Kinh tế Vĩ mô 2 - Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

pdf 111 trang vanle 2670
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kinh tế Vĩ mô 2 - Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfkinh_te_vi_mo_2_nhung_giai_phap_phat_trien_thi_truong_dich_v.pdf

Nội dung text: Kinh tế Vĩ mô 2 - Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG  VŨ THỊ XUÂN THƠ NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế Mã số: 60.31.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Quy HÀ NỘI - 2004
  2. MỤC LỤC Phần mở đầu Trang Chương 1 Tổng quan về dịch vụ tài chính 4 1.1. Những vấn đề cơ bản về dịch vụ tài chính và vai trò của 4 nó đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân. 1.1.1 Khái niệm dịch vụ tài chính 4 1.1.2 Đặc điểm của dịch vụ tài chính 6 1.1.3 Các loại hình dịch vụ tài chính 7 1.1.4 Vai trò của các dịch vụ tài chính đối với sự phát triển nền 10 kinh tế quốc dân 1.2 Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ tài 12 chính và những cam kết của Việt nam 1.2.1 Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ tài 12 chính 1.2.1.1 Những quy định của GATS đối với thị trường dịch vụ tài 12 chính 1.2.1.2 Những quy định trong Hiệp định khung về Hợp tác dịch vụ 16 của ASEAN đối với thị trường dịch vụ tài chính 1.2.1.3 Những quy định trong Hiệp định thương mại Việt nam - 16 Hoa Kỳ đối với thị trường dịch vụ tài chính 1.2.2 Những cam kết của Việt nam trong các Hiệp định về lĩnh vực 17 dịch vụ tài chính 1.2.2.1 Cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam trong Hiệp định 17 khung về Hợp tác dịch vụ của ASEAN 1.2.2.2 Cam kết về dịch vụ tài chính trong Hiệp định thương mại 22 Việt nam - Hoa Kỳ Chương 2. Thực trạng thị trường dịch vụ tàI chính việt nam trong những 28 năm gần đây 2.1 Khái quát chung về thị trường dịch vụ tài chính Việt nam 28 2.2 Thực trạng thị trường dịch vụ bảo hiểm 29 2.2.1 Những thành tựu đạt được 30
  3. 2.2.2 Một số vấn đề còn tồn tại 37 2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại 41 2 2.4 Những bất cập của thị trường dịch vụ bảo hiểm so với yêu 43 cầu hội nhập quốc tế 2.3 Thực trạng thị trường dịch vụ ngân hàng 48 2.3.1 Những thành tựu đạt được 50 2.3.2 Một số vấn đề còn tồn tại 58 2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại 62 2.3.4 Những bất cập của thị trường dịch vụ ngân hàng so với yêu 64 cầu hội nhập quốc tế Chương 3 CÁC GIảI PHÁP NHằM PHÁT TRIểN THị TRườNG DịCH 70 Vụ TÀI CHÍNH VIệT NAM đÁP ứNG YêU CầU HộI NHậP KINH Tế QUốC Tế 3.1 Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển thị 70 trường dịch vụ tài chính 3.1.1 Thái Lan 70 3.1.2 Singapore 73 3.1.3 Các bài học kinh nghiệm rút ra 75 3.2 Định hướng, giải pháp phát triển thị trường dịch vụ bảo 79 hiểm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 3.2.1 Định hướng phát triển dịch vụ bảo hiểm 79 3.2.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ bảo hiểm 79 3.2.1.2 Các định hướng chủ yếu 81 3.2.2 Giải pháp phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm 83 3.3 Định hướng, giải pháp phát triển thị trường dịch vụ ngân 87 hàng đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế 3.3.1 Định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng 87 3.3.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ ngân hàng 87 3.3.1.2 Các định hướng chủ yếu 90 3.3.2 Các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng 90 3.3.2.1 Nhãm gi¶i ph¸p ®èi víi Ng©n hµng Nhµ n•íc 90 3.3.2.2 Nhãm gi¶i ph¸p ®èi víi c¸c ng©n hµng th•¬ng m¹i 92 KÕt luËn
  4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ hỗ trợ của các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp. Nhân dịp hoàn thành bản Luận văn, tôi xin đặc biệt bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị Quy - người đã chỉ bảo tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn. Tôi cũng xin cảm ơn các các cô chú, anh chị ở Bộ tài chính, Bộ thương mại, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương đã hỗ trợ tài liệu - một phần không thể thiếu để bản Luận văn được hoàn chỉnh. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp, gia đình đã hỗ trợ, ủng hộ về tinh thần để tôi có thể hoàn thành Luận văn. Do hạn chế về năng lực và thời gian nghiên cứu, Luận văn chắc chắn không tránh khỏi những sai sót, tác giả rất mong được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô và các bạn bè đồng nghiệp. Hà nội, ngày 20 tháng 6 năm 2004 Tác giả Vũ Thị Xuân Thơ
  5. BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT WTO Tổ chức Thương mại Thế giới GATS Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ BTA Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ AFAS Hiệp định khung về hợp tác dịch vụ ASEAN MFN Quy chế Đãi ngộ Tối huệ quốc NT Quy tắc Đãi ngộ quốc gia NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng Thương mại NHTMQD Ngân hàng Thương mại Quốc doanh NHTMCP Ngân hàng Thương mại Cổ phần VCB Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam INCOMBANK Ngân hàng Công thương VBARD Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển TCTD Tổ chức tín dụng GDP Tổng sản phẩm Quốc nội TCTC Tổ chức tài chính BHNT Bảo hiểm nhân thọ BH PHI NT Bảo hiểm phi nhân thọ ACB Ngân hàng thương mại cổ phần á châu EXIM Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu UOB Ngân hàng United Overseas Bank Singapore EAB Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng Tên bảng Trang 2.1 Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh bảo hiểm 31 2.2 Danh sách các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường bảo 34 hiểm Việt Nam (tính đến ngày 30/11/2003) 2.3 Cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 - 2003 48 2.4 Doanh số thanh toán thẻ của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 55 2.5 Tỷ trọng giữa cho vay so với vốn huy động giai đoạn 1994-2003 61 2.6 Tình hình huy động vốn của hệ thống ngân hàng 61 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1 Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 1993 - 2003 31 2.2 Tỷ trọng doanh thu PBH/GDP giai đoạn 1993 - 2003 32 2.3 So sánh doanh thu PBH nhân thọ và phi NT 35 2.4 So sánh doanh thu PBH/GDP một số nước năm 2001 38 2.5 Tỷ trọng dư nợ tín dụng tính đến 31/12/2003 50 2.6 Thị phần thẻ ATM của ngân hàng Ngoại thương Việt nam 55 năm 2003 so với các ngân hàng khác 2.7 Thị phần thẻ tín dụng quốc tế của ngân hàng Ngoại thương 56 Việt nam năm 2003 so với các ngân hàng khác 2.8 Doanh số bảo lãnh vốn vay trong nước và nước ngoài của 4 57 NHTMNN giai đoạn 1998 - 2002
  7. - 1 - PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ phải thực hiện nhiều cam kết trong các Hiệp định như Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định khung về hợp tác dịch vụ ASEAN và Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) khi Việt Nam tham gia vào WTO. Một trong những nội dung quan trọng của các cam kết đó là tận dụng mọi ngoại lực, phát huy hết mọi nội lực để xây dựng một thị trường dịch vụ tài chính vững mạnh. Tuy nhiên tại Việt Nam, thị trường dịch vụ tài chính phát triển còn chậm. Cho đến nay, một số yếu tố của thị trường còn chưa đầy đủ, hàng hoá đơn điệu, các quy định pháp lý chưa đủ và đồng bộ, do vậy chưa huy động được tối đa nguồn lực trong xã hội cho đầu tư. Chính vì thế mà thị trường này chưa phát huy được đầy đủ vai trò của nó đối với nền kinh tế. Do đó, việc đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ tài chính trong những năm qua nhằm tìm ra các hạn chế, khó khăn cùng các nguyên nhân làm cho thị trường dịch vụ tài chính còn chậm phát triển, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là hết sức cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, đã có nhiều đề tài, nhiều công trình khoa học tập trung nghiên cứu thị trường dịch vụ tài chính. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp Bộ “Dịch vụ Bảo hiểm và ngân hàng của Việt nam. Những vấn đề đặt ra trong quá trình đàm phán và thực hiện các cam kết với WTO” do TS. Nguyễn Thị Quy làm chủ nhiệm đề tài và một số các đề tài mà các sinh viên các trường Đại học khối kinh tế chọn viết Khóa luận tốt nghiệp.
  8. - 2 - Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động, những hạn chế của thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam trong những năm gần đây, luận văn phân tích các nguyên nhân làm cho thị trường dịch vụ tài chính còn chậm phát triển nhằm đề xuất các giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận về dịch vụ tài chính và vai trò của nó đối với sự phát triển nền kinh tế quốc tế. - Đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ tài chính trong những năm gần đây: những kết quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó. - Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam trong những năm gần đây và những nội dung yêu cầu nhằm phát triển thị trường dịch vụ tài chính đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn cũng sẽ nghiên cứu thị trường dịch vụ tài chính của một số nước trên thế giới. 5.2. Phạm vi nghiên cứu: Khái niệm dịch vụ tài chính là một khái niệm rộng, theo cách hiểu của GATS, dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm)
  9. - 3 - nhưng Luận văn chỉ giới hạn trong việc đánh giá thực trạng thị trường dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở vận dụng phép duy vật biện chứng, kết hợp với các lý luận, quan điểm kinh tế, tài chính và định hướng phát triển kinh tế tài chính của Nhà nước để phân tích, đánh giá hoạt động thị trường dịch vụ tài chính Việt nam. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê và xuất phát từ thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục Luận văn gồm 3 chương Chương 1. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH Chương 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY. Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. Danh mục tài liệu tham khảo
  10. - 4 - CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH .1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN. .1.1 Khái niệm dịch vụ tài chính Muốn hiểu được khái niệm dịch vụ tài chính, trước hết chúng ta cần phải làm rõ khái niệm dịch vụ. Về khái niệm dịch vụ, theo quan niệm phổ biến được dùng ở Việt nam thì đó là hoạt động kinh tế tuy không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội nhưng tạo ra giá trị thặng dư do khai thác sức lao động, tri thức, chất xám của con người đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc thỏa mãn nhu cầu của con người và là một thành tố quan trọng đóng góp vào GDP. Dịch vụ là sản phẩm lao động có hàm lượng tri thức cao của con người, kết tinh các hoạt động đa dạng trên các lĩnh vực như kinh tế, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kế toán, tư vấn Cùng với sự vận động, phát triển nhanh chóng của nền kinh tế với sự trợ giúp của khoa học và công nghệ trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, lĩnh vực thương mại dịch vụ cũng có những bước phát triển vượt bậc, do vậy đòi hỏi phải tiếp cận khái niệm dịch vụ bằng cách khác, thống nhất với các quốc gia và các tổ chức quốc tế mà chúng ta đang xúc tiến hội nhập, tập trung vào cách tiếp cận của WTO và Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ. Nhưng trên thực tế thì WTO không đưa ra một khái niệm cụ thể về dịch vụ, thay vào đó các khoản mục dịch vụ được phân tách theo nội dung và cách thức thực hiện chúng thông qua việc dẫn chiếu các ngành dịch vụ tới bảng phân loại hàng hóa trung tâm của Liên hiệp quốc. Bởi dịch vụ là khái niệm tương đối trừu tượng nên việc xác định các phương thức giao dịch phức tạp hơn nhiều so với thương mại hàng hoá, có thể là dịch vụ di chuyển qua biên giới tức là việc di chuyển độc lập với
  11. - 5 - người cung cấp và người tiêu dùng; khách hàng di chuyển qua biên giới để nhận dịch vụ được cung cấp; người sản xuất di chuyển qua biên giới để cung cấp dịch vụ qua việc thành lập cơ sở thương mại hoặc người cung cấp dịch vụ chỉ di chuyển tạm thời qua biên giới . Chính vì vậy, GATS quy định rằng thương mại dịch vụ được định nghĩa như là việc cung cấp dịch vụ thông qua các phương thức (MODE) sau: Phƣơng thức 1 (Cung cấp qua biên giới): dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một thành viên tới lãnh thổ của bất kỳ một thành viên nào khác. Phƣơng thức 2 (Tiêu dùng ở nƣớc ngoài): dịch vụ được cung cấp trên lãnh thổ của một thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của bất kỳ một thành viên nào khác. Phương thức này thường được đưa ra dưới dạng “sự di chuyển của người tiêu dùng” Phƣơng thức 3 (Hiện diện thƣơng mại): dịch vụ được cung cấp bởi một người cung cấp dịch vụ của một thành viên, thông qua sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ của bất kỳ một thành viên nào khác. Hiện diện thương mại không chỉ bao gồm sự hiện diện của pháp nhân mà còn có những tổ chức có tính pháp lý. Hiện diện thương mại có thể là thành lập các chi nhánh hay đại lý để cung cấp các dịch vụ như ngân hàng, tư vấn pháp lý hay truyền thông. Phƣơng thức 4: (Hiện diện thể nhân): dịch vụ được cung cấp bởi một người cung cấp dịch vụ của một thành viên thông qua sự hiện diện của thể nhân trên lãnh thổ của bất kỳ thành viên nào khác. Khái niệm dịch vụ tài chính Trong nền kinh tế thị trường, nguồn tài chính được chuyển từ người cung cấp tài chính đến người cầu tài chính bằng con đường trực tiếp, hoặc con đường gián tiếp qua các trung gian tài chính hoặc trung gian môi giới. Các trung gian này thực thi các dịch vụ tài chính. Theo cách hiểu này, các hoạt động giao dịch tài chính được thực hiện qua các trung gian (bao gồm
  12. - 6 - cả trung gian tài chính và trung gian môi giới) được gọi là dịch vụ có tính chất tài chính. Và nơi diễn ra những hoạt động có tính chất tài chính đó được gọi là thị trường dịch vụ tài chính. Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO): Một dịch vụ tài chính là bất cứ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm). 21 1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ tài chính Dịch vụ tài chính có những đặc điểm chung là: - Tính vô hình: là đặc điểm chính để phân biệt sản phẩm dịch vụ tài chính với các sản phẩm của ngành sản xuất vật chất khác trong nền kinh tế quốc dân. Chính đặc điểm này làm cho việc đánh giá chất lượng sản phẩm dịch vụ tài chính trở nên khó khăn ngay cả khi khách hàng đang sử dụng chúng. Từ đặc tính vô hình của sản phẩm nên trong kinh doanh phải dựa vào lòng tin, các nhà cung cấp dịch vụ thường chú ý đến việc củng cố niềm tin đối với khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao hình ảnh uy tín, tạo điều kiện để khách hàng tham gia vào hoạt động tuyên truyền cho tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính đó. - Tính không thể tách biệt hay không thể chia cắt: quá trình cung cấp dịch vụ tài chính và quá trình tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời và có sự tham gia của khách hàng. Mặt khác quá trình cung ứng dịch vụ này được tiến hành theo những quy trình nhất định. Sản phẩm dịch vụ tài chính không có sản phẩm dở dang, dự trữ lưu kho mà sản phẩm được cung cấp trực tiếp cho người sử dụng khi và chỉ khi khách hàng có nhu cầu. Đặc tính này sẽ chi phối khi xác định giá (lãi, phí) của dịch vụ tài chính - kế toán cung cấp cho người sử dụng dịch vụ tồn tại và phát triển, tổ chức cung ứng dịch vụ cũng tồn tại và phát triển bền vững.
