Giáo trình Kinh tế phát triển - Chương 5: Nông nghiệp với tăng trưởng và phát triển kinh tế

pdf 100 trang vanle 2130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Kinh tế phát triển - Chương 5: Nông nghiệp với tăng trưởng và phát triển kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_phat_trien_chuong_5_nong_nghiep_voi_tang.pdf

Nội dung text: Giáo trình Kinh tế phát triển - Chương 5: Nông nghiệp với tăng trưởng và phát triển kinh tế

  1. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Chương 5 NÔNG NGHIỆP VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 5.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Nông nghiệp là ngành sản xuất ra đời đầu tiên, gắn với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Sản xuất nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm hai ngành chính là trồng trọt và chăn nuôi, còn theo nghĩa rộng, hoạt động sản xuất nông nghiệp ngoài trồng trọt và chăn nuôi còn bao gồm cả các ngành lâm - ngư nghiệp. Mặt khác, khi nghiên cứu giải quyết các vấn đề có liên quan đến sản xuất nông nghiệp phải đặt nông nghiệp trong mối quan hệ mật thiết với kinh tế nông thôn và vấn đề nông dân. Có thể nói nông nghiệp, nông thôn và nông dân là 3 vấn đề không thể tách rời trong quá trình phát triển nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất có những đặc điểm riêng biệt, "tuyệt đối không thể bỏ qua" được. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng rất lớn đến công tác tổ chức quản lý cũng như việc đề ra các chính sách, giải pháp kinh tế đối với nông nghiệp. 5.1.1. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp Là những cơ thể sinh vật (cây trồng, vật nuôi), chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh vật riêng và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên (quy luật vận động của thời tiết, khí hậu ). Do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cây trồng, vật nuôi nên sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm tươi sống có hàm lượng nước cao (có loại rất cao) nên chóng bị hỏng, gây tổn thất sau thu hoạch rất lớn. Có thể nói sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của các yếu tố tự nhiên và phụ thuộc vào sự thay đổi của các yếu tố đó. Vì vậy, trong quá trình phát triển nông nghiệp, con người không thể ngăn cản hay can thiệp thô bạo vào quá trình sinh vật, trái lại phải nghiên cứu và nhận thức được các quy luật đó để vận dụng thích hợp vào sản xuất. Từ đặc điểm này có thể rút ra kết luận: Nông nghiệp không thể là một hệ thống kinh tế đơn thuần mà là một hệ thống sinh vật - kỹ thuật. Nó là một trong những ngành kinh tế phức tạp nhất. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 89
  2. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhận thức đặc điểm này giúp cho ta có biện pháp phân vùng, quy hoạch sản xuất, bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế (thế mạnh) từng vùng, từng địa phương cũng như từng cơ sở sản xuất. Trong quá trình xây dựng, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm sinh lý, yêu cầu về kỹ thuật sản xuất (kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch) của từng loại cây trồng, vật nuôi. Việc nghiên cứu sản xuất giống mới, nhập khẩu giống mới vào sản xuất nông nghiệp cần phải thận trọng, phải qua khảo nghiệm, kiểm tra chặt chẽ và phải được khu vực hoá đối với từng loại giống. Nếu việc bố trí các loại cây trồng, vật nuôi không phù hợp với từng vùng sinh thái từng loại đất đai hoặc nhập khẩu các loại giống cây trồng, vật nuôi không thích hợp sẽ gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp. Nhận thức và vận dụng các quy luật sinh vật vào thực tiễn sản xuất nông nghiệp không có nghĩa là con người hoàn toàn lệ thuộc vào chúng và bất lực trước tự nhiên. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, con người ngày càng có khả năng cải tạo tự nhiên, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và đời sống. Vì vậy, mỗi quốc gia, bên cạnh việc thực hiện các giải pháp trên cần có chiến lược đầu tư cải tạo, chinh phục thiên nhiên, phục vụ phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá, đặc biệt là những vùng có khả năng Do chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên nên sản xuất nông nghiệp thường gặp phải thiên tai, gây thiệt hại lớn đến kết quả thu hoạch. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước phải nghiên cứu các chính sách bảo hiểm sản xuất, chính sách bảo trợ cho sản xuất nông nghiệp nói chung và chính sách hỗ trợ cho nông thôn khi có thiên tai nói riêng Do đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp nên để giảm tổn thất sau thu hoạch và đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu cần chú trọng đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch như chế biến, bảo quản, vận chuyển, hệ thống kho chứa .v.v TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 90
  3. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN 5.1.2. Chu kỳ sản xuất nông nghiệp nói chung là dài và không giống nhau giữa các loại cây trồng, vật nuôi Do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là những cơ thể sinh vật nên kết quả sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào quy luật sinh trưởng, phát dục của từng loại cây trồng, vật nuôi. Vì vậy trong nông nghiệp chu kỳ sản xuất nói chung là dài và không giống nhau giữa các loại cây trồng, vật nuôi. Đối với những cây trồng ngắn ngày (cây lương thực, rau, đậu ) hay những vật nuôi chóng cho sản phẩm (gia cầm) cũng phải từ 2 đến 3 tháng. Còn đối với những cây lâu năm (cây công nghiệp, cây ăn quả ), các loại gia súc lớn (trâu, bò ) thì phải từ 3 đến 5 năm hoặc lâu hơn nữa mới cho sản phẩm và cho thu hoạch trong nhiều năm. Đặc điểm này đòi hỏi khi xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản (xây dựng vườn cây lâu năm), xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh phải phù hợp với chu kỳ sản xuất, chu kỳ kinh doanh của từng loại cây trồng, vật nuôi. Cần tính toán chặt chẽ nhu cầu vật tư, tiền vốn đảm bảo quá trình sản xuất tiến hành thuận lợi. Việc nghiên cứu áp dụng các chính sách kinh tế, nhất là các chính sách tài chính, tín dụng vào nông nghiệp cần xem xét cụ thể cho phù hợp với chu kỳ sản xuất của từng loại cây, con. Trong đó ngành tài chính, ngân hàng cần lưu ý xác định thời hạn cho vay và lãi suất phù hợp với nông nghiệp. Cần áp dụng nhiều loại thời hạn cho vay (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) để khuyến khích nông nghiệp (chủ yếu là nông dân) đầu tư phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có hiệu quả, khai thác lợi thế nông nghiệp nhiệt đới (trồng cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm ) hoặc đầu tư cải tạo đất đai Trong công tác tổ chức quản lý, cần áp dụng hình thức tổ chức sản xuất thích hợp để người lao động quan tâm đến tất cả các khâu, các công đoạn của chu kỳ sản xuất nhằm đạt kết quả cuối cùng cao nhất. Do chu kỳ sản xuất dài và phụ thuộc vào chu kỳ sinh học nên trong nông nghiệp, thời gian lao động không trùng khớp với thời gian tạo ra sản phẩm. Khi kết thúc một quá trình lao động cụ thể như làm đất, gieo trồng chưa có sản phẩm ngay mà phải chờ đến khi thu hoạch. Vì vậy đòi hỏi trong nông nghiệp, phải tìm ra hình thức tổ chức kinh tế, hình thức tổ chức lao động và trả công lao TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 91
  4. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN động thích hợp, gắn người lao động với đối tượng sản xuất và với kết quả cuối cùng để họ quan tâm và tìm cách tạo ra nhiều sản phẩm với chất lượng và giá thành hạ. 5.1.3. Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ rất lớn Do cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng nên sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ rất rõ rệt. Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, có thời kỳ nhu cầu tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn rất căng thẳng (thời kỳ làm đất, gieo trồng ), ngược lại có thời kỳ lại rất nhàn rỗi (thời kỳ chăm sóc). Mặt khác, do sự biến đổi của thời tiết, khí hậu giữa các mùa nên mỗi loại cây trồng thường có sự thích nghi nhất định với điều kiện đó dẫn đến thời vụ gieo trồng và thu hoạch của các loại cây trồng cũng rất khác nhau. Muốn hạn chế tính chất thời vụ cần lưu ý, ở thời kỳ căng thẳng cần đảm bảo đủ nhu cầu về công cụ sản xuất, tập trung sức lao động, tiền vốn kịp thời. Cần có kế hoạch dự trữ vật tư, kỹ thuật; kế hoạch huy động sức lao động và vốn để đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu trong lúc mùa vụ khẩn trương. Để giảm bớt tình trạng nông nhàn, cần quan tâm phát triển nông nghiệp toàn diện, nhất là quan tâm khôi phục các ngành nghề truyền thống, phát triển các ngành công nghiệp nông thôn và các hoạt động dịch vụ Về phía Nhà nước và các ngành dịch vụ nông nghiệp (tín dụng, vật tư, thuỷ nông ) cần nghiên cứu thực hiện các chính sách, giải pháp để đáp ứng kịp thời nhu cầu vật tư tiền vốn cũng như các dịch vụ kỹ thuật; đáp ứng kịp thời nhu cầu thời vụ của từng loại cây trồng. Do sản xuất và thu hoạch theo thời vụ nên quy luật cung cầu có tác động rất mạnh đến giá cả các loại nông sản (thông thường giá giảm vào thời kỳ thu hoạch, tăng vào đầu kỳ hoặc cuối kỳ thu hoạch hay lúc giáp hạt). Vì vậy, Nhà nước cần đầu tư nghiên cứu các chính sách và giải phát cụ thể để điều tiết cung cầu, đảm bảo lợi ích cho người sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn đối với lương thực hoặc một số nông sản xuất khẩu chủ lực, khi giá thị trường xuống quá thấp, gây bất lợi cho nông dân, Nhà nước có thể quy định giá sàn và bắt buộc các tổ chức kinh doanh, xuất khẩu mua dự trữ. Trong thời gian dự trữ, các tổ chức đó được Nhà nước cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, thậm chí không lấy lãi. Hoặc TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 92
  5. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Nhà nước đầu tư cho việc nghiên cứu công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm để tránh tổn thất sau thu hoạch, kéo dài thời gian tiêu thụ có ích cho người sản xuất. 5.1.4. Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất cơ bản hàng đầu và đặc biệt, không thể thiếu, không thể thay thế được Ruộng đất tham gia trực tiếp vào quá trình tạo ra sản phẩm nông nghiệp. Nó không chỉ là điều kiện vật chất để tồn tại ngành này mà còn tham gia với vai trò là tư liệu sản xuất cơ bản của nông nghiệp. Hậu quả của sản xuất nông nghiệp nói chung phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng ruộng đất. Mặt khác, hiệu quả sử dụng ruộng đất lại phụ thuộc vào mức độ đầu tư các tư liệu sản xuất khác (vật tư, giống, thuỷ lợi ), đầu tư vốn vào đơn vị diện tích đất đai sử dụng và phụ thuộc vào việc giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất, giải quyết mối quan hệ giữa ruộng đất và nông thôn. Ruộng đất tham gia vào quá trình sản xuất nông nghiệp với tư cách là tư liệu sản xuất nhưng nó có những đặc điểm khác với các tư liệu sản xuất khác: ruộng đất là tài nguyên thiên nhiên có giới hạn về diện tích, có vị trí cố định và chất lượng đất đai không đồng đều giữa các vùng Những đặc điểm đó ảnh có hưởng lớn đến việc khai thác, sử dụng ruộng đất vì vậy cần được nghiên cứu và vận dụng một cách thích hợp vào thực tiễn phát triển nông nghiệp. Trong đó cần đặc biệt quan tâm đến chính sách đầu tư cho công tác phân vùng, quy hoạch sử dụng ruộng đất, đầu tư xây dựng các công trình bảo vệ, cải tạo đất và sử dụng ruộng đất; chính sách thuế sử dụng đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. 5.1.5. Sản xuất nông nghiệp diễn ra trên phạm vi không gian rộng lớn phức tạp và mang tính khu vực rất rõ nét Hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm các khâu từ cung ứng các điều kiện sản xuất (cung ứng các yếu tố đầu vào) đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Các hoạt động đó được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, phức tạp, thuộc nhiều vùng lãnh thổ có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cũng như lịch sử truyền thống rất khác nhau. Mỗi vùng, mỗi địa phương có những lợi thế riêng, đồng thời cũng có những khó khăn, phức tạp trong khi phát triển kinh tế - xã hội nói chung và nông nghiệp nói riêng. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 93
