Giáo trình Lí thuyết thống kê và phân tích dự báo

pdf 194 trang vanle 3310
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lí thuyết thống kê và phân tích dự báo", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_li_thuyet_thong_ke_va_phan_tich_du_bao.pdf

Nội dung text: Giáo trình Lí thuyết thống kê và phân tích dự báo

  1. CHU VĂN TUẤN GIÁO TRÌNH LÝ THUYẾT THỐNG KÊ VÀ PHÂN TÍCH DỰ BÁO NXB TÀI CHÍNH
  2. M ồi n ối đầu Là công cụ không thể thiếu trong hoạt động nghiên cứu và công tác thực tiễn, Lý thuyết Thống kê đã trở thành một* môn học » cơ sở của sinh viên tất cả các chuyên ngành khôi kinh tế. Môn học đã được xuất bản thành giáo trình nhiều lần. Lần này “Giáo trình Lý thuyết Thông kê và Phân tích dự báo ” được biên soạn trên cơ sỏ tiếp thu những nội dung và kinh nghiệm giảng dạy môn Lý thuyết Thống kê trong nhiều năm qua và yêu cầu ứng dụng trong quản lý kinh tế theo xu thê hội nhập. Giáo trình biên soạn lần này có nhiều thay đổi, nhằm phục vụ giảng dạy, học tập của giáo viên và sinh viên trong tất cả các chuyên ngành của Học viện Tài chính, đồng thời là tài liệu tham khảo cho tất cả những người quan tâm đến lĩnh vực thống kê. Giáo trình do TS. Chu Văn Tuấn và TS. Phạm Thị Kim Vân đồng chủ biên, cùng tham gia biên soạn là tập thể giảng viên Bộ môn Thông kè và phân tích dự báo- Học viện Tài chính bao gồm: - TS. Chu Văn Tuấn, biên soạn chương 1, 2; - TS. Phạm Thị Kim Vân biên soạn chương 6, 9; - Ths. Đinh Hải Phong biên soạn chương 3;
  3. - Ths. Vũ Thị Mận ưà Ths. Nguyễn Lan Phương biên soạn chương 8; - Ths. Hoàng Thị Hoa và Ths. Trần Thị Hoa Thơm biên soạn chương 5; - Ths. Phạm Tiểu Thanh và Ths. Trần Thị Hòa biên soạn chương 4; - CN. Nguyễn Văn Thông và Ths. Nguyễn Mạnh Thắng biên soạn chương 7. Mặc dù tập thể tác giả đã có rất nhiều cô" gắng trong quá trình biên soạn, song không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Tập thể tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của bạn đọc để lần xuất bản sau được hoàn thiện hơn. Học viện Tài chính và tập thể tác giả chân thành cảm ơn các nhà khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi; PGS.TS. Tăng Văn Khiên; PGS.TS. Trần Thị Kim Thu; PGS.TS. Nguyễn Văn Dần; PGS.TS. Trần Xuân Hải; TS. Lý Minh Khải; TS. Phạm Thị Thắng đã có nhiều ý kiến đóng góp quý báu trong quá trình biên soạn, nghiệm thu và hoàn chỉnh góp phần nâng cao chất lượng khoa học của giáo trình này. Hà Nội, tháng 8 năm 2008 BAN QUẢN LÝ KHOA HỌC HỌC VIỆN TÀI CHÍNH 4
  4. Chương 1 TỔNG QUAN VỂ THÔNG KÊ HỌC 1. Sơ Lươc Sư RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIÊN CỦA KHOA HỌC THONG KE Thông kê học là một môn khoa học xã hội, ra đời và phát triển do nhu cầu hoạt động thực tiễn xã hội. Trước khi trở thành một môn khoa học độc lập, thổng kê học đã có một nguồn gốic lịch sử phát triển khá lâu. Đó là cả một quá trình tích luỹ kinh nghiệm từ giản đơn đên phức tạp, được đúc rút dần thành lý luận khoa học ngày càng hoàn chỉnh. Thông kê và hạch toán đã xuất hiện trong thời tiến cổ đại, cách kỷ nguyên chúng ta hàng nghìn năm về trước. Từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, các chủ nô đã tìm cách ghi chép, tính toán đế nắm được tài sản của mình (sô nô lệ, sô' súc vật và các tài sản khác), ở Trung quốc, Cổ Hy Lạp, La Mã, Ai Cập người ta đã tìm thấy một số di tích cổ’ đại chứng tỏ ngay từ thời kỳ này người ta đã biêt ghi chép sô" liệu. Nhưng công việc ghi chép còn giản đơn, tiến hành trong phạm vi nhỏ hẹp, chưa mang tính thông kê rõ rệt.
  5. Dưới chế độ phong kiến, công tác thông kê đã phát triển ở hầu hết các quốic gia châu Á, châu Âu đều đã có tổ chức nhiều việc đăng ký và kê khai với phạm vi rộng, nội dung phong phú có tính chất thống kê rõ rệt, như; đăng ký nhân khẩu, kê khai ruộng đất và các tài sản khác Việc đăng ký kê khai này phục vụ cho việc thu thuế và bắt lính của giai cấp thống trị. Thống kê tuy đã có tiến bộ nhưng chưa được đúc kết thành lý luận và chưa trở thành một môn khoa học độc lập. Cuối thế kỷ XVII, lực lượng sản xuất phát triển mạnh làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đòi. Kinh tê hàng hoá phát triển dẫn đến các ngành sản xuất riêng biệt tăng thêm, phần công lao động xã hội ngày càng phát triển. Tính chất xã hội của xản xuất ngày càng cao, thị trường được mở rộng không chỉ phạm vi một nước mà mở rộng ra trên phạm vi toàn thế giới. Hoạt động kinh tế, xã hội ngày càng phức tạp, các giai cấp xã hội phân hoá nhanh và đấu tranh giai cấp trở nên gay gắt. Để phục vụ cho các mục đích kinh tế, chính trị và quân sự, nhà nước tư bản và các chủ tư bản cần rất nhiều thông tin thường xuyên về thị trường, giá cả, sản xuất, nguyên nhiên vật liệu, lao động, dân sô" Do đó công tác thông kê phát triển nhanh chóng. Sự cố gắng tìm hiểu các hiện tượng và quá trình kinh tê xã hội thông qua các biểu hiện về lượng đòi hỏi những người làm công tác khoa học, những người làm công tác quản 6
  6. lý nhà nước, quản lý kinh doanh đi vào nghiên cứu lý luận và phương pháp thu thập tính toán số liệu thống kê. Các tài liệu sách báo về thống kê bắt đầu được xuất bản. ở một sô' trường học đã bắt đầu giảng dạy thông kê. Năm 1660, nhà kinh tê học người Đức Công - rinh (H.conhring, 1606 - 1681) đã giảng phương pháp nghiên cứu hiện tượng xã hội dựa vào số liệu điều tra cụ thể tại trường dại học Helmstet. Sau đó ít lâu, một số tác phẩm có tính chất phân tích thống kê đầu tiên ra đòi, như cuốn “sô" học chính trị” xuất bản năm 1682 của Uy-li- am Pet- ty (Uy-li-am Pet-ty 1623 - 1687) một nhà kinh tê học người Anh. Trong cuốn sách này tác giả đã dùng phương pháp độc đáo để nghiên cứu các hiện tượng xã hội qua các con sô" tổng hợp và so sánh. Các Mác đã mệnh danh cho Uy- li- am Pet-ty là người sáng lập ra môn thống kê học. Giữa thê kỷ XVIII (năm 1759) một giáo sư đại học người Đức, A-Khen-Van (G.achenwall 1719 - 1772) lần đầu tiên dùng danh từ “Statistik” (một thuật ngữ gốc La-tinh “Status”, có nghĩa là nhà nước hoặc trạng thái của hiện tượng) - sau này người ta dịch là “thống kê” - để chỉ phương pháp nghiên cứu nói trên. Mác, Ăng-ghen, Lênin đã tiếp tục nghiên cứu, phát triển và có sự đóng góp vô giá vào sự phát triển lý luận thống kê, phương pháp luận nghiên cứu thống kê và sự vận dụng thông kê vào việc phân tích kinh tế - xã hội. Những người sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin
  7. nhiều lần nhấn mạnh ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn của thông kê. Trong các tác phẩm của Mác, Ang- ghen, Lênin thống kê được diễn tả như một môn khoa học xã hội độc lập, là công cụ của nhận thức xã hội và cải tạo• xã hội. * Vào nửa cuối thế kỷ XIX, thống kê đã phát triển rất nhanh. Từ những năm 60 của thế kỷ thứ XIX, Đại hội thông kê quốc tế đã mở ra để thảo luận các vấn đề lý luận và thực tế của thông kê. Cuối thế kỷ XIX, viện thống kê đã được thành lập và tồn tại như một chỉnh thể. Ngày nay, chức năng thống kê quốc tế được tổ chức Liên hợp quốc tiến hành. Từ đó đến nay, thông kê càng ngày càng phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện hơn về phương pháp luận, nó thực sự trở thành công cụ để nhân thức xã hội và cải tạo♦ xã hội. ♦ 2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN c ứ u CỦA THỐNG KẺ HỌC« 2.1. Khái niệm thống kê học Trong công tác thực tê cũng như trong đời sống hàng ngày chúng ta thưồng gặp thuật ngữ “Thống kê”. Thuật ngữ này có thế hiểu theo nhiều cách khác nhau: Thứ nhất: Thống kê là các sô liệu được thu thập để phản ánh các hiện tượng kinh tê - xã hội và ảnh
  8. hưởng tự nhiên, kỹ thuật. Chẳng hạn như: sản lượng các loại sản phẩm chủ yếu được sản xuất ra trong nền kinh tê trong một năm nào đó, mực nước cao nhất và thấp nhất của một dòng sông tại một địa điểm nào đó trong năm, hoặc dân số của một quốc gia vào thời điểm nào đó Thứ hai: Thống kê là hệ thông các phướng pháp được sử dụng đế nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã hội, và ảnh hưởng của yếu tô' tự nhiên, kỹ thuật tới hiện tượng kinh tê xã hội. Hoặc, thông kê là việc: Thu thập xử lý sô" liệu, nghiên cứu mối liên hệ giữa các hiện tượng, phân tích và dự báo các mức độ của hiện tượng trong tương lai và ra quyết định trong điều hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Theo khoản 1, điều 3, chương 1- Luật thống kê chỉ ra: Hoạt động thống kê là điều tra, báo cáo, tổng hợp, phân tích và cồng bố các thông tin phản ánh bản chất và tính quy luật của các hiện tượng kinh tế xã hội trong điều kiện thời gian không gian cụ thể do tổ chức thống kê nhà nước tiến hành. Từ các quan điểm trên, ta cỏ thể đưa ra khái niệm về thông kê một cách tổng quát như sau: “Thông kê là hệ thông các phương pháp dùng để thu thập, xử lý và phân tích các con số (mặt lượng) của những hiện tượng sô" lớn để tìm hiểu bản chất và tính quy luật vốn 9
  9. có của chúng (mặt chất) trong điều kiện thời gian và không gian cụ thể”. Thông kê hoc, là khoa hoc nghiên cứu vê mặt lượng trong mối quan hệ mât thiết với mặt chất của hiện tương kỉnh tế- xã hội sô lớn, trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Mọi sự vật, hiện tượng đều có hai mặt chất và lượng không tách rời nhau, khi chúng ta nghiên cứu hiện tượng, điều chúng ta muôn biết đó là bản chất của hiện tượng, nhưng mặt chất còn ẩn bên trong, còn mặt lượng biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các đại lượng ngẫu nhiên. Do đó phải thông qua các phương pháp xử lý thích hợp trên mặt lượng của số lớn đơn vị cấu thành hiện tượng, tác động của các yếu tô" ngẫu nhiên mới được bù trừ và triệt tiêu, bản chất của hiện tượng mới bộc lộ ra và qua đó ta có thể nhận thức đúng đắn bản chất, quy luật vận động của nó. Thông kê được chia thành hai lĩnh vực: + ThôVig kê mô tả: Bao gồm các phương pháp thu thập sô" liệu, mô tả và trình bày sô" liệu, tính toán các đặc trưng đo lưòng. Phần thống kê mô tả được trình bày trong các chương 2, 3, 4, 5. + Thống kê suy diễn: Bao gồm các phương pháp như: phân tích mốì liên hệ, dự báo trên cơ sở tác 10
  10. thông tin thu thập từ mẫu. Phần thông kê suy diễn được trình bày trong các chương còn lại. 2.2. Đôi tương nghiên cứu của thống kê học Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thống kê học, có thể thấy: Thống kê học là một môn khoa học xã hội, ra đòi và phát triển do nhu cầu của các hoạt động thực tiễn xã hội. Các hiện tượng mà thống kê học nghiên cứu là các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội chủ yếu, bao gồm: - Các hiện tượng về quá trình sản xuất và tái sản xuất mỏ rộng của cải vật chất xã hội và sự phân phối theo hình thức sở hữu tài nguyên và sản phẩm xã hội. - Các hiện tượng về dân số như: số nhân khẩu, cấu thành của nhân khẩu (giai cấp, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, dân tộc ), tình hình biến động của nhân khẩu, tình hình phân bổ" dân cư theo lãnh thổ. - Các hiện tượng về đòi sông vật chất và văn hoá của nhân dân như: mức sông vật chất, trình độ văn hoá, sức khoẻ - Các hiện tượng về sinh hoạt chính trị - xã hội như: cơ cấu các cơ quan Nhà nước, đoàn thể, sô" người tham gia tuyển cử, mít tinh Thông kê học nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã hội, không nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và kỹ thuật. Song, do các hiện tượng kinh tế - xã hội và hiện
  11. tượng tự nhiên kỹ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cho nên trong khi nghiên cứu hiện tượng kinh tế - xã hội, thông kê không thể không xét tới ảnh hưởng của các yếu tô" tự nhiên (thời tiết, khí hậu, địa lý) và các yếu tố kỹ thuật (phát minh sáng kiến, cải tiến công cụ, áp dụng kỹ thuật mới) đối vối sự phát triển của sản xuất và điều kiện sinh hoạt xã hội. Các hiện tượng kinh tê - xã hội là một bộ phận cấu thành của thê giới vật chất, chịu sự tác động của nhiều nhân tô", trong đó có yếu tô" tự nhiên và kỹ thuật. Thu thập và phân tích các số liệu phản ánh ảnh hưởng của tự nhiên và kỹ thuật đôi với sản xuất, thống kê xuâ't phát từ nhận thức coi kỹ thuật, công cụ lao động là yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất và sự phát triển của sản xuất luôn bắt đầu từ những biến đổi của lực lượng sản xuất, mà trước hết là những biến đổi về công cụ lao động. Mặt khác, sản xuất xã hội cũng có ảnh hưởng nhất định tới điều kiện tự nhiên mà xã hội tồn tại. Khi nghiên cứu mặt lượng của sản xuất xã hội, thông kê cũng nghiên cứu sự thay đổi điều kiện tự nhiên mà sản xuất mang lại. Như vậy, đôi tượng nghiên cứu của thông kê rất rộng, bao gồm cả những hiện tượng xã hội thuộc lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất, cả những hiộn tượng xã hội thuộc hạ tầng cơ sở lẫn kiến trúc thượng tầng. Nhưng, khác với các môn khoa học xã hội khác, thống kê học không trực tiếp nghiên cứu bản chất và quy luật của hiện tượng xã hội. Thông kê học nghión
  12. cứu nặt lượng trong sự liên hệ mật thiết với mặt chất của hện tượng xã hội, nghiên cứu biểu hiện bằng số lượngcủa các mặt thuộc về bản chất và quy luật của hiện ượng. Như vậy, có nghĩa là thống kê học cần nêu lên b:ng con số về qui mô, kết cấu, quan hệ tỷ lệ, tốc độ phát riển (tức là sô" lượng và quan hệ sô" lượng) của hiện ượng nghiên cứu. Sô" lượng và quan hệ số lượng này kiông phải là trừu tượng, mà bao giò cũng bao hàm một rội dung kinh tế - chính trị nhất định, chúng giúp ta nhìn thức được cụ thể bản chất và tính qui luật của hiện tfỢng nghiên cứu. Các con sô" thông kê có thể phản ánh được mặt chất :ủa hiện tượng, vì chất và lượng là hai mặt không thể tích ròi nhau của sự vật hay hiện tượng, giữa chúng có mii liên hệ biện chứng với nhau. Mỗi lượng cụ thể đều {ắn với một chất nhất định; sự biến đổi về lượng dẫn (ến sự thay đổi về chất. Chính vì vậy, nghiên cứu mặt ứợng của hiện tượng có ý nghĩa to lớn đốì với việc nhận thức bản chất của hiện tượng. Hiện tượng kinh tế - xã hội mà thông kê học nghiín cứu thường là hiện tượng sô" lớn, tức là một tổng thể bio gồm nhiều hiện tượng cá biệt. Thống kê học coi tổng ;hể các hiện tượng cá biệt như một thể hoàn chỉnh và lố/ đó làm đối tượng nghiên cứu. Sự cần thiết phải nghim cứu hiện tượng số lớn là do đặc điểm của hiện tượn;' xã hội và nhiệm vụ nghiên cứu của thống kê học
  13. quyết định. Mặt lượng của hiện tượng cá biệt thường chịu sự tác động của nhiều nhân tô", trong đó có nhân tô" tất nhiên (bản chất) và cả nhân tô" ngẫu nhiên (không bản chất). Mức độ và phương hướng tác động của các nhân tô" này lên từng hiện tượng cá biệt rất khác nhau. Nếu chỉ căn cứ vào mặt lượng của hiện tượng cá biệt thì không thể rút ra được kết luận về bản chất chung của hiện tượng. Vì vậy, chỉ có thông qua việc nghiên cứu sô" lớn hiện tượng, tác động của các nhân tô" ngẫu nhiên được bù trừ và triệt tiêu, bản chất và tính quy luật của hiện tượng mới có khả năng thể hiện rõ rệt. Nói thông kê học phải nghiên cứu hiện tượng sô" lớn, không có nghĩa là tuyệt đối không nghiên cứu hiện tượng cá biệt. Giữa hiện tượng sô" lớn và hiện tượng cá biệt tồn tại mối liên hệ biện chứng. Hơn nữa, trong quá trình phát triển của hiện tượng xã hội thường nảy sinh một vài hiện tượng cá biệt mới tiên tiến. Cho nên nghiên cứu hiện tượng số lớn kết hợp với nghiên cứu hiện tượng cá biệt là điều cần thiết. Nó giúp cho việc nhận thức hiện tượng xã hội được toàn diện, phong phú và sâu sắc. Đặc biệt đôi với cồng tác quản lý và phát triển kinh tê quốc dân, việc nghiên cứu đơn vị và cá nhân điển hình tiên tiến có ý nghĩa to lớn và không thể thiếu được. Hiện tượng kinh tế - xã hội bao giờ cũng tồn tại trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể. Trong những điều kiện lịch sử khác nhau, hiện tượng xã
  14. hội có đặc điểm về chất và biểu hiện về lượng khác nhau. Chính vì vậy, tính cụ thể, tính chính xác của sô' liệu thống kê có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Từ những điều đã phân tích trên, có thể kết luận: đối tượng nghiên cứu của thông kê học là mặt lượng trong sự liên hệ mật thiết với mặt chất của hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội sô' lớn, trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. 3. Cơ Sơ LÝ LUẬN VÀ Cơ sở PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA THỐNG KÊ HỌC • « 3.1. Cơ sở lý luận Muôn dùng thổng kê để nhiên cứu mặt lượng trong mốì liên hệ với mặt chất của hiện tượng và quá trinh kinh tế - xã hội, trước hết phải dựa trên cơ sở nhận thức đầy đủ bản chất và quy luật phát triển của hiện tượng và quá trình đó. Ví dụ: khi nghiên cứu thống kô tình hình nhân khẩu của một nước, phải dựa trên cơ sở nhận thức đầy đủ lý luận về dân tộc, về các quy luật nhân khẩu muôn thông kê tổng sản phẩm quốc dân (GDP) ta cần hiểu tổng sản phẩm quốc dân là gì? tổng sản phẩm quốíc dân tính bằng bao nhiêu phương pháp và do bao nhiêu nhân tố tạo thành ? Như vậy, có nghĩa là thông kê học phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh tế học làm cơ sở lý luận.
