Giáo trình Vật lý nguyên tử và hạt nhân
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Vật lý nguyên tử và hạt nhân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_trinh_vat_ly_nguyen_tu_va_hat_nhan.pdf
Nội dung text: Giáo trình Vật lý nguyên tử và hạt nhân
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH. TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ - 2003
- LỜI NÓI ĐẦU Vật lý nguyên tử và hạt nhân là học phần nằm trong chương trình đào tạo cho sinh viên ngành vật lý của các trường Đại học Sư phạm. Học phần này gắn liền với những thành tựu rực rỡ và ứng dụïng to lớn của ngành Vật lý nguyên tử và Hạt nhân đối với cuộc sống của con người, đối với các lĩnh vực kinh tế và khoa học, kỹ thuật hiện đại khác. Giáo trình này gồm hai phần: Vật lý nguyên tử và Vật lý hạt nhân. Phần Vật lý nguyên tử cung cấp cho sinh viên các kiến thức cơ bản về các mẫu nguyên tử theo lý thuyết cổ điển, cơ sở của lý thuyết lượng tử để nghiên cứu cấu trúc nguyên tử; liên kết nguyên tử trong phân tử và những ảnh hưởng bên ngoài lên nguyên tử bức xạ. Phần Vật lý hạt nhân trình bày những vấn đề cơ bản về các đặc trưng của hạt nhân, các mẫu cấu trúc hạt nhân, sự phân rã phóng xạ, các phản ứng hạt nhân, năng lượng hạt nhân và một số vấn đề về các hạt cơ bản. Giáo trình này là tài liệu tham khảo cho sinh viên các trường đại học sư phạm và sinh viên của các trường Đại học, Cao đẳng khác. Mặc dù đã cố gắng và nghiêm túc với công việc biên soạn, nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong các bạn đọc lượng thứ và đóng góp nhiều ý kiến cho nội dung giáo trình, để giáo trình ngày càng được hoàn chỉnh hơn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp đã đóng góp cho nội dung của bản thảo và xin cảm ơn Ban Ấn Bản Phát hành của Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện giúp đỡ cho giáo trình này sớm ra mắt bạn đọc. CÁC TÁC GIẢ
- PHẦN THỨ NHẤT VẬT LÝ NGUYÊN TỬ Chương I CÁC MẪU NGUYÊN TỬ THEO LÝ THUYẾT CỔ ĐIỂN Vào những năm cuối của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các khám phá về tia phóng xạ và Electron trong nguyên tử phát ra ngoài đã làm đảo lộn toàn bộ ý niệm cho rằng nguyên tử là phần tử vật chất nguyên vẹn nhỏ nhất không phân chia được. Sự xuất hiện của tia phóng xạ và electron chứng tỏ kích thước của nguyên tử chưa phải là giới hạn nhỏ bé nhất. Bên trong nguyên tử còn chứa đựng nhiều hạt có kích thước còn nhỏ bé hơn. Những hạt ấy liên kết với nhau tạo nên cấu trúc phức tạp bên trong nguyên tử. Cho đến nay khoa học đã đi đến những kết luận chính xác về cấu trúc nguyên tử nhưng chưa phải đã hiểu hết các chi tiết của nó. Do vậy chúng ta chỉ đề cập đến những quy luật cơ bản nhận biết được qua thực nghiệm về cấu trúc nguyên tử để xây dựng các mô hình nguyên tử. Chúng ta bắt đầu xét các mẫu nguyên tử từ đơn giản đến phức tạp theo lý thuyết cổ điển và bán cổ điển. §1. MẪU NGUYÊN TỬ TOMXƠN (THOMSON). Ý niệm về mẫu nguyên tử được V. Tomxơn đề xuất lần đầu tiên vào năm 1902. Sau đó ít lâu, vào năm 1904 J. Tomxơn đã xây dựng lý thuyết về mẫu nguyên tử dựa trên ý tưởng của V. Tomxơn. Theo J. Tomxơn quan niệm thì nguyên tử có dạng hình cầu nhiễm điện dương đều khắp với bán kính cỡ 10 -8 cm. Các electron có kích thước nhỏ hơn kích thước nguyên tử rất nhiều, được phân bố theo các quy luật xác định trong khối cầu tích điện dương ấy. Mặt khác electron có thể chuyển động trong phạm vi kích thước của nguyên tử. Về phương diện điện thì tổng trị số điện tích âm của các electron bằng và ngược dấu với khối cầu nhiễm điện dương. Do vậy nguyên tử là một hệ thống trung hòa về điện tích. Hình 1.1 Mẫu nguyên tử Tômxơn Ví dụ: Nguyên tử Hydrô là nguyên tử đơn giản nhất thì khối cầu tích điện dương (+e) còn electron tích điện âm (-e). Nếu electron ở vị trí cách trung tâm nguyên tử một khoảng r, trong khi đó bán kính của nguyên tử là R lớn hơn khoảng cách r. Khi đó electron sẽ chịu tác
- dụng của lực tương tác tĩnh điện Culon từ phía khối cầu nằm trọn trong vùng giới hạn bởi bán kính r. Löïc töông taùc naøy höôùng veà taâm caàu coù trò soá baèng: e. e′ e2 F = K r2 = K r2 = f.r 1 trong đó k = là hệ số tỷ lệ trong hệ đơn vị SI và K = 1 trong hệ đơn vị CGS. Trị số e’ 4πε0 = ⏐e⏐. Tại tâm nguyên tử (r = 0) electron ở trạng thái cân bằng (F = 0), khi lệch khỏi vị trí cân bằng (r ≠ 0) electron sẽ thực hiện dao động điều hòa quanh vị trí cân bằng dưới tác dụng của lực giả đàn hồi (f.r) với f là hệ số đàn hồi. Do đó electron đóng vai trò như một dao động tử điều hòa khi dao động quanh vị trí cân bằng sẽ bức xạ sóng điện từ với tần số: 1 F ν = với m là khối lượng của electron. 2π M Với giá trị r = 10 -8 cm thì tần số bức xạ ν nằm trong vùng ánh sáng nhìn thấy. Nếu trong nguyên tử phức tạp chứa Z electron thì các vị trí cân bằng r0 sẽ ứng với vị trí cân bằng giữa lực hút tĩnh điện của electron bất kỳ nào đó vào tâm của khối cầu nhiễm điện dương và lực tương tác đẩy lẫn nhau của các electron còn lại của nguyên tử. Dựa vào mẫu nguyên tử, Tomxơn tính toán đối với nguyên tử Hydrô bức xạ năng lượng điện từ có bước sóng trong vùng có trị số cỡ λ = 0,6 (m thì kích thước của nguyên tử bằng: R = 3.10 -8 cm Kết quả này phù hợp với kết quả cho được từ các lý thuyết khác, điều đó chứng tỏ sự đúng đắn của mẫu nguyên tử Tomxơn. Ngày nay mẫu nguyên tử Tomxơn được xem như một biểu tượng về nguyên tử mang ý nghĩa lịch sử nhiều hơn là ý nghĩa vật lý vì nó quá đơn giản không đủ khả năng giải thích những tính chất phức tạp của quang phổ bức xạ của nguyên tử Hydrô và các nguyên tử phức tạp khác. §2. MẪU NGUYÊN TỬ RƠDEPHO (RUTHERFORD). Khi nghiên cứu các hiện tượng xuyên thấu qua các lớp vật liệu của các hạt mang điện tích chuyển động với năng lượng lớn đã làm thay đổi quan niệm về cấu trúc của nguyên tử. Năm 1903 Lenard nhận thấy các chùm hạt β năng lượng cao dễ dàng xuyên qua các lá kim loại dát mỏng. Điều đó chứng tỏ phần nhiễm điện dương trong khối cầu nguyên tử không thể phân bố đều trong toàn bộ nguyên tử mà chỉ định xứ ở một vùng có kích thước nhỏ hơn rất nhiều so với R = 10 -8 cm. Những nhận xét của Lenard được Rơdepho khẳng định bằng những thí nghiệm về hiện tượng tán xạ hạt α lên lá kim loại vàng dát mỏng trong những năm (1908 – 1910). 4 Tia α chính là chùm hạt nhân ( 2He ) mang điện tích (+2e) phát ra từ các nguồn phóng xạ với vận tốc khá lớn.
