Kinh tế quốc tế - Chương 4: Thị trường tiền tệ và cán cân thanh toán quốc tế
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kinh tế quốc tế - Chương 4: Thị trường tiền tệ và cán cân thanh toán quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- kinh_te_quoc_te_chuong_4_thi_truong_tien_te_va_can_can_thanh.pdf
Nội dung text: Kinh tế quốc tế - Chương 4: Thị trường tiền tệ và cán cân thanh toán quốc tế
- CHƯƠNG 4. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VÀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ Xin chào các Anh/chị học viên! Chúng tôi rất hân hạnh được gặp các Anh/chị trong môn Kinh tế quốc tế. Chương 4 sẽ nghiên cứu những lý thuyết về hệ thống tiền tệ quốc tế, tỷ giá hối đoái, thị trường ngoại hối và cán cân thanh toán quốc tế. Những lý thuyết này không chỉ cung cấp cho người học những kiến thức quan trọng mà còn liên hệ với thực tiễn phát triển thị trường tài chính tiền tệ thế giới. Chương 4 gồm các nội dung sau: 1. Hệ thống tiền tệ quốc tế 2. Tỷ giá hối đoái 3. Thị trường ngoại hối 4. Cán cân thanh toán quốc tế Mục tiêu chung Sau khi học xong chương này, học viên sẽ hiểu được những vấn đề về hệ thống tiền tệ quốc tế, tỷ giá hối đoái, thị trường ngoại hối và cán cân thanh toán quốc tế. Từ đó, học viên có thể nắm được các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối và liên hệ với thực tiễn nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường tài chính tiền tệ nói riêng. Mục tiêu cụ thể Sau khi học xong Chương 4, Học viên sẽ: - Nắm vững các khái niệm về hệ thống tiền tệ quốc tế, tỷ giá hối đoái, thị trường ngoại hối và cán cân thanh toán quốc tế. - Hiểu được cách xác định tỷ giá và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. - Hiểu được các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối. - Nắm được các nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng cán cân thanh toán quốc tế và các biện pháp giải quyết tình trạng mất cân bằng cán cân thanh toán. 4.1. HỆ THỐNG TIỀN TỆ QUỐC TẾ 4.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế Hệ thống tiền tệ quốc tế là tập hợp các quy tắc, thể lệ và tổ chức nhằm tác động tới các quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia trên thế giới. Hệ thống tiền tệ quốc tế ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ về tiền tệ giữa các quốc gia trên phạm vi toàn thế giới, đảm bảo sự ổn định cho các mối quan hệ đó, từ đó tạo cơ sở cho các mối quan hệ kinh tế quốc tế chung phát triển. Hoạt động của hệ thống tiền tệ gắn liền với các giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi một hệ thống chỉ có thể vận hành có hiệu quả khi có những điều kiện thích hợp về kinh tế, chính trị và xã hội nhất định. Một khi những điều kiện đó thay đổi thì sự sụp đổ của hệ thống tiền tệ là tất yếu. Điều này giải thích cho sự ra đời và phát triển của các hệ thống tiền tệ khác nhau. Có hai yếu tố cơ bản quy định sự hình thành của hệ thống tiền tệ quốc tế, đó là cách thức xây dựng chế độ tỷ giá hối đoái và các dạng dự trữ tiền tệ quốc tế. Mỗi một hệ thống tiền tệ quốc tế có thể kết hợp một vài dạng chế độ tỷ giá với một hay nhiều 81
- hình thức dự trữ quốc tế khác nhau. Có 3 tiêu thức để đánh giá hiệu quả hoạt động của một hệ thống tiền tệ quốc tế, đó cũng chính là các đặc trưng của hệ thống tiền tệ quốc tế, bao gồm: - Điều chỉnh: là khả năng của các quốc gia có thể duy trì hoặc tái lập cân bằng trong cán cân thanh toán của mình. Một hệ thống tiền tệ quốc tế có hiệu quả là hệ thống có khả năng giúp các quốc gia hạn chế một cách tối đa thời gian và chi phí khi tiến hành điều chỉnh cán cân thanh toán của mình. - Dự trữ tiền tệ quốc tế: là công cụ cho phép các quốc gia điều chỉnh thâm hụt tạm thời trong cán cân thanh toán và tiến hành các giao dịch thanh toán quốc tế một cách đúng hạn. Một hệ thống tiền tệ quốc tế có hiệu quả là hệ thống có khả năng cung cấp nguồn dự trữ với quy mô thích hợp nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh cán cân thanh toán mà không gây tác động tiêu cực tới nền kinh tế các quốc gia đó và nền kinh tế thế giới nói chung. - Độ tin cậy của hệ thống tiền tệ quốc tế: gắn liền với khả năng duy trì các nguồn dự trữ ngoại tệ. Một hệ thống tiền tệ quốc tế có hiệu quả là hệ thống hoạt động một cách suôn sẻ, không để xảy ra khủng hoảng về độ tin cậy của hệ thống. Lịch sử phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế gắn liền với 3 dạng hệ thống tiền tệ sau: + Chế độ bản vị vàng: là chế độ tỷ giá cố định với nguồn dự trữ duy nhất là vàng. + Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: tức là tỷ giá hối đoái tăng hay giảm phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. + Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý của nhà nước hoặc chế độ tỷ giá cố định có điều chỉnh: căn cứ vào tình hình cụ thể của thị trường ngoại hối và nhiệm vụ phát triển kinh tế từng thời kỳ mà Chính phủ can thiệp tỷ giá theo cách có lợi nhất cho nền kinh tế. Nguồn dự trữ có thể đồng thời gắn với vàng hoặc một đồng tiền nào đó. 4.1.2. Các hệ thống tiền tệ 4.1.2.1. Hệ thống tiền tệ quốc tế thứ nhất (Chế độ bản vị vàng) 1867 - 1914 Từ thời thượng cổ, vàng rất được mọi người ưa chuộng, họ cất giữ vàng để làm tài sản và xem là phương tiện trao đổi trong hầu hết các nền văn minh trên quả đất lúc bấy giờ. Christopher Colombus đã có lần nói rằng "vàng tạo nên cả kho tàng quý giá. Ai có vàng, người ấy có được tất cả trên cuộc đời này". Tuy vậy, phải đến năm 1821, ở Anh quốc bản vị vàng hoàn chỉnh đầu tiên mới được xác lập, và từ lúc ấy, giấy bạc của ngân hàng Anh có thể chuyển đổi dễ dàng thành vàng. Nước Pháp thực hiện bản vị vàng từ những năm 1850 và chính thức chấp nhận bản vị này chỉ từ năm 1878. Đế quốc Phổ non trẻ vừa mới trỗi dậy được Pháp bồi thường một khoản chiến phí to lớn cũng đã chuyển sang thực hiện bản vị vàng từ năm 1875, chấm dứt hệ thống bảo đảm bằng bạc. Hoa Kỳ chấp nhận bản vị vàng từ năm 1879 và đến Nga, Nhật từ 1897. Hệ thống này ra đời năm 1867 tại Paris và kéo dài đến năm 1914, với các đặc điểm cơ bản sau: - Thừa nhận vàng là tiền tệ thế giới (World currency) được trao đổi tự do trên thế giới và dùng như là tiền tệ thanh toán cuối cùng giữa các quốc gia. - Vàng là căn cứ để xác định tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia. Tỷ giá hối đoái được thiết lập bằng cách đối chiếu nội dung vàng của hai đồng tiền nào đó 82
- được gọi là mức ngang giá chính thức. Do nội dung vàng của mỗi đồng tiền là cố định nên tỷ giá hối đoái được thiết lập trong khuôn khổ hệ thống này cũng cố định. Trên thị trường, tỷ giá hối đoái thường xuyên dao động trượt khỏi mức ngang giá chính thức, tuy nhiên mức dao động này thường rất nhỏ. Mặt khác, do việc vận chuyển vàng thường phải có những khoản chi phí nhất định, ước tính bằng một tỷ lệ % nào đó của giá trị vàng chuyên chở, và người ta lấy luôn mức chi phí đó để quy định giới hạn dao động của tỷ giá về hai phía so với mức ngang giá chính thức. Các giới hạn này được gọi là điểm vàng và cơ chế hoạt động nhằm giữ cho tỷ giá không vượt qua khỏi các điểm đó được gọi là cơ chế các điểm vàng. - Vàng thực hiện mọi chức năng của tiền tệ, tiền giấy chưa phát triển, vì vậy hệ thống tiền tệ quốc tế này còn được gọi là chế độ bản vị vàng. * Nguyên nhân sụp đổ: Cùng với sự bùng nổ chiến tranh thế giới thứ nhất (1914), các quốc gia đã ngừng việc chuyển đổi các đồng tiền ra vàng, áp đặt việc cấm xuất khẩu vàng để duy trì nguồn dự trữ của mình; đánh dấu sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng. Nguyên nhân chính là chế độ này không còn phù hợp với quy mô phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế của chế độ chủ nghĩa tư bản độc quyền lúc bấy giờ. Các nhà độc quyền luôn mong muốn điều chỉnh được tỷ giá hối đoái theo hướng có lợi nhất cho cán cân thanh toán trong khi chế độ bản vị vàng không có cơ chế ràng buộc các nước mạnh phải tuân thủ luật chơi. Mặt khác, trữ lượng vàng tỏ ra hạn chế trong việc thực hiện chức năng dự trữ quốc tế và là vật đảm bảo cho số lượng ngày càng gia tăng các đồng tiền, giá cả tương quan giữa vàng và các hàng hoá khác biến động mạnh, vận động của vàng làm triệt tiêu hiệu quả của chính sách tiền tệ ở các nước. 4.1.2.2. Hệ thống tiền tệ quốc tế thứ hai (Hệ thống Giơ-noa) 1922-1939 Trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nhiều nước như Đức, áo, Hung, Ba Lan, Nga đã lâm vào tình trạng lạm phát phi mã. Tỷ giá hối đoái được thả nổi hoàn toàn và dao động với qui mô và tần số rất lớn. Kinh nghiệm ở Đức là một thí dụ điển hình về lạm phát phi mã: khoảng cuối năm 1923, chỉ số giá bán sỉ ở Đức đã tăng gấp 1 ngàn tỷ lần so với mặt bằng giá trước chiến tranh. Trong thời gian này, nhiều quốc gia đã thực hiện rộng rãi việc giảm giá đồng tiền của mình nhằm "trục lợi", xem đó là phương cách thu lợi trên thị trường xuất khẩu thế giới. Các nước lớn bắt đầu phục hồi sau chiến tranh, ổn định nền kinh tế trong nước, do đó họ toan tính xây dựng lại chế độ bản vị vàng. Mỹ lúc ấy đang thay thế Anh ở vị trí cường quốc kinh tế - tài chính, đã đi tiên phong trong các nỗ lực phục hồi chế độ bản vị vàng. Tuy nhiên, để khắc phục những yếu điểm của chế độ bản vị vàng cổ điển, các quốc gia nhận thức được rằng phải bổ sung những yếu tố mới, cụ thể là bên cạnh vàng phải có ít nhất một đồng tiền mạnh nào đó đóng vai trò là đồng tiền dự trữ và thanh toán quốc tế. Vì vậy, hệ thống tiền tệ quốc tế mới về thực chất là chế độ bản vị vàng hối đoái. Năm 1922, tại một hội nghị quốc tế tổ chức ở Giơ- noa (Italia), các nước Anh, Pháp, Italia và Nhật Bản đã kêu gọi các nước quay trở lại chế độ bản vị vàng và thực hiện sự hợp tác giữa các ngân hàng trung ương nhằm vừa đạt được các mục tiêu đối nội lẫn đối ngoại. Hội nghị đã thống nhất với kế hoạch hình thành chế độ bản vị vàng hối đoái nhằm cho phép các quốc gia tiết kiệm được nguồn dự trữ vàng hạn chế của mình. Các đặc điểm cơ bản của hệ thống tiền tệ quốc tế thứ hai là: 83
- - Dự trữ quốc tế bao gồm vàng và một số đồng tiền chủ chốt có thể đổi được ra vàng theo mức giá quy định, còn được gọi là ngoại tệ vàng. Các đồng tiền khác thì chỉ được phép chuyển đổi ra một trong số ngoại tệ vàng mà thôi. Như vậy, vàng sẽ được tích tụ ở những trung tâm tài chính lớn của thế giới, cụ thể là ở các quốc gia hàng đầu phát hành các ngoại tệ vàng và tạo nên nguồn dự trữ quốc tế duy nhất của các quốc gia đó. - Đồng đô la Mỹ và bảng Anh lên ngôi cùng với vàng được xem như đồng tiền quốc tế thực hiện chức năng dự trữ và thanh toán quốc tế. Tuy nhiên hoạt động của nó quá ngắn ngủi: vào năm 1931 Anh đã buộc phải tuyên bố ngừng đổi đồng bảng ra vàng và tiến hành phá giá đồng bảng để tránh thất thoát nguồn dự trữ của mình. Yếu tố trực tiếp đầu tiên dẫn tới sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng hối đoái là việc Pháp quyết định chuyển, đầu tiên là mức dư trong cán cân thanh toán và sau đó toàn bộ bảng Anh tích luỹ được ra vàng (1928) với ý định biến Pari thành một trung tâm tài chính quốc tế tầm cỡ. Tiếp sau hành động của Anh, các nước khác cũng lần lượt tuyên bố thủ tiêu chế độ bản vị vàng hối đoái của mình. Đức vào năm 1931, Mỹ - 1933 và Pháp - 1936. Từ đó, các quốc gia thực hiện chính sách "trút gánh nặng lên hàng xóm" bằng cách phá giá đồng tiền của mình, áp dụng các biện pháp thuế quan, hạn mức xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối. Kết quả là lĩnh vực tài chính - tiền tệ quốc tế rơi vào tình trạng hỗn loạn không kiểm soát được và thương mại quốc tế giảm sút ghê gớm. Các lý do dẫn tới sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng hối đoái cũng tương tự như trong trường hợp đối với chế độ bản vị vàng. Ngoài ra có thể do tác động sâu sắc của chiến tranh thế giới thứ nhất, và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 1929 - 1933. Do mức lạm phát cao ở các nước nhưng giá vàng vẫn được duy trì một cách bất hợp lý ở các mức giá áp dụng trong thời gian trước chiến tranh. Nước Anh bị suy yếu và do đó không còn khả năng kiểm soát được dòng vận động của các nguồn vốn ngắn hạn bằng chính lãi suất của mình. Trong khi đó các quốc gia đặc biệt là Mỹ nổi lên và dần dần lấn át địa vị của Anh trong nền kinh tế thế giới. 4.1.2.3. Hệ thống tiền tệ quốc tế thứ ba (Hệ thống Bretton Woods) 1945-1971 Năm 1944, một hội nghị quốc tế được nhóm họp tại Bretton Woods (Mỹ) với sự tham gia của đại diện 44 quốc gia đã đưa ra một loạt các biện pháp liên quan đến lĩnh vực tài chính – tiền tệ, dẫn đến sự hình thành hệ thống tiền tệ quốc tế mới với tên gọi là hệ thống Bretton Woods. Hệ thống tiền tệ này có những đặc điểm cơ bản sau: - Lập ra Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB) điều tiết thanh toán và tài chính quốc tế. IMF có 2 chức năng quan trọng: + Điều tiết chế độ tỷ giá của các quốc gia, giám sát việc các quốc gia tuân thủ những quy định đã được thống nhất về thương mại và tài chính quốc tế. + Cung cấp tín dụng cho các quốc gia thành viên gặp phải tình trạng thiếu hụt tạm thời trong cán cân thanh toán. - Soạn thảo quy chế hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế mà nội dung chính của quy chế này là tỷ giá ngoại hối của các thành viên trong IMF được xác định bằng vàng hoặc đô la với mức giá hoán đổi là 35 USD/1 ounce (1 ounce = 31,1035 g vàng); các nước hội viên phải duy trì giá trị tiền tệ của họ trong mức 1% so với mức tỷ giá hối đoái quy định cố định, nếu sự thay đổi về tỷ giá trên 1% thì phải được sự chấp thuận của IMF. Tỷ giá hối đoái được ấn định cố định về mặt ngắn hạn, nhưng có thể được 84