  15. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, kinh tê chính trị học và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng, nghiên cứu bản chất và những quy luật chung nhất, cơ bản nhất về sự phát triển của xã hội. Đó là những môn khoa học có khả năng giải thích rõ ràng và đầy đủ nhất các khái niệm, các phạm trù kinh tê - xã hội, vạch rõ các mối liên hệ ràng buộc và tác động qua lại giữa các hiện tượng. Do đó, khi nghiên cứu bất kỳ hiện tượng kinh tê - xã hội nào cũng phải dựa trên cơ sở nhận thức đầy đủ bản chất và quy luật phát triển của hiện tượng, tức là phải vận dụng lý luận về các khái niệm, các phạm trù, các quy luật do chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế học đã vạch ra. Đây là nguyên lý có tầm quan trọng bậc nhâ't, quyết định tính chất khoa học và chính xác của thông kê học. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường hiện nay đã xuất hiện nhiều chỉ tiêu kinh tế khá mới mẻ mà lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin chưa đề cập tói, như: Tổng sản phẩm quốc gia, tổng sản phẩm quốic dân, giá trị gia tăng do vậy nếu chỉ dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin thôi chưa đủ mà thông kê học còn phải dựa vào kinh tế học thị trường như kinh tế vi mô, kinh tế vĩ mô làm nền tảng khoa học cho mình. Trong hàng loạt tác phẩm của mình, mỗi lần dùng các phương pháp và số liệu thống kê để nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - xã hội ở Anh, Đức, Nga. Mác, Ăng-ghen, Lênin đều tiến hành phân tích lý luận trên giác độ kinh tế, chính trị một cách sâu sắc, coi đó là tiền đề, là cơ sỏ cho việc phân tích thông kê. Mác đã chỉ rõ: 16
  16. “chỉ SiU khi hiếu rõ những điểu kiện tạo ra tỷ suất lợi nhuậi, thì mới có thể nhờ vào thông kê mà thực sự phân ích được tỷ suất tiền công ở các thời kỳ khác nhau và trrtig những nưốc khác nhau". Lênin cũng khẳng định: Thông kê phải làm nổi bật được những quan hệ kinh ế - xã hội do sự phân tích toàn diện xác lập ra, chứ không nên thông kê để mà thông kê”. Đôi tượng của thông kê học bao giờ cũng gắn liền với thíi gian và địa điểm cụ thể. Điều đó đòi hỏi khi nghiêi cứu thống kê tình hình kinh tế - xã hội nước ta, không thể chỉ dựa vào lý luận chung của chủ nghĩa duy vật lịh sử và kinh tê học, mà còn phải dựa vào các đườn£ lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vì đó là sản piẩm của việc kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác- Lôninvào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nếu không, nhữnị kết luận rút ra được sẽ không có ý nghĩa thực tiễn đ)i với nước ta. Thông kê học khẳng định rằng: cơ sở lý luận của thống kê học chỉ có thế là chủ nghĩa Mác - Lênin, chứ khônị thế là định luật sô lớn của lý thuyết xác suất. Mặc cù định luật sô lớn rất được coi trọng và được vận dụng )hổ biến trong nghiên cứu thông kê, nhưng không thể cc đó là cơ sỏ lý luận được, bỏi vì bản thân định luật này ch’ có khả năng nói lên hình thức biểu hiện của quy luật nà không thể vạch rõ nội dung và bản chất của quy luật. )ịnh luật sô lớn không thê giải đáp được câu hỏi: bán ciất của quy luật ấy là gì? Vì sao có quy luật ấy?
  17. Những điều kiện tồn tại và phát triển của quy luật (tó? Rõ ràng là đối với các hiện tượng kinh tế - xã hội, chỉ có chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tê học mới đưa ra được những câu hỏi đúng đắn. 3.2. Cơ sở phương pháp luận của thông kê học Quá trình nghiên cứu thông kê hoàn chỉnh thường trải qua ba giai đoạn: Điều tra thống kê, tổng hợp thông kê và phân tích thông kê. Ba giai đoạn này có liên hệ mật thiết với nhau, vì giai đoạn trưóc sẽ tạo cơ sở cần thiết cho giai đoạn sau. Nếu một giai đoạn nào đó tiến hành không tốt thì cũng có ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình nghiên cứu thống kê. Căn cứ vào đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu và nhiệm vụ cụ thể của một giai đoạn, thống kê học sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Giai đoạn điều tra thổng kê: Giải quyết nhiệm vụ thu thập các tài liệu ban đầu về hiện tương nghiên cứu để dùng làm căn cứ cho việc tổng hợp và phân tích thông kê. Trong giai đoạn này, thống kê học vận dụng nhiều hình thức tổ chức, nhiều loại và nhiều phương pháp điều tra khác nhau, nhằm thu thập các tài liệu ban đầu một cách chính xác, kịp thòi và đầy đủ. Do tính chất phức tạp của hiện tượng nghiên cứu, cho nên việc thu thập tài liệu ban đầu phải được tiến hành trên sô" lớn các đơn vị, mới giúp cho việc phân tích và rút ra kết luận đúng đắn.
  18. Giai đoạn tổng hợp thống kê: Có nhiệm vụ chỉnh lý và hệ thông hoá các tài liệu ban đầu thu thập được trong điều tra thống kê, nhằm bước đầu nêu lên một sô" đặc trưng cơ bản của hiện tượng nghiên cứu và tạo cơ sở cho việc phân tích sau này. Cũng do hiện tượng nghiên cứu phức tạp, thường bao gồm nhiều đơn vị thuộc các loại hình khác nhau; cho nên người ta thường không tổng hợp chung toàn bộ hiện tượng, mà phải tổng hợp đến từng tổ, từng bộ phận đại diện cho các loại hình khác nhau. Có nghĩa là muôn tổng hợp thổng kê, người ta thường dùng phương pháp phân tổ, nhằm phân chia một tổng thể hiện tượng thành các tổ, các tiểu tổ có sự khác nhau về tính chất. Giai đoạn phân tích thông kê: Vạch rõ nội dung cơ bản của các tài liệu đã được chỉnh lý trong tổng hợp thông kê, nhằm giải đáp các yêu cầu nghiên cứu đề ra. Phàn tích thống kê phải xác định được các mức độ của hiện tượng nghiên cứu, trình độ và xu hướng biến động cua hiện tượng, tính chất và trình độ chặt chẽ các mối liên hệ giữa các hiện tượng; dự báo ở mức độ tương lai của hiện tượng. Trong giai đoạn này, thông kê học phải vận dụng nhiều phương pháp như: phương pháp tính các chỉ tiêu tương đổi, tuyệt đôi và bình quân; phương pháp dãy số biến động; phương pháp chỉ số; phương pháp bảng cân đối Thống kê học cũng vận dụng cả một số phương pháp của toán học như: phương pháp tương quan, hồi quy, phân tích phương sai, ngoại suy
  19. Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét các sự vật và hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội đều có mốỉ liên hệ hữu cơ với nhau, không một sự vật và hiện tượng nào lại tồn tại một cách cô lập. Mối liên hệ của sự vật và hiện tượng luôn luôn diễn ra rất phong phú và nhiều hình, nhiều vẻ. Do đó, thông kê học cũng đã xây dựng được một hệ thống nhiều phương pháp phân tích mối liên hệ như: phương pháp phân tổ, phương pháp so sánh các dãy sô" song hành, phương pháp cân đối, phương pháp chỉ sô' Mọi sự vật và hiện tượng trên thế giới chẳng những có liên hệ hữu cơ với nhau, mà còn luôn luôn ở trong trạng thái vận động và biến đổi. Liên hệ và vận động không tách rời nhau: trong liên hệ đã bao hàm sự vận động, cũng như trong vận động đã bao hàm sự liên hệ. Sự vận động và biến đổi của thế giới khách quan diễn ra theo khuynh hướng tiến lên, đó chính là sự phát triển. Phép biện chứng duy vật không những khẳng định sự phát triển của thê giới mà còn đi sâu giải thích cách thức, nguồn gốc, động lực và khuynh hướng của sự phát triển. Cách thức của sự phát triển là sự tích luỹ dần về lượng đến một trình độ nhất định thì dẫn tới những biến đổi về chất. Động lực và nguồn gốc của sự phát triển là sự đấu tranh của các mặt đôi lập nằm chính ngay trong bản thân sự vật. Khuynh hướng của sự phát triển là sự vật cũ mất đi. sự vật mới ra đời; cái mới thay thế cái cũ. Thông kê học củng xây dựng các
  20. phươrg pháp nghiên cứu sự biến động, đồng thời đi sâu phân tích cách thức, nguồn gốc, động lực và khuynh hướng của sự phát triển. Đó là các phương pháp: dãysố biến cộng, chỉ số Thông kê học cũng căn cứ vào các cặp phạm trù của piép biện chứng duy vật như: cái chung và cái riêng; nguyên nhân và kết quả; tất nhiên và ngẫu nhiên., để xây dựng nhiều phương pháp phân tích khác. Các phương pháp này không những phân tích được iâu sắc và toàn diện bản chất và quy luật phát triển ĩủa hiện tượng, mà còn được dùng để dự báo sự phát triển tương lai của hiện tượng. Tóm lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở phươrg pháp luận của thống kê học. Vì vậy, phương pháp ;ô lập từng hiện tượng ra để nghiên cứu, chỉ xét hiện tượng trong trạng thái tĩnh, chỉ xét mặt lượng đơn thuần mà không chú ý tới mặt chất của hiện tượng đều là trá: với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. 4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM THƯỜNG DÙNG TRONG THỐNG KÊ 4.1. Tông thê thông kê Tông thê thống kê: Là tập hợp các đơn vị (hay phần tử) thuộc hiện tượng nghiên cứu, cần quan sát, thu thập và phân tích mặt lượng của chúng theo một hoặc nột sô tiêu thức nào đó.
  21. Các đơn vị (hay phần tử) cấu thành tổng thể thông kê gọi là đơn vi tổng thể. Ví dụ: muốn tính thu nhập trung bình của một công nhân viên của doanh nghiệp (A) thì tổng thể sẽ là tổng số cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp đó, muốn tính chiều cao trung bình của sinh viên nam lớp X thì tổng thể sẽ là toàn bộ nam sinh viên của lớp X. Như vậy, thực chất của việc xác định tổng thể thống kê là xác định các đơn vị tổng thể. Đơn vị tổng thể là xuất phát điểm của quá trình nghiên cứu thông kê, vì nó chứa đựng những thông tin ban đầu cần cho quá trình nghiên cứu. Tổng thể trong đó bao gồm các đơn vị (hay phần tử) mà ta có thể trực tiếp quan sát hoặc nhận biết được gọi là tổng thể bộc lộ. (Ví dụ: Tổng thể sinh viên của một trường, Tổng thể các doanh nghiệp trên một địa bàn ). Khi xác định tổng thể có thể gặp trường hợp các đơn vị tổng thể không trực tiếp quan sát hoặc nhận biết được, ta gọi đó là tổng th ể tiềm ẩn. Khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội ta thường gặp các tổng thể này (Ví dụ: Tổng thể những người đồng ý (ủng hộ) một vấn đê nào đó, tổng thể những người ưa thích nghệ thuật cải lương ). Tổng thể trong đó bao gồm các đơn vị (hay phần tử) giông nhau ở một hay một sô đặc điểm chủ yêu có
  22. liên qian trực tiếp đến mục đích nghiên cứu được gọi là tông hể đồng chất. Ngược lại, nếu tổng thể trong đó bao gồm ác đơn vị (hay phần tử) không giống nhau ở những đặc đểm chủ yếu có liên quan đến mục đích nghiên cứu được ÍỌĨ là tổng thể không đồng chất. Ví dụ, mục đích nghiêi cứu là tìm hiểu về hiệu quả sử dụng vốn của các doanl nghiệp dệt trên một địa bàn thì tổng thể các doanl nghiệp dệt trên địa bàn là tổng thể đồng chất, nhưní tổng thể tất cả các doanh nghiệp trên địa bàn là tổng hể không đồng chất. Việc xác định một tổng thể là đổng chất hay không đồng chất là tuỳ thuộc vào mục đích Ìghiên cứu cụ thể. Các kết luận rút ra từ nghiên cứu tiống kê chỉ có ý nghĩa khi nghiên cứu trên tổng thể đing chất. Tổng thể thông kê có thể là hữu hạn, cũng có thể được :oi là vô hạn (không thể hoặc khó xác định được sô" đơn \ị tổng thể như tổng thể trẻ sơ sinh, tổng thể sản phẩn do một loại máy sản xuất ra ). Cho nên khi xác định tổng thể thông kê không những phải giới hạn về thực hể (tổng thể là tổng thể gì), mà còn phải giới hạn về thii gian và không gian (tổng thể tồn tại ở thời gian nào, ihông gian nào). 4.2. Tổng thể mẩu Tổng thể mẫu là tổng thể bao gồm một sô' đơn vị đượcchọn ra từ tổng thể chung theo một phương pháp lấy nẫu nào đó.
