Luận văn Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

pdf 107 trang vanle 2880
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfluan_van_cac_rao_can_trong_thuong_mai_quoc_te_va_yeu_cau_doi.pdf

Nội dung text: Luận văn Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNBGỘ Đ GẠIIÁ HOỌ DCỤ CN GVÀO ẠĐIÀ TOH TƢẠƠO NG TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢ ƠNG PHẠM XUÂN THỤY Phạm Xuân Thụy CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ YÊU CẦU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KH ẨU CỦAVIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Các rào cản trong thƣơng mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuChuyất khêẩnu ngcủàaVinh:ệ t KinhNam trongtế thế tigiếớni trvàì nhQuan hội hnhệ ậkinhp kinh tế qutế ốquc ốtếc tế Mã số: 60.31.07 Chuyên ngành: Kinh tế thế giớ i và Quan hệ kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Luận văn thạc sỹ Kinh tế NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH THỊ THU HƢƠNG NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH THỊ THU HƢƠNG HÀ NỘI - 2006
  2. 2 MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾ TẮT LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 4 1.1 Khái niệm về rào cản trong thƣơng mại quốc tế 4 1.2 Sự hình thành và mục đích sử dụng các rào cản thƣơng mại quốc tế 6 1.2.1 Sự hình thành các rào cản trong thương mại quốc tế 6 1.2.2 Mục đích sử dụng các rào cản trong thương mại quốc tế 8 1.3 Các loại rào cản trong thƣơng mại quốc tế 10 1.3.1 Rào cản thuế quan 10 1.3.1.1 Thuế quan 10 1.3.1.2 Hạn ngạch thuế quan 12 1.3.2 Rào cản phi thuế quan 12 1.3.2.1 Các biện pháp tương đương thuế quan 13 1.3.2.2 Các biện pháp hạn chế định lượng 14 1.3.2.3 Các rào cản kỹ thuật trong thương mại 17 1.3 2.4 Các biện pháp về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật 18 1.3.2.5 Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời 18 3.2.2.6 Quản lý tỷ giá hối đoái 19 1.3.2.7 Tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc 19 1.3.2.8 Các biện pháp liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước và quyền kinh doanh thương mại 20 1.3.2.9 Các rào cản khác 20
  3. 3 1.4 Qui định của WTO về các rào cản trong thƣơng mại quốc tế 20 1.4.1 Qui định của WTO về rào cản thuế quan 21 1.4.1.1 Qui định của WTO về thuế quan 21 1.4.1.2 Qui định của WTO về hạn ngạch thuế quan 23 1.4.2 Qui định của WTO về các rào cản phi thuế quan 24 1.4.2.1 Các biện pháp tương đương thuế quan 24 1.4.2.2 Các biện pháp hạn chế định lượng 25 1.4.2.3 Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp 28 1.4.2.4 Các biện pháp kỹ thuật trong thương mại 28 1.4.2.5 Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời 30 1.4.2.6 Qui định về mua sắm chính phủ 33 1.4.2.7 Các biện pháp khác 34 CHƢƠNG II. NGHIÊN CỨU CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 36 2.1 Rào cản thƣơng mại ở một số thị trƣờng xuất khẩu chính của Việt Nam 36 2.1.1 Các rào cản thương mại của thị trường Hoa Kỳ 36 2.1.1.1 Hàng rào thuế quan Hoa Kỳ 37 2.1.1.2 Hàng rào phi thuế quan Hoa Kỳ 39 2.1.2 Các rào cản thương mại của thị trường EU 46 2.1.2.1 Rào cản thuế quan của EU 47 2.1.2.2 Rào cản phi thuế quan của EU 49 2.1.3 Các rào cản thương mại của thị trường Trung Quốc 55 2.1.3.1 Rào cản thuế quan của Trung Quốc 56 2.1.3.2 Rào cản phi thuế quan của Trung Quốc 57 2.1.4 Các rào cản thương mại của thị trường các nước ASEAN 61
  4. 4 2.1.4.1 Rào cản thuế quan của các nước ASEAN 62 2.1.4.2 Rào cản phi thuế quan của các nước ASEAN 63 2.2 ảnh hƣởng của các rào cản thƣơng mại tại các thị trƣờng chính đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 66 2.2.1 ảnh hưởng của các rào cản thuế quan 66 2.2.2 Ảnh h•ëng cña c¸c rµo c¶n phi thuÕ quan 67 CHƢƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM ĐỐI PHÓ VỚI CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ, ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 70 1. Chiến lƣợc phát triển xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2000-2010 70 2. Kinh nghiệm đối phó với các rào cản trong thƣơng mại quốc tế của một số nƣớc 72 2.1 Kinh nghiệm đối phó với các rào cản thương mại của Trung Quốc 72 2.2 Kinh nghiệm đối phó với các rào cản thương mại của Thái Lan 76 2.3 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 78 3. Các biện pháp nhằm vƣợt rào cản trong thƣơng mại quốc tế để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 80 3.1 Giải pháp chung của Nhà nước 81 3.1 Giải pháp cho các Hiệp hội ngành nghề 88 3.3 Giải pháp đối với các doanh nghiệp 91 KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt (Agreement on) Anti-Dumping ADP Hiệp định về chống bán phá giá Practices AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực tự do thương mại ASEAN Asia-Pacific Economic Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - APEC Cooperation Thái Bình Dương Association of South-East Asian ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á Nations Common Effective Preferential Chương trình ưu đãi thuế quan có CEPT Tariff hiệu lực chung của ASEAN DOC Department of Commerce Bộ Thương mại Hoa Kỳ EU European Union Liên minh Châu Âu General Agreement on Tariffs Hiệp định chung về thuế quan và GATT and Trade thương mại Generalized System of GSP Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập Preferences International Standardization ISO Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế Organization MFN Most Favoured Nation Qui chế tối huệ quốc NT National Treatment Chế độ đãi ngộ quốc gia Organization for Economic Tổ chức hợp tác và phát triển kinh OECD Cooperation and Development tế Subsidies and Countervailing Hiệp định về trợ cấp và các biện SCM Measures Agreement pháp đối kháng của WTO WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam TMQT Thương mại quốc tế
  6. 6 LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Thương mại quốc tế, từ lâu, đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế ở mọi quốc gia. Thông qua thương mại quốc tế, các quốc gia tiến hành trao đổi để phát huy hết các lợi thế và khắc phục các hạn chế của nền kinh tế nước mình. Tuy nhiên, tham gia vào thương mại quốc tế không có nghĩa là tham gia vào một cuộc chơi hoàn toàn bình đẳng, bởi vì, các quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế đều cố gắng phát huy hết khả năng để thu được lợi ích tối đa nhất nhưng đồng thời cũng luôn bảo hộ thị trường cho các doanh nghiệp nội địa. Để làm được điều này Chính phủ các quốc gia đã lập nên các hàng rào, cả hữu hình lẫn vô hình để ngăn cản hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài thâm nhập và cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước. Trong đó, các nước giàu, các nước có nền kinh tế phát triển, với các ưu thế của mình lại là những nước áp dụng mạnh mẽ nhất các biện pháp này đối với hàng hoá từ các quốc gia đang và chậm phát triển. Ngay cả trong bối cảnh tự do hoá thương mại và quốc tế hoá đời sống kinh tế như hiện nay thì các rào cản thương mại này chẳng những không giảm đi mà nó ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Nếu như trước kia chúng chỉ tồn tại dưới hình thức là các biện pháp bảo hộ thuế quan hay các lệnh cấm, các hạn chế nhập khẩu thì nay chúng tồn tại dưới nhiều hình thức, nhiều biện pháp khác nhau. Trong hơn một thập kỷ qua Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế quốc tế. Hiện chúng ta đã là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với Khu vực tự do mậu dịch ASEAN (AFTA), Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và sẽ sớm trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006 này. Theo đó chúng ta sẽ phải thực hiện các cam kết về mở cửa thị trường cho phù hợp với qui định chung của tổ chức này. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải hiểu và nắm rõ được các rào cản trong thương mại quốc tế để một mặt vượt qua chúng, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Đây chính là lý do mà vấn đề “Các rào cản trong thương mại quốc tế và yêu cầu đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” được chọn làm đề tài cho luận văn này.
  7. 7 Tình hình nghiên cứu Trong thời gian qua đã có rất nhiều bài báo trên các tạp chí kinh tế như: Thời báo kinh tế, Báo Thương mại, Báo đầu tư hay trên các trang báo điện tử như đề cập đến vấn đề rào cản và vượt rào cản trong thương mại quốc tế, trang web của Sở thương mại thành phố Hồ Chí Minh www.trade.hochiminhcity.gov.vn cũng có liệt kê hầu hết các qui định chung liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá vào các quốc gia trên thế giới, nhưng những nghiên cứu kể trên vì nhiều lý do chỉ đề cập đến vấn đề rào cản một cách riêng lẻ. Đặc biệt, trong thời gian gần đây cũng đã có những công trình nghiên cứu lớn đề cập đến vấn đề này, có thể nêu ra: “Bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch nông sản trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”- Đề tài nghiên cứu cấp bộ của Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội (2002-2003), “Hệ thống rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế và những giải pháp để vượt rào cản kỹ thuật của các doanh nghiệp ở Việt Nam”–Viện Nghiên cứu thương mại, Bộ Thương Mại (2001-2002), “Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế và đề xuất các giải pháp đối với Việt Nam”- Bộ Thương Mại (2003-2004). Tuy nhiên, với việc Việt Nam sẽ sớm trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006 này người vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế dựa trên các qui định của WTO để từ đó tạo đà cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vượt qua các rào cản, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của nước ta. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích các hình thức rào cản trong thương mại quốc tế, đặc biệt là dựa trên các qui định của WTO, luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu các rào cản thương mại ở các thị trường xuất khẩu chính mà hàng hoá của Việt Nam đang vấp phải cũng như đề xuất các giải pháp để vượt rào cản, đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam. Nhiệm vụ nghiên cứu
  8. 8 - Chỉ ra và phân tích các rào cản đang được áp dụng trong thương mại quốc tế dựa trên qui định của WTO - Phân tích các rào cản thương mại của một số thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam - Đề xuất các biện pháp vượt rào cản thương mại cho Việt Nam. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hình thức rào cản đang được áp dụng trong thương mại quốc tế, nhưng xin đề cập đến chúng theo góc độ từ các qui định của WTO. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: thống kê, tổng hợp, phân tích và pháp so sánh. Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về các rào cản trong thương mại quốc tế Chương II: Nghiên cứu các rào cản trong thương mại quốc tế đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm đối phó với các rào cản trong thương mại quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam.
  9. 9 CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1 Khái niệm về rào cản trong thƣơng mại quốc tế Khi tham gia vào thương mại quốc tế (TMQT), các quốc gia đều cố gắng phát huy hết các lợi thế của mình, tận dụng các ưu thế trên thị trường quốc tế nhưng mặt khác chính các quốc gia đó lại cũng phải đối mặt với những lợi thế của các quốc gia khác là đối thủ cạnh tranh. Lợi thế cho quốc gia này đồng nghĩa với sự yếu thế cho quốc gia khác. Để khắc phục, các quốc gia sẽ sử dụng một loạt các công cụ để điều chỉnh hoạt động thương mại. Công cụ truyền thống và hiện vẫn được sử dụng phổ biến hơn cả là đánh thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của các quốc gia khác khi thâm nhập vào thị trường trong nước, cùng với đó là hàng loạt các khoản thu, các qui định, các chính sách nhằm hạn chế hàng hoá của nước ngoài xâm nhập thị trường nội địa. Đối với nước xuất khẩu lúc này hàng hoá của họ sẽ phải đối mặt với một hàng rào mà người ta gọi là rào cản thương mại. Thuật ngữ “rào cản thương mại” (barriers to trade) hay “hàng rào thương mại” đã được sử dụng khá phổ biến, được đề cập đến ở nhều nơi như trong phần “UNDERSTANDING THE WTO: THE AGREEMENTS” của WTO hay trong các nghiên cứu của Nhóm làm việc của Uỷ ban về thương mại thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Tuy nhiên, cho đến nay, có thể nói rằng vẫn chưa có một định nghĩa nào cụ thể về các rào cản trong thương mại. Trong Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của WTO có một khái niệm về rào cản thương mại nhưng mới chỉ dừng lại ở việc thừa nhận như một thoả thuận rằng “không một nước nào có thể bị ngăn cản tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu của mình, hoặc để bảo vệ cuộc sống hay sức khoẻ con người, động và thực vật, bảo vệ môi trường hoặc để ngăn ngừa các hoạt động man trá, ở mức độ mà nước đó cho rằng phù hợp và phải đảm bảo rằng các biện pháp này không được tiến hành với cách thức có thể gây ra phân biệt đối xử một cách tuỳ tiện hoặc không thể biện minh được giữa các nước, trong các điều kiện giống nhau, hoặc tạo ra các hạn
  10. 10 chế trá hình đối với TMQT, hay nói cách khác phải phù hợp với các qui định của Hiệp định này” [9]. Trên thực tế, khái niệm rào cản trong thương mại chỉ mang tính chất tương đối. Như ta đã nhắc đến ở phần đầu, để đối phó với luồng hàng hoá được nhập khẩu từ bên ngoài, các quốc gia sẽ thi hành hàng loạt các chính sách, các biện pháp hạn chế nhập khẩu. Nếu các các chính sách, các qui định đó gây cản trở cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, của quốc gia này thì bị qui là rào cản thương mại nhưng đối với doanh nghiệp, quốc gia khác thì chưa hẳn đã vậy. Cụ thể, thuế quan đánh vào hàng nhập khẩu không phải là rào cản nếu mức thuế suất là thấp hoặc rất thấp tới mức không gây cản trở đối với thương mại, thậm chí mức thuế suất được hưởng thấp hơn so với của hàng hoá xuất khẩu cạnh tranh từ một nước khác lại là một sự ưu đãi. Nhưng nó sẽ trở thành rào cản nếu mức thuế suất là cao một cách thực sự hoặc là cao hơn mức thuế suất được áp dụng đối với hàng hoá cùng loại của một nước khác. Với các biện pháp khác cũng vậy, bản thân nó không phải là rào cản nếu biện pháp đó được đặt ra “không quá mức cần thiết” và không vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia, nhưng nó sẽ trở thành hàng rào nếu như nó gây cản trở cho thương mại của quốc gia khác. Từ đây, chúng ta có thể đi đến một nhất trí là “rào cản” hay “hàng rào thương mại” là khái niệm được dùng để chỉ các chính sách, các qui định của một quốc gia, một khu vực hay một khối kinh tế điều chỉnh các hoạt động thương mại của quốc gia, khu vực hay khối kinh tế đó với phần còn lại của thế giới mà các biện pháp đó là nhằm mục đích cản trở và hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá. Kết quả các vòng đàm phán thương mại đa phương và song phương trong khuôn khổ của WTO và trước đây là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) về mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại đã chỉ ra rằng: rào cản trong thương mại quốc tế xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực, với các biện pháp rất đa dạng và tinh vi. Chẳng hạn, có biện pháp được áp dụng ngay tại biên giới và có biện pháp áp dụng bên trong biên giới; có biện pháp thuế quan và phi thuế quan; có biện pháp môi trường và biện pháp vệ sinh dịch tễ; có biện pháp tự vệ đặc biệt và có biện pháp mang tính tạm thời; có biện pháp chung nhưng cũng có biện pháp mang tính chuyên ngành; có những biện pháp trực tiếp đối với hàng hoá xuất nhập khẩu và cũng có biện pháp gián tiếp như đầu tư liên quan đến thương mại. Chính vì tính đa dạng và phức