  13. - 7 - - Tính không ổn định và khó xác định: Một sản phẩm dịch vụ tài chính dù lớn hay bé (xét về quy mô) đều không đồng nhất thời gian thực hiện, cách thức thực hiện, điều kiện thực hiện, vì vậy rất khó xác định. Một sản phẩm dịch vụ tài chính được cấu thành bởi nhiều yếu tố như công nghệ, trình độ cán bộ, khách hàng Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dịch vụ, nhưng lại thường xuyên biến động. Vì vậy nó không ổn định, khó xác định chính xác. 1.1.3 Các loại hình dịch vụ tài chính Theo nghĩa rộng, dịch vụ tài chính gồm tất cả các dịch vụ có tính chất tài chính. Như vậy, dịch vụ tài chính bao gồm các phân ngành dịch vụ như: phân ngành dịch vụ tài chính (gồm các dịch vụ bảo hiểm; kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính; dịch vụ chứng khoán và một số dịch vụ hỗ trợ khác); phân ngành dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên theo tiêu chí về tổ chức quản lý, phạm vi của dịch vụ tài chính còn được hiểu theo nghĩa hẹp hơn và chỉ bao gồm các các dịch vụ thuộc phân ngành dịch vụ tài chính, đó là dịch vụ bảo hiểm; dịch vụ ngân hàng; dịch vụ kế toán, kiểm toán; dịch vụ tư vấn tài chính (chủ yếu là tư vấn thuế); dịch vụ chứng khoán. Những ngành dịch vụ này hiện nay do nhiều ngành khác nhau quản lí. Ví dụ tại Việt Nam, ngành dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ kế toán - kiểm toán do Bộ tài chính quản lí, dịch vụ ngân hàng do ngân hàng nhà nước quản lý. Trong quá trình nhà nước sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô, các ngành dịch vụ này có mối quan hệ chặt chẽ và tác động bổ trợ lẫn nhau, vì vậy nếu chỉ nhìn nhận dịch vụ tài chính theo nghĩa hẹp như nêu trên là không đầy đủ. Tuy nhiên việc đánh giá dịch vụ tài chính theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các phân ngành dịch vụ tài chính đòi hỏi phải có sự phối hợp liên ngành. Mặt khác, hiện nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau về việc sắp xếp dịch vụ chứng khoán thuộc phân ngành dịch vụ nào (tài chính hay ngân hàng) hay là một phân
  14. - 8 - ngành dịch vụ riêng. Do đó, Luận văn chỉ dành tập trung đề cập đến hai loại hình dịch vụ chủ yếu: đó là dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng. Theo WTO - phụ lục G quy định các loại hình dịch vụ bảo hiểm và bảo hiểm ngân hàng như sau: Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm: Bảo hiểm trực tiếp nhân thọ; Bảo hiểm phi nhân thọ; Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm; Bảo hiểm qua trung gian như môi giới và đại lý. Dịch vụ Ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm): Chấp nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản quỹ có thể thanh toán khác của công chúng; Mọi loại hình cho vay, kể cả tín dụng người tiêu dùng, tín dụng cầm đồ, cầm cố, dịch vụ về hoá đơn và tài trợ của các giao dịch thương mại; Thuê mua tài chính. Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền; Bảo lãnh và cam kết. Thương vụ tiến hành tự chịu chi phí hoặc nhân danh khách hàng, dù tại sở giao dịch và trên thị trường không chính thức hoặc các giao dịch khác về: công cụ thị trường tiền tệ (kể cả séc, hoá đơn, giấy chứng nhận tiền gửi); ngoại hối; các công cụ dẫn xuất nhưng không hạn chế bởi các giao dịch kỳ hạn hoặc quyền giao dịch; tỷ giá hối đoái và các công cụ về lãi suất, kể cả các công cụ như là giao dịch swap, thoả
  15. - 9 - thuận tỷ giá kỳ hạn; chứng từ có thể chuyển nhượng; các công cụ có thể chuyển nhượng khác và tài sản tài chính, kể cả kim khí quý. Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả việc bảo hiểm phát hành và với hoạt động đại lý (dù theo cách công hoặc tư nhân) và cung cấp dịch vụ liên quan tới những vấn đề trên. Môi giới tiền tệ. Quản lý tài sản có, như là tiền mặt hoặc quản lý danh mục đầu tư gián tiếp, mọi hình thức quản lý đầu tư tập thể, quản lý quĩ hưu trí, hùn vốn, góp vốn và dịch vụ tín thác. Dịch vụ thanh toán hoặc thanh toán bù trừ về tài sản tài chính, kể cả chứng khoán, các công cụ dẫn xuất và các công cụ có thể chuyển nhượng khác; Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, và xử lý dữ liệu tài chính và phần mềm liên quan do các người cung cấp dịch vụ tài chính thực hiện; Các dịch vụ về tư vấn, trung gian và bổ trợ về tài chính về mọi mặt hoạt động đã nêu trên, kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, nghiên cứu và tư vấn về đầu tư và đầu tư gián tiếp, tư vấn mua sắm và về cơ cấu lại hoặc chiến lược dịch vụ. Tuy nhiên, theo phụ lục của Hiệp định GATS về dịch vụ tài chính, một dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một người cung cấp dịch vụ tài chính của một Thành viên cung cấp. Dịch vụ tài chính không bao gồm “dịch vụ được cung cấp khi thi hành quyền hạn của cơ quan chính phủ”. “Dịch vụ được cung cấp khi thi hành quyền hạn của cơ quan chính phủ” trong dịch vụ tài chính được hiểu như sau: a. Các hoạt động được tiến hành bởi Ngân hàng Trung ương, tổ chức tiền tệ hoặc bởi bất kỳ một pháp nhân công cộng nào thực hành chính sách tài chính và chính sách tỷ giá hối đoái;
  16. - 10 - b. Các hoạt động tạo thành một bộ phận của hệ thống luật pháp về an ninh xã hội hay các chương trình hưu trí công; c. Các hoạt động khác do một pháp nhân công cộng tiến hành do Chính phủ chịu chi phí, đảm bảo hoặc sử dụng nguồn tài chính của Chính phủ. Nhưng nếu một thành viên cho phép bất kỳ một hoạt động nào được nêu tại điểm b hoặc c được người cung cấp dịch vụ tài chính của mình tiến hành và cạnh tranh với một pháp nhân công cộng hoặc một người cung cấp dịch vụ tài chính thì thuật ngữ “dịch vụ” vẫn được hiểu là bao gồm những hoạt động đó. Pháp nhân “công cộng” trong khuôn khổ WTO được hiểu là: Chính phủ, Ngân hàng Trung ương hoặc một tổ chức tài chính của một Thành viên, hoặc một thực thể do một Thành viên sở hữu hoặc kiểm soát, chủ yếu tiến hành chức năng chính phủ hoặc các hoạt động vì mục đích của Chính phủ, không bao gồm pháp nhân chủ yếu cung cấp những dịch vụ tài chính trên cơ sở những điều kiện thương mại; hoặc Một pháp nhân tư nhân, thực hiện các chức năng mà thông thường vẫn do một Ngân hàng trung ương hoặc tổ chức tiền tệ, khi thực hiện các chức năng này. .1.4 Vai trò của các dịch vụ tài chính đối với sự phát triển nền kinh tế quốc dân Dịch vụ nói chung và các dịch vụ hạ tầng nói riêng là tiền đề không thể thiếu cho phát triển kinh tế, trong đó dịch vụ tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó trực tiếp ảnh hưởng đến các vấn đề đặt ra đối với tất cả các nhà đầu tư trong suốt quá trình hoạt động, từ khâu chuẩn bị đầu tư cho đến quá trình tổ chức hoạt động và kết thúc dự án đầu tư (vấn đề vốn, ổn địch sản xuất kinh doanh, tổ chức quản lý ). Vì vậy, phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của dịch vụ tài chính có ý nghĩa cực kỳ quan
  17. - 11 - trọng đối với phát triển và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế vì cũng như các dịch vụ hạ tầng khác, ở đây dịch vụ tài chính được xem như đầu vào của tất cả các ngành sản xuất. Có thể khẳng định, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chỉ có thể nâng lên khi các ngành sản xuất trong nền kinh tế có thể tiếp cận được các đầu vào có chất lượng cao và chi phí thấp. Dịch vụ tài chính có những vai trò sau:  Quản lý rủi ro Bằng việc định giá các rủi ro trong việc cung cấp dịch vụ tài chính, các tổ chức tài chính đã tạo ra cơ chế tập hợp, giảm thiểu và chuyển giao rủi ro. Chẳng hạn với việc tạo ra các công cụ tài chính hấp dẫn như gửi tiền không kỳ hạn, các hợp đồng lựa chọn (options), hợp đồng tương lai (future), các tổ chức trung gian tài chính có thể giúp cho các tổ chức, cá nhân quản lý rủi ro có hiệu quả, qua đó thúc đẩy mối quan hệ tương tác giữa người tiết kiệm và người đầu tư. Đối với loại rủi ro gây tổn thất trực tiếp cho tài sản và con người, thường sử dụng dịch vụ bảo hiểm. Bằng những dịch vụ bảo hiểm khác nhau cung cấp cho các tổ chức và cá nhân, các công ty bảo hiểm đã tạo ra cho những chủ thể này phương sách hữu hiệu để quản lý rủi ro. Như vậy, phát triển dịch vụ tài chính không những trực tiếp giảm thiểu rủi ro mà gián tiếp cung cấp các công cụ để tập hợp, trao đổi và phòng tránh rủi ro cho từng chủ thể trong nền kinh tế.  Thẩm định và phân bổ hiệu quả vốn đầu tƣ Để thẩm định các công ty hoặc các dự án là công việc khó khăn và tốn kém đối với những người đầu tư do không có phương tiện thu thập, xử lý thông tin về doanh nghiệp, thị trường và các điều kiện kinh tế. Trong bối cảnh đó, các trung gian tài chính khi cung cấp dịch vụ tài chính đã có khả năng tốt hơn trong việc thu nhập, thẩm định thông tin, đánh giá và phân bổ vốn. Như vậy, những chủ thể đầu tư khác có thể dựa vào kết quả đánh
  18. - 12 - giá của các trung gian tài chính để đầu tư tiết kiệm, phân bổ vốn một cách có hiệu quả hơn, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.  Giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế Trong việc cung cấp dịch vụ tài chính, các tổ chức trung gian tài chính thường bắt buộc khách hàng phải thực hiện sao cho có lợi nhất cho các cổ đông, các chủ nợ. Nói cách khác, các trung gian tài chính giúp những người tiết kiệm giám sát những người đi vay bằng việc kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của các tổ chức này. Việc giám sát tốt hoạt động của những người đi vay sẽ tạo điều kiện phân bổ vốn hiệu quả. Vì những người có tiết kiệm sẽ tin tưởng và tăng cường đầu tư, qua đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn.  Huy động vốn để tài trợ cho nền kinh tế Sự phát triển của dịch vụ tài chính sẽ mang lại hiệu ứng quan trọng nhất là huy động các nguồn lực trong xã hội cho việc tài trợ các dự án, cung cấp vốn cho thị trường tài chính. Việc huy động vốn trên phạm vi rộng lớn của các tổ chức trung gian tài chính được thực hiện thông qua sự huy động tiết kiệm của các ngân hàng thương mại, việc thu phí qua phát hành các hợp đồng bảo hiểm và thông qua việc huy động vốn của thị trường chứng khoán.  Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển mậu dịch Các dịch vụ tài chính hiện đại hơn như séc, thẻ tín dụng và các cơ chế thanh toán đã tạo ra sự đơn giản hoá cho các hoạt động trao đổi mậu dịch, làm cho trao đổi mậu dịch trở nên dễ dàng hơn và nhờ đó sẽ kích thích sự phát triển của cả nền kinh tế. .2 NHỮNG YÊU CẦU HỘI NHẬP KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ TÀI CHÍNH NÓI CHUNG VÀ NHỮNG CAM KẾT CỦA VIỆT NAM
  19. - 13 - .2.1 Những yêu cầu hội nhập kinh tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính 1.2.1.1 Những quy định của GATS đối với thị trường dịch vụ tài chính Các nước xin gia nhập WTO trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đều phải đưa ra các cam kết của mình về các vấn đề liên quan đến tự do hoá thương mại dịch vụ theo hướng giảm nhẹ dần, tiến tới xoá bỏ các hạn chế và phân biệt đối xử, nhằm đảm bảo cho tất cả các nhà cung cấp dịch vụ trong nước cũng như ngoài nước những cơ hội và điều kiện như nhau để tiếp cận thị trường. Trong Thoả thuận về Các cam kết trong Dịch vụ Tài chính được quy định tại Phần III của GATS việc tiếp cận thị trường đối với 2 khu vực dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm có thể được thực hiện theo 4 phương thức như đã trình bày ở trên: phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới, tiêu dùng ở nước ngoài, hiện diện thể nhân hoặc hiện diện thương mại. Những quy định của GATS có ảnh hưởng đến dịch vụ tài chính bao gồm hai nhóm chủ yếu: • Nhóm thứ nhất là các quy định ràng buộc chung theo Hiệp định bao gồm các quy tắc chung áp dụng cho mọi loại dịch vụ và những quy tắc bổ sung cụ thể áp dụng cho riêng lĩnh vực dịch vụ tài chính. Các quy tắc chung sẽ áp dụng một cách tự động không phụ thuộc vào cam kết. Các quy tắc này được coi như những nguyên tắc của GATS bao gồm: nguyên tắc tối huệ quốc (MFN), nguyên tắc đối xử quốc gia (NT), nguyên tắc tiếp cận thị trường, minh bạch hoá chính sách, mở cửa thị trường. Nguyên tắc đối xử quốc gia Điều XVII của GATS quy định “đối với những lĩnh vực dịch vụ được ghi trong danh mục cam kết, khi áp dụng bất kỳ biện pháp nào tác động đến việc cung cấp dịch vụ, mỗi thành viên sẽ dành cho dịch vụ và