  23. 4.3. Quan sát Quan sát là cơ sở để thu thập sô" liệu và thông tin cần nghiên cứu. Chẳng hạn trong điều tra chọn mẫu, mỗi đơn vị mẫu sẽ được tiến hành ghi chép, thu thập thông tin và được gọi là một quan sát. 4.4. Tiêu thức thông kê Tiêu thức thống kê ỉà khái niệm dùng để chỉ các đặc điểm của đơn vị tông thể. Ví dụ: Khi nghiên cứu nhân khẩu, mỗi nhân khẩu có những tiêu thức như: giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo Khi nghiên cứu các doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp có các tiêu thức như: số lượng công nhân, vốn cô" định, vốn lưu động, giá trị sản xuất Tiêu thức thống kê được chia thành hai loại: • Tiêu thức thuộc tính: là tiê u th ứ c phản ánh tính chất hay loại hình của đơn vị tổng thể, không có biểu hiện trực tiếp bằng các con sô. Ví dụ các tiêu thức như: giới tính, nghê nghiệp, tình trạng hôn nhân, dân tộc, tôn giáo là các tiêu thức thuộc tính. • Tiêu thức sô” lượng: là tiêu thức có biểu hiện trực tiếp bằng con số. Ví dụ: tuổi, chiều cao, trọng lượng của con người, năng suất làm việc của công nhân Các trị sô" cụ thể khác nhau của tiêu thức sô lươner gọi là lượng biến. Ví dụ: tuổi là tiêu thức số lượner. tuổi 24
  24. không phải là lượng biến. Lượng biến là: 18 tuổi, 20 tuổi, 3) tuổi. Lượng biến có thể phân thành hai loại. » Lượng biến rồi rạc: là lượng biến mà các giá trị có thể:ủa nó là hữu hạn hay vô hạn và có thể đếm được. » Lượng biến liên tục: là lượng biến mà các giá trị có thể có của nó có thể lấp kín cả một khoảng trên trục sô". Ví dụ: trọng lượng, chiều cao của sinh viên; năng suất cia một loại cây trồng. Các tiêu thức thuộc tính hoặc tiêu thức sô" lượng chỉ có hai biểu hiện không trùng nhau trên một đơn vị tổng thể, được gọi là tiêu thức thay phiên. Ví dụ, tiêu thức fiới tính là tiêu thức thay phiên vì chỉ có hai biểu hiện li nam và nữ. Đối với tiêu thức có nhiều biểu hiện ta có hể chuyển thành tiêu thức thay phiên bằng cách rút gcn thành hai biểu hiện. Ví dụ: thành phần kinh tế chia thành quốc doanh và ngoài quốc doanh; sô" công nhân :ủa các doanh nghiệp chia thành nhỏ hơn 500 và lớn hm hoặc bằng 500. 4.5. Chỉ tiêu thống kê Chỉ tiêu thống kê là phạm trù biểu hiện đặc điểm về rrựt lượng trong sự thông nhất với mặt chất của tổng thể hện tượng nghiên cứu trong điểu kiện thời gian và khônf gian cụ thế.
  25. Hoặc, chỉ tiêu thống kê là những con số chỉ mặt lượng gắn với mặt chất của hiện tượng số lớn trong điều kiện thòi gian, địa điểm cụ thể. Theo khoản 3 Điều 3 Chương 1 Luật Thống kê nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quy định: “Chỉ tiêu thống kê là chỉ tiêu mà biểu hiện bằng sô" của nó phản ánh quy mô, tốc độ phát triển, cơ cấu, quan hệ tỉ lệ của hiện tượng kinh tế - xã hội trong không gian và thời gian cụ thể”. Căn cứ theo tính chất và và nội dung biểu hiện chỉ tiêu thống kê có thể phân biệt thành hai loại: • Chỉ tiêu số lượng: là các chỉ tiêu biểu hiện qui mô, khối lượng của tổng thể. Ví dụ: sô" nhân khẩu, sô doanh nghiệp, vốn cô" định, vốn lưu động của một doanh nghiệp, tổng sản phẩm quốc nội, diện tích gieo trồng, số sinh viên đại học • Chỉ tiêu c h ấ t lượng: là các chỉ tiê u biểu hiện tính chất, trình độ phổ biến, quan hệ so sánh trong tổng thể. Ví dụ: giá thành đơn vị sản phẩm là một chỉ tiêu chất lượng, nó biểu hiện quan hệ so sánh giữa tổng giá thành và số lượng sản phẩm sản xuất ra, đồng thời nó phản ánh tính chất phổ biến về mức chi phí cho một đơn vị sản phẩm cho một đơn vị đã được sản xuất ra. Tương tự, các chỉ tiêu năng suất lao động, năng suất cây trồng, tiền lương là các chỉ tiêu chất lượng.
  26. Zắc chỉ tiêu chất lượng mang ý nghĩa phân tích, trị số lủa nó được xác định chủ yếu từ việc so sánh giữa các ch tiêu khôi lượng. f Hệ thống chỉ tiêu thông kê là tập hợp những chỉ tiêu tìống kê do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. +- Hệ thông chỉ tiê u thông kê quốc gia là tập hợp nhữnị chỉ tiêu thống kê phản ánh tình hình kinh tế - xã hội clủ yếu của đất nước. Theo khoản 4, 5 Điều 3 Chươig 1 Luật Thông kê nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam. 27
  27. Chương 2 KHÁI QUÁT CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH NGHIÊN c ứ u THỐNG KÊ 1. ĐIỂU TRA THỐNG KÊ 1.1. Ý nghĩa, nhiệm vụ của điều tra thống kê Hiện tượng mà thông kê nghiên cứu là hiện tượng kinh tế - xã hội sô' lớn, phức tạp, thường xuyên biến động. Do vậy, khi nghiên cứu thông kê một hiện tượng kinh tế xã hội bất kỳ nào đó cần phải có thông tin về lượng trên các đơn vị tổng thể. Ví dụ, khi cần nghiên cứu dân sô" cả nước với các độc điểm về giới tính, độ tuổi, dân tộc, nghề nghiệp thông kê phải tổ chức thu thập tài liệu trên từng người dán về họ và tên; tuổi; nam hay nữ; trình độ văn hóa- chuyên môn; dân tộc, hay khi cần nghiên cứu tình hình sản xuất của các doanh nghiệp, thông kê phải tổ chức thu thập nguồn tài liệu ban đầu phát sinh ra trong từng doanh nghiệp như: Sô' công nhân đi làm hàng ngày; sô' giờ máy hoạt động; số nguyên vật liệu dùng vào sản
  28. xuất Việc tổ chức ghi chép tài liệu ban đầu như vậy là điều tra thống kê. Mặt khác, các hiện tượng kinh tế - xã hội mà thống kê học nghiên cứu thường là những hiện tượng sô" lớn, phức tạp và thường xuyên biến động. Việc thu thập dữ liệu đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và chi phí. Cho nên công tác thu thập dữ liệu cần phải được tiến hành một cách có hệ thông theo một kế hoạch thống nhất để thu thập được dữ liệu đáp ứng mục tiêu và khả năng nhân lực, kinh phí trong giới hạn thời gian cho phép. Như vậy, điều tra thông kê là tổ chức một cách khoa học, theo một kê hoạch thống nhất việc thu thập, ghi chép nguồn tài liệu ban đầu về các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội. Tài liệu điều tra đúng đắn qua tổng hợp, phân tích, dự báo là căn cứ tin cậy để đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội; để nắm được các nguồn tài nguyên phong phú của đất nước và mọi khả năng tiềm tàng có thể khai thác được. Tài liệu do điều tra thống kê cung cấp có hệ thống là căn cứ thực tế vững chắc để Đảng và Nhà nước đề ra các đường lối chính sách, các kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân và quản lý kinh tê - xã hội một cách sát thực. 1.2. Các yêu cầu cơ bản của điều tra thông kê Nhiệm vụ của điều tra thống kê là thu thập tài liệu về các đơn vị tổng thể cần thiết cho các khâu tiếp 30
  29. theo của quá trình nghiên cứu thông kê. Do đó, điều tra thông kê cần đảm bảo được các yêu cầu cơ bản của hoạt động thông kê nói chung: “Trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời trong hoạt động thống kể’ - khoản 1, điều 4, chương 1- Luật thông kê. Trung thực, được đặt ra cho cả cán bộ điều tra và đối tượng điều tra. Yêu cầu này đòi hỏi người thu thập thông tin (cán bộ điều tra) phải tuyệt đối trung thực, ghi chép đúng như những điều đã được nghe, được thấy. Ngay cả việc đặt câu hỏi cũng phải hết sức khách quan, không áp đặt ý định chủ quan, thậm chí không được đưa ra các gợi ý có thể gây ảnh hưởng đối với người trả lòi nhằm giúp thu được những thông tin trung thực. Đối với đôi tượng điều tra (ngưòi cung cấp thông tin), yêu cầu này đòi hỏi họ phải cung cấp những thông tin xác thực, không được che dấu và khai man thông tin. Chính xác - khách quan, nghĩa là tài liệu điều tra phải phản ánh đúng trạng thái của các đơn vị tổng thể, vì vậy phải ghi chép trung thực, có trình độ chuyên môn và có tinh thần trách nhiệm. Kịp thời, cung cấp tài liệu đúng lúc cần thiết để phát huy hết tác dụng của tài liệu đó. Yêu cầu kịp thời được khẳng định bởi thời gian kết thúc việc thu thập ghi trong tài liệu điều tra. Đầy đủ, có nghĩa là tài liệu điều tra phải được thu thập theo đúng nội dung và sô đơn vị tổng thể đã quy
  30. định trong văn kiện điều tra. Tài liệu điều tra đầy đủ mới đáp ứng được mục đích nghiên cứu, đảm bảo tổng hợp, phân tích và dự báo được chính xác. 1.3. Các hình thức tổ chức điều tra thống kê Theo luật thông kê hiện hành, điều tra thu thập tài liệu thông kê về hiện tượng kinh tế - xã hội được thực hiện theo hai hình thức chủ yếu: báo cáo thống kê định kỳ và điều tra thông kê (điều tra chuyên môn) - (Khoản 3, điều 3, chương 1- Luật thông kê). 1.3.1. Báo cáo thông kê định kỳ: Là hình thức tổ chức điều tra thông kê thu thập tài liệu về hiện tượng kinh tế - xã hội một cách thường xuyên có định kỳ theo nội dung, phương pháp và mẫu biểu báo cáo thống kê do cơ quan có thẩm quyền quy định thông nhất trong chế độ báo cáo thông kê định kỳ do Nhà nước ban hành. Theo định kỳ hàng tháng (quí, năm), các doanh nghiệp quốc doanh, các cơ quan thuộc quyền quản lý của Nhà nước phải lập và gửi báo cáo theo biểu mẫu thống nhất lên cơ quan cấp trên. Báo cáo thống kê định kỳ là hình thức tố chức điều tra theo con đường hành chính bắt buộc, đáy là pháp lệnh của Nhà nước để quản lý hoạt động của các đơn vị kinh tế nhà nước. Báo cáo thông kê định kỳ được áp dụng chủ yếu đôi với các doanh nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà 32
  31. nưóc.ĐỐì với khu vực kinh tê tập thể, tư nhân, cá thể, liên d>anh nước ngoài được áp dụng hạn chế. Báo cáo thống kê là những biểu mẫu báo cáo phù hợp CIO từ n g chỉ tiêu y êu cầu báo cáo, có nội d u n g b a o gồm: ’hần tên gọi của báo cáo, cơ quan ban hành, đơn vị báo CIO, thời gian định kỳ lập và gửi báo cáo, cơ quan chủ q-iản nhận báo cáo, chữ ký của ngưòi lập báo cáo, của tìủ truỏng đơn vị báo cáo Và phần trình bày chỉ tiêu, iêu thức và sô" liệu tổng hợp, tính toán theo yêu cầu cia báo cáo. Ví dụ báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xiất kinh doanh, báo cáo tổng mức bán lẻ 1.3.2. Điều tra thông kê (điều tra chuyên môn): Là hìih thức điều tra thu thập tài liệu thống kê về hiện tượng kinh tế - xã hội một cách không thường xuyên, khôrự liên tục theo một kế hoạch, một phương án và phươig pháp điều tra quy định riêng phù hợp với mỗi cuộc liều tra cụ thể. Ví dụ: Các cuộc điều tra nhu cầu nhà ở và hàng tiêu cùng. Điều tra chuyên môn là hình thức phổ biến trong nền Hnh tế thị trường, chiếm tỉ trọng lốn trong tổng sô" cạc CIỘC điều tra hàng năm. Đôl tượng chủ yếu của điều tra chuyên môn là nhữnỊ hiện tượng nghiên cứu không có yêu cầu theo dõi thườrg xuyên, liên tục hoặc không có khả năng hoặc quá ốn kém khi thực hiện thu thập tài liệu thường
  32. xuyên liên tục. Những hiện tượng mà báo cáo thống kê định kỳ không thể thường xuyên phản ánh được. Ví dụ điều tra dân sô, điều tra nhu cầu nhà ở, điều tra giá cả thị trường, điều tra dư luận xã hội về một vấn dề nào đó hoặc là những hiện tượng tuy có biến đổi nhưng chậm và không lớn lắm; hoặc những hiện tượng xảy ra bất thường như: thiên tai, tai nạn lao động Ngoài ra, điều tra chuyên môn còn được tổ chức khi cần kiểm tra chất lượng của báo cáo thông kê định kỳ. Tài liệu điều tra chuyên môn thu thập đuỢc rất phong phú vè phản ánh thực trạng của hiện tượng nghiên cứu tại thòi điểm điều tra. Tuy nhiên, với mỗi cuộc điều tra khác nhau lại có các yêu cầu, kế hoạch và phương pháp điều tra khác nhau do vậy để tạo thuận lợi trong các cuộc điều tra chuyên môn người ta cần phải xây dựng một phương án điều tra. Một phương án điều tra gồm: Xác định mục đích điều tra, yêu cầu, phạm vi, đối tượng, đơn vị, nội dung, phương pháp, thời điểm, thời kỳ, cơ quan tiến hàr.h, lực lượng, công bcí kết quả, kinh phí điều tra (khoản 1, 2, 3, điều 13, mục 11, chương 3 - Luật thống kê). * Xây dựng kê hoạch điểu tra thống kê (phương án điều tra) Thứ nhất: Xác dinh mục đích điêu tra Vấn đề quan trọng đầu tiên của kế hoạch điều tra là phải xác định rõ được mục đích của cuộc điều tra, tức 34
  33. là xen cuộc điều tra nhằm tìm hiểu vấn đề gì phục vụ cho y:u cầu nghiên cứu nào. Bất kỳ một hiện tượng nào cũng có thể được quan sát, rghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Nhưng với mỗi C1ỘC điều tra ta không thể và cũng không cần thiết phải tiều tra tất cả các khía cạnh của hiện tượng mà chỉ cần dều tra những khía cạnh phục vụ yêu cầu nghiên cứu cx thể. Việc xác định mục đích điều tra có tác dụng định hướní cho toàn bộ quá trình điều tra. Nó liên quan đến xác đnh đối tượng, đơn vị và nội dung điều tra. Muôn xác ậnh mục đích điều tra phải căn cứ vào yêu cầu quản lý và chỉ đạo thường xuyên về kinh tế - xã hội của Đảngvà Nhà nước. Thứ hai: Xác đinh đối tượng điêu tra và đơn vị đỉai tra Đối tượng điều tra là tổng thể các đơn vị của hiện tượnị nghiên cứu cần thu thập tài liệu. Xác định đôi tượng điều tra có nghĩa là qui định rõ phim vi của hiện tượng nghiên cứu, vạch rõ ranh giới của hện tượng nghiên cứu với hiện tượng khác, giúp ta xác đnh đúng đắn sô" đơn vị cần điều tra thực tế. Xác định :hính xác đôi tượng điều tra giúp ta tránh được nhần lẫn khi thu thập dữ liệu, làm cho dữ liệu thu thập và tổig hợp phản ánh đúng hiện tượng cần nghiên cứu. 35