- điều chỉnh khi xuất hiện tình trạng mất cân đối cơ bản, do đó còn có tên gọi là tỷ giá hối đoái cố định điều chỉnh hạn chế. - Những đồng tiền quốc gia của nhiều nước công nghiệp phát triển trở thành đồng tiền thanh toán quốc tế. Đặc biệt, vai trò của đồng đô la Mỹ được nâng cao, trở thành loại tiền tệ dự trữ của thế giới. Tuy nhiên, những năm cuối của thập niên 60, nợ của Chính phủ Mỹ tăng cao, vượt quá số dự trữ vàng, làm khả năng giá trị của đô la Mỹ được đảm bảo bằng vàng giảm, đồng đô la bị phá giá so với vàng lên đến 38 USD/1 ounce. Từ đó, đồng đô la bị mất tín nhiệm, hệ thống tiền tệ quốc tế bị chao đảo vì phụ thuộc vào đồng đô la, dự trữ của các ngân hàng bằng đồng đô la Mỹ bị mất giá và hệ thống Bretton Woods đã sụp đổ vào năm 1971. Hoa Kỳ tuyên bố bỏ chế độ đổi đô la lấy vàng vào tháng 12/1971 và chế độ tỷ giá cố định hầu như được bãi bỏ. - Cuối năm 1971, nhóm G10 – gồm 10 quốc gia công nghiệp phát triển nhất - đã ký thỏa thuận Smith, theo đó giá vàng chính thức được tăng từ 35 USD/1 ounce lên 38 USD/1 ounce, đồng thời mức dao động xung quanh ngang giá được nâng từ 1% lên 2,25%. Tuy nhiên, hiệp ước này chỉ tồn tại được 15 tháng, vào đầu năm 1973, do khủng hoảng của đồng đô la nên các quốc gia công nghiệp chủ chốt đã bãi bỏ các mức ngang giá với đồng đô la và thực hiện thả nổi đồng tiền của mình, sau khi Mỹ phá giá đồng đô la lần thứ hai, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn trong việc cải tổ hệ thống Bretton Woods. 4.1.2.4. Hệ thống tiền tệ quốc tế thứ tư (Hệ thống Gia-mai-ca) Sau khi hệ thống Bretton Woods bị thất bại, chế độ tỷ giá linh hoạt đã được phê chuẩn tại Jamaica, tháng 1 - 1976. Đó là thời điểm các thành viên IMF nhóm họp và cùng đưa ra toàn bộ qui định mới cho hệ thống tiền tệ quốc tế. Hệ thống tiền tệ mới khác căn bản với hệ thống Bretton Woods về mọi nguyên tắc chủ yếu. Những đặc điểm then chốt trong hệ thống Jamaica bao gồm: - Tỷ giá hối đoái linh hoạt được các thành viên IMF tuyên bố chấp nhận. Các ngân hàng trung ương được quyền can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm điều tiết sự biến động thị trường. Các nước không còn bị bắt buộc thực hiện nghĩa vụ duy trì các mức ngang giá đối với đồng tiền của mình nữa. - Chính thức huỷ bỏ vàng làm tài sản dự trữ quốc tế. Vàng hoàn toàn bị loại khỏi thanh toán quốc tế, giá vàng chính thức bị bãi bỏ, không một đồng tiền nào còn nội dung vàng nữa. Một nửa số trữ lượng vàng của IMF được trả lại các nước thành viên, nửa kia được bán nhằm lấy tiền giúp các nước nghèo. - Kể từ năm 1974 các nguồn dự trữ và các giao dịch chính thức của IMF được tính bằng SDR, thay vì tính bằng đô la Mỹ như trước đây. Tuy vậy, đồng đô la vẫn giữ được vai trò là phương tiện thanh toán quốc tế chủ yếu. - Cho phép tồn tại các khối tiền tệ thu hẹp. Một mặt các thành viên của khối đó vẫn là những thành viên bình đẳng của hệ thống tiền tệ quốc tế, nhưng mặt khác giữa họ có những mối quan hệ đặc biệt phản ánh những mục tiêu riêng rẽ trong khối. Dẫn chứng cụ thể là sự ra đời của hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979 với các mục tiêu phục vụ chính sách liên kết kinh tế giữa các nước Tây Âu. - Các nước không xuất khẩu dầu, các nước chậm phát triển được tạo nhiều cơ hội hơn để tiếp cận IMF về vốn. 85
- Thực tiễn hoạt động của hệ thống tiền tệ này cho đến nay chưa cho phép đưa ra những đánh giá khẳng định về hiệu quả hoạt động của nó. Có ý kiến cho rằng, chế độ thả nổi có quản lý dẫn đến mất cân đối lớn trong cán cân thanh toán quốc tế và gây cản trở cho hệ thống thương mại quốc tế tự do. Tuy nhiên, diễn biến thực tế cho thấy dường như chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý vẫn sẽ tiếp tục tồn tại. Việc cho phép thay đổi linh hoạt các mức tỷ giá làm giảm bớt áp lực của thị trường hối đoái đối với các quốc gia. Nó cũng mang lại nhiều quyền hạn cho các quốc gia trong việc thay đổi chính sách tỷ giá của mình nhằm đối phó lại những biến động kinh tế. Và thực tế cho thấy chế độ tỷ giá này có khả năng giúp các quốc gia vượt qua được những áp lực và chấn động kinh tế lớn mà hệ thống tiền tệ quốc tế gặp phải trong những năm 70. - Đồng đô la Mỹ tiếp tục bị phá giá, đồng SDR (Special Drawing Right) của IMF tiếp tục được củng cố và được định giá bằng nhóm tiền tệ của 16 nước hội viên thuộc IMF. Đến năm 1981, giá trị đồng SDR được xác định dựa trên 5 loại tiền tệ chủ yếu là đô la Mỹ, mác Đức, yên Nhật, frăng Pháp và bảng Anh với tỷ trọng từng đồng tiền như sau: USD - 42%, DEM - 19%, JPY - 15%, FRF - 12%, GBP - 12% và có sự thay đổi 5 năm một lần. Tuy nhiên cho đến nay, dưới sức ép của Mỹ thì đồng SDR chỉ là tiền tệ hiệp định dùng làm cơ sở thực hiện tiền tín dụng quốc tế chứ chưa sử dụng trong thương mại quốc tế. - Bãi bỏ việc lấy vàng làm phương tiện trực tiếp trong thanh toán quốc tế giữa các nước thuộc IMF, tức là nó không còn giữ chức năng là thước đo giá trị và là cơ sở để tính toán tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền mà chỉ được xem như một loại hàng hoá thông thường. Các giao dịch với vàng trong khuôn khổ IMF cũng bị cấm và hạn mức đóng góp tính bằng vàng cũng được bãi bỏ và chuyển sang tính bằng ngoại tệ. - Các nước tự lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái tuỳ ý: cố định, thả nổi hoặc kết hợp giữa chúng thành tỷ giá thả nổi có quản lý. - Cho phép các nước hội viên thuộc IMF được phép liên kết để thành lập hệ thống tiền tệ khu vực. 4.1.2.5. Hệ thống tiền tệ châu Âu - EMS (European Monetary System) Được thành lập năm 1979, sự ra đời của EMS đã tạo điều kiện để xây dựng một thị trường tiền tệ chung thống nhất châu Âu. Đặc điểm cơ bản của EMS: - Xây dựng đồng tiền chung cho EMS, đó là đồng ECU (European Currency Unit) có chức năng tương tự như đồng SDR của IMF. Đồng ECU được dùng như một đơn vị tính toán trong một số giao dịch nhất định giữa các chính phủ của các nước thành viên. Nó được tính theo phương pháp rổ tiền tệ của các quốc gia thành viên. - Vàng được sử dụng để đảm bảo một phần cho việc phát hành ECU. Quỹ vàng tập thể được thành lập trên cơ sở tập trung 20% dự trữ vàng chính thức của các nước thành viên. - Đồng mác Đức là cơ sở quy định giá của các đồng tiền khác vì nó là đồng tiền mạnh nhất trong EMS. - Chế độ tỷ giá hối đoái được xây dựng dựa trên cơ sở thả nổi tập thể các đồng tiền dưới dạng “con rắn tiền tệ châu Âu”. Tỷ giá tiền tệ giữa các thành viên chỉ được dao động trong giới hạn cho phép ± 0,25% đối với các đồng tiền mạnh như DEM, curon Đan Mạch, và ± 6% đối với các đồng tiền yếu như Lia ý, Pound Ái Nhĩ Lan, 86
- Sự ổn định tỷ giá giữa các đồng tiền được thực hiện theo hai cách: Một là, thay đổi lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương các nước. Ngân hàng Trung ương hạ lãi suất khi tỷ giá gần đạt tới giới hạn tối thiểu. Hai là, Ngân hàng Trung ương can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ, mua đồng tiền vào khi giá hạ và bán đồng tiền ra khi giá cao. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Ngân hàng Trung ương trong việc điều tiết tỷ giá, các nước thành viên EMS đã lập ra “Quỹ tỷ giá” với số vốn khoảng 30 tỷ ECU. Khoảng 70% số tiền của quỹ này dùng để cho vay tín dụng ngắn hạn (3-9 tháng); 30% số vốn còn lại để cho vay tín dụng trung hạn (2-5 năm). Với cơ chế hối suất châu Âu, trong những năm của thập kỷ 80 tỷ giá giữa các đồng tiền thuộc EMS ổn định hơn nhiều so với biến động lớn của đồng đô la Mỹ và đồng yên Nhật. Từ khi thành lập đến năm 1990 hầu như EMS hoạt động thuận lợi. Nhưng năm 1992, do gánh nặng chi phí tài chính cho việc thống nhất nước Đức lên đến 150 tỷ DEM (tương đương 90 tỷ USD) buộc chính phủ phải duy trì lãi suất cao để chống lạm phát. Sự kiện này làm hệ thống EMS bị khủng hoảng vì đồng ECU phát hành dựa theo phương pháp “rổ” tiền tệ mà tỷ trọng đồng mác Đức trong rổ này rất cao. Kết quả là làm cho nền kinh tế nhiều nước thuộc EMS bị suy thoái. Giữa tháng 9/1992, Anh và Ý buộc phải phá giá tiền tệ của mình và rút khỏi EMS mở đầu cho cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu. - Ngày 11/01/1994 Viện tiền tệ châu Âu (EMI) ra đời, đây là tiền thân của ngân hàng châu Âu tương lại. Mục tiêu hoạt động của EMI là: + Thúc đẩy để thực hiện đồng tiền chung thống nhất trong EU vào 01/01/1999 + Phát triển sự hợp tác giữa các ngân hàng quốc gia với mục tiêu ổn định giá cả. + EMI giám sát sự hoạt động của hệ thống ngân hàng tiền tệ châu Âu, điều tiết sao cho tỷ giá các đồng tiền thuộc EU chỉ dao động ở mức ±15%. + Một nhiệm vụ nặng nề nữa là phải phối hợp và phát triển một chính sách tiền tệ chung, vì giữa các nước thành viên còn rất nhiều khác biệt, kể cả những khác biệt quan điểm về vai trò của chính sách lãi suất trong cuộc đấu tranh một bên là chống lạm phát và một bên là chống nạn thất nghiệp. Tiến trình để đi tới một đồng tiền chung châu Âu đã được khẳng định. Ngày 3/5/1998, tại hội nghị cấp cao liên hiệp châu Âu (EU) ở Brussel, Bỉ, các bộ trưởng kinh tế và tài chính đã nhất trí một danh sách gồm 12/15 thành viên sẽ sử dụng đồng EURO vào ngày 01/01/1999. Ngày 1/1/2002, đồng EURO được ban hành. Khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu bao gồm 290 triệu dân chiếm 19,6% sản lượng kinh tế thế giới và 18,6% thương mại toàn cầu. Sự ra đời của hệ thống đồng EURO được xem như là một thế lực kinh tế hùng mạnh có sức cạnh tranh ngang ngửa với nền kinh tế Mỹ và sẽ làm giảm thế lực của đồng đô la Mỹ. Câu hỏi tự luận Câu 1: Trình bày các tiêu thức chủ yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế. Câu 2: Chế độ tỷ giá hối đoái trong hệ thống Bretton Woods có những đặc điểm gì? Tại sao đồng đô la Mỹ trở thành đồng tiền dự trữ chủ chốt? 87
- 4.2. TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 4.2.1. Khái niệm về tỷ giá hối đoái (Exchange Rate) 4.2.1.1. Ngoại hối (The Foreign Exchange) Ngoại hối bao gồm các phương tiện thanh toán được sử dụng trong thanh toán quốc tế. Trong đó, phương tiện thanh toán là những thứ có sẵn để chi trả, thanh toán lẫn nhau. Đối với một quốc gia, ngoại hối (phương tiện thanh toán quốc tế) bao gồm: - Ngoại tệ (Foreign Currency): là đồng tiền nước ngoài (Foreign Money) bao gồm cả đồng tiền chung của các nước khác và Quyền rút vốn đặc biệt SDR. - Vàng, bạc, kim cương, ngọc trai, đá quý và các kim loại quý hiếm khác được dùng làm tiền tệ. - Các phương tiện lưu thông tín dụng ghi bằng ngoại tệ (kỳ phiếu, hối phiếu, séc, thẻ tín dụng, thư chuyển tiền, điện chuyển tiền, thư tín dụng ngân hàng). - Các phương tiện chứng khoán có giá (Securities) ghi bằng ngoại tệ: + Cổ phiếu (Share) + Trái phiếu (Bond) + Công trái (Government Loans) Tiền của Việt Nam là ngoại hối trong các trường hợp sau đây: - Tiền Việt Nam ở nước ngoài được sử dụng ở nước ngoài. - Tiền tín dụng Việt Nam ghi trên tài khoản của người phi cư trú (Non-Resident) tại các ngân hàng thương mại Việt Nam được quyền tham gia thanh toán quốc tế. Nguồn thu tiền tín dụng này từ các nguồn: + Chuyển ngoại hối ra tiền Việt Nam + Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sang Việt Nam ghi bằng tiền Việt Nam. + Cổ tức, lợi tức, trái tức thu từ các hoạt động đầu tư vào Việt Nam. Khái niệm ngoại hối thường được hiểu theo luật định và tương đối thống nhất giữa các quốc gia. Theo Pháp lệnh số 28/2005/PL-UBTVQH11, ngày 13/12/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, khái niệm ngoại hối được quy định tại Điều 4, khoản 1. Ngoại hối là hàng hóa mua bán trên thị trường ngoại hối, nhưng trên thực tế, người ta chỉ giao dịch mua bán ngoại tệ, còn các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ không được giao dịch trực tiếp trên thị trường ngoại hối. 4.2.1.2. Tỷ giá hối đoái. Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng đồng tiền riêng của mình. Các quá trình thương mại, đầu tư và các quan hệ tài chính quốc tế phát sinh đòi hỏi các quốc gia phải thanh toán với nhau. Việc thanh toán giữa các quốc gia dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền khác nhau, tức là một đồng tiền này lấy một đồng tiền kia. Như vậy hai đồng tiền được trao đổi phải theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ này người ta gọi là tỷ giá. 88
