Luận án Tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía bắc

doc 188 trang vanle 2690
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía bắc", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docluan_an_tac_dong_cua_phat_trien_kinh_te_thi_truong_dinh_huon.doc

Nội dung text: Luận án Tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía bắc

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ TRẦN TRUNG HẢI T¸C §éNG CñA PH¸T TRIÓN KINH TÕ THÞ TR¦êNG §ÞNH H¦íNG X· HéI CHñ NGHÜA §ÕN B¶O VÖ CHñ QUYÒN, AN NINH BI£N GIíI QUèC GIA ë C¸C TØNH BI£N GIíI PHÝA B¾C LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2015
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ TRẦN TRUNG HẢI T¸C §éNG CñA PH¸T TRIÓN KINH TÕ THÞ TR¦êNG §ÞNH H¦íNG X· HéI CHñ NGHÜA §ÕN B¶O VÖ CHñ QUYÒN, AN NINH BI£N GIíI QUèC GIA ë C¸C TØNH BI£N GIíI PHÝA B¾C Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số : 62 31 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS, TS Phạm Đức Nhuấn 2. TS Phạm Anh Tuấn HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, trÝch dÉn trong luËn ¸n lµ trung thùc vµ cã xuÊt xø râ rµng, luËn ¸n ch­a tõng ®­îc c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh khoa häc nµo. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trần Trung Hải
  4. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 5 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 10 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH BIÊN GIỚI QUỐC GIA Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 23 1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh biên giới phía Bắc 23 1.2. Bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc 40 1.3. Nghiên cứu kinh nghiệm Trung Quốc về khai thác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và tác động đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia 67 Chương 2 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH BIÊN GIỚI QUỐC GIA Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 79 2.1. Khảo sát thực trạng tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc trong thời gian qua 79 2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc 117 Chương 3 CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH BIÊN GIỚI QUỐC GIA Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC TRONG THỜI GIAN TỚI 129 3.1. Các quan điểm cơ bản nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc 129 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc 137 KẾT LUẬN 162 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 164 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 165 PHỤ LỤC 172
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 01 Bộ đội biên phòng BĐBP 02 Các tỉnh biên giới phía Bắc CTBGPB 03 Chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia CQANBGQG 04 Chủ nghĩa tư bản CNTB 05 Chủ nghĩa xã hội CNXH 06 Cộng sản chủ nghĩa CSCN 07 Quốc phòng - an ninh QP-AN 08 Kinh tế thị trường KTTT 09 Kinh tế - xã hội KT-XH 10 Khu vực biên giới KVBG 11 Nhà xuất bản Nxb 12 Xã hội chủ nghĩa XHCN
  6. 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài “Tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc” là công trình nghiên cứu độc lập, chứa đựng tâm huyết của tác giả, trên cơ sở vận dụng hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; các chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy Đảng, lực lượng vũ trang CTBGBP và một số công trình khoa học nghiên cứu về phát triển KT-XH, bảo vệ CQANBGQG. Đồng thời, đề tài còn dựa trên kết quả khảo sát thực tiễn hoạt động phát triển KT-XH, công tác bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB và kế thừa một số đề tài khác của tác giả. 2. Lý do lựa chọn đề tài Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong gần ba thập kỷ qua, do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đã làm thay đổi toàn diện đời sống - xã hội, rõ nét và nổi bật nhất là lĩnh vực kinh tế. Điều đó được thể hiện bằng việc, chúng ta đã chuyển đổi mạnh mẽ và căn bản từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN; đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng KT-XH; đời sống nhân dân được cải thiện và ngày một nâng cao; QP-AN được tăng cường; quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế được mở rộng, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta còn ở giai đoạn đầu, chưa thực sự phát triển một cách đầy đủ. Do vậy, còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập đi ngược lại với sự định hướng trong chiến lược phát triển KT-XH cũng như xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là công tác bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB trong giai đoạn hiện nay. Các tỉnh biên giới phía Bắc bao gồm: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên; là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tuy nhiên, đây lại là nơi có điều kiện về phát triển KT-XH thấp hơn so với các khu vực khác
  7. 6 của nước ta. Trên đà hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN của đất nước, CTBGPB, nhất là nơi có các cửa khẩu, đã và đang phát triển khá mạnh mẽ với sự gia tăng về số, chất lượng các doanh nghiệp trong và ngoài nước; hoạt động trao đổi kinh tế - thương mại, đầu tư thu hút ngày càng nhiều lực lượng, phương tiện, hàng hóa của nước ta và quốc gia láng giềng; kết cấu hạ tầng KT-XH, các khu kinh tế cửa khẩu được đầu tư, cải thiện, Điều đó, một mặt, tạo điều kiện để CTBGPB tiếp tục phát triển KT-XH và huy động các nguồn lực tăng cường củng cố QP-AN; mặt khác, trong cơ chế kinh tế mới, đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG như: sự chống phá của các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế; xu hướng phân hóa giàu nghèo; sự gia tăng của các hoạt động của tội phạm - nhất là tội phạm kinh tế, các tệ nạn xã hội, các hành vi vi phạm quy chế và luật pháp biên giới; tác động xấu về môi trường, sinh thái; những bất cập về công tác quản lý KT-XH v.v, Phát triển KT-XH và củng cố QP-AN là hai nhiệm vụ cơ bản trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Giữa hai nhiệm vụ này luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, làm tiền đề và chi phối lẫn nhau. Bảo vệ CQANBGQG là hoạt động cụ thể của lĩnh vực QP-AN, trước những thay đổi của đời sống KT-XH trong nước, đặc biệt là quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB đã chịu sự tác động mạnh mẽ. Thực tiễn cho thấy, để có môi trường chính trị - xã hội ổn định, tạo điều kiện cho nền KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB tiếp tục phát triển, thì công tác bảo vệ CQANBGQG đối với khu vực này là một nhân tố quan trọng không thể thiếu được. Ngược lại, quá trình phát triển của KTTT định hướng XHCN cũng đã tác động mạnh mẽ đến nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB trên cả hai phương diện: tích cực và tiêu cực, làm nảy sinh nhiều vấn đề cần được giải quyết. Vì vậy, nghiên cứu nội dung và sự tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
  8. 7 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nội dung và tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. Từ đó đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu, nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB trong giai đoạn hiện nay. * Nhiệm vụ: - Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nội dung và tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. - Đánh giá đúng thực trạng tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB trong thời gian qua. - Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu, nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB nước ta trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng: Nghiên cứu nội dung và tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. * Phạm vi: - Về không gian, đề tài nghiên cứu trong phạm vi KVBG ở CTBGPB, bao gồm: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu và Điện Biên. - Về thời gian, đề tài chỉ giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 2005 trở lại đây. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận án được nghiên cứu dựa trên hệ thống quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Kinh tế chính trị, Kinh tế quân
  9. 8 sự, Học thuyết bảo vệ Tổ quốc, chiến tranh và quân đội; chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; các chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy Đảng, lực lượng vũ trang; các báo cáo tổng kết công tác của các lực lượng, cơ quan, ban, ngành liên quan ở CTBGPB và một số công trình khoa học nghiên cứu về phát triển KT-XH, bảo vệ CQANBGQG. * Cơ sở thực tiễn: Nghiên cứu của luận án dựa trên kết quả khảo sát thực tiễn hoạt động phát triển KT-XH, công tác bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB và kế thừa số liệu từ một số công trình khoa học khác của tác giả. * Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp cơ bản của kinh tế chính trị Mác - Lênin như: Phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát, điều tra, tư vấn chuyên gia và một số phương pháp khác đang được sử dụng trong các khoa học kinh tế. 6. Những đóng góp mới của luận án - Phân tích nội dung và tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB, trên cơ sở tư duy mới về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. - Đề xuất những quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu, có tính khả thi để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực tác động của KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài * Ý nghĩa lý luận: - Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nội dung và tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG nói chung, ở CTBGPB nói riêng.
  10. 9 - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy và nghiên cứu các môn học Kinh tế chính trị, Kinh tế quân sự, Quản lý kinh tế ở các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội. * Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng kế hoạch, quy hoạch phát triển KT-XH và thực hiện công tác quản lý, bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB nước ta. 8. Kết cấu của luận án Luận án gồm: mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3 chương (7 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục các công trình khoa học của tác giả có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  11. 10 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI TÁC ĐỘNG CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH BIÊN GIỚI QUỐC GIA Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài 1.1. Các công trình khoa học nghiên cứu về tác động của phát triển kinh tế thị trường * Một số công trình khoa học nghiên cứu về sự tác động của kinh tế thị trường đối với kinh tế - xã hội nói chung Kể từ khi nước ta tiến hành chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt là về sự tác động (cả mặt tích cực và tiêu cực) của KTTT đối với đời sống - xã hội nói chung, với lĩnh vực QP-AN nói riêng. Tiêu biểu là một số công trình sau: TS. Hà Huy Thành, “Những tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam” [98]. Đây là công trình tập trung những bản tham luận và ý kiến phát biểu về những vấn đề liên quan đến chủ đề “Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường” trên nhiều góc độ khác nhau, của những cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý thuộc các bộ chuyên ngành ở Trung ương và các cơ quan chức năng liên quan ở địa phương, những nhà khoa học ở các viện nghiên cứu, giảng viên các trường đại học ở Hà Nội, Theo đó, các tác giả khẳng định: “Những vấn đề này có lúc, có nơi đã cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, chúng ta gọi chung những vấn đề như thế là những “tiêu cực của kinh tế thị trường” ” [98, tr.7]. Cũng trong công trình này, còn có những bài viết của các tác giả, đề cập đến nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh tác động của cơ chế KTTT ở nước ta, đặc biệt là các tác động tiêu cực như: TS. Hà Huy Thành và TS. Lê Cao Đoàn, “Kinh tế thị trường trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam và những yếu tố tiêu cực phát sinh, gây cản trở đối với sự phát triển”;
  12. 11 TS.Trịnh Duy Luân, “Sự phân tầng xã hội trong quá trình phát triển theo cơ chế thị trường”; TS. Nguyễn Hữu Hải, “Vấn đề nghèo đói ở nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường”; BS.Trịnh Công Khanh, “Tác động của quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường đối với khu vực miền núi và đồng bào các dân tộc ít người ở Việt Nam”; Sở Thương mại tỉnh Lạng Sơn, “Buôn bán qua biên giới Lạng Sơn và vấn đề trốn lậu thuế”; GS, TS. Bùi Xuân Lưu, “Thực trạng, nguyên nhân và một số kiến nghị về giải pháp chống buôn lậu”; Trần Việt Trung, “Một số vấn đề về các tệ nạn xã hội trong quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường”; Khuất Thị Hồng, Nguyễn Thị Văn, Lê Thị Phương, Bùi Thanh Hà, “Mại dâm và những hệ lụy kinh tế - xã hội”; PGS, TS. Đặng Cảnh Khanh, “Vấn đề kiểm soát và ngăn chặn các sai lệch xã hội trong cơ chế thị trường”. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Kỷ yếu hội thảo: “Vấn đề phân phối và phân hoá giàu nghèo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” [19]. Đây là cuốn sách tập hợp các bài tham luận nghiên cứu những tác động của sự hình thành và phát triển KTTT đến quan hệ phân phối, phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo và cách giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Cùng nghiên cứu về sự tác động của KTTT còn có các công trình, luận án và bài viết khác như: Vũ Văn Phúc, “Tính đặc thù theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta” [89]; Phạm Viết Đào, “Mặt trái của cơ chế thị trường” [35]; Nguyễn Thị Luyến, “Kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường ở các nước ASEAN và khả năng vận dụng vào Việt Nam” [79]; Trương Mạnh Tiến“Sự phát triển của thương mại tự do trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái” [110]; Đào Thị Phương Liên, “Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường” [72]; Nguyễn Bích,
  13. 12 “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam” [26]; Nguyễn Văn Long, “Vai trò của thương mại trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [68]; Lê Xuân Đình, “Đưa kinh tế thị trường đến vùng cao, vùng dân tộc thiểu số - giải pháp quan trọng để xoá đói giảm nghèo” [49]; Bùi Minh Thanh, “Những mặt trái của kinh tế thị trường và ảnh hưởng của chúng đến vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế” [97] * Các công trình khoa học nghiên cứu về sự tác động của phát triển kinh tế thị trường đối với lĩnh vực quốc phòng - an ninh TS. Nguyễn Văn Ngừng ,“Tác động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đối với quốc phòng, an ninh ở Viêt Nam” [83]. Trong công trình này tác giả đã trình bày tính tất yếu của phát triển KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta; tác động của KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế đối với quốc QP-AN; những quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế kết hợp với tăng cường tiềm lực QP-AN ở nước ta. Bên cạnh đó, tác giả nêu bật những mặt tích cực và hạn chế của việc phát triển KTTT theo xu hướng mở. Đặc biệt, tác giả đã trình bày những tác động tích cực và hạn chế của KTTT và hội nhập kinh tế đối với QP-AN ở nước ta. Qua đó, tác giả cũng trình bày những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc kết hợp kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc QP-AN và hệ thống giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế và tăng cường tiềm lực QP-AN trong phát triển KTTT ở nước ta. Trần Minh Triệu, “Sự tác động của kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đối với sức mạnh quốc phòng ở nước ta” [122]. Tác giả đã nghiên cứu và trình bày sự hình thành nền KTTT định hướng XHCN trong sự kết hợp cái chung của KTTT và đặc thù của CNXH ở Việt Nam. Tác động của KTTT định hướng XHCN đối với sức mạnh quốc phòng và các giải pháp chủ yếu nhằm phát huy các tác động tốt và hạn chế các tác động xấu đối với sức mạnh quốc phòng của KTTT.