  20. - 14 - người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác, sự đối xử không kém phần thuận lợi hơn sự đối xử mà thành viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của chính mình”. Do đó, các thành viên phải đưa ra danh mục các lĩnh vực có thể áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia cùng với những điều kiện hay hạn chế, nếu có. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia chỉ áp dụng cho những lĩnh vực dịch vụ có trong danh mục cam kết. Các thành viên cũng có thể liệt kê các giới hạn hoặc những trường hợp chưa thể thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia được theo từng phương thức cung cấp dịch vụ. Nguyên tắc tối huệ quốc Nguyên tắc này đòi hỏi một nước thành viên phải ngay lập tức và vô điều kiện dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà thành viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác. Nguyên tắc minh bạch hoá hệ thống chính sách liên quan đến dịch vụ tài chính Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu tất cả các quy định, văn bản pháp lí liên quan, các điều ước quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ tài chính phải được công bố, ấn hành công khai; các biện pháp được nước thành viên sử dụng có liên quan đến dịch vụ tài chính phải được thông báo cho Hội đồng thương mại dịch vụ của WTO và thông báo ngay khi ban hành những văn bản mới. Nguyên tắc tiếp cận thị trƣờng Nguyên tắc tiếp cận thị trường đòi hỏi các nước thành viên cam kết dành cho dịch vụ hoặc người cung cấp dịch vụ của các thành viên khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ theo những điều kiện, điều khoản và hạn chế đã được thoả thuận và quy định tại Danh mục cam kết cụ thể, tức là các nước thành viên tuỳ theo khả năng của mình, thông qua
  21. - 15 - việc điều chỉnh luật lệ, quy định trong nước nhằm mục đích tăng khả năng thâm nhập thị trường của dịch vụ và người cung cấp dịch vụ nước ngoài theo 4 phương thức cung cấp dịch vụ của GATS. Một thành viên được coi là mở cửa thị trường hoàn toàn đối với một khu vực dịch vụ nào đó và theo một phương thức cung cấp dịch vụ nào đó khi thành viên đó không duy trì bất kỳ một biện pháp nào hạn chế việc cung cấp dịch vụ như quy định ở điều XVI GATS. Nếu không mở cửa hoàn toàn tức là mở cửa từng phần hay mở cửa có điều kiện, giới hạn. Các giới hạn về mở cửa thị trường mà các nước thành viên đưa ra có thể là các mặt sau đây: - Hạn chế về số lượng các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trên thị trường; - Giới hạn về tổng giá trị dịch vụ giao dịch hoặc tài sản; - Giới hạn về số lượng các hoạt động dịch vụ hay tổng sản lượng dịch vụ. - Giới hạn về tổng số các nhân viên nước ngoài trong một khu vực dịch vụ cụ thể; - Yêu cầu và hạn chế về các loại hình công ty hay liên doanh; - Giới hạn về tỷ lệ vốn mà bên nước ngoài đóng góp hoặc tổng vốn đầu tư nước ngoài. Các cam kết của các nước thành viên phải được đưa vào “Danh mục các cam kết cụ thể”. Mỗi danh mục cam kết thường được chia thành hai cấp độ: các cam kết nền chung cho mọi lĩch vực dịch vụ và những cam kết cụ thể cho từng khu vực dịch vụ riêng lẻ. Ở mỗi cấp độ, những cam kết bao gồm 3 phần: giới hạn mức độ mở cửa thị trường, giới hạn áp dụng đối xử quốc gia và những cam kết bổ sung với các loại, như: cam kết đầy đủ, cam kết có giới hạn hoặc không (chưa) cam kết. Cam kết đầy đủ là trường hợp một nước thành viên không áp đặt bất kỳ một biện pháp nào để giới hạn việc mở cửa thị trường và áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia. Cam kết có giới hạn là cam kết của các nước
  22. - 16 - thành viên nhưng có điều kiện, hạn chế về mở cửa thị trường và đãi ngộ quốc gia. Chưa cam kết là việc một nước thành viên chưa đưa ra cam kết nào trong một lĩnh vực dịch vụ theo một phương thức cung cấp dịch vụ nào đó, nghĩa là nước đó được tự do trong việc đưa ra hay duy trì các biện pháp hạn chế việc mở cửa thị trường và đối xử quốc gia • Nhóm thứ hai là các quy định mang tính chất tự nguyện được tập hợp trong Bản thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính. Bản thoả thuận chỉ mang tính chất tự nguyện, tức là chỉ khi một thành viên cam kết áp dụng bản thoả thuận thì những quy định của bản thoả thuận mới mang tính chất bắt buộc đối với riêng thành viên đó. 1.2.1.2 Những quy định trong Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN đối với thị trường dịch vụ tài chính. Theo quyết định của Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 tại Băng Cốc ngày 15/12/1995, các nước ASEAN đã ký Hiệp định khung về Hợp tác Dịch vụ ASEAN (AFAS - Asian framework agreement on Services) với các mục tiêu sau: tăng cường hợp tác về dịch vụ giữa các thành viên để nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh, đa dạng hoá năng lực sản xuất, cung cấp và phân phối dịch vụ giữa những người cung cấp dịch vụ trong khối và ngoài khối ASEAN; xoá bỏ phần lớn các hạn chế đối với thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên; tự do hoá thương mại dịch vụ bằng việc mở rộng phạm vi và mức độ tự do hoá mà các nước thành viên đã cam kết tại GATS với mục tiêu thành lập một khu vực tự do thương mại dịch vụ ASEAN vào năm 2020. Cũng giống như GATS, AFAS yêu cầu mỗi nước thành viên đưa ra một bản lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo hướng phù hợp nhất với điều kiện quốc gia về việc áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia và điều kiện tiếp cận thị trường đối với từng loại dịch vụ. Tính pháp lí cuả AFAS chưa thực sự cao bởi mặc dù trên lí thuyết, một khi các nước thành viên đưa ra cam kết thì những cam kết này sẽ ràng buộc họ nhưng trên
  23. - 17 - thực tế thì các cam kết này có thể được điều chỉnh trong từng trường hợp cụ thể. 1.2.1.3 Những quy định trong Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ đối với thị trường dịch vụ tài chính. Trải qua 8 vòng đàm phán đầy gay go, phức tạp, ngày 13/7/2000 Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA - Vietnam America Bilateral Trade Agreement) đã chính thức được ký kết, đánh dấu bước ngoặt lớn nhất trong quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai nước, mở ra cho Việt Nam một giai đoạn phát triển kinh tế mới. Đồng thời, nó cũng là một bước tiến quan trọng cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập toàn cầu để đạt đến mục đích cuối cùng: gia nhập WTO BTA cũng chứa đựng những nội dung chủ yếu của GATS, tuy nhiên trong BTA còn có những cam kết cụ thể của Việt nam về dịch vụ tài chính và thời điểm thực hiện những cam kết này. Các quy định của Hiêp định có hiệu lực ngay từ khi hiệp định có hiệu lực mà không cần chờ sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật trong nước có liên quan. Như vậy, có thể nói, trong số những cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ tài chính, những cam kết trong BTA có tính pháp lí cao nhất, tính ràng buộc chặt chẽ nhất. Do đó, thực hiện tốt hiệp định này, cánh cửa vào WTO đã gần như rộng mở đối với Việt nam, vấn đề chỉ còn là nỗ lực của chính chúng ta. 1.2.2 Những cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định về lĩnh vực dịch vụ tài chính 1.2.2.1 Cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam trong Hiệp định khung về Hợp tác Dịch vụ ASEAN: Tiến trình đàm phán dịch vụ ASEAN, đặc biệt là dịch vụ tài chính đã diễn ra khá chậm chạp do phần lớn các nước thành viên đều muốn duy trì mức bảo hộ cao đối với thị trường dịch vụ này mặc dù theo cơ chế đàm
  24. - 18 - phán thì các nước đã là thành viên WTO thì phải cam kết cao hơn mức cam kết tại GATS, còn các nước chưa phải là thành viên thì các cam kết không được thấp hơn mức đã cho các nước ngoài ASEAN hưởng. Đối với Việt Nam, mức độ cam kết được xây dựng trên cơ sở cơ chế hiện hành, cụ thể lấy Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam làm cam kết chung và đưa ra một số cam kết cụ thể đối với từng ngành dịch vụ riêng biệt. • Các cam kết chung (Horizontal) được áp dụng cho tất cả các ngành dịch vụ, kể cả dịch vụ tài chính, có các nội dung chủ yếu sau: - Hiện diện thương mại của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải được cơ quan có thẩm quyền cho phép dưới hình thức văn phòng đại diện, liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Văn phòng đại diện không được phép tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Các liên doanh thành lập dưới dạng công ty TNHH và có tư cách pháp nhân theo Luật Công ty của Việt Nam, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài không thấp hơn 30% vốn pháp định của công ty. Thời gian hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài không được vượt quá 50 năm (trong một số trường hợp đặc biệt thì không được vượt quá 70 năm). Về mặt đãi ngộ quốc gia, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vào Việt Nam có quyền sở hữu các tài sản cố định (trừ đất đai) theo thời hạn trong giấy phép kinh doanh, được phép thuê đất song không được quyền thế chấp đất. - Hiện diện thể nhân: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dựa trên yêu cầu phát triển kinh doanh được phép thuê người nước ngoài, tuy nhiên chỉ cho các vị trí đòi hỏi trình độ quản lý và kỹ thuật mà Việt Nam chưa đáp ứng được, đồng thời cũng phải đào tạo lao động Việt Nam thay thế. • Cam kết cụ thể cho lĩnh vực dịch vụ tài chính:  Dịch vụ bảo hiểm: Việt Nam tiến hành cam kết trên cả 4 phân ngành dịch vụ:
  25. - 19 - (i) dịch vụ bảo hiểm nhân thọ (bao gồm cả bảo hiểm tai nạn và sức khoẻ); (ii) dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ; (iii) dịch vụ tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm (tuy nhiên với dịch vụ này Việt Nam hầu như "không cam kết" cho cả 4 phương thức cung cấp); (iv) dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm. Đối với 3 phương thức cung cấp (1); (2); (4) hầu như "không cam kết", riêng phương thức cung cấp thông qua hiện diện thương mại (3) thì có các hạn chế sau: - Hạn chế về tiếp cận thị trường: + Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài: cho đến năm 2000, Việt Nam cam kết cho phép thành lập tối đa 5 công ty liên doanh và/hoặc công ty 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ có liên quan đến bảo hiểm, trong đó tối đa 2 công ty hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, 2 công ty trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và 1 công ty trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm. + Hạn chế về vốn: sau 5 năm kể từ khi có lợi nhuận, các công ty 100% vốn nước ngoài phải bán lại ít nhất 30% vốn cổ phần của công ty mình cho các công ty trong nước để nhằm mục đích tạo điều kiện cho các công ty bảo hiểm trong nước có cơ hội tiếp thu các kỹ thuật nghiệp vụ và công nghệ bảo hiểm mới; phần vốn góp của bên nước ngoài trong các liên doanh bảo hiểm không quá 50% vốn điều lệ. - Hạn chế về đãi ngộ quốc gia: + Hạn chế về vốn: vốn pháp định tối thiểu của một công ty liên doanh bảo hiểm và công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ tương ứng là 2 triệu USD và 5 triệu USD, trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm là 100.000 USD và 300.000
  26. - 20 - USD, trong khi mức vốn pháp định tối thiểu qui định cho các công ty trong nước tương ứng là 20 tỷ và 1 tỷ đồng. + Hạn chế về lĩnh vực hoạt động: doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài không được kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm rủi ro về xây dựng và lắp đặt; bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới). + Hạn chế về phạm vi hoạt động và đối tượng khách hàng: các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được phép thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam được cung cấp dịch vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm con người cho các khu vực đầu tư nước ngoài. Trong dịch vụ tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm, dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm, theo tập quán quốc tế, các công ty bảo hiểm nước ngoài không thường trú tại Việt Nam có thể trực tiếp cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và không cần thiết lập hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam. Tổ chức môi giới tái bảo hiểm phải thu xếp ký kết hợp đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam và chỉ được chuyển dịch vụ ra nước ngoài sau khi chứng minh được rằng các doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam không chấp nhận dịch vụ đó. Trong trường hợp tái bảo hiểm cho các tổ chức bảo hiểm ở nước ngoài, doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải tái bảo hiểm một phần trách nhiệm (hiện nay là 20%) theo hợp đồng tái bảo hiểm đó cho công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam theo hướng dẫn cụ thể của Bộ Tài chính + Hạn chế về giấy phép: về cơ bản là không có hạn chế, tuy nhiên công ty bảo hiểm nước ngoài muốn thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam thì phải thoả mãn điều kiện là tổ chức kinh tế đang hoạt động hợp pháp và đang ở trong tình trạng tài chính bình thường ở nước nguyên xứ, đồng thời ưu tiên cho các công ty bảo hiểm nước ngoài đã được phép mở văn phòng đại diện thường trú tại Việt Nam.