- * Khái niệm: Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính bằng tiền tệ của một quốc gia khác hay là quan hệ so sánh giữa hai đồng tiền của các quốc gia khác nhau. VD: Tỷ giá hối đoái giữa đồng đô la Mỹ và đồng Việt Nam là: 1USD = 20590 VND, có nghĩa là 20590 VND có thể mua được 1 USD. Theo tập quán kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, tỷ giá hối đoái thường được yết giá như sau: USD/DEM = 1,4125/35 (hoặc 1,4125 – 35) USD/VND = 20500/20590 Đồng USD đứng trước gọi là đồng tiền yết giá. Đồng tiền yết giá là đồng tiền có số đơn vị cố định và bằng 1 đơn vị. Các đồng DEM, VND đứng sau gọi là đồng tiền định giá có số đơn vị thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Tỷ giá đứng trước 1,4125 (20500) là tỷ giá mua USD trả bằng DEM (VND) của ngân hàng, gọi là tỷ giá mua vào của ngân hàng (BID RATE). Tỷ giá đứng sau 1,4135 (20590) là tỷ giá bán USD thu bằng DEM (VND), gọi là tỷ giá bán ra của ngân hàng (ASK RATE). Trong giao dịch ngoại hối, khách hàng thường có thể lấy tên thủ đô của các nước mà ở đó là thị trường tiền tệ lớn trên thế giới thay cho tên tiền tệ của nước đó ở vị trí tiền định giá. Ví dụ: Thay vì đọc USD/DEM, người ta đọc “tỷ giá USD - FrankFurt”, USD/FRF là “tỷ giá USD - Paris” . Tỷ giá ASK thường lớn hơn tỷ giá BID. Chênh lệch giữa chúng gọi là SPREAD, còn gọi là lợi nhuận (chưa nộp thuế) của ngân hàng. Trong giao dịch mua bán ngoại hối qua ngân hàng, để đảm bảo tính nhanh gọn, các tỷ giá thường không được đọc đầy đủ mà chỉ đọc những số nào thường biến động, đó là những số cuối. VD: USD/DEM – 1,7015 chỉ được đọc các số lẻ sau dấu phẩy. Các số này chia làm 2 nhóm số: hai số thập phân đầu tiên đọc là “số” (Figure), hai số kế tiếp đọc là “điểm” (point). Tỷ giá trên đọc là “Đô la, Đê mác bằng một, bảy mươi số, mười lăm điểm”. Để thống nhất các ký hiệu tiền tệ của các nước, Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đã ban hành ký hiệu tiền tệ ISO. VD: Đô la Mỹ : USD Đô la Hồng Kông : HKD Mác Đức : DEM Phrăng Pháp : FRF Yên Nhật : JPY Đô la Singapo : SGD Đô la Canada : CAD Nhân dân tệ Trung Quốc : CNY 89
- Phrăng Thụy Sỹ : CHF Đô la Úc : AUD Rupi ấn Độ : INR Won Hàn Quốc : KRW Bạt Thái Lan : THB * Phương pháp yết tỷ giá: Trên thế giới có rất nhiều đồng tiền khác nhau. Chúng đều là tiền, nhưng xét từ giác độ một quốc gia, thì chỉ có nội tệ mới đóng vai trò là tiền tệ; còn các đồng tiền khác là ngoại tệ, đóng vai trò là hàng hóa (ta gọi là hàng hóa đặc biệt). Đối với một quốc gia, hàng hóa thông thường đều được yết giá mua bán bằng nội tệ. Ví dụ, tại Việt Nam, giá gạo được yết là: 1Kg = 20.000 VND. Giá gạo được yết như vậy gọi là trực tiếp. Tuy nhiên, nếu ta muốn biết 1 VND mua được bao nhiêu gạo, ta phải tính để có được: 1 VND = 0,00005 Kg. Giá gạo được yết như vậy gọi là gián tiếp. Vì ngoại tệ đóng vai trò là hàng hóa trong mối quan hệ với nội tệ là tiền tệ, do đó yết giá ngoại tệ (yết tỷ giá) không khác gì yết giá hàng hóa thông thường. Chính vì vậy, xét từ góc độ quốc gia, ta cũng có hai phương pháp yết tỷ giá là: - Phương pháp yết giá trực tiếp (certain quotation): Về mặt nguyên lý thì yết tỷ giá trực tiếp không khác gì yết giá hàng hóa thông thường trực tiếp. Nếu lấy quốc gia Việt Nam làm ví dụ, thì VND đóng vai trò là tiền tệ còn các ngoại tệ đóng vai trò là hàng hóa. Ví dụ: 1USD = 20590 VND Phương pháp yết tỷ giá như trên được gọi là yết giá trực tiếp, bởi vì giá ngoại tệ được bộc lộ trực tiếp bằng tiền (VND), chúng ta không cần tính toán suy đoán gì thêm. Như vậy, phương pháp yết tỷ giá trực tiếp là phương pháp yết giá ngoại tệ xét từ giác độ của quốc gia, trong đó: + Ngoại tệ, với vai trò là hàng hóa, là đồng tiền yết giá, có số đơn vị cố định và bằng 1 đơn vị. + Nội tệ, với vai trò là tiền tệ, là đồng tiền định giá, có số đơn vị thay đổi phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. - Phương pháp yết giá gián tiếp (incertain quotation): Về mặt nguyên tắc, nếu xét từ giác độ quốc gia thì yết tỷ giá gián tiếp không khác gì yết giá gián tiếp hàng hóa thông thường. Ví dụ: 1 VND = 0,0080 JPY Phương pháp yết tỷ giá như trên gọi là yết giá gián tiếp, bởi vì, giá ngoại tệ chỉ được bộc lộ một cách gián tiếp bằng tiền (VND). Để biết được giá ngoại tệ một cách trực tiếp, chúng ta phải tính toán suy đoán mới ra. Như vậy, xét từ giác độ quốc gia thì phương pháp yết tỷ giá gián tiếp là phương pháp, trong đó: + Nội tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá, có số đơn vị cố định và bằng 1 đơn vị. 90
- + Ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá, có số đơn vị thay đổi phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. - Trên thế giới chỉ có đồng tiền quốc tế SDR là hoàn toàn được yết giá trực tiếp. Bởi vì: thứ nhất, SDR luôn đóng vai trò là ngoại tệ trong mối quan hệ với tất cả các đồng tiền còn lại; thứ hai, trên mọi thị trường ngoại hối, SDR luôn đóng vai trò là đồng tiền yết giá - Các nước Anh, New Zealand, Úc và các nước đồng tiền chung Euro là dùng phương pháp yết giá ngoại tệ gián tiếp. - Tất cả các quốc gia còn lại đều áp dụng phương pháp yết tỷ giá ngoại tệ trực tiếp. - Riêng Mỹ áp dụng phương pháp yết tỷ giá trực tiếp với các ngoại tệ GBP, AUD, NZD, EUR và SDR; còn với các ngoại tệ khác, áp dụng phương pháp yết tỷ giá gián tiếp. Có hai loại tỷ giá hối đoái thường được các nhà kinh tế đề cập tới là: tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực tế. * Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (nominal exchange rate) là tỷ lệ trao đổi giữa các đồng tiền; tỷ giá này được biết đến nhiều nhất và là tỷ giá được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng ngày. * Tỷ giá hối đoái thực tế (real exchange rate): là tỷ giá phản ánh tương quan sức mua giữa hai đồng tiền trong tỷ giá. Từ tỷ giá hối đoái danh nghĩa, có thể ước tính tỷ giá hối đoái thực tế theo công thức sau: Tỷ giá hối đoái thực tế Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Chỉ số giá cả quốc tế = Chỉ số giá cả trong nước 4.2.1.3. Phân loại tỷ giá hối đoái Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối: tỷ giá hối đoái được chia thành 2 loại: - Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là tỷ giá cơ sở để xác định các loại tỷ giá khác. - Tỷ giá thư hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư. Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được chia thành 5 loại: - Tỷ giá séc: là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ. - Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay: là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu trả tiền ngay bằng ngoại tệ. - Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn bằng ngoại tệ. 91
- - Tỷ giá chuyển khoản: là tỷ giá mua bán ngoại hối bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng. - Tỷ giá tiền mặt: là tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền mặt. Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia thành 4 loại: - Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá mua bán ngoại hối của chuyến giao dịch ngoại hối đầu tiên trong ngày. - Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá mua bán ngoại hối của một chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày. - Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất sau hai ngày làm việc. - Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao nhận sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng. Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia thành 2 loại: - Tỷ giá mua vào – Bid Rate: là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua vào đồng tiền yết giá. - Tỷ giá bán ra – Ask (or Offer) Rate: là tỷ giá mà tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng bán ra đồng tiền yết giá. Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia thành 4 loại: - Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà nước công bố được hình thành trên cơ sở ngang giá vàng. - Tỷ giá hối đoái thả nổi tự do: là tỷ giá được hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ cung cầu ngoại hối quy định, không có sự can thiệp của chính phủ. - Tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý: là tỷ giá được hình thành tự phát trên thị trường nhưng có sự can thiệp của chính phủ, thông qua việc mua bán các đồng tiền để can thiệp vào mức cung cầu ngoại hối. - Tỷ giá cố định: là tỷ giá chỉ được phép biến động trong phạm vi nhất định. 4.2.2. Phương pháp xác định tỷ giá chéo 4.2.2.1. Khái niệm Ta hãy hình dung, hiện nay có khoảng 180 đồng tiền khác nhau, nếu trên thị trường ngoại hối, đồng tiền này đổi lấy đồng tiền kia một cách trực tiếp, thì ta phải cần niêm yết tới: 180 x 179 = 32.220 tỷ giá. Một thị trường như vậy sẽ là không hiệu quả. Chính vì vậy, thị trường đã hình thành nên đồng tiền ngang giá chung (đồng tiền trung gian) làm giảm số lượng tỷ giá phải niêm yết hay thông qua việc tính tỷ giá chéo. Tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ được xác định thông qua đồng tiền thứ 3 (hay còn gọi là đồng tiền trung gian) gọi là tỷ giá chéo. Ví dụ: ta có hai tỷ giá: E(X/Z) = (a,b) và E(Y/Z) = (c,d), thì tỷ giá E(X/Y) = (x,y) gọi là tỷ giá chéo, đồng tiền Z được gọi là đồng tiền trung gian, hay đồng tiền thứ 3. 4.2.2.2. Phương pháp xác định tỷ giá chéo 92
- * Tỷ giá chéo giản đơn Tỷ giá chéo trong trường hợp không tồn tại chênh lệch tỷ giá mua và bán gọi là tỷ giá chéo giản đơn. Ví dụ: Ta có hai tỷ giá E(USD/VND) = 20590 và E(USD/SGD) = 5,1324 thì tỷ giá chéo E(SGD/VND) = x gọi là tỷ giá chéo giản đơn. Ta tính được tỷ giá chéo như sau: E(USD/VND) = 20590 1 USD = 20590 VND E(USD/SGD) = 5,1324 1 USD = 5,1324 SGD 5,3124 SGD = 20590 VND 1 SGD = 4012 VND hay E(SGD/VND) = 4012 * Tỷ giá chéo phức hợp Vấn đề đặt ra là, trong kinh doanh ngoại hối, tỷ giá bao gồm tỷ giá mua vào và bán ra. Do đó, phương pháp để tính tỷ giá chéo mua vào và bán ra sẽ là phức tạp hơn. - Xác định tỷ giá hối đoái của hai tiền tệ cùng nằm ở vị trí đồng tiền định giá: VD: Tại TP. Hồ Chí Minh có công bố tỷ giá: USD/VND DEM = 20500/90 USD/GBP FRF = 1,6783/1,6801 Xác định tỷ giá VND/GBP là hai tiền tệ yết giá gián tiếp. Ta gọi: Bán VND/GBP của khách hàng, viết tắt là ASKk (VND/GBP); Mua VND/GBP của khách hàng, viết tắt là BIDk (VND/GBP). + Xác định tỷ giá ASKk (VND/GBP): Trước hết, khách hàng dùng VND mua USD, do đó ngân hàng sẽ bán USD ra: ASKn (USD/VND) = 20590 Tiếp theo, khách hàng bán USD để nhận GBP FRF, do đó ngân hàng sẽ mua USD vào: BIDn (USD/GBP) = 1,6783 Suy ra ta có: 20590 VND = 1,6783 GBP, do đó: VND/GBP = 1,6783/20590 = 0,0000815 Hay là: ASKk (VND/GBP) = BIDn (USD/GBP) : ASKn (USD/VND) = 1,6783/20590 = 0,0000815 Tóm lại: USD/G BIDn VND/GP BP (1) và AS B = (2) Kk = USD/V ASKn ND 93
- Kết luận: Muốn tìm tỷ giá hối đoái của hai tiền tệ cùng nằm ở vị trí tiền định giá, ta lấy tỷ giá của tiền tệ định giá chia cho tỷ giá của tiền tệ yết giá. Muốn tìm tỷ giá bán của khách hàng, ta lấy tỷ giá mua của ngân hàng chia cho tỷ giá bán của ngân hàng. + Xác định tỷ giá BIDk (VND/GBP): Trước hết, khách hàng dùng GBP mua USD, do đó ngân hàng sẽ bán USD ra: ASKn (USD/GBP) = 1,6801 Tiếp theo, khách hàng bán USD để nhận VND, do đó ngân hàng sẽ mua USD vào: BIDn (USD/VND) = 20500 Suy ra ta có: 20500VND = 1,6801 GBP , do đó: VND/GPB = 1,6801/20500 = 0,0000820 Hay là: BIDk (VND/GBP) = ASKn (USD/GBP) : BIDn (USD/VND) = 1,6801/20500 = 0,0000820 Tóm lại: USD/G ASKn VND/G BP (1) và BID BP = (2) k = USD/V BIDn ND Kết luận: Muốn tìm tỷ giá hối đoái của hai tiền tệ cùng nằm ở vị trí đồng tiền định giá, ta lấy tỷ giá của tiền tệ định giá chia cho tỷ giá của tiền tệ yết giá. Muốn tìm tỷ giá mua của khách hàng, ta lấy tỷ giá bán của ngân hàng chia cho tỷ giá mua của ngân hàng. - Xác định tỷ giá hối đoái của hai tiền tệ cùng nằm ở vị trí đồng tiền yết giá: VD: Tại Hà Nội, Ngân hàng công bố tỷ giá: USD/VND = 20500/90 FRF/VND = 29109/501 Xác định tỷ giá USD/FRF là hai tiền tệ yết giá trực tiếp? Ta gọi: Bán USD/FRF của khách hàng, viết tắt là ASKk (USD/FRF); Mua USD/FRF của khách hàng, viết tắt là BIDk (USD/FRF). Cũng lập luận như trên, ta có công thức tổng quát sau đây: 94
- USD/V USD/FR ND F = GBP/V ND BID ASK n (1) và n ASK = BID = k (2) k ASKn BIDn Kết luận: Muốn tìm tỷ giá hối đoái của hai tiền tệ cùng nằm ở vị trí đồng tiền yết giá, ta lấy tỷ giá của tiền tệ yết giá chia cho tỷ giá của tiền tệ định giá. Muốn tìm tỷ giá bán của khách hàng, ta lấy tỷ giá mua của ngân hàng chia cho tỷ giá bán của ngân hàng. Muốn tìm tỷ giá mua của khách hàng, ta lấy tỷ giá bán của ngân hàng chia cho tỷ giá mua của ngân hàng. - Xác định tỷ giá hối đoái của hai tiền tệ có vị trí khác nhau: VD: cho biết EUR/SGD và SGD/VND, xác định tỷ giá EUR/VND là hai tiền tệ có vị trí khác nhau. Cách làm tương tự như trên, ta có công thức tổng quát sẽ là: EUR/VN EUR/SGD x D = SGD/VND BIDk ASKn x = ASKn ASKk BIDn x BIDn = VD: cho biết EUR/SGD = 1,7405/75 ; SGD/VND = 16701/17028. Tính (EUR/VND) = ? Ta có: BIDk (EUR/VND) = ASKn (EUR/SGD) x ASKn (SGD/VND) = 1,7475 x 17028 = 29756 ASKk (EUR/VND) = BIDn (EUR/SGD) x BIDn (SGD/VND) = 1,7405 x 16701 = 29068 4.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái 4.2.3.1. Mức chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia: Trong điều kiện cạnh tranh, thông thường khi mức độ chênh lệch lạm phát của hai nước lớn thì giá cả hàng hoá ở hai nước đó có sự biến động khác nhau, làm cho ngang giá sức mua của hai đồng tiền đó bị phá vỡ dẫn đến tỷ giá hối đoái thay đổi. 95