  14. 13 1.2. Các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh biên giới phía Bắc Các tỉnh biên giới nước ta nói chung, phía Bắc nói riêng, là khu vực có vị trí quan trọng cả về chính trị, kinh tế, QP-AN và đối ngoại. Chính vì vậy, đây cũng là nơi dành được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều công trình khoa học, bài viết, trong và ngoài nước, đặc biệt là các công trình liên quan đến sự tác động của phát triển KTTT đối với các lĩnh vực của đời sống - xã hội. * Công trình nghiên cứu về nước ngoài TS. Nguyễn Văn Căn, “Chiến lược “Hưng biên phú dân” của Trung Quốc” [29]. Việc triển khai chiến lược này cho thấy, Trung Quốc đã khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc tăng cường xây dựng vùng biên giới trong sự nghiệp xây dựng CNXH và hiện đại hóa đất nước. Chiến lược chỉ rõ bốn nội dung: Đẩy nhanh phát triển KVBG, thu hẹp sự cách biệt giữa các khu vực, thực hiện phát triển và phồn vinh cộng đồng; Thúc đẩy đoàn kết dân tộc, bảo đảm giữ gìn cơ bản ổn định xã hội, củng cố biên phòng và bảo vệ đất nước; Thực hiện chiến lược mở cửa đối ngoại, để cho toàn tuyến biên giới trở thành những đường giao thông quốc tế lớn ở tuyến đầu, là bảo đảm quan trọng cho cải cách và mở cửa; Thúc đẩy xã hội phát triển và phát triển kinh tế KVBG, với mục đích là “hưng biên, phú dân, cường quốc, mục lân”. Chiến lược cũng đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu sau: Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất và môi trường sinh thái, cải thiện sinh hoạt và sản xuất; Giải quyết có hiệu quả việc xóa nghèo của người dân vùng biên, đa dạng con đường làm giàu; Phát triển thương mại vùng biên giới, thúc đẩy hợp tác kinh tế khu vực; Đẩy mạnh sự nghiệp phát triển xã hội, nâng cao chất lượng con người; Tăng cường đoàn kết dân tộc, bảo vệ bình yên cho biên cương. Trên cơ sở các nhiệm vụ chủ yếu, chiến lược này còn nêu bật những chính sách, giải pháp để tổ chức thực hiện như: Tăng đầu tư cho KVBG; Thi
  15. 14 hành chính sách hỗ trợ cho những người dân vùng đặc biệt khó khăn; Hỗ trợ hợp tác kinh tế khu vực nhằm phát triển thương mại vùng biên; Thực hiện toàn diện các chính sách ưu đãi cho sự nghiệp phát triển xã hội; Đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ nhân tài vùng biên; Động viên các thành phần xã hội hỗ trợ để xây dựng và phát triển vùng biên giới * Các công trình khác trong nước TS. Lê Du Phong và TS. Hoàng Văn Hoa (Đồng chủ biên), “Kinh tế thị trường và sự phân hóa giàu - nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta hiện nay” [87]. Cuốn sách là kết quả của công trình nghiên cứu Về tăng trưởng kinh tế và sự phân hóa giàu - nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển, đã được Ủy ban Dân tộc và Miền núi nghiệm thu năm 1998. Trong công trình này, các tác giả đã trình bày những thành tựu về KT-XH qua hơn 10 năm đổi mới và tiềm năng ở vùng các dân tộc và Miền núi phía Bắc nước ta, đồng thời phân tích rõ những nguyên nhân và thực trạng của sự phân hóa giàu - nghèo ở khu vực này. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp bước đầu, nhằm khắc phục tình trạng phân hóa giàu - nghèo ở khu vực các dân tộc Miền núi phía Bắc nước ta nói riêng, cả nước nói chung. TS. Nguyễn Đình Liêm, “Quan hệ biên mậu giữa Tây Bắc - Việt Nam với Vân Nam - Trung Quốc (2001 - 2020)” [75]. Đây là công trình của tập thể tác giả đã đánh giá một cách khách quan, khoa học thực trạng quan hệ mậu dịch biên giới giữa các tỉnh Tây Bắc - Việt Nam với Vân Nam - Trung Quốc trong thời gian qua, nhất là trong những năm gần đây; phân tích bối cảnh mới của tình hình quốc tế và khu vực tác động đến quan hệ mậu dịch biên giới; dự báo động thái, đề xuất giải pháp, kiến nghị trong thời gian tới. Đặc biệt, cuốn sách đã đề cập đến những yếu tố tác động trực tiếp đối với quan hệ mậu dịch biên giới ở khu vực này.
  16. 15 Nguyễn Minh Hằng, “Buôn bán qua biên giới Việt - Trung Lịch sử - Hiện trạng - Triển vọng” [52]. Trong công trình này, tác giả đã trình bày quá trình buôn bán qua biên giới Việt - Trung trong lịch sử, phân tích và đánh giá những mặt được và chưa được của buôn bán qua biên giới Việt - Trung từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ và triển vọng của nó. Đặc biệt, cuốn sách đã chỉ ra được những tác động tích cực đối với việc phát triển KT-XH và trình bày những hạn chế, tiêu cực trong buôn bán qua biên giới Việt - Trung trong thời gian qua. TS. Phạm Văn Linh, “Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt - Trung và tác động của nó tới sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam” [71]. Trong công trình này, các tác giả đã đi sâu phân tích vị trí, tầm quan trọng của khu kinh tế cửa khẩu trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa, hội nhập và mở cửa kinh tế; thực trạng quá trình hình thành, phát triển và tác động của 4 khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt - Trung đã được cấp phép thành lập (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng và Lào Cai). Trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tác dụng tích cực của mô hình kinh tế mới này. Hoàng Văn Hoan, Nguyễn Chí Thành, “Cơ chế chính sách đặc thù phát triển các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc” [54]. Các tác giả đã phân tích thực trạng cơ chế chính sách KT-XH ảnh hưởng đến sự phát triển các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam thời gian qua. Từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp đổi mới cơ chế chính sách KT-XH các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc trong thời gian tới. Đặng Xuân Phong, “Phát triển khu kinh tế cửa khẩu biên giới phía Bắc Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” [88]. Trong công trình này, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển khu kinh tế cửa khẩu biên giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Khảo sát thực trạng, trình bày định hướng và giải pháp phát triển khu kinh tế cửa khẩu biên giới phía Bắc Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
  17. 16 Đinh Trọng Ngọc, “Phát triển kinh tế - xã hội miền núi biên giới phía Bắc và tác động của nó tới tăng cường sức mạnh bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới ở vùng này” [82]. Trong công trình, tác giả đã trình bày có hệ thống về phát triển KT-XH miền núi biên giới phía Bắc trong mối quan hệ tới việc tăng cường sức mạnh bảo vệ an ninh vùng này. Đồng thời, chỉ ra vai trò của BĐBP như nhân tố quan trọng đối với sự nghiệp phát triển KT-XH miền núi biên giới hiện nay. Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu, hội thảo và bài viết khác đề cập đến sự tác động của phát triển KTTT ở CTBGPB khác như: Ủy ban Dân tộc, Viện dân tộc, Ngân hàng thế giới, “Kỷ yếu hội thảo xóa đói, giảm nghèo: Vấn đề và giải pháp ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam” [128]; Phạm Văn Linh, “Quan hệ kinh tế thương mại cửa khẩu biên giới Việt - Trung với việc phát triển kinh tế hàng hóa ở các tỉnh vùng núi phía Bắc” [70]; Nguyễn Thị Sinh,“Tác động của hoạt động thương mại Việt - Trung tới quá trình đô thị hoá ở các tỉnh miền núi Đông Bắc nước ta” [94]. 1.3. Nội dung các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia * Một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia - Tài liệu nước ngoài: Mao Chấn Phát, “Bàn về biên phòng” (Biên phòng luận) [85]. Công trình đã đi sâu nghiên cứu, điều tra công tác biên phòng và hải phòng, thu thập rộng rãi thông tin tư liệu của công tác biên phòng liên quan các quốc gia trên thế giới và tổng kết những bài học kinh nghiệm của công tác biên phòng Trung Quốc trải qua nhiều thời đại, kết hợp với tình hình Trung Quốc cải cách và mở cửa hiện nay. Từ đó, chỉ ra nguồn gốc của khái niệm biên phòng, các khái niệm liên quan đến công tác biên phòng (Lãnh thổ quốc gia, biên giới quốc gia, biên cảnh, biên cương). Theo đó, một mặt, khẳng định:
  18. 17 “Biên phòng là bộ phận tổ chức quan trọng của quốc phòng. Từ xưa đến nay, trong nước và ngoài nước, nhiều quốc gia đều coi việc tăng cường biên phòng là nhiệm vụ chiến lược làm cho đất nước an ninh và ổn định” [85, tr.17]. Mặt khác, chỉ rõ vị trí chiến lược cụ thể của công tác biên phòng. Đặc biệt, trong chương VI của công trình - “Những suy nghĩ vĩ mô về tăng cường xây dựng biên phòng” cho thấy 6 nội dung rất quan trọng và thiết thực của công tác biên phòng. Tạp chí Quan hệ Quốc phòng, “Bảo vệ biên giới trong học thuyết biên phòng của Trung Quốc” [95] Trên cơ sở nghiên cứu, khái quát chiến lược quốc phòng nói chung, về biên phòng nói riêng của Trung Quốc, tác giả đã chỉ rõ mục tiêu chủ yếu về biên phòng là: “bảo vệ biên phòng chống lại hành động từ bên ngoài (phòng thủ đối ngoại) và bảo đảm sự ổn định chính trị bên trong”. Từ đó, nêu lên nhiệm vụ cụ thể của biên phòng là: Bảo vệ sự toàn vẹn và an ninh về chủ quyền lãnh thổ; Chống hành động xâm lược từ bên ngoài; Duy trì trật tự biên giới, tăng cường quan hệ láng giềng tốt và bảo đảm sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế của các vùng biên giới. Theo đó, kết luận: Sự ổn định của biên giới liên quan trực tiếp đến sự ổn định của quốc gia. - Tài liệu trong nước: Nguyễn Đức Châu, Nguyễn Tuấn Chung, “Ông cha ta bảo vệ biên giới: Từ thời Hùng Vương đến nhà Nguyễn” [30]. Cuốn sách đã trình bày lịch sử hình thành nền móng biên phòng Việt Nam và tình hình bảo vệ biên giới qua các thời đại Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, thế kỷ 16-18 và thời nhà Nguyễn. Vũ Dương Ninh, “Biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc” [84]. Công trình của các tác giả đã giới thiệu khái quát vùng biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc qua các triều đại cho đến khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược. Tiến trình đàm phán để tiến tới bản Hiệp ước biên giới trên đất liền ký cuối năm 1999 và quá trình phân giới căm mốc trên toàn tuyến biên giới.
