội nhập, giá cả của nhiều mặt hàng quan trọng đối với cuộc sống của người dân như xăng dầu, vàng, dược phẩm, nông sản phẩm, vật liệu xây dựng sẽ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động trên thị trường thế giới. Để có thể khống chế biến động giá của những mặt hàng này ở trong một biên độ hợp lý đòi hỏi nhà lãnh đạo của hệ thống phân phối phải thể hiện được sức mạnh điều khiển hệ thống. Có một số cơ sở sức mạnh sau: * Sức mạnh áp đặt: Là khả năng nhà lãnh đạo hệ thống buộc các thành viên khác phải tuân thủ yêu cầu của thành viên cấp cao hơn * Sức mạnh hợp pháp: Đây là khả năng của một thành viên hệ thống có quyền hợp pháp hóa ảnh hưởng đến các thành viên khác thông qua phân cấp; * Sức mạnh thừa nhận: Đây là sức mạnh có được do các thành viên khác chấp nhận lợi ích mà nhà lãnh đạo hệ thống dành cho họ; * Sức mạnh chuyên môn: Đây là sức mạnh có được do các thành viên trong hệ thống có kiến thức quản lý hoặc nắm được bí quyết kinh doanh khiến các thành viên khác trong hệ thống phải học tập Hội nhập kinh tế quốc tế cho phép Việt Nam tranh thủ những ưu đãi về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ mỗi tổ chức, góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sản phẩm Việt Nam thâm nhập thị trường các nước từ đó thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ Việt Nam. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế cũng đồng nghĩa với việc tăng khả năng tiếp cận thị trường cho hàng hóa có xuất xứ nước ngoài. Để tối ưu hóa lợi nhuận, các nhà phân phối hqntr hơq nước ngoài sẽ có xu hướng xây dựng hệ thống phân phối độc lập để phân phối hàng hóa được nhập khẩu theo mức thuế quan ưu đãi. Các nhà phân phối nước ngoài sẽ lựa chọn hai hình thức phân phối chủ đạo là tự xây dựng một hệ thống phân phối hàng hóa mới trên thị trường hoặc thâu tóm và tận dụng hệ thống phân phối của các doanh nghiệp Việt Nam có sẵn trên thị trường. Trong đó, lựa chọn thứ hai thường dành được ưu tiên của các doanh nghiệp nước ngoài. Sự đa dạng của các thành viên của hệ thống phân phối với sự góp mặt của các doanh nghiệp nước ngoài sẽ đặt doanh nghiệp phân phối trong nước và các hộ kinh doanh cá thể nhỏ lẻ trước sức cạnh tranh gay gắt trên thị trường nội địa và đòi hỏi nhà nước phải hoàn thiện kỹ năng quản lý để đảm bảo hoạt động thông suốt của cả hệ thống phân phối. Thông qua đó các doanh nghiệp trong hệ thống sẽ vừa bắt buộc vừa có điều kiện cơ cấu lại theo hướng nâng cao hiệu quả và thích nghi với điều kiện và đòi hỏi khắt khe của thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế và mở cửa thị trường phân phối hàng hóa đặt ra yêu cầu đối với chúng ta phải hoàn thiện hành lang pháp lý để thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó bao gồm hệ thống luật pháp để hệ thống theo hướng rõ ràng, phù hợp với các thông lệ quốc tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh, kích thích sản xuất-kinh doanh trong nước và mở rộng hợp tác kinh tế thế giới.