  11. 11 tạp của các rào cản trong TMQT này đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu không chỉ bản chất và thực tiễn áp dụng chúng mà phải nắm rõ được vai trò và mục tiêu của các quốc gia khi xây dựng và áp dụng chúng. 1. 2 Sự hình thành và mục đích sử dụng các rào cản thƣơng mại quốc tế 1.2.1 Sự hình thành các rào cản trong thƣơng mại quốc tế Rào cản thương mại nằm trong hệ thống các chính sách thương mại của các quốc gia, chính vì vậy, cũng như các biện pháp khác chúng có vai trò chủ yếu trong trong việc tác động và điều chỉnh hoạt động thương mại theo hướng có lợi nhất, đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu xác định của mỗi quốc gia. Rào cản trong TMQT bao gồm nhiều loại khác nhau và mỗi loại rào cản lại có vai trò nhất định riêng của nó. Ví dụ, cả rào cản thuế quan và rào cản phi thuế quan đều có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước. Thuế quan thì có ưu điểm là rõ ràng, minh bạch, có thể dự đoán và là nguồn thu quan trọng cho Chính phủ nhưng thuế quan lại dễ làm sai lệch các tín hiệu thị trường dẫn đến phân bổ các nguồn lực không hợp lý, hơn nữa thuế quan không có tính bảo hộ cao và kịp thời được như các biện pháp phi thuế quan. Trong khi đó, các biện pháp phi thuế quan như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế nhập khẩu nhanh chóng. Một biện pháp phi thuế quan có thể được áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Ví dụ, với các qui định về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật vừa nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ, bảo vệ cuộc sống của con người và động thực vật vừa có tác động gián tiếp giúp bảo hộ sản xuất trong nước. Hai nữa, để phục vụ cho một mục tiêu nhất định, ví dụ hạn chế nhập khẩu thịt bò người ta có thể vận dụng cùng lúc nhiều biện pháp phi thuế quan khác nhau như cấm nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu hay kiểm dịch động thực vật. Tất nhiên, các rào cản phi thuế quan cũng có nhược điểm của nó. Đó là, chúng rất khó được lượng hoá, khó dự đoán, không những không tạo nguồn thu mà còn tốn các khoản chi phí quản lý phát sinh và rất dễ gây ra các tiêu cực. Hiện nay, có rất nhiều các biện pháp, các chính sách thương mại. Chúng vừa đa dạng, vừa phức tạp thậm chí đan xen vào nhau. Chính vì vậy, trên thực tiến, rất khó để xác định một biện pháp quản lý nhập khẩu có phải là rào cản thương mại hay không. Các công ước, các Hiệp định chung về thương mại cũng chỉ có thể qui định
  12. 12 xác thực đến một cách tương đối các rào cản không được áp dụng. Mặt khác, trước yêu cầu của quá trình tự do hoá thương mại, hầu hết các quốc gia đều cam kết từng bước dỡ bỏ các hàng rào thương mại này nhưng thực ra yêu cầu bảo hộ vẫn là rất lớn, do đó việc tháo gỡ các rào cản thương mại diễn ra khá chậm chạp. Rào cản trong thương mại được hình thành và áp dụng trên cơ sở các lợi ích mà chúng mang lại. Vô hình chung, chúng đều nhằm lợi ích cho nước nhập khẩu áp dụng chúng, nhưng xét cụ thể hơn, chúng có thể gắn liền với lợi ích của từng nhóm người khác nhau và sự hình thành của các rào cản này liên quan đến khả năng tác động của họ lên việc thực hiện chính sách. Cụ thể, sự hình thành các rào cản trong TMQT có thể xuất phát từ các nhóm chủ thể sau: Từ phía Chính phủ Thông thường các biện pháp thương mại trong đó có các rào cản thương mại được Chính phủ các quốc gia tiến hành là vì mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế hoặc để đảm bảo lợi ích chung của toàn xã hội. Đó là việc xây dựng các rào cản nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ và cuộc sồng của con người và động thực vật; đó cũng có thể là các rào cản nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của quốc gia như áp dụng thuế quan, các khoản thu như phí và lệ phí chẳng hạn. Trong trường hợp này, Chính phủ sẽ phải cân nhắc đến lợi ích của từng nhóm thành phần xã hội cũng như tổng thể để quyết định có nên thực thi rào cản đó hay không. Quá trình này không hề dễ dàng vì việc tính toán lợi ích và thiệt hại là rất khó khăn nhất là khi nó liên quan đến quyền lợi của các quốc gia là đối tác thương mại có liên quan. Từ phía người lao động và người tiêu dùng Bảo vệ người tiêu dùng là một trong những mục tiêu lớn nhất của việc tạo dựng và thực thi các rào cản thương mại, đặc biệt là các rào cản kỹ thuật. Với lý do là bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng các quốc gia có thể đưa ra các qui định hay tiêu chuẩn kỹ thuật ở mức rất cao và trở thành rào cản thương mại, mặc dù nguy cơ có thể chưa được xác định dựa trên cơ sở khoa học. Một lý do khác dẫn tới việc hình thành rào cản trong thương mại là để bảo vệ người lao động. Thông qua các nghiệp đoàn của mình, người lao động đã kiến nghị lên Chính phủ yêu cầu có những biện pháp để đảm bảo công ăn việc làm và một mức
  13. 13 thu nhập ổn định cho họ. Và trong bối cảnh TMQT hiện nay, các rào cản thương mại nhằm bảo hộ cho ngành sản xuất của họ luôn được tính tới. Thậm chí, vì mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền, đối với người lao động và người tiêu dùng, việc đảm bảo lợi ích cho họ không chỉ là nhiệm vụ của các Chính phủ mà còn là biện pháp để xoa dịu và lấy được sự tín nhiệm của họ. Từ phía các doanh nghiệp Một điều dễ nhận thấy là các nhà sản xuất ở mỗi quốc gia đều cần được bảo hộ trước sự cạnh tranh của hàng hoá ngoại nhập. Chính vì vậy, các nhà sản xuất ở các quốc gia thường liên hợp nhau lại tạo thành hiệp hội, từ đó yêu cầu hoặc thậm chí gây áp lực đối với Chính phủ để thực thi các hàng rào thương mại có lợi cho mình. Các áp lực từ phía các hiệp hội này thường có tổ chức và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, từ vận động hành lang cho tới quyên góp tài chính. Trong khi đó, đối với các Chính phủ, quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước cũng chính là quyền lợi của quốc gia và các Chính phủ này, lấy các cớ như là bảo vệ cho ngành công nghiệp non trẻ, ngành sản xuất dùng nhiều lao động hay bất kỳ một lý do nào để áp dụng các rào cản. Hơn nữa, trong rất nhiều trường hợp sự câu kết của Chính phủ và các doanh nghiệp là vì lợi ích của cả hai bên, ví dụ tăng mức độ bảo hộ bằng thuế quan thì thu ngân sách của Chính phủ khi đó cũng được lớn hơn. Quốc gia có nhiều rào cản thương mại được xây dựng từ tác động của các doanh nghiệp nhất là Hoa Kỳ. Thậm chí, trong Luật bồi thường về thương mại mà chúng ta sẽ nghiên cứu sau đây có một qui định rằng lợi ích thu được từ các biện pháp bồi thường thương mại sẽ được chia sẻ cho chính các doanh nghiệp tham gia khởi kiện (Tu chính án Byrd). Qui định này như một sự cổ vũ cho các doanh nghiệp nước này tham gia vào việc xây dựng và thực thi các rào cản thương mại. 1.2.2 Mục đích sử dụng các rào cản trong thƣơng mại quốc tế Điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hướng dẫn tiêu dùng trong nước Mặc dù các rào cản trong thương mại được áp dụng vì nhiều mục đích khác nhau nhưng đây vẫn là mục đích ưu tiên hàng đầu. Trên cơ sở tình hình sản xuất và tiêu dùng nội địa Chính phủ các quốc gia phải tiến hành các biện pháp điều tiết lượng hàng hoá nhập khẩu phù hợp với nhu cầu tiêu dùng nhưng vẫn đảm bảo lợi ích cho các nhà sản xuất nội địa, đồng thời phát huy được các tiềm lực của đất nước. Một
  14. 14 lượng hàng nhập khẩu vừa phải cũng có tác động tích cực đến việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm trong nước. Và biện pháp dễ áp dụng và cho hiệu quả hơn cả chính là các rào cản thương mại. Cũng nằm trong nhóm mục đích này, các rào cản thương mại giúp bảo hộ để phát triển các ngành công nghiệp trong nước, bảo vệ việc làm và thu nhập ổn định cho người dân. Ngoài ra, thông qua việc kiểm soát việc nhập khẩu hàng hoá Chính phủ các quốc gia sẽ định hướng được việc tiêu dùng hàng hoá trong nước. Đối với các mặt hàng không cho sử dụng sẽ bị cấm nhập khẩu, các hàng hoá không được khuyến khích sử dụng sẽ bị đánh thuế cao hoặc chỉ cho nhập khẩu một lượng nhất định thông qua hạn ngạch, giấy phép Bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội và bảo vệ môi trường Vấn đề an ninh quốc gia luôn đòi hỏi các biện pháp cấm hoặc hạn chế tối đa việc nhập khẩu các hàng hoá là vũ khí, chất nổ, phương tiện chiến tranh, nhất là các loại vũ khí, chất độc có thể huỷ diệt hàng loạt. Đạo đức xã hội không cho phép nhập khẩu các văn hoá phẩm không lành mạnh, các chất gây nghiện làm bại hoại đạo đức và lương tri của con người. Ngoài ra, một vấn đề chung hiện nay toàn cầu đang cùng phải giải quyết là bảo vệ môi trường cũng đã làm nảy sinh các rào cản đối với việc luân chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác. Vấn đề đặt ra ở đây là việc áp dụng các biện pháp này phải hợp lý và dựa trên các cơ sở khoa học xác thực. Bảo vệ người tiêu dùng Bảo vệ người tiêu dùng luôn một trong những mục đích quan trọng nhất của việc áp dụng các hàng rào thương mại. Sự an toàn của người tiêu dùng luôn được đưa lên hàng đầu trong việc kiểm soát hàng hoá nhập khẩu với các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh và kiểm dịch, yêu cầu về đóng gói và ghi nhãn hiệu. Các hàng rào cũng giúp ngăn cản các hàng hoá không đảm bảo chất lượng gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và sự an toàn của người dân. Chống lại cạnh tranh không lành mạnh và trả đũa thương mại Một điều dễ nhận thấy là mỗi quốc gia khi mở cửa thị trường sẽ gặp rất nhiều khó khăn với sự cạnh tranh không lành mạnh từ các quốc gia khác thông qua bán phá
  15. 15 giá, trợ cấp xuất khẩu Thông thường, trong những tình huống như vậy, các quốc gia sẽ tiến hành thương lượng nhằm ngăn chặn các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh. Nếu như việc thương lượng không đi đến kết quả, quốc gia đó sẵn sàng thực thi các biện pháp đối kháng và trả đũa thông qua việc áp dụng các rào cản thương mại với hàng hoá xuất khẩu của nước kia. Vì mục đích chính trị Các biện pháp thương mại rất dễ có thể được sử dụng như là các công cụ để “phân biệt đối xử” trong quan hệ giữa các quốc gia. Nổi bật trong số này là việc Hoa Kỳ và EU, các quốc gia thường xuyên sử dụng chúng vì các mục đích chính trị. Họ có thể cấm vận hoàn toàn hoặc cấm vận từng phần đối với hoạt động TMQT của các quốc gia không chịu khuất phục họ (Cuba và Liên bang Nam tư trước đây) hoặc dành những khoản ưu đãi đặc biệt cho hàng hoá của một quốc gia thân cận nào đó (Hoa Kỳ dành cho hàng nông sản và một số mặt hàng khác của Irsael mức thuế nhập khẩu bằng không). Một ví dụ khác, mức thuế GSP mà các quốc gia phát triển dành cho các quốc gia đang phát triển cũng có những ưu đãi khác nhau tùy thuộc từng quốc gia. 1.2 Các loại rào cản trong thƣơng mại quốc tế Khi đề cập đến các rào cản trong TMQT, thông thường người ta sẽ phân chúng thành 2 nhóm rào cản là Các rào cản thuế quan (Tariff barriers) và các rào cản phi thuế quan (Non-tariff barriers). 1.3.1 Rào cản thuế quan (Tariff barriers) 1.3.1.1 Thuế quan Đây là hình thức rào cản thương mại truyền thống và phổ biến nhất trong TMQT. Việc áp dụng thuế quan có ưu điểm là đảm bảo tính minh bạch, dự báo được và nếu như thuế suất được áp dụng ở mức vừa phải thì nó không hề bóp méo thương mại. Vì các lý do này, hiện thuế quan đang là biện pháp được WTO khuyến khích sử dụng. Tuy nhiên, trong bối cảnh thương mại ngày càng tự do hiện nay, nếu như phải thực hiện vai trò là hàng rào thương mại thì nó không phát huy được yêu cầu phân biệt đối xử và không thể áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn nhanh hàng hoá nhập khẩu. Xét về cách tính thuế, thuế quan bao gồm các loại sau:
  16. 16 - Thuế phần trăm: (ad-valorem tariff) được đánh theo tỷ lệ phần trăm trên trị giá giao dịch của hàng hoá nhập khẩu, ví dụ: mức thuế nhập khẩu cà chua từ Việt Nam vào Hoa Kỳ là 16%. Hiện nay, đây là loại thuế được sử dụng rộng rãi nhất trong TMQT. - Thuế phi phần trăm: (non-ad valorem tariff) bao gồm các loại: Thuế tuyệt đối: là thuế được xác định bằng một khoản tiền cố định trên một đơn vị hàng hoá nhập khẩu. Loại thuế này được áp dụng phổ biến nhất đối với các mặt hàng nông sản. Ví dụ, thuế nhập khẩu hạt tiêu Việt Nam vào Hoa Kỳ hiện là 4,7 cent/kg. Thuế tổng hợp: là sự kết hợp của cả thuế phần trăm và thuế tuyệt đối. Ví dụ, mặt hàng nấm giống Agaricus của Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ có mức thuế là 1,3cent/kg + 1,8%. Căn cứ vào mức độ ưu đãi, có các loại thuế quan sau: - Thuế thông thường: còn gọi là thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN). Đây là mức thuế cao nhất mà các nước thành viên WTO áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu của những nước chưa phải là thành viên hoặc các nước chưa có kí kết các Hiệp định Thương mại song phương với nhau. Mức thuế này có thể nằm trong khoảng từ 20%- 110%. - Thuế tối huệ quốc (MFN): là loại thuế mà các nước thành viên WTO hoặc các nước có kí kết Hiệp định Thương mại song phương với nhau (như trường hợp của Việt Nam và Hoa Kỳ) dành cho nhau. Loại thuế này có mức thuế suất thấp hơn nhiều so với mức thuế suất thông thường. Thực ra, trong bối cảnh thương mại quốc tế hiện nay, khi hầu hết các quốc gia đã tham gia vào WTO hoặc đã kí kết các Hiệp định thương mại song phương thì việc dành cho nhau thuế MFN có thể được coi là “thuế suất thông thường” và mức thuế thông thường lúc này lại trở thành thuế suất “không thông thường”. - Thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP): Đây là loại thuế mà các quốc gia phát triển dành cho hàng hoá nhập khẩu từ các quốc gia đang và chậm phát triển, như trường hợp EU và Nhật Bản dành cho Việt Nam. Mức thuế này thường thấp hơn mức thuế MFN.