  19. 18 * Một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc Các tỉnh biên giới phía Bắc đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu cả về mặt lý luận, cũng như khảo sát thực tiễn, nhất là những vấn đề liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các tác giả trong lực lượng vũ trang (BĐBP, Công an, Quân đội). Tiêu biểu là các công trình sau: Đỗ Ích Báu, “Bộ đội Biên phòng trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia hiện nay” [8]. Công trình đã làm rõ khái niệm, nội dung bảo vệ CQANBGQG; Trình bày thực trạng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG của BĐBP; đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng lực lượng BĐBP trong sự nghiệp bảo vệ CQANBGQG. Nguyễn Xuân Bắc, “Hoạt động điều tra cơ bản của trinh sát bộ đội biên phòng các tỉnh biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc” [10]. Công trình đã nghiên cứu lý luận về hoạt động điều tra cơ bản của trinh sát BĐBP các tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Phân tích thực trạng, dự báo tình hình liên quan đến hoạt động điều tra cơ bản của trinh sát. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra của BĐBP. Nguyễn Quốc Đoàn, “Quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát kinh tế và Bộ đội Biên phòng trong phát hiện, điều tra tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới Việt - Trung” [47]. Tác giả đã trình bày những vấn đề lý luận, tình hình tội phạm buôn lậu, thực trạng cũng như dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả về quan hệ phối hợp giữa lực lượng Cảnh sát kinh tế và BĐBP trong phát hiện, điều tra tội phạm buôn lậu trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Nguyễn Đình Hùng, “Phát huy nhân tố con người đội ngũ cán bộ bộ đội biên phòng trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia hiện nay” [62].
  20. 19 Tác giả đã luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người đội ngũ cán bộ BĐBP trong bảo vệ CQANBGQG; đề xuất những định hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con người cán bộ BĐBP. Đặng Vũ Liêm, “Nhân dân các dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới phía Bắc nước ta hiện nay” [74]. Luận án đã trình bày nội dung của công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN; Vai trò của nhân dân các dân tộc trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới phía Bắc nước ta hiện nay; Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nhân dân các dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới phía Bắc nước ta. Vũ Đình Liêm, “Bộ đội biên phòng tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở khu vực biên giới phía Bắc” [75]. Luận án đã nghiên cứu lý luận về BĐBP tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở KVBG phía Bắc. Đánh giá đúng thực trạng, đề xuất giải pháp để BĐBP nâng cao hiệu quả tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở KVBG phía Bắc. Lê Đình Quang, “Hoạt động phát hiện và điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển tiền giả của Bộ đội Biên phòng ở khu vực biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc” [91]. Tác giả đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động phát hiện, điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển tiền giả của BĐBP ở KVBG đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phát hiện và điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển tiền giả của BĐBP ở KVBG đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay. Phạm Đình Triệu, “Kết hợp kinh tế với quốc phòng trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trên tuyến biên giới đất liền của Bộ đội Biên phòng Việt Nam hiện nay” [121].
  21. 20 Trong công trình này, tác giả đã giới thiệu cơ sở lý luận và thực tiễn kết hợp kinh tế với quốc phòng trong bảo vệ CQANBGQG trên tuyến biên giới đất liền của BĐBP Việt Nam. Trình bày thực trạng, quan điểm chỉ đạo và giải pháp kết hợp kinh tế với quốc phòng trong bảo vệ CQANBGQG trên tuyến biên giới đất liền của BĐBP Việt Nam. 2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết 2.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố * Các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến tác động của KTTT Trong nội dung này, các công trình đã tập trung nghiên cứu, bổ sung và làm rõ khái niệm, cơ chế và một số tác động cơ bản của KTTT, nhất là những tác động tiêu cực đối với các lĩnh vực của đời sống, KT-XH nói chung, lĩnh vực QP- AN nói riêng. Bằng nhiều hình thức tiếp cận, các công trình đã khảo sát, đưa ra hệ thống giải pháp để hạn chế và khắc phục những tác động tiêu cực mà sự phát triển của KTTT mang lại. Đặc biệt, các công trình nghiên cứu về sự tác động của KTTT đối với lĩnh vực QP-AN đã gợi mở và là tiền đề quan trọng cho tác giả có thể kế thừa và vận dụng cho luận án. * Các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB Trong các công trình này, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu về KTTT và tác động của nó đối với các lĩnh vực của đời sống, KT-XH ở khu vực các tỉnh phía Bắc nói chung, biên giới phía Bắc nói riêng. Các nghiên cứu, một mặt, chỉ ra được những đặc điểm mang tính đặc thù của khu vực trong phát triển KT-XH; mặt khác, đã tiến hành khảo sát và trình bày những giải pháp để khắc phục những hạn chế, phát huy tính tích cực mang tính đặc thù của khu vực trong phát triển KT- XH và vận dụng mô hình KTTT định hướng XHCN. Những nghiên cứu trên đã cho tác giả nhiều gợi mở và sự kế thừa trực tiếp trong việc nghiên cứu về nội dung và đặc điểm của KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB.
  22. 21 * Các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG Trong các công trình này, các nghiên cứu bao gồm cả trong và ngoài nước, chủ yếu tập trung nghiên cứu về công tác quản lý, bảo vệ CQANBGQG nói chung, ở CTBGPB nói riêng dưới góc độ chuyên ngành như: quân sự, an ninh, pháp luật, trinh sát, Các công trình, bằng phương pháp tiếp cận đặc trưng đều đã thống nhất về khái niệm, nội dung, hình thức và phương pháp bảo vệ CQANBGQG; khẳng định vai trò, tầm quan trọng của việc giữ gìn và bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia; chỉ ra vai trò, tác dụng của mỗi hoạt động trong nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG. 2.2. Những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết Qua tổng quan các những công trình khoa học nghiên cứu về phát triển KTTT và tác động của nó đến nhiều mặt của đời sống chính trị, KT-XH, QP-AN, đối ngoại, văn hóa, tư tưởng, nhất là những tác động đến bảo vệ CQANBGQG, chưa có một đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề “Tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB” dưới góc độ Kinh tế Chính trị học. Cụ thể, tác giả nhận thấy một số vấn đề cần giải quyết như sau: Một là, phát triển KTTT định hướng XHCN nói chung, ở CTBGPB nói riêng là một đòi hỏi khách quan trong chiến lược phát triển KT-XH của đất nước. Vấn đề này luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các lực lượng cũng như nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Tác giả luận án đã kế thừa một số nội dung, khái niệm, đặc trưng và cách tiếp cận về KTTT định hướng XHCN của các nghiên cứu để có được cái nhìn tổng quát. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về nội dung, đặc điểm và nguyên nhân tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB.
  23. 22 Hai là, với CTBGPB, đây là một khu vực rộng lớn, có vị trí chiến lược cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhưng còn nhiều hạn chế về điều kiện phát triển KT-XH, đặc biệt là việc phát triển KTTT định hướng XHCN trong giai đoạn hiện nay. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN ở khu vực này không chỉ tác động đến đời sống - xã hội của mỗi địa phương, mà còn trực tiếp tác động đến công tác bảo vệ CQANBGQG trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Dưới góc độ này, các công trình mà tác giả đã tiếp cận, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu và khái quát. Ba là, bảo vệ CQANBGQG là một lĩnh vực cụ thể của hoạt động QP- AN trên KVBG. Lĩnh vực này cũng đã được nhiều tác giả đề cập, nhất là các nhà nghiên cứu của lực lượng vũ trang (BĐBP, Công an nhân dân, ). Mặc dù các nghiên cứu đã tiếp cận dưới nhiều góc độ, với không gian là CTBGPB, nhưng các đề tài mà tác giả có điều kiện nghiên cứu chủ yếu khai thác dưới góc độ chuyên ngành như: pháp luật, trinh sát, an ninh, quân sự, Tiếp cận các nghiên cứu, tác giả luận án đã kế thừa một số khái niệm, nhưng nhận thấy chưa công trình nào trình bày đầy đủ và hệ thống dưới góc độ của khoa học Kinh tế Chính trị về nội dung và tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. Bốn là, trong các công trình mà tác giả có điều kiện tiếp cận, đã trình bày về những quan điểm, giải pháp để phát huy tính tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình phát triển KTTT đối với nhiều lĩnh vực của đời sống - xã hội, trong đó có lĩnh vực QP-AN. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào trình bày một cách hệ thống, toàn diện những quan điểm và giải pháp khả thi, nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB.
  24. 23 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH BIÊN GIỚI QUỐC GIA Ở CÁC TỈNH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh biên giới phía Bắc 1.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1.1.1.1. Quan niệm chung về KTTT định hướng XHCN Cho đến nay, đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu, bài viết về KTTT định hướng XHCN. Tựu chung, các nghiên cứu đều khẳng định: Xuất phát từ vai trò và tính phổ biến của KTTT, đồng thời là một kiểu tổ chức KT-XH, nên KTTT có thể tồn tại và phát triển trong nhiều hình thái KT-XH khác nhau. Điều này có nghĩa là, KTTT tồn tại dưới CNTB và cũng tồn tại dưới CNXH. Trước đổi mới, trong quan điểm về CNXH nhiều ý kiến còn cho rằng, KTTT chỉ là đặc trưng riêng có của CNTB, CNXH không có KTTT. Thực tế, KTTT đã đạt tới đỉnh cao dưới CNTB nhưng không vì thế mà đồng nhất KTTT là kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, xét về bản chất, KTTT không hoàn toàn là tiêu cực như một số quan niệm, mà còn chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ và tích cực không thể phủ nhận. Điều cần lưu ý là, giữa KTTT dưới CNTB và KTTT định hướng XHCN có sự khác nhau cơ bản về mục đích, chế độ sở hữu, tính chất phân phối và tính chất của Nhà nước trong quản lí. Nếu giai cấp tư sản có thể lợi dụng được KTTT để phát triển CNTB, thì không thể cho rằng giai cấp công nhân - mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản, không thể vận dụng được KTTT để xây dựng CNXH. Hơn nữa, “kinh tế thị trường khắc phục được kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành nghề, tạo việc làm
  25. 24 cho người lao động, khuyến khích ứng dụng công nghệ - kỹ thuật mới nhằm tăng năng xuất lao động, tăng số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa, dịch vụ, thúc đẩy tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, thúc đẩy việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, đồng thời tạo ra cơ chế phân bổ và sử dụng các nguồn lực của xã hội hợp lý, tiết kiệm ” [90, tr.42]. Trên tinh thần ấy, có thể thấy KTTT định hướng XHCN thực chất chỉ là một kiểu tổ chức nền kinh tế, vừa phát huy được nhân tố động lực thúc đẩy sản xuất xã hội, vừa phát huy được nhân tố mở đường, hướng dẫn và chế định sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu XHCN đã chọn. Đúng như quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” [43, tr.97]. Chính vì vậy: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [44, tr.86]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội” [46, tr.34]. 1.1.1.2. Nội dung của KTTT định hướng XHCN Trên cơ sở nhận thức và vận dụng linh hoạt mô hình KTTT trong điều kiện cụ thể của nước ta, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định những nội dung cơ bản của KTTT định hướng XHCN bao gồm:
  26. 25 Thứ nhất, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thứ hai, phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội; mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thứ ba, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Thứ tư, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; tạo lập, phát triển đầy đủ và đồng bộ các yếu tố và các loại thị trường; cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. [46, tr.205-206] 1.1.1.3. Tính hai mặt của KTTT định hướng XHCN Xét về mặt bản chất, KTTT định hướng XHCN trước hết là KTTT. Vì vậy, việc thừa nhận sự tồn tại của các quy luật kinh tế khách quan đã làm cho nền KTTT định hướng XHCN phát huy được những mặt mạnh. Nhưng mặt khác, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta còn ở giai đầu của sự phát triển, đi liền với những hạn chế về năng lực quản lý, điều hành nền kinh tế còn nhiều bất cập Điều đó dẫn tới những những tồn tại mang tính tiêu cực làm cản trở và đi ngược lại với sự định
  27. 26 hướng XHCN. Chính vì vậy, sự tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN được thể hiện ở tính hai mặt của nó - tích cực và tiêu cực. Bàn về tính hai mặt của mô hình kinh tế này, tựu chung, các nghiên cứu đều nhất quán khẳng định nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay có hai mặt tích cực và hạn chế sau đây: - Mặt tích cực: Một là, tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức kinh tế phát huy mọi khả năng để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Hai là, biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; tạo ra môi trường cạnh tranh cho các chủ thể kinh tế, giải quyết nhu cầu việc làm cho xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ba là, thu hút vốn đầu tư, nâng cao trình độ quản lý sản xuất, ứng dụng công nghệ tiến tiến trong sản xuất, kinh doanh. Bốn là, mở rộng hoạt động thương mại, tài chính, đầu tư quốc tế và tham gia phân công lao động, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Mặt hạn chế: Có nhiều nghiên cứu chỉ ra mặt hạn chế của KTTT định hướng XHCN, hay nói cách khác, đó là những tác động tiêu cực của KTTT, “là những tác động của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ xâm nhập vào và gây ra những tệ nạn trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, chính trị, môi trường, hình thành nên những cản trở đối với bản thân sự phát triển” [98, tr.13]. Những hạn chế được thể hiện ở những mặt sau: Thứ nhất, là một trong những tác nhân cơ bản dẫn tới sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo. Thứ hai, là nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh lối sống thực dụng, chạy theo vật chất đơn thuần.