  6. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Vì vậy sản xuất nông nghiệp đạt hiệu quả cao cần tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành có liên quan, từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Cần gắn phát triển nông nghiệp với lâm - ngư nghiệp và công nghiệp chế biến ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ. Việc quy hoạch các vùng nông nghiệp chuyên môn hoá (vùng lúa, chè, cà phê, mía ) cần gắn với việc quy hoạch phát triển giao thông vận tải, các ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm. Để tận dụng được lợi thế so sánh của từng vùng trong phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng, cần làm tốt công tác phân vùng, quy hoạch và bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện từng vùng. Đồng thời, Nhà nước cần quan tâm đầu tư đồng bộ cho các vùng, các địa phương về cơ sở hạ tầng cũng như đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là những vùng khó khăn, những vùng chậm phát triển. Cần nghiên cứu và thực hiện các chính sách ưu đãi đối với những vùng khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội. Đối với những vùng có nhiều lợi thế trong phát triển nông nghiệp, cần có chính sách ưu tiên trong đầu tư vốn, tạo điều kiện và khuyến khích các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đầu tư vào các vùng đó. 5.2. Vai trò của sản xuất nông nghiệp đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Trong lịch sử phát triển của xã hôi loài người, nông nghiệp là ngành sản xuất ra đời đầu tiên. Đã từ lâu, nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội và ngày càng có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. 5.2.1. Nông nghiệp là ngành sản xuất và cung cấp những sản phẩm tiêu dùng thiết yếu, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của loài người như lương thực, thực phẩm. Đây là những vật phẩm tiêu dùng không thể thay thế được đối với đời sống con người. Như C.Mác đã khẳng định "Trước hết con người cần phải có ăn, uống, ở và mặc trước khi lo chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo ". Trên ý nghĩa đó, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất đảm bảo những điều kiện đầu tiên cho loài người tồn tại, phát TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 94
  7. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN triển và là điều kiện không thể thiếu đảm bảo cho tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. 5.2.2. Nông nghiệp là ngành có thể tự sản xuất ra những tư liệu sản xuất không thể thay thế để tái sản xuất bản thân ngành nông nghiệp (như các loại giống cây trồng, vật nuôi, thức ăn chăn nuôi ); đồng thời nông nghiệp còn cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển như: các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, một số ngành công nghiệp nặng và các ngành dịch vụ ăn uống, giải khát Có thể nói sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và dịch vụ phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu do nông nghiệp cung cấp. Mặt khác sản phẩm nông nghiệp qua chế biến sẽ được nâng cao chất lượng, tăng thêm giá trị và giá trị sử dụng, đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu, từ đó thúc đẩy các ngành công nghiệp, dịch vụ cũng như nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Vì vậy, các nước xuất khẩu nông sản đều rất chú trọng đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, hạ thấp tỷ lệ sản phẩm sơ chế, nâng dần tỷ lệ sản phẩm tinh chế, nhất là những mặt hàng phục vụ xuất khẩu. Nông nghiệp là nơi sản xuất và cung cấp các mặt hàng xuất khẩu có giá trị, tạo nguồn tích luỹ ban đầu và thường xuyên cho nền kinh tế. Thông qua xuất khẩu nông sản, nông nghiệp đã đóng góp tích luỹ ngày càng nhiều cho nền kinh tế, đồng thời góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đối với nước ta, xuất khẩu nông sản và những mặt hàng tiểu thủ công nghiệp đang là thế mạnh, tạo điều kiện cho nền kinh tế đất nước cũng như nông nghiệp, nông thôn tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới, nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế của khu vực và trên thế giới. Trong những năm qua, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã tạo ra nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng như: gạo, chè, cà phê, cao su, các sản phẩm thủ công, mỹ nghê, các mặt hàng thuỷ, hải sản đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất lương thực, nông nghiệp nước ta đã đạt thành tựu rất khả quan. Từ một nước thường xuyên phải nhập lương thực, nạn đói thường xuyên đe doạ; đến nay, nước ta chẳng những tự giải quyết được nhu TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 95
  8. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN cầu lương thực mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). Liên tục từ năm 1989 đến nay, lượng gạo xuất khẩu của nước ta ngày càng tăng (từ 1,42 triệu tấn năm 1989 đã tăng lên 4,5 triệu tấn năm 1999, và 3,5 triệu tấn vào năm 2000, 2001). 5.2.3. Nông nghiệp là nơi cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho các ngành kinh tế xã hội phát triển Có thể nói, nông nghiệp là ngành duy nhất, dưới tác động của tiến bộ khoa học và công nghệ, số lượng lao động ngày càng giảm xuống cả tương đối và tuyệt đối. Nhờ đó nông nghiệp có thể tạo ra lao động dư thừa để chuyển dần sang phát triển công nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Ở nước ta, theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê thì lao động nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 70% tổng số lao động xã hội và 76,5% dân số đang sống ở vùng nông thôn. Đó là một nguồn tiềm năng lao động quý giá, là đội quân dự bị hùng hậu cho phát triển công nghiệp, dịch vụ trong tương lai khi nền kinh tế đất nước chuyển sang giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 5.2.4. Nông nghiệp còn là thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của các ngành công nghiệp và dịch vụ, góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành tăng trưởng và phát triển Nông nghiệp càng phát triển thì các nhu cầu về tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, phân bón, hoá chất ) và tư liệu tiêu dùng cũng như nhu cầu dịch vụ ngày càng nhiều sẽ tạo ra sức mua ngày càng lớn đối với các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Ngược lại, nếu nông nghiệp kém phát triển, lạc hậu, sức mua thấp thì công nghiệp và dịch vụ cũng không phát triển được. Vì vậy, muốn nông nghiệp, nông thôn trở thành thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ, trước hết phải quan tâm phát triển toàn diện kinh tế nông nghiệp, nông thôn; tạo điều kiện cho nông dân chuyển sang phát triển sản xuất hàng hoá, để nâng dần sức mua của nông dân. 5.2.5. Sự phát triển của nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ phát triển kinh tế đất nước và tốc độ tăng trưởng GDP, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển và chủ yếu là sản xuất nông nghiệp như nước ta. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 96
  9. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Trong những năm 80, hàng năm nông nghiệp tạo ra từ 40 - 50% thu nhập quốc dân. Đến nay, nông nghiệp nước ta vẫn chiếm tỷ trọng cao trong GDP (năm 1999 là 25,4%, năm 2000 là 24,3% trong GDP của nền kinh tế). Phát triển nông nghiệp sẽ làm tăng nguồn dự trữ lương thực cho quốc gia, đảm bảo nhu cầu cho quân đội, tăng cường khả năng quốc phòng cho đất nước. Dự trữ lương thực là vấn đề sống còn của mỗi nước, là tiềm lực kinh tế thể hiện sức mạnh thực sự của mỗi quốc gia. Đảm bảo dự trữ lương thực sẽ hạn chế những khó khăn, những rủi ro trong phát triển kinh tế và đời sống nhân dân, tạo cơ sở cho việc ổn định và phát triển đất nước, giữ vững an ninh và chủ quyền dân tộc. 5.2.6. Phát triển nông nghiệp còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ và cải tạo môi trường thiên nhiên. Với đối tượng sản xuất là cây trồng, vật nuôi gắn liền với đất đai, phát triển nông nghiệp tạo nên một hệ sinh thái hoàn chỉnh, đảm bảo sự phát triển cân bằng giữa các vùng, góp phần vào việc bảo vệ môi sinh. Tuy nhiên muốn nông nghiệp thực sự đóng góp vào việc bảo vệ môi trường, đòi hỏi mỗi nước phải có một chiến lược phát triển nông nghiệp đúng đắn, phải biết khai thác lợi thế phát triển nông nghiệp từng vùng, phải biết kết hợp nhiều loại nông sản theo một hệ sinh thái hoàn chỉnh, tránh sử dụng quá mức các loại hoá chất, tiến tới phát triển một nền nông nghiệp sạch, nền nông nghiệp sinh thái. Như vậy, xét trên các mặt về kinh tế, xã hội và môi trường thì nông nghiệp có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi nước. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các nước đều nhận rõ: Nếu không có một nền nông nghiệp phát triển, một nền nông nghiệp tiên tiến thì nền kinh tế quốc dân khó có thể phát triển vững chắc với tốc độ cao được. Thực tế ở nhiều nước đã chứng minh, nước nào có nền nông nghiệp phát triển vững chắc đều đạt được những bước phát triển ổn định về kinh tế. Nông nghiệp được coi là điểm xuất phát của phát triển hay cải cách kinh tế của nhiều quốc gia. Vì vậy, các quốc gia đều rất chú trọng đến phát triển nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 97
  10. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Đối với nước ta, từ một nước mà nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và tuyệt đại bộ phận dân số đang sống ở nông thôn, thì nông nghiệp, nông thôn càng có vị trí và vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhận thức được điều đó nên trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đặc biệt đến phát triển nông nghiệp, nông thôn. Ở mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước, trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đều khẳng định vị trí quan trọng hàng đầu của nông nghiệp, nông thôn: coi việc "phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện nền kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội". Để phát huy vai trò quan trọng của nông nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội thì con đường tất yếu là phải chuyển nông nghiệp nước ta từ tình trạng phổ biến là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Đó là xu hướng phát triển tất yếu, hợp quy luật chuyển biến từ nền nông nghiệp truyền thống, lạc hậu thành nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại. Tuy nhiên cần nhận thấy rằng đưa nông nghiệp sang phát triển sản xuất hàng hoá là quá trình lâu dài, đầy khó khăn và phức tạp. Quá trình đó đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng không những của bản thân ngành nông nghiệp, mà cần có sự giúp đỡ của các ngành và đặc biệt là sự hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước phải chủ động điều khiển và tạo điều kiện thuận lợi để hình thành dần những đặc trưng của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá; cần có chính sách gắn được sự phát triển của nông nghiệp với công nghiệp, thương mại - dịch vụ và các ngành, các lĩnh vực có liên quan khác 5.3. Một số vấn đề kinh tế chủ yếu trong phát triển nông nghiệp nước ta Sau hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nông nghiệp nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện. Từ một nền nông nghiệp tự cấp tự túc, lạc hậu, thiếu lương thực triền miên đến nay về cơ bản đã là một nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, có tỷ suất hàng hoá ngày càng cao, nhiều mặt hàng có số lượng xuất khẩu lớn, chiếm vị thế cao trong khu vực và trên thế giới; đã hình TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 98
  11. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN thành một số vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, chuyên canh gắn với công nghiệp chế biến như lúa gạo, mía đường Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự chuyển biến tích cực. Trình độ sản xuất nông nghiệp đã có những tiến bộ đáng kể, nhất là về khoa học và công nghệ. Quan hệ sản xuất ở nông thôn đã có những đổi mới đúng hướng và có tác động tích cực đến phát triển nông nghiệp hàng hoá. Thu nhập và đời sống của đại bộ phận dân cư nông thôn được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Những kết quả đạt được chưa tương xứng với những tiềm năng và sự phấn đấu của nông dân. Cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn lạc hậu. Các hình thức tổ chức sản xuất đổi mới còn chậm. Thị trường chưa phát triển, còn nhiều bế tắc trong tiêu thụ sản phẩm. Tình trạng phân hoá giàu nghèo vẫn có xu hướng gia tăng. Từ thực tiễn phát triển nông nghiệp trong những năm qua, từ quan điểm coi nông nghiệp, nông thôn là cơ sở của tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và nâng cao đời sống nhân dân, định hướng phát triển nông nghiệp nước ta thời gian tới là: Xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, phát triển đa dạng và bền vững, từng bước hiện đại hoá trên cơ sở áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh quốc tế. Đó là định hướng tổng quát, lâu dài nhằm chuyển nền nông nghiệp nước ta từ tình trạng sản xuất lạc hậu, chủ yếu là tự cấp tự túc thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, đạt trình độ tiên tiến trong khu vưc và trên thế giới. Để từng bước xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt những vấn đề phức tạp. Những vấn đề không chỉ ở lĩnh vực quan hệ sản xuất mà cả ở lĩnh vực lực lượng sản xuất, không chỉ trong nội bộ ngành nông nghiệp mà là vấn đề có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nước ta hiện nay cần quan tâm giải quyết một số vấn đề kinh tế chủ yếu sau: 5.3.1. Quy hoạch các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá Muốn tiến hành quy hoạch các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá có cơ sở khoa học đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng được chiến lược phát triển kinh tế - TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 99