  34. Muôn xác định đúng đắn đốì tượng điều tra, một mặt phải dựa vào sự phân tích lý luận kinh tế - xã hội. Mặt khác phải căn cứ vào mục đích điều tra (để nêu lèn những tiêu chuẩn phân biệt giữa hiện tượng nghiên cứu vối các hiện tượng khác có liên quan). Ví dụ: Trong cuộc tổng điều tra dân sô", đôi tượng điều tra được xác định là “Nhân khẩu thường trú trên lãnh thổ Việt Nam”. Để phân biệt “nhân khẩu thường trú” với “nhân khẩu tạm trú” và “nhân khẩu có mặt”, tránh đăng ký trùng lặp hoặc bỏ sót. Kế hoạch điều tra đã nêu ra những tiêu chuẩn cụ thể để xác định thế nào là nhân khẩu thường trú. Đơn vị điều tra: Là đơn vị thuộc đối tượng điều tra và được thu thập tài liệu. Trong điều tra toàn bộ, đơn vị điều tra chính là số” đơn vị thuộc đối tượng điều tra. Trong điều tra không toàn bộ, đơn vị thuộc đối tượng điều tra chỉ là đơn vị điều tra khi nó được chọn để tiến hành thu thập tài liệu. Xác định• đơn vị điều tra chính • là xác định nơi sẽ * cung cấp những dữ liệu cần thiết cho quá trình nghiên cứu. Đồng thòi đơn vị điều tra là căn cứ để tiến hành tổ n g hợp, phân tích và dự báo thống kê. Khi xác định đơn vị điều tra phải căn cứ vào mục đích điều tra và đối tượng điều tra. Đơn vị điều tra có thể là từng doanh nghiệp, từng cửa hàng, từng trường học nhưng cũng có thể là từng công nhân, từng học sinh
  35. Cũng có khi trong một cuộc điều tra có thể có nhiều loại đơn vị điều tra để đáp ứng những yêu cầu nghiên cứu khác nhau. Ví dụ trong tống điều tra dân số thường dùng 2 loại đơn vị điều tra là từng ngưòi dân và từng hộ gia đình. Thứ ba: Nội dung điêu tra Nội dung điều tra là mục lục các tiêu thức cần thu thập tài liệu trên các đơn vị điều tra. Phải xác định rõ nội dung điều tra, vì ta không thể thu thập tài liệu về tất cả mọi tiêu thức, mà chỉ thu thập tài liệu về một số tiêu thức có liên quan đến mục đích nghiên cứu. Vì vậy trong kê hoạch điều tra phải xác định thống nhất mục lục các tiêu thức cần thu thập dữ liệu. Xac định nội dung điều tra phải căn cứ vào mục đích điều tra, đồng thời phải tính đến khả năng về nhân lực, thòi gian, chi phí Tuy nhiên, để phù hợp với nhu cầu thực tê và khả năng cho phép nội dung điều tra chỉ nên bao gồm những tiêu thức quan trọng nhất, có quan bệ với nhau, bổ sung cho nhau và có liên quan trực tiếp đên mục đích điều tra. Mỗi tiêu thức trong nội dung điều tra phải được diễn đạt thành câu hỏi ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng để cả người điều tra và người được điều tra đều hiểu thông nhất. 37
  36. Thứ tư: Xác định thời điểm, thời kỳ điều tra Thời điểm điều tra: Là mổc thời gian được quy định để ghi chép thống nhất tài liệu của tất cả các đơn vị điều tra. Xác định thời điểm điều tra là xác định cụ thể mốc thời gian để thống nhất đăng ký dữ liệu trên các đơn vị tổng thể. Khi xác định thời điểm điều tra phải căn cứ vào tính chất mỗi loại hiện tượng, đồng thồi phải đảm bảo thuận tiện cho việc đăng ký dữ liệu và tính các chỉ tiêu từ dữ liệu điều tra. Ví dụ điều tra thị trường áo mưa không thể tiến hành trong mùa khô vì lúc đó cả ngưòi bán và người mua đều không quan tâm để tham gia cung cấp thông tin tốt được. Thời kỳ điều tra: Là khoảng thòi gian được xác định để thông nhất đăng ký dữ liệu của các đơn vị điều tra trong suốt khoảng thời gian đó (ngày, tuần, 10 ngày, 3 tháng hay 1 năm ). Ví dụ: điều tra sô" lượng sản phẩm làm ra của 1 kỳ nào đó, mức lương bình quân trong 1 tháng, sô" lần scí người đi siêu thị trong vòng 1 tuần qua Thời kỳ điều tra có thể dài hay ngắn phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu. - Thời hạn điều tra: Là thòi gian d à n h cho viộc đăng ký ghi chép tất cả các dữ liệu điều tra, được tính từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc toàn bộ việc thu nhập dữ liệu.
  37. Ví dụ: Tổng điều tra dân số; Thòi hạn điều tra là trong vìng 10 ngày đầu tháng 4, mổic thòi gian quy định để đăng ký thông nhất sô' liệu là Oh ngày 1/4 năm điều tra. Thời hạn điều tra dài hay ngắn tùy thuộc vào qui mồ, tính chất phức tạp của hiện tượng, vào nội dung nghiên cứu, lực lượng tham gia điều tra. Nhưng thòi hạn điều tra không nên quá dài vì sẽ không đảm bảo được yêu cầu kịp thời của tài liệu điều tra. Thứ năm: Biểu điêu tra và bản giải thích cách ghi biểu Biểu điều tra (còn gọi là phiếu điều tra, bản câu hỏi) là loại bản in sẵn theo mẫu quy định trong kế hoạch điều tra, được sử dụng thông nhất để ghi dữ liệu của đơn vị điều tra. Biểu điều tra phải chứa đựng toàn bộ nội dung cẩn điều tra, đồng thòi phải thuận tiện cho việc ghi chép và kiểm tra dữ liệu, thuận tiện cho tổng hợp. Biểu điều tra có thể dùng riêng cho từng đơn vị điều tra, hoặc là biểu dùng chung cho nhiều đơn vị điều tra (nếu các đơn vị này có cùng chung một sô" điều kiện nào đó). Mỗi loại biểu thường có ưu, nhược điểm riêng. Bản giải thích cách ghi biểu: Kèm theo biêu điều tra là bản giải thích và hướng dẫn cụ thể cách xác định và ghi dữ liệu vào biểu điều
  38. tra. Nó giúp cho nhân viên điều tra và đơn vị điều tra nhận thức thông nhất các câu hỏi trong biểu điều tra. Nội dung, ý nghĩa của câu hỏi phải được giải thích một cách khoa học và chính xác, những câu hỏi phức tạp có nhiều khả năng trả lời cần có ví dụ cụ thể. Ngoài những nội dung chủ yếu trên, trong kê hoạch điều tra còn cần đề cập và giải thích một sô" vấn đề thuộc về phương pháp, tổ chức và tiến hành điều tra như: + Cách thức chọn mẫu. + Phương pháp thu thập dữ liệu và ghi chép ban đầu. + Các bước và tiến độ* tiến hành điều tra. + TỔ chức và quy định nhiệm vụ của bộ phận tham gia điều tra. + Bô" trí lực lượng điều tra và phân chia khu vực điều tra. + TỔ chức cuộc họp chuẩn bị và huấn luyện nhân viên điều tra. + Tiến hành điều tra thử để rút kinh nghiệm. + Tổ chức tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra + Dự toán về kinh phí điều tra 40
  39. 1.4. Các loai* điều tra Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau có thể phân :hia điều tra thông kê thành các loại khác nhau: a. Nếu xét theo tính chất liên tục hay không liên tục CUI công việc ghi chép có thể chia điều tra thành 2 loại: Diều tra thường xuyên và điều tra không thường xuyêr, - Điều tra thường xuyên là tiến hành thu thập, ghi clép tài liệu ban đầu của hiện tượng một cách liên tục, tieo sát với quá trình phát sinh, phát triển của hiện ượng. Loại điều tra này thường dùng đối với các hiện ượng cần được theo dõi liên tục do nhu cầu quản lý. V: dụ: Biến động nhân khẩu của một địa phương (sinh, tử, đi, đến ) thu, chi trong gia đình, số sản phẩm sản Xiất, tiêu thụ, sô" công nhân có mặt nơi làm việc, vốn líu động Dữ liệu của điều tra thường xuyên là cơ sở để ập báo cáo thống kê định kỳ. - Điểu tra không thường xuyên: Là tổ chức điều tra tlu thập tài liệu ban đầu một cách không thường xuyêi không liên tục, không gắn với quá trình phát sinh, ohát triển của hiện tượng nghiên cứu. Loại điều tra này thường được tiến hành đối với hiện ^ượng không cần điếu tra thường xuyên (ít biến động, biến động chậm), các hiện tượng cần theo dõi thườig xuyên nhưng có chi phí điều tra lớn (điều tra dân ố, điều tra nông nghiệp, tài sản cô"định ) hoặc các 41
  40. hiện tượng không xảy ra thường xuyên (điều tra dữ kiện). Tài liệu điều tra chỉ phản ánh trạng thái của hiện tượng tại một thời điểm điều tra. Các cuộc điều tra không thường xuyên có thể được tiến hành theo một định kỳ nhất định (3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm, 5 năm ) hoặc không theo định kỳ khi nào cần thì tiến hành điều tra. b. Xét theo phạm vi của đối tượng được điều tra, điều tra có thể phân thành: Điều tra toàn bộ và điều tra không toàn bộ. ■ Điều tra to à n bộ (còn gọi là tổng điều tra): Là tiến hành thu thập, ghi chép tài liệu ban đầu trên toàn thể các đơn vị thuộc đốì tượng điều tra không bỏ sót bất kỳ đơn vị nào. Ví dụ: tổng điều tra dân sô", tổng điều tra tồn kho vật tư hàng hoá, tổng điều tra vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Điều tra toàn bộ cung cấp tài liệu đầy đủ nhất cho nghiên cứu thông kê, nhất là trong nghiên cứu kinh tế và thị trường. Nó giúp ta tính được các chỉ tiêu quy mô, khôi lượng một cách chính xác. Cho phép nghiên cứu cơ cấu, tình hình biến động, đánh giá thực trạng hiện tượng, dự báo xu hướng biến động của hiện tượng Nhưng điều tra toàn bộ đòi hỏi chi phí rất lốn về nhân lực, thòi gian, chi phí, vì vậy không thể áp dụng cho tất cả các trường hợp nghiên cứu.
  41. - Điều tra k h ô n g toàn bộ: Là tiến hành thu thập tài liệu trên một hoặc một sô đơn vị được chọn ra từ các đơn vị thuộc tổng thể hiện tượng nghiên cứu. Do khổì lượng điều tra ít nên chi phí tương đôi thấp, có thể làm nhiều hơn điều tra toàn bộ, với nội dung điều tra rộng hơn, thời gian điều tra ngắn hơn. Tùy theo yêu cầu nghiên cứu ta có các loại điều tra không toàn bộ khác nhau: Điều tra chọn mẫu, điều tra trọng điểm, điều tra chuyên đề. + Điều tra chọn mẫu: Là tiến hành điều tra trên một số đơn vị tổng thể được chọn ra từ tổng thể chung. Điều tra chọn mẫu được dùng nhiều nhất trong nghiên cứu vì tiết kiệm thời gian, chi phí và dữ liệu đáng tin cậy. Kết quả của điều tra chọn mẫu được suy rộng cho tổng thể chung. + Điều tra trọng điểm: Là tiến hành điều tra trên bộ phận chủ yếu nhất, tập trung nhất trong toàn bộ tổng thể hiện tượng nghiên cứu. Kết quả thu được từ điều tra trọng điểm giúp ta nhận biết nhanh tình hình cơ bản của hiện tượng nghiên cứu không dùng để suy rộng cho tống thể. Ví dụ: Khi cần nắm bắt nhanh tình hình tiêu thụ xe máy ta chỉ cần khảo sát và thu thập dữ liệu tại vài địa điểm trung tâm mua bán xe máy chủ yếu. + Điều tra chuyên đề: Là tiến hành điều tra trên một số rất ít các đơn vị tống thể, nhưng lại đi sâu
  42. nghiên cứu chi tiết mọi khía cạnh khác nhau của đơn vị đó. Mục đích là để khám phá, tìm hiểu các yếu tô ảnh hưởng đến hiện tượng nghiên cứu. Tài liệu của điều tra chuyên đề không dùng để suy rộng, không dùng để tìm hiểu tình hình cơ bản của hiện tượng mà chỉ rút ra kết luận về bản thân các đơn vị được điều tra (tốt, xấu) để phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, rút ra các kinh nghiệm. Kết quả điều tra chuyên đê có thể được sử dụng làm cơ sở để thiết kê cho một cuộc điều tra qui mô lớn hơn. 1.5. Các phương pháp thu thập tài liệu điều tra Điều tra thu thập tài liệu thông kê thực hiện theo hai phương pháp chủ yếu: Phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. 1.5.1. Thu thâp trực tiếp Là phương pháp điều tra thu thập tài liệu điều tra trong đó điều tra viên phải trực tiếp quan sát, tiếp xúc với đôi tượng điều tra để trực tiếp thực hiện các công việc điều tra, ghi chép kết quả điều tra hoặc trực tiếp giám sát, theo dõi kiểm tra, đôn đốc những người được huy động tham gia thực hiện tốt các công việc trong cuộc điều tra. Ví dụ: Ngưòi điều tra có thể quan sát scí lượng và thái độ của các khách đến thăm gian hàng của công ty tại một hội chợ hay một cuộc triển lãm hoặc có thể đến
  43. phỏng vấn trực tiếp đối tượng được điều tra và tự ghi chép tài liệu vào phiếu điều tra, điều tra dân sô", điều tra tồn kho hàng hóa Tài liệu điều tra theo phương pháp trực tiếp thường có độ chính xác cao, tuy nhiên phương pháp thu thập này phạm vi ứng dụng bị hạn chê vì có nhiều hiện tượng không cho phép quan sát trực tiếp mặt khác tôn kém về thời gian, công sức, tiền của. 1.5.2. Thu thập gián tiếp Là phương pháp điều tra thu thập tài liệu điều tra trong đó người điều tra không trực tiếp tiếp xúc với đối tượng điều tra, không trực tiếp làm công việc điều tra. Phương pháp này chủ yếu thu thập tài liệu qua bản viết của đơn vị điều tra, qua điện thoại, qua chứng từ sổ sách văn bản sẵn có. Thu thập gián tiếp ít tôn kém hơn thu thập trực tiếp, nhưng kết quả thu thập chậm, chất lượng tài liệu thưòng không cao, khó phát hiện sai sót, khó sửa chữa bổ sung sai sót. 1.6. Sai sô trong điều tra thông kê Các cuộc điều tra thông kê dù được thập dữ liệu bằng phương pháp nào đều phải đảm bảo yêu cầu chính xác với mức độ nhất định. Tuy nhiên, trong thực tế điều tra tài liệu thu thập được thường có sai số’.