  28. 27 Thứ ba, là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm - nhất là tội phạm kinh tế và tai nạn, tệ nạn xã hội. Thứ tư, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, sinh thái. 1.1.2. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh biên giới phía Bắc 1.1.2.1. Nội dung phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB Các tỉnh biên giới phía Bắc là một khu vực rộng lớn, với điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội và QP-AN có những nét đặc thù so với các địa phương khác trong cả nước. Trên cơ sở vận dụng và tổ chức vận hành mô hình kinh tế mới, việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở khu vực này vừa thể hiện những thành tựu trong lĩnh vực kinh tế, đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế nhất định ảnh hưởng đến bảo vệ CQANBGQG và được thể hiện trên những nội dung nổi bật như sau: Thứ nhất, cơ chế thị trường đã được vận dụng linh hoạt trong việc khai thác và phát huy các nguồn lực; mọi tầng lớp nhân dân được khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với từng bước xóa đói, giảm nghèo; quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của công dân được mở rộng và phát huy, tạo điều kiện làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội Cùng với sự phát triển chung trên phạm vi cả nước, trong thời gian qua KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB đã thực sự có những biến đổi mạnh mẽ. Điều đó, trước hết thể hiện việc cơ chế mới được vận dụng một cách linh hoạt và phù hợp. Một cơ chế mà ở đó, các quy luật kinh tế khách quan của nền KTTT được tạo dựng và phát huy sức mạnh, đã tạo ra môi trường thuận lợi cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh thể hiện hết tiềm năng của mình: từ việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước; đẩy mạnh sự cạnh tranh trên cơ sở đầu tư công nghệ, mở rộng thị trường; khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, Bên cạnh
  29. 28 đó, với cơ chế kinh tế mới, cho phép mọi công dân có điều kiện phát huy hết khả năng để làm giàu hợp pháp. Biểu hiện cụ thể là tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh chóng; mức sống, thu nhập và sức mua của cư dân không ngừng tăng; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào ngày một được cải thiện và nâng cao. Xét trên góc độ tích cực, những thành tựu mà sự phát triển KTTT định hướng XHCN nêu trên, đã tạo ra những điều kiện thuận lợi trong việc đóng góp một lực lượng vật chất quan trọng cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, giải quyết các vấn đề xã hội - những yếu tố tác động tích cực đối với công tác bảo vệ CQANBGQG. Tuy nhiên, trong cơ chế kinh tế mới, do sự xuất phát không ngang bằng nhau của các chủ thể kinh tế, cộng đồng dân cư; do mục tiêu theo đuổi lợi nhuận cũng như các điều kiện khác đã khiến cho những bất cập có xu hướng gia tăng như: các hành vi vi phạm pháp luật kinh tế, quy chế và luật pháp biên giới (buôn lậu, làm hàng giả, trốn lậu thuế ), việc khai thác và vận chuyển trái phép tài nguyên thiên nhiên, sự phân hóa giàu nghèo, Những vấn đề trên, một lần nữa thể hiện tính hai mặt trong việc phát triển KTTT định hướng XHCN không chỉ ở khu vực CTBGPB, mà còn là biểu hiện trên pham vi cả nước. Thứ hai, các thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường được coi trọng, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, kinh tế nhà nước từng bước phát huy được vai trò chủ đạo Với quan điểm nhất quán, đa dạng hóa các thành phần kinh tế, trong cơ chế kinh tế mới, ở CTBGPB các thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đã được tạo mọi điều kiện thuận lợi để có được môi trường cùng phát triển, cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trước pháp luật. Chính vì vậy, trong thời gian qua số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh (nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ) đã tăng lên đáng kể; các cơ sở sản xuất, kinh doanh không ngừng được mở rộng cả về số lượng nhân lực, nguồn vốn cũng như công nghệ; mối quan hệ giữa các đối tác trong và ngoài nước không ngừng được cải thiện và gia tăng trên nhiều lĩnh vực; các tranh
  30. 29 chấp kinh tế được điều hòa hợp lý, Đặc biệt, thành phần kinh tế nhà nước ở CTBGPB đã bước đầu phát huy được vai trò chủ đạo trong việc nắm giữ các lĩnh vực kinh tế có quy mô, nguồn vốn và công nghệ cao như: công nghiệp khai khoáng, chế biến lâm sản, xây dựng, thủy điện, Tuy nhiên, trong môi trường phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB, những kết quả trên chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, cũng như còn biểu hiện nhiều vấn đề hạn chế như: quy mô của các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế còn nhỏ hẹp cả về số lượng nhân lực, nguồn vốn và công nghệ; hiệu quả sản xuất, kinh doanh chưa cao, thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp còn thấp, mức đóng góp cho ngân sách của địa phương còn hạn chế; các biểu hiện coi trọng mục tiêu lợi nhuận và xem nhẹ mục tiêu KT-XH, Đối với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước hiệu quả sản xuất, kinh doanh chưa tương xứng với tiềm năng, quy mô, nguồn vốn cũng như công nghệ được trang bị; công tác quản lý, khai thác và sử dụng nguồn vốn, nhân lực và công nghệ chưa thực sự hiệu quả, Với những hạn chế trên, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới việc đóng góp nguồn ngân sách để phát triển KT-XH và củng cố QP-AN, nhất là việc khai thác tính lưỡng dụng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khi có chiến tranh xảy ra. Thứ ba, các địa phương, các đơn vị kinh tế đã đẩy mạnh trong việc hội nhập quốc tế, nhất là đối với các quốc gia láng giềng. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế không những là chủ trương trong chiến lược phát triển KT-XH, mà còn thể hiện vị thế, năng lực của mỗi quốc gia và là một trong những nội dung quan trọng của phát triển KTTT định hướng XHCN. Ngày nay, trước xu thế toàn cầu hóa diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống - xã hội, việc tạo lập các mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ kinh tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tiếp nhận công nghệ, thu hút nguồn vốn, giải quyết việc làm, học tập kinh nghiệm quản lý v.v Đối với CTBGPB, trong việc phát triển KTTT định hướng XHCN, đây là khu vực có các điều kiện thuận lợi để tạo lập, mở rộng và phát triển quan
  31. 30 hệ kinh tế quốc tế, nhất là quan hệ thương mại và kinh tế cửa khẩu. Thời gian qua, CTBGPB đã thực sự nỗ lực và tích cực đẩy mạnh các hoạt động trao đổi thương mại, khảo sát và xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu đối xứng với các địa phương có tiềm năng phát triển kinh tế của quốc gia láng giềng. Tinh thần tích cực và từng bước chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở phát huy tiềm năng của mỗi địa phương được đánh dấu bằng kim ngạch xuất khẩu của các địa phương tăng nhanh và chiếm tỉ trọng ngày một cao trong tổng thu nhập của địa phương; năng lực về vốn, công nghệ, kinh nghiệm của các doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng hóa phục vụ trao đổi thương mại được cải thiện; tổng số lao động cũng như thu nhập của người lao động trong lĩnh vực trao đổi thương mại tăng nhanh, Tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động cả khách quan lẫn chủ quan, việc tích cực và chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể đối với CTBGPB là hoạt động kinh tế cửa khẩu, trao đổi thương mại, còn nhiều hạn chế như: tình trạng nhập siêu vẫn diễn ra phổ biến; cơ cấu ngành hàng tham gia xuất khẩu còn thể hiện tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào phía đối tác cả về số, chất lượng và giá cả; năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ở các khu kinh tế cửa khẩu và tham gia hoạt động trao đổi thương mại chậm được cải thiện; hàng hóa xuất khẩu còn phổ biến ở dạng sơ chế; tình trạng gian lận thương mại vẫn tồn tại và có xu hướng gia tăng v.v Chính những nguyên nhân trên đã làm cho tính chủ động, tự chủ và hiệu quả của việc tham gia các hoạt động kinh tế quốc tế của các địa phương ở CTBGPB gặp nhiều khó khăn. Đồng thời là một trong những tác nhân ảnh hưởng tiêu cực đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB trong thời gian qua. Thứ tư, vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của các cơ quan nhà nước ở các địa phương ngày càng được phát huy Trong việc xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN, vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của các cơ quan nhà nước là biểu hiện cụ thể
  32. 31 chức năng và vai trò của Nhà nước trong quản lý xã hội nói chung, lĩnh vực kinh tế nói riêng; đồng thời đây cũng là điều kiện thể hiện năng lực chủ quan của các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ quản lý, vận hành nền KTTT định hướng XHCN. Đối với CTBGPB vai trò này càng được thể hiện sâu sắc và hết sức cần thiết, bởi với những khó khăn như: sự phức tạp về địa hình, khí hâu, thời tiết; kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí chưa cao, lực lượng sản xuất phát triển thấp và không đồng đều, mang tính đặc thù của khu vực, đã chi phối mạnh mẽ và hạn chế sự phát triển tích cực của KTTT định hướng XHCN cũng như làm gia tăng các tác động mang tính tiêu cực của quá trình này. Chính vì vậy, việc tăng cường vai trò quản lý, điều tiết các hoạt động KT-XH của các cơ quan chức năng ở CTBGPB không chỉ thể hiện vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế nói chung, mà còn đảm bảo tính định hướng XHCN của KTTT ở khu vực này. Vai trò đó được thể hiện bằng việc, các cơ quan chức năng đã quán triệt, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc cụ thể hóa các chủ trương, đường lối, chiến lược, kế hoạch phát triển KT-XH, củng cố QP-AN trên địa bàn; đảm bảo cho nền KTTT định hướng XHCN phát huy những mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu cực mà sự phát triển này mang lại, Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của các cơ quan nhà nước ở CTBGPB chưa thực sự được phát huy cao độ, còn bộc lộ những bất cập như: năng lực quản lý, điều hành hoạt động kinh tế, xã hội còn hạn chế; còn có sự chồng chéo trong thực thi chức năng, nhiệm vụ; khả năng phối, kết hợp giữa các cơ quan, lực lượng chức năng chưa hiệu quả; vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và quần chúng nhân dân chưa được phát huy cao độ, Chính những hạn chế này là một trong những nguyên nhân dẫn tới các tác động mang tính tiêu cực của KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB trong thời gian qua. Thứ năm, các yếu tố và các loại thị trường bước đầu được tạo lập và phát triển. Một trong những nội dung quan trọng, thể hiện sự phát triển của KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB chính là việc các yếu tố, các loại thị trường bước đầu