  12. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN xã hội nói chung và chiến lược phát triển nông nghiệp nói riêng. Trong nông nghiệp phải xây dựng được chiến lược phát triển những cây, con chủ lực (chiến lược sản xuất lúa gạo, cà phê, chè, cao su ) Trong quy hoạch các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá cần quán triệt quan điểm phát triển nông nghiệp toàn diện, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, phát triển các vùng cây công nghiệp, vùng rau, hoa quả và các loại nông sản nguyên liệu để thay thế nhập khẩu mà nước ta có khả năng như bông, đậu tương, ngô, sữa Quy hoạch các vùng nông nghiệp phải gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phù hợp xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quy hoạch cần quan tâm phát triển các vùng nông nghiệp xuất khẩu, vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, vùng nông nghiệp sinh thái (kết hợp phát triển nông nghiệp với du lịch) và các khu nông nghiệp công nghệ cao. Các quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở đánh giá đầy đủ các yếu tố tác động đến quy hoạch như: đất đai, thị trường, vốn, khoa học và công nghệ, nhân lực Quy hoạch phải có tính liên ngành theo vùng và tiểu vùng kinh tế - sinh thái, không nên quy hoạch phát triển theo cấp hành chính - kinh tế. Trong quy hoạch các vùng sản xuất hàng hoá nông nghiệp phải gắn với công nghiệp chế biến, bảo quản, các dịch vụ hỗ trợ, cơ sở hạ tầng và các điều kiện thị trường cần thiết khác (kho tàng, bến bãi, chợ bán buôn, bán lẻ ). Trên cơ sở quy hoạch, Nhà nước cũng như các địa phương cần có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển tất cả các ngành, các lĩnh vực có liên quan phát triển của vùng, như phát triển trang trại, công nghiệp chế biến, dịch vụ, cơ sở hạ tầng Về phía Nhà nước: các cấp, các ngành cần có những quy định, hướng dẫn, khuyến cáo và quản lý chặt chẽ việc khai thác, sử dụng tài nguyên (đất, nước) vào phát triển nông - lâm - ngư nghiệp cho phù hợp với quy hoạch. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 100
  13. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Quy hoạch các vùng nông nghiệp sản xuất hàng hoá một cách khoa học, chính xác là cơ sở để Nhà nước, các ngành và các cơ sở sản xuất đầu tư phát triển sản xuất các nông sản hàng hoá có hiệu quả, tạo điều kiện để khai thác lợi thế so sánh của đất nước cũng như từng vùng, địa phương trong phát triển nông nghiệp. Quy hoạch các vùng nông nghiệp hàng hoá còn tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp bền vững, tránh tình trạng phát triển tự phát, bất chấp cả việc huỷ hoại môi trường tự nhiên và dưa thừa nông sản không tiêu thụ được. 5.3.2. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, có hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn Nền kinh tế nước ta hiện nay được đặc trưng bởi nhiều thành phần kinh tế, với nhiều chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất như: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên do mỗi ngành sản xuất, kinh doanh có những đặc điểm riêng biệt nên cần lựa chọn và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, có hiệu quả. Trong điều kiện nông nghiệp nước ta, cần quan tâm phát triển các hình thức tổ chức sản xuất sau: - Kinh tế hộ gia đình nông dân: Về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn phát triển nông nghiệp hàng trăm năm của các nước trên thế giới đều khẳng định kinh tế hộ gia đình nông dân tồn tại là một tất yếu, là hình thức tổ chức kinh tế phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp. Kinh tế hộ gia đình nông dân là một hình thức tổ chức kinh tế, là đơn vị kinh tế cơ sở, có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, vừa có những đặc trưng của một đơn vị kinh tế (một doanh nghiệp) vừa có những đặc trưng của một hộ gia đình. Với tư cách là một hộ gia đình nên các thành viên tham gia sản xuất là những người có quan hệ với nhau về hôn nhân và huyết thống (có thể có thành viên ngoài gia đình tham gia nhưng chỉ có tính tạm thời - lao động thời vụ), họ cùng sống chung trong một mái nhà (trong một căn hộ), có chung một nguồn thu nhập (chung ngân quỹ) và thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người - sức TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 101
  14. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN lao động tương lai. Là đơn vị kinh tế gắn với từng hộ gia đình nông dân nên người chủ gia đình có chức năng nuôi dạy và giáo dục con cái để tạo sức lao động tương lai, để có người kế nghiệp. Với tư cách là đơn vị kinh tế, kinh tế hộ gia đình nông dân cũng giống như các đơn vị kinh tế là thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh (tạo ra của cải vật chất) và người chủ gia đình phải thực hiện chức năng quản lý sản xuất kinh doanh (chức năng của người chủ doanh nghiệp) đồng thời trực tiếp tham gia sản xuất (chức năng của một công nhân - người lao động trực tiếp). Đối với nước ta, kinh tế hộ gia đình nông dân ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của nó trong sản xuất nông nghiệp, trở thành hình thức tổ chức sản xuất cơ bản, có hiệu quả cao trong nông nghiệp. Kinh tế hộ gia đình nông dân nước ta hiện nay cũng như sau này sẽ là khu vực chủ yếu sản xuất và cung cấp nông sản cho xã hội (kể cả tiêu dùng trong nước và xuất khẩu). Sự tồn tại kinh tế hộ gia đình nông dân sẽ có ý nghĩa chi phối đến phương thức, nội dung hoạt động của các hình thức tổ chức sản xuất khác trong nông nghiệp (các loại hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần, liên doanh ); chi phối đến phương hướng hoạt động của các ngành có liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất phục vụ nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các ngành công nghiệp chế biến, các ngành dịch vụ, giáo dục, đào tạo Đồng thời sự tồn tại kinh tế hộ gia đình còn chi phối đến việc nghiên cứu, xây dựng hệ thống chính sách kinh tế và các giải pháp kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn. Trước tình hình khủng hoảng, bế tắc của phong trào hợp tác hoá, ở một số địa phương đã xuất hiện "khoán hộ" và sau đó là sự ra đời của Chỉ thị 100 CT/TW (tháng 1/1981) về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Sau dó là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về "đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp". Thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị cùng với Nghị quyết TW khoá VI, hộ gia đình xã viên được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với phát triển nông nghiệp ở nước ta. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của hàng chục triệu nông dân. Vì vậy từ TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 102
  15. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN 1988 đến nay, sản xuất nông nghiệp nước ta liên tục tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu cơ bản cho tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên đã hơn 10 năm hộ gia đình nông dân được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, nhưng trong thực tế, việc thực hiện quyền tự chủ của họ vẫn còn nhiều hạn chế và mâu thuẫn. Việc thừa nhận hộ là đơn vị kinh tế tự chủ nhưng cho đến nay ở một số địa phương mô hìn hợp tác xã kiểu cũ vẫn còn tồn tại, những vấn đề về đất đai và cơ chế quản lý vĩ mô chưa đổi mới kịp. Tình trạng chia đất manh mún sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đang là cản trở lớn đến phát triển nông nghiệp hàng hoá của mỗi hộ gia đình nông dân. Về phía bản thân các hộ gia đình nông dân, chưa thật sự có năng lực làm chủ trong nền kinh tế thị trường do trình độ có hạn, do thiếu vốn, do sống lâu trong mô hình hợp tác xã - tập thể hoá, trong cơ chế bao cấp Những mâu thuẫn và những hạn chế đó đang là lực cản cho sự phát triển của kinh tế hộ gia đình nông dân theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá. Vì vậy để hộ gia đình nông dân thực sự trở thành đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ từ phía Nhà nước (trung ương, địa phương), của các ngành cũng như của bản thân từng hộ. Tuy nhiên, việc hình thành các trang trại gia đình đòi hỏi phải có thời gian. Sự hình thành và phát triển của mô hình trang trại gia đình gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội, sự phân hoá các ngành nghề ngay trên từng địa phương. Đối với nước ta không phải vùng nào cũng có khả năng hình thành nhanh chóng các trang trại. Trong điều kiện hiện nay đối với vùng đất đai bình quân đầu người cao, khả năng mở thêm diện tích canh tác còn lớn, nhất là các tỉnh trung du, miền núi, các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, thì khả năng hình thành các trang trại sẽ nhanh hơn. Mặt khác, cần nhận thức ở nước ta hiện nay không phải chỉ có các hộ gia đình nông dân (hộ xã viên trong các hợp tác xã trước đây, hộ nông dân cá thể) mà cả các hộ công nhân trong các nông, lâm trường quốc doanh cũng trở thành đơn vị kinh tế tự chủ (số đông sẽ trở thành trang trại). Đây là vấn đề đang có những nhận thức khác nhau mà thực tiễn đang đặt ra cần giải quyết. Vì vậy để TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 103
  16. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, hình thành các trang trại gia đình, cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau: - Một là, cần thực hiện nhất quán luật đất đai đối với các hộ (không phân biệt các hộ như hiện nay). Tất cả các hộ đều phải được Nhà nước giao quyền sử dụng đất đai lâu dài hoặc cho thuê theo luật đất đai. Hiện nay các hộ nông dân (hộ xã viên trước đây và hộ cá thể) được Nhà nước giao quyền sử dụng đất đai lâu dài, còn các hộ công nhân trong các nông, lâm trường lại do các nông, lâm trường giao đất dưới dạng khoán, đấu thầu hoặc bán (bán vườn cây). Nhà nước cùng các địa phương cần tiến hành điều tra tình hình quản lts, sử dụng đất đai trong tất cả các nông, lâm trường để có biện pháp quản lý phù hợp với luật đất đai và giao quyền sử dụng lâu dài cho các tổ chức, cá nhân, chủ yếu là cho nông dân. - Hai là, cần xoá bỏ những ràng buộc phi lý đối với kinh tế hộ gia đình nông dân. Khi hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế tự chủ thì hộ toàn quyền quyết định tất cả các vấn đề có liên quan đến sản xuất kinh doanh như: sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai ? cũng như phân phối kết quả làm ra. Song trên thực tế các hợp tác xã và nông trường quốc doanh vẫn chưa đổi mới kịp, chưa thật sự tôn trọng quyền tự chủ của các hộ, vẫn còn bắt các hộ đóng góp một số khoản theo diện tích đất để nuôi bộ máy, trong lúc bộ máy đó không giúp được gì cho kinh tế hộ. Về phía các địa phương, nhất là các cấp xã vẫn còn bắt các hộ gia đình đóng góp quá nhiều khoản, nhiều nơi trở thành gánh nặng đối với các hộ gia đình nông dân. - Ba là, Nhà nước cần có kế hoạch giúp đỡ kinh tế hộ gia đình nông dân từng bước tháo gỡ khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Từ sản xuất nhỏ lạc hậu, chủ yếu là tự cấp, tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá nên các hộ gia đình gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy cần có kế hoạch và xác định rõ thức tự các nội dung cần ưu tiên trong việc giúp đỡ nông dân. Trong những năm tới cần tập trung vào các vấn đề sau: TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 104
  17. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN + Giúp nông dân định hướng sản xuất: sản xuất cái gì mà thị trường cần và cần bao nhiêu ? + Giúp nông dân ứng dụng khoa học và công nghệ. + Giúp nông dân vay vốn thuận lợi. + Cần có giải pháp đồng bộ giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm một cách có lợi nhất. Muốn giúp nông dân tiêu thụ được sản phẩm Nhà nước phải quan tâm từ công tác xây dựng chiến lược phát triển từng loại nông sản, công tác quy hoạch, giống, chế biến, bảo quản, tìm kiếm thị trường và các giải pháp bảo trợ lúc cần thiết. + Giúp nông dân đào tạo nâng cao trình độ sản xuất, kinh doanh thích ứng với nền kinh tế thị trường. - Phát triển đa dạng các hình thức hợp tác và hợp tác xã (kinh tế tập thể) Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra, theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về phương diện lý luận cũng như kinh nghiệm hàng trăm năm phát triển nông nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều khẳng định sự phát triển các hình thức hợp tác và hợp tác xã trong nông nghiệp là một tất yếu. Trong nền kinh tế thị trường do quy luật cạnh tranh nên từng hộ gia đình muốn tồn tại và phát triển họ phải hợp tác với nhau. Bởi lẽ, để tạo ra sản phẩm và dịch vụ có chất lượng cao, giá thành hạ để cạnh tranh được trên thị trường thì có những khâu từng hộ không làm được, hoặc làm không hiệu quả (chẳng hạn như khâu thuỷ lợi, đưa giống mới vào sản xuất, tiêu thụ nông sản ). Từ đó để bảo vệ và thực hiện lợi ích, các hình thức hợp tác và hợp tác xã phát triển rất đa dạng. Người nông dân có thể hợp tác với nhau thông qua thị trường (thông qua quan hệ mua bán) và hợp tác với nhau thông qua các tổ chức kinh tế mà họ lập ra - Đó là các hợp tác xã, các hiệp hội Về nguyên tắc, những khâu nào thông TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 105