- Nếu gọi mức độ lạm phát ở Mỹ là IA, ở Pháp là IF ; tỷ giá trước lạm phát là USD = a FRF thì tỷ giá sau lạm phát sẽ là: USD + USD.IA = a FRF + a FRF.IF USD = a FRF (1+ IF) / (1+ IA) USD = a FRF + a FRF (IF - IA) / (1 + IA) Nếu mức độ lạm phát ở Mỹ nhỏ, có thể coi 1 + IA 1 Vậy tỷ giá sau lạm phát sẽ là USD = a FRF + a FRF (IF - IA) Kết luận: nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn nước kia thì đồng tiền nước đó có sức mua thấp hơn nước kia. Nếu chỉ tính riêng ảnh hưởng của nhân tố lạm phát, ta có thể dự đoán được sự biến động của tỷ giá trong tương lai. 4.2.3.2. Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế (CCTTQT) Trong một thời kỳ nhất định, CCTTQT của một nước với nước ngoài cho ta thấy kết quả tổng hợp của các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước đó. CCTTQT của một nước có thể cân bằng hoặc bội chi hoặc bội thu, làm cho tài sản ngoại hối của nước đó có thể giảm xuống hay tăng lên nhờ vào các nguồn ngoại hối từ trong nước chạy ra nước ngoài hoặc ngược lại. Do đó, thông qua CCTTQT của một nước chúng ta có thể thấy được thực trạng về kinh tế – tài chính của nước đó. Tình trạng mất cân đối trong CCTTQT sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối và làm biến động tỷ giá hối đoái. Nếu CCTTQT dư thừa thì có thể dẫn đến khả năng cung ngoại hối lớn hơn cầu ngoại hối. Ngược lại thì cầu ngoại hối lớn hơn cung ngoại hối. Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế phụ thuộc vào mức tăng hay giảm thu nhập quốc dân giữa các nước. Do đó, có thể nói sự biến động của tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào mức độ tăng hay giảm thu nhập quốc dân giữa các nước. Thu nhập quốc dân tăng lên hay giảm xuống, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, sẽ làm tăng hay giảm nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên hoặc giảm xuống. 4.2.3.3. Sự chênh lệch mức lãi suất. Khi mức lãi suất của một nước tăng lên một cách tương đối so với các nước khác thì trong điều kiện bình thường, các tài sản của nước đó sẽ tạo ra tiền lời cao hơn và sẽ có nhiều người dân của các nước khác muốn mua các tài sản đó. Điều này làm cho đường cầu về tiền của các nước đó dịch chuyển sang phải và làm tăng tỷ giá hối đoái. Và ngược lại thì tỷ giá hối đoái (TGHĐ) sẽ bị giảm xuống. Sơ đồ 4.1: Ảnh hưởng của mức chênh lệch lãi suất đến sự biến động của TGHĐ. USD/VND D1 S1 D0 S0 96
- 4.2.3.4. Yếu tố tâm lý. Những yếu tố tâm lý có ảnh hưởng rất lớn tới sự biến động của tỷ giá hối đoái. Đặc biệt trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển mạnh như hiện nay, những sai lệch trong công tác dự báo về tình hình thương mại CCTTQT của một nước có thể gây nên những biến động rất lớn về tỷ giá hối đoái của nước đó. Điều này cũng góp phần giải thích hiện tượng vì sao tỷ giá hối đoái của một đồng tiền tăng lên ngay cả khi sức mua của nó bị giảm sút. Những dự đoán về tỷ giá hối đoái của những người tham gia vào thị trường ngoại hối (về triển vọng lên giá hay xuống giá của một đồng tiền nào đó) cũng có thể là một nhân tố quan trọng quyết định tỷ giá. Những dự đoán về giá cả của các đồng tiền có liên quan rất chặt chẽ đến những dự đoán về biến động tỷ lệ lạm phát, lãi suất và thu nhập giữa các quốc gia. Sơ đồ 4.2: Ảnh hưởng của những dự đoán về tỷ giá đến sự biến động của TGHĐ. USD/VND D S 0 0 S1 D1 0 QUSD Giả sử có nhiều người tham gia vào thị trường ngoại hối, đặc biệt là các nhà đầu cơ lớn cho rằng đồng USD sẽ giảm giá trong thời gian tới, trong điều kiện các nhân tố khác không thay đổi. Điều này sẽ làm cho cung về USD tăng lên trên thị trường ngoại hối vì nhiều người muốn bán USD để mua ngoại tệ trước khi USD bị mất giá (S0 sẽ dịch chuyển sang phải tới S1 theo sơ đồ 4.2) đồng thời cầu về USD sẽ giảm xuống (D0 sẽ dịch sang trái tới D1) vì cầu về USD sẽ giảm xuống đến tận sau khi sự giảm giá USD xảy ra. 4.2.3.5. Sự can thiệp của chính phủ: Bất kỳ một chính sách nào của chính phủ có tác động đến tỷ lệ lạm phát, thu nhập thực tế hoặc mức lãi suất trong nước đều có ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Chính phủ có thể sử dụng 3 loại hình can thiệp chủ yếu: 97
- + Can thiệp vào thương mại quốc tế: sự can thiệp này của chính phủ nhằm khuyến khích xuất khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu bằng các biện pháp như trợ cấp sản xuất xuất khẩu, thuế nhập khẩu hoặc hạn ngạch nhằm giảm nhu cầu về ngoại tệ, tăng nhu cầu về nội tệ và làm cho giá đơn vị nội tệ trong nước sẽ tăng lên. + Can thiệp vào đầu tư quốc tế: chính phủ có thể can thiệp dòng đầu tư quốc tế bằng biện pháp cấm đầu tư ra nước ngoài, đánh thuế thu nhập lợi tức của công dân nước mình ở nước ngoài hoặc của công dân nước ngoài ở nước mình. + Can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối: chính phủ có thể can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua hay bán trực tiếp nội tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu đề ra. Ngoài ra, sự biến động của tỷ giá hối đoái còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như khủng hoảng ngoại hối, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tín dụng ở các nước, chiến tranh, thiên tai, đình công, 4.2.4. Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái 4.2.4.1. Chính sách lãi suất Là chính sách của Ngân hàng Trung ương dùng thay đổi lãi suất cho vay để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái trên thị trường cao quá mức (một đơn vị ngoại hối mua được nhiều hơn số đơn vị nội tệ) thì Ngân hàng Trung ương nâng cao lãi suất cho vay từ đó kích thích nguồn vốn nước ngoài chảy vào nước mình để thu lãi cao do đó làm tỷ giá hối đoái giảm xuống. Ngược lại, khi Ngân hàng Trung ương áp dụng lãi suất chiết khấu thấp, tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên. 4.2.4.2. Chính sách hối đoái Là chính sách mà Ngân hàng Trung ương hay các cơ quan quản lý ngoại hối của chính phủ dùng các nghiệp vụ trực tiếp mua bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái cao quá mức, ngân hàng trung ương tung ngoại tệ ra bán để kéo tỷ giá hối đoái hạ xuống. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống thì mua ngoại tệ vào, tức là nâng cầu ngoại hối. Để thực hiện biện pháp này, thì ngân hàng phải có dự trữ ngoại tệ dồi dào đủ lớn để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Tuy nhiên, chính sách này chỉ có tác dụng tạm thời và hạn chế sự biến động của tỷ giá chứ không thay đổi được về lâu dài. 4.2.4.3. Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái Đây là biện pháp chủ động nhằm thu thập một lượng dự trữ ngoại hối để có thể ứng phó với sự biến động của tỷ giá hối đoái. Có hai cách tạo lập và sử dụng quỹ dự trữ quỹ bình ổn hối đoái: Tạo nguồn cho quỹ bằng cách phát hành trái phiếu kho bạc bằng nội tệ: Khi ngoại tệ vào nhiều thì sử dụng vốn nội tệ từ quỹ để mua ngoại tệ nhằm hạn chế tỷ giá hối đoái tụt xuống và ngược lại Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Khi cung ngoại tệ nội địa thiếu hụt, thì quỹ đưa vàng ra bán ở nước ngoài để thu ngoại tệ về để cân bằng lượng thiếu hụt. Trong trường hợp cung ngoại tệ nội địa nhiều, quỹ tung vàng ra bán thu về tiền nội địa rồi dùng nó để mua ngoại tệ. Kinh nghiệm cho thấy tác dụng của quỹ này có hạn. Quỹ này chỉ có tác dụng khi khủng hoảng về ngoại hối ít nghiêm trọng và có 98
- nguồn tín dụng quốc tế hỗ trợ khi cần thiết. Hơn nữa, việc tạo lập được quỹ thì quốc gia phải có tiềm lực kinh tế. 4.2.4.4. Phá giá tiền tệ Là việc hạ thấp sức mua của tiền tệ nước mình so với các ngoại tệ. Phá giá tiền tệ có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, hạn chế nhập khẩu hàng hoá, góp phần cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế do đó làm tỷ giá hối đoái sẽ bớt tăng lên. Đồng thời phá giá tiền tệ khuyến khích nhập khẩu vốn và hạn chế xuất khẩu vốn cũng như chuyển tiền ra nước ngoài, làm tăng cung ngoại hối, giảm cầu về ngoại hối nhờ đó tỷ giá hối đoái giảm xuống. Ngoài ra, phá giá tiền tệ còn khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài. Việc phá giá tiền tệ đối đầu với lạm phát kinh tế ngày càng trầm trọng. 4.2.4.5. Nâng giá tiền tệ Là việc nâng giá đơn vị tiền tệ nước mình so với ngoại tệ. Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ, có tác dụng hạn chế xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu, góp phần để tỷ giá tăng lên. Biện pháp nâng giá tiền tệ thường xảy ra là do áp lực của các nước khác. Các nước này mong muốn cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hoá của nước mình vào các nước có cán cân thương mại và thanh toán dư thừa. Hơn nữa, việc nâng giá đồng nội tệ cũng có thể xuất phát từ tình trạng phải ngăn chặn các ngoại tệ đang bị mất giá chạy vào nước mình. 4.2.5. Tác động của tỷ giá hối đoái đến các quan hệ kinh tế quốc tế 4.2.5.1. Tác động đến hoạt động thương mại quốc tế: Khi tỷ giá đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ tăng tức là sức mua của một đơn vị đồng nội tệ tăng so với ngoại tệ (một đơn vị đồng nội tệ đổi được nhiều ngoại tệ hơn trước thì gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, song lại tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Nguyên nhân là vì khi đồng nội tệ lên giá, giả sử các nhân tố khác không thay đổi, giá cả của hàng hoá sản xuất trong nước tính đổi ra ngoại tệ sẽ trở nên đắt hơn so với trước đây và điều đó làm giảm sút sự cạnh tranh của hàng hoá trong nước trên thị trường thế giới. Trong khi đó, khi đồng nội tệ lên giá, giá cả của hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào sẽ trở nên rẻ hơn trước nếu như các điều kiện khác không thay đổi và điều đó sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ so với ngoại tệ giảm, tức là một đơn vị nội tệ đổi được số ngoại tệ ít hơn, thì hoạt động xuất khẩu sẽ trở nên thuận lợi còn hoạt động nhập khẩu sẽ trở nên khó khăn hơn. 4.2.5.2. Tác động đến hoạt động đầu tư: Khi tỷ giá hối đoái tăng lên sẽ kích thích sự bành trướng ra nước ngoài của các tổ chức độc quyền trong nước (kích thích xuất khẩu tư bản). Việc xuất khẩu các khoản lợi nhuận do đầu tư của nước ngoài đem lại sẽ được tăng cường, các khoản nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ mất giá thì hạn chế bớt, khả năng trả nợ nước ngoài được nhiều hơn. Do vậy, tỷ giá hối đoái tăng sẽ tạo thuận lợi cho việc đầu tư ra nước ngoài và ngược lại, tỷ giá hối đoái giảm sẽ tạo thuận lợi cho việc đầu tư nước ngoài vào trong nước. Câu hỏi tự luận 99
- Câu 3: Thế nào là phá giá tiền tệ và nâng giá tiền tệ? Hiện nay Việt Nam có nên phá giá tiền tệ không? Vì sao? Câu 4: Phân tích vai trò của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. Câu 5: Giả sử sau một năm mức lạm phát ở Việt Nam là 100% trong khi mức lạm phát ở Mỹ chỉ là 5%. Theo lý thuyết ngang giá sức mua thì trong năm đó điều gì sẽ xảy ra đối với tỷ giá giữa đồng đô la Mỹ và VND của Việt Nam? 4.3. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI 4.3.1. Khái niệm thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối là thị trường tiền tệ quốc tế, trong đó một đồng tiền của quốc gia này có thể trao đổi lấy đồng tiền của quốc gia khác. Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra hoạt động mua bán các đồng tiền dựa trên cơ sở cung và cầu ngoại tệ nhằm thoả mãn nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Các trung tâm tiền tệ thực hiện nhiệm vụ của thị trường ngoại hối thường được nối với nhau bằng một hệ thống thông tin thuận tiện. Các cá nhân và pháp nhân tiến hành mua bán các ngoại tệ ở ngân hàng và những người môi giới này lại giao dịch với các ngân hàng và người môi giới khác thông qua các bức điện chuyển tiền. 4.3.2. Các thành viên tham gia thị trường ngoại hối * Các ngân hàng: gồm các Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư. + Các Ngân hàng Trung ương: ở hầu hết các nước, ngân hàng trung ương là người đóng vai trò tổ chức, kiểm soát, điều hành và ổn định sự hoạt động của thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá cả và tỷ giá hối đoái. + Các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư: tham gia chủ yếu vào các hoạt động của thị trường ngoại hối nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh hay cung cấp các dịch vụ cho khách hàng khi thực hiện vai trò môi giới. + Vai trò của các ngân hàng này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, uy tín, mạng lưới chi nhánh ở nước ngoài. * Đối tượng thứ hai tham gia vào thị trường ngoại hối là những người môi giới (Broker). Họ không phải bắt buộc tham gia nhưng với tư cách là những trung gian giữa các ngân hàng, họ đã góp phần tích cực vào thị trường ngoại hối bằng cách làm cho cung và cầu tiếp cận nhau. Do có nhiều mối quan hệ nên họ cung cấp cho ngân hàng các thông tin tức thời về thị trường một cách thường xuyên, đồng thời giúp ngân hàng có khả năng tìm được bạn hàng ngay khi cần thiết. * Bên cạnh đó, từ cuối những năm 1960, vai trò của các công ty xuyên quốc gia trên thị trường ngoại hối tăng lên mạnh mẽ. Các công ty này thi hành chính sách mở rộng các nguồn dự trữ ngoại tệ, giảm bớt nguy cơ thiệt hại do sự mất giá của các nguồn vốn tính bằng các đồng tiền không ổn định, đồng thời tích cực chạy đua vì lợi nhuận trên cơ sở thu chênh lệch tỷ giá. Hiện nay, một số chi nhánh của nhiều công ty xuyên quốc gia có quy mô còn lớn hơn cả một vài ngân hàng cỡ trung bình. * Các doanh nghiệp: chủ yếu là các doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu vì các doanh nghiệp này vừa là chủ thể cầu ngoại tệ vừa là chủ thể cung ngoại tệ trong 100