  33. 32 được tạo lập và phát triển. Đối với CTBGPB, việc tạo lập và phát triển các loại thị trường không chỉ là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN nói chung, mà còn thể hiện tính đặc thù của các loại thị trường nơi đây. Với điều kiện nổi bật là các hoạt động kinh tế cửa khẩu, trao đổi thương mại hai bên biên giới, công nghiệp khai khoáng, đi liền với đó là sự phát triển của các loại thị trường như: thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường tiền tệ, thị trường lao động, Một điều đặc biệt trong việc phát triển và tạo lập các loại thị trường ở CTBGPB là, luôn có sự gắn kết giữa thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, sự phát triển của các loại thị trường ở CTBGPB chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền KTTT định hướng XHCN, còn ẩn chứa nhiều vấn đề cần giải quyết đó là: quy mô của các loại thị trường còn nhỏ hẹp, chưa đồng bộ, mang tính thời vụ; nhiều loại thị trường còn manh nha (thị trường nhà đất, thị trường công nghệ ); sự phụ thuộc của thị trường hàng hóa trong nước với thị trường nước ngoài, Những bất cập này, một mặt, không cho phép việc sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế có được môi trường trao đổi thuận lợi; mặt khác, đã tác động và làm cho việc quản lý kinh tế cũng như công tác bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB gặp nhiều khó khăn. 1.1.2.2. Đặc điểm của phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB Một là, phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB có điểm xuất phát thấp và không đồng đều. Đối với CTBGPB, do chịu sự chi phối của các điều kiện khách quan và yếu tố chủ quan, việc phát triển KTTT định hướng XHCN ở khu vực này còn rất nhiều hạn chế. Điều đó được thể hiện trên các mặt sau đây: - Kết cấu hạ tầng còn nhiều hạn chế Các tỉnh biên giới phía Bắc thuộc vùng có nhiều dân tộc, nhưng dân cư thưa thớt, chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, chiếm khoảng hơn 70%. Mật độ dân cư thưa thớt, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thị xã, thị trấn, khu vực cửa khẩu và các thung lũng dọc theo sông suối. Khu vực này có 43 dân tộc, chủ yếu là dân tộc thiểu số, chiếm gần 50% số dân của các dân
  34. 33 tộc thiểu số cả nước (H’Mông, Dao, Sán Chỉ, Dáy, Hà Nhì, Mường, Thái, Tày, Nùng ). Người lao động có phẩm chất rất cần cù, chịu khó, nhưng trình độ văn hoá và hiểu biết khoa học - kĩ thuật còn thấp, đây thực sự là một trở ngại lớn cho việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Về giao thông: Cơ bản các địa phương trong khu vực đều đã được đầu tư, xây dựng hệ thống đường giao thông tới các trung tâm tỉnh, huyện. Nhưng các tuyến đường bộ chính phần lớn nhỏ hẹp, thường bị sụt lở do mưa lũ nên dễ bị xuống cấp; các tuyến đường sắt, đường sông chưa được đầu tư, khai thác và năng lực vận chuyển còn nhiều hạn chế, đặc biệt đường hàng không chưa thực sự phát triển. Bên cạnh đó, hệ thống đường bộ liên tỉnh, liên huyện, liên xã phần lớn là đường cấp phối, Nhiều xã ở vùng cao chưa có đường ô tô đến trung tâm xã. Đa số các huyện trong vùng, giao thông thường bị gián đoạn trong mùa mưa lũ. Về thuỷ lợi: Hầu hết các công trình tưới tiêu đều là các hệ thống tự chảy, tính hữu dụng của các công trình phụ thuộc vào nguồn nước tự nhiên cung cấp và chủ yếu do chế độ mưa chi phối. Điều này ảnh hưởng đến tính chủ động, năng xuất cây trồng, vật nuôi khi chuyển sản xuất nông - lâm nghiệp truyền thống sang sản xuất hàng hoá. Về hệ thống điện: Do đặc điểm vị trí và địa hình nên mạng lưới điện quốc gia chỉ mới đến được khắp CTBGPB trong những năm gần đây (Hà Giang 1995). Tuy nhiên, ở nhiều tỉnh, mạng lưới điện quốc gia mới chỉ đến tỉnh lỵ hoặc các huyện lỵ. Nhiều vùng chưa có điện, nhiều nơi trong vùng phát triển hệ thống thủy điện nhỏ, nhiều hộ nông dân sử dụng điện do các máy thủy lực tự xây lắp cung cấp. Về giáo dục, y tế, văn hoá: Số lượng cơ sở vật chất một số tỉnh trong vùng đạt mức bình quân chung của cả nước (tính trên tổng số dân), nhưng về chất lượng thì đa số các cơ sở vật chất phục vụ xã hội còn nghèo nàn, nhiều cơ sở đã xuống cấp, các trang thiết bị còn thiếu và bị hư hỏng, chất lượng thấp
  35. 34 kém. Ở nhiều địa phương trường, lớp chủ yếu là nhà tranh tre dột nát, bàn ghế còn là gỗ ghép, học sinh phải đi học xa, đời sống của đội ngũ giáo viên còn rất nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ y tế cơ sở vừa yếu, vừa thiếu; đời sống của nhân dân nơi đây còn gặp rất nhiều khó khăn thể hiện như: thu nhập còn thấp, các phương tiện cho đời sống sinh hoạt, sản xuất còn thiếu thốn và hết sức lạc hậu, trình độ nhận thức chưa cao. - Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp Các tỉnh biên giới phía Bắc do kinh tế hàng hoá kém phát triển, nên lực lượng sản xuất trình độ còn thấp, nhiều nơi rất thấp, tính chất phân tán và nhỏ lẻ. Điều đó thể hiện: kỹ thuật sản xuất lạc hậu, lao động phổ biến là lao động phổ thông chưa qua đào tạo; tỉ trọng và năng suất lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ còn thấp; khu vực kinh tế nhà nước chưa phát huy được vai trò chủ đạo; quy mô các doanh nghiệp cả về vốn và lao động còn nhỏ, Mặc dù CTBGPB là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhưng do kết cấu hạ tầng lạc hậu, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, sự đầu tư hạn chế, nên hầu hết còn ở dạng tiềm năng, chưa được khai thác. Các số liệu thống kê cho thấy, trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc của CTBGPB chiếm tỉ lệ khá khiêm tốn, trong đó chủ yếu còn ở dạng thô, chưa qua chế biến (quặng, than đá, gỗ tròn, ). Cũng do trình độ của lực lượng sản xuất ở khu vực này còn hạn chế, nên trong quá trình triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh các chủ thể kinh tế không có những công nghệ hiện đại trong chế biến hàng hóa nông - lâm sản, khai thác tài nguyên, Điều đó dẫn tới tình trạng chất lượng hàng hóa không cao, tính cạnh tranh thấp; làm thất thoát, lãng phí tài nguyên và gây ra những tác động tiêu cực với môi trường, hệ sinh thái. Mặt khác, trình độ dân trí ở khu vực này còn khá thấp, quá trình sản xuất chủ yếu dựa vào công cụ lao động thủ công và những kinh nghiệm cổ truyền, năng xuất thấp, cá biệt có nơi còn tồn tại những hình thức canh tác sơ khai, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, sức mua hạn chế. Bên cạnh đó, sự phát triển của KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB còn có tình trạng
  36. 35 không đồng đều. Nói cách khác, sự phát triển KTTT ở khu vực này chủ yếu tập trung ở những nơi có điều kiện về cơ sở hạ tầng, nguồn tài nguyên, khu vực cửa khẩu, các trung tâm văn hóa - xã hội, Chính sự phát triển không đều này đã gây ra sự chênh lệch về phát triển KT-XH, cũng như những tác động cả tích cực và tiêu cực của việc phát triển KTTT định hướng XHCN không giống nhau giữa các địa phương trong khu vực đối với công tác bảo vệ CQANBGQG. Hai là, phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB, có mối quan hệ chặt chẽ và chịu sự chi phối của các địa phương quốc gia láng giềng (Trung Quốc). Đặc điểm của cư dân CTBGPB, nhất là cư dân khu vực hai bên biên giới, thường có quan hệ thân tộc, dân tộc và huyết thống. Đây là truyền thống tốt đẹp, là cơ sở để xây dựng tinh thần đoàn kết, hữu nghị trong xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ CQANBGQG. Trong điều kiện phát triển nền KTTT định hướng XHCN, mối quan hệ này ngày càng được củng cố và phát triển trên cơ sở gia tăng các hoạt động trao đổi, mua bán, hợp tác, liên doanh, liên kết giữa các đối tác kinh tế hai bên. Sự phát triển hay hạn chế của mỗi bên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phía bên kia. Thực tế cho thấy, ở CTBGPB, do điều kiện địa hình, thời tiết phức tạp, giao thông đi lại không thuận lợi, khiến cho hoạt động vận chuyển và bảo quản hàng hoá sản xuất trong vùng (nhất là hàng hoá nông, lâm sản) vào khu vực nội địa gặp rất nhiều khó khăn. Mặt khác, thị trường trong nước vừa xa, vừa hẹp, vừa khó tính v.v, không thực sự đáp ứng được yêu cầu nâng cao số, chất lượng hàng hoá, dịch vụ và áp dụng kỹ thuật - công nghệ. Bên cạnh đó, các quốc gia tiếp giáp (nhất là Trung Quốc) với những chiến lược như: “Đại khai phá Miền Tây”, “Duyên biên khai phóng”, “Hưng biên phú dân”, “Hỗ trợ dân biên”, “Tam khứ nhất bổ” (Tam khứ: xuất khẩu lao động, thiết bị, kỹ thuật; Nhất bổ: Lấy những mặt hàng trong nước thiếu và khan hiếm) tăng cường mở cửa biên giới, khuyến khích hoạt động biên mậu, đẩy mạnh sự hợp tác
  37. 36 trong lĩnh vực kinh tế; tập trung xây dựng các trung tâm kinh tế, thương mại lớn ở KVBG; đầu tư xây dựng các dự án, Hoạt động đó đã thực sự thu hút sự quan tâm của các thành phần kinh tế, không chỉ tạo điều kiện để nhân dân địa phương KVBG trao đổi sản phẩm một cách thuận lợi, mà còn tạo điều kiện để các chủ thể kinh tế có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, trao đổi thông tin, ký kết hợp đồng với đối tác phía bên kia. Từ đó, thúc đẩy quá trình sản xuất, cung ứng các dịch vụ, mở rộng thị truờng làm cho hoạt động kinh tế sôi động và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, để quá trình hợp tác kinh tế thực sự có hiệu quả, cần có sự nỗ lực rất lớn của mỗi chủ thể kinh tế - trong đó vấn đề quan trọng hàng đầu là phải nâng cao năng lực cạnh tranh và đấu tranh có hiệu quả với những hoạt động vi phạm luật pháp kinh tế. Đối với CTBGPB, những khu vực có điều kiện phát triển KT-XH thường tập trung ở các đầu mối giao thông, cửa khẩu, cảng biển, Trong khi những nơi này phần lớn đều tập trung ở khu vực tiếp giáp đường biên giới. Hiện nay, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nhiều địa phương ở CTBGPB đã và đang tiến hành xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu. Đây thực sự là khu vực chiếm vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia nói chung, CTBGPB nói riêng, nhất là trong quan hệ trao đổi thương mại. Nhưng để khu vực này có thể hoạt động hiệu quả còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác, liên doanh, liên kết và phối hợp của các đối tác quốc gia tiếp giáp. Theo Hiệp định về Cửa khẩu và Quy chế quản lý cửa khẩu biên giới đất liền Việt - Trung, ký ngày 18/11/2009, chính thức có hiệu lực từ ngày 14/7/2010, số lượng cửa khẩu được 2 bên chính thức công nhận có 9 cặp cửa khẩu (5 cửa khẩu quốc tế và 4 cửa khẩu song phương) và 13 cặp cửa khẩu sẽ được mở thêm khi có đủ điều kiện. Tuy nhiên, các kết quả khảo sát gần đây của các cơ quan chức năng cũng cho thấy, mặc dù Chính phủ, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành và các lực lượng ở CTBGPB đã tập trung rất nhiều nguồn lực cho công tác quy hoạch, xây dựng và triển khai thực hiện hoạt
  38. 37 động của các khu kinh tế cửa khẩu, nhưng có thể thấy ở khu vực này còn tồn tại những mặt hạn chế như: Tăng trưởng thương mại không ổn định, quy mô xuất nhập khẩu còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; Chất lượng hoạt động thương mại - xuất nhập khẩu còn thấp, mang tính tự phát, thời vụ; Tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại, tư thương lợi dụng chính sách ưu đãi để thu gom hàng miễn thuế đưa vào nội địa, tuy đã được ngăn chặn, nhưng do những yếu kém trong vấn đề tổ chức, quản lý, phối hợp giữa các ngành chức năng có lúc, có nơi vẫn còn trầm trọng, Các nguyên nhân trên, trước hết thuộc về chủ quan của các đối tác kinh tế phía Việt Nam. Nhưng điều đó cũng thể hiện một sự phụ thuộc rất lớn vào chính sách, cơ chế cũng như quan điểm của phía đối tác các quốc gia láng giềng (nhất là Trung Quốc). Thời gian gần đây, tình trạng hàng hóa của Việt Nam (đặc biệt là hàng nông phẩm) tham gia hoạt động xuất - nhập khẩu, luôn bị các đối tác phía Trung Quốc gây khó khăn, thậm chí làm thiệt hại cho các doanh nghiệp và cá nhân phía Việt Nam đã xảy ra, là một minh chứng rất rõ ràng (phổ biến nhất là tình trạng ép giá). Một đặc điểm cần lưu ý là, nếu nhìn nhận ở góc độ chung, phần lớn các tỉnh có đường biên giới (nhất là đường biên giới trên bộ) trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế của mình đều chịu sự chi phối nhất định của sự phát triển kinh tế từ các địa phương nước láng giềng. Tuy nhiên, qua kết quả khảo sát cho thấy, sự ảnh hưởng, tác động và chi phối đó không hoàn toàn giống nhau giữa các khu vực - Đặc biệt là hoạt động thu hút đầu tư, kinh doanh, trao đổi thương mại của các đối tác phía bên kia biên giới. Với các tỉnh có đường biên giới tiếp giáp với Lào và Cămpuchia, do điều kiện KT-XH của các địa phương ở KVBG của hai quốc gia này còn rất nhiều hạn chế (nếu không muốn nói là còn nghèo nàn, lạc hậu hơn so với chúng ta). Vì vậy, ở các tuyến biên giới này, nhất là ở các khu vực cửa khẩu, nơi có các điều kiện để phát triển kinh tế quốc tế. Mặc dù Nhà nước và các địa phương khu vực đó đều có những chủ trương, chính sách ưu đãi nhằm thu hút nguồn vốn cũng như đối tác kinh tế