  27. - 21 -  Dịch vụ ngân hàng: các dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác mà Việt Nam tiến hành cam kết gồm có: (i) chấp nhận tiền gửi; (ii) cho vay dưới mọi hình thức; (iii) dịch vụ cho thuê tài chính; (iv) các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền. Đối với 3 phương thức cung cấp (1); (2); (4): Việt Nam "không cam kết" ngoại trừ những cam kết chung (horizontal), riêng phương thức cung cấp thông qua hiện diện thương mại (3) thì không cam kết đối với việc cấp giấy phép lần đầu, ngoài ra có các hạn chế sau: - Hạn chế về tiếp cận thị trường: + Hạn chế về hình thức pháp nhân: tổ chức tín dụng nước ngoài được phép thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới các hình thức sau: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh; công ty cho thuê tài chính liên doanh; công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài (nếu ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính hoặc các công ty muốn tiến hành kinh doanh cho thuê tài chính thì phải thành lập một Công ty cho thuê tài chính độc lập). + Hạn chế về số vốn: vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài không dưới 15 triệu USD; vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng liên doanh là 10 triệu USD; vốn pháp định tối thiểu của công ty cho thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài là 5 triệu USD. + Hạn chế về phần vốn góp: phần vốn góp của bên nước ngoài trong ngân hàng liên doanh không được vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh đó.
  28. - 22 - + Hạn chế về phạm vi hoạt động: các ngân hàng nước ngoài được phép thành lập chi nhánh tại các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương và có không quá 1 chi nhánh tại mỗi tỉnh hoặc thành phố này; không được mở văn phòng đại diện tại những nơi đã mở chi nhánh và không được thành lập các chi nhánh phụ cho các chi nhánh đó; các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được thiết lập điểm giao dịch nằm ngoài chi nhánh dưới bất kỳ hình thức nào. - Hạn chế về về đãi ngộ quốc gia + Hạn chế về tổng giá trị giao dịch: nhận tiền gửi không kỳ hạn bằng đồng Việt Nam của cá nhân Việt Nam và tổ chức là pháp nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng với ngân hàng tối đa bằng 25% vốn của ngân hàng nguyên xứ cấp cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh. + Hạn chế về đối tượng khách hàng: chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh không được nhận tiền gửi có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam và tiền gửi bằng ngoại tệ của các thể nhân và pháp nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng với họ; không được cho vay bằng ngoại tệ đối với thể nhân Việt Nam: không được thanh toán bằng ngoại tệ với các thể nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng với họ. Như vậy, các cam kết về tự do hoá dịch vụ tài chính mà Việt Nam đưa ra sau Vòng đàm phán thứ nhất về dịch vụ ASEAN được xây dựng trên cơ sở cam kết của các nước thành viên ASEAN hiện nay, mang tính bảo hộ cao và hạn chế số lượng các công ty/cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ. Những cam kết được xây dựng mang tính chủ động và dựa trên cơ chế hiện hành của Việt Nam, do vậy, chưa thể hiện tính hội nhập cao. Số phân ngành bảo hiểm, tài chính ngân hàng đưa vào cam kết không đầy đủ. Các phương thức cung cấp (1), (2), (4) hầu như không cam kết. Còn phương thức cung cấp dịch vụ thông qua hiện diện thương mại (3) thì đưa ra rất nhiều loại hạn chế. Như vậy, phạm vi cam kết của Việt Nam không
  29. - 23 - rộng mà mức độ cam kết lại quá thấp. Đương nhiên, những cam kết như vậy có lợi cho các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam nhưng sẽ khó khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài vì phạm vi kinh doanh bị hạn chế, và họ phải chịu nhiều phân biệt đối xử. Do đó, những cam kết này sẽ khó được các nước Thành viên WTO chấp nhận khi đàm phán với Việt Nam sau này. Và điều này đã được chứng minh qua thực tiễn cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 1.2.2.2. Cam kết về dịch vụ tài chính trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ: Nội dung các cam kết cụ thể có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ tài chính của Hiệp định này bao gồm: • Các cam kết chung (Horizontal): - Hiện diện thương mại: Công ty Hoa Kỳ được tiến hành hoạt động thương mại tại Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới các hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn Hoa Kỳ, BOT và BTO. Các công ty Hoa Kỳ được phép đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Các văn phòng này không được tiến hành hoạt động thu lợi nhuận tại Việt Nam. - Hiện diện thể nhân: Chưa cam kết trừ các biện pháp liên quan đến nhập cảnh và lưu trú tạm thời của các thể nhân của các nhóm sau: Các nhà quản lý, giám đốc điều hành và các chuyên gia mà người Việt Nam không thể thay thế, lưu chuyển tạm thời trong nội bộ công ty, được phép nhập cảnh cho thời gian lưu trú ban đầu là 3 năm và sau đó sẽ được gia hạn; Người chào bán dịch vụ - những người không sống tại Việt Nam và không nhận sự trả lương từ bất kỳ nguồn nào tại Việt Nam, và những người tham gia vào hoạt động liên quan đến việc đại diện cho một nhà cung cấp dịch vụ với mục đích đàm phán để bán dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ đó mà (i) việc bán đó không được chào trực tiếp cho công chúng
  30. - 24 - và (ii) người chào bán không trực tiếp cung cấp dịch vụ. Thời gian nhập cảnh của những người chào bán dịch vụ này không quá 90 ngày. • Các cam kết cụ thể trong lĩnh vực dịch vụ tài chính:  Dịch vụ bảo hiểm: Việt Nam cam kết trong tất cả các loại hình dịch vụ bảo hiểm và phụ trợ bảo hiểm theo GATS ngoại trừ bảo hiểm sức khoẻ, cụ thể: - Phương thức (1): Không hạn chế đối với: các dịch vụ bảo hiểm cho các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, các dịch vụ tái bảo hiểm, các dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế, các dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro. - Phương thức (2): Không hạn chế. - Phương thức (3): Có các hạn chế sau: + Hạn chế về hình thức pháp nhân: chỉ được phép thành lập liên doanh bảo hiểm sau 3 năm, công ty bảo hiểm 100% vốn của Hoa Kỳ sau 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực; việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình xây dựng Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (trên thực tế hiện nay ta đã cho phép thành lập 4 công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài trong đó có công ty bảo hiểm AIA 100% vốn Hoa Kỳ). + Hạn chế về phần vốn góp: phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không được vượt quá 50% vốn pháp định của liên doanh. + Hạn chế về loại hình kinh doanh: Các công ty cung cấp dịch vụ có vốn đầu tư Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ đại lý bảo hiểm và các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc là: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm đối với các công trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Hạn chế này sẽ được bãi bỏ đối với liên doanh là 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực, và đối với công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6
  31. - 25 - năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với việc tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, công ty 100% vốn Hoa Kỳ và chi nhánh các công bảo hiểm Hoa Kỳ phải tái bảo hiểm với Công ty Tái bảo hiểm Việt Nam một tỷ lệ tối thiểu là 20% và 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Đồng thời, ta không dành đối xử quốc gia đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài kinh doanh bảo hiểm bắt buộc. - Phương thức (4): Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung. Như vậy, về cơ bản, các cam kết trong thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ 2001 phù hợp với Luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành năm 2000 và chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 - 2010. Một bước đột phá rõ nhất trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là: trong khi Luật kinh doanh bảo hiểm cấm thực hiện phương thức 1 đối với nhà bảo hiểm nước ngoài muốn cung cấp dịch vụ vào thị trường Việt Nam, thì Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã cho phép nhà bảo hiểm Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ theo phương thức này trong một số trường hợp; đồng thời đối với phương thức 3: cho phép 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực phần vốn góp của đối tác Hoa kỳ tới 50% vốn liên doanh và 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực đối tác Hoa kỳ có thể thành lập doanh nghiệp 100% vốn Hoa Kỳ.  Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác: Việt Nam cam kết trong tất cả các loại hình dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác theo GATS, cụ thể: Phương thức (1): Chưa có cam kết trừ đối với các dịch vụ thông tin ngân hàng Phương thức 2): Không hạn chế. Phương thức (3): Có các hạn chế như sau: - Về tiếp cận thị trường:
  32. - 26 - + Hạn chế về loại hình pháp nhân: Các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng Hoa Kỳ được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua các hình thức pháp lý: chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ, ngân hàng liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ, công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ, và công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ. Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý duy nhất thông qua đó các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ có thể cung cấp các dịch vụ ngân hàng tại Viêt Nam là liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó hạn chế này sẽ được bãi bỏ. Sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ mới được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. + Hạn chế về vốn: Trong thời gian 9 năm nêu trên, các ngân hàng Hoa Kỳ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam trong đó phần góp vốn của đối tác Hoa Kỳ không thấp hơn 30% nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. + Hạn chế về giá trị giao dịch: trong vòng 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam chỉ cho phép chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh phù hợp với biểu cụ thể trong Hiệp định với một lộ trình từng bước từ thấp đến cao (đối với pháp nhân lộ trình là 8 năm, đối với thể nhân lộ trình là 10 năm - Xem bảng). Trong thời hạn bảo lưu, không có năm nào tỷ lệ huy động tiền Đồng cả 2 kênh trên đây của chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ vượt mức đối xử quốc gia. Sau thời gian đó, các hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
  33. - 27 - Tiền gửi VNĐ nhận từ các pháp Tiền gửi VNĐ nhận tõ c¸c thÓ nhân nh©n Năm thứ 1 từ 10/12/2001 50% vốn ph¸p định chuyển vµo 50% vốn pháp định chuyển vào Năm thứ 2 từ 10/12/2002 100% 100% Năm thứ 3 từ 10/12/2003 250% 250% Năm thứ 4 từ 10/12/2004 400% 350% Năm thứ 5 từ 10/12/2005 600% 500% Năm thứ 6 từ 10/12/2006 700% 650% Năm thứ 7 từ 10/12/2007 900% 800% Năm thứ 8 từ 10/12/2008 Đối xử quốc gia đầy đủ 900% Năm thứ 9 từ 10/12/2009 1000% Năm thứ 10 từ 10/12/2010 Đối xử quốc gia đầy đủ Nguồn: Tạp chí thị trƣờng tài chính tiền tệ số 11/2003 - Về đối xử quốc gia: + Hạn chế về loại hình kinh doanh: sau 8 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các định chế tài chính có vốn đầu tư Hoa Kỳ được phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia. Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ không được đặt các máy rút tiền tự động tại các địa điểm ngoài văn phòng cho tới khi mà các ngân hàng Việt Nam được phép làm như vậy và không đuợc lập các điểm giao dịch phụ thuộc. + Hạn chế về vốn: Vốn do Ngân hàng mẹ của Hoa Kỳ cấp để thành lập chi nhánh phải tối thiểu là 15 triệu USD; Vốn điều lệ tối thiểu của ngân hàng liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ hay ngân hàng con 100% vốn Hoa kỳ là 10 triệu USD, của công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ và công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ là 5 triệu USD; + Hạn chế về quyền sử dụng đất: Các đơn vị tài chính ngân hàng 100% vốn Hoa Kỳ không được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất. Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các đơn vị tài chính ngân hàng này chỉ được quyền nhận tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và có được quyền sử
  34. - 28 - dụng đất mà được thế chấp cho các khoản vay trong trường hợp mất khả năng thanh toán khoản vay, phá sản hay giải thể của xí nghiệp vay nợ đó. + Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực Việt Nam dành đối xử quốc gia đầy đủ đối với quyền tiếp cận Ngân hàng Trung ương trong các hoạt động tái chiết khấu, swap, forward. Phương thức (4): Chưa cam kết ngoài các cam kết nền chung. Như vậy, phải nói rằng so với các cam kết trong Hiệp định khung ASEAN thì các cam kết về dịch vụ tài chính mà Việt Nam đưa ra trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là một bước tiến lớn trong việc đáp ứng các yêu cầu chung về mức độ và phạm vi cam kết từ phía các nước Thành viên WTO. Đây là những cam kết khá mở có nội dung phù hợp với thông lệ quốc tế dành cho các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nó sẽ là căn cứ cho Việt Nam khi đàm phán ra nhập WTO. Trong Hiệp định này, phạm vi cam kết được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực dịch vụ tài chính qui định trong phụ lục của GATS (chỉ ngoại trừ dịch vụ bảo hiểm sức khoẻ). Bên cạnh đó, mức độ cam kết cũng cao hơn rất nhiều so với các cam kết trong ASEAN. Phương thức (2) không có bất kỳ hạn chế nào; phương thức (1) không hạn chế đối với một số loại hình dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ và dịch vụ phụ trợ bảo hiểm; còn phương thức (3) thì số loại hạn chế về tiếp cận thị trường ít hơn so với cam kết trong ASEAN (ví dụ: không có hạn chế về thời gian hoạt động của công ty 100% vốn Hoa Kỳ, hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm, hạn chế về vốn pháp định của các loại hình công ty bảo hiểm, không yêu cầu buộc công ty bảo hiểm 100% vốn Hoa Kỳ bán lại ít nhất 30% vốn cổ phần cho công ty kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam sau 5 năm kinh doanh có lãi ). Đồng thời, với các hạn chế vẫn được duy trì thì phía Việt Nam đã đưa ra lộ trình cụ thể loại bỏ các hạn chế đó. Nhìn chung, trong vòng 10 năm, các hạn chế trong phần tiếp cận thị trường sẽ
  35. - 29 - được loại bỏ hết. Tuy nhiên, có một vài hạn chế trong Hiệp định Việt - Mỹ (BTA) chặt chẽ hơn so với cam kết trong ASEAN, chẳng hạn như: hạn chế về phần vốn góp tối đa của bên nước ngoài trong ngân hàng liên doanh (49% trong BTA so với 50% trong ASEAN).