  18. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN qua thị trường không giải quyết được hoặc có thể gây ra những bất lợi cho nông dân thì có thể hình thành hợp tác xã. Đối với nước ta hiện nay, cần tạo điều kiện và khuyến khích phát triển đa dạng các hình thức hợp tác và hợp tác xã phù hợp với từng lĩnh vực, từng địa phương. Chẳng hạn, giữa các hộ gia đình nông dân có thể hợp tác với nhau để làm dịch vụ, để cùng sản xuất kinh doanh dưới các hình thức như: tổ hợp tác, tổ liên giam, hợp tác xã, tổ cộng đồng dân cư Hoặc các hộ nông dân có thể hợp tác với các tổ chức khác, trước hết là các tổ chức của nhà nước như các trung tâm, viện nghiên cứu, các công ty dịch vụ, chế biến, kinh doanh nông sản. Hình thức hợp tác này có thể thực hiện thông qua các hợp đồng kinh tế hoặc dưới dạng công ty cổ phần Ngoài ra, nông dân còn có thể hợp tác với nhau thông qua việc thành lập các hiệp hội (hội làm vườn, hội nuôi ong, nuôi ba ba ) Nông nghiệp càng chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá thì nhu cầu hợp tác sẽ ngày càng tăng và sẽ phát triển đa dạng các loại hình hợp tác xã. Trong điều kiện nước ta, để hợp tác xã phát triển, trở thành hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả, phù hợp nguyện vọng của nông dân cần quan tâm giải quyết các vấn đề sau: - Trước hết, cần khẳng định các hình thức hợp tác và hợp tác xã được phát triển trên cơ sở tự nguyện của những người lao động (có nhu cầu lợi ích cùng góp vốn, góp sức tạo ra). Điều đó có nghĩa là không được bắt ép nông dân tham gia các hình thức hợp tác và hợp tác xã dưới bất cứ hình thức nào và Nhà nước không được can thiệp trực tiếp vào việc thành lập các hình thức của kinh tế tập thể. - Hai là, cần khuyến khích và tạo điều kiện phát triển đa dạng các hình thức hợp tác và hợp tác xã phù hợp với từng lĩnh vực, từng địa phương. Sự phát triển đa dạng các hình thức hợp tác xã hiện nay phải có sự thay đổi căn bản về mô hình so với hợp tác xã kiểu cũ. Hay nói cách khác là phát triển các hợp tác xã kiểu mới phải có sự thay đổi căn bản về chất so với các hợp tác xã - tập thể hoá trước đây. Hợp tác xã kiểu mới có các đặc trưng là: TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 106
  19. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN + Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, một hình thức liên hiệp tự nguyện của các hộ nông dân tự chủ. + Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế độc lập cùng tồn tại gắn bó mật thiết với các hộ nông dân cũng là các tổ chức kinh tế độc lập. + Hợp tác xã phát triển rất đa dạng về quy mô, trình độ tổ chức, chức năng và phương hướng hoạt động. Trong đó hình thức phổ biến là hợp tác xã đảm nhận cung cấp cho các hộ nông dân các dịch vụ đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất - chế biến - tiêu thụ, trước hết là các khâu dịch vụ xa quá trình trình sinh học của sản xuất nông nghiệp. + Hợp tác xã được thành lập và hoạt động về nguyên tắc không phụ thuộc vào địa giới hành chính của các hộ nông dân tham gia hợp tác xã, mà phụ thuộc vào đặc điểm của từng loại chức năng mà hợp tác xã hoạt động và trình độ kinh doanh của hợp tác xã. + Mục đích hoạt động của hợp tác xã là phục vụ lợi ích thiết thân của hộ nông dân. Song là chủ thể kinh doanh trong cả thị trường, hợp tác xã phải thích ứng với điều kiện của nền kinh tế thị trường, phải chấp nhận cạnh tranh, nghĩa là kinh doanh là phương thức để tồn tại, phát triển và qua đó mà đánh giá hiệu quả hoạt động của hợp tác xã. + Hợp tác xã là tổ chức tự quản, tự chịu trách nhiệm, hoạt động theo pháp luật và điều lệ của hợp tác xã, không chịu sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh. - Ba là, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, các ngành, các cấp trong việc phát triển các hình thức kinh tế hợp tác và hợp tác xã. + Tập trung chỉ đạo việc chuyển đổi các hợp tác xã theo luật (hợp tác xã kiểu cũ). Cần tránh tình trạng chuyển đổi hình thức, chưa có sự chuyển biến rõ rệt về nội dung và phương thức hoạt động. Đối với những hợp tác xã yếu kém, tồn tại hình thức đã có nhiều biện pháp hỗ trợ nhưng không khắc phục được, xã viên có nguyện vọng thì xem xét cụ thể từng trường hợp, có thể cho giải thể và hướng dẫn, giúp đỡ nông dân hình thành các hình thức kinh tế mới phù hợp. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 107
  20. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN + Cần tạo điều kiện thuận lợi và giúp các hợp tác xã mới chuyển đổi và hợp tác xã mới thành lập hoạt động hiệu quả như: giúp các hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, kỹ thuật, kinh doanh, tạo điều kiện cho các hợp tác xã vay vốn, xử lý dứt điểm công nợ của hợp tác xã (nợ ngân hàng, nợ thuế, nợ các doanh nghiệp nhà nước ). Đối với hợp tác xã làm dịch vụ cho kinh tế hộ cần miễn thuế, miễn tiền thuê đất làm trụ sở Các tổ chức nhà nước cần tăng cường cung cấp đầy đủ, kịp thời các loại thông tin có liên quan đến hoạt động của hợp tác xã như thông tin về thị trường, giá cả, khoa học, công nghệ; thông tin về chính sách, pháp luật - Tăng cường hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với hợp tác xã từ Trung ương tới địa phương (tới huyện) để hướng dẫn, giúp đỡ các hợp tác xã hoạt động nhất là hoạt động phục vụ cho hộ nông dân. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước cần coi hợp tác xã là khâu trung gian, cầu nối để đưa các chính sách và giải pháp của Nhà nước đến với nông dân. Thực tế hiện nay, nhiều chính sách và giải pháp ưu đãi, giúp đỡ của Nhà nước đối với nông dân không đến được từng hộ nông dân mà chỉ đến các tổ chức trung gian (tư thương hoặc các tổ chức không phải của nông dân). Về nguyên tắc Nhà nước cần tăng cường giúp đỡ trực tiếp đến từng hộ nông dân, không nên qua các trung gian. Nhưng do số lượng hộ lớn, lại sống phân tán nên sự giúp đỡ trực tiếp của Nhà nước nhiều khi rất khó khăn và tốn kém. Vì vậy nếu các hợp tác xã thực sự là tổ chức kinh tế tự nguyện của các hộ nông dân tự chủ, tự quản sẽ có tác dụng rất lớn trong việc thực hiện các biện pháp giúp đỡ của Nhà nước đối với nông dân. Tăng cường hệ thống tổ chức quản lý của Nhà nước đối với hợp tác xã không có nghĩa là các tổ chức Nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động của các hợp tác xã mà là hướng dẫn, giám sát hoạt động của hợp tác xã theo đúng chính sách và luật pháp. - Doanh nghiệp Nhà nước Đây là hình thức tổ chức sản xuất do Nhà nước trực tiếp đầu tư xây dựng và hoạt động theo định hướng của Nhà nước. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 108
  21. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế nói chung và trong nông nghiệp nói riêng. Doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp hoạt động ở hai lĩnh vực: sản xuất (các nông, lâm trường, trạm trại0 và dịch vụ (thuỷ nông, giống, bảo vệ thực vật, thú y, vật tư ). Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp hàng hoá hiện đại, nhất là trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, hướng dẫn kỹ thuật, cung ứng vật tư chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho các hộ gia đình và các tổ chức sản xuất khác. Trước đây, do quan niệm chỉ có kinh tế quốc doanh mới triệt để xã hội chủ nghĩa, mới có điều kiện sản xuất có hiệu quả, nên đã có chủ trương xây dựng hàng hoạt các nông trường quốc doanh, các trạm cơ khí nông nghiệp và sửa chữa, các trạm, trại sản xuất và các cơ sở dịch vụ kỹ thuật khác nhất là phát triển các nông trường quốc doanh. Nhưng do mô hình tổ chức không phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp, do cơ chế quản lý, do trình độ tổ chức quản lý còn thấp nên hầu hết các cơ sở quốc doanh nông nghiệp đều làm ăn thua lỗ, không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước. Bước sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự đổi mới nói chung của nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp đã có những đổi mới căn bản từ khâu quản lý nhà nước đến tổ chức quản lý nội bộ các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã phát huy được vai trò làm trung tâm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, đặc biệt là thúc đẩy kinh tế hộ phát triển sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, quá trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước nói chung và doanh nghiệp trong nông nghiệp nói riêng là quá trình đầy khó khăn và phức tạp. Vì vậy về quan điểm định hướng, một mặt vẫn tiếp tục khẳng định vị trí then chốt, vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước; mặt khác cũng phải thấy rằng doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp cần tập trung phát triển ở những ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu, có ý nghĩa chi phối đến sự phát triển toàn ngành, những lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn, kỹ thuật phức tạp như: nghiên cứu TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 109
  22. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN sản xấut giống mới, bảo vệ thực vật, thuỷ lợi hoặc những ngành hiệu quả thấp nhưng có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội. Như vậy, phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải thu hẹp dần. Những lĩnh vực nào Nhà nước không cần nắm giữ mà các thành phần kinh tế khác có khả năng làm và làm hiệu quả hơn thì không nhất thiết phải tồn tại doanh nghiệp nhà nước. Để thực hiện được quan điểm định hướng trên và phù hợp với xu hướng đổi mới nền kinh tế cần đổi mới triệt để doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp. Do doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp hoạt độn ở nhiều lĩnh vực khác nhau nên cách thức đổi mới cũng khác nhau. - Đối với doanh nghiệp nhà nước sản xuất (chủ yếu là các nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh), đổi mới mạnh mẽ theo hướng giao đất ổn định lâu dài cho các hộ gia đình để họ tự chủ sản xuất, kinh doanh theo mô hình trang trại. Nông trường chỉ quản lý tập trung một diện tích vừa đủ để triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học (sản xuất giống, quy trình canh tác mới ) để phục vụ cho kinh tế hộ. Trên cơ sở đó nông trường cần chuyển hẳn hướng hoạt động sang làm dịch vụ (cả đầu vào và đầu ra) cho các hộ gia đình (kể cả các hộ gia đình nông dân trên địa bàn). Theo hướng đổi mới này, nông trường tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp với điều kiện tự nhiên và nhu cầu thị trường; quản lý kinh doanh dịch vụ, tổ chức liên kết với các thành phần kinh tế khác để chế biến và tiêu thụ nông sản (cả xuất khẩu). Nông trường còn phải liên kết với các cơ quan khoa học để đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông trường cũng như vào các hộ gia đình. Nông trường có thể trở thành trung tâm sản xuất giống cung cấp cho các hộ gia đình (kể cả nông dân trong vùng), làm cầu nối giữa cơ quan khoa học và nông dân. Đối với các nông - lâm trường có cơ sở chế biến cần tiến hành cổ phần hoá tạo điều kiện thuận lợi cho đông đảo người lao động tham gia mua cổ phiếu và tham gia quản lý doanh nghiệp (kể cả các hộ gia đình trồng nguyên liệu). Cổ phần hoá các cơ sở chế biến sẽ tạo được mối liên kết chặt chẽ, sẽ tạo ra sự cộng TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 110
  23. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN đồng lợi ích và cộng đồng trách nhiệm của những người trồng nguyên liệu và cơ sở chế biến, tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Đối với các nông - lâm trường hoạt động kém hiệu quả, không có khả năng chuyển hướng hoạt động cần tiến hành giải thể, giao đất lại cho các địa phương để giao cho các hộ gia đình nông dân (kể cả các hộ gia đình từ các vùng khác chuyển đến). Nhà nước cần tiến hành giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho các hộ gia đình (cả hộ gia đình công nhân) theo đúng quy định của luật đất đai. - Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ cần sắp xếp lại tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động theo hướng gắn với kết quả sản xuất cuối cùng của từng hộ gia đình nông dân, tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp nhà nước và hộ nông dân ngay trên từng địa bàn nông thôn. Quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp nhà nước làm dịch vụ với các hộ nông dân phải được thực hiện thông qua hợp đồng kinh tế. Cần đề cao trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước làm dịch vụ với từng hộ nông dân. 5.3.3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Khái niệm: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá là phương hướng chủ đạo của các nước đang phát triển. Đây là con đường chung mà tất cả các nước trên thế giới đều phải trải qua. Đối với nước ta mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là: xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc. Từ nay đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trong quá trình vươn tới mục tiêu đó, nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 111