- Ví dụ: Chất phóng xạ RaC cho các hạt α phóng xạ với vận tốc v ≈ 2. 109 cm/s tương ứng với động năng E ≈ 7. 106 eV. Nếu hướng chùm hạt α bay trong chân không từ nguoàn phoùng xaï N qua qua khe heïp cuûa boä loïc L höôùng thaúng vaøo laù kim loaïi vaøng daùt moûng V. ÔÛ phía sau laù vaøng daùt moûng ñaët kính aûnh K thì nôi naøo coù haït α ñaäp vaøo kính aûnh seõ ñeå laïi veát ñen thaãm so vôùi nhöõng choã không có hạt α đập vào. Kết quả thí nghiệm cho thấy dấu vết các hạt α để lại trên kính ảnh không phải là một đốm đen mà là một vùng lấm tấm hình tròn. Hiện tượng này phản ánh sự tán xạ của chùm hạt α khi xuyên qua lá vàng mỏng. Rơdepho khảo sát hiện tượng tán xạ của chùm hạt α khi xuyên qua lá vàng mỏng và đã nhận thấy các hạt α bị tán xạ dưới nhiều góc độ khác nhau từ θ= 00 cho tới θ =1800 Đối với những hạt α bị tán xạ dưới góc độ lớn θ =1800 không thể giải thích được nếu dựa vào mẫu nguyên tử Tomxơn. Do vậy, Rơdepho buộc phải đưa ra giả thuyết mới về cấu tạo nguyên tử. Năm 1911 Rơdepho đã giả thiết là trong nnguyên tử có một trung tâm tích điện dương và hầu như tập trung toàn bộ khối lượng của nguyên tử có bán kính nhỏ hơn bán kính nguyên tử gấp nhiều lần gọi là hạt nhân nguyên tử. Kích thước của nguyên tử xác định bởi khoảng cách từ tâm là hạt nhân cho đến các electron phân bố xung quanh hạt nhân. Như vậy mẫu nguyên tử Rơdepho hoàn toàn khác so với mẫu nguyên tử Tomxơn. Để khẳng định giả thuyết về mẫu nguyên tử này Rơdepho đã xây dựng lý thuyết tán xạ hạt α lên hạt nhân nguyên tử và kiểm nghiệm lại bằng thực nghiệm. Nội dung chính của lý thuyết tán xạ hạt α lên hạt nhân nguyên tử là khảo sát định lượng sự phân bố của các hạt α bị tán xạ theo góc tán xạ θ và đối chiếu với kết quả thực nghiệm. Theo lý thuyết tán xạ hạt α lên hạt nhân mang điện tích dương do Rơdepho đề xuất thì: Hạt α với khối lượng m mang điện tích (+2e) bay với vận tốc v thâm nhập vào vùng tác dụng của trường lực Culon của hạt nhân mang điện tích dương (+Ze) gây ra. Nếu giả sử hạt nhân (+Ze) đứng yên và hạt α bay tới gần hạt nhân sẽ bị lực đẩy của hạt nhân nên quỹ đạo bay của hạt ( có dạng là một nhánh của Hyperbon. (Hình vẽ). α ∆P P θ ∆P α F n 2 +2e θ N α α θ θ 2 α F P0 r b α ϕ θ α α +Ze Hình 1.3. Minh hoïa lyù thuyeát taùn xaï haït α leân haït nhaân
- Lực tương tác đẩy tĩnh điện Culon bằng: (+Ze)(+2e) 2Ze2 F = K r2 = K r2 trong đó K là hệ số tỷ lệ, r là bán kính tương tác giữa hạt nhân (+Ze) và hạt anpha (+2e). Trên hình vẽ minh họa cho lý thuyết tán xạ hạt αlên hạt nhân trong trường hợp hạtα bay ngang qua cách hạt nhân một khoảng b gọi là khoảng nhằm. Nếu hạt α bay với khoảng nhằm b nhỏ sẽ chịu lực đẩy tĩnh điện Culon của hạt nhân mạnh làm cho góc tán xạ θ lớn, ngược lại khi bay với khoảng nhằm b lớn sẽ chịu lực đẩy tĩnh điện Culon từ hạt nhân yếu làm cho góc tán xạ θ nhỏ. Như vậy giữa góc tán xạ θ và khoảng chằm b có quan hệ tỷ lệ nghịch. Chúng ta có thể thiết lập quan hệ giữa b và θ dựa trên định luật bảo toàn động lượng và mômen động lượng đối với trường lực xuyên tâm trong quá trình tán xạ của hạt anpha (+2e) lên hạt nhân tích điện d ương (+Ze). Gọi P0 = mv là động lượng ban đầu của hạt α bay tới hạt nhân (trước lúc tán xạ), sau khi tán xạ trên hạt nhân theo kiểu va chạm đàn hồi giữa hạt α và hạt nhân nên động lượng hạt anpha là p = mv . Keát quaû cuûa quaù trình taùn xaï laøm xuaát hieän soá gia veùc tô ñoäng löôïng giöõa veùc tơ ban đầu P0 = mv và véc tơ sau khi tán xạ P = mv (Xem hình vẽ minh họa). Trị số của véc tơ số gia động lượng bằng: → θ θ ⏐∆p⏐ = 2 p sin = 2mv sin 0 2 2 Mặt khác theo định lý về xung lượng ta có: t → ⌠ ⏐∆p⏐ ⎮ F dt = ⎮ n ⌡ 0 Trong đó Fn = F. cosα là hình chiếu của lực tương tác đẩ y tĩnh điện của hạt nhân (+Ze) lên hạt α (+2e) lên phương của véctơ số gia động lượng ∆p . Từ hình vẽ cho thấy πθ⎛⎞ α =−⎜⎟ +ϕ nên do đó: 22⎝⎠ ⎛θ ⎞ F = Fcosα = F.sin ⎜ + ϕ ⎟ n ⎝2 ⎠ dϕ dϕ 2Ze2 biểu diễn: ϕ = hay dt = và Fk= dt ϕ r 2 → ⎛⎞θ πθ− sin ⎜⎟+ϕ 2 Ta có: ∆p⏐= 2Ze2 ⎝⎠ dϕ ∫ 2 0 r .ϕ Cận tích phân lấy từ φ = 0 ứng với hạt α bay lên từ bên trái bị tán xạ theo một nhánh Hyperbon đi ra xa vô cùng men theo đường tiệm cận ứng với góc φ = (π - θ). Do tương tác giữa hạt α với hạt nhân trong trường lực xuyên tâm nên mômen động lượng bảo toàn: L = mv.b = mϕ.r2 = const