  44. Sai sô" trong điều tra thống kê là chênh lệch giữa trị số thu thập được trong điểu tra với trị sô thực tế của h iệ n tượng nghiên cứu. Sai số trong điều tra làm giảm tính chính xác, đúng đắn, trung thực của kết quả điều tra, giảm chất lượng của tài liệu điều tra thu thập được. Từ đó ảnh hưởng đến chất lượng, tính đúng đắn, chính xác trung thực của kết quả tổng hợp, phân tích thống kê trong giai đoạn kế tiếp. Sai sô" trong điều tra thống kê thường do hai nguyên nhân tạo ra: - Sai sô do ghi chép: + Do vạch kê hoạch điều tra sai hoặc không khoa học, không sát với thực tế của hiện tượng. + Do trình độ của nhân viên điều tra. + Do đơn vị điều tra không hiểu câu hỏi. + Do ý thức, tinh thần trách nhiệm của nhân viên điều tra và đơn vị điều tra. + Do dụng cụ đo lường không chính xác. + Do công tác tuyên truyền, vận động không tót. + Do lỗi in ấn - Sai s ố do tính chất đại biểu: Là loại sai số chỉ xảy ra trong điều tra không toàn bộ nhât là sai số chọn mẫu.
  45. Nguyên nhân của loại sai sô này là do việc lựa chọn đơn vị điều tra thực tê không có tính đại biểu cao. Trong điều tra chọn mẫu, ta chỉ thu thập dữ liệu từ một sô ít đơn vị thuộc đôi tượng điều tra rồi căn cứ kết quả điều tra thực tế mà suy rộng thành các đặc trưng của tổng thể. Như vậy tổng thể các đơn vị được chọn nếu khác về kết cấu theo tiêu thức điều tra với tổng thể chung sẽ phát sinh sai số do tính chất đại biểu. Để hạn chê sai sô", cần huấn luyện kỹ nội dung điều tra, tuyển chọn điều tra viên theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ đo lường (nếu cuộc điều tra cần) và thường xuyên kiểm tra khi cuộc điều tra được tiến hành. Tài liệu thu thập được cũng cần kiểm tra logic xem xét độ hợp lý của tài liệu phát hiện các bất thường đế thẩm tra lại, kiểm tra tính chất đại biểu của đơn vị điều tra (trong điều tra chọn mẫu) và kiểm tra về mặt tính toán (cộng hàng và cột, đơn vị tính, biểu này và biểu trước) làm tốt khâu này cũng hạn chế được nhiều sai sót và cũng không mất nhiều thời gian. Kiểm tra một cách có hệ thông toàn bộ cuộc điều tra nhằm phát hiện những sai lệch trong quá trình điều tra. Làm tốt công tác tuyên truyền đối với những đối tượng được điều tra để kết quả điều tra thu được là trung thực, khách quan, tránh trường hợp đổi tượng được điều tra cung cấp những thông tin có tính chất cảm tính, thiếu trung thực.
  46. 2. TỔNG HƠP t h ố n g k ê 2.1. Ý nghĩa và nhiệm vụ của tổng hợp thống kê Sau khi tiến hành điều tra thông kê, cơ quan thông kê đã thu thập được những tài liệu về tiêu thức điều tra trên mỗi đơn vị tổng thể. Các tài liệu này mới chỉ phản ánh các đặc điểm riêng của từng đơn vị. Để có thể nêu lên một sô" đặc trưng của tổng thể, cần phải tiến hành tổng hợp các tài liệu điều tra. Tổng hợp thống kê có nhiệm vụ chỉnh lý và hệ thông hoá các tài liệu ban đầu thu thập được trong điều tra thống kê, nhằm bước đầu nêu lên một sô" đặc trưng cơ bản của hiện tượng nghiên cứu và tạo cơ sở cho việc phân tích sau này. Cũng do hiện tượng nghiên cứu phức tạp, thường bao gồm nhiều đơn vị thuộc các loại hình khác nhau; cho nên người ta thường không tổng hợp chung toàn bộ hiện tượng, mà phải tổng hợp đến từng tổ, từng bộ phận đại diện cho các loại hình khác nhau. Có nghĩa là muôn tổng hợp thông kê, người ta thường dùng phương pháp phân tổ, nhằm phân chia một tổng thể hiện tượng thành các tổ, các tiểu tổ có sự khác nhau về tính chất. 2.2. Những vân đề chủ yếu của tổng hợp thống kê - Mục đích của tổng hợp thống kê: Trong phân tích và dự báo thông kê phải dựa vào những tài liệu 48
  47. biểu hiện hình ảnh thực tê của hiện tượng nghiên cứu. Kết quả của tổng hợp thông kê là căn cứ để phân tích và dự báo thống kê. Cho nên, mục đích của tổng hợp thống kê là khái quát hoá những đặc trưng chung, những cơ cấu tồn tại khách quan theo các mặt của tổng thể nghiên cứu bằng các chỉ tiêu thống kê. Khi xác định mục đích của tổng hợp thôìng kê, phải căn cứ vào yêu cầu tìm hiểu và phân tích những mặt cần thiết nào đó của hiện tượng nghiên cứu để nêu khái quát những chỉ tiêu cần đạt được trong tổng hợp. - Nội dung của tổng hợp thông kê. Nội dung của tổng hợp thống kê là danh mục các biểu hiện của những tiêu thức mà chúng được xác định trong nội dung điều tra. Tuy nhiên, không phải tất cả các biểu hiện• của tiêu thức điều tra đều dựa vào nội • • dung tổng hợp, mà phải chọn lọc để nội dung tổng hợp vừa đáp ứng mục đích nhiên cứu. - Tổ chức và kỹ thuật tổng hợp th ô n g kê. Có hai hình thức tổ chức tổng hợp thống kê chủ yếu: tổng hợp từng cấp và tổng hợp tập trung. Tổng hợp từng cấp là tổ chức tổng hợp các tài liệu điều tra theo từng bước, từng cấp từ dưới lên theo một kế hoạch đã vạch sẵn. Tổng hợp tập trung là toàn bộ tài liệu ban đầu được tập trung về một cơ quan để tiến hành chỉnh lý và
  48. hệ thông hoá từ đầu đến cuối. Cách tổng hợp này thường được tiến hành bằng các phương tiện cơ giới. Tổng hợp từng cấp thường được áp dụng trong chế độ báo cáo thông kê định kỳ và một sô" cuộc điều tra chuyên môn (là hình thức tổ chức tổng hợp chủ yếu). Tổng hợp tập trung chỉ áp dụng đối với một sô" cuộc điều tra chuyên môn lớn. Kỹ thuật tổng hợp giữ một vai trò quan trọng trong công tác tổng hợp thống kê. Có thể phân biệt hai loại kỹ thuật tổng hợp: tổng hợp thủ công và tổng hợp bằng máy. Tổng hợp bằng máy là biện pháp quan trọng để nâng cao năng suất lao động và đảm báo tính chính xác của các số liệu được chỉnh lý, hệ thổng hoá. - Chuẩn bị tài liệu và kiểm tra tài liệu dùng vào tổng hợp. Mỗi cơ quan hay cá nhân thực hiện tổng hợp đều phải tập trung đầy đủ sô" lượng phiếu điều tra, hoặc tài liệu khác để có thể đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ được đảm nhiệm. Tài liệu tập trung không đầy đủ từ đầu mà tiến hành tổng hợp, sau đó phải tiến hành tổng hợp bổ sung, sẽ làm cho khôi lượng công việc tổng hợp tăng lên rất nhiều. Kiểm tra tài liệu dùng vào tổng hợp là một việc làm không thể bỏ qua được. Chất lượng và kết quả tổng hợp phụ thuộc vào chất lượng các tài liệu dùng vào tổng 50
  49. hợp. Kiểm tra tài liệu trước khi tiến hành chỉnh lý - hệ thống hoá nhằm mục đích đảm bảo tính chính xác của tài liệu điều tra ban đầu, phục vụ cho việc tính toán đúng các chỉ tiêu phân tích sau này. 3. PHÂN TÍCH VÀ Dự BÁO THốNG KÊ 3.1. Khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của phân tích và dự báo thông kê Phân tích thống kê nhằm vạch rõ nội dung cơ bản của các tài liệu đã được chỉnh lý trong tổng hợp thống kê, giải đáp các yêu cầu nghiên cứu đề ra. Phân tích thống kê phải xác định được các mức độ của hiện tượng nghiên cứu, trình độ và xu hưống biến động của hiện tượng, tính chất và trình độ chặt chẽ các mối liên hệ giữa các hiện tượng; dự báo ở mức độ tương lai của hiện tượng. Phân tích và dự báo thông kê là khâu cuối cùng của quá trình nghiên cứu thống kê, biểu hiện tập trung kết quả của toàn bộ quá trình nghiên cứu thông kê. Tài liệu điều tra và tổng hợp chỉ có trải qua một quá trình phân tích sâu sắc và toàn diện mới có thể nêu lên được biểuí hiện về mặt bản chất và tính quy luật của hiện tương nghiên cứu. Phân tích và dự báo thông kê không những chỉ có ý nghĩa về mặt nhận thức xã hội, mà trên một giác độ nhất định còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc cải tạo xã hiội.
  50. Nhiệm vụ của phân tích và dự báo thống kê là: - Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch, nhằm phục vụ kịp thời cho công tác quản lý kinh tế của các ngành, các cấp. - Phân tích tính quy luật của các hiện tượng và quá trình kinh tế - xã hội cần nghiên cứu. Để đảm bảo kết quả đúng đắn, khách quan, phân tích và dự báo thông kê phải tuân thủ các nguyên tắc (yêu cầu) sau đây: a/ Phân tích và dự báo thông kê phải tiến hàmh trên cơ sở phân tích lý luận kinh tế - xã hội. Phân tích lý luận giúp ta hiểu rõ tính chất và xu hướng chung của hiện tượng, trên cơ sở đó dùng các sô" liệu và phương pháp phân tích để khẳng định tính chất cụ thể của nó. b/ Phân tích và dự báo thông kê phải căn cứ vào toàn bộ sự kiện và đặt chúng trong mối liên hệ ràmg buộc lẫn nhau. Phân tích và dự báo thông kê phải sử dụng rất nhiều tài liệu, mỗi tài liệu phản ánh chỉ rmột khía cạnh của hiện tượng (một sự kiện). Nếu đặt cô Hập tài liệu này với tài liệu khác sẽ không thấy hết được thực chất của hiện tượng. c/ Phân tích và dự báo thống kè đối với các hiiện tượng có tính chất và hình thức phát triển khác nhau phải áp dụng các phương pháp khác r.hau. Mỗi phươing
  51. pháp thông kê chỉ có ý nghĩa và tác dụng đối với một loại hiện tượng. Do đó, không thể sử dụng một phương p h á p để phân tích và dự báo cho mọi hiện tượng. 3.2. Những vấn để chủ yếu của phân tích và dự báo thống kê Trước khi tiến hành phân tích và dự báo thống kê, ngưòi ta cần phải xây dựng một phương án gồm các vấn đê chủ yếu như sau: + Mục đích cụ thể của phân tích và dự báo thống kê. Mục đích của phân tích dự báo thống kê cũng là mục đích của nghiên cứu thống kê. Xác định mục đích của phân tích và dự báo thống kê cụ thể tức là nêu lên những vấn đề cần giải quyết trong một phạm vi nhất định. Mục đích phân tích và dự báo thông kê cụ thể ảnh hưởng đến việc sử dụng nguồn tài liệu nào? Tính toán những chỉ tiêu gì? Dùng phương pháp phân tích cụ thể nào? Căn cứ để xác định mục đích phân tích và dự báo cụ thể là căn cứ yêu cầu nhằm giải quyết những nhiệm vụ kinh tê - chính trị - xã hội đặt ra cho các đơn vị hoặc cơ quan - doanh nghiệp. + Lựa chọn, đánh giá tài liệu dùng để phân tích và dự báo thông kê. Phân tích và dự báo thường dùng một khối lượng lớn tài liệu từ các nguồn khác nhau. Phần lớn các tài
  52. liệu thu thập được và tổng hợp qua các báo cáo thống kê định kỳ và điều tra chuyên môn do hệ thông kế toán và thống kê chuyên trách đảm nhiệm thường có độ chính xác cao. Những tài liệu này phục vụ không chỉ cho một mà cho nhiều mục đích nghiên cứu khác nhau, nhất là nguồn tài liệu của các cuộc tổng điêu tra. Ngoài ta, khi phân tích cần phải sử dụng nguồn tài liệu của các ngành khác, hoặc cơ quan khác Những tài liệu này có nội dung, phương pháp tính toán, phương pháp thu thập và tổng hợp có thể khác nhau. Do vậy khi tiến hành phân tích và dự báo phải có sự lựa chọn, đánh giá tài liệu trước khi dùng vào phân tích. Căn cứ vào mục đích phân tích và dự báo mà lựa chọn những tài liệu thật cần thiết, gồm các tài liệu chính và những tài liệu có liên quan, nếu thiếu các tài liệu cần thiết thì phải tiến hành thu thập thêm hoặc có thể dựa vào nguồn tài liệu sẵn có mà tính toán. Chất lượng các tài liệu ảnh hưởng đến chất lượng của phân tích và dự báo. Do đó, khi lựa chọn các tài liệu cần thiết phải tiến hành đánh giá chúng trên các mặt sau: - Tài liệu thu thập được có đảm bảo các yêu cầu chính xác, kịp thòi và đầy đủ hay không? Phương pháp thu thập tài liệu có khoa học hay không? Trong điều tra chọn mẫu cần đánh giá tính chất đại biểu của số mẫu được chọn để điều tra thực tế v.v 54
  53. - Các tài liệu có được phân tổ, chỉnh lý và hệ thống hoá khoa học hay không? Có đáp ứng yêu cầu và mục đích của phân tích hay không? - Các chỉ tiêu được tính to á n theo phương p h á p nào? có nhất trí với phương pháp của thông kê hay không? Các tài liệu có đảm bảo tích chất so sánh được với nhau hay không? v.v. Khi đánh giá tài liệu phải kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn; phải so sánh - đôi chiếu các chỉ tiêu với nhau và phải liên hệ với tình hình thực thế. + Xác định các phương pháp, các chỉ tiêu phân tích và dự báo. Thống kê học sử dụng nhiều phương pháp để phân tích và dự báo như: phương pháp tính các chỉ tiêu tương đối, tuyệt đối và bình quân; phương pháp dãy số biến động; phương pháp chỉ số; Thống kê học cũng vận dụng cả một sô" phương pháp của toán học như: phương pháp tương quan, hồi quy, phân tích phương sai, ngoại suy Mỗi phương pháp đều có đặc điểm ý nghĩa và tác dụng khác nhau. Do đó, lựa chọn các phương pháp phân tích và dự báo cho từng trường hợp cụ thể, cần phải chú ý các điểm sau: - Phải xuất phát từ mục đích cụ thể của phân tích thống kê, cũng như xuất phát từ đặc điểm, tính chất sự biến động, mốì liên hệ của các hiện tượng được nghiên cứu và nguồn sô" liệu để chọn phương pháp phù hợp. 55