  24. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn là việc đưa máy móc, thiết bị ứng dụng phương pháp sản xuất và các hình thức tổ chức sản xuất kiểu công nghiệp vào các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn còn bao trùm cả việc tạo ra sự gắn bó giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp cũng như toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất - dịch vụ và đời sống văn hoá tinh thần ở nông thôn. Hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là quá trình nâng cao trình độ khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, tạo ra nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ. Hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao trình độ khoa học công nghệ và tổ chức sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn mà còn bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hoá - tinh thần, phát triển hệ thống hạ tầng xã hội, hệ thống giáo dục đào tạo, y tế và các dịch vụ đời sống khác ở nông thôn. Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hoá không có nghĩa là đưa toàn bộ công nghệ tiên tiến, hiện đại vào nông nghiệp, nông thôn ngay một lúc, mà phải biết tận dụng, cải tiến, hoàn thiện, từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ, trình độ tổ chức, quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn ngang tầm trình độ thế giới. Ý nghĩa của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một tất yếu và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn mới giải quyết được các vấn đề: - Một là, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp, nông thôn. Theo xu hướng phát triển có tính quy luật là lao động nông nghiệp ngày càng giảm xuống cả về tương đối và tuyệt đối. Đối với những nước có nền kinh tế phát triển (đã công nghiệp hoá) thì lao động nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 3- 4% tổng số lao động xã hội. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào chuyển được TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 112
  25. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN một số lao động nông nghiệp sang phát triển công nghiệp và dich vụ. Có nhiều con đường khác nhau, song con đường cơ bản, lâu dài là thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng chuyển từ nghề nông sang phát triển công nghiệp và dịch vụ ngay trên từng vùng nông thôn (theo phương châm "ly nông bất ly hương", "nhập xưởng bất nhập đo"). Muốn tạo ra sự phân công lại lao động trong nông nghiệp nông thôn phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, một mặt là cơ sở để rút lao động từ nghề nông sang phát triển những ngành nghề phi nông nghiệp, mặt khác nhờ công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì các ngành phi nông nghiệp nhất là các ngành công nghiệp chế biến, các ngành TTCN, dịch vụ phát triển có hiệu quả mới có điều kiện thu hút lao động từ nông nghiệp nông thôn. - Hai là, tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ cũng như sản phẩm của bản thân nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi sản phẩm của các doanh nghiệp nước ta đang gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt trên thị trường quốc tế. Hiện nay cũng như sau này, thị trường nông thôn là thị trường rộng lớn và có nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, do tình trạng sản xuất nhỏ, lạc hậu, thu nhập của người nông dân còn thấp nên sức mua của thị trường nông thôn nước ta còn thấp, thị trường nông thôn còn nhỏ hẹp. Muốn tăng sức mua từ thị trường nông thôn thì con đường cơ bản, lâu dài là phải chuyển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn sang phát triển sản xuất hàng hoá. Muốn chuyển nông nghiệp, nông thôn sang phát triển sản xuất hàng hoá thì vấn đề có tính quyết định là phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Ba là, giải quyết tốt các vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn, nhất là vấn đề việc làm, khai thác có hiệu quả các nguồn lực ở mỗi vùng, địa phương. Khắc phục sự chênh lệch về thu nhập giữa các vùng, các dân tộc, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. - Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra được nhiều việc làm mới nhờ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn sang TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 113
  26. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN phát triển sản xuất hàng hoá, khai thác những lợi thế so sánh của từng vùng địa phương, đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ. Khi nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng xoá bỏ tính thuần nông, phát triển đa dạng các ngành nghề chế biến, TTCN, dịch vụ, thì các tiềm năng về tài nguyên, lao động, vốn, kinh nghiệm sản xuất sẽ được khai thác triệt để, có hiệu quả. Nếu công nghiệp và dịch vụ nông thôn phát triển thì các nông lâm, thuỷ sản sẽ trở thành hàng hoá có giá trị, các phụ phế phẩm sẽ trở thành nguyên liệu cho nhiều ngành sản xuất và dịch vụ (phụ phế phẩm của ngành trồng trọt trở thành nguyên liệu để sản xuất phân bón hữu cơ, trồng nấm xuất khẩu); phụ phế phẩm chăn nuôi có thể dùng làm thức ăn nuôi cá hoặc làm biogas để cung cấp chất đốt ). Khi công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển sẽ làm cho nông thôn phát triển toàn diện cả về kinh tế văn hoá, xã hội và đời sống của cư dân nông thôn sẽ tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị sẽ giảm xuống. Đặc điểm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là con đường tất yếu nhằm mục tiêu cải biến nước ta thành một nước công nghiệp. Song con đường thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn không thể giống như công nghiệp hoá, hiện đại hoá đô thị. Việc nghiên cứu nắm các đặc điểm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định bước đi, nội dung, giải pháp cho quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta. Đặc điểm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn gắn liền với những đặc điểm nông nghiệp, nông thôn nước ta. Những đặc điểm đó là: - Thứ nhất, chủ thể của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là những hộ gia đình nông dân đang sống ở vùng nông thôn. Như vậy, chủ thể của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn nước ta là những nông dân có trình độ dân trí thấp lại nghèo; khả năng đóng góp cả về trí tuệ và vốn còn gặp rất nhiều khó khăn. Từ đó đòi TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 114
  27. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN hỏi phải có chính sách và giải pháp để giúp các hộ gia đình có khả năng tiếp thu và thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. - Thứ hai, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, không tập trung như công nghiệp. Có thể nói trên khắp các vùng lãnh thổ của đất nước ta, từ các tỉnh đồng bằng đến các tỉnh trung du, ven biển, ở đâu cũng có hoạt động sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Mỗi vùng khác nhau có những đặc điểm rất khác biệt về tự nhiên, kinh tế, xã hội, lịch sử truyền thống, ngành nghề sản xuất nên không thể có mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chung cho tất cả các vùng, địa phương được. Mỗi vùng địa phương, trên cơ sở điều kiện cụ thể của mình mà xác định nội dung, phương thức tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn phù hợp. Mặt khác, để tạo điều kiện cho các vùng địa phương tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, Nhà nước cũng như các ngành chức năng, nhất là công nghiệp, các viện nghiên cứu cần trên cơ sở nhu cầu và điều kiện cụ thể của từng vùng để nghiên cứu sản xuất ra những máy móc, thiết bị các giống cây, con phù hợp (phù hợp điều kiện tự nhiên - đất đai, địa hình, khí hậu; phù hợp với cây trồng vật nuôi và các ngành nghề). - Thứ ba, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tiến hành trong điều kiện đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý của hệ thống chính trị cơ sở còn thấp. Có thể nói đa phần cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở là những cán bộ không chuyên nghiệp, ít được đào tạo, là cấp có trình độ văn hoá, trình độ lý luận và chuyên môn thấp nhất (thậm chí có cán bộ còn mù chữ hoặc mới thoát mù chữ). Với đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở còn yếu như vậy nên việc nhận thức về chủ trương, đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn sẽ rất khó khăn, chưa nói đến việc biến chủ trương, đường lối thành kế hoạch hành động cụ thể. Kinh nghiệm thực tế cho hay, ở đâu các cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị cơ sở có năng lực thì ở đó chủ trương về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn được thực thi có hiệu quả, ngược lại ở đâu cán bộ chủ chốt yếu kém thì chủ trương về công TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 115
  28. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn không được thực thi đầy đủ, nông nghiệp nông thôn về cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ, lạc hậu. - Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì đòi hỏi phải đầu tư tốn kém và rủi ro cao, do sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên và quy luật cung cầu về nông sản trên thị trường. Đối với nước ta, điều kiện tự nhiên rất phức tạp, ảnh hởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp (lũ lụt, hạn hán, rét, bão ). Để hạn chế những tác hại do tự nhiên gây ra đối với sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải đầu tư rất lớn (xây dựng hệ thống đê sông, đê biển, hệ thống công trình thuỷ lợi ), thời hạn thu hồi vốn lâu, có công trình rất khó có khả năng thu hồi. Đặc điểm này, đòi hỏi phải có sự quan tâm đầu tư rất lớn của nhà nước thì các vùng nông thôn mới có điều kiện thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Qua tổng kết thực tiễn của nước ta cũng như nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, có thể hiểu nội dung tổng quát về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là: + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hàng hoá quy mô lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, đưa công nghiệp hiện đại vào tất cả các khâu của sản xuất nông nghiệp; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản. + Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, tổ chức lại sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, quy hoạch phát triển nông thôn, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và đô thị hoá nông thôn, ưu tiên giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn văn minh. Từ nội dung tổng quát đó, có thể cụ thể hoá nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nước ta như sau: TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 116
  29. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá đa dạng, hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh phù hợp với lợi thế của từng vùng, địa phương, gắn với công nghiệp chế biến và từng bước được hiện đại hoá. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của từng vùng địa phương cần dựa vào lợi thế so sánh để xác định những sản phẩm mũi nhọn, có giá trị tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương cần hình thành các vùng sản xuất tập trung (vùng sản xuất lúa gạo, chè, cà phê ) với quy mô hợp lý. Việc hình thành các vùng sản xuất hàng hoá nông sản tập trung cần có sự liên kết chặt chẽ từ các khâu trước sản xuất, trong sản xuất và sau sản xuất, giữa sản xuất - chế biến và tiêu thụ, đảm bảo sự thông thoáng từ sản xuất của nông dân đến thị trường tiêu thụ. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần phát triển nhanh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến, các ngành nghề phi nông nghiệp phù hợp từng vùng, địa phương. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phải gắn với việc nâng cao chất lượng, giá trị và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Hai là, phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn bao gồm các nội dung cụ thể như: xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát triển nông nghiệp nông thôn, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động phù hợp yêu cầu phát triển nông nghiệp nông thôn sản xuất hàng hoá. Trong phát triển cơ sở hạ tầng, nội dung cần ưu tiên là đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tổng hợp tài nguyên nước (kết hợp phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai). Phát triển nhanh hệ thống giao thông nông thôn đảm bảo giao lưu hàng hoá và đi lại cho nhân dân. Phát triển hệ thống điện nông thôn, đảm bảo cung cấp điện có chất lượng cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn. Đối với những vùng TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 117