- Suy ra: v.b = ϕ.r2. Do đó ta có: π - θ 2 2 → 2Ze ⌠ ⎛θ ⎞ 2Ze θ = ⎮sin ⎜ + ϕ⎟ dϕ = 2cos ⏐∆p⏐ v.b ⌡ ⎝2 ⎠ v.b 2 0 Đồng nhất hai biểu thức: → → θ 2Ze2 θ ∆pmv⏐= 2.sin và ∆p⏐= 2cos ta có: 2 vb.2 θ 2Ze2 θ 2mv.sin 2 = v.b 2cos 2 Suy ra kết quả: θ mv2 cotg 2 = 2Ze2 b θ Hàm cot g là hàm nghịch biến, vậy khi b giảm thì θ tăng và ngược lại khi b tăng thì 2 θ giảm. Kết quả ban đầu này đã phản ánh quá trình tán xạ của một hạt α lên một hạt nhân khá phù hợp với dự báo. Trong thực tế chùm hạt α gồm nhiều hạt bay tới bị nhiều hạt nhân trong lá kim loại gây tán xạ, do vậy việc giả thiết một hạt α bị một hạt nhân gây tán xạ chỉ là trường hợp đơn giản hóa vấn đề để xem xét ban đầu. Bây giờ ta xét cả chùm hạt α bay tới lá kim loại. Ta giả thiết các hạt α trong chùm hạt bay song song và cách đều nhau. Chùm hạt α có tiết diện ngang là S. Những hạt α nào bay theo khoảng nhằm b tới hạt nhân sẽ bị tán xạ dưới góc θ, còn những hạt α nào bay theo khoảng nhằm (b - db) sẽ bị tán xạ dưới góc lớn hơn (θ + dθ). Au Trong thực nghiệm không thể xác định được từng hạt α bị hạt nhân dθ gây tán xạ nhưng xác suất hạt α bị α tán xạ hoàn toàn có thể xác định θ được. Xác suất hạt α bị tán xạ trên b một hạt nhân là tỷ số giữa diện tích của hình vành khăn bao quanh hạt db nhân: dS = 2π.b.db và tiết diện S của chùm hạt α vì những hạt α; nào tiến đến gần hạt nhân trong lá kim dS = 2πbdb loại vàng Au Hình 1.4 (hình 1.4) trong vùng khoảng nhằm b biến thiên từ b đến (b + db) sẽ rơi vào diện tích hình vành khăn dS = 2π.b.db là vùng bị hạt nhân tán xạ. Còn những hạt α nằm trong tiết diện
- ngang S của chùm α ngoài giới hạn của diện tích hình vành khăn dS = 2π.b.db sẽ không bị tán xạ mạnh như trong vùng diện tích hình vành khăn đang xét. Do vậy, xác suất số hạt α bị 2 π bdb một hạt nhân gây tán xạ là: . Nếu có n hạt nhân gây tán xạ thì xác suất sẽ bằng: S 2π.b.db dW = S N.S.δ (1.1) Trong đó: - N là mật độ nguyên tử trong lá kim loại vàng gây tán xạ (là số nguyên tử chứa trong n một đơn vị thể tích lá kim loại N = ). V - δ là bề dày lá kim loại. - S là tiết diện chùm hạt α phủ lên bề mặt lá kim loại. Kết quả ta có: dW = 2π.b.db.N.δ θ mv2 Từ biểu thức: cot g = b 22Ze2 − 1 dθ mv2 suy ra: = 2 db ⎛θ⎞ 2 2Ze sin2 ⎜ ⎟ ⎝2⎠ Thay thế vào biểu thức (1.1) ta có: 2 ⎛2Ze2⎞ θ dθ dW = N.δ. ⎜ 2 ⎟ 2π cotg ⎝ mv ⎠ 2 ⎛θ⎞ 2sin2 ⎜ ⎟ ⎝2⎠ Để tiện tính toán ta có thể biểu diễn hệ thức: θ θ θ cotg cos sin 2 2 2 sin θ = = ⎛θ⎞ ⎛θ⎞ ⎛θ⎞ sin2 ⎜ ⎟ sin4 ⎜ ⎟ 2sin4 ⎜ ⎟ ⎝2⎠ ⎝2⎠ ⎝2⎠ Suy ra: 2 2 ⎛2Ze2⎞ 2π.sinθ.dθ ⎛Ze2 ⎞ dΩ dW = N.δ. ⎜ 2 ⎟ = N.δ. ⎜ 2⎟ ⎝ mv ⎠ ⎛θ⎞ ⎝mv ⎠ ⎛θ⎞ sin4 ⎜ ⎟ sin4 ⎜ ⎟ ⎝2⎠ ⎝2⎠ trong đó dΩ = 2 π.sinθ.dθ là góc khối bao lấy góc tán xạ của chùm hạt α từ góc độ θ đến (θ + dθ). Công thức này gọi là công thức Rơdepho đối với quá trình tán xạ của chùm hạt α lên lá kim loại. Công thức này là kết quả của lý thuyết tán xạ hạt α lên các hạt nhân nguyên tử trong lá kim loại. Năm 1913, công thức Rơdepho đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Như vậy giả thiết về sự tồn tại của hạt nhân trong nguyên tử hoàn toàn có thể chấp nhận.
- Dựa vào mô hình nguyên tử có hạt nhân người ta đã tiến hành xác định bán kính tương tác ngắn nhất giữa hạt nhân và hạt α khi hạt α bay trực diện vào hạt nhân. Bán kính tương tác ngắn nhất được xác định: m v2 (+2e).(+Ze) 2Ze2 α = K = K 2 rmin rmin Từ đó nhận được kết quả rmin đối với một số kim loại có giá trị vào cỡ rmin ≈ 1,13. 10 -13 cm. Từ kết quả này cho phép suy đoán sơ bộ kích thước của hạt nhân nguyên tử. Như vậy nếu kích thước nguyên tử vào cỡ 10 -8 cm thì kích thước của hạt nhân vào cỡ 10 -13 cm, tức là bán kính hạt nhân nhỏ hơn bán kính nguyên tử khoảng 5 bậc. Dựa vào công thức Rơdepho và đo đạc bằng thực nghiệm đối với số hạt α bị tán xạ dưới nhiều góc độ khác nhau (quan sát dưới kính hiển vi các dấu vết của hạt α để lại trên màn cảm quang) người ta đã xác định giá trị của Z đúng bằng số electron có mặt trong thành phần của các nguyên tử trung hòa và hoàn toàn trùng khớp với số thứ tự của nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleép. Theo mẫu nguyên tử có hạt nhân các electron phân bố trong không gian bao quanh hạt nhân. Kích thước cấu hình của các electron bao quanh hạt nhân đặc trưng cho kích thước của nguyên tử. Theo lý thuyết điện động lực học Irnsoi thì một hệ gồm các electron mang điện tích âm và hạt nhân mang điện tích dương có trị số bằng nhau không thể tồn tại trong một hệ cân bằng tĩnh tại mà chỉ có thể tồn tại dưới dạng cân bằng động. Vận dụng lý thuyết này Rơdepho đã “bắt” các electron phải chuyển động quanh hạt nhân theo các quỹ đạo khép kín theo kiểu tương tự như các hành tinh chuyển động quanh mặt trời. Vì vậy, mẫu nguyên tử chứa hạt nhân của Rơdepho được gọi là mẫu hành tinh nguyên tử. Để cho hệ nguyên tử bền vững về mặt cơ học thì khi các electron chuyển động trên quỹ đạo tròn với bán kính R và vận tốc v phải đảm bảo sao cho các lực ly tâm quán tính của electron cân bằng với lực hút tĩnh điện Culon của hạt nhân: mv2 Ze2 R = K R2 Mặt khác năng lượng liên kết giữa electron và hạt nhân trong nguyên tử bao gồm động năng và thế năng tương tác giữa electron và hạt nhân: mv2 Ze2 E = Eñ + Et = 2 − K R Để đơn giản ta giả thiết hạt nhân nguyên tử hầu như đứng yên, chỉ có electron quay quanh hạt nhân. Từ biểu thức trên ta suy ra: mv2 Ze2 2 = K 2R Thế vào biểu thức năng lượng liên kết ta có: Ze2 Ze2 Ze2 E = K 2R − K R = − K 2R 1 trong đó K là hệ số tỷ lệ ( K = trong hệ đơn vị SI hay K=1 trong hệ đơn vị CGS); còn 4πε 0 e là điện tích của electron.