  39. 38 của các quốc gia, nhưng trên thực tế, sự tham gia của các đối tác này còn rất hạn chế và không mang lại hiệu quả cao. Ngược lại với những địa phương trên, ở CTBGPB hoạt động này thu hút nhiều đối tác kinh tế phía Trung Quốc từ đầu tư, kinh doanh; xuất, nhập khẩu đến du lịch v.v,. Thể hiện bằng số lượng hàng hoá trao đổi ngày càng nhiều và đa dạng về chủng loại; số lượng các doanh nghiệp, các cá nhân đã, đang và sẽ tham gia kinh doanh, đầu tư, trao đổi thương mại tuyệt đại bộ phận đều có nguồn gốc từ Trung Quốc, Đài Loan. Chính sự tham gia của các đối tác kể trên đã góp phần làm cho hoạt động kinh tế ở CTBGPB (đặc biệt ở KVBG) không chỉ ngày một nhộn nhịp và sôi động mà còn có thêm điều kiện để phát triển. Bên cạnh đó, do điều kiện về trình độ tổ chức, nguồn vốn, trình độ công nghệ cũng như các chính sách, chiến lược thương mại giữa hai quốc gia có sự chênh lệch và khác biệt nhất định. Từ lâu, trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, chúng ta luôn ở thế “bị động” và chịu sự phụ thuộc cũng như những thiệt hại không đáng có. Sự bất hợp lý này, trước mắt sẽ làm thiệt hại đến các doanh nghiệp tham gia hoạt động trao đổi thương mại, về lâu dài sẽ làm triệt tiêu động lực cũng như nội lực của các doanh nghiệp, Điều đó trong tương lai, sẽ dẫn tới tình trạng trì trệ của hoạt động trao đổi thương mại giữa hai quốc gia, đồng thời dưới góc độ bảo vệ CQANBGQG sẽ nảy sinh những tác động tiêu cực, Ba là, phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB gắn liền với việc khai thác tiềm năng, nguồn lực tại chỗ và đặc điểm tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng. Sự phát triển KT-XH nói chung, phát triển KTTT nói riêng của mỗi quốc gia dân tộc hay của mỗi địa phương trong từng quốc gia luôn gắn liền với việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của mình cũng như chịu sự tác động trực tiếp của các điều kiện KT-XH. Nếu như việc tổ chức khai thác tiềm năng, thế mạnh của vùng được coi là nguồn lực trực tiếp để phát triển kinh tế, thì các điều kiện khác như đặc điểm tổ chức văn hoá, xã hội được coi là môi
  40. 39 trường trực tiếp. Cả hai yếu tố này đều có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả của việc phát triển KTTT định hướng XHCN của CTBGPB. Đối với các địa phương khác trong nước, nhất là những địa phương có điều kiện thuận lợi về giao thông, gần các thành phố lớn, thị trường tiêu thụ hàng hoá rộng, Ưu tiên số một của địa phương là tổ chức xây dựng các khu công nghiệp, thu hút sự đầu tư, giải quyết công ăn việc làm cho lao động địa phương cũng như tổ chức phát triển kinh tế với nhiều ngành nghề đa dạng. Đối với CTBGPB những lợi thế trên hoàn toàn không có. Chính vì vậy, điều kiện tiên quyết, trực tiếp quyết định hiệu quả của phát triển KTTT định hướng XHCN ở khu vực này chính là việc đi sâu khai thác tiềm năng, nguồn lực tại chỗ như: khai thác khoáng sản, lâm sản; phát triển kinh tế trang trại; trồng cây công nghiệp, dược liệu; chăn nuôi gia súc; du lịch sinh thái, sử dụng lực lượng lao động địa phương. Điều đó vừa đảm bảo khai thác có hiệu quả tiềm năng, vừa phát huy thế mạnh của vùng trong cạnh tranh. Bên cạnh đó, CTBGPB là nơi tập trung dân cư là đồng bào dân tộc thiểu số, có sự đa dạng về văn hoá, xã hội. Phần lớn những đặc điểm văn hoá, xã hội đã và đang tồn tại, được coi như môi trường thuận lợi cho phát triển KTTT định hướng XHCN như: đức tính thật thà, cần cù, chịu khó; tinh thần đoàn kết, gắn bó, yêu chuộng hoà bình, Tuy nhiên, bên cạnh đó hàng loạt các đặc điểm khác lại là những trở ngại khiến cho việc tiếp nhận thông tin, kinh nghiệm, trình độ tổ chức, quản lý nền KTTT định hướng XHCN vốn đã hết sức sôi động và phức tạp. Đó là: tâm lý tự ti dân tộc, ngại giao tiếp; lối làm ăn nhỏ lẻ, manh mún theo kiểu tự cung, tự cấp triệt tiêu các yếu tố của kinh tế hàng hoá; sự chi phối của các hủ tục lạc hậu v.v, Chính vì vậy, quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở khu vực này phải tránh tư tưởng nóng vội; việc đầu tư vốn, công nghệ; phát triển ngành, hàng phải có trọng tâm, trọng điểm tránh sự dàn trải. Trong thời gian gần đây, khi KTTT định hướng XHCN phát triển mạnh mẽ, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao, thì nhu cầu tham gia các hoạt động du lịch dã ngoại, sinh thái, “phượt”, ngày càng trở nên phát triển. Trong khi đó, với lợi thế về mặt khí hậu, thời
  41. 40 tiết và địa hình CTBGPB đang trở thành một điểm đến khá lý tưởng cho các loại hình du lịch nêu trên. Nếu tổ chức khai thác tốt loại hình kinh doanh này, sẽ đem lại cho CTBGPB một nguồn lợi rất lớn từ ngành “công nghiệp không khói” này. 1.2. Bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc 1.2.1. Quan niệm và nội dung bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia 1.2.1.1. Quan niệm về bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia Để khái quát quan niệm về bảo vệ CQANBGQG, trước hết cần nghiên cứu một số khái niệm liên quan. - Lãnh thổ quốc gia: Là một phần của quả đất, bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời và lòng đất giới hạn bởi biên giới quốc gia và thuộc chủ quyền của một quốc gia. Trong đó, Nhà nước có thể áp đặt một chế độ pháp lý cho việc quản lý các hoạt động kinh tế, chính trị - xã hội. Lãnh thổ quốc gia có thể to, nhỏ khác nhau, tỉ lệ giữa vùng đất, vùng nước, vùng trời có thể khác nhau, nhưng không thể thiếu ba thành phần cơ bản này. Theo luật pháp và các điều ước quốc tế, lãnh thổ quốc gia còn bao gồm phần lãnh thổ đặc biệt như trụ sở ngoại giao ở nước ngoài, tàu biển, phương tiện bay, tàu và trạm vũ trụ, xe cộ mang quốc kỳ hoặc các dấu hiệu phân biệt của các quốc gia đó, đường dây cáp, ống dẫn, thuộc quốc gia nằm ngoài lãnh thổ của quốc gia. - Chủ quyền quốc gia: Là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Mỗi quốc gia đều thể hiện chủ quyền của mình trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, ngoại giao, tất cả các nước, không tính đến quy mô lãnh thổ, dân số, chế độ xã hội, đều có chủ quyền quốc gia [127, tr.195].
  42. 41 - Biên giới quốc gia: Là ranh giới (đường thẳng và mặt thẳng đứng) xác định phạm vi chủ quyền của một quốc gia đối với vùng đất và vùng lòng đất phía dưới; vùng biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và khoảng không tiếp liền vùng đất và vùng biển đó [127, tr.42]. - An ninh biên giới quốc gia: Là sự yên ổn và vững chắc của biên giới quốc gia, thể hiện trên các mặt: chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trong khu vực biên giới được đảm bảo, tình hình chính trị - tinh thần của nhân dân ở biên giới được ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững [127, tr.5]. Như vậy, có thể khái quát quan niệm về bảo vệ CQANBGQG như sau: Bảo vệ CQANBGQG là bảo vệ quyền tối cao của Nhà nước đối với mọi vấn đề trong phạm vi lãnh thổ KVBG quốc gia; duy trì, giữ gìn đường biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở KVBG; là bảo vệ quyền làm chủ của Nhà nước đối với mọi lĩnh vực ở KVBG. Sự nghiệp bảo vệ CQANBGQG là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó BĐBP làm nòng cốt, chuyên trách và nguồn lực tại chỗ hết sức quan trọng là quần chúng nhân dân ở KVBG, biển, đảo. Xây dựng và bảo vệ biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển là vấn đề chiến lược quan trọng, cấp thiết, thể hiện chủ trương, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Chủ động, tích cực, bảo vệ từ xa, kết hợp giữa xây dựng nền quốc phòng toàn dân với xây dựng thế trận biên phòng toàn dân, an ninh nhân dân; chú trọng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở KVBG, biển, đảo vững mạnh; nắm vững quan điểm, đường lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược trong xử lý các tình huống. Dựa chắc vào dân, phát huy sức mạnh của toàn dân, của cả hệ thống chính trị; kết hợp chặt chẽ phát triển KT-XH với củng cố QP-AN và mở rộng quan hệ đối ngoại; gắn bảo vệ an ninh biên giới với an ninh nội địa
  43. 42 1.2.1.2. Nội dung bảo vệ CQANBGQG - Bảo vệ chủ quyền quốc gia: Bảo vệ chủ quyền quốc gia là quá trình triển khai các hoạt động bảo vệ quyền làm chủ độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Nói cách khác, bảo vệ chủ quyền quốc gia là bảo vệ sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Biểu hiện cụ thể của chủ quyền quốc gia là: không bị xâm lược, chia cắt hoặc đe doạ, can thiệp từ bên ngoài; các lợi ích của quốc gia được bảo đảm, trong đó đặc biệt là bảo đảm toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của bất kỳ quốc gia nào, nó gắn liền với lợi ích về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh của quốc gia; là cơ sở, nền tảng vật chất cho quốc gia tồn tại và phát triển bền vững trong phạm vi chủ quyền quốc gia. Trên cơ sở đó, khẳng định vai trò, vị trí của quốc gia cũng như các lợi ích của quốc gia trên trường quốc tế được đảm bảo và tôn trọng. - Bảo vệ an ninh chính trị: Bảo vệ an ninh chính trị là “Chống lại sự xâm phạm dưới mọi hình thức, để giữ vững sự yên ổn về chính trị, đảm bảo sự tin tưởng, vững vàng, nhất trí về chính trị, tinh thần trong nhân dân không để xảy ra rối ren, bạo loạn, lật đổ” [21, tr.13]. Trên bình diện quốc gia, an ninh chính trị liên quan đến sự mất còn của chế độ XHCN và chính quyền nhân dân. Đó là sự vững mạnh của Nhà nước, lòng tin của nhân dân đối với Đảng tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng thù trong giặc ngoài, xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay, lợi dụng chủ trương phát triển KTTT định hướng XHCN mở cửa, giao lưu hợp tác của nước ta, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đòi hỏi chúng ta phải thực hiện sự đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập. Chúng cho rằng, KTTT đi liền với sự tự do, vì vậy nếu chấp nhận KTTT
