Giáo án môn học Kinh tế quốc tế
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo án môn học Kinh tế quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giao_an_mon_hoc_kinh_te_quoc_te.pdf
Nội dung text: Giáo án môn học Kinh tế quốc tế
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện LỜI NÓI ĐẦU Kinh tế quốc tế là môn khoa học kinh tế nghiên cứu tính quy luật của sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các quốc gia, nghiên cứu sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ, sự vận động của các yếu tố sản xuất, sự chuyển đổi tiền tệ và cán cân thanh toán giữa các quốc gia, nghiên cứu các chính sách điều chỉnh quá trình vận động và trao đổi. Sự hình thành và phát triển của quan hệ Kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan. Ban đầu đó là sự trao đổi sản phẩm giữa các quốc gia do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên như đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, khí hậu .v.v Tiếp theo, do sự phát triển của khoa học và công nghệ, giữa các nước còn nảy sính sự khác biệt về trình độ kỹ thuật, bí quyết công nghệ, nguồn vốn tích luỹ, nguồn lao động, trình độ quản lý Điều đó đạt tới sự trao đổi các yếu tố của quá trình sản xuất, tức là làm cho trao đổi quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Cơ sở của việc hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế còn do lợi ích trong chuyên môn hoá, trong việc đạt tới quy mô tối ưu của những ngành sản xuất, trong việc đa dạng hoá nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sự phân biệt trong nhu cầu và khả năng thanh toán của họ Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để đạt tới vị trí thuận lợi trong nền kinh tế thế giới. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phát triển mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối ngoại, bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và di chuyển quốc tế về lao động, hợp tác về kinh tế và khoa học - công nghệ, các dịch vụ thu ngoại tệ (giao thông vận tải quốc tế, du lịch quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế .v.v ). Trên ý nghĩa đó việc nghiên cứu môn học kinh tế quốc tế là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và phương pháp luận, tạo điều kiện cho việc tổ chức và quản lý lĩnh vực kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia đạt hiệu quả cao. Để đáp ứng yêu cầu giảng dậy và học tập theo chương trình khung của Tổng cục dậy nghề ban hành Theo quyết định số 15/2008/ QĐ – BLĐTBXH đào tạo hệ Cao đẳng nghề Kế toán Doanh nghiệp . Trường Cao đẳng nghề Nam Định phân công giao nhiệm vụ cho Tổ môn Kế toán Doanh nghiệp .Tổ chức biên soạn TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 1
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện giáo trình (( Kinh Tế Quốc Tế )) . Là tài liệu chính thức sử dụng giảng dậy và học tập cho sinh viên , đồng thời là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này . Nội dung cuốn sách gồm 5 chương đề cập toàn bộ kiến thức về nội dung môn học bao gồm . Chương 1: Những vấn đề chung về kinh tế quốc tế Chương 2: Thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế Chương 3: Đầu tư quốc tế Chương 4: Cán cân thị trường và thị trường tiền tệ quốc tế Chương 5: Liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế Do thời gian và trình độ cồn hạn chế nên giáo trình khó có thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định . Chúng tôi mong nhận được sự đóng góp của bạn đọc để giáo trình được hoàn thiện hơn nữa /. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH TỔ MÔN KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 2
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Chương 1 TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ GIỚI THIỆU MÔN HỌC KINH TẾ QUỐC TẾ 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI Cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, các hoạt động kinh tế diễn ra với quy mô ngày càng lớn, phạm vi các quan hệ kinh tế ngày càng rộng, tính chất của chúng ngày càng cao. Từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, quan hệ thương mại giữa các quốc gia ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, sự phân công lao động diễn ra ở tầm quốc tế, các doanh nghiệp tìm cách mở rộng thị trường ra nước ngoài, các quan hệ kinh tế quốc tế diễn ra không những trên lĩnh vực thương mại mà cả trên lĩnh vực đầu tưm lĩnh vực chuyển giao công nghệ, lĩnh vực di chuyển quốc tế sức lao động và nhiều lĩnh vực khác. Do sự phát triển của các hoạt động thương mại quốc tế và các hoạt động trao đổi quốc tế khác, thị trường thế giới được hình thành. Nhưng không phải khi hình thành thị trường thế giới là đã xuất hiện khái niệm nền kinh tế thế giới. Khái niệm nền kinh tế thế giới chỉ ra đời trên cơ sở sự phát triển đến một trình độ nhất định không những của các nền kinh tế quốc gia mà quan trọng hơnlà sự phát triển đáng kể của các quan hệ kinh tế quốc tế, vì chính các quan hệ kinh tế quốc tế này mới làm cho các nền kinh tế quốc gia liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, tác động quan lại và thúc đẩy lẫn nhau tạo nên tính thống nhất, tính chỉnh thể của nền kinh tế thế giới. 2. KHÁI NIỆM VÀ CƠ CẤU NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI. 2.1. Khái niệm Nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với các quan hệ kinh tế quốc tế của chúng. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của phân công lao động quốc tế và của việ phát triển quan hệ kinh tế quốc tế. Ngày nay nền kinh tế thế giới là một thực thể kinh tế đặc thù, duy nhất, có cơ cấu nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ quan hệ với những phạm vi hoạt động TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 3