- Nhưng theo quan điểm điện động lực học thì một hệ như vậy không thể tồn tại bền vững vì khi electron chuyển động quanh hạt nhân tương đương như một dòng điện tròn khép kín có mômen lưỡng cực điện và mômen từ. Mômen lưỡng cực điện của nguyên tử I sẽ quay theo kiểu như mômen động lượng của con vụ quay trong trường lực hấp dẫn của quả đất xung quanh trục thẳng đứng vuông góc với mặt đất. Khi mômen lưỡng cực điện I quay sẽ biến thiên tuần hoàn theo thời gian, bức xạ sóng điện từ nên năng lượng liên kết E sẽ bị giảm dần, kéo theo làm cho bán kính quỹ đạo của electron giảm dần. Cuối cùng thì electron sẽ rơi vào hạt nhân nguyên tử. Như vậy nguyên tử không tồn tại bền vững; điều này hoàn toàn mâu thuẫn với thực tế. Nguyên tử là hệ tồn tại bền vững nhưng theo mẫu nguyên tử Rơdepho thì không bền vững. Như vậy ý tưởng xây dựng mẫu nguyên tử theo kiểu cơ học thiên thể không thành công. Nhìn lại hai mẫu nguyên tử Tomxơn và Rơdepho, ta nhận thấy có những mặt được và mặt chưa được. Trong mẫu nguyên tử Tomxơn bắt các electron “bơi” trong quả cầu nhiễm điện dương, còn trong mẫu nguyên tử Rơdepho bắt các electron “quay quanh” hạt nhân đều không hợp lý. Như vậy chứng tỏ không thể áp dụng rập khuôn cơ học cổ điển cho thế giới nguyên tử. Muốn thoát khỏi những bế tắc này chỉ có cách phải từ bỏ các phương pháp truyền thống của vật lý học cổ điển, sáng tạo ra lý thuyết mới. N.Bohr là người đã đi theo hướng tìm kiếm lý thuyết mới cho thế giới vi mô – thế giới nguyên tử. Những hạn chế của mẫu nguyên tử Rơdepho được khắc phục trong mẫu nguyên tử N. Bohr. §3. MẪU NGUYÊN TỬ N. BOHR. Năm 1913 N. Bohr đã xây dựng mẫu nguyên tử Hydrô là nguyên tử đơn giản nhất. Để xây dựng mẫu nguyên tử mới này N. Bohr đã sử dụng những kết quả của quang phổ bức xạ nguyên tử Hydrô, vận dụng ý tưởng lượng tử của thuyết Plank và thuyết photon ánh sáng của Anhstanh. I. TÍNH QUY LUẬT CỦA QUANG PHỔ NGUYÊN TỬ HYDRÔ. Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, khi nghiên cứu quang phổ người ta nhận thấy các bước sóng trong phổ nguyên tử hợp thành những dãy vạch xác định gián đoạn gọi là dãy phổ. Năm 1885 Banme (Balmer) là một nhà toán học Thụy Sĩ đã thiết lập được biểu thức mô tả các vạch trong dãy quang phổ bức xạ của nguyên tử Hydrô trong vùng ánh sáng nhìn thấy. Dãy quang phổ này mang tên dãy quang phổ Banme. Trong dãy quang phổ Banme vạch có 0 bước sóng dài nhất và rõ nhất λ = 6564 A được ký hiệu là Hα , vạch tiếp thép ký hiệu là Hβ , với bước sóng λ=4863 A0. Theo chiều giảm của bước sóng các vạch phổ càng bố trí sát vào nhau và cường độ sáng yếu dần cho đến một vạch giới hạn mà từ đó không còn phân biệt được các vạch riêng lẻ nữa mà chỉ thấy một dãy mờ liên tục. Công thức Banme cho dãy quang phổ Hydrô trong vùng nhìn thấy được biểu diễn bằng công thức: 1 ⎛ 1 1 ⎞ ν = = R ⎜ 2 - 2⎟ λ ⎝2 n ⎠ Trong đó: * ν gọi là số sóng – là số bước sóng trên một đơn vị độ dài; n = 1, 2, 3, 4, là các số nguyên tự nhiên * R là hằng số Ritbe (R = 1,096776. 107 m-1 )
- Từ công thức này, tính được giá trị của vạch đầu tiên Hα ứng với n = 3, vạch thứ hai Hβ ứng với n = 4, vạch thứ ba Hγ ứng với n = 5, vạch thứ tư Hδ ứng với n = 6 và vạch giới hạn (vạch ranh giới) H ∞ ứng với n →∞ . Tất cả những giá trị tính toán theo công thức Banme phù hợp tốt với các kết quả thực nghiệm Các dãy quang phổ bức xạ của nguyên tử Hydrô được minh họa ở hình 1.5. Ngoài dãy Banme, người ta còn tìm thấy các dãy quang phổ khác trong Hα Hβ Hγ vùng hồng ngoại và tử ngoại cũng có Vuøng ν Vuøng töû ngoaïi quy luật tương tự. hoàng Vuøng nhìn thaáy ngoaïi Hình 1.5 Trong vùng tử ngoại có dãy Lyman với các số sóng: 111⎛⎞ vR==⎜⎟22 − với n = 2, 3, 4, ∞ λ ⎝⎠1 n Trong vùng hồng ngoại có các dãy quang phổ: 111⎛⎞ - Pasen: vR==⎜⎟22 − với n = 4, 5, 6, ∞ λ ⎝⎠3 n 111⎛⎞ - Brakét: vR==⎜⎟22 − với n = 5, 6, 7, ∞ λ ⎝⎠4 n 111⎛⎞ - Phundơ: vR==⎜⎟22 − với n = 6, 7, 8, ∞ λ ⎝⎠5 n Hợp nhất các công thức trên thành một dạng chung được gọi là công thức Banme tổng quát: 111⎛⎞ vR==⎜⎟22 − với m > n λ ⎝⎠nm Nếu giữ nguyên trị số n = 1 thay đổi m = 2, 3, 4, ta có dãy Lyman ; n = 2 và thay đổi m = 3, 4, 5, ta có dãy Banme ; nếu giữ nguyên n = 3 và thay đổi m = 4, 5, 6, ta có dãy Pasen và v.v ta sẽ có tất cả các dãy quang phổ. Sự tồn tại của tính qui luật quang phổ nguyên tử Hydrô cũng như quang phổ của nhiều nguyên tử phức tạp khác là những bằng chứng về một qui luật mới mẻ, đó là tính gián đoạn không liên tục của quang phổ nguyên tử.