  36. - 30 - CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ TÀI CHÍNH VIỆT NAM Quá trình chuyển đổi sang cơ chế quản lý thị trường theo định hướng XHCN tất yếu dẫn đến việc hình thành và phát triển đầy đủ, đồng bộ hệ thống các thị trường trong nền kinh tế. Thị trường dịch vụ tài chính cũng là một trong số các thị trường cần phải được sớm hình thành và phát triển, song thị trường này chủ yếu mới hình thành và phát triển trong thập kỷ 90 trở lại đây. Ví dụ thị trường dịch vụ kế toán - kiểm toán chỉ mới hình thành và phát triển từ đầu thập kỷ 90; thị trường bảo hiểm mới chỉ thực sự là thị trường dịch vụ tài chính từ năm 1994 trở lại đây khi Nghị định 100/CP của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm được ban hành và có hiệu lực cho dù ngành bảo hiểm đã hình thành ở Việt nam từ thập kỷ 60. Do vậy, có thể nói rằng các thị trường này mới đang trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển. Cũng chính vì lẽ đó mà các thị trường này còn rất nhỏ bé và mức độ hoàn thiện của chúng còn tương đối thấp thể hiện trên một số khía cạnh sau: Thứ nhất, quy mô hoạt động của thị trường còn khá nhỏ bé: doanh thu phí bảo hiểm so GDP thấp, hoạt động đầu tư nguồn vốn bảo hiểm trở lại nền kinh tế rất thấp; hoạt động của các ngân hàng trong nền kinh tế còn rất hạn chế. Thứ hai, hệ thống pháp luật đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nên hiệu lực pháp lý và hiệu quả quản lý còn có những hạn chế, hệ thống các văn bản hưóng dẫn vẫn chưa được xây dựng và ban hành một cách đồng bộ;
  37. - 31 - Thứ ba, cạnh tranh trên thị trường còn nhiều vấn đề, bất bình đẳng trong cạnh tranh còn khá lớn, chủ yếu do hậu quả của cơ chế cũ để lại Thứ tư, các lực lượng tham gia thị trường còn mỏng, tiềm lực còn hạn chế, nhất là các doanh nghiệp trong nước so với các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, điều này đã dẫn đến sự hạn chế khả năng cung cấp các loại dịch vụ cho thị trường với chất lượng cao, chủng loại đa dạng Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng thị trường dịch vụ tài chính Việt nam là thị trường rất tiềm năng, khả năng phát triển của thị trường này là rất lớn. Điều này được thể hiện đậm nét ở tốc độ tăng trưởng cao trong những năm qua, nhất là thị trường dịch vụ bảo hiểm, cùng với những thành quả do việc áp dụng công nghệ khoa học kỹ thuật cao. Đồng thời, sự hình thành và phát triển của các thị trường dịch vụ tài chính đã có những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong thời gian qua. Đó là việc thị trường dịch vụ tài chính đã góp phần nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng mọi nguồn lực tài chính nói riêng, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nền kinh tế nói chung, góp phần thúc đẩy phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường này còn có những đóng góp rất to lớn vào việc lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia, nâng cao tiềm lực và an ninh tài chính quốc gia. Trong thời gian tới, sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính sẽ còn được thúc đẩy mạnh mẽ hơn rất nhiều do hệ thống cơ chế, chính sách quản lý thị trường dịch vụ tài chính ngày càng được hoàn thiện hơn, đặc biệt là quá trình hội nhập quốc tế của Việt nam được đẩy mạnh sẽ làm cho động lực cạnh tranh trên thị trường càng mạnh mẽ hơn. 2.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ BẢO HIỂM Trong quá trình đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại và phát triển, con người luôn phải đương đầu với nhiều loại rủi ro thiên tai như : lũ lụt, động đất, mưa bão, hạn hán và phải gánh chịu hậu quả nặng nề do những
  38. - 32 - rủi ro đó gây ra. Vì vậy, hạn chế tác hại và nhanh chóng khắc phục hậu quả của rủi ro thiên tai luôn là nhiệm vụ cấp bách của mọi thời đại. Do vậy, để đối phó với các rủi ro con người đã dùng các biện pháp: tránh rủi ro; ngăn ngừa, hạn chế rủi ro; khắc phục rủi ro và tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, người ta sớm nhận ra rằng việc dự phòng chung theo cộng đồng, tức là tham gia bảo hiểm, có hiệu quả hơn rất nhiều, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế càng phát triển thì vai trò của bảo hiểm càng trở nên quan trọng, bảo hiểm càng phát huy mạnh mẽ tác dụng của nó. Và nó dần dần trở thành một công cụ không thể thiếu được của đời sống kinh tế, có chức năng hỗ trợ kinh tế - xã hội phát triển. 2.2.1 Những thành tựu đạt đƣợc Trước năm 1993, ở Việt Nam có duy nhất một doanh nghiệp bảo hiểm, đó là Tổng công ty Bảo hiểm Việt nam hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong điều kiện bao cấp nên vai trò của hoạt động bảo hiểm trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế. Thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, ngày 18 tháng 12 năm 1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Từ năm 1993 đến nay, thị trường bảo hiểm có bước phát triển mạnh, trở thành kênh quan trọng trong huy động và cung ứng vốn đầu tư. Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã cơ bản đồng bộ và không ngừng được bổ sung, hoàn thiện (Luật kinh doanh Bảo hiểm đã được ban hành năm 2000.) Qua đó, đã thúc đẩy xây dựng được một thị trường bảo hiểm sôi động, cạnh tranh và có quản lý. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã khẳng định được vai trò là công cụ tài chính quan trọng trong việc duy trì và thúc đẩy phát triển, ổn định nền kinh tế - xã hội, đáp ứng tốt hơn nhu cầu bảo hiểm. Những kết quả chính đạt được như sau :
  39. - 33 - 2.2.1.1 Phạm vi, quy mô thị trường bảo hiểm phát triển đáng kể, từng bước đáp ứng được sự phát triển và ổn định nền kinh tế - xã hội. Qua bảng số liệu cho thấy hoạt động bảo hiểm mang tính kinh doanh đã có những bước phát triển cơ bản sau : Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh bảo hiểm Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiªu Năm Năm Năm Năm Năm Tăng trưởng 1993 1996 1999 2002 2003 BQ 1993-2002 1.Doanh thu phí bảo hiểm 700 1.264 2.091 6.992 10.090 29,1% - Bảo hiểm phi nhân thọ 700 1.263 1.606 2.624 6.390 19,39% - Bảo hiểm nhân thọ 0,95 485 4.368 3.700 2.Tỷ trọng doanh thu 0,37% 0,46% 0,52% 1,3% 1,8% PBH/GDP 3.Vốn kinh doanh 145 397 980 1.900 3 218 4. Bồi thường bảo hiểm 120 760 789 1.400 2.070 5.Dự phòng nghiệp vụ 188 741 2020 8.330 12.432 6.Nộp ngân sách nhà nước 68 82 145 290 500 17% Nguồn : Chiến lƣợc phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt nam năm 2003 - 2010 Báo Đầu tƣ số ra ngày 7/12/2003 và 31/05/04 • Thị trƣờng bảo hiểm đạt tốc độ tăng trƣởng cao so với tốc độ tăng trƣởng GDP. Đơn vị: tỷ đồng
  40. - 34 - 12000 10090 10000 8000 6992 6000 4000 1264 2000 700 2091 0 1992 1994 1996 1998 2000 2002 2004 Biểu đồ 2.1. Doanh thu phí bảo hiểm giai đoạn 1993 - 2003 Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm - 2004 Đơn vị: % 2 1.8 1.5 1.3 1 0.52 0.46 0.5 0.37 0 1993 1996 1999 2002 2003 Biểu đồ 2.2. Tỷ trọng doanh thu PBH/GDP giai đoạn 1993 - 2003 Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm - 2004 Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường tăng bình quân 29%/năm. Trong những năm gần đây, doanh thu phí bảo hiểm tăng nhanh : năm 1993 là 700 tỷ đồng, năm 2003 là 10.090 tỷ đồng, tăng hơn 14 lần. Cơ cấu tỷ trọng doanh thu dịch vụ bảo hiểm trong GDP cũng tăng nhanh từ 0,37%/GDP năm 1993 lên 1,8%/GDP năm 2003. . 5 , 18
  41. - 35 - • Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã đóng vai trò tích cực đến việc ổn định nền kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Tổng số tiền bảo hiểm các doanh nghiệp bảo hiểm đã giải quyết bồi thường trong 10 năm là 7.600 tỷ đồng, riêng năm 2002 là 1400 tỷ VNĐ. Trong đó có nhiều vụ tổn thất lớn được bồi thường bảo hiểm như : Bồi thường vụ cháy chợ Đồng Xuân Hà Nội năm 1995 là 8,2 triệu USD, bồi thường bột mỳ nhập khẩu chở trên tầu bị mất tích năm 1996 là 1,6 triệu USD, bồi thường vụ tai nạn máy bay của Hãng hàng không Việt nam năm 1997 tại Phnompenh là 15 triệu USD, bồi thường vụ tai nạn tầu Phú Xuyên năm 2001 là 3 triệu USD 8 .Việc giải quyết bồi thường tốt giúp các doanh nghiệp và người dân ổn định sản xuất, kinh doanh và đời sống, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo môi trường đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, ngành bảo hiểm đã đóng góp cho ngân sách nhà nước đạt tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1993 - 2003 là 17%. Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng đã nộp cho ngân sách nhà nước thuế thu nhập doanh nghiệp 1.500 tỷ đồng. 2.2.1.2 Hình thành thị trường bảo hiểm với đầy đủ các yếu tố của thị trường • Đa dạng hóa thành phần sở hữu các doanh nghiệp, mở rộng nội dung và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp Trước năm 1993, ở Việt nam chỉ có duy nhất một doanh nghiệp bảo hiểm là Tổng công ty bảo hiểm Việt nam hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong điều kiện bao cấp. Đến nay đã phát triển thành một thị trường hoàn chỉnh với sự tham gia của 24 doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có 4 doanh nghiệp Nhà nước, 7 doanh nghiệp liên doanh, 7 công ty cổ phần và 6 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
  42. - 36 - Ngoài ra, với sự có mặt của 21 văn phòng đại diện các tổ chức bảo hiểm tại Việt nam đã tạo môi trường cạnh tranh, người mua bảo hiểm có điều kiện lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có sản phẩm phù hợp, chất lượng dịch vụ tốt để tham gia bảo hiểm. Bước đầu hình thành kênh phân phối với 5 công ty môi giới bảo hiểm với 76.600 đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp (tính đến hết năm 2002), giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ phát triển mạnh. • Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm đƣợc nâng cao. Tổng vốn điều lệ của ngành bảo hiểm tăng trên 30 lần từ 50 tỷ đồng năm 1993 lên 1.515 tỷ đồng năm 2002. Tổng dự phòng nghiệp vụ tăng 66 lần từ 188 tỷ đồng năm 1993 lên 12.431 tỷ đồng năm 2003. Năng lực đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm được nâng cao từ 200 tỷ đồng năm 1993 (chủ yếu dùng đầu tư gửi tiền tại các ngân hàng), đến năm 2002 tổng số tiền đầu tư đã tăng lên 6.700 tỷ đồng, phạm vi đầu tư được mở rộng đa dạng bao gồm các lĩnh vực : sản xuất, kinh doanh, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Bảng 2.2. Danh sách các doanh nghiệp hoạt động trên thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam (tính đến ngày 30/11/2003) TT Tên công ty Năm Vốn điều lệ Hình thức Lĩnh vực cấp GP sở hữu Hoạt động 1. Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam 1964 586 tỷ đồng Nhà nước Phi nhân thọ (BAOVIET) Nhân thọ 2. Công ty Tái bảo hiểm quốc gia 1994 40 tỷ đồng Nhà nước Tái bảo hiểm Việt Nam (VINARE) 3. Công ty bảo hiểm thành phố Hồ 1994 40 tỷ đồng Nhà nước Phi nhân thọ Chí Minh (BAOMINH) 4. Công ty LD tư vấn DVBH và tái 1993 250.000 USD Liên doanh Môi giới bảo BH Bảo việt - Aon hiểm 5. Công ty Cổ phần bảo hiểm Nhà 1995 70 tỷ đồng Cổ phần Phi nhân thọ Rồng (BAOLONG) 6. Công ty cổ phần bảo hiểm 1995 55 tỷ đồng Cổ phần Phi nhân thọ Petrolimex (PJICO) 7. Công ty bảo hiểm dầu khí (PVI) 1996 20 tỷ đồng Nhà nước Phi nhân thọ 8. Công ty liên doanh bảo hiểm 1996 6 triệu USD Liên doanh Phi nhân thọ quốc tế Việt Nam (VIA) 9. Công ty liên doanh bảo hiểm liên 1997 5 triệu USD Liên doanh Phi nhân thọ hiệp (UIC)
  43. - 37 - 10. Công ty cổ phần bảo hiểm bưu 1998 70 tỷ đồng Cổ phần Phi nhân thọ điện (PTI) 11. Công ty liên doanh bảo hiểm Việt 1999 4 triệu USD Liên doanh Phi nhân thọ - Úc (BIDV-QBE) 12. Công ty TNHH bảo hiểm Allianz 1999 6,295 triệu 100% vốn Phi nhân thọ (Việt Nam) USD đầu tư NN 13. Công ty TNHH Manulife (Việt 1999 140 tỷ đồng 100% vốn Nhân thọ Nam) đầu tư NN 14. Công ty TNHH bảo hiểm nhân 1999 10 triệu USD Liên doanh Nhân thọ thọ Bảo Minh CMG 15. Công ty TNHH bảo hiểm nhân 1999 75 triệu USD 100% vốn Nhân thọ thọ Prudential Việt Nam đầu tư NN 16. Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế 2000 25 triệu USD 100% vốn Nhân thọ Mỹ (Việt Nam) (AIA) đầu tư NN 17. Công ty bảo hiểm tổng hợp 2001 5 triệu USD 100% vốn Phi nhân thọ Groupama Việt Nam đầu tư NN 18. Công ty cổ phần môi giới bảo 2001 6 tỷ đồng Cổ phần Môi giới bảo hiểm Việt Quốc hiểm 19. Công ty liên doanh TNHH bảo 2002 5 triệu USD Liên doanh Phi nhân thọ hiểm Samsung-Vina 20. Công ty TNHH bảo hiểm châu á - 2002 6 triệu USD Liên doanh Phi nhân thọ Ngân hàng công thương (IAI) 21. Công ty môi giới bảo hiểm 2003 300.000 USD 100% vốn Môi giới bảo Grassavoye đầu tư NN hiểm 22. Công ty Cổ phần bảo hiểm Viễn 2003 72 tỷ đồng Cổ phần Phi nhân thọ Đông 23. Công ty cổ phần môi giới bảo 2003 6 tỷ đồng Cổ phần Môi giới bảo hiểm Á Đông hiểm 24. Công ty cổ phần môi giới bảo 2003 6 tỷ đồng Cổ phần Môi giới bảo hiểm Đại Việt hiểm Nguồn : Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam - năm 2004 2.2.1.3 Chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được cải thiện một bước rõ rệt • Phát triển số lƣợng sản phẩm bảo hiểm. Trước năm 1993, thị trường bảo hiểm mới có 22 sản phẩm bảo hiểm chủ yếu tập trung vào các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ truyền thống. Đến nay đã có gần 500 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm, được cung cấp trên thị trường, đáp ứng nhu cầu phong phú của người tham gia bảo hiểm. Các dịch vụ liên quan, hỗ trợ khác như tái bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, tư vấn bảo hiểm phát triển mạnh đã tạo điều kiện tăng doanh thu phí bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ. Đơn vị: tỷ đồng