  54. - Phải h iể u rõ ưu,' nhược • đ iểm và điều kiện • vận • dụng của từng phương pháp để áp dụng một cách linh hoạt vào từng trưòng hợp cụ thể. - Phải biết khéo léo kết hợp nhiều phương pháp nhằm phát huy tác dụng tổng hợp của chúng, để làm cho việc phân tích và dự báo được sâu sắc và toàn diện hơn. Khi phân tích và dự báo, phải xác định được các chỉ tiêu cần thiết, phù hợp với mục đích nghiên cứu. Để xác định các chỉ tiêu cần chú ý: - Phải lựa chọn những chỉ tiêu quan trọng nhất, phản ánh đúng đắn nhất đặc điểm và bản chất của hiện tượng nghiên cứu. - Các chỉ tiêu phân tích phải có sự liên hệ với nhau, bổ sung cho nhau để tiện cho việc đối chiếu, so sánh. + So sánh đối chiếu các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một mặt của hiện tượng nghiên cứu. So sánh, đối chiếu chỉ tiêu với nhau sẽ thấy được đặc điểm, bản chất, xu hướng phát triển và tính quy luật của hiện tượng được nghiên cứu. So sánh, đối chiếu chỉ tiêu được quán triệt trong các phương pháp phân tích và dự báo thông kê. Khi so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu cần chú ý đảm bảo tính chất có thể so sánh được. Nếu tính chất này bị 56
  55. vi phạn thì phải tiến hành chỉnh lý, tính toán nhằm làm cho chúng trở thành so sánh được. + Dự báo mức độ tương lai của hiện tượng. Dự báo thông kê là căn cứ vào tài liệu thống kê và hiện tưcng nghiên cứu trong thời gian đã qua; sử dụng các phirtng pháp thích hợp để tính toán các mức độ tương lai của hiện tượng. Kết quả dự báo thông kê là một trong những căn cứ tin cạy giúp cho việc xây dựng kê hoạch, xây dựng phát triển kinh tế - xã hội một cách chính xác. Tiỳ theo tính chất của hiện tượng nghiên cứu và mục đích dự báo cụ thể; thống kê có thể tiến hành dự báo với :ác thời hạn khác nhau: dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Các đơn vị cơ sở thường làm dự báo ngắn hạn nhằm phục vụ thiết thực cho việc chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ thường xuyên. 57
  56. Chương 3 PHÂN TỔ THỐNG KẺ 1. NHỮNG VẤN ĐỂ CHUNG CỦA PHƯƠNG PHÁP PHÂN Tổ THỐNG KÊ 1.1. Khái niệm về phân tổ thống kê Phân tổ thống kê là căn cứ vào một (hay một số) tiêu thức nào đó để tiến hành phân chia hiện tượng nghiên cứu thành các tổ (hoặc các tiểu tổ) có tính chất khác nhau. Ví dụ: Khi nghiên cứu tình hình nhân khẩu, căn cứ vào tiêu thức “giới tính” để chia tổng scí nhân khẩu thành hai tổ: nam và nữ; căn cứ vào tiêu thức “tuổi” để chia số nhân khẩu này thành nhiều tổ có độ tuổi khác nhau. Hay khi nghiên cứu tình hình sản xuất của các doanh nghiệp, có thể chia tổng sô" doanh nghiệp thành các nhóm theo các tiêu thức: thành phần kinh tế; sô" lượng công nhân; giá trị sản xuất; v.v Khi phân tổ thông kê, các đơn vị tổng thể được tập hợp lại thành một số tổ (và tiểu tổ), giữa các tổ có sự khác nhau rõ về tính chất, còn trong phạm vi mỗi tổ, các đơn vị đều có sự giông nhau (hoặc gần giông 59
  57. nhau) về tính chất theo tiêu thức được dùng làm căn cứ để phân tổ. 1.2. Ý nghĩa của phân tổ thống kê Phân tổ thống kê có ý nghĩa nhiều mặt trong nghiên cứu thống kê. Trong một sô" trường hợp, khi tiến hành điều tra thông kê, người ta đã dùng đến phương pháp phân tổ. Ví dụ khi điều tra doanh thu của những người buôn bán, trước hết phải chia sô" ngưòi buôn bán theo ngành hàng, nhóm hàng kinh doanh, sau đó chọn ra một sôT người nhất định trong mỗi ngành hàng, nhóm hàng đó để thu thập sô" liệu. Tương tự như vậy, để tiến hành điều tra, thăm dò ý kiến của các nhà khoa học vê một vấn đề nào đó, ngưòi ta thường phải chia sô" cán bộ khoa học - kỹ thuật được hỏi ý kiến theo các ngành khoa học khác nhau, v.v Phần tổ thống kê là phương pháp cơ bản để tiến hành tổng hợp thông kê. Phân tổ thống kê giúp ta hệ thông hoá một cách khoa học các tài liệu thu thập được trong điều tra, giúp ta phân chia tổng thể phức tạp thành các tổ khác nhau theo những chỉ tiêu cần tổng hợp. Thông qua tài liệu đã được phân tổ có thể nhận xét đặc điểm riêng của từng tổ và đặc trưng chung của hiện tượng nghiên cứu. Phân tổ thông kê là một trong các phương pháp quan trọng của phân tích thống kê; đồng thòi là cơ sở để
  58. vận dụng các phương pháp phân tích thông kê khác. Các phương pháp tínhsố tương đôl, sô" bình quân, chỉ sô, hồi qui và tương quan, thường dựa trên các kết quả phân tổ thông kê. Chỉ sau khi đã phân chia tổng thể nghiên cứu thành các tổ có qui mô và đặc điểm khác nhau, việc tính các chỉ tiêu phản ánh mức độ, tình hình biến động, môi quan hệ giữa các hiện tượng mới có ý nghĩa đúng đắn. Phân tổ thống kê thực hiện việc nghiên cứu cái chung và cái riêng một cách kết hợp. Các đặc trưng sô" lượng của từng tổ giúp ta thấy được đặc trưng cả tổng thể, nhận thức được bản chất và qui luật của hiện tượng. Tổng thể hiện tượng được chia thành các tổ có qui mô, đặc điểm khác nhau, mặt sô’ lượng và quan hệ số lượng của các tổ phản ánh mức độ, kết cấu của hiện tượng và mối liên hệ giữa các tiêu thức. Phương pháp phân tổ được vận dụng phổ biến nhất trong việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tê - xã hội. Lý luận phân tổ là một trong những trung tâm lý luận của thông kê học nước ta hiện nay. Vai trò của phương pháp phân tố được quyết định chủ yếu bởi nội dung lý luận phong phú và hiệu quả to lớn của nó trong toàn bộ quá trình nghiên cứu thống kê hoàn chỉnh. 1.3. Nhiệm vụ của phân tổ thông kê Phân tổ thống kê giải quyết các nhiệm vụ cơ bản dưới đây: 61
  59. - Phân chia các loại• hình kinh tế - xã hội • của hiện * tượng nghiên cứu. Các loại hình của hiện tượng kinh tê - xã hội tồn tại khách quan. Sự vận động và phát triển của toàn bộ hiện tượng là kết quả đấu tranh giữa các loại hình đôi lập tồn tại ngay trong bản thân hiện tượng. Do vậy, phương pháp nghiên cứu khoa học là phải nêu lên các đặc trưng riêng biệt của từng loại hình và mối quan hệ của các loại hình đó. Muốn vậy, trước hết phải dựa vào lý luận kinh tê - chính trị - xã hội để phân biệt các bộ phận khác nhau về tính chất và tồn tại khách quan trong nội bộ hiện tượng. Chẳng hạn, trong các loại hình kinh tê - xã hội, cần chú trọng đến các thành phần kinh tế và thành phần giai cấp, vì sự thay đổi các loại hình này phản ánh sự biến đổi của kết cấu xã hội và quan hệ sản xuất. Loại phân tổ để giải quyết nhiệm vụ cơ bản này gọi là phân tổ phân loại. - Biểu hiện kết cấu của hiện tượng nghiên cứu. Mỗi một loại hình hay hiện tượng kinh tê - xã hội thường do nhiều bộ phận, nhiều nhóm đơn vị có tính chất khác nhau hợp thành. Các bộ phận (hay các nhóm) này chiếm những tỷ trọng khác nhau trong tổng thể và nói lên tầm quan trọng của mình trong tổng thể đó. Mặt khác, tỷ trọng của các bộ phận còn nói lên kết cấu của tổng thể theo một tiêu thức nào đó. Muôn nghiên cứu được kết cấu của tổng thể, phải dựa trên cơ sở phân tổ 62
  60. thống kê. Trong công tác nghiên cứu thống kê, các bảng phân tổ kết cấu được sử dụng rất phổ biến. Kết cấu của tổng thể phản ánh một trong các đặc trưng cơ bản của tổng thể trong điều kiện thòi gian và không gian cụ thể. Sự thay đổi kết cấu của tổng thể qua thời gian giúp ta thấy được xu hướng phát triển của hiện tượng nghiên cứu. Phương pháp phân tổ thống kê để giải quyết nhiệm vụ này gọi là phân tổ kết cấu. - Biểu hiện mối liên hệ giữa các tiêu thức. Hiện tượng kinh tê - xã hội phát sinh và biến động không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời các hiện tượng xung quanh, mà ngược lại, chúng liên hệ và phụ thuộc với nhau theo những quy luật nhất định. Giữa các tiêu thức mà thống kê nghiên cứu cũng thưòng có mốỉ liên hệ với nhau. Sự thay đổi của tiêu thức này sẽ dẫn đến sự thay đổi của tiêu thức kia theo một quy luật nhất định. Tìm hiểu tính chất và mức độ liên hệ giữa các hiện tượng nói chung và giữa các tiêu thức nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nghiên cứu thông kê. Khi tiến hành phân tổ, các tiêu thức có liên quan với nhau được chia thành hai loại: Tiêu thức nguyên nhân (là tiêu thức gây ảnh hưởng) và tiêu thức kết quả (là tiêu thức bị ảnh hưởng, phụ thuộc vào tiêu thức nguyên nhân).
  61. Phương pháp phân tổ thống kê để giải quyết nhiệm vụ này gọi là phân tô liên hệ. Phần này sẽ được trình bày ở mục 4. 2. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH PHÂN Tổ THỐNG KỀ 2.1. Lựa chọn tiêu thức phân tô Tiêu thức phân tổ là tiêu thức được lựa chọn làm căn cứ để tiến hành phân tổ thông kê. Lựa chọn tiêu thức phân tổ là vấn đề mang tính cốt lõi của phân tổ thông kê nên cần phải được giải quyết chính xác. Tuy các đơn vị tổng thể có rất nhiều tiêu thức khác nhau, nhưng ta không được chọn bất kỳ tiêu thức nào làm căn cứ phân tổ. Tiêu thức phân tổ khác nhau sẽ nói lên những mặt khác nhau của hiện tượng. Có tiêu thức phân tổ nói rõ được bản chất của hiện tượng, nhưng cũng có những tiêu thức, nếu được chọn làm căn cứ phân tổ, sẽ không đáp ứng mục đích nghiên cứu, thậm chí còn làm sai lệch bản chất của hiện tượng. Lênin đã nhận xét: “Cũng những tài liệu như nhau mà cách sắp xếp khác nhau lại đưa đến những kết luận trái ngược hẳn với nhau”. Câu nói của Lênin nhằm nêu lên tầm quan trọng của việc lựa chọn chính xác tiêu thức phân tổ, vì tiêu thức phân tổ khác nhau có thể đưa đến những kết luận trái ngược hẳn nhau, tuy rằng vẫn cùng một nguồn tài liệu. Trong tác phẩm “Những tài liệu mới về quy luật phát triển của chủ n g h ĩa tư bản trong n ông nghiệp”, Lênin đă phân tích việc phân chia các ấp trại
  62. nông nghiệp nước Mỹ theo hai tiêu thức khác nhau: theo “diện tích” và theo “giá trị sản phẩm”. Lênin vạch rõ rằng, thống kê tư bản đã tiến hành sắp xếp các ấp trại theo “diện tích” là hoàn toàn sai lầm, không nói lên được thực chất phát triển thâm canh của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nước Mỹ. Theo quan điểm của ông, muôn nói lên chính xác con đường phát triển chủ yếu của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa nước Mỹ, phải tiến hành phân tổ các ấp trại theo tiêu thức “giá trị sản phẩm”. Từ những phân tích trên đây chứng tỏ rằng việc phân tổ chính xác, khoa học trưốc hết phụ thuộc vào việc lựa chọn tiêu thức phân tổ. Để đảm bảo lựa chọn tiêu thức phân tổ được chính xác, phản ánh đúng bản chất của hiện tượng, có thể căn cứ vào các nguyên tắc sau đây: - Phải dựa trên cơ sở phân tích lý luận một cách sâu sắc, nắm vững bản chất và tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu để chọn ra tiêu thức bản chất nhất, phù hợp với mục đích nghiên cứu. Tiêu thức bản chất là tiêu thức nói lên được bản chất của hiện tượng nghiên cứu, phản ánh đặc trưng cơ bản của hiện tượng trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Bản chất của mỗi hiện tượng cụ thể được phản ánh qua nhiều tiêu thức khác nhau, do vậy phải tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà dùng lý luận để chọn ra
  63. các tiêu thức bản chất nhất. Ví dụ, khi phân tổ các doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất công nghiệp nào đó, để nghiên cứu đơn vị tiên tiến và lạc hậu, thì các tiêu thức: giá thành, năng suất lao động, lợi nhuận là những tiêu thức bản chất, còn các tiêu thức: sô" lượng công nhân, giá trị sản xuất, giá trị thiết bị không phải là tiêu thức bản chất. Ngược lại, để nghiên cứu quy mô của doanh nghiệp thì tiêu thức bản chất có thể là: sô" lượng công nhân, giá trị sản xuất, giá trị thiết bị và tài sản cô" định v.v - Phải căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể của hiện tượng nghiên cứu để chọn ra các tiêu thức phân tổ thích hợp. Cùng một loại hiện tượng nghiên cứu nhưng phát sinh trong điều kiện thòi gian và địa điểm khác nhau, thì bản chất có thay đổi khác nhau. Vì vậy, tiêu thức phân tổ cũng mang ý nghĩa khác nhau. Nếu chỉ dùng một tiêu thức phân tổ chung cho mọi trường hợp thì tiêu thức phân tổ đó trong điều kiện này có thể giúp ta nghiên cứu chính xác, nhưng trong điều kiện khác lại không có tác dụng gì cả. Ví dụ: Khi nghiên cứu tình hình đời sống nông dân ở nước ta, trước kia có thể phân tổ nông hộ theo thành phần giai cấp, theo số ruộng đất chiếm hữu , nhưng đến nay quan hệ sản xuất ở nông thôn đã thay đổi, tiêu thức “sô" ruộng đất chiếm hữu” và “thành phần 66