- II. THUYẾT N. BOHR. Nội dung của thuyết N. Bohr được xây dựng trên hai định đề và một điều kiện về lượng tử hóa mômen động lượng quỹ đạo. Những định đề này được đưa ra dựa trên cơ sở vận dụng khái niệm lượng tử năng lượng của Plank (ε = hυ) và khái niệm photon ánh sáng của Anhstanh (Einstein) kết hợp với những nội dung của lý thuyết Rơdepho và tính qui luật của quang phổ nguyên tử Hydrô. 1. Định đề thứ nhất về các quĩ đạo dừng (trạng thái dừng của nguyên tử). Electron trong nguyên tử chuyển động theo các quĩ đạo tròn có năng lượng hoàn toàn xác định gọi là các quĩ đạo dừng hay trạng thái dừng. Khi chuyển động theo các quĩ đạo dừng trong nguyên tử electron không bức xạ năng lượng điện từ. 2. Điều kiện lượng tử hóa về mômen động lượng quĩ đạo. Khi electron chuyển động trên quĩ đạo dừng phải thỏa mãn sao cho mômen động lượng quĩ đạo của nó luôn luôn bằng một số nguyên lần của hằng số Plank chia cho 2π ( tức h là ћ = ) : 2π L = m.vnrn = n với n = 1, 2, 3, 4, Trong đó: • m là khối lượng của electron. • Vn là vận tốc của electron. • rn là bán kính của quĩ đạo dừng. • n = 1, 2, 3, 4, được gọi là lượng tử số chính. 3. Định đề về tần số (cơ chế bức xạ). Nguyên tử chỉ hấp thụ hay phát xạ năng lượng dưới dạng bức xạ sóng điện từ theo cơ chế như photon ánh sáng khi nó chuyển từ trạng thái dừng này sang trạng thái dừng khác được xác định: h ν = E − E ni nk với E là năng lượng trạng thái đầu và E là năng lượng trạng thái cuối. Nếu E > ni nk ni E ứng với quá trình phát xạ và nếu E < E ứng với quá trình hấp thụ. nk ni nk Nội dung của định đề này được minh họa trên hình 1.6: - Mỗi quĩ đạo dừng tương ứng với một mức năng lượng dừng. - Mỗi mức năng lượng được biểu diễn bằng một vạch nằm ngang. Như vậy electron trong nguyên tử có thể chuyển động theo các quĩ đạo dừng khác nhau, sẽ tương ứng với các mức năng lượng khác nhau. Các mức năng lượng phân bố gián đoạn không liên tục.
- Các bước chuyển của electron trong nguyên tử từ trạng thái dừng này sang trạng thái dừng khác được biễu diễn bằng những mũi tên. Các bước chuyển từ trạng thái năng lượng thấp hơn sang trạng thái năng lượng cao hơn tương ứng với quá trình hấp thụ của nguyên tử. Ngược lại các bước chuyển từ trạng thái năng lượng cao hơn sang trạng thái năng lượng thấp hơn tương ứng với quá trình bức xạ của nguyên tử. Với những định đề trên, lý thuyết N. Bohr đã khắc phục được mặt hạn chế của lý thuyết Rơdepho về sự tồn tại bền vững của nguyên tử và phổ bức xạ của nguyên tử có dạng vạch gián đoạn (không liên tục). §4. LÝ THUYẾT N. BOHR ĐỐI VỚI NGUYÊN TỬ HYDRÔ VÀ CÁC IÔN TƯƠNG TỰ HYDRÔ (He+, Li++, Be+++ ) Nguyên tử Hydrô cấu tạo từ hạt nhân là photon (p) mang điện tích dương(+e) và một electron mang điện tích âm (-e) chuyển động theo quĩ đạo tròn bán kính r quanh hạt nhân. Các iôn tương tự Hydrô như He+, Li++, Be+++ (Hydrô có Z = 1, còn Heli có Z = 2, Liti có Z = 3, Berili có Z = 4, ), về phương diện cấu trúc thì có một hạt nhân và lớp ngoài cũøng có một electron tương tự như nguyên tử Hydrô; cho nên gọi là các iôn tương tự Hydrô. Do vậy có thể áp dụng chung lý thuyết N. Bohr cho cả Hydrô và các iôn tương tự Hydrô. Để cho hệ nguyên tử bền vững thì năng lượng liên kết của electron với hạt nhân bằng: Ze2 E = − K 2r Vận dụng điều kiện lượng tử hóa mômen động lượng quĩ đạo N. Bohr: Ln = m.vn.rn = n ћ Trong đó: • m là khối lượng electron (xem như nguyên tử cấu tạo từ electron và hạt nhân, chỉ có electron chuyển động còn hạt nhân đứng yên).
- • n = 1, 2, 3, 4, gọi là lượng tử số chính. h • là hằng số Plank chia cho 2π ( = ) 2π • Mômen động lượng quĩ đạo Ln chỉ phụ thuộc vào lượng tử số n. • vn là vận tốc của electron. • rn là bán kính quĩ đạo của electron. Điều kiện cân bằng của electron chuyển động trên quĩ đạo tròn là: mv2 Ze2 r = K r2 2 Suy ra: rn= 2 với n = 1, 2, 3, 4, n KmZe2 Từ điều kiện lượng tử hóa mômen động lượng quĩ đạo Lnn = dẫn đến bán kính quĩ đạo của electron cũng bị lượng tử hóa. Bán kính quĩ đạo cũng chỉ phụ thuộc vào lượng tử số chính n. 2 Với n = 1 ta có: r = 1 KmZe2 2 Với n = 2 ta có: r = 22 2 KmZe2 2 Với n = 3 ta có: r = 32 v.v 3 KmZe2 Đối với Hydrô Z = 1 và n = 1 ta có: 2 ћ -8 r1 = a0 = Kme2 = 0,529. 10 cm a0 gọi là bán kính quĩ đạo N. Bohr – là bán kính quĩ đạo của electron gần hạt nhân 2 2 nhất, các quĩ đạo khác ứng với n = 2, 3, 4, 5, được xác định: r2 = 2 .a0, r3 = 3 .a0, Đối với các iôn tương tự ta có: 2 a0 rn = n với n = 1, 2, 3, 4, Z Electron chuyển động trên từng quĩ đạo tương ứng với vận tốc hoàn toàn xác định: Ze2 VK= với n = 1, 2, 3, n n Tuy nhiên trên mỗi quĩ đạo dừng vận tốc của electron luôn luôn không đổi để đảm bảo cho quĩ đạo ổn định và năng lượng không thay đổi theo yêu cầu của định đề về năng lượng trạng thái dừng.