  44. - 38 - 7000 6390 6000 5000 4368 4000 3700 Doanh thu phÝ BH nh©n thä 2624 3000 Doanh thu phÝ BH phi nh©n thä 2000 1263 1060 1000 700 485 0 0.95 0 1993 1996 1999 2002 2003 Biểu đồ 2.3. So sánh doanh thu PBH nhân thọ và phi NT Nguồn: Tổng hợp từ các tạp chí Thông tin thị trƣờng Bảo hiểm Mặc dù bảo hiểm nhân thọ còn chưa xuất hiện vào năm 1993 và phát triển vẫn còn rụt rè vào năm 1996 (0.95 tỷ VNĐ so với 1.263 tỷ VNĐ DTPBH phi NT) nhưng đến năm 2002 đã đạt 4.368 tỷ đồng, cao hơn rất nhiều so với mức 2.624 tỷ VNĐ DTPBH phi NT, và đến năm 2003 tương ứng đạt 6.390 tỷ đồng và 3.700 tỷ đồng. • Chất lƣợng sản phẩm đƣợc nâng cao Do không còn tình trạng hoạt động độc quyền, các doanh nghiệp đã chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm quyền lợi cho các khách hàng tham gia bảo hiểm. Phí bảo hiểm tương ứng với mức trách nhiệm, phạm vi bảo hiểm rộng hơn. Quy tắc điều khoản bảo hiểm được quy định rõ ràng về trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp bảo hiểm, bảo vệ được quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Chất lượng phục vụ cũng có những bước cải tiến đáng kể. Các doanh nghiệp đã quan tâm đổi mới phương thức phục vụ, chăm sóc khách hàng, giải quyết bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp và người tham gia bảo hiểm.
  45. - 39 - 2.2.1.4 Quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm đã từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường • Hệ thống pháp luật đƣợc hoàn thiện Cho đến nay, về cơ bản các văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm đã được xây dựng và ban hành (như luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua năm 2000, các Nghị định thư và thông tư hướng dẫn thi hành đã được ban hành trong năm 2001). • Phƣơng thức quản lý đƣợc đổi mới Công tác quản lý giám sát được thực hiện theo hướng hạn chế dần sự can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật. Việc giám sát của Nhà nước dựa trên các chỉ tiêu tài chính, kinh tế khách quan, chú trọng đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm , bảo vệ quyền và các lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm. • Vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam bƣớc đầu đã đƣợc khẳng định Sự ra đời của Hiệp hội bảo hiểm Việt nam năm 2001 bước đầu đã có vai trò quan trọng giúp cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm, kết nối mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với cơ quan quản lý, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và giữa doanh nghiệp với người tham gia bảo hiểm, nhằm duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm 2.2.1.5 Từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế Với sự phát triển nhanh chóng, ổn định của thị trường bảo hiểm, vai trò và vị thế của của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế và khu vực, thông qua các cơ chế hợp tác thương mại, dịch vụ tài chính đa
  46. - 40 - phương và song phương như với các nước ASEAN, liên minh châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật bản. Thị trường bảo hiểm đã từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới thông qua: - Diễn đàn các cơ quan quản lý bảo hiểm ASEAN Mục tiêu của diễn đàn là điều phối hội nhập về lĩnh vực bảo hiểm, hài hoà hoá môi trường pháp lý, thống nhất các chỉ tiêu tài chính để giám sát kiểm tra các doanh nghiệp bảo hiểm trong khu vực ASEAN, thành lập hội đồng Cơ quan quốc gia về bảo hiểm xe quá cảnh giữa các nước ASEAN và Học viện bảo hiểm ASEAN, thúc đẩy trao đổi dịch vụ bảo hiểm , tái bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong khối ASEAN. - Hiệp hội các cơ quan quản lý bảo hiểm quốc tế IAIS Với việc tham gia tích cực các hoạt động của Hiệp hội, Việt nam đã từng bước tiến tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, thúc đẩy trao đổi thông tin thị trường, đào tạo cán bộ và chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và kinh doanh bảo hiểm cho phía Việt nam. 2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại Mặc dù thị trường bảo hiểm có bước phát triển đáng kể, tuy nhiên, so với tiềm năng phát triển của thị trường bảo hiểm và nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, thị trường bảo hiểm đã bộc lộ một số tồn tại như sau: 2.2.2.1 Thị trường bảo hiểm chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội: • Quy mô thị trƣờng bảo hiểm còn nhỏ: Mặc dù thị trường bảo hiểm đạt tốc độ tăng trưởng 29%/năm trong 10 năm qua, nhưng đến năm 2002, tổng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP của Việt Nam mới chỉ vào khoảng 1.3 %, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới (8%) và các nước trong khu vực (2.5-7%).
  47. - 41 - Đơn vị: % 7 6 5 4 3 2 1 0 ViÖt Nam Trung Quèc Th¸i Lan Malaysia Singapore §µi Loan Biểu đồ 2.4. So sánh doanh thu PBH/GDP một số nƣớc năm 2001 Nguồn: Chiến lƣợc phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt nam 2003 - 2010 • Hoạt động đầu tƣ còn hạn chế: Mặc dù đến năm 2002, tổng nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp lên tới 6.700 tỷ đồng, nhưng tỷ trọng đầu tư dưới hình thức gửi tiền tại các tổ chức tín dụng và ngân hàng vẫn chiếm 70% trên tổng nguồn vốn đầu tư. 2.2.2.2 Năng lực hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm còn hạn chế: • Công nghệ quản lý kinh doanh chƣa đƣợc hiện đại hoá Nhiều doanh nghiệp vẫn còn áp dụng các phương pháp thủ công trong việc quản lý hợp đồng bảo hiểm, cấp đơn và thu phí bảo hiểm. Hầu hết các doanh nghiệp chưa thiết lập được hệ thống phần mềm tin học tính phí bảo hiểm, trích lập dự phòng nghiệp vụ. • Thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi đặc biệt là trong lĩnh vực tính phí bảo hiểm và trích lập dự phòng nghiệp vụ, thẩm định bảo hiểm, quản lý rủi ro và đầu tư. Đội ngũ cán bộ chuyên môn kinh doanh bảo hiểm chưa đáp ứng yêu cầu cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập và mở cửa thị trường. Tuy đến năm 2002 số đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp lên tới 70.000 người
  48. - 42 - trên tổng số lao động của toàn ngành bảo hiểm 76.600 người nhưng các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc đào tạo, nâng cao chất lượng đạo lý dẫn tới nảy sinh một số tranh chấp làm thiệt hại đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và ảnh hưởng xấu dến uy tín của các doanh nghiệp. • Phƣơng thức quản lý kinh doanh chƣa thực sự chủ động, còn trông chờ vào sự bảo hộ Nhà nước. Một số doanh nghiệp chỉ chú trọng tăng doanh thu mà không quan tâm tới việc chăm sóc khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ. 2.2.2.3 Vẫn còn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh • Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ Cạnh tranh vẫn tập trung vào việc hạ phí bảo hiểm, tăng chi hoa hồng bảo hiểm, đôi khi còn dùng các áp lực tài chính để giành dịch vụ, mà chưa quan tâm đến công tác đánh giá rủi ro, đề phòng và hạn chế tổn thất, giám định, bồi thường kịp thời và đầy đủ cho khách hàng. • Trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ Các doanh nghiệp còn quá chú trọng đến việc trả hoa hồng đại lý cao, tuyển dụng nhiều đại lý để mở rộng thị phần, tăng doanh thu mà chưa quan tâm đến công tác đào tại nâng cao chất lượng đại lý, dẫn đến cơ cấu sản phẩm tập trung vào các sản phẩm ngắn hạn, phát sinh nhiều tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng, làm hạn chế khả năng huy động vốn đầu tư dài hạn và giảm lòng tin của một bộ phận dân cư đối với loại hình bảo hiểm còn mới này. Có thể dẫn chiếu 1 ví dụ điển hình tại Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 22/9/2003 của tác giả Công Minh như sau: "Gần đây các đại lý bảo hiểm của một số công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài ở nhiều tỉnh phản ánh về hiện tượng đại lý của các công ty trong nước tìm gặp khách hàng của các công ty nước ngoài và khuyên họ nên huỷ hợp đồng, chuyển sang mua sản phẩm của công ty mình. Không dừng
  49. - 43 - lại ở đó, báo chí gần đây cũng đưa tin Tỉnh uỷ Tỉnh Kiên Giang và một số tỉnh lân cận ra văn bản "cấm" cán bộ, đảng viên, công chức (kể cả những người đã nghỉ hưu) làm đại lý cho các công ty bảo hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài. Điều đáng nói là các văn bản đó được ban hành ở những địa phương gần nhau về địa lý, gần như cùng 1 thời điểm, với nội dung, hình thức tương tự nhau và có những điểm không chặt chẽ như nhau. Dư luận đang đặt câu hỏi: Vì sao những văn bản đó lại chỉ đề cập đến việc cấm cán bộ, đảng viên, công chức làm đại lý cho các công ty có vốn nước ngoài mà không cấm hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh khác, hoặc không cấm làm đại lý cho các công ty có vốn trong nước? Đây là sự phân biệt đối xử giữa các ngành nghề kinh doanh, giữa các thành phần kinh tế? Liệu những văn bản đó ra đời nhằm gây khó dễ cho công ty có vốn nước ngoài?. Đây có thể coi là sử dụng quyền lực hành chính gây bất bình đẳng trong cạnh tranh và làm xấu đi môi trường kinh doanh và môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam". Trong một số lĩnh vực như bảo hiểm cháy, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm nhân thọ, các doanh nghiệp đã ký được thoả thuận hợp tác, nhưng không thực hiện được làm ảnh hưởng đến uy tín chung của thị trường, gây khó khăn cho công tác quản lý. 2.2.2.4 Các loại hình sản phẩm chưa đa dạng. Mặc dù trong 10 năm, số lượng các loại sản phẩm tăng lên nhanh chóng từ 22 sản phẩm năm 1993 lên 500 sản phẩm năm 2002, nhưng số lượng và các loại hình sản phẩm vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của nhiều ngành kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Một số lĩnh vực hầu như chưa được các doanh nghiệp quan tâm cung cấp sản phẩm cho thị trường như bảo hiểm thiên tai, nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư. 2.2.3 Nguyên nhân của những tồn tại
  50. - 44 - • Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm còn hạn chế. Trừ Bảo Việt với số vốn 586 tỷ đồng và công ty BH nhân thọ Prudential với số vốn thực có 41 triệu đô la Mỹ, các doanh nghiệp bảo hiểm khác mới chỉ có đủ số vốn theo quy định của pháp luật. Số vốn thực có toàn thị trường hiện nay là 1.515 tỷ đồng, không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nâng cao năng lực nhận bảo hiểm phù hợp với mức độ phát triển trung bình của thế giới. • Tƣ duy và thói quen hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong môi trƣờng bao cấp vẫn còn nặng; nhận thức của người dân về kinh doanh bảo hiểm tuy đã được nâng lên một bước song vẫn còn thấp hơn so với yêu cầu, nhiều người dân vẫn chưa có thói quen tham gia bảo hiểm. • Các doanh nghiệp mới chỉ tập trung khai thác các dịch vụ truyền thống, các dịch vụ có lãi ngay, tại các thành phố, phục vụ các doanh nghiệp lớn và người dân có thu nhập cao, mà chưa chú trọng đến việc cung cấp các sản phẩm bảo hiểm phục vụ bà con nông dân và ngư dân tại khu vực nông thôn. • Thị trƣờng tài chính chƣa phát triển và những quy định mang tính phân biệt đối xử giữa đầu tƣ trong nƣớc và đầu tƣ nƣớc ngoài cũng là một trong những rào cản làm hạn chế hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp BH. Tỷ trọng đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng chưa tương xứng với tổng nguồn vốn có thể đầu tư của các doanh nghiệp BH. Hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là tiền gửi ngân hàng và mua trái phiếu Chính phủ. • Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh. Cơ cấu bộ máy quản lý trên bộ máy kinh doanh quá lớn, nhiều phòng ban và nhiều đơn vị cơ sở của cùng một doanh nghiệp còn hoạt động chồng chéo về chức năng nhiệm vụ dẫn tới giảm hiệu quả hoạt động, giảm tốc độ giao dịch, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