  64. giai cấp” không còn phù hợp khi nghiên cứu đến mức sổng của nông dân, nên phải chọn các tiêu thức thích hợp khác như: số lao động, sô" diện tích nhận khoán là những tiêu thức phản ánh khả năng thu nhập và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nông dân. - Phải tuỳ theo mục đích nghiên cứu và điều kiện tài liệu thực tê mà quyết định phân tổ hiện tượng theo một hay theo nhiều tiêu thức. Phân tổ theo một tiêu thức gọi là phân tổ giản đơn, còn phân tổ theo nhiều tiêu thức gọi là phân tổ kết hợp. Nhìn chung, hiện tượng kinh tế - xã hội được nghiên cứu thường rất phức tạp, cho nên việc phân tổ theo một tiêu thức, dù là tiêu thức căn bản nhất, cũng chỉ phản ánh được một mặt nào đó của hiện tượng Nếu phân tổ kết hợp theo nhiều tiêu thức, sẽ phản ánh được nhiều mặt khác nhau của hiện tượng, các mặt này có thể bổ sung cho nhau và giúp cho việc nghiên cứu thêm sâu sắc, toàn diện. Trong nhiêu trường hợp, phân tổ kết hợp giúp ta nghiên cứu môi liên hệ giữa các tiêu thức. Tuy nhiên, cũng không nên kết hợp quá nhiều tiêu thức dễ làm cho việc phân tố trở nên phức tạp, có thê dẫn đến những sai sót làm giảm mức độ chính xác của tài liệu. Trong thực tê, thông kê thường phân tổ kết hợp theo hai hay ba tiêu thức. 67
  65. 2.2. Xác định số tổ cần thiết và khoảng cách tổ Sau khi chọn tiêu thức phân tổ thích hợp, vấn đề tiếp theo là xét xem cần phải chia hiện tượng nghiên cứu thành bao nhiêu tổ và căn cứ vào đâu để xác định sô" tổ cần thiết đó. Sô" lượng tổ phụ thuộc vào lượng thông tin và phạm vi biến động của tiêu thức nghiên cứu. Lượng thông tin càng nhiều, phạm vi biến động càng lớn thì càng phải phân làm nhiều tổ. Sô' tổ cần thiết còn được xác định tuỳ thuộc vào tính chất của tiêu thức phân tổ. Có thể phân biệt hai loại tiêu thức: tiêu thức thuộc tính và tiêu thức sô" lượng. 2.2.1. Phản tổ theo tiêu thức thuôc tính Tiêu thức thuộc tính phản ánh các tính chất của đơn vị tổng thể, không biểu hiện trực tiếp bằng các con sô", ví dụ như: giói tính, dân tộc, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, nơi cư trú v.v Trong phân tổ này, các tổ được hình thành là do sự khác nhau giữa các loại hình, các loại hình đó có thể được hình thành sẵn từ trưốc và tồn tại một cách khách • • • quan trong tự nhiên, xã hội. Nếu các loại hình tương đối ít, ta có thể coi mỗi loại hình là một tổ. Vì vậy có bao nhiêu loại hình sẽ phân làm bấy nhiêu tổ. Chẳng hạn phân tổ nhân khẩu theo giới tính, ta sẽ được hai tổ: nam và nữ, hoặc phân tổ cơ cấu lao động nông thôn theo trình độ học vấn theo tài liệu sau:
  66. Bảng 3.1: Cơ câu lao động nông thôn theo trình độ học vấn, giai đoạn 1996 - 2005 (Đơn vị %) Thời gian 1996 2000 2005 Trình độ học van' Chưa biết chữ 6,57 4,79 4,95 Chưa TN tiểu hoc • 22,63 18,48 15,15 Tốt nghiệp tiểu học 28,87 30,95 31,59 Tốt nghiệp THCS 32,74 34,59 34,61 Tốt nghiệp THPT 9,19 11,18 13,71 Chung 100,00 100,00 100,00 (Nguồn: Tổng cục Thông kê; Bộ Lao động Thương binh và xã hội) Trường hợp sô' loại hình thực tế có nhiều, có khi tói hàng trăm hàng nghìn, nếu cứ coi mỗi loại hình là một tổ thì sô" tổ sẽ quá nhiều, không khái quát chung được. Mặt khác, giữa các loại hình chưa chắc đã có sự khác nhau rõ rệt về chất. Do đó, phải giải quyết bằng cách ghép các loại hình nhỏ vào cùng một tổ, theo nguyên tắc: các loại hình đó phải giống nhau (hoặc gần giống nhau) về tính chất, giá trị sử dụng hay ý nghĩa kinh tế. Trong thực tế, thống kê thường tiến hành sắp xếp tài liệu theo những văn bản gọi là bảng phân loại hay
  67. bảng danh mục do Nhà nước quy định thống nhất và cô" định trong thời gian tương đối dài. Muôn lập được các bảng danh mục chính xác, đòi hỏi phải có sự phân tích lý luận sâu sắc và phải căn cứ vào mục đích nghiên cứu cụ thể. Ví dụ, ta có bảng phân tổ sau: Bảng 3.2: Năng simt lao động của các ngành, tính bằng GDP/ lao động (Đơn vị: triệu đồng) Ngành 1996 2000 2005 Nông nghiệp, lâm nghiệp 1,99 2,35 2,86 Thuỷsản 8,81 9,16 7,47 Công nghiệp khai thác mỏ 106,62 96,04 56,03 Công nghiệp chế biến 11,71 14,56 17,75 Sản xuất và phân phối điện, khí 66,86 82,17 76,41 đốt và nước Xây dựng 25,44 21,37 15,73 Thương nghiệp, sửa chữa xe, đồ 11,14 10,85 12,75 dùng gia đình Khách sạn, nhà hàng 17,50 17,51 19,20 Vận tải, kho bãi, thông tin liên 11,00 9,53 10,98 lạc Tài chính, tín dụng 40,50 53,62 46,21 70
  68. Hoạt động khoa học và công nghệ 71,38 83,16 117,28 Các hoạt động kinh doanh tài 171,42 139,70 62,99 sản và dich♦ vu * tư vấn Quản lý nhà nước, ANQP, đảm 19,44 13,49 14,42 bảo xã hôi• bắt buôc • Giáo duc• và đào tao • 11,36 9,98 10,65 Y tế và hoạt động cứu trơ xã hôi 13,83 14,69 15,69 Hoạt động văn hoá và thể thao 13,73 14,88 16,31 Hoạt động Đảng, đoàn thể và 2,09 2,46 2,55 hiệp hội Hoạt đông phục vụ cá nhân và 7,64 11,70 11,65 cộng đồng Làm thuê công việc gia đình 3,57 6,17 3,47 trong các hộ Chung 6,04 7,13 9,04 (Nguồn: Tổng cục Thống kê; Bộ Lao động Thương binh và xã hội) 2.2.2. Phân tổ theo tiêu thức sô lượng Tiêu thức sô" lượng là loại tiêu thức mà biểu hiện cụ thể là những con sô", ví dụ như tiêu thức tuổi, mức lương, sô"người trong một hộ gia đình v.v Trong phân tổ này, phải căn cứ vào các lượng biến khác nhau của tiêu thức mà sắp xếp các đơn vị vào các
  69. tổ có tính chất khác nhau. Tuỳ theo lượng biến của tiêu thức phân tổ thay đổi nhiều hay ít mà phân tổ được giải quyết khác nhau. Trường hợp lượng biến của tiêu thức thay đổi ít, tức là sự biến thiên về lượng giữa các đơn vị không chênh lệch nhau nhiều, ví dụ như: sô" người trong một hộ gia đình, sô" máy do một công nhân phụ trách, v.v Trường hợp này, lượng biến chỉ thay đổi trong một phạm vi hẹp nên số tổ chỉ có một giới hạn nhất định và tương ứng với một trị số của tiêu thức đã có tính chất khác nhau, do đó có thể coi mỗi lượng biến là cơ sở để hình thành một tổ. Ví dụ, phân tổ công nhân trong một doanh nghiệp dệt theo sô" máy mỗi người phụ trách, ta có bảng sau: Bảng 3.3: Phân tổ công nhân Doanh nghiệp N (tháng 8/2007) Sô" máy dệt do một công SỐ công nhân (người) nhân phụ trách (máy) 11 3 12 7 13 20 14 50 15 35 16 15 Cộng 130 72
  70. Việc phân tổ trên rất đơn giản, vì lượng biến của tiêu thức phân tổ (sô" máy dệt) chỉ thay đổi trong phạm vi hẹp (từ 11 đến 16 máy). Khi người công nhân đứng thêm được một máy biểu hiện chất lượng công tác của họ đã thay đổi. Vì vậy có thể căn cứ vào mỗi lượng biến để thành lập một tổ. Trường hợp lượng biến của tiêu thức biến thiên lớn, nếu căn cứ vào mỗi lượng biến để hình thành một tổ thì sô" tổ sẽ quá nhiều, đồng thời không nói rõ sự khác nhau về chất giữa các tổ. Trong trường hợp này cần chú ý tới mối liên hệ giữa lượng và chất trong phân tổ, nghĩa là phải xem sự thay đổi về lượng đến mức độ nào thì chất của hiện tượng sẽ thay đổi và làm nảy sinh ra một tổ khác. Như vậy, mỗi tổ sẽ bao gồm một phạm vi lượng biến, có hai giới hạn: giới hạn dưới và giới hạn trên. Giới hạn dưới là lượng biến nhỏ nhất của tổ để làm cho tổ đó được hình thành. Giới hạn trên là lượng biến lớn nhất của tổ, nếu vượt quá giới hạn này thì chất lượng thay đổi và chuyển sang tổ khác. Trị số chênh lệch giữa hai giới hạn này gọi là trị số khoảng cách tổ. Trong đó: d- trị sô" khoảng cách tổ Rmax* giới hạn trên của tổ (lượng biến lớn nhất của tổ) Rmjn - giới hạn dưới của tổ (lượng biến nhỏ nhất của tổ) 73
  71. Việc phân tổ như vậy gọi là phân t ổ có khoảng cách tổ. Ta có ví dụ sau đây: Bảng 3.4: Phân bô dân số theo nhóm tuổi (Đơn vị tính: %) Nhóm tuổi Tỷ lệ dân số Giới tính Nam Nữ 0 - 4 7,64 3,90 3,74 5 - 9 11,55 5,80 5,76 10-14 13,06 6,84 6,22 15-19 11,91 5,91 6,00 20-24 7,94 4,06 3,88 25-29 6,49 3,19 3,30 30-34 6,90 3,16 3,74 35-39 7,26 3,45 3,80 40-44 6,16 2,89 3,27 45-49 4,60 2,11 2,49 50-54 3,17 1,45 1,72 55-59 3,22 1,44 1,78 60-64 2,97 1,34 1,63 Trên 65 7,14 2,90 4,24 Cả nước 100,00 48,43 51,57 (Nguồn: Tài liệu Điều tra mức sống dân cư 1997 - 1998) 74
  72. Để xác định ranh giới giữa các tổ, có hai trứờng hợp: - Thứ nhất, là trị sô" của tiêu thức phân tổ biến thiên không liên tục: Giới hạn dưới của một tổ nào đó là trị sô" sát với giới hạn trên của tổ trước và giới hạn trên của tổ đó là trị số sát vối giới hạn dưới của tổ sau. Ví dụ: như bảng phân bô" dân sô" theo nhóm tuổi vừa nêu trên. - Thứ hai, là trị sô" của tiêu thức phân tổ biến thiên liên tục, thì giới hạn dưới của một tổ nào đó là trị sô" trùng với giới hạn trên của tổ trước và giới hạn trên của tổ đó là trị số trùng với giới hạn dưối của tổ sau. Theo quy ước nếu đơn vị nào đó có trị sô" tiêu thức trùng với giới hạn trên của một tổ thì đơn vị đó được xếp vào tổ kế tiếp. Trong phân tổ, việc xác định khoảng cách tổ đều nhau hay không đều nhau tuỳ theo tính chất, đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu hay tuỳ theo mục đích so sánh và phân tích của người nghiên cứu. Trên thực tế, sự biến đổi về lượng của các hiện tượng kinh tế - xã hội thường diễn ra không đều đặn, do đó trong rất nhiều trường hợp nghiên cứu phải phân tổ với khoảng cách tổ không đều nhau. Đôi với các hiện tượng tương đối đồng nhất về loại hình kinh tế - xã hội và lượng biến của các đơn vị phân tán đều thì có thể phân tổ với khoảng cách tổ đều nhau. Khi đó, trị sô"của khoảng cách tổ được tính theo công thức:
  73. _ max___ min n Trong đó: h - Trị sô" khoảng cách tổ. Xmax - Lượng biến lớn nhất của tiêu thức phân tổ. Xmin - Lượng biến nhỏ nhất của tiêu thức phân tổ. n - Sô" tổ dự định chia. Phân tổ mở là phân tổ mà tổ đầu tiên không có giới hạn dưới và tổ cuôíi cùng không có giói hạn trên, các tổ còn lại có thể có khoảng cách tổ đều hoặc không đều. Việc thành lập các tổ mở trong thống kê rất cần thiết vì nó có tác dụng thu nạp đầy đủ các đơn vị có trịsố lượng biến nhỏ bất thường và lớn bất thường, tránh việc hình thành quá nhiều tổ. Khi tính toán đối với tài liệu phân tổ mở, ngưòi ta quy ước lấy khoảng cách tổ của tổ mở bằng với khoảng cách tổ của tổ nào đứng gần nó nhất. 2.3. Dãy sô phân phôi Sau khi đã lựa chọn được tiêu thức phân tổ, xác định sô" tổ cần thiết và khoảng cách tổ, ta thực hiện việc sắp xếp các đơn vị vào từng tổ bằng cách lập bảng tần số phân bô" hay còn gọi là dãy sô" phân phôi. Dãy sô" phân phối biểu hiện sô" lượng các đơn vị trong tổng thể được phân chia vào từng tổ theo các tiêu thức nhất định. Nếu tiêu thức phân tổ là tiêu thức chất lượng thì ta có dãy sô"
  74. thuộc tính, còn tiêu thức phân tổ là tiêu thức số lượng thì ta có dãy số lượng biến. Dãy sô" lượng biến thường bao gồm hai thành phần: lượng biến (Xj) và tần sô" (fj). Lượng biến là biểu hiện cụ thể của tiêu thức số lượng. Tần sô" là số đơn vị được phân phôi vào trong mỗi tổ, tần số của mỗi tổ có thể biểu hiện bằng sô tuyệt đối (nghĩa là sô quan sát có cùng một biểu hiện) hoặc bằng sô" tương đốỉ (nghĩa là so với tổng sô" quan sát, sô" đơn vị có cùng biểu hiện này chiếm bao nhiêu phần trăm). Tần số biểu hiện bằng sô" tương đốì gọi là tần suất. Ví dụ về dãy số phân phối ta có thể xem bảng 3.3 và bảng 3.4 ở trên. Dãy số lượng biến thường có dạng: Lượng biến (Xj) Tần sô" (fị) X, x2 f2 x3 f3 • • • • • • xn fn 77
  75. Sô" lượng các đơn vị hay tần sô của mỗi tổ được xác định bằng cách đếmsố đơn vị (sô" quan sát) rơi vào giới hạn của tổ đó. Trường hợp số quan sát ít, ta có thể đếm bằng cách sử dụng ký hiệu gạch, mỗi một gạch tượng trưng cho một quan sát. Nếu như sô quan sát lớn chúng ta thường không thể đếm bằng tay mà phải sử dụng các chương trình máy tính phổ biến như Excel hay chương trình thông kê chuyên dụng như SPSS for Windows để tiến hành phân tổ và xác định tần số của mỗi tổ sau khi ta đã nhập đầy đủ các sô" liệu vào máy. 2.4. Chỉ tiêu giải thích Trong phân tổ thống kê ta còn phải xác định các chỉ tiêu giải thích. Mỗi chỉ tiêu giải thích có một ý nghĩa riêng, nó giúp ta thấy rõ đặc trưng của các tổ cũng như toàn bộ tổng thể. Các chỉ tiêu giải thích được dùng làm căn cứ để so sánh các tổ với nhau và để tính ra một scí chỉ tiêu phân tích khác. Muôn xác định chỉ tiêu giải thích cần căn cứ vào mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của phân tổ để chọn ra các chỉ tiêu có liên hệ với nhau và bố sung cho nhau. Mặt khác, cần chú ý tới môi liên hệ nhất định giữa tiêu thức phân tổ với chỉ tiêu giải thích. Các chỉ tiêu giải thích có ý nghĩa trong việc so sánh với nhau cần được bố trí gần nhau. Ví dụ, ta có bảng sau: 78