- Biểu thức năng lượng liên kết của electron trong nguyên tử: 2 2 2 4 Ze Ze 2 Z me En = - K = - K 2 2 = - K 2 2 2rn n . ћ 2n ћ 2 KmZe2 với n = 1, 2, 3, 4, Như vậy nguyên tử không thể nhận mọi giá trị năng lượng tùy ý mà chỉ nhận những giá trị gián đoạn (không liên tục); ứng với n = 1 ta có E1 , n = 2 ta có E2 , với n = 3 ta có E3 v.v Từ quan hệ của năng lượng cho thấy lượng tử số n đóng vai trò chính của năng lượng nên được gọi là lượng tử số chính. Sơ bộ đánh giá lý thuyết N. Bohr đối với Hyđrô Z = 1 cho thấy: 2 ћ -8 a0 = K me2 = 0,529.10 cm 4 2 me E1 = - K 2.12. ћ2 = - 13,53 eV Các kết quả này hoàn toàn phù hợp với các lý thuyết khác và phù hợp với thực nghiệm. Điều đó chứng tỏ lý thuyết N. Bohr hoàn toàn đúng đắn phù hợp với các qui luật của nguyên tử. Khi n →∞ thì năng lượng liên kết của electron trong nguyên tử En → 0 Đó là trạng thái năng lượng cao nhất của nguyên tử, ứng với trường hợp electron không còn liên kết với nguyên tử nữa, như vậy nguyên tử đã biến thành iôn dương và gọi là sự iôn hóa nguyên tử. Trị số của năng lượng iôn hóa của nguyên tử Hydrô bằng: ∆Eioân = E∞ − E1 = 0 + 13,53 = 13,53 eV Kết quả này hoàn toàn phù hợp với thực nghiệm. Vận dụng lý thuyết N. Bohr ta cũng nhận được công thức Banme tổng quát về quang phổ bức xạ của nguyên tử Hydrô: 2 4 2 4 2 Z me 2 Z me hν = Eni - Enk = -K 2 2 + K 2 2 2 ћ .ni 2 ћ .nk 2 4 2 Z me ⎡ 1 1 ⎤ hν = K 2 ⎢ 2 − 2⎥ 2 ћ ⎣nk ni ⎦ Nếu đặt: 2 4 2 4 K me 1 K me 7 -1 R = 2 = = 1,09677.10 m 2 ћ hc 4πc ћ3 có giá trị đúng bằng hằng số Ritbe. Kết quả này cũng khẳng định thêm sự đúng đắn của lý thuyết N. Bohr. Biểu diễn công thức trên thông qua số sóng ta thu được kết quả: 4 1 ν Eni - Enk 2 me 2 ⎡ 1 1 ⎤ ν = = = = K 2 Z ⎢ 2 - 2⎥ λ c hc 2 ћ .hc ⎣nk ni ⎦ ⎡⎤11⎡⎤ 11 = RZ. 22−= RZ − với m > n ⎢⎥22⎢⎥ 2 2 ⎣⎦nnki ⎣⎦ nm
- Biểu thức này có dạng trùng với công thức Banme tổng quát nếu đặt ni = m và nk = n. Về bản chất thì n = 1, 2, 3, trong công thức Banme chỉ là những con số số học thuần túy không chứa đựng nội dung vật lý nhưng trong lý thuyết N. Bohr nó có một ý nghĩa vật lý, đó là lượng tử số, đặc trưng cho các trạng thái năng lượng trong nguyên tử. Mỗi vạch quang phổ Hydrô thu được từ thực nghiệm tương ứng với qúa trình chuyển giữa hai mức năng lượng tương ứng trong nguyên tử. Nhờ cơ chế này mà tính qui luật của quang phổ nguyên tử Hydrô và các iôn tương tự Hydrô được làm sáng tỏ. Đóng góp này của lý thuyết N. Bohr thật là lớn lao và đã góp phần thúc đẩy ngành quang phổ học phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu bất ngờ trong khoa học kỹ thuật. Thông qua hằng số Ritbe biểu thức năng lượng liên kết của electron trong nguyên tử có thể biểu diễn dưới dạng: − R.h.c 2 En = n2 Z Trong đó: • h = 6,6. 10 -34 J.S là hằng số Plank. • c = 3. 108 m/s là vận tốc ánh sáng. • n = 1, 2, 3, 4, là lượng tử số chính. Nội dung lý thuyết N. Bohr và cơ chế tạo ra các dãy quang phổ có thể minh họa trên cùng một giản đồ sau: (Hình 1.8) • En là năng lượng liên kết En electron trong nguyên tử: E > 0 O n → ∞ - R.h.c 2 En = n2 Z < 0 n = 5 • n = 1 là mức cơ bản. E4 n = 4 Daõy Braket • n = 2, 3, 4, 5, ( là các E3 n = 3 mức kích thích. Daõy Pasen • Bán kính quĩ đạo r1 ứng với E2 n = 2 Daõy Banme mức E1 và r2 ứng với mức E2 , r3 ứng với mức E3 , r ứng với năng lượng ∞ .Khi đó electron sẽ rời xa nguyên tử và biến nguyên tử r4 E1 n = 1 thành iôn dương. Daõy Lyman r3 r2 r1 Hình 1.8 Bên cạnh những thành công nổi bật, lý thuyết N. Bohr đã giải quyết nhiều vấn đề về cấu trúc và quang phổ bức xạ nguyên tử; tuy nhiên lý thuyết N. Bohr cũng bộc lộ nhiều hạn chế.
- Trước hết lý thuyết N. Bohr chỉ áp dụng thành công cho nguyên tử Hydrô, đối với các nguyên tử phức tạp lý thuyết N. Bohr chưa thể giải quyết được. Lý thuyết N. Bohr chứa đựng mâu thuẫn nội tại cho nên nội dung của nó chưa thật hoàn chỉnh thể hiện ở sự kết hợp vừa lý thuyết cổ điển lẫn lý thuyết lượng tử dưới dạng các định đề có tính chất áp đặt. Lý thuyết N. Bohr chưa đề cập đến cường độ và bề rộng của các vạch phổ, đặc biệt vấn đề cấu trúc tinh tế của các vạch quang phổ không thể lý giải được. Cho dù lý thuyết N. Bohr còn bị hạn chế, nhưng những gì mà lý thuyết N. Bohr đã làm được, có thể nói đó là những việc làm mang tính “cách mạng” trong vật lý học. Lý thuyết N. Bohr được xem như một quá trình chuyển tiếp từ vật lý học cổ điển sang vật lý lượng tử hiện đại. §5. KIỂM CHỨNG LÝ THUYẾT N. BOHR BẰNG THỰC NGHIỆM. Năm 1914 Frank và Héc đã tiến hành thí nghiệm cho phép xác định trực tiếp sự tồn tại của những trạng thái năng lượng gián đoạn của nguyên tử về cơ chế bức xạ và hấp thụ của nó. Thí nghiệm tiến hành như sau: Trong một ống chân không bằng thủy tinh có bố trí Catốt (K), Anốt (A) và cực lưới (L). Ý tưởng của thí nghiệm này là dùng chùm electron phát ra từ K được tăng tốc trong điện trường va chạm trực tiếp vào các nguyên tử của chất khí cần khảo sát được bơm vào trong ống thủy tinh ban đầu hút hết không khí có độ chân không nhất định. Sơ đồ thí nghiệm được biểu diễn theo nguyên tắc sau: K L A Ống thủy tinh hình trụ có độ chân không với áp suất 0,10 mm e G Hg. Giữa Catốt (K) và lưới L được nối với thế tăng tốc V , giữa 1 V V lưới và Anốt (A) cũng được nối với điện thế nhỏ hơn V2 (không lớn hơn 0,5V). R R Trong ống thủy tinh có chứa hơi thủy ngân, khi electron thoát ra từ - + + - K sẽ va chạm vào các nguyên tử Hình 1.9. Sô ñoà thí nghieäm Frank – Heùc khí thủy ngân theo hai cách: - Cách va chạm thứ nhất là va chạm đàn hồi, trong cách va chạm này năng lượng của electron không bị biến đổi mà chỉ thay đổi hướng bay. Thế tăng tốc V1 có thể điều chỉnh linh hoạt để điều khiển dòng điện Anốt. - Cách va chạm thứ hai là va chạm không đàn hồi, kết quả của loại va chạm này làm cho năng lượng của electron bị biến đổi do truyền năng lượng cho các nguyên tử khí thủy ngân. Theo lý thuyết N. Bohr thì nguyên tử hơi thủy ngân chỉ nhận từng lượng năng lượng do electron truyền cho chứ không phải nhận mọi giá trị bất kỳ. Kết quả nguyên tử thủy ngân chuyển lên một trong số các trạng thái kích thích có thể có đối với nguyên tử thủy ngân. Trạng thái kích thích gần nhất chênh lệch so với trạng thái cơ bản một giá trị năng lượng cỡ 4,86 eV. Chừng nào các electron phát ra từ K chưa được tăng tốc đủ lớn, tức là chưa đạt trị