  17. 17 - Thuế áp dụng trong các khu vực mậu dịch tự do: Đây là mức thuế suất thấp nhất và thậm chí là bằng không mà các quốc gia trong các khối mậu dịch tự do dành cho hàng hoá của nhau, như trường hợp của Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), hay khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) hoặc giữa 2 quốc gia kí Hiệp định về mậu dịch tự do như Mỹ-Singapore, Mỹ-Irsael, Thái Lan-Trung Quốc Trong các hình thức thuế quan còn có một số loại thuế quan đặc thù như thuế thời vụ là loại thuế thường được áp dụng cho hàng nông sản với các mức thuế suất khác nhau vào các thời điểm khác nhau của mùa vụ, loại thuế này thường là rất cao khi vào vụ thu hoạch. 1.3.1.2 Hạn ngạch thuế quan (Tariff-rate quota) Hạn ngạch thuế quan là biện pháp quản lý nhập khẩu bằng thuế quan với 2 mức thuế nhập khẩu. Đây là một biện pháp hạn chế nhập khẩu định lượng bằng thuế quan. Hàng hoá sẽ không bị hạn chế về số lượng nhập khẩu nhưng đối với hàng hoá trong khuôn khổ hạn ngạch thì có mức thuế suất thấp, còn với hàng hoá vượt mức hạn ngạch sẽ phải chịu mức thuế suất cao, thậm chí là rất cao. Ví dụ, các nước OECD có mức thuế trong hạn ngạch đối với hàng nông sản là 36%, nhưng nếu vượt quá hạn ngạch mức thuế suất sẽ là 120%. Đây là biện pháp đang được WTO khuyến cáo sử dụng cho hàng nông sản kể từ sau vòng đàm phán Uruguay. 1.3.2. Rào cản phi thuế quan (Non-tariff barriers) Theo Hiệp định CEPT – Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung trong khuôn khổ AFTA: “Rào cản phi thuế quan nghĩa là các biện pháp không phải thuế quan, trên thực tế ngăn cấm hoặc hạn chế việc nhập khẩu hay xuất khẩu các sản phẩm giữa các quốc gia” 33 . Còn theo WTO: “hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế quan mang tính cản trở đối với thƣơng mại mà không dựa trên cơ sở pháp lý, khoa học hoặc bình đẳng” 5 . Liên quan đến các rào cản thương mại phi thuế quan, chúng ta cần phân biệt được chúng với khái niệm các biện pháp thương mại phi thuế quan (Non-tariff Measures). Các rào cản thương mại phi thuế quan là các biện pháp phi thuế quan nhưng không phải tất cả các biện pháp phi thuế quan đều là rào cản phi thuế quan. Biện pháp phi thuế quan chỉ là rào cản phi thuế quan khi nó được áp dụng quá mức cần thiết nhằm mục đích bảo hộ.
  18. 18 Ưu điểm của việc áp dụng các rào cản phi thuế quan là: - Các rào cản phi thuế quan thường rất đa dạng. Có thể áp dụng nhiều biện pháp phi thuế quan khác nhau cho một mục tiêu nhất định, đồng thời, có thể áp dụng một rào cản phi thuế quan cho nhiều mục tiêu khác nhau cùng lúc. - Nhiều rào cản phi thuế quan rất tinh vi, và vì vậy có thể tránh được sự phản đối từ các đối tác bị áp dụng rào cản, nhất là khi các nước muốn sử dụng chúng để bảo hộ cho các ngành nội địa. Ví dụ như việc các rào cản ẩn mình dưới dạng các tiêu chuẩn kỹ thuật. Hơn nữa, rất nhiều các biện pháp trong số này hiện vẫn không bị cấm sử dụng như áp dụng các qui định về an toàn, vệ sinh, kiểm dịch, qui định về bảo vệ môi trường - Có hiệu lực ngay, khi muốn ngăn chặn việc nhập khẩu một hàng hoá nào đó. Điều này thì thuế quan không thể làm được. Về nhược điểm, các rào cản phi thuế quan không có tác dụng tăng thu ngân sách cho nhà nước, gây bất bình trong quan hệ với đối tác, nhiều khi nó cũng làm sai lệch tín hiệu của thị trường. Đối với các nhà xuất khẩu, các rào cản phi thuế quan thường không rõ ràng và khó dự đoán. Rào cản phi thuế quan bao gồm rất nhiều loại khác nhau, có thể được áp dụng ở biên giới hay nội địa, có thể là biện pháp hành chính và cũng có thể là các biện pháp kỹ thuật, có những biện pháp bắt buộc phải thực hiện nhưng cũng có những biện pháp hoàn toàn tự nguyện. Chính vì tính đa dạng của mình mà các rào cản có thể trùng lắp nhau. Việc phân chia các hình thức rào cản phi thuế quan chỉ mang tính chất tương đối. 1.3.2.1 Các biện pháp tương đương thuế quan (para-tariff measures) Đây là các biện pháp làm tăng giá hàng hoá nhập khẩu và do đó có tác động tương đương với thuế quan. Các biện pháp tương đương thuế quan bao gồm: Xác định trị giá hải quan Vì thuế nhập khẩu hàng hoá được tính trên cơ sở trị giá hải quan của hàng hoá nên việc xác định trị giá hải quan của hàng hoá là vô cùng quan trọng. Nó liên quan trước hết là đến số tiền thuế phải nộp và đồng thời đến giá cả hay khả năng cạnh tranh
  19. 19 của hàng hoá đó trên thị trường nước nhập khẩu. Trong trường hợp việc xác định trị giá hải quan không rõ ràng sẽ là một cản trở đối với thương mại. Về nguyên tắc cơ bản, trị giá hải quan của hàng hoá xuất nhập khẩu được xác định dựa trên trị giá giao dịch của hàng hoá đó hay số tiền thực tế người mua phải trả nhưng ở nhiều quốc gia người ta lại sử dụng bảng giá nhập khẩu tối thiểu như ở Việt Nam thời gian qua. Điều này vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tự do thương mại. Một tình huống khác là khi hải quan nghi ngờ trị giá giao dịch được khai báo là không xác đáng họ sẽ phải sử dụng hệ thống giá kiểm tra bằng cách so sánh trị giá giao dịch với bảng giá do hải quan xây dựng. Việc xây dựng bảng giá này nhiều khi tuỳ tiện và không cập nhật với các diễn biến trên thị trường, đó là chưa kể đến việc hải quan các nước thường xây dựng bảng giá này theo hướng có lợi cho mình. Phụ phí hải quan và các khoản thu khác Bên cạnh thuế quan, hải quan các nước thường thu thêm phụ phí hải quan và một số khoản thu khác. Đây là một biện pháp mà hầu hết các quốc gia đều sử dụng nhằm bình ổn giá cả cho các mặt hàng hay có biến động và tạo thêm nguồn thu, góp phần cùng với thuế quan bảo hộ cho sản xuất trong nước. Mặc dù Điều VIII của GATT yêu cầu lệ phí hải quan và các khoản thu phải bị giới hạn ở mức phù hợp với các dịch vụ được sử dụng, nhưng trên thực tế hầu hết các khoản lệ phí này, cũng như các khoản phí và khoản thu khác, là đánh trên trị giá hàng hoá chứ không phải dựa trên giá trị của các dịch vụ được sử dụng. Theo thống kê của OECD tháng 3/2005 có 51% các khoản lệ phí kiểu này ở các nước phát triển là được tính trên trị giá hàng, ở các nước đang phát triển là 71-76% và ở các quốc gia chậm phát triển là 83%. Ngoài ra, các biện pháp tương đương thuế quan còn có thể còn bao gồm: - Thuế đánh trên việc chuyển đổi ngoại tệ - Thuế tem hải quan - Thuế hoá đơn lãnh sự quán - Phí giấy phép nhập khẩu hàng hoá - Thuế và phí thu thêm đối với các danh mục hàng hoá nhạy cảm - Các khoản thu nội địa đối với hàng hoá nhập khẩu
  20. 20 1.3.2.2 Các biện pháp hạn chế định lượng (Quantitative Restriction) Đây là nhóm các biện pháp qui định trực tiếp về số lượng hoặc giá trị hàng hoá được nhập khẩu. Các biện pháp này hiện bị chỉ trích nhiều nhất và đang dần được gỡ bỏ. Các biện pháp hạn chế định lượng bao gồm: Cấm nhập khẩu (Prohibition) Đây là biện pháp bảo hộ cao nhất khi một quốc gia tiến hành lệnh cấm toàn diện việc nhập khẩu hàng hoá từ một thị trường nào đó, cấm nhập khẩu một mặt hàng nào đó hoặc cấm phần lớn các doanh nghiệp mà chỉ cho một số doanh nghiệp xác định được nhập khẩu hàng hoá. Thông thường biện pháp này được thực hiện nhằm đảm bảo an ninh quốc gia (ví dụ như cấm nhập khẩu vũ khí, đạn dược), bảo vệ đạo đức xã hội (cấm nhập khẩu các văn hoá phẩm không lành mạnh), bảo vệ tài sản quốc gia về nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ, bảo vệ môi trường và các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, bảo vệ cuộc sống của con người và động thực vật. Nhưng cũng không loại trừ mục đích cấm nhập khẩu là nhằm bảo hộ cho ngành công nghiệp nội địa như trường hợp Thái Lan cấm nhập khẩu đá xây dựng, áo thụng, túi xách và một số sản phẩm may mặc. Hạn ngạch nhập khẩu (Quota) Theo OECD, hạn ngạch nhập khẩu là việc định ra một số lượng hoặc giá trị hàng hoá nhất định được nhập khẩu. Có rất nhiều hình thức hạn ngạch khác nhau: hạn ngạch toàn cầu, hạn ngạch song phương (chỉ áp dụng cho một thị trường nhất định), hạn ngạch có liên quan đến thực hiện xuất khẩu, hạn ngạch với danh mục hàng hoá nhạy cảm, hạn ngạch vì lý do chính trị, hạn ngạch theo thời vụ. Thời gian áp dụng cho hạn ngạch thường là 1 năm. Hạn ngạch là biện pháp được sử dụng phổ biến trong TMQT hiện nay. Lý do áp dụng của hạn ngạch thường cũng giống như của lệnh cấm nhập khẩu, có thể là bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ cuộc sống của con người, động thực vật nhưng chủ yếu vẫn là để bảo hộ sản xuất và tiêu dùng nội địa. Giấy phép nhập khẩu (Import Licensing) Cấp giấy phép nhập khẩu là biện pháp quản lý nhập khẩu mà nước nhập khẩu yêu cầu hàng hoá khi nhập khẩu vào nước này phải có được giấy phép nhập khẩu.
  21. 21 Việc cấp giấy phép nhập khẩu có thể vì mục đích kinh tế hoặc không vì mục đích kinh tế. Cấp giấy phép nhập khẩu vì lý do kinh tế thường nhằm mục đích hạn chế nhập khẩu, bảo hộ cho hàng hoá được sản xuất trong nước, biện pháp này có hiệu quả như việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu. Cấp phép nhập khẩu không vì mục đích kinh tế là nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ con người và động thực vật, bảo vệ môi trường Có 2 hình thức cấp giấy phép nhập khẩu là Cấp giấy phép nhập khẩu tự động và Cấp giấy phép nhập khẩu không tự động. Khác biệt cơ bản nhất giữa việc cấp phép nhập khẩu tự động và không tự động là cấp giấy phép tự động chỉ nhằm mục đích thống kê thương mại để quản lý và điều tiết hoạt động nhập khẩu, cấp phép tự động đáp ứng cho mọi trường hợp xin cấp phép và ngay khi có yêu cầu xin cấp phép. Trong khi đó, cấp giấy phép nhập khẩu không tự động là một biện pháp kiểm soát nhập khẩu theo đó người xin cấp phép phải đáp ứng được một số tiêu chí nhất định. Cấp giấy phép nhập khẩu không tự động có thể được áp dụng cho nhiều mục đích khác nhau, nó có thể vì mục đích kinh tế, không vì mục đích kinh tế hoặc vì cả hai mục đích này. Chính vì sự không rõ ràng này nên hiện nó được các quốc gia sử dụng phổ biến như các rào cản thương mại nhằm mục đích hạn chế nhập khẩu. Nếu như cơ chế hạn ngạch không thực sự hiệu quả người ta có thể dễ dàng hạn chế nhập khẩu thông qua việc phân bổ giấy phép. Theo thống kê của OECD, biện pháp cấp giấy phép nhập khẩu không tự nguyện hiện vẫn được sử dụng phổ biến, nhất là ở các quốc gia đang phát triển và các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi. Ví dụ, ở Malaysia, cho tới năm 2001 có tới 27% dòng sản phẩm trong biểu thuế của nước này phải có giấy phép nhập khẩu so với 17% năm 1997. Hiện danh mục các hàng hoá nhập khẩu yêu cầu cấp các giấy phép không tự động của nước này vẫn rất nhiều, tới hơn 100 nhóm mặt hàng trong tổng số 137 nhóm mặt hàng áp dụng biện pháp phi thuế quan. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraint) Đây là biện pháp mà nước xuất khẩu hàng hoá buộc phải cam kết giới hạn lượng hàng xuất khẩu vào một thị trường dưới áp lực của nước này, nếu không sẽ bị áp dụng các biện pháp pháp trả đũa nghiêm khắc hơn.