  76. Bảng 3.5: Kết quả diều tra các doanh nghiệp ngành dệt may trong khu vực A năm 2007 Loại SỐ Sô' công Giá tri• Năng suất doanh nghiệp doanh nhân sản xuất lao động bình nghiệp (người) (triệu quân (triệu đồng) đồng/ngưòi) A 1 2 3 4 = 3 :2 Doanh nghiệp tư 12 312 63648 204 nhân Công ty TNHH 8 520 99840 192 Công ty cổ phần 3 849 193620 228 Tổng 23 1681 357108 212,44 Trên bảng 3.5, các doanh nghiệp được phần tổ theo hình thức sở hữu nên tiêu thức phân tổ chính là “loại doanh nghiệp”, còn các chỉ tiêu giải thích là: “sô" doanh nghiệp”; “sô" công nhân”; “giá trị sản xuất” và “năng suất lao động bình quân”. 3. TRÌNH BÌY KẾT QUẢ PHÂN Tổ Toàn b( kết quả phân tổ thống kê được trình bày lên một bảng gọi là bảng thông kê, hoặc được biểu diễn dưới dạng đồ ihị thông kê. 3.1. Bảig thống kê Bảng tlống kê là một hình thức trình bày các tài liệu một cách có hệ thông, hợp lý và rõ ràng. Nó phản 79
  77. ánh đặc trưng tổng hợp của từng tổ và của cả tổng thể. Bảng thông kê có nhiều tác dụng quan trọng trong mọi công tác nghiên cứu kinh tế - xã hội. Nếu biết trình bày và sử dụng tốt các bảng thống kê thì việc phân tích mọi vấn đề sẽ trở nên rất sinh động, có sức thuyết phục mạnh♦ mẽ. 3.1.1. Cấu thành của bảng thông kê aị Về hỉnh thức Bảng thông kê bao gồm các hàng ngang và cột dọc, các tiêu đề và các sô" liệu. Các hàng ngang và cột dọc phản ánh quy mô của bảng. Sô" hàng ngang và cột dọc càng nhiều thì bảng thống kê càng lớn và phức tạp. Các hàng ngang và cột dọc cắt nhau tạo thành các ô dùng để điền các sô" liệu thống kê vào đó. Các hàng ngang, cột dọc thường được đánh số thứ tự để tiện cho việc sử dụng và trình bày vấn đề. Tiêu đề của bảng phản ánh nội dung của bảng và của từng chi tiết trong bảng. Trước hết có tiêu đề chung, là tên gọi chung của bảng, thường viết ngắn gọn, dễ hiểu và được đặt ở phía trên đầu của bảng. Các tiêu đề nhỏ, còn gọi là tiêu mục, là tên riêng của mỗi hàng và cột phản ánh rõ nội dung của các hàng và cột đó. Các sô" liệu được ghi vào các ô của bảng, mỗi con sô" phản ánh một đặc trưng về mặt lượng của hiện tượng nghiên cứu. 80
  78. b ị Vê nội dung Bảng thông kê gồm hai phần: Phần chủ đề và phần giải thích. Phần chủ đề, còn gọi là phần chủ từ, nêu lên tổng thể hiện tượng được trình bày trong bảng thống kê. Tổng thể này được phân thành các bộ phận, nó giải thích đốì tượng nghiên cứu là những đơn vị nào, những loại hình gì. Có khi phần chủ đề là các địa phương hoặc thời gian nghiên cứu khác nhau của hiện tượng nào đó. Phần giải thích, còn gọi là phần tân từ, gồm các chỉ tiêu giải thích các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, nghĩa là giải thích phần chủ đề của bảng. Phần chủ đề thường được đặt ở vị trí bên trái của bảng, còn phần giải thích ở phía trên của bảng. Cũng có trường hợp người ta thay đổi vị trí của hai phần cho nhau. Cấu thành của bảng thông kê có thể khái quát như sau: Bảng : Tên bảng thông kê (tiêu đê chung) Đơn vị♦ tính: giải thích Các chỉ tiêu giải thích (tên cột) Phần chủ đe A 1 2 3 • • • n Tên chủ đề (tên hàng) Tổng sô" 81
  79. 3.1.2. Các loai bảng thông kê Căn cứ vào kết cấu của phần chủ đề, có thể chia làm ba loại bảng thông kê: giản đdn, phân tổ và kết hợp. a / Bảng giản đơn Bảng giản đơn là loại bảng mà phần chủ đề không phân tổ, chỉ sắp xếp các đơn vị tổng thể theo tên gọi, theo địa phương hoặc theo thòi gian nghiên cứu. Ví dụ có bảng đơn giản sau: Bảng 3.6: Dân sô nông thôn thời kỳ 1990-2005 Năm Cả nước Nông thôn Tỷ lệ dân sô" (1000 người) (1000 người) nông thôn/ cả nước (%) 1990 66016,7 53136,4 80,49 1995 71995,5 57057,4 79,25 2000 77635,4 58863,5 75,82 2005 83119,9 60701,4 73,03 (Nguồn: Tổng cục Thống kê; Bộ Lao động Thương binh và xã hội) b / Bảng phân tổ Bảng phân tổ là loại bảng trong đó đối tượng nghiên cứu ghi trong phần chủ đê được phân chia thành các tổ theo một tiêu thức nào đó. Ví dụ về bảng phần tổ: ta có thể xem các bảng 3.1; 3.2; 3.3; 3.4; 3.5. 82
  80. c/ Bảng kết hợp Bảng kết hợp là loại bảng thống kê trong đó đối tượng nghiên cứu ghi ở phần chủ đề được phân tổ theo hai, ba tiêu thức kết hợp với nhau. Nó dùng để biểu diễn kết quẩ của việc phân tổ theo nhiều tiêu thức. 3.1.3. Những yêu cầu đối với việc xây dựng bảng thông kê Muon cho bảng thống kê phát huy tác dụng tốt thì khi thành lập bảng phải tôn trọng các yêu cầu sau đây: - Quy mô của bảng thông kê không nên quá lớn (quá nhiều tổ và quá nhiều chỉ tiêu). - Các tiêu đề và tiêu mục trong bảng thông kê cần được ghi chính xác, đầy đủ, gọn và dễ hiểu. - Các hàng và cột thường được ký hiệu bằng chữ hoặc sô để tiện trình bày và theo dõi. - Các chỉ tiêu giải thích trong bảng thống kê cần được sắp xếp theo thứ tự hợp lý, phù hợp với mục đích nghiên cứu, các chỉ tiêu có liên hệ với nhau nên sắp xếp gần nhau. Cách ghi các ký hiệu vào bảng thống kê: theo nguyên tắc, các ô trong bảng thống kê dùng để ghi sô" liệu, song nếu không có sô" liệu thì dùng các ký hiệu quy ước sau đây: 83
  81. + Ký hiệu (-) biểu hiện hiện tượng không có sô' liệu đó. + Ký hiệu ( ) biểu hiện sô" liệu còn thiếu để bổ sung sau. + Ký hiệu (x) nói lên rằng hiện tượng không có liên quan đến' điều đó, nếu viết số liệu vầo ô đó sẽ vô nghĩa. - Phần ghi chú ở cuổì bảng thông kê được dùng để giải thích rõ nội dung của một sô" chỉ tiêu trong bảng, để nói rõ các nguồn tài liệu đã sử dụng trong bảng hoặc các chi tiết cần thiết khác. - Trong bảng thống kê bao giờ cũng phải có đơn vị tính cụ thể cho từng chỉ tiêu. 3.2. Đồ thị thông kê 3.2.1. Tác dụng của đồ thị thống kê Đồ thị thống kê là các hình vẽ hoặc đường nét hình học dùng để miêu tả có tính chất quy ước các tài liệu thông kê. Khác với bảng thông kê chỉ dùng con sô' và cung cấp những thông tin chi tiết, đồ thị thống kê sử dụng con số kết hợp với các hình vẽ, đường nét và màu sắc để tóm tắt và trình bày các đặc trưng chủ yếu của hiện tượng, phản ánh một cách khái quát các đặc điểm về kết cấu, xu hướng biến động, sự so sánh, mốì liên hệ của hiện tượng nghiên cứu. Chính vì vậy, đồ thị
  82. thống kê thu hút được sự chú ý của người đọc, giúp ta nhận thức được những đặc điểm cơ bản của hiện tượng một cách nhanh chóng, dễ dàng. 3.2.2. Các loại đồ thị thống kê Theo nội dung phản ánh có thể phân chiađồ thị thống kê thành các các loại sau: - Đồ thị kết cấu - Đồ thị phát triển - Đồ thị• hoàn thành kế hoạch% hoặc9 định9 mức - ĐỒ thị• liên hệ » - Đồ thị so sánh - Đồ thị phần phối Theo hình thức biểu hiện có thể phân chia, đồ thị thống kê thành các loại: - Biểu đồ hình cột - Biểu đồ tượng hình - Biểu đồ diện tích (hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật) - Đồ thị đưòng gấp khúc - Bản đồ thống kê Ta có một scí ví dụ minh hoạ sau đây:
  83. Hình 3.1: Tốc độ tăng GDP từ năm 2000 đến năm 2007(%) 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Hình 3.2: Cơ câu kinh tế tỉnh Hà Nam năm 2006 (%) □ Nông, lâm, ngư nghiệp □ Công nghiệp, xây cựng □ Dịch vụ (Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Dự báo sô 5 /2008) 86
  84. Hình 3.3: Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn 80,65 80 7765 78 , , - ^ 76 74,26 74 w w 73.56 .__ : 75,42 72 TÌÍL3 70 68 66 ^ ^ ^ / £ Ạ <ệ Ạ ề (Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) 3.2.3. Những yêu cầu chung đối với viềc xây dựng đồ thỉ thống kê Khi xây dựng một đồ thị thống kê phải chú ý sao cho người đọc dễ xem, dễ hiểu và đảm bảo chính xác, ngoài ra còn phải thể hiện tính thẩm mỹ của đồ thị. Muôn vậy cần chú ý các điểm sau: - Lựa chọn loại đồ thị cho phù hợp với nội dung, tính chât các sô" liệu cần diễn đạt. Mỗi loại đồ thị có khả năng diễn tả nhiều khía cạnh, cho nên cần cân nhắc 87
  85. chọn loại đồ thị diễn tả phù hợp nhất, dễ quan sát nhất. Ví dụ• biểu đồ hình cột và • biểu đồ diện tích • hình tròn đều có thể biểu hiện kết cấu, sự phát triển qua thời gian của hiện tượng. Song nếu biểu hiện kết cấu thì thường dùng loại hình tròn hơn vì loại này biểu hiện rõ nhất kết cấu và biến động kết cấu của hiện tượng. Còn khi cần biểu hiện sự phát triển của hiện tượng thường dùng biểu đồ hình cột. - Xác định quy mô đồ thị cho thích hợp. Quy mô đồ thị được quyết định bởi chiều dài, chiều cao và quan hệ tỷ lệ giữa hai chiều đó. Quan hệ tỷ lệ giữa chiều cao và chiều dài của đồ thị thưòng từ 1:1,33 đến 1:1,5. Quy mô của đồ thị lớn hay nhỏ còn tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng. - Các thang đo tỷ lệ và độ rộng của đồ thị phải thống nhất và chính xác. Thang đo tỷ lệ xích giúp cho việc tính chuyển các đại lượng lên đồ thị theo các khoảng cách thích hợp. Ví dụ khi dùng biểu đồ hình cột thì độ rộng của các cột phải tỷ lệ với khoảng cách tổ, độ cao tỷ lệ với SD đơn vị củạ từng tổ. - Phải ghi các sô" liệu, đơn vị tính, thời giai, không gian của hiện tượng nghiên cứu sao cho thích hợp với từng loại đồ thị cụ thể. Đặc biệt phải giải thích rõ ràng các ký hiệu, màu sắc quy ước được dùng trong đồ :hị. 88
  86. 4. PHÂN TỔ LIÊN HỆ Phân tổ liên hệ là việc dùng phương pháp phân tổ để biểu hiện mốì liên hệ giữa các tiêu thức. Trong phân tổ liên hệ, các tiêu thức có liên hệ với nhau được phân thành hai loại: tiêu thức nguyên nhân và tiêu thức kết quả. Việc phân biệt này được xác định căn cứ vào việc phân tích mốì liên hệ cụ thể của các tiêu thức đang nghiên cứu. Theo đó, tiêu thức nguyên nhân là tiêu thức gây ảnh hưởng, sự biến động của nó sẽ dẫn đến sự biến đổi (tăng hoặc giảm) của tiêu thức phụ thuộc (gọi là tiêu thức kết quả) một cách có hệ thông. Như vậy, khi phân tổ liên hệ, các đơn vị của tổng thể trước hết thưòng được phân tổ theo tiêu thức nguyên nhân, sau đó trong mỗi tổ tính trị sô" bình quân của tiêu thức kết quả. Quan sát sự biến động của hai tiêu thức này giúp chúng ta rút ra kết luận về tính chất của mối liên hệ giữa hai loại tiêu thức đó. Thông thường thống kê nghiên cứu sự biến động của một tiêu thức kết quả do ảnh hưỏng bởi một hay nhiều tiêu thức nguyên nhân. Sau đây, ta sẽ nghiên cứu một số trường hợp cụ thể nói trên. 4.1. Phân tổ để nghiên cứu môi liên hệ giữa một tiêu thức nguyên nhân và một tiêu thức kết quả Phân tổ liên hệ trong trường hợp này gọi là phân tổ đơn giản. Các tài liệu thống kê được phân tổ theo tiêu
  87. thức nguyên nhân và sau đó trong mỗi tổ ’ính trị sô" bình quân của tiêu thức kết quả. So sánh, theo dõi sự biến động của hai tiêu thức sẽ thấy rõ mối liên hệ giữa hai tiêu thức này. Ví dụ, phân tổ để nghiên cứu mối quan hệ giữa mức độ cơ giới hoá và năng suất lao động của công nhân được phản ánh ở bảng sau: Bảng 3.8: Năng suất lao động của công nhân doanh nghiệp X năm 2006 Mức đô• Sô" công Giá trị sản Năng suất lao ' cơ giới hoá nhân xuất (triệu động (triệu (người) đồng) đồng/người) Dưới 30 30 16300 543,33 30-50 50 34100 682,00 Trên 50 20 14250 712,50 Toàn đơn vi 100 64650 646,50 Phân tổ giản đơn được sử dụng nhiều trong phân tổ liên hệ vì việc thực hiện gọn, đơn giản. Tuy nhiên nó không đáp ứng yêu cầu nghiên cứu các trường hợp phức tạp - có nhiều tiêu thức nguyên nhân ảnh hưởng đến tiêu thức kết quả. 4.2. Phân tổ để nghiên cứu môi liên hệ giữa nhiều tiêu thức nguyên nhân và một tiêu thức kết quả Phân tổ theo phương pháp này nhằm đáp ứng yêu cầu nghiên cứu các mối quan hệ phức tạp, đa dạng 90
  88. của cá: hiện tượng kinh tế xã hội. Cách phân tổ được sử dụng phổ biến là phân tổ kết hợp. Theo cách này, tổng thể nghiên cứu trước hết được phân tổ theo tiêu thức nguyên nhân thứ nhất, sau đó mỗi tổ lại được phân thành các tiểu tổ dựa vào tiêu thức nguyên nhân thứ hai, v.v Cuối cùng tính trị số bình quân của tiêu thức kết quả cho từng tổ và tiểu tổ. Lấy ví dụ về phương pháp này như sau: phân tổ công nhân theo mức độ cơ giới hoá và theo cấp bậc thợ để nghiên cứu mối liên hệ của chúng đến năng suất lao động một công nhân Bảng 3.9: Năng suất lao động của công nhân Doanh nghiệp X năm 2006 Mức độ Sô" lượng công Giá trị sản xuất (triệuđ) NSLĐ (triệuđ/người) cơ giới nhân (người) hoá CácChia theo Các tổ Chia theo Các tổ Chia theo o tô bậc thợ bậc thợ bậc thợ 2 3 4 2 3 4 2 3 4 50 20 5 10 5 14.250 3.250 7.000 4.000 712,50 650 700 800 Cộng 100 25 50 25 64.650 14.250 32.250 18.150 646,50 570 645 726 Tài liệu ở bảng 3.9 cho ta thấy, phân tổ theo mức độ cơ giới hoá được thực hiện theo hàng, còn phân tổ theo cấp bậc thợ được thực hiện theo cột. Nhìn vào ba cột cuối cùng của bảng ta thấy năng suất lao động (tiêu thức kết