  38. 26 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA TRONG NƢỚC I. Tổng quan hệ thống phân phối hàng hóa trong nƣớc Trong từng thời kỳ lịch sử với những điều kiện kinh tế-xã hội, các mục tiêu kinh tế cụ thể, các chương trình kinh tế lớn cũng như các chính sách của Đảng và Nhà nước đã quyết định sự hình thành, quy mô hoạt động và tính chất của hệ thống phân phối hàng hóa trong nước. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu bao cấp, hoạt động trên thị trường bị “bóp méo” và không tuân theo những quy luật khách quan. Trong thời kỳ này, hệ thống phân phối trong nước được đặt dưới sự tổ chức của nhà nước, một mặt để thu mua hàng nông sản thực phẩm, một mặt để cung cấp hàng tiêu dùng thiết yếu cho cuộc sống. Sản xuất được thực hiện theo kế hoạch và tiêu chuẩn cấp phát. Do vậy, không cần thiết phải có nhiều kênh trung gian để kết nối người sản xuất và người tiêu dùng, hầu như không cần thông tin phản hồi từ người tiêu dùng đến người sản xuất, không cần phải có những hoạt động xúc tiến thúc đẩy mua bán và do vậy thị trường hàng hóa không hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để phát triển. Vào cuối thập kỷ 80, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một khâu đột phá hết sức quan trọng trong giai đoạn này là thực hiện chính sách tự do lưu thông hàng fhóa. Tình trạng “ngăn sông cấm chợ” giữa các địa phương trong cả nước chính thức được xóa bỏ. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được phát triển mạnh mẽ nhằm khai thác, huy động tất cả các nguồn lực trong nền kinh tế, các kênh phân phối hàng hóa được phát triển mạnh mẽ các chiều rộng và chiều sâu, tác động quyết định tới sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hóa. Trong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với sự sẵn có của các hàng hóa trên thị trường, với sự cạnh tranh khốc liệt để bán được nhiều hàng thì việc xây dựng và phát triển một hệ thống phân phối toàn diện của một quốc gia có một ý nghĩa hết sức quan trọng để phát triển thị trường trong nước cũng như vươn ra thị trường ngoài nước. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 7-8 %/năm trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất tại Châu Á. Kinh tế tăng trưởng đã khiến cho ngành phân phối hàng hoá cũng có mức tăng trưởng khá và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế vĩ mô. Lĩnh vực dịch vụ phân phối hiện nay có mức đóng góp cao vào GDP của nước ta (khoảng 14%), chỉ sau ngành công nghiệp chế biến và nông nghiệp.
  39. 27 Bảng II.1.: Tỷ trọng các ngành trong nền kinh tế năm 2007 14% 49% 20% DÞch vô ph©n phèi C«ng nghiÖp chÕ biÕn N«ng nghiÖp Ngµnh kh¸c 17% Nguồn: Tổng cục Thống kê Hệ thống phân phối hàng hóa của Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để phát triển. Thu nhập không ngừng được nâng cao của người dân Việt Nam đã mở rộng nhu cầu và khả năng tiêu dùng của toàn xã hội Việt Nam nói chung và người dân nói riêng đặc biệt tại những nơi có tốc độ đô thị hoá cao như tại các thành phố và các khu kinh tế là tiền đề để phát triển và mở rộng mạnh mẽ hệ thống phân phối hàng hóa. Theo số liệu của World Bank, tốc độ tăng thu nhập bình quân của Việt Nam trong các năm 2003 và 2004 là 11,63% và 14,58%, tốc độ này tại các đô thị và các thành phố lớn chắc chắn còn cao hơn nhiều. Theo số liệu của Công ty KPMG, GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay là 800 USD, nhưng nếu tính cả những thu nhập chưa được thống kê hết, con số này có thể đạt mức trên 1.000 USD. Tại các thành phố lớn như Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, con số này thậm chí còn có thể cao gấp đôi. Chính mức tiêu thụ bình quân đầu người ngày càng cao đã tạo điều kiện cho hệ thống phân phối Việt Nam ngày càng phát triển. Xét riêng về hoạt động bán lẻ, theo số liệu của Tổng Cục Thống kê, tổng mức bán lẻ của toàn xã hội giai đoạn 1995-2004 tăng trưởng từ 8-20%/năm. Bên cạnh yếu tố tăng trưởng kinh tế, quy mô dân số trên 84 triệu dân với cơ cấu dân số trẻ sẽ tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho ngành phân phối của Việt Nam tiếp tục triển mạnh trong tương lai. Đối với các doanh nghiệp, để phát triển sản phẩm của mình với doanh thu cao và chiếm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, các doanh nghiệp nhất định phải thiết lập được hệ thống phân phối bán lẻ hoạt động có hiệu quả, luôn luôn đổi mới cho phù hợp với biến động của thị trường và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh. Quy mô của hệ thống phân phối tại Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ và ngày càng có những ảnh hưởng quyết định tới tiêu dùng và sản xuất.