  30. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN không có lưới điện quốc gia, Nhà nước cần hỗ trợ phát triển các nguồn điện năng tại chỗ. Đối với hạ tầng viễn thông và các điểm văn hoá, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp, nông thôn. Đối với việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ: Đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, nội dung cần đặc biệt ưu tiên là: - Đầu tư cho nghiên cứu tạo giống mới cho sản xuất nông nghiệp, nhất là giống cây, con chủ lực cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu như: lúa gạo, ngô, cà phê, chè, mía, cây ăn trái ; các giống gia súc, gia cầm, thuỷ sản Giống mới phải đạt các tiêu chuẩn về năng suất, chất lượng, giá thành, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của khách hàng và phải phù hợp với từng vùng sinh thái. Nói cách khác, giống mới phải tạo ra sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường (cả nội địa và quốc tế). Đầu tư cho nghiên cứu tạo giống mới không chỉ là kỹ thuật lai tạo, chọn lọc, thuần chủng mà tiến tới tạo giống bằng những công nghệ tiên tiến như công nghệ tế bào, công nghệ gen, phương pháp gây đột biến - Đầu tư cho nghiên cứu công nghệ sau thu hoạch, đặc biệt là công nghệ chế biến, bảo quản nông sản. Chất lượng sản phẩm cuối cùng hay thấp cũngphụ thuộc vào khâu này. Thực tiễn phát triển nông nghiệp đang đặt ra nhiều vấn đề bức bách đòi hỏi phải chú trọng đầu tư cho công nghệ chế biến, bảo quản nông sản. Trong những năm tới cần quan tâm đầu tư cho việc nghiên cứu công nghệ chế biến, bảo quản phù hợp điều kiện nước ta (khí hậu, thời tiết và các loại nông sản). Tiêu chuẩn của công nghệ chế biến, bảo quản là chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ, đáp ứng được nhu cầu thị trường, nhất là xuất khẩu. Trong nghiên cứu công nghệ chế biến, bảo quản không chỉ chú trọng công nghệ hiện đại, quy mô lớn, tập trung mà còn phải nghiên cứu công nghệ chế biến, bảo quản ở quy mô gia đình hay cụm dân cư, nhất là sơ chế: phơi, sấy lúa, ngô, chè TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 118
  31. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN - Đầu tư nghiên cứu, sản xuất các loại máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp, nông dân để nâng cao trình độ cơ giới hoá nông nghiệp. Nghiên cứu máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp phải phù hợp điều kiện sản xuất từng vùng (đất đai, địa hình, cây trồng, vật nuôi ) cũng như nhu cầu của người sản xuất (chủ yếu là nông dân), đảm bảo hiệu quả sử dụng cao, phù hợp với khả năng sử dụng và mua sắm của họ. Ngoài ra, cần quan tâm đầu tư nghiên cứu và đưa vào sử dụng công nghệ tưới tiêu, công nghệ hoá học và các khâu kỹ thuật canh tác, kỹ thuật chăn nuôi sạch (phát triển nền nông nghiệp sạch). Muốn đưa các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp phải có hệ thống tổ chức để chuyển giao công nghệ. Hệ thống tổ chức để chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ vào nông nghiệp bao gồm các tổ chức của Nhà nước theo từng chuyên ngành (giống, bảo vệ thực vật, thú y ) và các tổ chức phi nhà nước (các hiệp hội nông nghiệp, các tổ chức xã hội ) hoặc thông qua các công ty theo ngành (chè, cà phê, mía đường ), hoặc có thể thông qua các hợp tác xã dịch vụ, các nông trường quốc doanh Về nguyên tắc, hệ thống chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phải có sự thống nhất từ trung ương đến địa bàn (thôn, xã), phải kiểm soát được các tiến bộ khoa học và công nghệ đưa vào sản xuất Các tổ chức chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phải chịu trách nhiệm đến kết quả cuối cùng của sản xuất nông nghiệp trong từng hộ gia đình, từng trang trại. Về phía Nhà nước phải kiểm tra, giám sát được các tiến bộ khoa học và công nghệ đưa vào sản xuất để tránh tình trạng đưa công nghệ lạc hậu, công nghệ kém chất lượng vào nông nghiệp và xử lý nghiêm các trường hợp gian dối trong quá trình chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ vào nông nghiệp. Đối với đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động, cần quan tâm đào tạo những ngành, nghề mà nông dân từng vùng, địa phương có nhu cầu, phục vụ có hiệu quả quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Cần có chính sách để khuyến khích lao động có đào tạo, nhất là sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học, Cao đẳng về công tác tại các vùng nông thôn. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 119
  32. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN - Ba là, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp ở vùng nông thôn phải trên tinh thần mọi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng và đều được khuyến khích phát triển. Trong đó, cần quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phát triển các hình thức hợp tác và hợp tác xã, các hiệp hội nghề nghiệp của nông dân. Doanh nghiệp nhà nước cần tập trung thực hiện những việc mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được. Đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp cần gắn với sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình nông dân, lấy các hộ gia đình làm trung tâm để đổi mới phương thức và nội dung hoạt động. Cần tăng cường quan hệ liên kết giữa các thành phần kinh tế, bao gồm cả hệ thống liên kết ngang và liên kết dọc gắn với quá trình tái sản xuất từ sản xuất nông sản đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. - Bốn là, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn. Phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn là lối thoát cơ bản của nền nông nghiệp hiện đại hoá, là hướng chủ yếu, lâu dài để tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, từng bước công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn, rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. 5.3.4. Đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Đây là giải pháp có vị trí quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Muốn đẩy mạnh công tác tiêu thụ nông sản đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các vấn đề có liên quan cả ở tầm vĩ mô (nhà nước) và ở tầm vi mô (các cơ sở sản xuất). Về phía nhà nước (trực tiếp là ngành nông nghiệp) cần có định hướng sản xuất cớ cơ sở khoa học - sản xuất những nông sản mà thị trường cần, quy mô sản xuất của từng loại nông sản. Muốn vậy nhà nước phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo thị trường, cung cấp kịp thời các thông tin về thị trường, gia cả các loại nông sản mà nước ta sản xuất và xuất khẩu. Mặt khác, nhà nước TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 120
  33. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN (ngành thương mại) cần xúc tiến tìm kiếm thị trường, nhất là thị trường nước ngoài để tiêu thụ những nông sản mà nước ta sản xuất được. Đẩy mạnh công tác tiêu thụ nông sản không chỉ là tìm cách bán những nông sản ta có, mà còn phải quan tâm sản xuất ra những nông sản đáp ứng nhiều loại thị trường khác nhau trong nước và trên thế giới. Do đó giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ nông sản phải gắn với các vấn đề quy hoạch sản xuất, nghiên cứu tạo giống mới, công nghệ chế biến, bảo quản; công nghệ sản xuất các nông sản sạch và hàng loạt các chính sách và giải phát có liên quan khác (thuế, tín dụng, bảo trợ ). 5.3.5. Đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế đối với nông nghiệp, nông dân Lịch sử phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta hàng chục năm qua đã khẳng định vai trò quan trọng của các chính sách kinh tế của Nhà nước. Các chính sách kinh tế hoặc có tác dụng thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Về nguyên tắc, hệ thống chính sách kinh tế đối với nông nghiệp phải đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với quá trình chuyển nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng sang phát triển sản xuất hàng hoá xuất khẩu, theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống chính sách phải phù hợp đặc điểm sản xuất nông nghiệp nói chung và nông nghiệp, nông thôn nước ta nói riêng và chính sách kinh tế theo cơ chế thị trường phải gắn với chính sách xã hội nông thôn. Để tạo môi trường và kích thích nông nghiệp chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, trong điều kiện nước ta hiện nay cần quan tâm đổi mới và hoàn thiện một hệ thống chính sách đồng bộ, như: chính sách đất đai, chính sách đầu tư, tính dụng, thuế, thị trường và giá cả, chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp, khuyến nông, chính sách xã hội nông thôn và nhiều chính sách kinh tế - xã hội có liên quan khác. Do thời gian có hạn nên môn học chỉ giới thiệu một số nội dung cốt lõi của những chính sách cơ bản. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 121
  34. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Chính sách đất đai Do kiểu tổ chức sản xuất lấy hộ gia đình nông dân làm đơn vị kinh tế tự chủ nên chính sách đất đai cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện. + Trên cơ sở Luật đất đai mới sửa đổi cần nhanh chóng cấp giây chứng nhận quyền sử dụng đất và thể chế hoá các quyền theo luật định. + Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết những nội dung trong Luật đất đai mới khi đi vào cuộc sống để có cơ sở khoa học vững chắc cho việc hoàn thiện Luật đất đai. Trong đó cần quan tâm nghiên cứu, hoàn thiện như: thời hạn sử dụng đất, thời hạn cho thuê, quy định mức hạn điền, thuế sử dụng đất nông nghiệp + Vấn đề tích tụ và tập trung đất đai vào những hộ có khả năng sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng kinh tế trang trại với một bộ phận nông dân mất đất trở thành lao động làm thuê. + Giải quyết vấn đề đất đai trong các nông, lâm trường quốc doanh: quyền sử dụng đất đối với các hộ công nhân, xử lý đất đai đối với những cơ sở không còn khả năng tồn tại. + Những vấn đề liên qua đến quy hoạch, sử dụng đất nông nghiệp để đảm bảo thu nhập cao nhất trên một đơn vị diện tích, nhất là quy hoạch đất trông lua với các loại cây, con khác. Chính sách đầu tư vốn cho nông nghiệp Tăng đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông thôn là đòi hỏi cấp thiết hiện nay, có ý nghĩa không chỉ đối với nông nghiệp, nông thôn cần quan tâm đến các vấn đề: + Tăng tỷ trọng vốn đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp tương xứng với vị trí và những đóng góp của nó đối với nền kinh tế quốc dân. Phấn đấu nâng tỷ trọng vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp lên 25 - 30%. + Vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước cần tập trung vào các lĩnh vực: xây dựng cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, nước, thông tin, thuỷ lợi, trường học, trạm xá ), phát triển công nghệ sau thu hoạch + Thu hút các thành phần, các nhà đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. + Vấn để kết hợp Nhà nước và nhân dân cùng đầu tư, trong đó cần quy định rõ Nhà nước làm gì? nhân dân làm gì? mức đóng góp cho từng công trình. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 122
  35. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Chính sách tín dụng Nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn ngày càng tăng, trong khi vốn đầu tư của Nhà nước có hạn. Vì vậy, đổi mới, hoàn thiện chính sách tín dụng đối với nông nghiệp là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa lâu dài. Trong điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay, chính sách tín dụng cần lưu ý các vấn đề sau: + Việc quy định thời hạn cho vay cần căn cứ vào chu kỳ sản xuất của từng loại cây trồng, vật nuôi, các ngành nghề đầu tư. Theo xu hướng phát triển nông nghiệp nước ta hiện nay, cần tăng cường cho vay trung và dài hạn. Cần có sự ưu đãi về vốn vay và thời hạn cho vay để nông dân có điều kiện đầu tư sản xuất hàng hoá quy mô lớn. + Về lãi suất cho vay cần có sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thực hiện chính sách một giá trong lãi suất cho vay. Tuy nhiên, đối với những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và đối với những hộ nghèo cần có chính sách ưu đãi nhất định về lãi suất cho vay. + Cải tiến hồ sơ, thủ tục cho vay và tài sản thế chấp phù hợp với đối tượng nông dân. + Mở rộng hình thức cho vay theo chương trình, dự án (xoá đói, giảm nghèo; phủ xanh đất trống, đồi trọc; nước sạch nông thôn ), cho vay bằng hiện vật (giữa các tổ chức kinh doanh nông sản, kinh doanh vật tư, máy móc nông nghiệp ). Các tổ chức tín dụng cần chủ động cung cấp dịch vụ hỗ trợ như: tư vấn kinh doanh, hướng dẫn kỹ thuật, giúp tìm kiếm thị trường tiêu thụ + Nông nghiệp, nông thôn là khu vực đầu tư có nhiều rủi ro (do thiên tai, do thị trường) ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các tổ chức tín dụng. Do vậy cần thiết phải thành lập quỹ rủi ro tín dụng. Nguồn vốn để thành lập quỹ này lấy từ lợi nhuận hàng năm của ngân hàng, trích từ ngân sách Nhà nước hàng năm và tư người sản xuất đóng góp. Chính sách thuế Về nguyên tắc, chính sách thuế đối với sản xuất nông nghiệp và các hoạt động kinh tế ở nông thôn phải có sự ưu đãi đặc biệt. Xu hương chung là: TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 123