  51. - 45 - • Các doanh nghiệp chƣa quan tâm đổi mới công nghệ, đặc biệt là việc xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý hợp đồng bảo hiểm, phần mềm tin học tính phí hợp đồng bảo hiểm, phần mềm tin học tính phí và trích lập dự phòng nghiệp vụ. • Các doanh nghiệp chƣa quan tâm đến công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ chuyên môn nghiệp vụ về các lĩnh vực quản lý rủi ro, định phí bảo hiểm, chuyên gia đầu tư tài chính. • Hệ thống pháp lý về kinh doanh bảo hiểm còn thiếu và chƣa đồng bộ. Do chưa có luật về chống cạnh tranh không lành mạnh, thiếu văn bản pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, nên dẫn tới hiện tượng các doanh nghiệp vi phạm các thoả thuận về hợp tác và cạnh tranh, không thực hiện triệt để các quy định của pháp lụât về báo cáo thống kê, một số doanh nghiệp thành lập chi nhánh, bổ nhiệm người điều hành không xin phép chấp thuận trước của cơ quan có thẩm quyền • Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam mới đƣợc thành lập năm 2001, chƣa xây dựng đƣợc quy chế gắn kết quyền lợi của các thành viên tham gia Hiệp hội, để các doanh nghiệp tự nguyện tham gia Hiệp hội, thoả thuận thống nhất các nguyên tắc cạnh tranh và hợp tác và xây dựng quy chế tự quản, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tổ chức Hiệp hội thiếu cơ quan giám sát thi hành các thoả thuận của thành viên, dẫn tới việc các thoả thuận không đạt được nẩy sinh hiện tượng vượt rào về mức phí thoả thuận cạnh tranh, tranh giành thu hút đại lý và nhân viên lẫn nhau giữa các thành viên. • Quản lý nhà nƣớc về kinh doanh bảo hiểm chƣa theo kịp sự phát triển của thị trƣờng. Phương thức kiểm tra, giám sát còn nặng về hành chính, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống các chỉ tiêu giám sát, đánh giá rủi ro về vốn, về hoạt động tài chính, kinh doanh của doanh nghiệp còn thiếu. Công nghệ quản lý lạc hậu, chưa có hệ thống
  52. - 46 - phần mềm quản lý và nối mạng với các doanh nghiệp để phục vụ cho việc quản lý được kịp thời. đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu so với yêu cầu. Tóm lại, trong thời gian qua, thị trường bảo hiểm đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đáp ứng được yêu cầu duy trì và thúc đẩy nền kinh tế - xã hội tăng trưởng. Đạt được những thành tựu to lớn trên là nhờ có chủ trương đúng đắn của Chính phủ, phù hợp với tiến trình hội nhập. Qua đó, uy tín và năng lực của thị trường bảo hiểm Việt Nam đã được cải thiện, góp phần thúc đẩy trao đổi thương mại, tạo tiền đề ký kết Hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ và chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên, những hạn chế có tính rào cản đối với sự phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm của Việt nam vẫn còn nhiều, đặc biệt là những bất cập của thị trường dịch vụ bảo hiểm Việt Nam so với những cam kết mà Việt nam đặt ra khi tham gia WTO và các cam kết trong các Hiệp định AFAS, BTA. 2.2.4 Những bất cập của thị trƣờng dịch vụ bảo hiểm so với yêu cầu hội nhập quốc tế 2.2.4.1 Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới: hạn chế các dịch vụ cung cấp đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài Pháp luật bảo hiểm của Việt Nam chỉ cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài được cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm. Khi cung cấp các dịch vụ này vào lãnh thổ Việt Nam, các công ty bảo hiểm nước ngoài cũng gặp phải một số hạn chế. Chẳng hạn, đối với dịch vụ tái bảo hiểm; căn cứ vào Điều XVI - GATS, thì pháp luật bảo hiểm áp dụng hình thức hạn chế tổng trị giá các giao dịch về dịch vụ hoặc tài sản dưới hình thức hạn ngạch, theo quy định của GATS thì các nước thành viên sẽ không được phép áp dụng hạn chế này khi cam kết mở cửa thị trường dịch
  53. - 47 - vụ, trừ khi có thoả thuận trong Danh mục cam kết. Cụ thể, các công ty bảo hiểm nước ngoài khi cung ứng dịch vụ tái bảo hiểm vào Việt Nam phải mua một tỷ lệ tối thiểu tái bảo hiểm là 20% tại Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam. Các công ty bảo hiểm nước ngoài chỉ được cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm vào Việt Nam ở mức tối đa là 40% trị giá hợp đồng hoặc đơn bảo hiểm gốc (Thông tư số 78/1998/TT-BTC ngày 9/6/1998 về hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm). Đối với hoạt động môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm, các công ty môi giới bảo hiểm nước ngoài phải ưu tiên thu xếp ký kết hợp đồng cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Như vậy, có thể nói, mức độ bảo hộ của Việt Nam đối với thị trường bảo hiểm theo phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới là khá cao, nhằm hạn chế nguồn phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. So với quy định tương ứng của WTO thì mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm theo phương thức này là chưa tương thích. 2.2.4.2 Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ: hạn chế hoạt động sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ Việt Nam hầu như hạn chế hoàn toàn mở cửa thị trường bảo hiểm theo phương thức cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ và có thể nói là quy định của pháp luật bảo hiểm Việt Nam theo phương thức này là chưa tương xứng với quy định của WTO. Bởi lẽ, theo các quy định của pháp luật bảo hiểm Việt Nam hiện hành thì các tổ chức và cá nhân Việt Nam không được phép mua bảo hiểm ở nước ngoài cho những rủi ro phát sinh tại Việt Nam, và chỉ có người nước ngoài làm việc tại Việt Nam mới được phép mua bảo hiểm ở nước ngoài. Như vậy, việc bảo hộ thị trường bảo hiểm theo phương thức này là quá chặt chẽ, nhằm ngăn cản nguồn phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài và nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm và thị trường bảo hiểm Việt
  54. - 48 - Nam có thể phát triển trước sức cạnh tranh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Nhưng việc bảo hộ quá chặt chẽ này lại vi phạm quy định của WTO về mở cửa thị trường bảo hiểm theo phương thức cung cấp dịch vụ sử dụng ngoài lãnh thổ. Trong tương lai, để có thể gia nhập WTO trong lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm, thì Việt Nam phải có lịch trình giảm dần và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn việc bảo hộ này. 2.2.4.3 Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại: hạn chế yêu cầu về vốn pháp định của công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài; tỷ lệ vốn góp và số lượng nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Đối chiếu với Điều XVI - GATS quy định các biện pháp hạn chế tiếp cận thị trường, các nước thành viên không được duy trì theo 4 phương thức cung cấp dịch vụ trong những lĩnh vực có cam kết mở cửa thị trường. Đối với phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại, pháp luật bảo hiểm Việt Nam duy trì các hạn chế khác biệt so với quy định của WTO, cụ thể như sau: • Yêu cầu về vốn pháp định của công ty bảo hiểm có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài cao hơn so với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động ở Việt Nam so với doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải chịu hạn chế đãi ngộ quốc gia về vốn pháp định: Theo Nghị định 100/CP, yêu cầu về vốn pháp định của công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn so với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, cụ thể: - Công ty liên doanh bảo hiểm: 2 triệu USD so với doanh nghiệp bảo hiểm trong nước : 20 tỷ VNĐ - Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm: 100.000 USD. - Chi nhánh của tổ chức môi giới bảo hiểm 100% vốn nước ngoài: 300.000 USD so với tổ chức môi giới bảo hiểm trong nước : 1 tỷ VNĐ
  55. - 49 - Có thể nói việc mở rộng thị trường bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm nước ngoài là một việc không hề đơn giản mà Chính phủ Việt Nam rất thận trọng khi mở cửa thị trường bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam. • Tỷ lệ vốn góp của bên nƣớc ngoài bị hạn chế Phần vốn góp của bên nước ngoài trong những liên doanh bảo hiểm bị hạn chế ở mức không quá 50% vốn điều lệ. • Hạn chế số lƣợng nhà cung cấp dịch vụ Theo Thông tư số 26/1998/TT-BTC ngày 4/3/1998 hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm, một trong những nguyên tắc để được cấp giấy chứng nhận kinh doanh bảo hiểm cho doanh nghiệp, tổ chức môi giới bảo hiểm nước ngoài là phù hợp với nhu cầu phát triển thêm số lượng các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm ở từng địa bàn; tổ chức môi giới bảo hiểm không được thành lập quá 1 chi nhánh trong cùng một thành phố. Ngoài ra, đối với việc tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại, WTO cho phép nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm của một nước thành viên được thành lập và mở rộng một sự hiện diện thương mại trên lãnh thổ của một nước thành viên khác, kể cả thông qua việc mua lại các công ty bảo hiểm hiện có (Điều 5 Thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính). Thế nhưng, trong các văn bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, chưa có một quy định nào liên quan đến vấn đề cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài được phép mua lại các doanh nghiệp bảo hiểm hiện có ở Việt Nam. Theo Điều 7 của Thoả thuận về các cam kết trong dịch vụ tài chính của WTO, các nước thành viên sẽ cho phép các công ty bảo hiểm của một nước thành viên khác thành lập trên lãnh thổ nước mình được cung ứng mọi dịch vụ bảo hiểm mới chưa được cung cấp trên lãnh thổ nước mình. So sánh với yêu cầu này của WTO, thì pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa
  56. - 50 - cho phép các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm mới. Thể hiện ở chỗ: các công ty bảo hiểm nước ngoài chỉ được phép kinh doanh phù hợp với những dịch vụ đã xin phép. Hơn nữa, theo pháp luật Việt Nam các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam không được phép tiến hành kinh doanh đồng thời cả 2 loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Có thể nói, thị trường bảo hiểm Việt Nam chịu sự kiểm soát khá chặt chẽ của Nhà nước, chưa thông thoáng và cởi mở với các công ty bảo hiểm nước ngoài. 2.2.4.4 Bất cập về hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức cung cấp dịch vụ qua sự hiện diện của thể nhân - pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa thừa nhận việc thể nhân nước ngoài cung ứng dịch vụ bảo hiểm vào Việt Nam Cũng giống như dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ khác, đối với dịch vụ bảo hiểm, pháp luật Việt Nam không cho phép người nước ngoài vào cung cấp dịch vụ với tư cách cá nhân. Họ chỉ được phép cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại của các tổ chức cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài. Trong khi đó, phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện của thể nhân được WTO đề cập đến trên hai phương diện: thể nhân là người cung ứng dịch vụ và thể nhân là người làm thuê cho người cung ứng dịch vụ. Như vậy, pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa thừa nhận việc thể nhân nước ngoài cung ứng dịch vụ bảo hiểm vào Việt Nam. Trên thực tế, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép thể nhân nước ngoài vào làm việc cho người cung ứng dịch vụ bảo hiểm. Tóm lại, thị trường bảo hiểm Việt nam còn bộc bộ nhiều yếu điểm, chưa đủ đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường và kinh doanh theo xu hướng gia nhập WTO. Pháp luật về bảo hiểm chưa thể hiện được quan điểm hội nhập một cách rõ ràng. Điều kiện và thủ tục cấp phép cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài còn phức tạp. Đối với các phương
  57. - 51 - thức cung cấp dịch vụ cơ bản, pháp luật bảo hiểm của Việt Nam mới chủ yếu điều chỉnh phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại, trong khi đó các phương thức cung cấp qua biên giới và tiêu dùng ngoài lãnh thổ thì chưa có quy định rõ ràng. Trong bối cảnh ta đang đàm phán gia nhập WTO, vấn đề cơ bản nhất hiện nay đối với các nhà hoạch định chính sách quản lý xuất, nhập khẩu dịch vụ bảo hiểm là mở cửa thị trường bảo hiểm sao cho vừa phù hợp với Hiệp định GATS và vừa phù hợp với điều kiện Việt Nam 2.3 THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG. Hệ thống ngân hàng Việt nam bắt đầu được chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp từ cuối năm 1988, theo đó hệ thống ngân hàng Việt nam được phân chia thành Ngân hàng Nhà nước Việt nam đóng vai trò ngân hàng Trung ương và các ngân hàng thương mại. Với việc ban hành Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã có những tiền đề pháp lý căn bản để thực hiện sự chuyển đổi. Sự phân chia rõ ràng về mặt pháp lý giữa Ngân hàng Nhà nước Việt nam, thực hiện vai trò ngân hàng Trung ương và là cơ quan quản lý nhà nước với các ngân hàng thương mại - tổ chức tài chính thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ đã tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh chóng của hệ thống các ngân hàng thương mại mà thông qua đó, một lượng vốn lớn đã được khơi thông để đầu tư, phát triển kinh tế, tăng thêm một kênh vốn đầu tư cho nền kinh tế. Bảng 2.3. Cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 - 2003. 1990 1994 1999 2003 Ngân hàng TMQD 4 4 6 6 Ngân hàng TMCP 0 36 48 36 Ngân hàng liên doanh 0 3 4 4 VPDD, chi nhánh NH nước ngoài 0 41 103 69 Nguồn: Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam - 2004.