- số eV1 = 4,86 eV thì va chạm giữa electron với các nguyên tử thủy ngân chỉ là va chạm đàn hồi và dòng điện Anốt tăng lên. Khi vừa tăng giá trị động năng của electron đến 4,86 eV, tức thì diễn ra va chạm không đàn hồi giữa các electron với các nguyên tử hơi thủy ngân. Trong va chạm không đàn hồi electron truyền toàn bộ năng lượng cho nguyên tử thủy ngân làm cho nguyên tử thủy ngân bị kích thích làm cho một trong số các electron nguyên tử thủy ngân chuyển từ trạng thái cơ bản lên trạng thái kích thích. Do mất năng lượng nên electron sau khi va chạm không đàn hồi không thể đến Catốt được. Do vậy khi hiệu điện thế giữa Catốt và lưới (L) bằng 4,86 eV thì dòng điện Anốt phải giảm xuống. Hiện tượng sẽ tự xảy ra khi năng lượng của electron bằng eV1= 2. 4,86 eV ; eV2=3. 4,86 eV ; tức là eV1 = n. 4,86 eV, thì electron có thể tham gia va chạm không đàn hồi hai, ba hay nhiều lần. Đường đặc trưng Von – Ampe I=f(V) mô tả sự phụ thuộc của dòng điện Anốt và hiệu điện thế đặt vào Catốt và lưới (L) đã khẳng định tính đúng đắn về trạng thái năng lượng dừng trong nguyên tử của lý thuyết N. Bohr Trong thí nghiệm Frank và Héc khi tăng hiệu điện thế V người ta nhận thấy những độ sụt dòng điện ứng với các giá trị điện thế V=4,86V ; V=9,72V; V= 4,58 V; đồng thời cũng phát hiện thấy trong ống thủy tinh có bức xạ tử ngoại phát ra với bước sóng λ= 2537 A0. Các nguyên tử khí thủy ngân sau khi được kích thích bởi các va chạm vời electron, trở về trạng thái cơ bản và đã phát ra các phôtôn có năng lượng hυ = 4,9eV đúng bằng năng lượng đã hấp thụ của electron. Như vậy thí nghiệm của Frank và Héc đã xác nhận sự tồn tại của các mức năng lượng gián đoạn của nguyên tử, tức là khẳng định tính đúng đắn của hai tiên đề cơ bản trong lý thuyết N.Bohr. Thí nghiệm Frank và Héc cũng đã chứng tỏ rằng nguyên tử không phải dễ dàng nhận tùy tiện năng lượng của electron từ bên ngoài cung cấp cho nguyên tử, chừng nào năng lượng này chưa đúng bằng năng lượng cần thiết để chuyển nó từ mức này sang mức khác, tức là từ trạng thái dừng này sang trạng thái dừng khác.
- Chương II CƠ SỞ CỦA LÝ THUYẾT LƯỢNG TỬ §1. LÝ THUYẾT PHOTON. Cơ sở của lý thuyết photon được xây dựng trên tiên đề cho rằng: ánh sáng và các loại bức xạ điện từ được cấu thành từ các hạt mang năng lượng nhỏ và gián đoạn gọi là các photon hay lượng tử. Mỗi photon mang theo năng lượng phụ thuộc vào tần số bức xạ điện từ tuân theo hệ thức: c ε = hν = h λ Trong đó: • h = 6,626. 10 -34 J.S là hằng số Planck. • c = 3. 10 8 m/s là vận tốc lan truyền của bức xạ điện từ trong chân không (kể cả vận tốc lan truyền ánh sáng). • υ là tần số. • λ là bước sóng. Mỗi photon sẽ tương tác hoàn toàn hoặc không tương tác với vật chất, nghĩa là nó hoặc có thể truyền toàn bộ năng lượng của mình hoặc không truyền một tý năng lượng nào cả. Vì các photon chuyển động với vận tốc ánh sáng nên theo thuyết tương đối Einstein, khối lượng nghỉ của chúng bằng không, do đó năng lượng của các photon chỉ có thể có nguồn gốc động học. Nếu một photon tồn tại thì nó sẽ chuyển động với vận tốc ánh sáng, nếu photon không chuyển động với vận tốc như thế nữa thì nó cũng không còn tồn tại. Đối với photon khối lượng nghỉ m0 = 0, hệ thức năng – xung lượng tương đối tính có dạng: E = p.c Kết quả này suy ra từ hệ quả của thuyết tương đối: m m = 0 v2 1 - c2 2 4 ⎛⎞v nếu nhân hai vế của biểu thức này với c ⎜⎟1− 2 ta có: ⎝⎠c 2 4 2 2 2 2 4 m c − m v c = m0 c Mặt khác theo hệ thức liên hệ giữa năng lượng và khối lượng: 2 E = m c2 và E0 = m0c
- 2 2 Với động năng bằng: Eđ = mc - m0c Trong đó E là năng lượng và E0 là năng lượng nghỉ tương ứng với khối lượng nghỉ m0. 22 2 Do đó ta có: EE=+0 (.) pc Khi m0 = 0 thì năng lượng bằng: E = p.c Theo quan niệm lượng tử thì cường độ của bức xạ điện từ (trong đó có cường độ ánh sáng) tỷ lệ với số photon đập lên một đơn vị diện tích đặt vuông góc với phương truyền của bức xạ: I = N.hν Trong đó: • hυ là năng lượng của một photon. • N là thông lượng photon (số photon tới trên một đơn vị diện tích trong một đơn vị thời gian) đập đến điểm đang xét. Dựa vào thuyết photon người ta đã giải thích được nhiều hiện tượng như hiện tượng quang điện, hiện tượng tán xạ Compton v.v
- §2. HIỆU ỨNG QUANG ĐIỆN. Hiệu ứng quang điện là hiện tượng giải thoát các electron từ bề mặt kim loại khi có các bức xạ điện từ thích hợp chiếu vào nó. Các electron bật ra từ bề mặt kim loại gọi là quang electron. Có thể nghiên cứu bằng thực nghiệm hiện tượng quang điện dựa vào sơ đồ điện tử (hình 2.1): Trong một ống thủy tinh hút hết không khí rồi bố trí vào đó hai điện cực Anốt (A) và Catốt (K). Hệ thống này được mắc vào một sơ đồ có hiệu điện thế u. Khi dọi một chùm bức xạ điện từ thích hợp vào Catốt (K) trong mạch xuất hiện dòng điện qua đện kế G. Thay đổi hiệu điện thế u giữa Catốt và Anốt được ghi nhận qua vôn kế V. Từ kết quả thực nghiệm nhận được đường đặc trưng Von – Ampe có dạng là một đường cong được biểu diễn qua đồ thị hình 2.2. Từ đồ thị đường đặc trưng Von - Ampe I = f(u) ta nhận thấy: 1. Ban đầu cường độ dòng điện tăng theo hiệu điện thế u; khi đạt đến giá trị u xác định thì dòng điện trở nên bão hòa (Ibh) tức là khi u có tăng thêm thì dòng điện vẫn không tăng nữa. 2. Ngay tại trị số u = 0 cường độ dòng quang điện vẫn có giá trị khác không I0 ≠ 0. Điều này chứng tỏ khi các electron thoát ra khỏi Catốt đã có sẵn động năng ban đầu mv2 E0 = 2 . 3. Có thể triệt tiêu dòng quang điện ban đầu bằng cách tác dụng vào hai điện cực Anốt và Catốt một hiệu điện thế ngược gọi là hiệu điện thế cản (uc) ; hiệu điện thế cản uc có giá trị sao cho công cản của điện trường bằng động năng ban đầu cực đại của các quang electron: 2 mvmax 2 = e.uc Hiện tượng quang điện được giải thích theo thuyết photon như sau: Các electron tự do bị nhốt trong kim loại không thể tự động thoát ra khỏi giới hạn của kim loại. Để thoát ra ngoài kim koại, ít nhất electron phải có động năng bằng công thoát A1 tương ứng với từng chất liệu của kim loại xác định. Bình thường động năng chuyển động nhiệt