- các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp này hình thành nên khối lượng mua và bán ngoại hối lớn nhất trên thị trường ngoại hối. * Các cá nhân hay các nhà kinh doanh: bao gồm những công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối khi đầu tư, cho vay, đi công tác hay du lịch ở nước ngoài hoặc khi nhận được các khoản lợi tức đầu tư hay chuyển tiền. 4.3.3. Các chức năng của thị trường ngoại hối - Chuyển đổi sức mua tiền tệ từ một quốc gia này sang quốc gia khác để cung cấp kịp thời các ngoại tệ phục vụ cho chu chuyển thanh toán trong các lĩnh vực thương mại và phi thương mại quốc tế. - Tăng cường các nguồn dự trữ ngoại tệ của các ngân hàng, các công ty và các quốc gia. - Điều chỉnh các tỷ giá hối đoái (tỷ giá thị trường và tỷ giá do Nhà nước quy định) - Bảo hiểm các rủi ro tiền tệ bằng cách duy trì các tư thế tiền tệ thích hợp. - Thu lợi nhuận đầu cơ trên cơ sở chênh lệch tỷ giá, thực hành chính sách tiền tệ phục vụ cho Nhà nước trên lĩnh vực ngoại hối. Với các chức năng cơ bản trên, thị trường ngoại hối góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty quốc gia và quốc tế, các tổ chức và Nhà nước có thể tiếp cận nhanh chóng với các nguồn vốn bằng bất cứ đồng tiền nào và với quy mô nào, đồng thời đảm bảo tính linh hoạt trong thanh toán giữa các quốc gia. 4.3.4. Những tính chất của thị trường ngoại hối - Thị trường ngoại hối là thị trường giao dịch mang tính chất quốc tế, có phạm vi hoạt động quốc tế nhằm phục vụ cho các nhu cầu mua bán, giao dịch về ngoại tệ. Quốc tế hoá yết giá nói riêng và hoạt động của thị trường ngoại hối nói chung nhờ vào sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc, giúp cho các giao dịch ngoại tệ diễn ra liên tục trên các khu vực khác nhau của thế giới. Việc quốc tế hoá các hoạt động của thị trường ngoại hối đòi hỏi phải có những quy định thống nhất về ký hiệu của các đồng tiền đem giao dịch, thống nhất hoá các loại giao dịch mua bán ngoại tệ (giao dịch trả ngay, giao dịch có kỳ hạn, ). - Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục suốt ngày đêm (24h/ngày) trên các khu vực khác nhau của thế giới do sự chênh lệch múi giờ giữa các khu vực địa lý khác nhau. Các giao dịch sở dĩ có thể thực hiện liên tục là nhờ các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như điện thoại, fax, telex, mạng vi tính cung cấp các thông tin không chỉ về giá cả các loại đồng tiền, chỉ số Dow-Jones, Reuters, mà cả các thông tin mới về kinh tế, chính trị có ảnh hưởng đến giá trị của các đồng tiền, khiến cho các giao dịch có thể thực hiện tức thời trên thị trường ngoại hối. - Giá cả hàng hoá của thị trường ngoại hối chính là tỷ giá hối đoái được hình thành một cách hợp lý, linh hoạt dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do vậy, thị trường ngoại hối cực kỳ nhạy cảm, nó chịu ảnh hưởng của các chỉ số kinh tế như tổng sản phẩm xã hội, mức tăng sản xuất công nghiệp, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, do đó mà các nhà kinh doanh ngoại hối cần phải thường xuyên nắm rõ các thông tin này và đưa nó vào tính toán các chiến lược kinh doanh. 101
- 4.3.5. Các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối: 4.3.5.1. Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay (spot transactions) * Khái niệm: nghiệp vụ ngoại hối giao ngay là nghiệp vụ mua hay bán ngoại tệ mà việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện ngay hoặc chậm nhất là sau hai ngày làm việc (trừ ngày nghỉ cuối tuần và ngày nghỉ hàng tuần của các quốc gia tôn giáo vào thứ Sáu như Cô oét và A rập) kể từ khi thỏa thuận hợp đồng mua bán. Nghiệp vụ này diễn ra trên thị trường giao ngay, được thực hiện trên cơ sở tỷ giá giao ngay (spot rate), là tỷ giá được xác định và có giá trị tại thời điểm giao dịch. Tỷ giá giao ngay thường được niêm yết tại các ngân hàng thương mại hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, truyền thanh và truyền hình. * Chi phí giao dịch: Các ngân hàng thường không thu phí giao dịch mà sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua để trang trải chi phí giao dịch, bù đắp rủi ro và thu lợi nhuận. Chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua thường được xác định như sau: Tỷ giá bán – Tỷ giá Chênh lệch (%) mua x = 100 Tỷ giá bán Ví dụ: ta có tỷ giá USD/VND = 20600 – 55 Phí giao dịch = (20655 - 20600)/20655 x 100 = 0,27% * Cơ chế giao dịch: Giả sử, một nhà nhập khẩu Việt Nam cần 10.000 USD để chi trả cho nhà xuất khẩu Mỹ. Sau khi liên hệ một ngân hàng và thỏa thuận tỷ giá ngân hàng, cách thức thanh toán, ngân hàng gửi cho nhà nhập khẩu bản hợp đồng bằng văn bản trong đó ghi rõ lượng ngoại tệ mua, số lượng VND phải chi trả theo tỷ giá thỏa thuận và hình thức thanh toán. Sau đó ngân hàng sẽ liên hệ với ngân hàng đại lý ở Mỹ để thực hiện thanh toán. Đến ngày thanh toán (sau hai ngày làm việc) ngân hàng sẽ ghi Nợ tài khoản nhà nhập khẩu trong khi ngân hàng đại lý ghi Có tài khoản nhà xuất khẩu. Ví dụ: Giả sử tại một ngân hàng có các tỷ giá sau: GBP/USD = 1,4429 – 46; USD/DEM = 1,5966 – 96 Hỏi đối khoản khi một khách hàng mua 10.000 GBP là bao nhiêu? * Rủi ro của giao dịch giao ngay: Rủi ro đối với giao dịch giao ngay nói chung là thấp bởi vì hợp đồng được ký kết cho giao dịch tiến hành ngay (trong vòng 02 ngày). Đối với các giao dịch hối đoái có hai loại rủi ro như sau: Rủi ro tỷ giá: Gây ra do sự biến động của tỷ giá tại thời điểm giao dịch so với tỷ giá tại thời điểm ký kết hợp đồng. Trong giao dịch giao ngay, do khoảng thời gian ngắn nên sự biến động không đáng kể và thường dự đoán được. Rủi ro đối tác: là rủi ro gây ra do bên đối tác mua bán không thực hiện đúng hợp đồng, điều này thường xảy ra do bên đối tác mất khả năng thanh toán. Đối với hợp 102
- đồng giao ngay, khả năng thanh toán của đối tác được xem xét khi ký hợp đồng và thường khó thay đổi lớn trong thời gian ngắn. 4.3.5.2. Nghiệp vụ chuyển hối (arbitrage transactions) * Khái niệm: Đây là nghiệp vụ dựa vào mức chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối để thu lợi nhuận thông qua hoạt động mua và bán. * Phân loại: Căn cứ vào số lượng thị trường tham gia vào quá trình mua bán, nghiệp vụ chuyển hối được chia ra làm 2 loại: - Nghiệp vụ chuyển hối giản đơn (simple arbitration): là nghiệp vụ chuyển hối mà quá trình mua bán ngoại tệ được thực hiện qua 2 thị trường. Ví dụ: Trên thị trường NewYork có niêm yết tỷ giá DEM/USD = 0,6255, trong khi đó ở thị trường Frankfurt niêm yết DEM/USD = 0.6229. Giả sử một nhà kinh doanh có 1.000.000 USD, nhà đầu tư có thể dễ dàng kiếm được lợi nhuận thông qua việc tiến hàn mua và bán đồng thời hai đồng tiền này như sau: + Bán 1.000.000 USD ở thị trường Frankfurt thu được 1.000.000/0.6229 = 1.605.394 DEM + Bán 1.605.394 DEM ở thị trường NewYork được 1.605.394 x 0.6255 = 1.004.174 USD - Nghiệp vụ chuyển hối phức tạp (complicative arbitration): đây là nghiệp vụ chuyển hối mà quá trình mua bán ngoại tệ được tiến hành từ 3 thị trường trở lên. Ví dụ: Trên ba thị trường tại một thời điểm có các niêm yết tỷ giá như sau: Thị trường 1: GBP/DEM = 2,4343 Thị trường 2: DEM/USD = 0,6428 Thị trường 3: GBP/USD = 1,5640 Một nhà đầu tư có thể phát hiện ra có cơ hội để kiếm lợi nhuận Arbitrage từ các yết giá đó và tiến hành các giao dịch như sau: + Bắt đầu bằng 50.000 GBP bán trên thị trường 1, được 12.171.500 DEM. + Bán số DEM trên ở thị trường 2, được 12.171.500 x 0,6428 = 1.823.840 USD + Bán USD vừa có được tại thị trường 3, được 1.823.840/1,5640 = 5.002.455 GBP Như vậy, sau ba giao dịch trên, nhà đầu tư có thể kiếm được 2.455 GBP mà không gặp rủi ro gì vì các giao dịch tiến hành đồng thời. Tuy nhiên, ở hai ví dụ trên chúng ta đã bỏ qua chi phí giao dịch. Lợi nhuận trên chỉ có thể thực hiện được nếu như chi phí giao dịch bằng không. Nếu tính cả chi phí giao dịch thì lợi nhuận chỉ tồn tại khi tổng các chi phí giao dịch nhỏ hơn phần lợi nhuận được tính ở trên. Do vậy, đôi khi chênh lệch trong niêm yết tỷ giá trên các thị trường xảy ra nhưng số chênh lệch nhỏ hơn chi phí giao dịch thì không có cơ hội nào cho lợi nhuận Arbitrage. 4.3.5.3. Nghiệp vụ ngoại hối có kỳ hạn (forward exchange operarions) * Khái niệm: Đây là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định theo tỷ giá thỏa thuận lúc ký kết hợp đồng. Tỷ giá 103
- thỏa thuận ở đây là tỷ giá có kỳ hạn (forward rate), tức là tỷ giá áp dụng cho tương lai nhưng được xác định trước ở hiện tại. Kỳ hạn có thể là số ngày tùy ý do thỏa thuận giữa hai bên như: 17 ngày, 25 ngày, 30 ngày, 60 ngày, Tại thời điểm ký hợp đồng thỏa thuận mua bán, các điều khoản cho giao dịch trong tương lai đã được xác định và đồng ý giữa bên mua và bên bán. Đặc biệt quan trọng là tỷ giá được xác định trước, do vậy đến khi thực hiện hợp đồng, nếu tỷ giá giao ngay tại thời điểm đó khác với tỷ giá đã thỏa thuận trong hợp đồng thì sẽ gây thiệt hại cho một bên và mang lại lợi ích cho bên kia. * Tỷ giá có kỳ hạn (F) Theo lý thuyết cân bằng lãi suất (interest rate parit – IRP) tỷ giá này có thể được xác định nếu dự đoán được sự tác động của lãi suất: F = 1 + id K S x 1 + iy K Trong đó: K = N/ 12 Ký hiệu: F là tỷ giá có kỳ hạn S là tỷ giá giao ngay id là lãi suất cho vay của đồng tiền định giá iy là lãi suất cho vay của đồng tiền định giá K là hệ số thời hạn cho vay trong năm N là thời hạn vay Sự chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn phụ thuộc vào sự biến động của sức mua tiền tệ và tình hình mức lãi suất của nước có các đồng tiền đó. * Rủi ro giao dịch hối đoái kỳ hạn Nói chung, rủi ro giao dịch kỳ hạn lớn hơn rủi ro giao dịch giao ngay vì thời gian giãn cách từ khi ký hợp đồng đến khi thực hiện giao dịch dài hơn. Do vậy: Tỷ giá giao ngay tại thời điểm đến hạn thường chênh lệch so với tỷ giá kỳ hạn đến hạn. Khả năng thanh toán của đối tác có thể thay đổi. Tuy nhiên, giao dịch kỳ hạn vẫn là giao dịch chiếm doanh số rất cao trên thị trường liên ngân hàng quốc tế. Đối tượng tham gia vào thị trường này bao gồm các ngân hàng, các nhà đầu tư, các công ty tham gia để đầu cơ hoặc tự bảo đảm. 4.3.5.4. Nghiệp vụ hoán đổi (SWAP) * Khái niệm: là nghiệp vụ ngoại hối kết hợp giữa 2 nghiệp vụ ngoại hối giao ngay và nghiệp vụ ngoại hối có kỳ hạn để thu lãi, tức là thực hiện việc mua bán ngoại tệ xảy ra đồng thời ở hai thời điểm khác nhau, bán một đồng tiền nào đó ở một thời điểm hiện tại và mua lại chính đồng tiền đó vào một thời điểm xác định trong tương lai hoặc ngược lại. 104
- Ví dụ: Theo kế hoạch, công ty XNK Thăng Long cần 1 triệu USD để thanh toán tiền hàng nhập khẩu trong ngày hôm nay, đồng thời sẽ nhận được 1 triệu USD từ hàng xuất khẩu sau 3 tháng. Công ty quyết định tiến hành giao dịch với VCB như sau: ký một hợp đồng hoán đổi gồm hai vế là “vế mua giao ngay” và “vế bán kỳ hạn” 3 tháng một lượng USD không đổi là 1 triệu USD. Nghiệp vụ này không chỉ tạo ra lợi nhuận mà còn thực hiện việc bảo tồn ngân quỹ và cân bằng trạng thái hối đoái. 4.3.5.5. Nghiệp vụ ngoại hối tương lai (foreign exchange future operations) * Khái niệm: là nghiệp vụ tiến hành một thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai được xác định bởi Sở giao dịch. Tại đây, các hợp đồng mua bán ngoại tệ được ký kết thông qua môi giới. * Đặc điểm: thị trường giao sau thực chất là thị trường có kỳ hạn có tính tiêu chuẩn hóa cao về loại ngoại tệ giao dịch, số lượng ngoại tệ giao dịch và ngày chuyển giao ngoại tệ. Hợp đồng giao sau có tính thanh khoản cao hơn hợp đồng có kỳ hạn vì các bên tham gia hợp đồng có thể bán hợp đồng khi thấy có lời cũng như có thể xóa bỏ hợp đồng nếu như thấy bất lợi. Khi bán hợp đồng hoặc xóa hợp đồng, hai bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch trị giá hợp đồng. Đặc điểm này khiến cho hầu hết các hợp đồng giao sau đều được thanh toán trước ngày hợp đồng đến hạn nên ít bị rủi ro. 4.3.5.6. Nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ (option transactions) * Khái niệm: là một loại giao dịch được thực hiện trên cơ sở hợp đồng quyền chọn mua (call option) hoặc quyền lựa chọn bán (put option) một số lượng ngoại tệ nhất định theo một giá quy định và việc thực hiện hợp đồng sẽ xảy ra trong tương lai. Quyền chọn mua là kiểu hợp đồng quyền chọn cho phép người mua nó có quyền nhưng không bắt buộc mua một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn được xác định trước. Quyền chọn bán là kiểu hợp đồng quyền chọn cho phép người bán nó có quyền nhưng không bắt buộc bán một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn được xác định trước. Cần phân biệt 2 kiểu hợp đồng quyền chọn: - Hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ: cho phép người mua nó có quyền thực hiện hợp đồng ở bất kỳ thời điểm nào trước khi hợp đồng hết hạn. - Hợp đồng quyền chọn theo kiểu châu Âu: chỉ cho phép người mua nó thực hiện hợp đồng khi hợp đồng đã hết hạn. Giá trị của quyền chọn phụ thuộc vào tỷ giá thực hiện, sự chênh lệch lãi suất, thời hạn hợp đồng và thông số biến động tỷ giá mong đợi. Quyền chọn mua, bán ngoại tệ là một công cụ đảm bảo tỷ giá thực sự cho các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư. Người mua quyền chọn phải trả cho người bán một khoản tiền đảm bảo (option money) thông qua đó người mua giành được quyền chọn mua hoặc bán một ngoại tệ nào đó, bên cạnh đó người mua có quyền từ bỏ lựa chọn của mình khi thấy bất lợi. 105