  40. 28 Chính phủ đặt mục tiêu tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng mức tiêu thụ hàng hoá đến 2010 đạt 11%/năm, các giai đoạn tiếp theo đạt trên 10%/năm . Bảng II.2.: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trên thị trƣờng trong nƣớc giai đoạn 2003-2007 Đơn vị: tỷ VNĐ 800000 726113 700000 580710 600000 500000 450900 400000 374400 297273 300000 200000 100000 0 2003 2004 2005 2006 2007 Nguồn: Tổng cục Thống kê Các kênh phân phối trong hệ thống phân phối hàng hóa của nước ta đang hình thành và phát triển chịu ảnh hưởng đan xen giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, giữa sản xuất lớn, hiệu quả mới manh nha và sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún, giữa quan hệ thị trường thực sự và quan hệ thị trường chưa đầy đủ. Mạng lưới kênh phân phối của các doanh nghiệp Việt Nam mang các đặc trưng cơ bản của một nền kinh tế đang phát triển, đang chuyển đổi. Song song tồn tại trên thị trường là những kênh phân phối đơn, kênh phân phối truyền thống và những hệ thống liên kết dọc mới manh nha. Phần lớn các quan hệ phân phối đang được thực hiện qua các thị trường trung tâm nhưng đã và đang xuất hiện các hệ thống phân phối nhiều cấp độ. Trên thị trường, các kênh phân phối đan xen nhau tạo nên mạng lưới các dòng chảy hàng hóa nhiều chiều và nhiều cấp độ. Hệ thống phân phối hàng hóa trong nước gồm các kênh trực tiếp, kênh qua thị trường trung tâm và các hệ thống kênh phân phối nhiều cấp độ trung gian. Khi chuyển đổi qua cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp phải tự tìm cách tiêu thụ sản phẩm thông qua việc xây dựng các cửa hàng trực tiếp giới thiệu và bán sản phẩm để tiêu thụ sản phẩm của họ. Theo số liệu điều tra của Bộ Công Thương, trên thị trường khách hàng công nghiệp, tỷ lệ hàng hóa phân phối trực tiếp chiếm tỷ trọng khá lớn (sắt thép: 40%, xi măng: 30%, sơn: 50% ). Trên thị trường phân phối hàng tiêu dùng cá nhân, tỷ lệ hàng phân phối trực tiếp thấp hơn (điện tử: 10-15%, săm lốp xe đạp-xe máy: 17,6%, điện lạnh: 20%) Một đặc điểm nổi bật của hệ thống phân phối hàng hóa nước ta là phần lớn các kênh phân phối trong hệ thống phân phối hàng hóa trên thị trường Việt Nam là kênh
  41. 29 gián tiếp, có nhiều trung gian thương mại, hoạt động ở thị trường trung tâm là chủ yếu. Các trung tâm buôn bán, các chợ tập trung nhiều hàng hóa và và các trung gian thương mại. Các trung tâm này tập trung hàng triệu người buôn bán với quy mô nhỏ. Ngoài ra còn có sự xuất hiện của các kênh đơn, kênh truyền thống và một số kênh phân phối có hình thức là kênh liên kết dọc. Phần lớn hàng hóa lưu thông qua các kênh tự chảy theo cơ chế thị trường tự do dựa trên tín hiệu cung-cầu và giá cả thị trường để tới người tiêu dùng cuối cùng. Để tiêu thụ sản phẩm, mọi loại hình doanh nghiệp đều tìm cách đưa hàng hóa của mình vào tất cả các kênh phân phối một cách tự phát, chưa chủ động lựa chọn kênh phân phối theo yêu cầu của thị trường mục tiêu. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, xóa bỏ chế độ bao cấp lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, các hình thức phân phối ở nước ta ngày càng đa dạng gồm phân phối qua đại lý, nhượng quyền thương mại, bán lẻ, . Qua khảo sát của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương), ở nước ta hiện có một số hệ thống phân phối hàng hóa đối với một số mặt hàng cụ thể như sau: Sơ đồ II.1.: Hệ thống phân phối hàng nông sản và thực phẩm Nhà sản xuất Bán buôn Bán buôn (công (hộ nông dân, HTX, nông (thƣơng lái, thu ty, hộ kinh trƣờng) gom, ) doanh, ) Khách hàng Bán lẻ (cửa hàng, sạp hàng, siêu thị, ) Sơ đồ II.2.: Hệ thống phân phối hàng công nghiệp tiêu dùng thông thƣờng Nhà sản xuất Bán buôn Bán buôn (cấp (nhà máy, (cấp I) II) HTX, ) Khách hàng Bán lẻ (cửa hàng, sạp hàng, siêu thị, )
  42. 30 Sơ đồ II.3.: Hệ thống phân phối hàng công nghiệp tiêu dùng lâu bền Nhà sản xuất Nhà phân phối Nhà phân phối (nhà máy) (cấp I) (cấp II) Khách hàng Bán lẻ (cửa hàng) Sơ đồ II.4.: Hệ thống phân phối hàng chuyên ngành Nhà sản Công ty thƣơng Nhà phân phối xuất (nhập mại trực thuộc, (cấp I) khẩu) chi nhánh Khách hàng Cửa hàng bán Nhà phân phối lẻ (trực thuộc, (cấp II) độc lập) Xét riêng về dịch vụ bán lẻ, theo xếp hạng do Công ty tư vấn quản lý AT Kearney công bố cuối năm 2007, Việt Nam được xếp thứ 4 trong danh sách 10 thị trường bán lẻ có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thế giới Bảng II.3.: Việt Nam-Thị trƣờng bán lẻ hấp dẫn thứ 4 trên thế giới Thứ Quốc gia Vùng Rủi ro Độ hấp Độ bão Áp lực Điểm hạng quốc dẫn thị hòa thị thời 2007 gia trƣờng trƣờng gian Tỷ trọng 25% 25% 30% 20% 1 Ấn Độ Châu Á 67 42 80 74 92 2 Nga Đông Âu 62 52 53 90 89 3 Trung Quốc Châu Á 75 46 46 84 86 4 Việt Nam Châu Á 57 34 76 59 74 5 Ucraina Đông Âu 41 43 44 88 69 6 Chile Châu Mỹ 80 51 42 43 69
  43. 31 7 Latvia Đông Âu 77 32 21 86 68 8 Malaysia Châu Á 70 44 46 54 68 9 Mexico Châu Mỹ 83 58 33 33 64 10 Saudi Arabia Tây Á 85 40 66 35 64 Nguồn: www.atkearney.com Biểu đồ II.4.: Tỷ trọng các loại hình phân phối trong hệ thống phân phối hàng hóa trong nƣớc 6% 10% 40% Chợ truyền thống Siêu thị Bán trực tiếp Cửa hàng tạp hóa 44% Nguồn: Vụ Chính sách Thị trường Trong nước, Bộ Công Thương Biểu đồ II.5.: Tỷ trọng đầu tƣ các ngành trong nền kinh tế 72% Công nghiệp Phân phối Thủy sản 20% Nông-lâm-ngư-nghiệp 1% 7% Nguồn: Vụ Chính sách Thị trường Trong nước, Bộ Công Thương 1. Hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống Các kênh phân phối thuộc hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống đang chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng mức lưu chuyển hàng hóa trên thị trường Việt Nam. Phần lớn các doanh nghiệp thương mại đang tự nguyện tham gia vào các dòng chảy từ nơi có giá thấp đến nơi có giá cao, từ nơi thừa đến nơi thiếu. Các kênh