- trung bình của electron trong kim loại nhỏ hơn công thoát A1. Tuy nhiên khi dọi bức xạ điện từ có tần số thích hợp vào bề mặt kim loại, các electron trong kim loại hấp thụ photon. Mỗi electron hấp thụ một photon, tức là nó nhận thêm năng lượng ε = hυ. Năng lượng này một phần chuyển thành công thoát A1 và phần còn lại chuyển thành động năng ban đầu của electron. Động năng ban đầu càng lớn khi electron nằm càng gần bề mặt kim loại do đó electron nằm trên bề mặt kim loại sẽ có động năng cực đại. Theo định luật bảo toàn năng lượng ta có: 2 c mvmax hν = h = A + λ 1 2 Biểu thức này gọi là phương trình Anhstanh. Dựa vào phương trình trên có thể giải thích các qui luật của hiệu ứng quang điện. 1. Định luật giới hạn quang điện. Như đã biết, động năng không bao giờ có giá trị âm mà luôn luôn dương nên ta có: 2 c mvmax h - A = > 0 λ 1 2 c c Suy ra: h - A > 0 hay h > A1 λ 1 λ hc Nếu đặt = λ0 ta có λ υ0 A1 Giá trị λ0 hay υ0 gọi là giới hạn quang điện, đây là điều kiện cần thiết để hiệu ứng quang điện có thể xảy ra. Như vậy đối với mỗi kim loại xác định, hiệu ứng quang điện chỉ có thể xảy ra khi dọi chùm bức xạ có bước sóng λ phải nhỏ hơn bước sóng giới hạn λ0 hay có tần số υ phải lớn hơn tần số giới hạn υ0. Mỗi kim loại có một giá trị λ0 (hay υ0) đặc trưng của nó. 2. Định luật về dòng điện bảo toàn. Dòng quang điện bảo hòa đạt được khi có bao nhiêu electron bị đánh bật ra khỏi Catốt (K) đều hướng về Anốt (A) do vậy dòng điện sẽ cực đại và không đổi theo thời gian. Nhưng số quang electron thoát khỏi bề mặt Catốt tỷ lệ với số photon mà kim loại chế tạo Catốt hấp thụ. Số photon lại tỷ lệ với cường độ của chùm bức xạ dọi vào Catốt, chính vì thế mà cường độ dòng quang điện bảo hòa (Ibh) tỷ lệ với cường độ của chùm bức xạ dọi tới. Đường cong bảo hòa (1) ứng với cường độ chùm bức xạ dọi tới Catốt nhỏ hơn so với đường cong bảo hòa (2) ứng với cường độ chùm bức xạ dọi tới Catốt lớn hơn. 3. Định luật động năng cực đại của quang electron. Động năng cực đại ban đầu của quang electron chỉ phụ thuộc vào tần số của chùm bức xạ dọi tới kim loại mà không phụ thuộc vào cường độ của nó. Theo công thức Anhstanh ta có:
- 2 mvmax 2 = hν - hν0 = h(ν - ν0) Nếu để ý đến quan hệ giữa công cản và hiệu điện thế cản ta có: hν = hν0 + e.uc Suy ra: e.uc = h(ν - ν0) Từ đó cho thấy động năng cực đại của quang electron chỉ phụ thuộc vào tần số bức xạ dọi tới bề mặt kim loại. §3. HIỆU ỨNG TÁN XẠ COMPTON. Năm 1922 Compton làm thí nghiệm cho một chùm tia X với bước sóng λ xác định dọi vào các chất liệu: paraphin, graphít, v.v , và nhận thấy khi truyền qua các chất liệu này, chùm tia X bị tán xạ (truyền lệch phương so với phương ban đầu). Trong phổ tia X thông thường, ngoài vạch phổ ứng với giá trị bước sóng tới λ còn xuất hiện vạch phổ ứng với bước sóng λ’ có giá trị lớn hơn λ (tức là (λ’ > λ ). Các kết quả thực nghiệm cho thấy bước sóng λ’ không phụ thuộc vào cấu tạo của chất bị dọi bởi tia X mà chỉ phụ thuộc vào góc tán xạ θ (Xem hình 2.3). Độ tăng của bước sóng do kết quả tán xạ được xác định: 2 θ ∆λ = λ′ - λ = 2λc sin 2 hoặc còn có thể biểu diễn dưới dạng: ∆λ = λ′ - λ = 2λc (1 - cosθ) Trong đó: h • λ ==0,0243A0 gọi là bước sóng c mc Compton • m = 9,1. 10 -31 kg là khối lượng của electron. • c làvận tốc ánh sáng • h là hằng số Planck. Dựa vào thuyết photon của Anhstanh có thể giải thích hiện tượng tán xạ Compton. Hiệu ứng tán xạ Compton có thể xem là kết quả của quá trình tán xạ đàn hồi của chùm photon tia X dọi tới các điện tử trong nguyên tử chất gây tán xạ. Trong phổ tia X, vạch ứng với bước sóng λ có thể xem như tia X bị tán xạ trên các electron nằm ở các lớp điện tử bên trong nguyên tử bố trí gần sát với hạt nhân, những electron này liên kết mạnh với hạt nhân như không thể nào đánh bật chúng ra được, còn vạch
- ứng với bước sóng λ’ > λ tương ứng với sự tán xạ của chùm tia X với electron ở lớp ngoài liên kết yếu với hạt nhân nguyên tử (có thể xem như electron tự do) nên chùm tia X đánh bật electron liên kết ra khỏi phạm vi nguyên tử. Kết quả của quá trình tán xạ này chùm photon tia X nhường một phần năng lượng để đánh bật electron, phần còn lại mang theo khi bị tán xạ cho nên năng lượng của nó giảm đi làm cho bước sóng tăng lên, kết quả ta nhận được λ’ > λ . Trong thực nghiệm Compton đã sử dụng tia X với bước sóng λ = 0,7A0 tán xạ trên Graphít. Vì năng lượng tia X tương ứng với giá trị cỡ 1,8. 104 eV, giá trị này lớn hơn rất nhiều so với năng lượng liên kết của electron ở các lớp bên ngoài của nguyên tử Cácbon là thành phần chính của Graphít. Chính vì vậy mà có thể xem các electron ở lớp ngoài của nguyên tử là tự do so với năng lượng chùm tia X dọi tới Graphít. Dựa vào định luật bảo toàn năng lượng và bảo toàn động lượng trong quá trình tán xạ chùm tia X lên electron trong nguyên tử, để thu nhận công thức tán xạ Compton. hc h Tia X xem như photon tới có năng lượng E = hυ = và động lượng: P = λ ' λ Theo định luật bảo toàn năng lượng ta có: hc hc + m c2 = + mc2 (2.1) λ 0 λ′ và định luật bảo toàn động lượng: → → → p = p′ + pe (2.2) Từ công thức (2.2) suy ra: → → → pe = p - p′ (2.3) pe có giá trị được xác định bởi công thức: 2 2 2 pe = p + p′ - 2pp′cosθ h X P′ = λ′ E′ = hν′ h P = λ E = hν θ X y e ϕ e E = mc2 Hình 2.4. Söï taùn xaï tia X leân e e Pe = mv