  22. 22 Về bản chất, hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng giống như là hạn ngạch nhập khẩu đều được đưa ra nhằm bảo hộ cho ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu, nhưng khác biệt là ở chỗ hạn chế xuất khẩu tự nguyện được thực hiện bởi nước xuất khẩu chứ không phải nước nhập khẩu. Trong một số trường hợp, các nhà xuất khẩu sẵn sàng chấp nhận biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện vì với biện pháp này họ vẫn có khả năng thu được lợi nhuận lớn hơn nhờ mức giá cao hơn ở thị trường nhập khẩu. Trên cơ sở số lượng xuất khẩu cam kết tối đa với nước nhập khẩu, Chính phủ nước xuất khẩu sẽ tiến hành phân chia hạn ngạch xuất khẩu tự nguyện cho các công ty trong nước. Ví dụ điển hình cho biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện là cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ trước, dưới áp lực của phía Mỹ và EU nhằm bảo hộ cho thị trường nội địa của các nước này, Nhật Bản đã phải thực hiện việc hạn chế xuất khẩu tự nguyện sang hai thị trường này các mặt hàng thép, ô tô, máy công nghiệp. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có thể được áp dụng trong tình huống nước điều tra chống bán phá giá yêu cầu nước xuất khẩu thực hiện biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện và thay đổi mức giá bán. 1.3.2.3 Các rào cản kỹ thuật trong thương mại (Technical Barries to Trade) Rào cản kỹ thuật trong TMQT là hình thức bảo hộ mà nước nhập khẩu đưa ra các yêu cầu đối với hàng hoá nhập khẩu về qui cách, mẫu mã, chất lượng, vệ sinh, an toàn, và mức độ gây ô nhiễm môi sinh, môi trường Nếu hàng nhập khẩu không đạt được một trong những tiêu chuẩn đặt ra sẽ không được nhập khẩu vào nước đó. Về nguyên tắc, các biện pháp kỹ thuật được áp dụng nhằm đảm bảo an toàn vê sức khoẻ và môi trường cho người tiêu dùng ở nước nhập khẩu nhưng trên thực tế do không có được sự thống nhất về các tiêu chuẩn, các qui định chung cho mọi quốc gia nên các qui định này rất dễ được sử dụng như các rào cản thương mại. Ví dụ trường hợp Hàn Quốc qui định cam bán trên thị trường nước này phải có đường kính nhỏ hơn 2 inch. Vì cam được trồng ở Hàn Quốc thường nhỏ hơn rất nhiều so với loại cam Navel của Hoa Kỳ nên một qui định kiểu như thế này có tác dụng như một lệnh cấm đối với việc nhập khẩu cam Navel của Hoa Kỳ vào đây. Các qui định về rào cản kỹ thuật thường bao gồm: - Bản điều kiện kỹ thuật (qui cách, phẩm chất, chỉ tiêu )
  23. 23 - Tiêu chuẩn đóng gói và kí mã hiệu - Tiêu chuẩn của người tiêu dùng - Tiêu chuẩn sức khoẻ và an toàn - Các biện pháp an ninh và yêu cầu về môi trường. Do tính phức tạp và khả năng áp dụng biến hoá đa dạng của hình thức rào cản này, từ năm 1947 GATT đã có những vòng đàm phán về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại. Năm 1979 GATT đã công bố Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT), có hiệu lực từ 1/1/1980. Chúng ta sẽ xem xét Hiệp định này kỹ hơn trong phần các qui định của WTO về rào cản thương mại ở chương sau. 1.3.2.4 Các biện pháp về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (Precautionary Principle, Sanitary and Phytosanitary) Đây là các biện pháp thường được áp dụng trong việc kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm có nguồn gốc từ động thực vật nhằm bảo bảo vệ cuộc sống của con người và động thực vật tại nước nhập khẩu khỏi các nguy cơ dịch bệnh có thể có từ nước xuất khẩu. Nó có thể bao gồm các luật, các qui định, các yêu cầu và thủ tục; các quá trình và phương pháp sản xuất, thử nghiệm, thanh tra, chứng nhận và làm thủ tục chấp thuận; xử lý kiểm dịch; thủ tục lấy mẫu và đánh giá nguy cơ; các yêu cầu đóng gói và nhãn mác liên quan trực tiếp đến an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, do các qui định cho biện pháp này chỉ mang tính chung chung, ngay cả trong qui định của WTO cũng chỉ là đảm bảo “mức độ bảo vệ động thực vật phù hợp” nên các quốc gia rất dễ biến tấu chúng trở thành biện pháp hạn chế nhập khẩu. Ví dụ tiêu biểu cho trường hợp này là cho tới gần đây Trung Quốc vẫn không cho phép nhập khẩu sản phẩm thịt bò từ Hoa Kỳ với lý do bệnh dịch từ năm 2000, mặc dù dịch bệnh hiện đã kết thúc và các quốc gia khác đều đã cho phép nhập khẩu thịt bò của Hoa Kỳ. 1.3.2.5 Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời (Contingency Protection Measures) Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời còn được gọi theo cách khác là các biện pháp về bồi thường thương mại. Đó là các biện pháp được áp dụng nhằm chống lại sự cạnh tranh không công bằng của hàng nhập khẩu đối với hàng sản xuất trong
  24. 24 nước. Trên thực tế các biện pháp này thường được áp dụng nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ cho các ngành sản xuất nội địa. Các biện pháp thương mại tạm thời bao gồm: Thuế chống bán phá giá, Thuế chống trợ giá và các biện pháp đối kháng, thuế bảo hộ và các quyền hạn chế nhập khẩu để tự vệ. Hiện nay, đây là nhóm biện pháp đang được sử dụng phổ biến nhất và gây nhiều tranh cãi nhất trong các tranh chấp thương mại giữa Mỹ và EU, Mỹ và Trung Quốc, EU và Trung Quốc Cụ thể như việc gần đây Mỹ áp thuế bảo hộ đối với mặt hàng thép nhập khẩu vào nước này từ EU, Nhật Bản và Trung Quốc lên tới hơn 33%. Đối với nước ta, các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời hiện là những rào cản đang gây ra nhiều khó khăn nhất cho hoạt động xuất khẩu. Điển hình là vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa vào thị trường Hoa Kỳ kết thúc năm 2003, vụ kiện bán phá giá tôm đông lạnh của 6 quốc gia trong đó có Việt Nam của Liên minh tôm miền nam nước Mỹ và mới đây nhất là vụ kiện bán phá giá giày da của Việt Nam và Trung Quốc vào EU tháng 3/2006. Điều đặc biệt đáng lo ngại ở đây là các mặt hàng bị áp dụng các biện pháp này lại hầu hết là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. 1.3.2.6 Quản lý tỷ giá hối đoái (Exchange Rate Management) Các nước có thể sử dụng chính sách về tỷ giá hối đoái để hạn chế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Tỷ giá giữa đồng tiền của 2 quốc gia đơn thuần chỉ là giá của đồng tiền này để mua được đồng tiền kia, ví dụ 1 USD đổi được 100 Yên Nhật (JPY). Nếu như đồng JPY mất giá, lúc này 1 USD sẽ đổi được nhiều JPY hơn, ví dụ là 110 JPY. Tác động đầu tiên của việc này là nó làm cho việc nhập khẩu hàng ở chính quốc gia đó trở lên đắt đỏ hơn. Ví dụ, trong trường hợp đồng Yên mất giá 10% như ở trên và giá thịt bò nhập khẩu từ Mỹ là 2000 USD/tấn thì nay để nhập khẩu một tấn thịt bò người Nhật phải trả 2200 JPY thay vì 2000 JPY như trước kia. Chính từ cơ sở này, đã hình thành lên chính sách giảm trị giá của đồng nội tệ để hạn chế nhập khẩu. Và cũng bằng chính sách này các quốc gia có thể điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hoá của mình từ các thị trường khác nhau thông qua việc điều chỉnh tỷ giá với đồng tiền của nước xuất khẩu tương ứng. Hiện nay, quốc gia đang duy trì chính sách kiềm chế tỷ giá đồng nội tệ nổi bật nhất là Trung Quốc. Theo đánh giá của các đối tác thương mại lớn nhất là Mỹ và EU thì đồng nhân dân tệ của Trung Quốc hiện bị đánh tụt giá từ 15% đến 45%. Chính
  25. 25 sách này đã góp phần giúp Trung Quốc luôn là nước nhập siêu trong quan hệ với hầu hết các đối tác thương mại. Một rào cản khác cũng thông qua chính sách về đồng tiền là quản lý ngoại hối. Đó có thể là việc yêu cầu các công ty tham gia hoạt đông xuất nhập khẩu phải tự cân đối nguồn ngoại tệ của mình hoặc qui định mức ngoại tệ tối đa mà các cá nhân, các công ty được sử dụng trong một thời gian nhất định ở mức thấp do đó làm giảm khả năng tham gia vào các giao dịch thương mại của các doanh nghiệp này. Các biện pháp như vậy hiện đã bị hạn chế tương đối nhưng vẫn còn khá phổ biến ở các quốc gia đang phát triển. 1.3.2.7 Tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc (Domestic Content Requirements) Các chính phủ vẫn thường sử dụng tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc như một biện pháp hạn chế nhập khẩu. Tỷ lệ nội địa hoá được xem như một giải pháp tốt nhằm đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp trong nước. Tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc là tỷ lệ phần trăm trong tổng giá trị hàng hoá cần phải được thực hiện trong nước để hàng hoá này được tiêu thụ trên thị trường nội địa. Rất nhiều quốc gia phát triển vẫn thường sử dụng biện pháp này để thúc đẩy hoạt động sản xuất nông sản, ôtô hay dệt may trong nước. Chúng thường được phối hợp với chính sách thay thế hàng nhập khẩu bằng sản xuất trong nước. Tỷ lệ nội địa hoá bắt buộc đối với hàng nông sản không được áp dụng phổ biến so với các ngành khác, nhất là sản xuất ôtô và xe gắn máy, nhưng với một số mặt hàng nông sản nó đã thể hiện được hiệu quả của nó. Các quốc gia thành viên của các Hiệp định thương mại cũng thường sử dụng các qui định về tỷ lệ nội địa hoá để đảm bảo rằng các nước không phải là thành viên không thể lợi dụng Hiệp định để trốn thuế. Ví dụ, Khu vực NAFTA qui định về xuất xứ đối với mặt hàng nước cam là phải đảm bảo 100% nguồn gốc xuất xứ của cam nguyên liệu. 1.3.2.8 Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp nhà nước và quyền kinh doanh thương mại Đây là các biện pháp mà các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường hay áp dụng. Hiện tiêu biểu cho nhóm nước này là Trung Quốc và cả Việt Nam. Với các biện pháp này các quốc gia qui định chỉ một số doanh nghiệp nhà nước được tham gia kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu hoặc được nhập khẩu một số mặt hàng nhất định và
  26. 26 thông thường họ cũng chính là những nhà độc quyền đối với những sản phẩm này trên thị trường nội địa. Ví dụ tiêu biểu về các các doanh nghiệp nhà nước chi phối các mặt hàng nông sản Uỷ ban nhà nước về ngũ cốc, dầu ăn và thực phẩm Trung Quốc (COFCO). 3.2.2.9 Các rào cản khác Bên cạnh các rào cản kể trên, các rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc tế còn có thể là các biện pháp hành chính, các thủ tục hải quan, các qui định về xuất xứ hay các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại 1.4 Qui định của WTO về các rào cản thƣơng mại Được thành lập năm 1994 trên cơ sở tiền thân là Hiệp định chung và Thuế quan và Thương mại (GATT 1945), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hiện với 164 nền kinh tế thành viên (hiện chỉ còn một số ít các quốc gia mà đa phần là các nước nghèo, trong đó có Việt Nam, chưa phải là thành viên) bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới là tổ chức chi phối mạnh mẽ lên thương mại toàn cầu. Thương mại nội khối giờ đây gần như đã chiếm hầu hết thương mại toàn cầu. Với việc nước ta sẽ sớm trở thành thành viên của WTO trong năm 2006 này, việc nghiên cứu các rào cản thương mại trong khuổn khổ WTO là hết sức quan trọng, mở đường cho thương mại Việt Nam hội nhập vào đại gia đình WTO. Trong cơ cấu của WTO, tuy chỉ có Uỷ ban về các rào cản kỹ thuật liên quan đến thương mại là có tên gọi trực tiếp liên quan đến rào cản trong TMQT nhưng trong cơ cấu của tổ chức này còn có rất nhiều Uỷ ban khác được lập ra nhằm xây dựng các văn bản pháp lý, giám sát thực hiện, giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh liên quan đến các rào cản trong TMQT. Đó là những cơ quan như: - Uỷ ban về tự vệ - Uỷ ban về thủ tục cấp phép - Uỷ ban về các vấn đề liên quan đến chống bán phá giá - Uỷ ban về trợ cấp và các biện pháp đối kháng - Uỷ ban về qui tắc xuất xứ - Uỷ ban về kiểm dịch động thực vật
  27. 27 - Uỷ ban về tiếp cận thị trường - Uỷ ban về thương mại và môi trường - Uỷ ban về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại và một số Ban công tác có tính chuyên ngành và các nhóm đàm phán về các lĩnh vực chuyên môn cũng đều hoạt động dựa trên các nguyên tắc cơ bản của WTO và với mục tiêu dỡ bỏ các rào cản trong TMQT để đẩy nhanh hơn tiến trình tự do hoá thương mại trên toàn cầu. 1.4.1 Qui định của WTO về rào cản thuế quan 1.4.1.1 Qui định của WTO về thuế quan Thuế quan, do đặc thù là đảm bảo tính minh bạch và có thể dự báo được trong các hoạt động thương mại nên được WTO khuyến khích sử dụng thay vì các biện pháp phi thuế quan vốn bóp méo thương mại. Theo qui định của WTO, các quốc gia thành viên trong nội bộ khối sẽ dành cho hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác chế độ ưu đãi thuế quan là Thuế tối huệ quốc (MFN). Về mức thuế, thông qua nhiều vòng đàm phán khác nhau các thành viên của WTO đã liên tục có các cam kết về cắt giảm thuế quan. Trong đó, lần gần đây nhất là tại Vòng đàm phán Uruguay kết quả đạt được là rất khả quan với 22.500 danh mục mặt hàng của các quốc gia thành viên cam kết cắt giảm và ràng buộc thuế quan. Cắt giảm thuế quan Các quốc gia phát triển đã cắt giảm thuế quan đối với hầu hết các hàng hoá trong thời hạn 5 năm kể từ 1/1/1995 theo kết quả của Vòng đàm phán Uruguay. Trong đó, cắt giảm 38% thuế đối với các sản phẩm phi nông nghiệp, từ mức trung bình 6,3% - 3,8%, với các nước đang phát triển là 25%. Thêm vào đó, sẽ còn lại rất ít các mặt hàng phải chịu mức thuế suất cao. Tỷ lệ các hàng hoá nhập khẩu vào các quốc gia phát triển từ mọi nguồn khác nhau phải chịu mức thuế trên 15% sẽ được giảm xuống từ 7% đến 5%, tỷ lệ các hàng hoá xuất khẩu từ các quốc gia đang phát triển phải chịu mức thuế trên 15% sẽ giảm xuống từ 9% đến 5% [12]. Ràng buộc thuế quan
  28. 28 Cũng tại Vòng đám phán Uruguay, các quốc gia phát triển đã cam kết tăng ràng buộc thuế quan cho số các mặt hàng nhập khẩu từ 78% lên 99%. Với các quốc gia đang phát triển mức tăng được xem xét từ 21% lên 73%. Con số này đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi là 73% lên 98%. Mức thuế quan ràng buộc trung bình khác nhau giữa các nước phát triển cũng như giữa các nước đang phát triển. Ví dụ, thuế quan ràng buộc trung bình của Thụy Sỹ là 1,8%, trong khi của Australia là 14,2%. Trong số các nước đang phát triển, mức thuế quan ràng buộc chênh lệch từ 0% tại Hồng Kông tới xấp xỉ 60% tại ấn Độ. Khoảng một nửa số nước đang phát triển có mức thuế quan ràng buộc trung bình nằm trong khoảng 25% đến 40% [12]. Riêng đối với các mặt hàng nông sản, do trước đây Hiệp định GATT không đề cập đến, nên giờ đây với Hiệp định về hàng nông sản của WTO sẽ qui định vấn đề này. Tính đến trước Vòng đàm phán Uruguay có tới 30% số lượng nhập khẩu các mặt hàng nông sản phải chịu hạn ngạch hoặc các biện pháp hạn chế nhập khẩu khác, nhưng giờ đây tất cả đều được thuế hoá, với 100% số mặt hàng nông nghiệp chịu ràng buộc thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan hàng nông sản đối với các nước phát triển được thực hiện trong vòng 5 năm từ 1995–2000, mức cắt giảm là 36% với mức tối thiểu là 15% cho mỗi sản phẩm. Với các quốc gia đang phát triển thời hạn là 10 năm 1995- 2005, mức cắt giảm là 24% và mức tối thiểu cho mỗi sản phẩm là 10% [12]. Các nước kém phát triển không bị ràng buộc về vấn đề này. WTO cũng khuyến cáo các quốc gia có thể sử dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan thay thế cho hạn ngạch nhập khẩu và các biện pháp phi thuế quan khác đối với các mặt hàng nông sản. 1.4.1.2 Qui định của WTO về hạn ngạch thuế quan Cùng với thuế quan, hạn ngạch thuế quan cũng là biện pháp được WTO khuyến khích áp dụng đối với các sản phẩm nông nghiệp (qui định tại phụ lục I của Hiệp định về hàng nông sản). Cũng theo hiệp định này, các nước thành viên không được áp dụng các biện pháp phi thuế quan đối với hàng nông sản. Hạn ngạch thuế quan sẽ áp dụng hai mức thuế suất, một mức thấp cho lượng hàng trong hạn ngạch và mức thuế cao hơn cho lượng hàng hoá vượt hạn ngạch. Hạn ngạch này có thể được tính mức chênh lệch giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước.