- Ví dụ: quyền chọn bán ngoại tệ Một nhà kinh doanh chứng khoán muốn có sự đảm bảo cam kết của anh ta trong tương lai là tỷ giá giữa USD/DEM là 1,600. Anh ta mua quyền chọn bán, anh ta phải trả một khoản tiền bảo đảm để đổi lấy sự đảm bảo chắc chắn đó với các dữ liệu sau: Thời hạn hợp đồng : 12 tháng Giá cơ sở : 1 USD = 1,600 DEM Tiền bảo đảm : 1% Tỷ giá giao ngay : 1 USD = 1,700 DEM Khi tỷ giá vào thời điểm đến hạn hợp đồng giảm xuống dưới 1,600 nhà kinh doanh này sử dụng quyền bán đã mua để bán USD với giá 1,600. Ngược lại, nếu tỷ giá ở thời điểm đến hạn hợp đồng ở mức cao hơn giá cơ sở thì thực hiện quyền bán USD theo giá thị trường. Trong trường hợp này anh ta chỉ phải bỏ ra chi phí đã cam kết trả cho người bán hợp đồng quyền chọn và đương nhiên anh ta sẽ thu được khoản tiền do chênh lệch tỷ giá sau khi đã trừ đi chi phí. Câu hỏi: Câu 6: Phân tích vai trò và động cơ của các thành viên khi tham gia vào thị trường ngoại hối. Câu 7: So sánh nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn (nghiệp vụ kỳ hạn) với nghiệp vụ quyền chọn. Câu 8: Một công ty XNK Việt Nam đồng thời nhận được tiền xuất khẩu là 3.000.000 CNY và phải thanh toán tiền nhập khẩu là 40.000.000 JPY. Tỷ giá giao ngay hiện hành là: USD/JPY = 115,15/115,25 USD/CNY = 7,7575/85 USD/VND = 16125/16135 Nêu các phương án tính thu nhập của công ty bằng VND. 4.4. CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ (OVERALL BALANCE OF PAYMENT - BP) 4.4.1. Khái niệm và nội dung 4.4.1.1. Khái niệm Theo định nghĩa của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: “cán cân thanh toán quốc tế (BP) là một bảng thống kê cho một thời kỳ nhất định trình bày: + Các luồng trao đổi hàng hoá, dịch vụ và thu nhập giữa nền kinh tế trong nước với thế giới bên ngoài. + Những thay đổi về quyền sở hữu và những thay đổi khác về vàng, quyền vay vốn đặc biệt (SDR) trong nền kinh tế, những khoản có và những khoản nợ nước đó với các nước khác trên thế giới. + Những khoản chuyển tiền không phải bồi hoàn và những khoản thu nhập tương ứng cần phải được cân bằng”. Cán cân thanh toán quốc tế là một bảng kết toán tóm tắt tất cả mọi hoạt động giao dịch kinh tế - tài chính giữa một nước với các nước khác trên thế giới trong một thời 106
- kỳ nhất định. Nó cũng là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nước ngoài trả cho một nước và những khoản tiền mà nước đó trả cho nước ngoài trong một thời gian nhất định. Cán cân thanh toán quốc tế thường được chia thành 2 loại: cán cân thanh toán trong một thời kỳ nhất định và cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định. Cán cân thanh toán trong một thời kỳ nhất định là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền mà nước ngoài thực tế trả và những khoản tiền mà nước mình thực tế đã trả nước ngoài trong một thời kỳ nào đó (tháng, năm). Cán cân thanh toán quốc tế loại này chỉ phản ánh thực tế những khoản tiền đã thu và chi của một nước với nước ngoài trong thời hạn đã qua. Cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định là bảng đối chiếu giữa những khoản tiền đã và sẽ thu và chi vào một thời điểm nào đó (ngày ). Như vậy, tất cả những khoản nợ nước ngoài và khoản nước ngoài nợ mà thời hạn trả tiền rơi đúng vào ngày đó của cán cân thanh toán thì đều được phản ánh vào cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định. Tình hình của cán cân thanh toán loại này phản ánh tình hình thu chi sắp xảy ra của một nước này đối với nước khác, do đó nó là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Cán cân thanh toán quốc tế giữa vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống cán cân của các nước. Tình trạng của nó sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, đến tình hình ngoại hối của các nước và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của một nước, trước hết là đến ngoại thương. Thu vượt chi của cán cân thanh toán quốc tế gọi là dư thừa, chi vượt thu gọi là thiếu hụt cán cân thanh toán quốc tế. Thanh toán cuối cùng khoản thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế thường được thực hiện bằng xuất vàng. Tuy nhiên trong năm, các khoản thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế thường được trang trải bằng tín dụng. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường chừng nào vàng là phương tiện cuối cùng cân bằng cán cân thanh toán quốc tế thì việc xuất siêu vàng trong giai đoạn nào đó được coi là một mặt biểu hiện của tình hình thiếu hụt cán cân thanh toán quốc tế, ngược lại là dư thừa của cán cân thanh toán quốc tế. 4.4.1.2. Các nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng cán cân thanh toán quốc tế * Nguyên tắc ghi nợ và ghi có: ghi có tức là phản ánh số dương trong cán cân thanh toán (phản ánh số lượng ngoại tệ tăng lên) và ghi nợ là phản ánh số âm trong cán cân thanh toán (phản ánh số lượng ngoại tệ giảm xuống). Bên Có (credit) phản ánh các khoản thu tiền từ người nước ngoài, ký hiệu âm (-) trong cán cân thanh toán. Bên Nợ (debit) phản ánh các khoản tiền ra thanh toán cho người nước ngoài, ký hiệu dương (+) trong cán cân thanh toán. Như vậy, xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, quà cáp nhận từ người nước ngoài và vốn đầu tư vào trong nước được phản ánh vào bên Có (+), bởi vì nó liên quan đến việc thu tiền từ người nước ngoài. Mặt khác, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, chuyển quà cáp ra ngoài nước và đầu tư ra bên ngoài được phản ánh vào bên Nợ (-) của cán cân thanh toán vì nó liên quan đến việc thanh toán cho người nước ngoài. Vốn đầu tư vào trong nước (capital inflow) có thể tồn tại dưới hai hình thức: một là, nguồn vốn chạy vào trong nước làm tăng tài sản nước ngoài ở trong nước mình. Ví dụ: công dân Anh mua cổ phiếu ở Việt Nam sẽ làm tăng tài sản của người Anh ở Việt 107
- Nam và nguồn vốn chạy vào Việt Nam này sẽ được ghi vào bên Có (+) của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Hai là, nguồn vốn chạy vào trong nước làm giảm tài sản nước ngoài ở trong nước mình. Ví dụ: công dân Việt Nam bán cổ phiếu ngoại quốc (ví dụ như cổ phiếu công ty Nhật Bản phát hành) cho người nước khác, do đó làm giảm tài sản của Việt Nam ở nước ngoài, thu hồi vốn về trong nước. Nguồn vốn thu hồi này được ghi vào bên Có (+) của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Vốn đầu tư ra bên ngoài (capital outflow) có thể tồn tại dưới hai hình thức: hoặc là, làm tăng tài sản của nước mình ở nước ngoài hoặc là làm giảm tài sản nước ngoài ở trong nước mình, bởi vì nó có liên quan đến việc thanh toán cho người nước ngoài. Nguồn vốn thanh toán này được ghi vào bên Nợ (-) của cán cân thanh toán quốc tế. * Nguyên tắc ghi sổ kép (còn gọi là bút toán kép): mọi giao dịch phát sinh ghi có đều phải được cân bằng lại bằng cách ghi nợ vào một mục khác tương ứng và ngược lại. Do đó, tổng số cân bằng của các hạng mục trong cán cân thanh toán phải bằng 0. VD1: Công ty Vinafood xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, trị giá 1.000.000 USD: Xuất khẩu hàng hoá sẽ được ghi vào bên Có (+), bởi vì nó liên quan đến việc thu tiền thanh toán từ người nước ngoài. Người Mỹ ra lệnh trích tiền từ tài khoản của họ mở ở Việt Nam để trả cho công ty Vinafood, do đó làm cho tài khoản của Mỹ ở Việt Nam giảm 1.000.000 USD. Nguồn vốn của họ chảy ra làm giảm tài sản của Mỹ ở Việt Nam, do đó phải ghi vào bên Nợ (-). Nợ (-) Có (+) Xuất khẩu hàng hoá 1.000.000 USD Nguồn vốn ngắn hạn chạy ra 1.000.000 USD 4.4.1.3. Nội dung của cán cân thanh toán Thông thường có 4 hạng mục thường xuyên trong CCTTQT: - Hạng mục thường xuyên (tài khoản vãng lai hay cán cân thanh toán vãng lai – current balance of payment): ghi lại các luồng chảy của hàng hoá, dịch vụ và chuyển dịch thanh toán giữa một nước với các nước khác. Hạng mục thường xuyên bao gồm: + Xuất nhập khẩu hàng hoá, hay còn gọi là cán cân thương mại (balance of trade). + Du lịch. + Giao thông vận tải và viễn thông bưu điện. + Lợi tức, cổ tức, trái tức và các khoản thu nhập khác phát sinh từ hoạt động đầu tư. + Quà cáp, biếu tặng + Các dịch vụ khác (bảo hiểm ). + Các chi tiêu của Chính phủ ở nước ngoài như chi phí quân sự, ngoại giao, xã hội. + Các khoản tài trợ, viện trợ tài chính của Chính phủ. 108
- - Hạng mục vốn: ghi chép những thay đổi về tài sản của một nước ở nước ngoài và tài sản của nước ngoài ở trong nước trừ các khoản dự trữ chính thức, tức là ghi lại các hoạt động cho vay và đầu tư của các tổ chức và cá nhân. Hạng mục này còn được gọi là cán cân di chuyển vốn và tín dụng (The capital account balance), bao gồm hai giao dịch chủ yếu: + Đầu tư trực tiếp + Hoạt động tín dụng ngắn và dài hạn đầu tư vào thị trường chứng khoán. Cán cân vốn gọi là dư thừa, nếu vốn thu về lớn hơn chi ra (net capital inflow). Ngược lại, vốn chảy ra nhiều hơn vốn thu về thì gọi là cán cân vốn thiếu hụt (net capital outflow). Nếu tổng cán cân thanh toán vãng lai và cán cân vốn và tín dụng là một số dương, thì gọi là cán cân thanh toán dư thừa (surplus), ngược lại, nếu là một số âm, thì gọi là cán cân thanh toán thiếu hụt (deficit). - Hạng mục các nguồn dự trữ chính thức: ghi chép sự thay đổi về tài sản dự trữ chính thức của một nước và sự thay đổi tài sản dự trữ chính thức của các chủ thể nước ngoài ở nước đó. Dự trữ chính thức của một nước bao gồm dự trữ về vàng của các tổ chức tiền tệ chính thức của nước đó, lượng SDR được phân bổ giữa các nước thành viên căn cứ vào mức độ quan trọng của chúng đối với hoạt động thương mại quốc tế, dự trữ của nước đó trong IMF và dự trữ ngoại tệ chính thức của đất nước. Khoản mục dữ trữ chính thức nhằm điều chỉnh các chênh lệch nên thường được gọi là khoản mục của các giao dịch điều chỉnh. Do đó, cân đối tài khoản dự trữ chính thức còn được gọi là cán cân quyết toán chính thức. Cân đối tài khoản dự trữ chính thức cho biết mức độ thâm hụt hoặc thặng dư của cán cân thanh toán dưới chế độ tỷ giá hối đoái cố định. - Hạng mục sai sót thống kê (hạng mục chênh lệch – discrepancy): Quá trình hạch toán cán cân thanh toán thường xảy ra tình trạng giữa các nước có sự khác nhau về hệ thống hạch toán dẫn đến tình trạng sai lệch số liệu. Mặt khác xuất hiện tình trạng bỏ sót các giao dịch trong quá trình hạch toán. Những giao dịch kinh tế ngầm, việc chuyển dịch vốn giữa các nước do buôn lậu, gian lận thương mại hoặc việc mua bán các loại hàng hoá phạm pháp cũng là nguyên nhân làm cho cán cân thanh toán không cân bằng. Do đó, khoản mục sai sót và bỏ sót này sẽ nhằm điều chỉnh các chênh lệch trên. Bảng 4.1: Kết cấu của BP dạng phân tích (tr.USD) Thu Cán cân bộ Cán cân tích Nội dung Chi (-) (+) phận lũy . Xuất khẩu hàng hóa + 150 . Nhập khẩu hàng hóa - 200 Cán cân thương mại -50 -50 . Thu xuất khẩu dịch vụ + 120 . Chi nhập khẩu dịch vụ - 160 Cán cân dịch vụ -40 -90 . Thu từ thu nhập +20 . Chi trả thu nhập -10 109
- Thu nhập +10 -80 . Thu chuyển giao vãng +30 lai -20 . Chi chuyển giao vãng +10 -70 lai Chuyển giao vãng lai . Vốn dài hạn chảy vào +140 . Vốn dài hạn chảy ra -50 Cán cân vốn dài hạn +90 +20 . Vốn ngắn hạn chảy vào +20 . Vốn ngắn hạn chảy ra -55 Cán cân vốn ngắn hạn -35 -15 . NHTW bán ngoại hối +100 . NHTW mua ngoại hối -85 Dự trữ ngoại hối +15 0 Tổng thu (+), chi (-) +580 -580 0 0 4.4.2. Các biện pháp giải quyết tình trạng mất cân bằng cán cân thanh toán a. Vay nợ nước ngoài: ưu điểm của biện pháp này là đơn giản và dễ áp dụng. Nhưng có hạn chế là việc vay nợ nước ngoài không phải luôn thuận lợi trong mọi trường hợp do các điều kiện mà nước chủ nợ đặt ra đối với các nước đi vay, đồng thời dễ dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài nếu không có chiến lược vay và trả nợ rõ ràng cũng như quản lý tốt việc vay nợ. Đây chỉ là biện pháp có tính tạm thời để giải quyết tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán. b. Giảm dự trữ ngoại tệ: Các nước có thể sử dụng biện pháp này một cách chủ động, đơn giản và có thể cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán trong ngắn hạn. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ thích hợp với những nước có dự trữ lớn ngoại tệ, những nước không có lượng ngoại tệ dự trữ lớn thì khó có thể thực hiện biện pháp này. c. Phá giá đồng tiền trong nước: chính phủ tiến hành giảm giá đồng tiền trong nước thông qua việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, từ đó cải thiện cán cân thanh toán. Tuy vậy, biện pháp này cũng có thể dẫn tới tình trạng làm tăng các khoản nợ nước ngoài, gây ảnh hưởng đến quan hệ với các nước và làm tăng lạm phát trong nước do tăng giá hàng nhập khẩu. Việc giảm nhập khẩu quá mức do phá giá còn dẫn tới tình trạng thất nghiệp và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. d. Kiểm soát nhập khẩu: biện pháp này được sử dụng thông qua sử dụng hàng rào thuế quan, hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu hoặc các biện pháp hành chính như: dán tem hàng nhập khẩu, chống nhập khẩu lậu, xử lý hành chính các vi phạm nhập khẩu. Biện pháp này góp phần làm tăng mức độ bảo hộ đối với các nhà sản xuất, khuyến khích tăng sản lượng và thúc đẩy xuất khẩu, thúc đẩy tiêu dùng hàng nội địa. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế như làm giảm mức độ hội nhập của nền kinh tế, đi ngược lại 110