  36. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN + Giảm mức thuế sử dụng đất nông nghiệp và tiến tới không đánh thuế vào sản xuất nông nghiệp. + Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn. + Cần có chính sách thuế phù hợp với từng loại hình hợp tác xã (hợp tác xã hoạt động vì mục đích kinh doanh và hợp tác xã hoạt động vì mục đích dịch vụ cho kinh tế hộ). + Nhà nước cần rà soát lại các khoản thu đối với nông nghiệp, nông thôn (chủ yếu đối với nông dân) như: thuế, phí, lệ phí. Cần xoá bỏ những khoản thu không phù hợp với pháp luật. Chính sách khuyến nông Ở nước ta khuyến nông có truyền thống lâu đời và được phát triển liên tục trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Ngày nay, khuyến nông là một chính sách của Nhà nước giúp đỡ nông dân phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Để thực hiện chính sách khuyến nông hiện nay cần quan tâm phát triển cả hai hình thức: khuyến nông Nhà nước và khuyên nông tự nguyện. Chính sách khuyến nông cần đổi mới và hoàn thiện theo hướng: + Phát triển một nền nông nghiệp sinh thái bền vững. + Cần phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế trong hoạt động khuyến nông với phương châm tất cả các hoạt động khuyến nông đều tác động đến người lao động, đến hộ nông dân nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. + Cần sớm bổ sung và hoàn thiện các chính sách khuyến nông hay liên quan đến khuyến nông như quảng cáo các tiến bộ khoa học - công nghệ, xử lý các trường hợp đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào gây thiệt hạo cho nông dân. + Cần cải tiến quy trình khuyến nông một cách hợp lý, có hiệu quả. Công tác khuyến nông hiện nay là áp đặt từ trên xuống, từ trung ương về cơ sở. Hướng cải tiến quá trình khuyến nông là phải xuất phát từ cơ sở nghĩa là phải TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 124
  37. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN xem cơ sở sản xuất cái gì (cây, con gì), trình độ dân trí ra sao, các điều kiện về cơ sở, hạ tầng, khả năng đầu tư ra sao, để từ đó tính toán cho nông dân nên sản xuất cái gì, sản xuất theo cách nào cho hiệu quả. + Cần tạo điều kiện cho hoạt động khuyến nông đạt hiệu quả như đầu tư, hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu, khảo nghiệm sản xuất giống mới, công nghệ chế biến, bảo quản, về kỹ thuật canh tác đảm bảo nguồn kinh phí cần thiết cho công tác khuyến nông, quan tâm, đào tạo, sử dụng cán bộ - những người tham gia công tác khuyến nông. Chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới (nhất là các nước có nền kinh tế thị trường phát triển) đều thực hiện chính sách bảo trợ đối với sản xuất nông nghiệp. Điểm khác nhau ở từng nước là phạm vi, mức độ, hình thức bảo trợ cho người sản xuất nông nghiệp (hộ nông dân, các trang trại). Đối với nước ta, chính sách bảo trợ đối với nông nghiệp càng trở nên cần thiết, không chỉ do vai trò quan trọng của nông nghiệp, mà điều quan trọng là khu vực nông nghiệp, do đặc điểm vốn có của nó nên cả tự nhiên và thị trường đều có những tác động rất lớn và gây nhiều thiệt hại cho người sản xuất. Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp phân bố ở các vùng nông thôn rộng lớn, có nhiều khó khăn về tự nhiên; kinh tế, xã hội, dân cư nông thôn lạc hậu và có đời sống khó khăn hơn rất nhiều so với dân thành thị. Nông nghiệp là khu vực sản xuất rộng lớn, có rất nhiều loại nông sản khác nhau nên chính sách bảo trợ cần tập trung nhiều hơn cho các vùng khó khăn, vùng sản xuất hàng hoá tập trung, quy mô lớn, nông sản thiết yếu cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu như lúa, cà phê Để tiến hành bảo trợ cho sản xuất nông nghiệp cần thông qua nhiều hình thức, trong đó có những hình thức phải được thực hiện thông qua các chính sách hoặc thông qua hệ thống giải pháp kinh tế vĩ mô. Chẳng hạn, Nhà nước có thể thực hiện chính sách bảo trợ đối với nông nghiệp thông qua chính sách đầu tư, tín dụng, thuế, giá mua nông sản, giá bán vật tư và dịch vụ, thông qua trợ cấp xuất khẩu; hoặc Nhà nước có thể lập hệ thống kho dự trữ (không phải kho dự trữ TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 125
  38. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN quốc gia). Hệ thống kho dự trữ có vai trò quan trọng trong việc điều hoà quan hệ cung - cầu trên thị trường, tránh được những đột biết về giá bất lợi cho người sản xuất (nhất là lúa, các nông sản có khối lượng thu hoạch theo mùa vụ lớn như: cà phê, hoa quả ) Hệ thống kho dự trữ (bảo quản) có nhiệm vụ vào thời vụ thu hoạch mua vào để dự trữ, bảo quản hoặc làm nhiệm vụ giữ hộ, bảo quản hộ nông sản cho nông dân. Người có nông sản gửi vào kho dự trữ của Nhà nước sẽ được Nhà nước cho vay số tiền tương ứng. Trong thời gian gửi nông sản vào kho dự trữ, nông dân có quyền bán ra lúc nào có lợi. Hết thời hạn dự trữ, bảo quản nông sản, nông dân phải hoàn trả vốn vay cộng với lãi suất trong thời gian nông sản lưu kho. Nhà nước còn có thể bảo trợ cho người sản xuất nông nghiệp trong trươờn hợp bị thiên tai, mất mùa. Trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá cần giải quyết mối quan hệ giữa bảo hộ sản xuất trong nước với vấn đề thị trường hoá. Vì vậy, cơ chế, chính sách của Nhà nước phải tiếp tục đổi mới để một mặt tạo điều kiện và hỗ trợ nông nghiệp phát triển, mặt khác tạo cho nông nghiệp khả năng cạnh tranh khi nước ta tham gia đầy đủ vào hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài những chính sách kể trên, Nhà nước còn phải quan tâm, xây dựng và hoàn thiện nhiều chính sách khác, như: chính sách thị trường, xuất, nhập khẩu và các chính sách xã hội nông thôn, nhất là các chính sách về việc làm, xoá đói giảm nghèo, giáo dục - đào tạo và các vấn đề xã hội khác. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 126
  39. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Chương 6 CÔNG NGHIỆP VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 6.1. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp 6.1.1. Khái niệm và phân loại sản xuất công nghiệp Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập của nền kinh tế quốc dân có chức năng khai thác các tài nguyên thiên nhiên, chế biến các tài nguyên đó cũng như sản phẩm của nông - lâm - ngư nghiệp và sửa chữa các sản phẩm công nghiệp có thời gian sử dụng lâu dài. Hoạt động khai thác trong công nghiệp: là sự tác động của lao động nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa các tài nguyên với môi trường tự nhiên. Hoạt động chế biến có đặc trưng cơ bản là làm thay đổi tính chất cơ lý hoá hoặc mối quan hệ tương quan của các đối tượng chế biến nhằm tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Hoạt động sửa chữa bao gồm sửa chữa các tư liệu sản xuất là sản phẩm công nghiệp (máy móc, thiết bị, dụng cụ sản xuất, phương tiện vận tải .v.v ) và các tư liệu tiêu dùng (ô tô, xe máy, máy giặt, tủ lạnh .v.v.). Hoạt động sản xuất công nghiệp có quy mô rất lớn và đa dạng, vì vậy, để thuận tiện cho công tác quản lý người ta phải tiến hành phân loại theo những tiêu thức khác nhau. - Căn cứ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của hoạt động sản xuất người ta chia công nghiệp thành các ngành chuyên môn hoá (ngành cấp II), các ngành chuyên môn hoá lại được chia thành các ngành chuyên môn hoá hẹp (ngành cấp III) và cứ thế tiếp tục phân nhánh tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của công nghiệp. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu được sử dụng để phân loại gồm: đặc điểm về công nghệ, về công dụng của sản phẩm, về nguyên liệu sử dụng. Các doanh nghiệp được đưa vào cùng một ngành chuyên môn hoá hoặc ngành chuyên môn hoá hẹp theo một hoặc một vài đặc điểm chung. Ví dụ: công nghiệp chế biến gỗ có đặc điểm chung là cùng sử dụng đầu vào là gỗ, ngành cơ TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 127
  40. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN khí nông nghiệp có đặc điểm chung về công dụng của sản phẩm là sử dụng trong nông nghiệp, công nghiệp hoá chất thì có đặc trưng cơ bản là sự biến đổi hoá hoọctrong quá trình chế biến. Cách phân loại này có vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp bởi khi nói đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong công nghiệp thì chủ yếu và trước hết cũng là chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp (cơ cấu theo ngành). - Căn cứ vào công dụng chung của sản phẩm công nghiệp thì công nghiệp gồm 2 bộ phận: công nghiệp A và công nghiệp B. Công nghiệp A là bộ phận công nghiệp sản xuất ra tư liệu sản xuất còn công nghiệp B là bộ phận sản xuất ra tư liệu tiêu dùng. Khi phân loại theo tiêu thức này, người ta căn cứ vào công dụng chủ yếu của sản phẩm, bởi lẽ rất nhiều loại sản phẩm vừa được sử dụng như một tư liệu sản xuất nhưng cũng có thể được sử dụng với tư cách là một tư liệu tiêu dùng. Ví dụ: điện năng là sản phẩm công nghiệp A vì bộ phận chủ yếu được sử dụng trong sản xuất mặc dù có một bộ phận được sử dụng trong tiêu dùng. Vải được xem là sản phẩm của công nghiệp B mặc dù một bộ phận được sử dụng trong sản xuất. Cách phân loại này rất quan trọng trong việc xác lập tương quan tỷ lệ giữa 2 nhóm ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, vì sự cân đối giữa hai khu vực này vừa là cơ sở cho việc tái sản xuất xã hội, vừa đảm bảo nâng cao hiệu quả của sản xuất công nghiệp. - Căn cứ vào hình thức sở hữu có thể chia sản xuất công nghiệp thành ba nhóm: công nghiệp quốc doanh, công nghiệp ngoài quốc doanh và công nghiệp thuộc sở hữu tổng hợp. Cách phân loại này cho thấy sự phân bố sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ làm cơ sở cho việc nghiên cứu những nhân tố dẫn tới sự phân bố không đồng đều và đề ra chủ trương chính sách nhằm từng bước khắc phục sự mất cân đối trong phát triển công nghiệp theo lãnh thổ. Ngoài cách phân loại chủ yếu trên, tuỳ theo yêu cầu cụ thể người ta có thể áp dụng nhiều cách phân loại khác nữa như phân loại theo mối quan hệ trực TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 128
  41. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN thuộc (chia thành công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương), phân loại theo trình độ kỹ thuật - công nghệ (chia thành công nghiệp hiện đại và tiểu thủ công nghiệp), theo quy mô (chia thành quy mô lớn, vừa và nhỏ). Mỗi cách phân loại sẽ dẫn đến một cơ cấu kinh tế tương ứng và có những tác dụng tương ứng đối với việc nghiên cứu động thái phát triển của sản xuất công nghiệp. 6.1.2. Những đặc điểm của sản xuất công nghiệp Nguyên lý chủ thể quản lý phải phù hợp với đối tượng quản lý đòi hỏi phải nghiên cứu và nắm vững các đặc điểm cơ bản của sản xuất công nghiệp nhằm phát huy tối đa các tác động quản lý đối với sự phát triển của công nghiệp nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng. Sản xuất công nghiệp có nhiều đặc điểm khác biệt hoàn toàn với các ngành sản xuất khác như nông nghiệp, xây dựng cơ bản và dịch vụ, cụ thể: 6.1.2.1. Quá trình sản xuất công nghiệp có thể chia ra làm nhiều công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn có thể do một bộ phận trong hệ thống dây chuyền sản xuất hoặc do một bộ phận độc lập thực hiện. - Đối với những sản phẩm đòi hỏi phải sản xuất theo hệ thống dây chuyền thì các công đoạn phải sắp xếp theo đúng trình tự quy định từ khi nguyên liệu bắt đầu đưa vào sản xuất đến khi sản phẩm tạo ra (công đoạn đóng gói như: sản xuất nước giải khát, mì ăn liền, xà phòng ) - Đối với những sản phẩm phải lắp ráp nhiều chi tiết lại với nhau mới tạo thành sản phẩm hoàn chỉnh thường bố trí sản xuất các bộ phận chi ciết sản phẩm ở nhiều cơ sở khác nhau (các phân xưởng trong doanh nghiệp hoặc các cơ sở độc lập) sau đó lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh (ô tô, xe máy, xe đạp ). Với những loại sản phẩm này, các bộ phận sản xuất có thể tiến hành đồng thời với nhau. Tuy nhiên, trong từng công đoạn để tạo ra được những chi tiết sản phẩm lại có quá trình sản xuất riêng, theo trình tự quy định. Đặc điểm này cho phép các nhà sản xuất có thể lựa chọn mức độ chuyên môn hoá phù hợp mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất mà không nhất thiết phải thực hiện sản xuất hoàn chỉnh một sản phẩm. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 129