  29. 29 Biện pháp này vừa đáp ứng được nhu cầu sử dụng hàng với giá vừa phải vừa bảo hộ được sản xuất trong nước. 1.4.2 Qui định của WTO về các rào cản phi thuế quan 1.4.2.1 Các biện pháp tương đương thuế quan Xác định trị giá hải quan Như trong phần 3 ở trên đã nói việc đánh thuế nhập khẩu hàng hoá là trên trị giá hải quan của hàng hoá nên việc xác định trị giá hàng hoá là rất quan trọng. Việc này rất dễ gây ra tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng giữa hàng hoá sản xuất nội địa và hàng nhập khẩu. WTO đã có một Hiệp định riêng qui định về vấn đề này là Hiệp định về trị giá hải quan. Hiệp định ràng buộc các quốc gia thành viên nhằm đảm bảo cho hàng hoá nhập khẩu vào các quốc gia này được xác định trị giá một cách khách quan và công bằng. Theo Hiệp định về trị giá hải quan: “Trị giá hải quan là trị giá giao dịch của hàng hoá xuất nhập khẩu, tức là giá phải trả hoặc sẽ được trả khi hàng hoá đó được bán” [12]. Theo Hiệp định các phương pháp xác định trị giá hải quan bao gồm: Trị giá giao dịch Trị giá hải quan theo nguyên tắc cơ bản của Hiệp định là trị giá được xác định dựa trên cơ sở giá thực thanh toán của hàng hoá được ghi trên hoá đơn hoặc hợp đồng mua bán. Bên cạnh trị giá ghi trên hợp đồng, trị giá hải quan còn có thể bao gồm: Phí hoa hồng và môi giới, trừ hoa hồng cho việc mua hàng; chi phí đóng gói và container; giá trị của hàng hoá hoặc dịch vụ phụ trợ; phí bản quyền và phí xin phép sử dụng bằng sáng chế. Các khoản thu về sau mà người bán được hưởng phát sinh do việc bán lại hàng, chuyển nhượng hoặc sử dụng hàng nhập khẩu tiếp sau đó. Phí vận tải, bảo hiểm và các loại phí liên quan khác tính đến điểm nhập khẩu, nếu quốc gia đó xác định trị giá hải quan trên cơ sở giá CIF. Hiệp định cũng qui định rõ các khoản phí không được tính vào trị giá hải quan, bao gồm: Chi phí vận tải nội địa sau khi vào lãnh thổ hải quan của nước nhập khẩu;
  30. 30 chi phí xây dựng, lắp ráp, bảo trì hoặc hỗ trợ kỹ thuật phát sinh sau khi nhập khẩu, thuế quan và các loại thuế của nước nhập khẩu. Tuy nhiên, một tình huống rất dễ xảy ra là khi hải quan nghi ngờ về tính trung thực của trị giá được ghi trên hoá đơn hay hợp đồng vì người bán và người mua có thể thông đồng hạ thấp giá ghi để trốn lậu thuế. Trong trường hợp này, Hiệp định cũng qui định 5 phương pháp xác định trị giá hải quan khác theo tuần tự là: - Trị giá giao dịch của hàng giống hệt - Trị giá giao dịch của hàng tương tự - Trị giá khấu trừ hay suy diễn - Trị giá tính toán - Phương pháp dự phòng Định giá Trong nhiều trường hợp nhằm bảo vệ thị trường nội địa hay hỗ trợ cho các nhà sản xuất trong nước, Chính phủ các nước sẽ qui định các mức giá tối đa hay tối thiểu. Cách thức này dù không vi phạm nguyên tắc Đối xử quốc gia nhưng trên thực tế nó có tác động xấu đến lợi ích của những nhà xuất khẩu hàng hoá vào thị trường đó. Với việc áp đặt giá tối đa, họ đã tạo nên một rào cản đối với những nhà xuất khẩu từ các quốc gia chậm phát triển hơn do tính cạnh tranh kém. Còn giá tối thiểu sẽ làm sai lệch các thông tin về thị trường, bóp méo hoạt động thương mại. Đây cũng là hình thức trợ cấp cho các nhà sản xuất nội địa. Biến phí và phụ thu Biến phí và phụ thu cũng là cách thức được nhiều quốc gia áp dụng nhằm hạn chế nhập khẩu. Biến phí thường được xác định bằng mức chênh lệch giữa giá cả hàng sản xuất nội địa và giá hàng nhập khẩu thấp hơn nhằm bảo hộ cho tính cạnh tranh của hàng nội địa. Phụ thu là các khoản thu ngoài thuế nhằm tăng nguồn thu và bình ổn giá cả của một số mặt hàng. Cả hai phương pháp này đều bị WTO lên án, trong khi Điều 4-Hiệp định Nông nghiệp yêu cầu phải thuế hoá các biến phí thì Điều 8-GATT 1994 qui định: “Tất cả các loại phí và phụ thu (không phải là thuế xuất nhập khẩu hay thuế nội địa khác) đánh vào hàng nhập khẩu chỉ đƣợc giới hạn ở mức tƣơng ứng với chi phí dịch vụ thực sự đƣợc sử dụng và không đƣợc áp dụng nhƣ sự bảo hộ gián tiếp cho
  31. 31 các sản phẩm nội địa, hay nhƣ thuế xuất nhập khẩu, hay cho mục đích thu ngân sách” [5]. 1.4.2.2 Các biện pháp hạn chế định lượng Quan điểm của WTO là ưu tiên sử dụng các biện pháp thuế quan nên nhóm biện pháp mang tính đặc thù chủ quan tác động đến thương mại quốc tế này được qui định khá chặt chẽ. Vì, các biện pháp phi thuế quan nói chung và những biện pháp hạn chế định lượng nói riêng không thể hiện tính minh bạch như thuế quan do tính pháp lý không cao bằng thuế. Hơn nữa, các biện pháp hạn chế định lượng dễ biến tướng hơn thuế quan, nó có thể là các biện pháp quản lý theo kế hoạch định lượng, quản lý theo cơ quan chuyên ngành, quản lý có điều kiện. Các biện pháp này được WTO qui định khá chặt chẽ. Cấm xuất nhập khẩu Đây là biện pháp có tính bảo hộ cao nhất, tác động nhanh chóng nhất và gây ra hạn chế lớn nhất đối với TMQT nên về cơ bản không được WTO cho phép sử dụng. Tuy nhiên, hiện do tình trạng phát triển không đồng đều giữa các quốc gia thành viên khi có tới 3/4 thành viên là các nước đang phát triển nên các quốc gia vẫn có thể sử dụng các biện pháp này trong một số trường hợp nhưng đồng thời phải tiến hành các biện pháp hạn chế sản xuất và tiêu dùng nội địa như: Nhằm bảo vệ an ninh quốc gia; Nhằm bảo vệ đạo đức xã hội; Nhằm bảo vệ con người, động vật và thực vật; Liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu vàng bạc; Nhằm bảo vệ các tài sản quốc gia về nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ; Nhằm bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm. Hoặc Được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm về lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác. Hạn ngạch nhập khẩu
  32. 32 Đây là biện pháp hạn chế về số lượng hoặc giá trị hàng hoá nhập khẩu từ một thị trường trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 năm). Nằm trong nhóm biện pháp hạn chế định lượng hạn ngạch nhập khẩu cũng bị cấm theo Điều XI (GATT 1994). Tuy nhiên, cũng tại Điều XIII (GATT 1994), WTO vẫn cho phép áp dụng biện pháp hạn ngạch trong một số trường hợp ngoại lệ: Nhằm hạn chế tạm thời, ngăn ngừa, khắc phục tình trạng khan hiếm trầm trọng về lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu; Nhằm đảm bảo tình hình tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán khi xảy ra tình trạng thâm hụt nghiêm trọng về dự trữ ngoại tệ, hoặc có số dự trữ quá nhỏ và cần phải nâng lượng dự trữ lên một mức hợp lý nhất định; Các nước đang phát triển cũng có thể áp dụng trong các chương trình trợ giúp của Chính phủ về đẩy mạnh phát triển kinh tế hoặc hạn chế để bảo vệ cho một số ngành công nghiệp; Ngoài ra, cũng như các biện pháp hạn chế định lượng khác hạn ngạch cũng được phép áp dụng trong trường hợp: bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ động thực vật quí hiếm, xuất nhập khẩu vàng bạc, tài sản quốc gia có liên quan đến văn hoá nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ, tài nguyên thiên nhiên quí hiếm. Tuy nhiên, khi áp dụng hạn ngạch WTO cũng yêu cầu các quốc gia phải thực hiện đồng thời các biện pháp: Hạn chế sản xuất hay tiêu dùng trong nước. Cam kết không làm ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia thành viên khác, đồng thời phải dần dần nới lỏng biện pháp này khi tình hình đã được cải thiện, sau đó dỡ bỏ hoàn toàn theo nguyên tắc chung của WTO. Giấy phép nhập khẩu Thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu có thể có nhiều dạng khác nhau và bao gồm nhiều khâu thủ tục khác nhau nên rất dễ gây ra các tiêu cực đối với hoạt động nhập khẩu. WTO đã có một hiệp định riêng về hoạt động cấp phép nhập khẩu, đó là Hiệp định IPL.
  33. 33 Về nguyên tắc chung, Hiệp định yêu cầu: Chế độ cấp và quản lý giấy phép không được gây phiền toái hơn mức cần thiết, trong đó có tính đến mục đích áp dụng. Nội dung của giấy phép và thủ tục cấp phép phải minh bạch, rõ ràng và có thể dự đoán được. Việc cấp giấy phép phải đảm bảo cho cả nhà nhập khẩu cũng nhà cung ứng nước ngoài khỏi những chậm chễ không cần thiết do những quyết định độc đoán. Các thủ tục hành chính để thực hiện chế độ cấp phép phải được áp dụng theo một cách thức công bằng và hợp lý và không được bóp méo thương mại. Hiệp định IPL cũng yêu cầu các nước thành viên phải công bố tất cả các qui định về thủ tục cấp phép nhập khẩu bao gồm danh mục các mặt hàng cần có giấy phép, các thủ tục nộp đơn xin cấp phép, cơ quan tiếp nhận và cấp phép, yêu cầu đối với nhà nhập khẩu trước khi việc cấp phép có hiệu lực. Đặc biệt, người nộp đơn chỉ cần tiếp cận tới một cơ quan hành chính (trong trường hợp đặc biệt cũng không được quá ba cơ quan). Đối với thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu tự động, do chỉ nhằm mục đích quản lý để điều tiết hoạt động nhập nên người nhập khẩu nộp đơn sẽ được cấp phép một cách vô điều kiện trong vòng 10 ngày. Đối với việc cấp phép nhập khẩu không tự động, vì mục đích hạn chế nhập khẩu của Chính phủ nên nó được áp dụng chủ yếu cho các hàng hoá bị quản lý bằng hạn ngạch. Khi áp dụng chế độ này WTO yêu cầu các cơ quan cấp phép phải công bố rõ: số lượng hoặc giá trị của hạn ngạch; thời gian cũng như tình hình phân chia hạn ngạch cho các nước; mọi thông tin về cấp giấy phép và phải thông báo cho Chính phủ nước mình biết về sự quan tâm của các nhà xuất khẩu và chính phủ của họ. Hiệp định cũng qui định rõ thời hạn phải cấp phép kể từ ngày nhận đơn là 30 ngày, việc cấp phép phải được thực hiện trên nguyên tắc theo đúng trình tự nộp đơn, việc cấp phép không tự động không được gây ra hạn chế hay bóp méo thương mại hơn mức các điều kiện do yêu cầu cấp phép đặt ra WTO cũng đã thành lập một Uỷ ban chuyên theo dõi hoạt động cấp phép nhập khẩu.
  34. 34 1.4.2.3 Các biện pháp liên quan tới doanh nghiệp Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp thường được thể hiện qua việc Chính phủ các quốc dành những đặc quyền ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước (State-owned Interprise) hay dành quyền cho một số công ty nhất định được tiến hành các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đối với tất cả hay một số mặt hàng nhất định, trên một số thị trường nhất định, hoặc có thể trong một thời gian nhất định. Những qui định kiểu này trái với nguyên tắc về tính công khai, minh bạch và bình đẳng của WTO. Điều 17-GATT 1994 qui định: “Các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu đƣợc nhà nƣớc ban cho những đặc quyền nhất định có thể gây ra những trở ngại lớn đối với thƣơng mại quốc tế” [5]. Các quốc gia thành viên của WTO phải dành cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành viên khác nhau những cơ hội thích hợp tham gia cạnh tranh phù hợp với thông lệ kinh doanh chung. Đặc biệt WTO còn qui định các thành viên phải có nghĩa vụ thông báo cho WTO về các doanh nghiệp thương mại nhà nước của mình. 1.4.2.4 Các biện pháp kỹ thuật Các qui định về tiêu chuẩn kỹ thuật Các qui định về tiêu chuẩn kỹ thuật được áp dụng thường được qui định trong Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) của WTO. Theo đó, Hiệp định xác định quyền của mỗi quốc gia thành viên được áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khoẻ và đời sống, đồng thời đưa ra những nguyên tắc đối với các văn bản pháp qui và tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm mục đích tránh những biện pháp được sử dụng như các rào cản thương mại. Hiệp định TBT đưa ra những điều khoản mà mỗi thành viên đều phải tuân thủ khi xây dựng, thông qua và áp dụng các tiêu chuẩn và văn bản pháp qui kỹ thuật (bao gồm cả các yêu cầu về bao bì, nhãn mác) và các thủ tục đánh giá sự phù hợp với các tiêu chuẩn và văn bản pháp qui kỹ thuật. Một mặt, Hiệp định thừa nhận quyền của mỗi quốc gia áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo vệ đời sống và sức khoẻ của con người, động thực vật. Mặt khác, Hiệp định TBT cố gắng đảm bảo rằng các qui tắc kỹ thuật không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế.