- xu hướng tự do hóa thương mại, tạo tâm lý ỷ lại của các nhà sản xuất và giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Khi lựa chọn áp dụng các biện pháp trên cần có sự cân nhắc thận trọng các tác động cả tích cực lẫn tiêu cực để phù hợp và có lợi nhất cho nền kinh tế. Câu hỏi tự luận Câu 9: Trình bày các nguyên tắc hạch toán trong cán cân thanh toán quốc tế Câu 10: Phân tích các biện pháp giải quyết tình trạng mất cân bằng cán cân thanh toán quốc tế Câu 11: Các nguyên nhân nào dẫn đến sai sót thống kê trong cán cân thanh toán Câu 12: Tình trạng của cán cân thường xuyên nói lên điều gì trong nền kinh tế quốc gia? Hãy trình bày nhận định của anh (chị). TÓM TẮT CHƯƠNG Chương này đề cập đến các vấn đề về hệ thống tiền tệ quốc tế như khái niệm, đặc điểm của mỗi hệ thống và các chế độ tỷ giá hối đoán trong các hệ thống đó. Bên cạnh đó đề cập đến các chế độ tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính bằng tiền tệ của một quốc gia khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau. Tỷ giá hối đoái hai hình thức khác nhau và nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như chênh lệch lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng thu nhập quốc dân, mức chênh lệch lãi suất, những kỳ vọng về tỷ giá hối đoái và sự can thiệp của chính phủ Đồng thời tỷ giá hối đoái cũng tác động tích cực và tiêu cực đối với các hoạt động kinh tế quốc tế. Thị trường ngoại hối là thị trường tiền tệ quốc tế trong đó diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện có giá trị thanh toán như ngoại tệ. Nó thực hiện các chức năng cơ bản như đáp ứng nhu cầu mua bán và trao đổi ngoại tệ, là công cụ để ngân hàng trung ương có thể can thiệp bằng cách mua bán ngoại tệ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái, là công cụ tín dụng cần thiết, cung cấp các công cụ cho các nhà kinh doanh nghiên cứu để phòng ngừa rủi ro hối đoái hoặc thu lợi nhuận trong trao đổi ngoại tệ. Đồng thời nêu lên các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối như nghiệp vụ tỷ giá giao ngay, nghiệp vụ tỷ giá có kỳ hạn, nghiệp vụ chuyển hối, nghiệp vụ hoán đổi, nghiệp vụ ngoại hối tương lai, nghiệp vụ quyền chọn mua bán ngoại tệ Cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia ghi lại một cách có hệ thống toàn bộ các giao dịch thương mại, đầu tư, chuyển giao của quốc gia đó với phần còn lại của thế giới trong thời gian nhất định thường là một năm. HỆ THỐNG CÂU HỎI ÔN TẬP Câu 1: Trình bày các tiêu thức chủ yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế. Câu 2: Chế độ tỷ giá hối đoái trong hệ thống Bretton Woods có những đặc điểm gì? Tại sao đồng đô la Mỹ trở thành đồng tiền dự trữ chủ chốt? Câu 3: Thế nào là phá giá tiền tệ và nâng giá tiền tệ? Hiện nay Việt Nam có nên phá giá tiền tệ không? Vì sao? Câu 4: Phân tích vai trò của tỷ giá hối đoái trong thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. 111
- Câu 5: Giả sử sau một năm mức lạm phát ở Việt Nam là 100% trong khi mức lạm phát ở Mỹ chỉ là 5%. Theo lý thuyết ngang giá sức mua thì trong năm đó điều gì sẽ xảy ra đối với tỷ giá giữa đồng đô la Mỹ và VND của Việt Nam? Câu 6: Phân tích vai trò và động cơ của các thành viên khi tham gia vào thị trường ngoại hối. Câu 7: So sánh nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn (nghiệp vụ kỳ hạn) với nghiệp vụ quyền chọn. Câu 8: Một công ty XNK Việt Nam đồng thời nhận được tiền xuất khẩu là 3.000.000 CNY và phải thanh toán tiền nhập khẩu là 40.000.000 JPY. Tỷ giá giao ngay hiện hành là: USD/JPY = 115,15/115,25 USD/CNY = 7,7575/85 USD/VND = 16125/16135 Nêu các phương án tính thu nhập của công ty bằng VND. Câu 9: Trình bày các nguyên tắc hạch toán trong cán cân thanh toán quốc tế Câu 10: Phân tích các biện pháp giải quyết tình trạng mất cân bằng cán cân thanh toán quốc tế Câu 11: Các nguyên nhân nào dẫn đến sai sót thống kê trong cán cân thanh toán Câu 12: Tình trạng của cán cân thường xuyên nói lên điều gì trong nền kinh tế quốc gia? Hãy trình bày nhận định của anh (chị TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.GS.TS . Đỗ Đức Bình, PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng: Giáo trình Kinh tế quốc tế.NXB Đại học kinh tế quốc dân. Hà nội -2008. 2. PGS.TS. Đỗ Đức Bình, TS. Bùi Anh Tuấn (chủ biên): Kinh tế học quốc tế. NXB Thống kê. Hà nội -2002 3. Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam, Học viện Quan hệ quốc tế 4. Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế, Học viện Quan hệ quốc tế 5. E.Wayne Nafziger: Kinh tế học của các nước đang phát triển. NXB Thống kê. Hà nội -1998. 112
- CHƯƠNG 5. LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ QUỐC TẾ Xin chào các Anh/chị học viên! Chúng tôi rất hân hạnh được gặp các Anh/chị trong môn Kinh tế quốc tế. Chương 5 sẽ nghiên cứu những vấn đề chung về liên kết kinh tế quốc tế và các tổ chức kinh tế quốc tế. Đồng thời, nghiên cứu tổ chức kinh tế khu vực đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam là ASEAN, đánh giá những thuận lợi và khó khăn đối với Việt Nam khi gia nhập ASEAN và tham gia vào AFTA. Chương 5 gồm các nội dung sau: 1. Liên kết kinh tế quốc tế 2. Các tổ chức kinh tế quốc tế 3. ASEAN, AFTA và Việt Nam. Mục tiêu chung Sau khi học xong chương này, học viên sẽ hiểu được những vấn đề về liên kết kinh tế quốc tế; các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Học viên có thể nắm được vai trò, vị trí của các tổ chức kinh tế quốc tế, từ đó hiểu rõ sự cần thiết phải tham gia vào các tổ chức này đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Mục tiêu cụ thể Sau khi học xong Chương 6, Học viên sẽ: - Nắm vững các khái niệm về liên kết kinh tế quốc tế, các tổ chức kinh tế quốc tế. - Hiểu được vai trò, vị trí của các tổ chức kinh tế quốc tế. - Hiểu được tính tất yếu khách quan của Việt Nam phải tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. - Đánh giá được những thuận lợi và khó khăn đối với Việt Nam khi gia nhập ASEAN và tham gia vào AFTA. 5.1. LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ 5.1.1. Khái niệm và đặc trưng của liên kết kinh tế quốc tế 5.1.1.1. Khái niệm Liên kết kinh tế quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hóa có tính chất quốc tế đối với quá trình tái sản xuất giữa các chủ thể kinh tế quốc tế. Đó là sự thành lập một tổ hợp kinh tế quốc tế của một nhóm thành viên nhằm tăng cường phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa các bên tham gia, giảm bớt sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa các bên và thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả về bề rộng và bề sâu. Quá trình liên kết kinh tế quốc tế sẽ dẫn đến việc hình thành một thực thể kinh tế mới ở cấp độ cao hơn với các mối quan hệ kinh tế quốc tế phức tạp và đa dạng. Các bên tham gia liên kết có thể là các quốc gia hoặc là các tổ chức doanh nghiệp thuộc các nước khác nhau. 5.1.1.2. Những đặc trưng của liên kết kinh tế quốc tế Liên kết kinh tế quốc tế là một hình thức phát triển cao của phân công lao động quốc tế. Do sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ, do quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đã làm cho phân công lao động quốc tế phát triển cả về 113
- bề rộng và bề sâu. Đến lượt nó, phân công lao động quốc tế đưa tới việc hình thành một khuôn khổ mới, một hình thức mới cho sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế - đó là liên kết kinh tế quốc tế. Với khuôn khổ mới này, số lượng và cường độ các mối quan hệ kinh tế quốc tế sẽ gia tăng. Ngoài ra trong quá trình liên kết các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành viên cũng sẽ gia tăng và do đó hình thành nên cơ cấu kinh tế mới với các mối quan hệ kinh tế quốc tế mang tính thường xuyên ổn định và được chú ý củng cố để phát triển lâu dài. Liên kết kinh tế quốc tế là sự phối hợp mang tính chất liên quốc gia giữa những nhà nước độc lập có chủ quyền. Do đó nó thường chịu sự điều tiết của các chính sách kinh tế của các chính phủ. Nền kinh tế của các quốc gia nhìn chung không có sự đồng nhất cả về trình độ phát triển cũng như về thể chế và kết cấu kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, liên kết kinh tế quốc tế đưa đến chức năng điều chỉnh và làm xích lại gần nhau giữa các nền kinh tế quốc gia, bổ sung và tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển một cách thuận lợi hơn. Hiện nay, trên thị trường thế giới đang diễn ra sự đấu tranh gay gắt giữa hai xu hướng tự do hoá thương mại và xu hướng bảo hộ mậu dịch. Các hình thức của chủ nghĩa bảo hộ mới ra đời và có nguy cơ gia tăng. Các cuộc chiến tranh kinh tế giữa các trung tâm kinh tế lớn cũng có xu hướng mở rộng. Trong điều kiện đó, liên kết kinh tế quốc tế có vai trò như một giải pháp trung hoà để tạo nên các khu vực thị trường tự do cho các thành viên. Các liên kết kinh tế quốc tế trước hết hướng vào việc tạo lập thị trường quốc tế khu vực, dỡ bỏ dần các hàng rào thuế quan và phi quan thuế giữa các thành viên tạo nên khuôn khổ kinh tế và pháp lý phù hợp để củng cố và phát triển mậu dịch quốc tế và mở rộng thị trường. Liên kết kinh tế quốc tế là một hành động tự nguyện của các thành viên nhằm điều chỉnh và phối hợp các chương trình phát triển kinh tế trên cơ sở những thoả thuận có đi có lại của các thành viên. Sự phát triển mạnh mẽ của các liên kết kinh tế khu vực chứng tỏ cấp độ khu vực hoá của nền kinh tế thế giới đang được gia tăng. Các liên kết này còn là khuôn khổ để cạnh tranh giữa các nhóm nước, bảo vệ và phục vụ cho lợi ích quốc gia và lợi ích khu vực. 5.1.2. Các loại hình liên kết kinh tế quốc tế Liên kết kinh tế quốc tế được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau. Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia, liên kết có thể chia thành liên kết nhỏ và liên kết lớn. Cụ thể là: Liên kết nhỏ (micro integration) là loại hình liên kết của các công ty hay các tập đoàn được tiến hành ở các khâu khác nhau như liên kết trong quá trình nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm chế tạo sản phẩm mới. liên kết trong việc chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất sản phẩm và chi tiết sản phẩm, liên kết trong việc tiêu thụ sản phẩm, quảng cáo và thực hiện các dịch vụ khác. Liên kết lớn (macro integration) là loại hình liên kết của các quốc gia trong đó các chính phủ ký với nhau các hiệp định để tạo nên khuôn khổ chung cho sự phối hợp và điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Tuỳ theo phương thức điều chỉnh của các liên kết người ta có thể phân chia thành liên kết giữa các nhà nước (Interstate) và liên kết siêu nhà nước (Superstate). Liên kết giữa các nhà nước là loại hình liên kết quốc tế mà cơ quan lãnh đạo là đại biểu của các nước thành viên tham gia với những quyền hạn chế, các quyết định của liên kết chỉ có tính chất tham khảo đối với chính phủ của các nước thành viên còn quyết định cuối cùng là tuỳ thuộc vào quan điểm của 114
- mỗi chính phủ. Liên kết siêu nhà nước là loại hình liên kết quốc tế mà cơ quan lãnh đạo chung là đại biểu của các nước thành viên có những quyền rộng lớn, các quyết định của liên kết có tính chất bắt buộc đối với các nước thành viên. Trong liên kết siêu nhà nước việc ra quyết định chung cho cả khối tuân theo nguyên tắc đa số và kèm theo đó là những biện pháp có hiệu lực để buộc các nước thành viên phải thi hành. Các hình thức liên kết kinh tế quốc tế còn được phân chia thành liên kết dọc (các công ty liên kết theo từng giai đoạn, từng loại sản phẩm) hoặc liên kết ngang (các công ty liên kết thành một tổ hợp lớn cùng loại) hoặc là sự kết hợp của hai dạng này. Ví dụ như liên kết giữa các quốc gia để mở rộng thị trường là liên kết ngang. Trong thực tế, hai hình thức liên kết này thường được kết hợp với nhau. Căn cứ vào đối tượng và mục đích của liên kết kinh tế quốc tế có thể phân chia các liên kết ra thành 5 dạng chính như sau: 5.1.2.1. Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area - FTA) Đây là một liên minh quốc tế giữa hai hoặc nhiều nước nhằm mục đích tự do hoá việc buôn bán về một hoặc một số mặt hàng nào đó thông qua việc bãi bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên song các nước thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập đối với các nước ngoài liên minh. Ví dụ như EFTA (European Free Trade Area), NAFTA (Northern America Free Trade Area), AFTA (ASEAN Free Trade Area), 5.1.2.2. Liên minh thuế quan (Customs Union - CU) Khác với khu vực mậu dịch tự do, ngoài nội dung bãi miễn thuế quan và những hạn chế mậu dịch giữa các nước thành viên, trong liên minh thuế quan người ta còn thiết lập một biểu thuế quan chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới. Thí dụ như cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC – European Economic Community) thời kỳ trước năm 1992. 5.1.2.3. Thị trường chung (Common Market - CM) Đây là một liên minh quốc tế áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong việc trao đổi thương mại nhưng đồng thời bãi bỏ các giới hạn về chuyển dịch các yếu tố như lao động, vốn giữa các nước thành viên với nhau và từ đó tạo điều kiện cho việc hình thành một thị trường thống nhất theo nghĩa rộng. Thí dụ như cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC – European Economic Community) từ năm 1992. 5.1.2.4. Liên minh tiền tệ (Monetary Union - MU) Là liên minh quốc tế chủ yếu trong lĩnh vực tiền tệ, các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ với nhau và cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối. Trong liên minh tiền tệ người ta thực hiện thống nhất các giao dịch tiền tệ giữa các thành viên, thống nhất về đồng tiền dự trữ và phát hành đồng tiền tập thể. 5.1.2.5. Liên minh kinh tế (Economic Union - EU) Cho đến giai đoạn hiện nay, đây là hình thức phát triển cao nhất của liên kết kinh tế quốc tế vì nó thực hiện thống nhất và hài hoà các chính sách kinh tế- tài chính- tiền tệ giữa các nước thành viên. Cụ thể là liên minh kinh tế cho phép sự di chuyển hàng hoá, dịch vụ, sức lao động và tư bản một cách tự do giữa các nước thành viên đồng 115