  58. - 52 - Nhìn vào bảng trên ta thấy, năm 1990 hệ thống ngân hàng thương mại của Việt Nam chỉ có 4 ngân hàng thương mại (NHTM), không có ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), Ngân hàng liên doanh hay văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nào. Nhưng trong các năm tiếp theo, các con số NHTMCP, Ngân hàng liên doanh được thành lập tăng dần lên từ 36 NHTMCP và 3 ngân hàng liên doanh năm 1994 đến 48 NHTMCP và 4 ngân hàng liên doanh năm 1999. Tuy nhiên, số NHTMCP đã giảm xuống còn 36 vào cuối năm 2003 và số văn phòng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã tăng nhanh qua các năm từ con số 41 năm 1994 đến 103 năm 1999 và đến cuối năm 2003 giảm xuống chỉ còn 69. Điều này chứng tỏ cạnh tranh trên lĩnh vực dịch vụ ngân hàng ngày càng cam go khốc liệt khiến nhiều ngân hàng nước ngoài phải thu hẹp thị trường ở nước ngoài hay nhiều ngân hàng TMCP không đủ sức cạnh tranh với các NHTMQD trong nước do hạn chế về vốn, công nghệ, trình độ quản lí Tính đến cuối năm 2003, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm: 6 Ngân hàng Thương mại quốc doanh (Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) với 267 chi nhánh trực thuộc, trên 700 chi nhánh cấp huyện, thị xã và hàng ngàn phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, công ty kinh doanh vàng bạc, cầm đồ, các chi nhánh cấp 4; 36 NHTMCP; 4 Ngân hàng liên doanh; 69 VPDĐ, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 959 quỹ tín dụng nhân dân và một số công ty tài chính khác, với mạng lưới rộng khắp cả nước. Tuy nhiên, tổng số tài sản của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam chỉ tương đương với 38% GDP, tổng dư nợ tín dụng là 22% GDP và tổng số tiền gửi chiếm khỏang 20% GDP, trong đó tổng dư nợ tín dụng của 4 ngân hàng TMQD (không kể Ngân hàng phục vụ người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) chiếm 77.3%, Chi nhánh NH
  59. - 53 - nước ngoài và liên doanh chiếm 8%, các TCTD khác tỷ trọng dư nợ tín dụng chiếm 14.7%. Đơn vị: % 14.7 8 4 NHTMQD CN NHNN vµ LD TCTD cßn l¹i 77.3 Biểu đồ 2.5. Tỷ trọng dƣ nợ tín dụng tính đến 31/12/2003 Nguồn: Ngân hàng Nhà nƣớc - năm 2004 2.3.1 Những kết quả đạt đƣợc 2.3.1.1 Hệ thống ngân hàng được cải cách mạnh mẽ Cho đến nay, Chính phủ đã tiến hành hai cuộc cải cách lớn trong lĩnh vực ngân hàng. Cuộc cải cách lần thứ nhất vào năm 1990 chuyển từ hệ thống ngân hàng một cấp kém hiệu quả sang hệ thống ngân hàng hai cấp, đánh dấu một bước chuyển về chất của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cuộc cải cách lần hai khởi đầu bằng việc Chính phủ thông qua hai Luật ngân hàng vào tháng 11/1997 và việc thành lập Uỷ ban tái cơ cấu ngân hàng (tháng 4/1998) với mục tiêu xây dựng một hệ thống ngân hàng an toàn, hiệu quả và cạnh tranh nhằm giúp bảo vệ ổn định kinh tế vĩ mô, đảm nhận vai trò trung gian hiệu quả. Hiện nay, các NHTM Việt nam đang tích cực triển khai Đề án cơ cấu lại đã được Chính phủ phê duyệt. hơn nữa, các NHTM đang nhận được sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, ADB và chính phủ các nước. Ngân hàng nhà nước cũng đã phối hợp với Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư triển khai kế hoạch cấp bổ sung vốn điều lệ
  60. - 54 - cho các NHTM nhà nước, đảm bảo lộ trình tái cơ cấu của các ngân hàng. Đến hết năm 2003, 5 ngân hàng thương mại nhà nước đã được cấp bổ sung vốn điều lệ đợt một và đợt hai với tổng số tiền 7.750 tỷ đồng, trong đó Ngân hàng Công thương được cấp 1.400 tỷ đồng, ngân hàng Ngoại thương 1.400 tỷ đồng, ngân hàng Đầu tư và phát triển 2.550 tỷ đồng, ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2.200 tỷ đồng, ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long 200 tỷ đồng. Nếu thực hiện thành công chương trình cơ cấu lại các ngân hàng thương mại như tiến độ đã được chính phủ phê chuẩn thì năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại sẽ được cải thiện đáng kể, một số NHTM sẽ đạt được thứ hạng cao trong khu vực. 7 2.3.1.2. Công nghệ liên tục được đổi mới: Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng tiếp tục có những bước phát triển mới về công nghệ và dịch vụ, góp phần tạo thêm vị thế, nâng cao sức cạnh tranh cho các ngân hàng Việt Nam. Việc ứng dụng những công nghệ mới trong lĩnh vực ngân hàng đã thay đổi mạnh mẽ cung cách quản lý các hoạt động ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng, góp phần tăng cường những lợi thế so sánh của ngân hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Nhờ vào những công nghệ mới, khách hàng có thể nhận được không chỉ các dịch vụ mới có chất lượng tốt mà còn là tốc độ và sự thuận tiện từ các dịch vụ như: chương trình ngân hàng bán lẻ, nối mạng với một số khách hàng lớn, chuyển tiền, máy rút tiền tự động ATM Vietcombank đã triển khai hệ thống SilverLake cung cấp một hệ thống ngân hàng bán lẻ, đẩy nhanh tốc độ xử lý, đồng bộ và thống nhất trong toàn hệ thống giúp cho khách hàng thuận lợi trong việc gửi tiền ở một ni, rút tiền ở nhiều nơi một cách thuận tiện nhanh chóng và đã triển khai dự án này trên toàn hệ thống vào cuối năm 2000 Được sự tài trợ của IMF, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kết hợp với Bộ thương mại đang cùng với các NHTMQD triển khai dự án “Kỹ
  61. - 55 - thuật Thương mại điện tử” nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng thanh toán phục vụ cho việc phát triển Thương mại điện tử, tạo tiền đề cho việc đưa Thương mại điện tử vào phục vụ việc phát triển và hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin trong toàn ngành ngân hàng. Đến nay hệ thống đã kết nối cho 200 chi nhánh của 50 thành viên; bình quân mỗi ngày hệ thống đã xử lí từ 8000 đến 9000 lệnh thanh toán với tổng số tiền từ 4000 đến 5000 tỷ đồng. Hay dịch vụ E - Banking, trên thế giới dịch vụ này được triển khai vào năm 1995 nhưng tháng 11 - 20002, Ngân hàng Công thương Việt Nam là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam khai trương trang web trên mạng Internet để cung cấp thông tin về hoạt động của ngân hàng, thông tin thời sự có liên quan và các thông tin về tình hình tài chính trên tài khoản của khách hàng. Đây là bước khởi đầu thành công trong việc triển khai thử nghiệm tiểu dự án “Thanh toán điện tử trong Thương mại điện tử”, đánh dấu một giai đoạn phát triển công nghệ mới của ngành ngân hàng Việt Nam. Như vậy, cho đến nay, những hệ thống ứng dụng dịch vụ trên cơ sở tin học đã được vận hành có hiệu quả tại hệ thống ngân hàng Nhà nước và NHTM là: Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, Hệ thống chuyển tiền điện tử, Hệ thống thanh toán bù trừ, Hệ thống kế toán giao dịch tức thời, Hệ thống thanh tra giám sát từ xa các TCTC, Hệ thống ngân hàng bán lẻ, Hệ thống quản lý mua bán ngoại tệ và thị trường liên ngân hàng, Hệ thống quản lý tiền gửi - tiền vay (tiền gửi tiết kiệm, cho vay ), Hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT, Hệ thống thông tin tín dụng, thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng, Hệ thống nghiệp vụ thị trường mở, Các hệ thống rút tiền tự động ATM, thanh toán thẻ, hệ thống điểm bán lẻ (POS), ngân hàng điện tử, các website 2.3.1.3. Hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng luôn đạt được sự tăng trưởng đáng kể.
  62. - 56 - • Về nguồn vốn huy động Nguồn vốn huy động của các ngân hàng đều tăng trên 20%/năm. Tính đến 31/12/2003, tổng nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng trong năm 2003 đạt 360.300 tỷ đồng, tăng 22.7% so với 31/12/2002, tương đương mức tăng của năm 2002; trong đó tiền gửi bằng VND ước đạt 255.700 tỷ đồng, tăng 32,9%, tiền gửi bằng ngoại tệ ước đạt 104.600 tỷ đồng, tăng khoảng 3,4%. Tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng số dư vốn huy động đạt 29%, thấp hơn mức 34,5% của cùng kỳ năm trước. Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế đến 31/12/2003 đạt 363.500 tỷ đồng, tăng 27% so với đầu năm, thấp hơn mức tăng 30,4% của năm 2002; trong đó cho vay bằng VND ước đạt 283.150 tỷ đồng, tăng 25,5% so với năm 2002 tăng 29,5%, cho vay bằng ngoại tệ ước đạt 80.350 tỷ đồng, tăng 34% tương đương với mức tăng năm 2002. Tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ cho vay đạt 41,7% cao hơn so với tỷ trọng năm 2002 là 40%. 16 Phương thức huy động vốn ngày càng đa dạng, nhiều ngân hàng đã triển khai các hình thức trã lãi trước, trả lãi hàng tháng phù hợp với từng đối tượng khách hàng, lắp đặt máy vi tính tại các quỹ tiết kiệm tạo thuận lợi cho người gửi tiền. Bên cạnh việc gia tăng về mặt số lượng hoạt động tín dụng, đầu tư của các ngân hàng trong nước đã chú trọng đẩy mạnh kế hoạch đầu tư có trọng điểm cho các các ngành kinh tế quan trọng, đồng thời mở rộng danh mục đầu tư bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các khoản thu của ngân hàng chủ yếu từ nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, các khoản thu từ dịch vụ còn chiếm một tỷ trọng nhỏ, hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại thường đem lại số lợi nhuận chiếm tới 60-70% tổng lợi nhuận của ngân hàng. • Về hoạt động thanh toán quốc tế Các ngân hàng Việt Nam đã tiến hành một loạt các cải cách nhằm tạo điều kiện cho giao dịch của khách hàng và tránh được những rắc rối