  35. 35 Các điều khoản phải chấp hành của Hiệp định TBT là tuân theo nguyên tắc đối xử tối huệ quốc MFN và đối xử quốc gia NT. Các văn bản pháp qui về kỹ thuật phải không được gây cản trở đối với thương mại nhiều hơn mức cần thiết để thực hiện “mục tiêu hợp pháp” và nhất thiết phải dựa trên những thông tin về khoa học và kỹ thuật hiện có. Các tiêu chuẩn quốc tế phải được dùng làm cơ sở cho các qui định về kỹ thuật này. Đồng thời, các điều khoản tương tự cũng phải được áp dụng cho thủ tục đánh giá sự phù hợp của các tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngoài ra, Hiệp định TBT cũng qui định mỗi thành viên đều phải thực hiện một số thủ tục thông báo nhất định khi dự thảo các qui tắc kỹ thuật mới, cũng như thiết lập những điểm hỏi đáp, cung cấp thông tin về các qui tắc kỹ thuật cấp quốc gia cho các bên quan tâm ở những nước thành viên khác. Các biện pháp về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật Các biện pháp về vệ sinh và kiểm dịch động thực vật thường được các quốc gia áp dụng nhằm bảo vệ sức khoẻ con người và động thực vật của mình. Điều này là rất quan trọng, chính vì vậy các biện pháp này không bị WTO nghiêm cấm chặt chẽ. Tuy nhiên việc áp dụng các tiêu chuẩn này cũng phải đảm bảo những nguyên tắc chung của WTO. Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ (Hiệp định SPS) của WTO qui dịnh cụ thể như sau: “Các thành viên không bị ngăn cản ban hành hay thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khoẻ con ngƣời, động và thực vật với điều kiện các biện pháp này không đƣợc áp dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử không hợp lý và tuỳ tiện, hay hạn chế một cách vô lý tới thƣơng mại quốc tế” [5]. Tuỳ thuộc từng quốc gia, các quốc gia có thể qui định mức độ bảo vệ thích hợp của riêng mình đối với sức khoẻ con người, động và thực vật. Tuy nhiên quốc gia đó phải đảm bảo rằng tất cả các biện pháp chỉ nằm trong phạm vi cần thiết và phải dựa trên các cơ sở khoa học. Trong trường hợp các chứng cứ khoa học liên quan không đầy đủ, quốc gia đó có thể áp dụng các biện pháp này trên các thông tin xác đáng sẵn có, bao gồm cả thông tin của các tổ chức quốc tế liên quan và từ chính việc áp dụng các biện pháp kiểm dịch của một quốc gia nào đó, đồng thời phải tìm kiếm bổ sung các thông tin cần thiết và tiến hành xem xét việc đánh giá các biện pháp tạm thời này trong một thời gian hợp lý. 1.4.2.5 Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời
  36. 36 Theo qui định các quốc gia thành viên được phép thực hiện các biện pháp thương mại tạm thời nhưng phải phải đảm bảo một số điều kiện nhất định. Những qui định về chống bán phá giá Bán phá giá là một biện pháp được các nhà xuất khẩu áp dụng nhằm thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Điều này gây tổn hại cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất ở nước nhập khẩu. Đáp lại, nước này sẽ áp dụng các biện pháp chống phá giá để ngăn chặn việc nhập khẩu các hàng hoá này. Biện pháp này bóp méo thương mại thông thường và bị WTO ngăn cấm. Điều này được qui định trong Hiệp định về Chống bán phá giá (Hiệp định ADP) của WTO. Theo Hiệp định ADP: “Phá giá nghĩa là sản phẩm đƣợc đƣa ra bán ở một nƣớc với mức giá thấp hơn giá trị thông thƣờng của nó và sản phẩm bị xem là đƣợc bán phá giá nếu giá xuất khẩu của nó thấp hơn giá của sản phẩm tƣơng tự đƣợc tiêu thụ trên thị trƣờng nội địa trong điều kiện buôn bán thông thƣờng” [12]. Đối với những trường hợp bán phá giá WTO cho phép các quốc gia được áp dụng thuế chống phá giá. Tuy nhiên, để có thể xác định rõ một mặt hàng xuất khẩu có được bán phá giá hay không Hiệp định ADP qui định rõ hai điều kiện: Thứ nhất, phải có đơn khiếu nại của ngành sản xuất nội địa hoặc của đại diện ngành với 25% các nhà sản xuất nội địa của ngành ủng hộ; Thứ hai, có ảnh hưởng xấu tới nước nhập khẩu như có sự gia tăng đáng kể của lượng hàng nhập khẩu so với hàng sản xuất nội địa, gây tổn hại hoặc có nguy cơ gây tổn hại đối với ngành sản xuất nội địa. Hiệp định ADP cũng qui định rõ các qui trình thủ tục mà nước nhập khẩu phải áp dụng khi tiến hành áp dụng biện pháp thuế chống phá giá trong đó có việc thông báo và tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu được cung cấp thông tin biện minh. Đặc biệt, WTO cũng qui định cụ thể trong việc điều tra về việc bán phá giá như cách xác định giá bình quân và trị giá cấu thành. Đồng thời, Hiệp định ADP cũng đưa ra một số qui tắc nhằm bảo vệ cho nhà xuất khẩu trong trường hợp này như: Qui tắc De minimis (dƣới mức) qui định nếu như biên độ bán phá là nhỏ (dưới 2% giá xuất khẩu), tỷ trọng hàng nhập khẩu thấp (dưới 3% tổng lượng nhập khẩu), mức thiệt hại gây ra là không đáng kể thì cơ quan điều tra
  37. 37 có thể bác đơn khiếu nại; Qui tắc cam kết về giá (Price undertakings) cho phép tránh đánh thuế phá giá nếu nhà xuất khẩu cam kết tăng giá hàng xuất khẩu; hay các qui tắc về Đánh thuế thấp (Lesser duty), Biện pháp tạm thời, Quyết định biên độ trợ cấp và biên độ phá giá, Điều khoản hoàng hôn Trợ cấp và các biện pháp đối kháng Cũng như bán phá giá, trợ cấp là biện pháp được áp dụng phổ biến trong TMQT. Đây cũng là biện pháp bóp méo thương mại tự do. Để ngăn chặn tình trạng này các quốc gia thường áp dụng các biện pháp đối kháng, và trong nhiều trường hợp các biện pháp này đã trở thành các rào cản đối với thương mại quốc tế. Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Hiệp định SCM) và Hiệp định Nông nghiệp (Hiệp định AoA) đã có những qui định rõ ràng những loại trợ cấp có tác động đến thương mại và đưa ra được các phương thức để các thành viên có thể đối phó với những gì họ cho là sự hỗ trợ của chính phủ gây tổn hại cho họ, đó là các biện pháp đối kháng. Theo Hiệp định SCM: “Trợ cấp là việc Chính phủ các quốc gia dành cho các doanh nghiệp những lợi ích mà trong điều kiện thông thƣờng doanh nghiệp đó không thể có đƣợc” [5]. Các lợi ích này có được từ việc: - Chính phủ trực tiếp cấp vốn, cho vay ưu đãi hoặc bảo lãnh các khoản vay. - Chính phủ miễn cho doanh nghiệp các khoản thu như các loại thuế, phí và lệ phí. - Chính phủ cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp hoặc tiêu thụ hàng hoá cho doanh nghiệp đó. Trên cơ sở đó, Hiệp định đã chia các hình thức trợ cấp thành 3 nhóm theo mô hình “đèn giao thông”: Nhóm thứ nhất, trợ cấp đèn đỏ - bị cấm áp dụng hoàn toàn: Đó là các hình thức Chính phủ thưởng tiền cho doanh nghiệp xuất khẩu, cung cấp đầu vào với điều kiện ưu đãi; miến thuế trực thu hoặc giảm các loại thuế gián thu đối với hàng xuất khẩu; trợ cấp hàng xuất khẩu thông qua ưu đãi về phí bảo hiểm; dành các khoản tín dụng xuất khẩu ưu đãi hơn đi vay của Chính phủ. Nhóm thứ hai, trợ cấp đèn vàng -có thể bị áp dụng các biện pháp đối kháng dù không bị cấm: Đây là các hình thức trợ cấp mang tính đặc thù, được áp dụng
  38. 38 trong một phạm vi giới hạn và không gây tác động bất lợi hay tổn hại cho các quốc gia thành viên khác như gây hậu quả nghiêm trọng đến ngành sản xuất nội địa như giảm sản lượng, tăng thất nghiệp. Nhóm thứ ba, trợ cấp đèn xanh - Hoàn toàn được áp dụng. Đây là các hoạt động như hỗ trợ nghiên cứu phát triển cho các công ty, hỗ trợ cho các vùng khó khăn hay hỗ trợ cải thiện điều kiện sản xuất nhưng với điều kiện chỉ dược giới hạn ở mức tối đa là 20% tổng chi phí cải tạo và không được lặp lại nhiều lần. Riêng đối với mặt hàng nông sản được điều chỉnh bởi Hiệp định AoA. Điều 9- 1 của Hiệp định đã liệt kê ra các nhóm trợ cấp bắt buộc các thành viên là các quốc gia phát triển phải cắt giảm là: - Trợ cấp theo chỉ tiêu xuất khẩu (thưởng xuất khẩu). - Bán nông sản dự trữ phi thương mại của Chính phủ với mức giá ưu đãi hơn so với các sản phẩm tương tự bán cho người tiêu dùng nội địa. - Các hình thức trợ cấp giúp giảm chi phí cho nhà xuất khẩu. - Dành các ưu đãi về giao nhận vận tải quốc tế cho hàng xuất khẩu so với hàng tiêu dùng nội địa. - Trợ cấp thông qua việc tài trợ thanh toán nông sản nhập khẩu là sản phẩm liên quan hay là một nguồn từ đó tạo ra sản phẩm xuất khẩu. Đối với các biện pháp hỗ trợ trong nước, do có thể cũng làm biến dạng thương mại nên được WTO chia làm 3 nhóm: Nhóm trợ cấp hộp màu xanh lá cây: là các biện pháp hỗ trợ mà các nhà sản xuất không phải cam kết do không có tác động làm biến dạng thương mại, bao gồm: Chi phí của Chính phủ về nghiên cứu, phát triển, tiếp thị hay xúc tiến, kiểm soát bệnh dịch, trợ cấp thiên tai; hỗ trợ của Chính phủ trong các chương trình bảo hiểm thu nhập; hỗ trợ trong việc điều chỉnh cơ cấu thông qua các chương trình sắp xếp lại lao động, bố trí lại các nguồn tài nguyên hay các nguồn vốn; trợ cấp theo các chương trình hỗ trợ địa phương, các khoản trợ cấp bảo vệ môi trường. Nhóm trợ cấp hộp màu xanh da trời cũng là các biện pháp được áp dụng nhưng phải đảm bảo các điều kiện: chúng chỉ dành cho những khu vực hay mức sản
  39. 39 lượng nhất định; chúng là những khoản trợ cấp chăn nuôi được tính trên đầu gia súc Nhóm trợ cấp hộp màu hổ phách bao gồm các biện pháp hỗ trợ trong nước bóp méo thương mại. Hiệp định SCM cũng đặt ra chế độ khai báo, theo đó hàng năm các thành viên phải khai báo đầy đủ các hình thức hỗ trợ mà mình áp dụng lên Uỷ ban thương mại của WTO. Tuy nhiên, biện pháp này hiện chưa được hưởng ứng. Năm 2001 chỉ có 41 trong tổng số 160 quốc gia thực hiện việc này. Tuy nhiên, Hiệp định SCM có qui định cụ thể các thủ tục điều tra chống trợ cấp và các biện pháp đối kháng. Phải có chứng cứ của việc trợ cấp đó và cũng phải chứng minh rằng trợ cấp đó gây tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp liên quan ở nước nhập khẩu và đó là hậu quả trực tiếp của việc trợ cấp. Nếu tất cả các điều kiện này đều đấy đủ, bên bị đơn có thể đưa ra các biện pháp đối kháng tạm thời. Các biện pháp này có thể là dưói hình thức thuế đối kháng hoặc cam kết của nước xuất khẩu về việc hạn chế các biện pháp trợ cấp gây tổn hại hoặc tự nguyện tăng giá. Điều khoản đặc biệt: WTO có dành một số ưu đãi cho các quốc gia đang phát triển: vẫn cho phép các quốc gia có thu nhập thấp (dưới 1.000 USD) được tiếp tục trợ cấp các sản phẩm công nghiệp. 1.4.2.6 Qui định về mua sắm chính phủ Mua sắm chính phủ nhiều khi chiếm tỷ trọng khá lớn trong thương mại của các quốc gia và có tầm quan trọng đáng kể về mặt tài chính. Một số tính toán cho thấy rằng mua sắm công của các nước thuộc khối OECD thường chiếm tới 10%-15% GNP của các nước này [23]. Trong khi đó, vì nhiều lý do khác nhau, các quốc gia thường có các qui định riêng cho những khoản mua sắm này như việc mua sắm của các Chính phủ được chỉ định đối với một số nhà cung cấp nhất định và các qui định về mua sắm chính phủ cũng có thể là các rào cản trong thương mại quốc tế. Điều này vi phạm nguyên tắc tự do trong thương mại của WTO. Hiệp định về Mua sắm chính phủ của WTO (Hiệp định GPA) chỉ rõ lĩnh vực mua sắm công của các nước thành viên phải được mở rộng cho cạnh tranh quốc tế, không có phân biệt đối xử và phải minh bạch trong quá trình mua sắm.