- thời có biểu thuế quan chung với các nước không phải là thành viên. Ví dụ khối đồng minh Benilux là một liên minh kinh tế giữa Bỉ, Hà Lan và Lucxambua kể từ năm 1994. 5.1.3. Tác động kinh tế của liên minh thuế quan 5.1.3.1. Liên minh thuế quan với việc tạo lập mậu dịch Liên minh thuế quan dẫn đến việc tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa quan hệ xuất nhập khẩu của các nước trong liên minh với phần còn lại của thế giới. Lợi ích ròng do liên minh thuế quan tạo lập mậu dịch mang lại bao gồm: - Phúc lợi do kết quả của việc di chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn. - Lợi ích tiêu dùng tăng thêm do giá giảm xuống làm cho người dân có thể mua một khối lượng hàng hoá lớn hơn với mức chi phí thấp hơn. Như vậy, liên minh thuế quan sẽ đưa đến việc tạo lập mậu dịch và từ đó mang lại những lợi ích cho cả người sản xuất và người tiêu dùng của các quốc gia trong liên minh. 5.1.3.2. Liên minh thuế quan trong việc chuyển hướng mậu dịch Chính những điều kiện ưu đãi mậu dịch trong nội bộ liên minh như thay thế việc nhập khẩu những sản phẩm của các quốc gia ngoài liên minh mà có giá cả thấp hơn bằng việc nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn đã đưa đến sự chuyển hướng mậu dịch tạo điều kiện cho buôn bán trong nội bộ liên minh trở nên thuận lợi hơn. Mặc dù việc chuyển hướng mậu dịch đưa đến lợi ích cục bộ trong liên minh nhưng nó lại có thể làm giảm phúc lợi chung của thế giới vì nó cho phép sự di chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu quả cao ở bên ngoài liên minh thuế quan sang các nhà sản xuất kém hiệu quả ở trong liên minh. Các liên minh thuế quan cục bộ sẽ làm giảm phúc lợi chung của thế giới nếu như việc liên minh đưa đến sự khuyến khích các ngành sản xuất kém hiệu quả. Các quốc gia ngoài liên minh sẽ phải hứng chịu những phúc lợi bị giảm này. 5.1.3.3. Các lợi ích khác của liên minh thuế quan Theo lý thuyết chung về thương mại quốc tế, mậu dịch tự do đưa đến việc tối đa hoá phúc lợi của thế giới do các nguồn tài nguyên được sử dụng có hiệu quả nhất. Một liên minh thuế quan loại trừ được hàng rào mậu dịch giữa các quốc gia thành viên mà không làm tăng hàng rào đối với phần còn lại của thế giới là một hành động hướng tới mậu dịch tự do và như vậy nó làm tăng phúc lợi của các nước thành viên và cả các nước không phải là thành viên. Tuy nhiên theo sự phân tích ở trên, một liên minh thuế quan có thể làm tăng hay giảm phúc lợi của các nước thành viên và phần còn lại của thế giới tuỳ thuộc vào tình trạng cụ thể mà liên minh thuế quan tạo ra. Một liên minh thuế quan có thể không làm tăng thêm các hàng rào mậu dịch mà thậm chí còn làm thay đổi tương quan về điều kiện thương mại giữa các nước hoặc nhóm nước với nhau. Liên minh thuế quan được lập ra với mục tiêu tự do hoá thương mại trong nội bộ liên minh nhưng nó lại làm thay đổi cục bộ môi trường kinh doanh quốc tế, trước hết là giữa những nước trong liên minh với các nước ngoài liên minh. Một liên minh thuế quan có thể đạt được một số hiệu quả phúc lợi khác như: 116
- - Tiết kiệm được chi phí quản lý do loại bỏ các biện pháp kiểm tra hành chính ở biên giới, các thủ tục hải quan - Liên minh thuế quan thúc đẩy sự mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên và cải thiện thương mại theo hướng khác nhau nhưng vẫn tạo nên một sự ổn định trong liên minh. - Các liên minh thuế quan sẽ đạt được thuận lợi hơn trong các đàm phán thương mại quốc tế với phần còn lại của thế giới. - Bên cạnh đó, liên minh thuế quan còn đem lại lợi ích trong trạng thái vận động của nó. Đó là những lợi ích do việc thúc đẩy cạnh tranh trên quy mô quốc tế , tạo khả năng đạt được quy mô tối ưu cho từng ngành sản xuất, khuyến khích mở rộng đầu tư của nước ngoài kể cả những quốc gia ngoài liên minh và cho phép sử dụng triệt để và hợp lý hơn các tài nguyên thiên nhiên. Để cho một liên minh thuế quan có nhiều khả năng đạt tới sự gia tăng phúc lợi cho các nước thành viên cần chú ý những điều kiện sau đây: + Liên minh thuế quan bao gồm nhiều quốc gia để đạt tới một quy mô lớn cho liên minh nhằm tạo khả năng thuận lợi cho việc chuyên môn hoá. Các quốc gia thành viên có nhiều khả năng cạnh tranh kinh tế với nhau sẽ đưa lại kết quả tốt hơn là trường hợp các quốc gia bổ sung kinh tế cho nhau. + Các nước thành viên quy tụ với nhau về mặt địa lý để giảm các chi phí vận tải khi tạo lập mậu dịch. + Liên minh thuế quan được thành lập nhằm tạo lập mậu dịch sẽ tốt hơn là chuyển hướng mậu dịch từ các nước không phải là thành viên sang nước thành viên. Sự giảm thấp hàng rào mậu dịch của liên minh thuế quan với phần còn lại của thế giới cũng giúp cho việc đạt tới phúc lợi chung lớn hơn. Câu hỏi tự luận Câu 1: Trình bày tác động tạo lập mậu dịch và chuyển hướng mậu dịch trong liên minh thuế quan Câu 2: Đánh giá tác động của liên kết kinh tế so với thương mại tự do cũng như thương mại có thuế quan. 5.2. CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ QUỐC TẾ 5.2.1. Cơ sở hình thành và phát triển các tổ chức kinh tế quốc tế Tổ chức kinh tế quốc tế là các thiết chế nhằm phối hợp và bảo đảm những hoạt động kinh tế chung và thực hiện những giao tiếp kinh tế qua lại giữa các nước thành viên. Liên kết kinh tế quốc tế là hình thức cao của tổ chức kinh tế quốc tế. Tổ chức kinh tế quốc tế ra đời trên cơ sở những tiền đề nhất định về kinh tế, chính trị và pháp lý. * Tiền đề về kinh tế: Do quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phong phú và đa dạng đưa đến sự phát triển các hình thức hợp tác kinh tế và liên kết kinh tế quốc tế dưới những mức độ khác nhau. Cả hợp tác và liên kết kinh tế quốc tế đều đòi hỏi những thiết chế thích hợp để phối hợp và điều hoà các quan hệ kinh tế quốc tế trong một trật tự ổn định và lâu dài. 117
- Mặt khác do sự bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ làm gia tăng mức độ phức tạp của quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa các quốc gia nên cũng đòi hỏi phải có các tổ chức kinh tế quốc tế để sắp xếp tổ chức và duy trì hoạt động này một cách thống nhất nhằm điều hoà lợi ích giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, do sự khác biệt và sự phân bố không đồng đều giữa các quốc gia về các nguồn lực phát triển như các điều kiện tự nhiên, nguồn vốn, trình độ khoa học và công nghệ nên đòi hỏi phải có những tổ chức quốc tế để phối hợp hoạt động giữa các nước nhằm điều hoà các nhu cầu về vốn, nguyên liệu, thị trường, Các vấn đề có tính chất toàn cầu xuất hiện ngày càng nhiều cũng đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp của tất cả các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu đó. * Tiền đề về chính trị: Do sự ra đời hàng loạt các quốc gia độc lập có chủ quyền, các quốc gia này có khả năng và cần phải hợp tác với nhau để chống lại sức ép từ các nước lớn, phối hợp với nhau để tạo nên môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Mặt khác, quá trình tham gia vào các tổ chức quốc tế sẽ góp phần phát triển các giao lưu về mọi mặt giữa các quốc gia đồng thời tăng cường mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước. Đây chính là cơ sở của chính sách cùng tồn tại hoà bình trong điều kiện thế giới ngày nay. * Tiền đề về pháp lý: Các tổ chức kinh tế quốc tế ra đời là kết quả của việc phát triển các ngành luật quốc tế. Các đạo luật này là công cụ điều tiết các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, đồng thời là phương tiện để đấu tranh cho việc giữ vững chủ quyền của từng quốc gia. 5.2.2. Vai trò của các tổ chức kinh tế quốc tế Các tổ chức kinh tế quốc tế đóng vai trò ngày càng lớn trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới, thể hiện ở những khía cạnh sau: - Tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng, cân đối và có tổ chức giữa các quốc gia, các khu vực trong việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế quốc tế, tạo nên sự trật tự và công bằng hơn, đảm bảo tính tích cực hơn cho các quan hệ kinh tế quốc tế. - Tạo cơ sở cho các nước đang phát triển sau khi thoát khỏi chế độ thuộc địa phối hợp với nhau đạt được những đối thoại tập thể với các nước công nghiệp giàu có nhằm bảo vệ quyền lợi cho họ. - Đảm bảo cơ sở vật chất cho sự cùng tồn tại hoà bình hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau hơn giữa các quốc gia và các dân tộc. - Đảm bảo phối hợp các cố gắng chung trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như vấn đề năng lượng, vấn đề lương thực, vần đề môi sinh, vấn đề bệnh tật của xã hội công nghiệp - Tạo điều kiện xây dựng hệ thống luật quốc tế nói chung và các bộ luật điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước nói riêng. 5.2.3. Đặc điểm của các tổ chức kinh tế quốc tế Những thập kỷ gần đây các tổ chức kinh tế quốc tế có những đặc điểm mới, đó là: - Các tổ chức kinh tế quốc tế mất dần tính khép kín về mặt địa lý, về mặt chính trị và ý thức hệ, về trình độ phát triển. Các quốc gia có xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào các tổ chức kinh tế quốc tế khác nhau, các tổ chức có quy mô toàn cầu ngày càng gia tăng. 118
- - Các tổ chức kinh tế quốc tế ngày càng phong phú và đa dạng về hình thức tổ chức, đồng thời diễn ra sự xâm nhập lẫn nhau giữa các tổ chức cả về thành viên và nội dung hoạt động. - Nội dung hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc tế bao gồm nhiều vấn đề, thường là tập trung vào việc soạn thảo các chương trình phát triển chung, thực hiện các dự báo về kinh tế và khoa học kỹ thuật, trao đổi lập trường quan điểm, phối hợp chính sách phát triển, trao đổi các thông tin về khoa học kỹ thuật, tổ chức các hoạt động tư vấn, đào tạo, xây dựng tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật, phối hợp các kế hoạch về chuyên môn hoá và hợp tác hoá, thực hiện các liên kết. Với các đặc điểm và nội dung hoạt động như trên, các tổ chức kinh tế quốc tế có vai trò ngày càng lớn và tích cực trong việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Do đó có thể kết luận rằng, việc chủ động tham gia tích cực vào hoạt động của các tổ chức kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan vừa là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi quốc gia trong điều kiện thế giới ngày nay. 5.2.4. Một số tổ chức quốc tế tiêu biểu 5.2.4.1. Liên Hợp Quốc (United Nations Organization - UN hay UNO) Trong rất nhiều các tổ chức song phương và đa phương, các hiệp ước và hiệp định đang tồn tại, (thế giới hiện nay có khoảng 4000 tổ chức quốc tế trong đó có 300 tổ chức liên quốc gia) Liên Hợp Quốc là một tổ chức có tính chất toàn cầu lớn nhất thế giới, vì nó tập hợp được số lượng quốc gia tham gia lớn nhất. Quá trình hình thành của UN bắt đầu từ năm 1942 nhưng chính thức thành lập là vào ngày 25/10/1945 sau khi 5 nước thường trực là Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc phê chuẩn Hiến chương Liên Hợp Quốc tại San Fransisco. Số thành viên tính đến tháng 4/2003 là 190 nước. Bằng những hoạt động và quy mô của mình, UN trở thành lực lượng ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với hoạt động đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của mọi quốc gia. * Hệ thống tổ chức Liên hợp quốc bao gồm 6 cơ quan chính: Đại hội đồng (General Assembly) Hội đồng bảo an (Security Council) Hội đồng kinh tế – xã hội (Economic and Social Council – ESC): Hội đồng kinh tế - xã hội có vai trò hết sức quan trọng với 5 uỷ ban khu vực được thành lập nhằm nghiên cứu các vấn đề kinh tế và kỹ thuật của các khu vực khác nhau trên thế giới và đề nghị chương trình hành động nhằm giải quyết vấn đề này. Đó là Uỷ ban kinh tế-xã hội (UBKTXH) của Liên Hợp Quốc về châu Á-Thái Bình Dương (ESCAP), UBKTXH của Liên Hợp Quốc về châu Âu (ESC), UBKTXH của Liên Hợp Quốc về châu Phi (AESC), UBKTXH của Liên Hợp Quốc về châu Mỹ la tinh (ECLA), UBKTXH của Liên Hợp Quốc về Tây Á (WAEC). Hội đồng quản thác (Trusfeesh Council) Toà án quốc tế (International Court of Justice – IC) Ban thư ký (Secretariat) Ngoài ra còn có 17 tổ chức chuyên môn và tự trị, 16 tổ chức kinh tế – xã hội khu vực thuộc UN. * Mục đích hoạt động của UN: 119