  44. 43 đồng thời phải chấp nhận sự tự do trong lĩnh vực chính trị - mà một trong những đòi hỏi của chúng là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính vì vậy, bảo vệ an ninh chính trị trong giai đoạn hiện nay cần hiểu theo nghĩa rộng hơn là: bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ Đảng, chính quyền các cấp; giữ vững định hướng XHCN trong phát triển KTTT, đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động chống phá của kẻ thù trên mặt trận chính trị - tư tưởng; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với giữ vững sự ổn định chính trị, từng bước đổi mới về chính trị trên cơ sở đổi mới về kinh tế. - Bảo vệ an ninh kinh tế: Là bảo vệ sự yên ổn của nền kinh tế, tài nguyên quốc gia, kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động của nền kinh tế. Nội dung chủ yếu của an ninh kinh tế “là sự yên ổn, nhịp nhàng, đồng bộ trong các hoạt động kinh tế, sự chặt chẽ, nghiêm minh và hữu hiệu của luật pháp về kinh tế, vô hiệu hoá các hoạt động phá hoại, gây rối ren trong hoạt động kinh tế, sự an toàn về tài nguyên trên lãnh thổ quốc gia và các vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia” [21, tr.8]. Để bảo vệ an ninh kinh tế cần phải làm tốt công tác điều tra, phát hiện những hoạt động vi phạm luật pháp kinh tế, xử lý nghiêm minh; đảm bảo sự công bằng, minh bạch, sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; tạo điều kiện phát huy mọi khả năng, thế mạnh của các chủ thể kinh tế. Các tỉnh ở khu vực có đường biên giới đất liền nói chung, CTBGPB nói riêng là nơi có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và chưa được khai thác hiệu quả. Đây thực sự là một nguồn lực quan trọng để phát triển KTTT định hướng XHCN. Vì vậy, công tác bảo vệ an ninh kinh tế cần phải hết sức coi trọng việc bảo tồn và phát huy hiệu quả khai thác các nguồn tài nguyên. Bên cạnh đó, KVBG là nơi có các cửa khẩu quốc gia và quốc tế, là nơi các đối tác kinh tế thực hiện việc trao đổi hàng hoá phục vụ sản xuất, kinh doanh theo con đường hợp pháp. Tuy nhiên, đây cũng là nơi các đối tượng xấu tổ chức các hoạt động phi pháp như: buôn lậu, gian lận thương
  45. 44 mại, vận chuyển và sử dụng chất ma túy, buôn bán người, mại dâm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của nền KTTT định hướng XHCN ở KVBG, tác động tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như công tác bảo vệ CQANBGQG. - Bảo vệ an ninh văn hoá, xã hội và tư tưởng: Là bảo vệ nền tảng tư tưởng tiến bộ của chế độ xã hội, giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm, tư tuởng phản động, độc hại nhằm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tuởng Hồ Chí Minh của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Trong cuốn “Chiến thắng không cần chiến tranh” cựu tổng thống Mỹ Nichxơn đã cho rằng: “Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế không đi đến đâu, nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”. Khi chúng ta chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi đây là cơ hội để chúng tập trung tiến hành chống phá trên lĩnh vực tư tuởng, văn hoá và xã hội không chỉ ở các tỉnh biên giới, mà còn trên phạm vi cả nước. 1.2.2. Quan niệm và nội dung tác động của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia ở các tỉnh biên giới phía Bắc 1.2.2.1. Quan niệm về tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB Để khái quát quan niệm tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB, luận án tiếp cận các quan niệm: “tác động” và “phát triển”. Theo Từ điển tiếng Việt, tác động là: “làm cho một đối tượng nào đó có những biến đổi nhất định” [130, tr.882]; phát triển là: “biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [130, tr.769]. Theo quan niệm này, một sự vật, hiện tượng có thể chịu sự tác động theo chiều thuận, chiều nghịch, hoặc là tác động tích cực, tác
  46. 45 động tiêu cực. Như vậy, trong thực tiễn việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN - một trong những hoạt động cơ bản của quá trình phát triển KT-XH tất yếu có sự tác động đến các lĩnh vực khác của đời sống - xã hội, trong đó bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB chịu sự tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất theo hai chiều hướng thuận chiều (tích cực) và ngược chiều (tiêu cực). Tiếp cận các công trình nghiên cứu về sự tác động của KTTT đến các lĩnh vực của đời sống - xã hội, tuy chưa có công trình nào đưa ra quan niệm cụ thể về sự tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG nói chung, ở CTBGPB nói riêng. Song, các luận giải về thực trạng, quan điểm hay giải pháp để phát huy tính tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đối với các lĩnh vực của đời sống KT-XH, trong đó có QP-AN, các nghiên cứu đã đề cập đến một số nội dung như: tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, để nói đến tác động tích cực; vấn đề phân hóa giàu nghèo, các hành vi làm hàng giả, buôn lậu, sự gia tăng của các tệ nạn xã hội, sự hủy hoại môi trường sinh thái, sự lệch lạc về nhận thức chính trị tư tưởng, để nói về tác động tiêu cực. Từ những luận giải trên, có thể hiểu: Tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB là quá trình vận động, biến đổi của nền KTTT theo hướng hiện đại tác động tích cực và tiêu cực đến chủ quyền quốc gia và nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị - kinh tế - xã hội - tư tưởng - văn hoá ở KVBG quốc gia thuộc CTBGPB. Nội hàm của quan niệm này thể hiện ở những vấn đề sau: - Đây là sự tác động từ lĩnh vực kinh tế đối với lĩnh vực QP-AN trên KVBG quốc gia ở CTBGPB. Hai lĩnh vực này chịu sự chi phối của hai loại qui luật riêng là qui luật kinh tế và qui luật quân sự - quốc phòng. Do đó,
  47. 46 trong chừng mực nhất định, hoạt động của hai lĩnh vực có thể không ăn khớp với nhau, lợi ích đạt được trong quá trình tổ chức thực hiện và phát triển của hai lĩnh vực có thể mất cân bằng. -Sự tác động này theo hai chiều hướng cả tích cực lẫn tiêu cực. Xét về bản chất, phát triển nền KTTT định hướng XHCN là mô hình tổng quát trong thời kì quá độ, có tác động tích cực là chủ yếu đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. Tuy nhiên, có nhiều lý do dẫn đến phát triển KTTT một cách tự phát và thuần túy, hoặc có sự phá hoại về kinh tế của các thế lực thù địch, đã phát sinh tác động tiêu cực đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. - Trạng thái động của hai lĩnh vực luôn làm biến thái những tác động tích cực và tiêu cực. Do đó, nảy sinh nhu cầu kết hợp phát triển cả hai lĩnh vực nhằm nhân lên mặt tích cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực. - Mục tiêu đạt được của quá trình định hướng sự tác động này là phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực đến mức thấp nhất của phát triển KTTT định hướng XHCN, bảo đảm nền KTTT phát triển và CQANBGQG ở CTBGPB được giữ vững. 1.2.2.2. Nội dung tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB * Tác động tích cực của phát triển KTTT định hướng XHCN đến bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB: Phát triển KTTT định hướng XHCN là một hoạt động cụ thể của lĩnh vực kinh tế, bảo vệ CQANBGQG là một nhiệm vụ cụ thể của hoạt động QP-AN. Trong mối quan hệ này, bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB chịu sự tác động của phát triển KTTT định hướng XHCN trên cả hai mặt, tích cực cũng như tiêu cực. Nội dung tác động tích cực được thể hiện trên những vấn đề sau: Một là, sự phát triển của KTTT định hướng XHCN tạo dựng cơ sở kinh tế quan trọng cho công tác bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB.
  48. 47 Những năm trước đây, nhất là trong thời kỳ chiến tranh, chủ quyền, an ninh biên giới của các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam thường bị đe dọa bởi các hoạt động quân sự từ bên ngoài lãnh thổ. Do đó, mỗi quốc gia đều phải chuẩn bị sẵn sàng lực lượng quân sự để đối phó với nguy cơ này. Trong bối cảnh chung, chúng ta cũng phải tập trung xây dựng lực lượng quân đội đủ mạnh để bảo vệ vững chắc CQANBGQG. Ở giai đoạn này, bên cạnh việc xây dựng và củng cố tiềm lực quân sự, nước ta đang duy trì một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Thực chất của mô hình kinh tế này là, thủ tiêu quan hệ trao đổi hàng hoá, thị trường; hạn chế đến mức thấp nhất các mối quan hệ với các quốc gia trên thế giới, triệt tiêu và kìm hãm những yếu tố phát triển của KTTT. Hơn nữa, đất nước vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh xâm lược của Đế quốc Mỹ, lại phải đương đầu với âm mưu bành trướng của các thế lực thù địch đe doạ trực tiếp đến CQANBGQG. Vì vậy, bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB lúc đó trở thành bảo vệ chủ quyền lãnh thổ theo “đường biên giới cứng”. Tức là, việc bảo vệ CQANBGQG được thể hiện trên đường biên giới ngoài thực địa, có sự phân tuyến rõ rệt bằng các công trình phòng thủ quân sự. Mọi mối quan hệ qua lại với các quốc gia có biên giới liền kề đều được kiểm soát chặt chẽ và nghiêm ngặt, nhất là những khu vực có xung đột. Với nhận thức đó, trong hoạt động bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB chúng ta tập trung phát hiện, đấu tranh ngăn chặn những âm mưu và hoạt động phá hoại của kẻ thù trên cơ sở sử dụng các biện pháp vũ trang, các biện pháp nghiệp vụ, đóng cửa biên giới và cắt đứt mọi quan hệ với bên ngoài, đặc biệt là với quốc gia liền kề đang có xung đột vũ trang. Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, hòa bình, hợp tác để phát triển đang trở thành một nhân tố chủ đạo của quan hệ quốc tế đương đại. Trên bình diện kinh tế, phát triển KTTT đã và đang thực sự là giải pháp hữu hiệu nhất để các nước kém phát triển tăng trưởng kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bằng việc thu hút nguồn vốn đầu tư, khoa học - công nghệ và kinh nghiệm tổ chức, quản lý nền kinh tế.
  49. 48 Dưới góc độ QP-AN, hình thức sử dụng các hoạt động quân sự để xâm chiếm nước khác đang dần được đẩy lùi và bị dư luận tiến bộ trên toàn thế giới lên án. Tuy nhiên, với ưu thế về sức mạnh kinh tế, khoa học - kỹ thuật và với âm mưu xoá bỏ những nước XHCN còn lại, trong đó có Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã và đang thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình”, mà một trong những mục tiêu quan trọng là phá hoại về kinh tế. Chúng lợi dụng các hoạt động giao lưu, hợp tác, trao đổi, đầu tư, cùng với khẩu hiệu: “Hàng hoá đi đến đâu, biên giới được mở mang đến đó”; “Biên giới mềm” - biên giới của kinh tế, văn hóa, thông tin, để tiến hành các hoạt động chống phá, xâm phạm đến CQANBGQG, nhất là CQANBGQG ở CTBGPB. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy: “Trong bối cảnh thế giới ngày nay, cuộc đấu tranh giành giật “ai thắng ai” trong cuộc chiến thị trường cũng không kém phần gay go, quyết liệt. Chiến tranh thị trường - một kiểu thực dân mới, một hình thức bóc lột mới và cũng là một con đường “diễn biến hòa bình”, một cuộc chiến tranh “biên giới mềm” đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Chủ quyền lãnh thổ bị đe dọa không phải bằng lưỡi lê và xe tăng mà bằng hàng hóa, tiền và công nghệ. Hàng hóa đến đâu là biên giới đến đó và như vậy là có thị trường, vơ vét được tài nguyên của những nước nghèo kém phát triển mà tỏ ra sòng phẳng, khiến cả nước nghèo rơi vào tình cảnh quốc gia còn nguyên vẹn mà chủ quyền thì bị mất” [98, tr.155]. Vì vậy, lúc này CQANBGQG không chỉ bị phá hoại trên “đường biên giới cứng” ngoài thực địa, mà còn bao hàm một phạm vi rộng hơn cả về nội dung và hình thức tác động. Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới mặc dù đường biên giới vẫn còn nguyên vẹn; bộ máy tổ chức, quản lý đất nước vẫn hoạt động tưởng như bình thường; nhưng thực chất, độc lập, CQANBGQG đã bị xâm hại nghiêm trọng bằng việc các thế lực thù địch hay các nước lớn thông qua các hoạt động kinh tế, chính sách viện trợ, các kênh thông tin đại chúng, đã chi phối và khống chế bộ máy nhà nước.