  42. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Từ đặc điểm này có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa về tổ chức quản lý quá trình sản xuất sản phẩm công nghiệp: + Sản xuất sản phẩm công nghiệp có khả năng thực hiện chuyên môn hoá sâu, chuyên môn hoá sản xuất ra chi tiết sản phẩm, từ đó có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên, do tổ chức sản xuất theo hướng chuyên môn hoá chi tiết sản phẩm nên muốn sản xuất đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải tuân thủ các vấn đề có tính nguyên tắc là: tiêu chuẩn hoá sản xuất và tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các đơn vị sản xuất các bộ phận chi tiết sản phẩm với lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Muốn vậy, từng ngành (ngành chuyên môn hoá), từng doanh nghiệp (công ty, tổng công ty) phải có quy hoạch sản xuất hơp lý - từ xác định vị trí đặt các cơ sở sản xuất phụ tùng (linh kiện) đến thống nhất về tiêu chuẩn sản phẩm, quy mô sản xuất, trang bị máy móc thiết bị, đào tạo công nhân Cần tránh tình trạng tự phát trong sản xuất phụ tùng và không kiểm soát được chất lượng. + Cần quan tâm nghiên cứu hoàn thiện cách thức tổ chức sản xuất khoa học trong từng cơ sở sản xuất cũng như giữa các cơ sở sản xuất có liên quan chặt chẽ với nhau trong việc tạo ra sản phẩm cuối cùng. + Do sản xuất theo dây chuyền và đi vào chuyên môn hoá nên việc quan tâm giáo dục, rèn luyện công nhân về ý thức, thái độ và tác phong lao động có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, một người kém ý thức trong lao động có thể ảnh hưởng đến cả dây chuyền sản xuất và nhiều khi gây thiệt hại rất lớn. 6.1.2.2. Đặc điểm về công nghệ sản xuất Công nghệ sản xuất trong công nghiệp do con người tạo ra. Quá trình tạo ra sản phẩm công nghiệp được thực hiện thông qua hệ thống máy móc, thiết bị với đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao. Hay nói cách khác, lao động tạo ra sản phẩm trong công nghiệp là lao động có kỹ thuật, lao động bằng máy móc. Từ đặc điểm này, muốn khẳng định một vấn đề có tính quyết định trong phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia là phải quan tâm ngay từ đầu việc đầu tư, áp dụng công nghệ hiện đại (có thể là nhập khẩu hoặc nghiên cứu trong TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 130
  43. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN nước) và thường xuyên nghiên cứu, đổi mới công nghệ cũng như quan tâm đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, thời đại kinh tế tri thức thì việc đầu tư cho hiện đại hoá công nghệ và đào tạo nhân lực ngày càng trở nên cấp bách. 6.1.2.3. Đặc điểm về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ sản xuất và sản phẩm tạo ra Từ một nguồn nguyên liệu, sau mỗi chu kỳ sản xuất, với những công nghệ khác nhau có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm với nhiều công dụng khác nhau; cùng một loại sản phẩm có thể tạo ra nhiều kiểu dáng, mẫu mã khác nhau (từ gỗ, sắt, thép, nhựa có thể tạo ra muôn vàn các sản phẩm khác nhau). Đặc điểm này thể hiện khả năng mở rộng sản xuất, khả năng sáng tạo, khả năng nâng cao hiệu quả của sản xuất công nghiệp rất cao so với các ngành kinh tế khác. Từ đặc điểm này đòi hỏi trong phát triển công nghiệp, từng ngành chuyên môn hoá cũng như từng doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu đa dạng hoá sản phẩm. Nghĩa là từ một nguồn nguyên liệu tạo ra nhiều loại sản phẩm khác nhau hoặc cùng một loại sản phẩm phải tạo ra nhiều kiểu dáng, mẫu mã khác nhau để thoả mãn nhu cầu khách hàng. Cần nhớ rằng nhu cầu của khách hàng rất đa dạng và luôn thay đổi. Vì vậy, nếu chậm nắm bắt nhu cầu khách hàng để rồi chậm đổi mới sản phẩm thì nguy cơ thất bại là khó tránh khỏi. Do sản xuất công nghiệp có khả năng tạo ra nhiều loại sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, trong đó nhiều loại sản phẩm là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, nên ở tầm vĩ mô, Nhà nước cần có chiến lược và quy hoạch phát triển từng ngành công nghiệp chuyên môn hoá phù hợp với từng giai đoạn, trong đó cần xác định những ngành công nghiệp mũi nhọn, trọng yếu cần tập trung đầu tư và những sản phẩm công nghiệp nào phải nhập khẩu. 6.1.2.4. Sản xuất công nghiệp có khả năng tập trung với mật độ rất cao, vì vậy, có thể bố trí trong các nhà xưởng với các điều kiện nhiệt độ, ánh sáng nhân tạo, vì vậy, tính chủ động trong sản xuất công nghiệp rất cao, ít bị ảnh TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 131
  44. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN hưởng của điều kiện tự nhiên (trừ ngành công nghiệp khai thác), do đó, sản xuất công nghiệp có tính ổn định hơn so với sản xuất công nghiệp. Nhận thức đặc điểm này đòi hỏi mỗi quốc gia muốn phát triển công nghiệp, phải quan tâm xây dựng các khu công nghiệp tập trung. Đối với từng doanh nghiệp cần bố trí sản xuất trên mặt bằng các phân xưởng phải khoa học, hợp lý nhằm tiết kiệm diện tích sản xuất, bảo đảm an toàn, thuận lợi cho quá trình thao tác của công nhân. Mặt khác cần thường xuyên quan tâm đầu tư để cải tạo môi trường làm việc, bảo đảm sức khoẻ cho người lao động, nâng cao năng suất lao động. Tất cả những đặc điểm của sản xuất công nghiệp đã tạo ra những ưu thế đặc biệt cho sản xuất công nghiệp, làm cho công nghiệp có những điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh, ổn định trên cơ sở trình độ ứng dụng thiết bị khoa học và công nghệ ngày càng rộng rãi, các hình thức, phương pháp tổ chức quản lý ngày càng hiện đại và trở thành ngành có vai trò dẫn dắt, định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 6.2. Vai trò của sản xuất công nghiệp đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Đối với nước ta, từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nông nghiệp đi lên, công nghiệp được coi là ngành kinh tế chủ đạo trong hệ thống kinh tế quốc dân. Mục tiêu phát triển kinh tế nước ta là từ một nước nông nghiệp lạc hậu phải trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Với tư cách là ngành kinh tế chủ đạo, sự phát triển của công nghiệp sẽ có ý nghĩa quyết định đến tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. 6.2.1. Trước hết, sự phát triển công nghiệp có ý nghĩa quyết định đến việc trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật của toàn bộ nền kinh tế, hiện đại hoá nền kinh tế. Lê-nin đã từng khẳng định cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí. Như vậy sự phát triển của công nghiệp có ý nghĩa quyết định đến quá trình hiện đại hoá nền kinh tế mà hệ quả tất yếu là tạo ra năng suất lao động cao ở tất cả các ngành, các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn phát triển kinh tế ở hàng loạt các nước có nền kinh tế thị TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 132
  45. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN trường phát triển cũng như ở nước ta trong những năm đổi mới đã khẳng định điều đó. Có thể nói những thành tựu của sản xuất công nghiệp, phương pháp sản xuất công nghiệp đã xâm nhập vào tất cả các ngành kinh tế, các lĩnh vực khác nhau của đời sống, nhờ đó nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế, xã hội được khai thác ngày càng hiệu quả. Từ đây, chúng ta có thể khẳng định một vấn đề là mỗi quốc gia, tuỳ từng giai đoạn phát triển mà lựa chọn cho mình những ngành công nghiệp làm nền móng (công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất) phù hợp. Công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất phát triển tạo cơ sở để thực hiện tái sản xuất mở rộng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, khi xác định trình tự ưu tiên trong phát triển các ngành sản xuất xã hội, Mác đã chỉ rõ: sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu sản xuất tăng nhanh nhất, sau đó đến sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu tiêu dùng và chậm nhất là sản xuất tư liệu tiêu dùng. Mác còn đề cao vai trò của công cụ lao động trong phát triển kinh tế, coi công cụ lao động là cái năng động nhất, có ý nghĩa quyết định nhất đến năng suất lao động. Những kết luận của Mác về vai trò của công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất đối với sự phát triển kinh tế đất nước đã được các nước có nền kinh tế thị trường vận dụng rất thành công. Đó là các nước phát triển đã bằng mọi cách phát triển các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất để trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế, thường xuyên quan tâm đổi mới máy móc, thiết bị để nâng cao năng suất lao động. Từ sự phân tích ở trên có thể đi đến kết luận, công nghiệp phát triển sẽ tạo ra hệ thống xương cốt cho tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, nó sẽ cải biến nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu sang nền kinh tế phát triển hiện đại. 6.2.2. Vai trò chủ đạo của công nghiệp còn thể hiện, công nghiệp có khả năng định hướng cho các ngành kinh tế và các lĩnh vực khác của nền kinh tế phát triển Có thể nói, định hướng phát triển các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế không thể tách rời định hướng phát triển các ngành công nghiệp. Chẳng hạn, sự phát triển của công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản sẽ quyết định hướng TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 133
  46. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN phaá triển các vùng sản xuất nông sản làm nguyên liệu hoặc hàng hoá tập trung. Sự phát triển công nghiệp năng lượng có ý nghĩa quyết định đến hướng phaá triển của các ngành kinh tế khác 6.2.3. Công nghiệp phát triển sẽ làm tăng giá trị của các loại nguyên liệu đưa vào chế biến, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng của xã hội và tăng nhanh hàng xuất khẩu. Nếu có một ngành công nghiệp chế biến phát triển ở trình độ cao thì mọi nguồn nguyên liệu đều trở nên có giá trị, không có thứ nào bị bỏ phí, kể cả các loại phụ, phế phẩm của quá trình chế biến sản phẩm. Chẳng hạn, nếu công nghiệp chế biến gỗ hiện đại thì mọi thứ gỗ đều là nguyên liệu; một cây gỗ đưa vào chế biến, nếu công nghệ chế biến lạc hậu chỉ sử dụng được phần lõi, còn công nghệ hiện đại thì gỗ cành, gỗ ngọn, phần vỏ và mùn cưa đều là nguyên liệu. Ở nước ta hiện nay, công nghiệp chế biến đã bắt đầu phát triển nên nhiều loại nông sản trước đây không được coi trọng, nhưng nay có thể là những cây nguyên liệu có giá trị như: sắn, các loại cây có bột khác, đặc biệt là các loại cây công nghiệp như chè, cà phê và tương lai là ca cao và chăn nuôi bò lấy sữa Công nghiệp phát triển sẽ đóng góp trực tiếp và to lớn vào tốc độ tăng trưởng kinh tế đất nước, làm thay đổi quan hệ xuất nhập khẩu, thay đổi cán cân ngoại thương, làm thay đổi nhanh bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước. 6.2.4. Công nghiệp còn có vai trò quan trọng trong củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh quốc gia. Bởi lẽ, công nghiệp phát triển, nhất là ngành công nghiệp quốc phòng sẽ tạo khả năng để hiện đại hoá quân đội, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước và dập tắt nhanh chóng những âm mưu phá hoại của kẻ thù. 6.3. Quy hoạch phát triển công nghiệp Bao gồm quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, quy hoạch phát triển từng ngành công nghiệp chuyên môn hoá (điện, xi măng, phân bón ), quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, quy hoạch bố trí các cơ sở công nghiệp (các nhà máy). TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 134
  47. GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN - Cơ sở để tiến hành quy hoạch phát triển công nghiệp là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển công nghiệp nói chung và từng ngành công nghiệp chuyên môn hoá cũng như chiến lược phát triển các ngành có liên quan, nhất là nông nghiệp, dịch vụ. Mặt khác, quy hoạch phát triển công nghiệp cần căn cứ vào các tài liệu, số liệu điều tra về các tiềm năng, lợi thế trong phát triển công nghiệp (tài nguyên, nguồn nguyên liệu, vốn, nhân lực, khoa học và công nghệ), nhu cầu thị trường trong nước và khả năng xuất khẩu. - Yêu cầu khi thực hiện quy hoạch phát triển công nghiệp là đảm bảo sự phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước, tránh tình trạng phân bố bất hợp lý về phát triển công nghiệp hiện nay. Cùng với việc tăng cường đầu tư xây dựng các khu công nghiệp trọng điểm phía Bắc, phía Nam, cần quan tâm đầu tư quy hoạch phát triển công nghiệp ở các tỉnh miền Trung có nhiều tiềm năng và thị trường rộng, các tỉnh miền núi (phát triển thuỷ điện, công nghiệp khai thác, chế biến ). Đối với các vùng nông thôn cần quy hoạch các cụm công nghiệp phù hợp, nhất là cụm công nghiệp chế biến, công nghiệp nông thôn. Ở nhiều vùng nông thôn nớc ta hiện nay, đang nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi nhà nước, các địa phương phải quan tâm nghiên cứu, khảo sát để quy hoạch các cụm công nghiệp phù hợp. Các ngành nghề tiểu thủ công hiện nay ở các vùng nông thôn đang chủ yếu phát triển trong từng gia đình nên gặp rất nhiều khó khăn về mặt bằng sản xuất, về mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, xử lý chất thải nên đòi hỏi các địa phương phải tiến hành quy hoạch phát triển công nghiệp nông thôn. + Trong quy hoạch phát triển công nghiệp phải đảm bảo tính đồng bộ và liên ngành, không quy hoạch phát triển công nghiệp một cách cục bộ. + Trong quy hoạch phát triển công nghiệp phải xác định thứ tự ưu tiên (ngành công nghiệp, vùng) phù hợp với định hướng phát triển công nghiệp trong những năm tới, tránh tình trạng quy hoạch dàn trải dẫn đến nhiều công trình dở dang, công suất huy động thấp. Quy hoạch phát triển công nghiệp là sự bố trí sản xuất công nghiệp theo không gian lãnh thổ (khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, nhà máy đặt ở đâu, TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 135