  40. 40 Tuy nhiên, hiện nay mới chỉ có 28 quốc gia thành viên trong đó chủ yếu là các quốc gia thuộc nhóm “có mức độ phát triển nhân lực cao” theo chỉ số của UNDP tham gia kí kết Hiệp định này. 1.4.2.7 Các biện pháp khác Các qui định về thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục hải quan cũng có thể là những rào cản gây khó khăn cho việc nhập khẩu hàng hoá. Đó là các yêu cầu về thanh toán, như thuế nhập khẩu phải được thanh toán ngay, yêu cầu về kí quĩ và đặt cọc, qui định về vị trí thông quan Theo qui định của WTO, các quốc gia thành viên phải hạn chế tới mức thấp nhất phạm vi và sự phức tạp của các thủ tục xuất nhập khẩu, giảm thiểu và đơn giản hoá những yêu cầu về hoá đơn, chứng từ (GATT 1994, Điều 1i). Đặc biệt, các biện pháp hạn chế thương mại được Chính phủ các quốc gia đơn phương áp dụng, mà Hoa Kỳ là ví dụ điển hình, đã vi phạm nguyên trọng nguyên tắc bình đẳng và tự do thương mại trong WTO. Với các biện pháp này, WTO cho phép các thành viên được khiếu kiện lên Ban giải quyết tranh chấp của mình và áp dụng các biện pháp trả đũa. Ngoài ra, WTO cũng có các hiệp định riêng về vấn đề xuất xứ hàng hoá, vấn đề các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, tuy nhiên trong điều kiện phạm vi nghiên cứu của đề tài, hiện nay hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam chưa phải gặp nhiều các rào cản từ các loại hình này nên người viết xin được không đề cập đến. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng bên cạnh thuế quan là hình thức rào cản truyền thống còn có rất nhiều loại hình rào cản khác nhau trong thương mại quốc tế. Chúng được xây dựng và áp dụng bởi các Chính phủ nhằm các mục tiêu chính đáng của các quốc gia như quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ của con người và động thực vật hay bảo vệ môi trường. Đồng thời chúng cũng được sử dụng vì một mục tiêu tối quan trong đó là kiểm soát và hạn chế hoạt động nhập khẩu hàng hoá nhằm bảo hộ cho các ngành sản xuất nội địa. Điều này là vi phạm nguyên tắc bình đẳng, tự do hoá trong thương mại. WTO với tư cách là tổ chức điều hành hoạt động thương mại thương mại quốc tế hiện nay, khi phần lớn các nền kinh tế trên thế giới đều đã tham gia vào tổ chức này,
  41. 41 đã có rất nhiều những qui định về các loại hình rào cản trong thương mại. Tuy nhiên, do yêu cầu bảo hộ, các quốc gia vẫn liên tục tạo lập và cải tiến các hàng rào thương mại của mình. Điều đáng lo ngại là ở chỗ, các hàng rào này ngày càng tinh vi, phức tạp và khó có thể dự báo được.
  42. 42 Chƣơng II. NGHIÊN CỨU CÁC RÀO CẢN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 2.1. Rào cản thƣơng mại ở những thị trƣờng xuất khẩu chính của Việt Nam 2.1.1 Các rào cản thƣơng mại của thị trƣờng Hoa Kỳ Cho đến năm 2005, Hoa Kỳ đã là bạn hàng quan trọng nhất của Việt Nam, với kim ngạch thương mại song phương tăng trưởng mạnh, đạt 7,6 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ là 6,23 tỷ USD, chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước [bảng 2.1]. Theo Vụ Châu Mỹ thuộc Bộ Thương mại cho biết, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ năm 2006 của một số nhóm mặt hàng chính như dệt may ước đạt 2,9 tỷ USD; đồ gỗ và nội thất là 1,3 tỷ USD; giày dép 1 tỷ USD; thuỷ sản 630 triệu USD; nông sản 450 triệu USD; máy móc thiết bị (thiết bị cơ khí và điện/điện tử) là 230 triệu USD. Bảng 2.1 Kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ của nƣớc ta thời gian qua Đơn vị: triệu USD 1995 2000 2004 2005 Tổng kim ngạch cả nước 4.953,5 13.329,0 26.504,0 32.442,0 Kim ngạch xuất khẩu vào thị 169,7 732,8 4.992,3 6.230,0 trường Hoa Kỳ Tỷ trọng (%) 3,1 5,1 18,8 19,2 Nguồn: Bộ Thƣơng mạ, 2006 [33] 1.1.1 Hàng rào thuế quan của Hoa Kỳ Hệ thống thuế quan của Hoa Kỳ được xây dựng trên cơ sở hệ thống thuế quan của Hội đồng Hợp tác Hải quan, một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tại Brussels. Biểu thuế nhập khẩu (HTS) hiện hành của Hoa Kỳ được ban hành trong Luật Thương mại và Cạnh tranh Omnibus năm 1988. Tất nhiên, các mức thuế nhập khẩu có thể được thay đổi và công bố hàng năm. Thông thường hàng nhập khẩu càng được chế biến sâu thì mức thuế áp dụng càng cao. Ví dụ, mức thuế MFN đối với cá tươi sống ở dạng đông lạnh là 0%, nhưng đối với cá kho và xông khói là 4%-6%. Cách áp thuế
  43. 43 này có tác dụng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế hơn so với hàng thành phẩm. Hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ, tuỳ theo chủng loại, có thể bị đánh thuế hoặc được miến, mức thuế suất phụ thuộc vào nước xuất xứ vì nó liên quan đến các mức ưu đãi thuế quan khác nhau của Hoa Kỳ. Cách tính thuế Thuế theo giá trị: Hầu hết các loại thuế quan của Hoa Kỳ được đánh trên tỷ lệ theo giá trị, tức là bằng một tỷ lệ % trên trị giá giao dịch. Ví dụ, mức thuế tối huệ quốc năm 2004 đối với chè xanh có hương vị đóng gói không quá 3 kg/gói là 6,4%. Thuế tuyệt đối: Một số mặt hàng nhập khẩu, chủ yếu là nông sản và hàng sơ chế phải chịu thuế theo trọng lượng, khối lượng hoặc thể tích. Loại thuế này chiếm khoảng 12% số dòng thuế trong biểu thuế HTS của Hoa Kỳ. Ví dụ mức thuế MFN năm 2004 đối với cam là 1,9 cent/kg, đối với nho tươi là 1,13 – 1,80 USD/m3 hoặc có thể được miễn thuế tuỳ theo thời điểm nhập khẩu trong năm. Thuế gộp: Với một số mặt hàng nhập khẩu vào thị trường Mỹ sẽ phải chịu cả thuế theo giá trị và thuế tuyệt đối theo số lượng. Hàng thường phải chịu thuế gộp là các mặt hàng nông sản. Ví dụ, thuế suất MFN đối với mặt hàng nấm áp dụng trong năm 2004 là 8,8 cent/kg + 20%. Thuế hạn ngạch: Một số mặt hàng, mà cụ thể hiện nay là thịt bò, các sản phẩm sữa, đường nhập khẩu vào Mỹ sẽ phải chịu thuế hạn ngạch. Đặc biệt ở Mỹ, lượng hàng hoá nhập khẩu nằm trong phạm vi hạn ngạch sẽ được hưởng mức thuế thấp, nhưng với lượng hàng vượt quá hạn ngạch sẽ phải chịu mức thuế cao hơn rất nhiều. Ví dụ, mức thuế MFN áp dụng đối với số lượng trong hạn ngạch bình quân là 9%, còn mức thuế đối với số lượng vượt quá hạn ngạch trung bình là 53%. Các biểu thuế Biểu thuế quan của Hoa Kỳ bao gồm 3 cột thuế là: thuế tối huệ quốc, thuế phi tối huệ quốc, và thuế ưu đãi. Thuế tối huệ quốc (MFN), hay còn gọi là mức thuế dành cho các nước có quan hệ thương mại bình thường, cụ thể là được áp dụng với những nước thành viên của WTO và những nước tuy chưa là thành viên của WTO nhưng đã kí Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Việt Nam cũng nằm trong diện này. Mức thuế tối huệ
  44. 44 quốc nằm trong phạm vi từ dưới 1% đến gần 40%, trong đó hầu hết các mặt hàng chịu mức thuế từ 2% đến 7%, mức bình quân chỉ khoảng 4%. Riêng đối với hàng dệt may và giầy dép (2 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào Hoa Kỳ) thường phải chịu mức thuế cao hơn. Thuế phi tối huệ quốc (Non-MFN) được áp dụng đối với những nước chưa phải là thành viên của WTO và chưa ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Số các quốc gia như vậy hiện còn rất ít, trong số đó có Lào, Cu Ba, Bắc Triều Tiên. Thuế suất Non-MFN nằm trong khoảng từ 20% đến 110%, cao hơn rất nhiều so với mức thuế MFN. Thuế suất ƣu đãi là các mức thuế áp dụng cho các đối tác thương mại là các quốc gia nằm trong Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) là Canada và Mexico (được miễn thuế nhập khẩu hoặc mức thuế suất thường thấp hơn mức thuế MFN); nằm trong Sáng kiến lòng chảo Caribê; các quốc gia có kí Hiệp định thương mại tự do song phương với Hoa Kỳ như Irsael, Jordan, Singapore, Chile, Australia (thường được miến thuế nhập khẩu hoặc có mức thuế thấp hơn nhiều so với mức thuế MFN); và một số ưu đãi khác như theo Luật Hỗ trợ Phát triển Châu Phi. Đặc biệt, Hoa Kỳ cũng dành Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) cho các quốc gia đang phát triển. Theo đó một số mặt hàng nhập khẩu được Hoa Kỳ cho hưởng GSP sẽ được miễn thuế nhập khẩu. Hiện nay, có khoảng 3.500 sản phẩm từ trên 140 nước và vùng lãnh thổ được hưởng ưu đãi này, nhưng rất tiếc, do nhiều lý do, Việt Nam hiện không nằm trong số này. Trong khi đó đại đa số các mặt hàng được hưởng GSP là những mặt hàng thuộc nhóm nông hải sản, thực phẩm và đồ uống, nhựa và sản phẩm nhựa, cao su và sản phẩm cao su, đồ gỗ và một số mặt hàng dệt may, vốn là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam; trong đó có không ít mặt hàng có thuế suất MFN không hề thấp, ở mức từ 10% đến 35%. Mặt khác, hầu hết các nước được hưởng GSP cũng là các nước đang phát triển và có cơ cấu mặt hàng tương tự như của Việt Nam. Đây chính là bất lợi không nhỏ của chúng ta. Xác định trị giá hải quan Khác với ở Việt Nam và một số nước khác, trị giá hải quan của Hoa Kỳ cơ bản được dựa trên trị giá giao dịch mà người mua đã thực trả hoặc sẽ phải trả cho người bán. Và theo cách tính này các chi phí như cước phí vận tải quốc tế và phí bảo hiểm;
  45. 45 cước phí vận tải nội địa đến cảng tại nước xuất khẩu nếu giao hàng được thực hiện bằng một vận đơn suốt sẽ không được tính vào trị giá hải quan để áp thuế nhập khẩu nếu được tách bạch trên hoá đơn bán hàng. Điều này dẫn đến một lưu ý dành cho các nhà xuất khẩu của Việt Nam khi xuất hàng sang Hoa Kỳ là trong quá trình lập bộ chứng từ mặc dù đơn giá và tổng trị giá trên hoá đơn có thể vẫn ghi theo giá C&F hoặc giá CIF để phù hợp với hợp đồng mua bán, nhưng số tiền cước phí vận tải quốc tế và phí bảo hiểm vẫn phải được thể hiện trên hoá đơn. Trong trường hợp Hải quan Hoa Kỳ xác định trị giá giao dịch thể hiện trên chứng từ không phải là giá đầy đủ hoặc có yếu tố không xác định được thì họ cũng sử dụng các phương pháp xác định trị giá theo thứ tự ưu tiên là: trị giá giao dịch của hàng hoá cùng loại hoặc tương tự, trị giá khấu trừ và trị giá tính toán. 2.1.1.2 Hàng rào phi thuế quan của Hoa Kỳ Nhắc đến Hoa Kỳ là nhắc đến quốc gia có hàng rào phi thuế quan chặt chẽ và phức tạp nhất trên thế giới. Bên cạnh Luật thuế quan, trong việc quản lý nhập khẩu, Hoa Kỳ còn có nhiều Đạo luật điều chỉnh như một số luật về bồi thường thương mại, một số luật hạn chế nhập khẩu, một số đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng và các luật về bảo vệ môi trường. Sau đây sẽ là những rào cản phi thuế quan chính của Hoa Kỳ: Hạn ngạch nhập khẩu Hạn ngạch nhập khẩu nằm trong nhóm các quyền hạn chế nhập khẩu tự vệ của Hoa Kỳ theo Luật thương mại và cạnh tranh Omnibus năm 1988 (Mục 1401) và Luật về các Hiệp định vòng Đàm phán Uruguay (Mục 301-304), theo đó qui định quyền và trình tự cho Tổng thống có thể tiến hành một số biện pháp, kể cả các biện pháp hạn chế nhập khẩu nhằm hỗ trợ một ngành sản xuất nào đó trong nước đã và đang bị thiệt hại do hàng hoá nhập khẩu với khối lượng lớn gây lên. Điều kiện để tiến hành các biện pháp này là phải có đơn khiếu nại của đại diện ngành hoặc theo yêu cầu của Tổng thống hoặc của Đại diện thương mại Hoa Kỳ hoặc do tự Uỷ ban Thương mại quốc tế của Hoa Kỳ quyết định. Khi đó, Uỷ ban này sẽ có trách nhiệm điều tra, báo cáo kết quả và khuyến nghị các biện pháp lên Tổng thống. Hạn chế nhập khẩu nông sản và hàng dệt
  46. 46 Luật Nông nghiệp Hoa Kỳ năm 1956 (Mục 204) uỷ quyền cho Tổng thống đàm phán các hiệp định với chính phủ nước ngoài để hạn chế xuất khẩu nông sản và hàng dệt vào Hoa Kỳ. Hiện nay, quyền hạn chế nhập khẩu nông sản và hàng dệt vào Hoa Kỳ được thực hiện theo qui định của Luật thực hiện các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay. Trong số đó, Hiệp định hàng dệt may (ATC) thay thế cho Hiệp định đa sợi (MFA) hết hiệu lực vào năm 1994 cho phép các thành viên GATT đàm phán các hiệp định song phương nhằm hạn chế về số lượng đối với hàng dệt và quần áo nhập khẩu. Hiệp định dệt may song phương Việt Nam - Hoa Kỳ ký tháng 4/2003 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/5/2003. Theo hiệp định này, 38 cát hàng dệt may từ Việt Nam phải chịu hạn chế về số lượng nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Vì Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO, nên xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Hoa Kỳ sau 1/1/2005 vẫn bị hạn chế bằng hạn ngạch. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Luật thực hiện các Hiệp định Vòng đàm phán Uruguay (Mục 401) đã sửa đổi Luật Điều chỉnh nông nghiệp năm 1933 (Mục 22) nhằm cấm các hình thức hạn chế số lượng hoặc lệ phí đối với việc nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp từ các nước thành viên WTO. Thay vì áp dụng các quyền hạn chế nhập khẩu, Hoa Kỳ đã đồng ý để chuyển việc áp dụng hạn ngạch và lệ phí đối với hàng nông sản sang thuế hạn ngạch, đồng thời giảm dần thuế quan theo yêu cầu của các hiệp định trong khuôn khổ vòng đàm phán Uruguay cũng yêu cầu các thành viên WTO cam kết giảm trợ giá xuất khẩu và trợ giá trong nước, đồng thời mở cửa thị trường nông sản. Tuy nhiên, quyền hạn chế nhập khẩu này vẫn tiếp tục được áp dụng đối với các nước không là thành viên WTO, mà Việt Nam hiện vẫn nằm trong diện này. Cấm nhập khẩu một số loại rau quả Theo Luật điều chỉnh nông nghiệp của Hoa Kỳ, nước này sẽ cấm nhập khẩu một số loại rau quả không đáp ứng được các yêu cầu về phẩm cấp tiêu thụ do Bộ nông nghiệp đặt ra đang có hiệu lực đối với các sản phẩm trong nước cùng loại về kích cỡ, chất lượng hay độ chín. Danh mục này có thể thay đổi nhưng hiện bao gồm: chà là, bưởi, kiwi, oliu, hành, cam, mận, mận khô, cà chua, nho khô và hạnh nhân. Hạn chế nhập khẩu theo luật Môi trƣờng
  47. 47 Một số luật của Hoa Kỳ qui định có thể sử dụng những biện pháp hạn chế nhập khẩu để ép các chính phủ nước ngoài áp dụng những thông lệ bảo vệ các loài động vật có nguy cơ tiệt chủng, bảo vệ cá heo, hải sản và chim rừng: + Luật bảo vệ động vật biển có vú 1972 (MMPA) + Luật chương trình bảo tồn cá heo quốc tế 1997 + Mục 609 của Công luật Hoa Kỳ (cấm nhập khẩu tôm được đánh bắt tự nhiên nhằm bảo vệ loài rùa biển, nhưng đây bị coi như một biện pháp bảo hộ tinh vi cho ngành đánh bắt tôm của Hoa Kỳ) + Điều 8 Luật bảo vệ ngư dân 1976 + Luật thực thi lệnh cấm đánh bắt ngoài khơi xa bờ bằng lưới quét năm 1992 + Đạo luật năm 1973 về các loài động vật có nguy cơ bị diệt chủng + Luật bảo tồn chim rừng năm 1992 Hạn chế nhập khẩu vì an ninh quốc gia Hiện nay, tuy hàng nhập khẩu từ Việt Nam chưa bị các biện pháp khẩn cấp liên quan đến an ninh và chính trị ảnh hưởng, nhưng do hệ thống chính trị của hai nước khác nhau nên chúng ta cũng cần xem xét một số tiền lệ để tránh những ảnh hưởng tiêu cực có thể có. Đó là Đạo luật về quyền lực kinh tế trong trường hợp khẩn cấp được thông qua năm 1977 theo đó cho phép Tổng thống phong toả tài sản của người nước ngoài tại lãnh thổ Hoa Kỳ, áp đặt các biện pháp cấm vận và các biện pháp khác được xem là cần thiết để đối phó với những đe doạ đặc biệt hoặc không bình thường đối với an ninh quốc gia, chính sách đối ngoại hoặc các lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ. Các quyền hạn chế nhập khẩu tự vệ Đây là một trong những điều luật cản trở thương mại tự do gây nhiều tranh cãi nhất của Hoa Kỳ. Luật Thương mại và Cạnh tranh Omnibus năm 1988 và Luật về các Hiệp định vòng Đàm phán Uruguay của Hoa Kỳ qui định quyền và trình tự cho Tổng thống có thể tiến hành một số biện pháp như tăng thuế, áp dụng hạn ngạch thuế quan kể cả biện pháp hạn chế nhập khẩu nhằm hỗ trợ một ngành sản xuất nào đó trong nước đã và đang bị thiệt hại nghiêm trọng, hoặc bị đe doạ thiệt hại nghiêm trọng do hàng nhập khẩu với khối lượng lớn gây nên. Quyền này có thể áp dụng ngay cả khi hàng nhập khẩu được coi là không bán phá giá.