  44. 32 truyền thống hiệu quả còn thấp do thiếu chuyên môn hóa và phân công lao động. Tuy nhiên, trên thị trường đã xuất hiện các hệ thống kênh có hình thức là các kênh phân phối liên kết dọc. Đó là hệ thống kênh phân phối theo kiểu tập đoàn của các Tổng công ty 90, 91 như Tổng Công ty Xi măng, Tổng Công ty Xăng dầu, Tổng Công ty Thép, Tổng Công ty Dệt may Thông qua các hệ thống phân phối của mình, các Tổng Công ty này đã góp phần đáng kể vào việc điều hòa cung cầu sản phẩm trên thị trường. Sơ đồ II.5.: Hệ thống phân phối xi măng của Tổng Công ty Xi măng Việt Nam (VCC) Tổng Công ty Xi măng Việt Nam Các Công ty Các Công ty sản xuất xi kinh doanh măng xi măng Các Trung Các Chi nhánh Các Đại lý gian phân phối độc quyền Cửa hàng Cửa hàng Cửa hàng bán lẻ bán lẻ bán lẻ Ngƣời tiêu dùng Nguồn: Vụ Chính sách Thị trường Trong nước, Bộ Công Thương
  45. 33 Sơ đồ II.6.: Hệ thống phân phối thép của Tổng Công ty Thép Việt Nam (VSC) (1) (4) (2) (3) Ngƣời tiêu Các Tổng dùng đại lý Các đại lý con Tổng Công hoặc cửa hàng ty thép Việt Nam Cửa hàng (hoặc doanh Các nghiệp) doanh nghiệp phân phối Hộ bán buôn của VSC Các nhà sản lớn xuất của VSC (kể cả các công ty Các chi liên doanh) nhánh Cửa hàng bán hàng của nhà sản xuất Các hộ tiêu dùng lớn Nguồn: Vụ Chính sách Thị trường Trong nước, Bộ Công Thương
  46. 34 Sơ đồ II.7.: Hệ thống phân phối hàng may mặc của Tổng Công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) Siêu thị, Trung tâm thƣơng mại Các công ty Các cửa sản xuất hàng đại lý hàng may mặc có quy mô lớn Các nhà Các cửa Ngƣời bán buôn hàng bán lẻ tiêu độc lập dùng Các nhà bán buôn Các nhà Các cơ sở may nhỏ (chiếm tỷ trọng nhỏ) bán lẻ tại các chợ Nguồn: Vụ Chính sách Thị trường Trong nước, Bộ Công Thương Một trong những hình thức phân phối rất phổ biến trong hệ thống phân phối hàng hóa truyền thống là phân phối thông qua đại lý. Theo thống kê của Bộ Thương mại (cũ) thì hiện phân phối qua đại lý hiện chiếm từ 10-15% giá trị hàng hóa trao đổi trên thị trường nội địa. Còn đối với hoạt động xuất nhập khẩu thì con số này chỉ đạt mức 5-10%. Các công ty sản xuất đều đặt ưu tiên hàng đầu đối với việc xây dựng một hệ thống đại lý phân phối các sản phẩm do mình sản xuất. Một dẫn chứng tiêu biểu có thể được nêu ra trong lĩnh vực sản xuất ô tô xe máy, hàng điện tử, . Hầu hết các hãng ô tô xe máy nước ngoài có mặt trên thị trường Việt Nam đều có hệ thống đại lý riêng của mình. Ví dụ, công ty Suzuki Việt Nam đã xây dựng một hệ thống đại lý rộng khắp trên toàn quốc để có thể phục vụ khách hàng chu đáo và thuận tiện. Hệ thống này là sự kết hợp hiệu quả của một hệ thống các cửa hàng Suzuki 3S đảm nhiệm tất cả các dịch vụ liên quan, gồm dịch vụ bán hàng (sales), dịch vụ hậu mãi (after-sale services) và dịch vụ cung cấp phụ tùng chính hiệu (spare parts). Riêng trên địa bàn Hà Nội, công ty dịch vụ ăn uống Thủy Tạ đã có trên 200 đại lý phân phối kem các loại, công ty Dệt kim Hà Nội có trên 100 đại lý tại Hà Nội và các khu vực lân cận.Trong thành phố Hồ Chí Minh, nhiều công ty, doanh nghiệp tư nhân kinh doanh các mặt hàng tiêu dùng đang mở rộng hình thức phân phối thông qua đại lý hoa hồng. Có thể kể đến công ty Kymdan với hệ thống 51 cửa hàng và 486 đại lý trên khắp các vùng miền của các nước, Được hình thành từ năm 1976, Công ty Cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk) -doanh nghiệp hàng đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa, hiện chiếm lĩnh 75% thị phần sữa tại Việt Nam xây dựng được