  50. 49 Từ những luận cứ trên có thể thấy rằng, trong điều kiện xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN, bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB không chỉ là bảo vệ sự nguyên vẹn của “đường biên giới cứng’’ trên thực địa với hệ thống mốc giới; độc lập, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, mà còn là sự bảo vệ và tạo môi trường thuận lợi cho các yếu tố tích cực của KTTT định hướng XHCN phát huy tác dụng, hạn chế những mặt tiêu cực, chống lại sự can thiệp của nước ngoài bằng các chính sách kinh tế. Bên cạnh đó, với quan điểm mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển nền KTTT định hướng XHCN, CTBGPB đã và đang trở thành một khu vực có hoạt động trao đổi thương mại và lưu thông hàng hoá diễn ra mạnh mẽ. Quá trình này không chỉ cần một cơ chế về kinh tế, mà còn cần một môi trường chính trị - xã hội ổn định. Vì vậy, bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB phải được thực hiện và gắn kết với quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN, tạo điều kiện thuận lợi và đấu tranh có hiệu quả với những tác động tiêu cực, góp phần đẩy nhanh sự phát triển của KTTT định hướng XHCN ở khu vực này. Hai là, góp phần xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện khai thác tính lưỡng dụng cho hoạt động bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. Khu vực biên giới, nhất là biên giới miền núi CTBGPB, là nơi có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất đảm bảo cho phát triển KTTT định hướng XHCN còn nhiều hạn chế như: hệ thống đường giao thông, điện chưa đồng bộ; các công trình thuỷ lợi còn nhỏ; mạng lưới bưu chính viễn thông chưa phát triển; sân bay, nhà ga còn thiếu; công tác y tế, giáo dục còn nhiều bất cập v.v, Trong khi đó, đây là những điều kiện cơ bản không thể thiếu được của sản xuất, lưu thông hàng hoá và các hoạt động dịch vụ khác phục vụ sự phát triển của KTTT. Như vậy, điều kiện tiên quyết để cho nền KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB phát triển là phải xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng như: hệ thống đường giao thông và mạng lưới điện đảm bảo; thông tin liên lạc thông suốt; các công trình thủy lợi đầy đủ và phát huy tác dụng; công tác giáo dục và y tế có hiệu quả v.v,
  51. 50 Trong giai đoạn hiện nay, tình hình an ninh - chính trị và trật tự an toàn xã hội ở CTBGPB tương đối ổn định, đặc biệt là sau khi hai nước Việt Nam và Trung Quốc hoàn thành việc phân giới cắm mốc, nhưng vẫn còn ẩn chứa những yếu tố bất ổn như: cướp có vũ trang, vận chuyển chất ma tuý, buôn lậu, buôn bán người, khai thác trái phép tài nguyên thiên nhiên, Bên cạnh đó, không thể không tính tới các hoạt động gây bạo loạn, lật đổ, xâm lược vũ trang. Khi KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB phát triển đi liền với kết cấu hạ tầng được xây dựng và đảm bảo, nếu có các hoạt động và tình huống nêu trên xảy ra, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cơ động, triển khai lực lượng, phương tiện cũng như việc đảm bảo trao đổi thông tin liên lạc trong mỗi đơn vị và giữa các đơn vị với nhau trong hoạt động phối hợp, hiệp đồng tác chiến. Ngay cả khi tình hình bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB không có những biến động phức tạp, thì việc duy trì những chế độ sinh hoạt, công tác thường xuyên của các đơn vị chuyên trách, nòng cốt bảo vệ biên giới như lực lượng BĐBP, cũng cần phải có sự đảm bảo của kết cấu hạ tầng, từ việc đi lại (phục vụ công tác, nghỉ phép, vận chuyển lương thực, khám chữa bệnh, nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ em, ) đến trao đổi thông tin với gia đình, địa phương. Chính sự thuận lợi mà kết cấu hạ tầng mang lại đã góp phần biến những vùng đất xa xôi, cách trở, hẻo lánh nơi biên giới của Tổ quốc trở nên gần gũi, gắn bó và thân thiết với mỗi cán bộ chiến sĩ. Từ đó, khắc phục và hạn chế tâm lý ngại khó, ngại khổ khi nhận nhiệm vụ công tác cũng như kết nối mối quan hệ với hậu phương của cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB, làm cho họ thực sự yên tâm tư tưởng để có thể tập trung toàn bộ trí lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ba là, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và lực lượng vũ trang; củng cố vững chắc lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng, với Quân đội; xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB.
  52. 51 Dưới góc độ chung, “sự phát triển của kinh tế thị trường ở nước ta làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, quá trình này sẽ tác động đến tiến bộ xã hội, đến việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân” [75, tr.84]. Dưới góc độ cụ thể, trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB, các chủ thể kinh tế được tự do, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và cung cấp các dịch vụ. Điều đó đã phát huy tính năng động, sáng tạo, kinh nghiệm cũng như nguồn vốn của mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế, khai thác tối đa năng lực của mỗi cá nhân cũng như thế mạnh của mỗi vùng. Từ đó, thu nhập của cư dân KVBG ở CTBGPB ngày một ổn định và nâng cao, đời sống vật chất được cải thiện, tỉ lệ đói nghèo ngày một giảm, vấn đề an ninh lương thực được bình ổn, Chính những thay đổi quan trọng này đã góp phần làm cho quần chúng nhân dân ổn định đời sống vật chất và tinh thần; không bị chi phối, dẫn đến việc có những hành động vi phạm quy chế biên giới hoặc bị kẻ địch và các phần tử xấu mua chuộc, kích động và lôi kéo vào những hoạt động gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thực tế cho thấy “ở nơi nào kinh tế phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao thì ở đó tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được đảm bảo vững chắc, các thế lực phản động khó có thể chống phá” [83, tr.85]. Trong thời gian gần đây, đã xảy ra một số hoạt động gây mất ổn định ở KVBG nói chung, CTBGPB nói riêng đều có nguyên nhân cơ bản từ kinh tế. Nếu không có sự phát triển của KTTT định hướng XHCN, đời sống của cư dân KVBG ở CTBGPB không được cải thiện; thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, tinh thần quần chúng nhân dân không thể quan tâm đến các vấn đề khác của đời sống - xã hội, trong đó có công tác bảo vệ CQANBGQG. Mặt khác, khi đời sống kinh tế của nhân dân ổn định và cải thiện còn tạo điều kiện cho nhân dân đóng góp và hoàn thành nghĩa vụ tham gia bảo vệ CQANBGQG như: thành lập quỹ QP-AN, xây dựng các công trình phòng thủ biên giới v.v,
  53. 52 Phát triển KTTT định hướng XHCN, còn tạo điều kiện đóng góp nguồn ngân sách phục vụ xây dựng các trung tâm văn hoá - xã hội như: nhà văn hoá, cụm phát thanh, truyền hình, chợ, Đây chính là nơi bà con các dân tộc ở KVBG của CTBGPB sinh hoạt, giao lưu, tổ chức các hoạt động lễ hội của địa phương. Thông qua các hoạt động này, các cơ quan chức năng có thể kết hợp tuyên truyền, giáo dục những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, những quy định của địa phương. Góp phần xây dựng đời sống mới, nâng cao ý thức trách nhiệm của đồng bào trong hoạt động phát triển kinh tế cũng như củng cố QP-AN. Từ đó, đi đến hạn chế và xoá bỏ những hủ tục lạc hậu; đấu tranh chống lại những tư tưởng, hành động đi ngược lại với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân; nâng cao ý thức cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và tích cực tham gia cùng các lực lượng quân đội, công an, làm tốt nhiệm vụ bảo vệ CQANBGQG. Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng, nhưng quần chúng chỉ thực sự phát huy vai trò và sức mạnh của mình khi có động lực thúc đẩy. Khi đất nước bị xâm lăng, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã tập hợp quần chúng thành một khối đoàn kết chặt chẽ nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước. Hiện nay, đất nước đã thống nhất, nhưng tình hình thế giới và trong nước còn ẩn chứa nhiều vấn đề phức tạp, bảo vệ CQANBGQG trở thành một nhiệm vụ quan trọng nổi lên trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn bao giờ hết, quần chúng nhân dân ở CTBGPB, nhất là KVBG có vai trò rất quan trọng. Trong hoà bình, họ vừa lao động sản xuất bảo đảm cuộc sống, vừa góp phần khẳng định chủ quyền của đất nước. Khi có chiến tranh xâm lược xảy ra, họ trở thành những “người lính” nổ phát súng đầu tiên chống lại kẻ thù và báo hiệu Tổ quốc lâm nguy. Bên cạnh đó, khi có các hiện tượng lấn chiếm, xâm canh, xâm cư vi phạm chủ quyền lãnh thổ họ vừa trở thành tai mắt kịp thời phát hiện, báo tin cho các cơ
  54. 53 quan chức năng vừa trực tiếp tham gia đấu tranh. Nền KTTT định hướng XHCN từng bước hình thành, sự phân công lao động và mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế sẽ làm cho nền kinh tế có sự tăng trưởng, phát triển với tốc độ nhanh. Nhờ đó, chúng ta có khả năng huy động được nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư cho chương trình định canh, định cư, ổn định đời sống nhân dân. Đồng thời, với chính sách và cơ chế kinh tế mới, nhân dân được giao đất, giao rừng, vay vốn nên sẽ mạnh dạn đầu tư sản xuất, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu; cộng với hệ thống đường giao thông, bưu điện từng bước phát triển, sản phẩm sản xuất ra đã được tiêu thụ nhanh chóng và trở thành sản phẩm hàng hoá, Điều đó sẽ tạo điều kiện cho nhân dân cải thiện, nâng cao và ổn định đời sống, yên tâm gắn bó với quê hương, làng bản, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động xâm hại đến lợi ích của cộng đồng và CQANBGQG. Qua khảo sát thực tế các đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ nòng cốt, chuyên trách bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB (đồn, trạm biên phòng) cho thấy, các đơn vị này thường đóng quân gần những trung tâm phát triển của KT-XH ở KVBG như: chợ, khu kinh tế cửa khẩu, trung tâm văn hoá vùng v.v, Do vậy, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ đã thực hiện việc hợp lý hóa gia đình, xây dựng nên những khu tập thể quân nhân, tạo ra sự gắn bó chặt chẽ, lâu dài coi “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”. Khi KTTT định hướng XHCN phát triển và “thu nhập quốc dân không ngừng được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần của người dân nói chung, trong đó có gia đình cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang được cải thiện” [83, tr.87]. Từ đó mà tạo ra sự tin tưởng, phấn khởi để yên tâm phục vụ tại ngũ; phát huy ý thức, trách nhiệm, sự hi sinh của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong bảo vệ CQANBGQG. Bốn là, sự phát triển của KTTT định hướng XHCN tạo điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong bảo vệ CQANBGQG ở CTBGPB. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Một dân tộc dốt là một dân
  55. 54 tộc yếu. Ngày nay, tỉ lệ dân số biết chữ được Liên Hợp Quốc coi là một tiêu chí để đánh giá mức độ phát triển của các quốc gia. Xét trên góc độ kinh tế, khi trình độ dân trí thấp, các điều kiện đảm bảo cho giáo dục còn thiếu thốn sẽ hạn chế việc tiếp nhận, xử lý thông tin, nắm bắt kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh của mỗi cá nhân cũng như các đơn vị kinh tế, dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống vật chất của dân cư. Dưới góc độ an ninh - chính trị, từ chỗ kém hiểu biết, hạn chế về nhận thức dẫn tới việc dễ bị chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch lợi dụng tuyên truyền, lôi kéo vào những hoạt động xâm phạm đến CQANBGQG ở CTBGPB. Cũng từ những hạn chế về nhận thức, thường bị các hủ tục lạc hậu chi phối, không chỉ làm tổn hại đến kinh tế của mỗi hộ gia đình mà còn gây ra tình trạng hoang mang, dao động trong đời sống tinh thần của đồng bào, tạo nên sự bất ổn ở KVBG. Khi KTTT định hướng XHCN ở CTBGPB phát triển, sẽ cung cấp một nguồn lực đáng kể để xây dựng hệ thống trường học, trang bị những phương tiện phục vụ hoạt động giáo dục, đảm bảo những điều kiện cần thiết cho đội ngũ giáo viên làm công tác giảng dạy (nhất là ở những thôn, bản ở vùng sâu, vùng xa, giáp đường biên giới). Khi chương trình giáo dục có hiệu quả, trình độ dân trí được cải thiện, việc tiếp thu những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy chế, luật pháp biên giới sẽ thuận lợi hơn. Trên cơ sở nhận thức được nâng cao, quần chúng nhân dân ở CTBGPB hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng và nâng cao ý thức, trách nhiệm đối với việc bảo vệ vững chắc CQANBGQG, gắn lợi ích của bản thân, dân tộc với lợi ích của đất nước. Bên cạnh đó, việc chăm sóc sức khỏe cũng trở thành một tiêu chí quan trọng trong nhiệm vụ phát triển KT-XH của mỗi quốc gia. Sự yếu ớt về thể chất sẽ đi liền với sự non kém về tinh thần và nhận thức. Dù ở thời đại và chế độ xã hội nào thì sức khoẻ cũng luôn được coi là vốn quý, là niềm khao khát và mục đích vươn tới của cả nhân loại. Cũng chính vì vậy, hoạt động trong lĩnh vực kinh tế hay bảo vệ CQANBGQG, không chỉ đòi hỏi một nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, mà còn phải có một nền tảng thể