  48. 48 Các biện pháp thương mại tạm thời Các biện pháp đối kháng nằm trong một số luật về bồi thường thương mại của Hoa Kỳ với các luật Chống bán phá giá và Chống trợ giá. Trên danh nghĩa, mục đích của các luật này là nhằm chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh của hàng nhập khẩu đối với hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, trên thực tế, các luật này được soạn thảo, thông qua và áp dụng là vì lợi ích của các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhằm hạn chế cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài tại thị trường Hoa Kỳ. Vì thế, bồi thường thương mại đã trở thành công cụ để các công ty Hoa Kỳ sử dụng thường xuyên phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh của mình. Theo thống kê của Uỷ bản Thương mại quốc gia Hoa Kỳ (USITC), trong giai đoạn từ 1980 đến 2001, nước này đã tiến hành điều tra 910 vụ kiện bán phá giá, trong đó áp thuế chống phá giá đối với 399 vụ. Với nước ta, đây là hai rào cản thương mại thực sự với các vụ kiện bán phá giá cá Tra, cá Basa và vụ kiện bán phá giá tôm đông lạnh vào Hoa Kỳ thời gian qua. Theo Luật thuế chống phá giá của Hoa Kỳ, một vụ kiện bán phá giá sẽ được tiến hành khi có đơn khởi kiện của một ngành sản xuất bị ảnh hưởng hoặc có thể do chính Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) tự khởi sướng. Khi đó DOC sẽ tiến hành điều tra xem liệu mặt hàng đó có được bán phá giá vào thị trường Hoa Kỳ hay không. Thuế chống phá giá sẽ được áp dụng khi có đủ hai điều kiện: (1) DOC phải xác định hàng nước ngoài đang được bán phá giá hoặc sẽ có thể sẽ được bán phá giá ở thị trường nước này, và (2) USITC phải xác định được hàng nhập khẩu được bán phá giá đang gây thiệt hại vật chất hoặc đe doạ gây thiệt hại vật chất hoặc ngăn cản việc hình thành ngành công nghiệp tương tự tại Hoa Kỳ. Mức thuế chống phá giá được ấn định bằng mức chênh lệch giữa “giá trị thông thường” và mức giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. DOC xác định giá trị thông thường của hàng nhập khẩu theo 3 cách với thứ tự ưu tiên là: (1) Giá bán của hàng hoá trên thị trường nội địa, (2) Giá bán của hàng hoá sang thị trường thứ ba, (3) Theo “Giá trị tính toán” của hàng hoá bằng tổng chi phí cộng với các khoản lợi nhuận và một số chi phí.
  49. 49 Tuy nhiên, khi xác định giá trị của hàng hoá bị nghi là bán phá giá Hoa Kỳ chia các quốc gia thành hai nhóm nước đó là các quốc gia có nền kinh tế thị trường và các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường (NME). Với các quốc gia có nền kinh tế phi thị trường DOC quan niệm sự can thiệp của Chính phủ các nước này đã làm cho các số liệu về chi phí sản xuất và giá cả không phản ánh đúng giá trị thông thường của sản phẩm nên họ sẽ sử dụng phương pháp so sánh giá-với-giá thông qua một nước thứ ba để xác định giá trị thông thường cho sản phẩm. Việt Nam hiện vẫn bị Hoa Kỳ coi là nền kinh tế phi thị trường nên trong vụ kiện các Tra, cá Basa năm 2003 vừa qua Bangladesh được chọn là nước thay thế. DOC đã sử dụng giá cá giống nguyên con tương tự, giá lao động và các yếu tố đầu vào khác, cũng như mức các chi phí khác và mức lợi nhuận của các cơ sở sản xuất/xuất khẩu cá của nước này để xây dựng giá trị thông thường cho cá xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, do đại đa số các nhà sản xuất/xuất khẩu cá Tra, các Basa của Việt Nam đều áp dụng qui trình sản xuất khép kín từ khâu ươm con giống, nuôi cá, chế biến đến xuất khẩu dẫn đến giá thành cá của Việt Nam rất thấp. Nếu căn cứ vào các số liệu chi phí sản xuất thực tế ở Việt Nam thì chắc chắn không thể có bán phá giá mặt hàng này từ Việt Nam vào Hoa Kỳ. Trong quá trình điều tra, nhằm xác định giá trị thông thường của hàng hoá bị nghi là được bán phá giá, DOC sẽ dành cho các nhà sản xuất/xuất khẩu quyền được giải trình thông qua các nhóm câu hỏi về tập quán bán hàng của công ty (Phần A), về tiêu thụ nội địa và xuất khẩu sang các thị trường khác (Phần B), và xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ (Phần C). Đôi khi DOC cũng có các câu hỏi về chi phí sản xuất mặt hàng thuộc diện điều tra (Phần D). Trong vụ kiện tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam, Phần D là phần khó nhất mà các doanh nghiệp bắt buộc phải trả lời và trên thực tế là một trong 4 đơn vị đã không xác thực được phần trả lời của mình và kết quả là phải chịu mức thuế chống bán phá giá toàn quốc. Sau khi USITC ra quyết định cuối cùng về việc ngành công nghiệp trong nước bị thiệt hại, và DOC xác định việc bán phá giá hoặc trợ giá của nhà xuất khẩu cơ quan này sẽ ban hành lệnh áp thuế AD hoặc CVD. Tuy nhiên, các mức thuế AD được áp dụng cũng có sự phân biệt giữa các nền kinh tế thị trường và các nền kinh tế phi thị trường. Cụ thể là:
  50. 50 Đối với các nền kinh tế thị trƣờng: mức thuế chống phá giá được tính riêng cho từng nhà nhập khẩu Đối với các nền kinh tế phi thị trƣờng: DOC sẽ không tự động tính và áp mức thuế riêng cho từng công ty xuất khẩu mà mức thuế bao gồm: + Thuế suất toàn quốc: áp dụng cho tất cả các công ty không tham gia điều tra hoặc không chứng minh được tính độc lập của mình vào nhà nước. + Thuế suất riêng rẽ: áp dụng cho từng bị đơn bắt buộc khi xác định được các điều kiện để được hưởng thuế suất riêng rẽ. Mức thuế này thường thấp hơn hẳn mức thuế toàn quốc. Trong vụ kiện philê cá Tra và cá Basa của nước ta năm 2003 vừa qua, mức thuế cuối cùng của DOC được áp riêng cho 4 bị đơn bắt buộc là: 36,84% (Công ty Vinh Hoan), 44,76% (Agifish), 45,55% (Cataco) và 52,9% (Nam Việt), và 7 bị đơn tự nguyện trả lời được câu hỏi phần A được hưởng mức thuế riêng rẽ là 44,66%. Còn mức thuế chung toàn quốc của vụ kiện này là 63,88%. Trong vụ kiện tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam, mức thuế riêng rẽ cuối cùng của DOC đối với 3 trong số 4 bị đơn bắt buộc là: 4,13%, 4,21%, và 4,99% (một bị đơn bắt buộc không xác thực được phần trả lời của mình nên phải chịu mức thuế chung toàn quốc). 29 trong số 34 bị đơn tự nguyện được hưởng mức thuế riêng rẽ là 4,38% còn mức thuế chung toàn quốc là 25,76%. Hàng rào kỹ thuật và an toàn thực phẩm cao Ở Hoa Kỳ có rất nhiều các các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng, chính vì vậy các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu vào nước này là rất cao. Các qui định về kỹ thuật này được áp dụng nhiều nhất là đối với các hàng hoá là lương thực, thực phẩm, đồ uống, dược phẩm, mỹ phẩm, thiết bị y tế, hàng tiêu dùng và các loại xe có động cơ vì mục đích an toàn và vì sức khoẻ. Đặc biệt, ở Hoa Kỳ hệ thống các qui định về tiêu chuẩn và kinh tế có thể do cấp liên bang, do từng bang hoặc thậm chí là các tiểu bang hay quận đưa ra. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến các qui định của một số luật cơ bản của Hoa Kỳ về vấn đề này. Đối với hàng hoá là sản phẩm tiêu dùng, Luật An toàn sản phẩm tiêu dùng của Hoa Kỳ qui định Uỷ ban An toàn sản phẩm tiêu dùng của nước này xây dựng các tiêu chuẩn tự nguyện, ban hành và quản lý việc thực thi các tiêu chuẩn bắt buộc đối với
  51. 51 các sản phẩm này. Các tiêu chuẩn an toàn này liên quan đến cả sự vận hành, thành phần, nội dung, thiết kế, sản xuất, đóng gói và dán nhãn sản phẩm. Đặc biệt, Luật về trách nhiệm đối với sản phẩm vủa Hoa Kỳ yêu cầu các nhà sản xuất, các nhà phân phối phải có trách nhiệm đối với những thương tật do khuyết tật của sản phẩm gây ra cho người sử dụng hoặc những người ở gần sản phẩm đó. Khuyết tật đó có thể là khuyết tật sản xuất, lỗi thiết kế hoặc thậm chí là lỗi cảnh báo không đầy đủ cho người tiêu dùng. Các sản phẩm bị phát hiện có khuyết tật sẽ không được nhập khẩu vào Hoa Kỳ hoặc bị thu hồi để sửa chữa hoặc thay thế miễn phí. Nếu là các sản phẩm có chứa chất độc hại, Luật về các Chất nguy hiểm của Hoa Kỳ yêu cầu việc dán nhãn không chỉ bao gồm các thông tin hướng dẫn cách bảo quản và sử dụng mà còn phải hướng dẫn các biện pháp sơ cứu khi tai nạn xảy ra Hàng hoá là thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm sẽ chịu sự quản lý của Cục Quản lý an toàn Thực phẩm và Dược phẩm trên cơ sở Luật về Thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm của Hoa Kỳ. Theo đó sẽ không cho nhập khẩu vào Hoa Kỳ các sản phẩm mà: (1) Được sản xuất, chế biến hay đóng gói trong những điều kiện không vệ sinh, (2) bị cấm hay hạn chế bán ở chính ngay nước mà hàng hoá đó được sản xuất hay xuất khẩu, (3) bị pha trộn hoặc dán nhãn sai. Ngoài ra, theo Đạo luật về chống khủng bố sinh học năm 2002, các cơ sở sản xuất, chế biến hay đóng gói, bảo quản thực phẩm dành cho người và động vật tại Hoa Kỳ sử dụng phải đăng kí cơ sở với Cục Quản lý an toàn Thực phẩm và Dược phẩm. Đối với các sản phẩm có nguồn gốc thực vật, vật nuôi, thịt và gia cầm, các sản phẩm sản xuất từ động vật, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ là cơ quan giám sát việc thực thi các qui định về kiểm dịch. Trong đó, Cục Kiểm dịch an toàn thực phẩm sẽ liệt kê danh sách những nước đủ điều kiện xuất khẩu thịt và các sản phẩm từ thịt vào nước này. Các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu phải tuân theo các tiêu chuẩn về cấp, kích cỡ, chất lượng và độ chín. Liên quan đến vấn đề môi trường, Cơ quan bảo vệ môi trường của Hoa Kỳ sẽ kiểm soát việc nhập khẩu các chất có nguy cơ gây nguy hiểm không hợp lý đối với sức khoẻ hay môi trường, đó là các chất độc hại và các loại thuốc trừ sâu. Qui định về đánh dấu xuất xứ và ghi nhãn mác hàng hoá Ghi dấu xuất xứ hàng hoá