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện khác nhau. Các bộ phận cấu thành nền kinh tế thế giới tác động qua lại, nhiều chiều trong sự vận động không ngừng cả về mặt lượng và mặt chất. Nền kinh tế thế giới, theo cách tiếp cận hệ thống bao gồm hai bộ phận cơ bản sau đây: * Bộ phận thứ nhất là các chủ thể kinh tế quốc tế: Đây là những người đại diện cho nền kinh tế thế giới và là nơI phát sinh ra những quan hệ kinh tế quốc tế. Sự tách biệt về sở hữu và địa vị pháp lý trong các quan hệ kinh tế quốc tế là cơ sở hình thành các chủ thể kinh tế quốc tế độc lập. Các chủ thể kinh tế quốc tế tác động qua lại lẫn nhau làm xuất hiện các mối quqn hệ kinh tế quốc tế. Các chủ thể kinh tế quốc tế tế bao gồm các thực thể kinh tế với các cấp độ khác nhau: - Các nền kinh tế quốc gia độc lập trên thế giới (kể cả các vùng lãnh thổ): Với khoảng trên 170 quốc gia và tren 30 vùng lãnh thổ tham gia vào nền kinh tế thế giới, các chủ thể kinh tế quốc tế này được coi là các chủ thể đầy đủ xét về mặt chính trị, cũng như về mặt kinh tế và luật pháp. Ngày nay các quốc gia và vùng lãnh thổ đều là các chủ thể độc lập. Quan hệ giữa các chủ thể này được bảo đảm bằng các hiệp định quốc tế ký kết theo những điều khoản của công pháp quốc tế. Các chủ thể này theo trình độ phát triển kinh tế gồm có các nước phát triển, các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển. - Các chủ thể kinh tế ở cấp độ thấp hơn phạm vi quốc gia: Đây là những công ty, xí nghiệp, tập đoàn, đơn vị kinh doanh tham gia vào nền kinh tế thế giới thường là ở mức độ thấp và phạm vi hẹp cả về khối lượng buôn bán và đầu tư cũng như số lượng các chi nhánh hoạt động ở nước ngoài. Các chủ thể này không được coi là những chủ thể đầy đủ từ khía cạnh chính trị và pháp lý giồng như chủ thể là các quốc gia độc lập. Các chủ thể này tham gia vào các hoạt động kinh tế quốc tế dựa trên những hợp đồng thương mại hoặc đầu tư được thoả thuận giữa các bên trong khuôn khổ của những hiệp định ký kết giữa các chủ thể nhà nước nêu trên. Các công ty xuyên quốc gia là loại hình tổ chức kinh doanh đặc biệt, chúng có tầm hoạt động rộng lớn ở nhiều quốc gia khác nhau, thậm chí vượt khỏi sự kiểm soát của một nhà nước nhất định và trở thành loại chủ thể thứ ba. - Các chủ thể ở cấp độ vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia: Đây là những thiết chế quốc tế, các tổ chức quốc tế hoạt động với tư cách là những thực thể TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 4
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện độc lập có địa vị pháp lý rộng hơn địa vị pháp lý rộng hơn địa vị pháp lý của thể quốc gia. Các tổ chức quốc tế xuất hiện do quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế và sự phát triển của liên kết kinh tế quốc tế như tổ chức Liên hiệp quốc và các tổ chức chuyên môn của nó (Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF, Ngân hàng thế giới - WB ), các liên kết kinh tế quốc tế khu vực như: Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) Ngoài ra còn có các Hiệp hội ngành hàng như Hiệp hội chè thế giới, Hiệp hội tơ tằm thế giới Ngoài ba loại chủ thể nêu trên, trong nền kinh tế thế giới ngày nay còn có một loại chủ thể đặc biệt, đó là các công ty xuyên quốc gia, công ty đa quốc gia và công ty siêu quốc gia. Cho đến nay các thuật ngữ nói trên chưa được sử dụng một cách thống nhất, tuỳ thuộc vào nội dung kinh tế cụ thể của từng trường hợp. Thuật ngữ "công ty đa quốc gia" thường được dùng để chỉ các công ty mà vốn của nó thuộc sở hữu của các doanh nghiệp hoặc cá nhân thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, và do đó phạm vi hoạt động kinh doanh của nó cũng diễn ra ở trên lãnh thổ nhiều quốc gia khác nhau. Trong trường hợp này, người ta chưa chú ý đến tỷ trọng vốn đóng góp của từng bên và cũng chưa quan tâm đến mức kinh tế của các công ty đó. Thuật ngữ "công ty xuyên quốc gia" được sử dụng một cách tương đối phổ biến trong các sách báo kinh tế, nó dùng để chỉ những công ty có trụ sở chính ở một quốc gia nào đó, tầm hoạt động của các công ty này vươn sang nhiều quốc gia khác (có các công ty con, các chi nhánh, các văn phòng đại diện ở các quốc gia ấy), các công ty này có sức mạnh kinh tế to lớn, giữ vai trò chi phối một lĩnh vực thị trường liên quan đến nhiều quốc gia. Bởi vậy, những công ty xuyên quốc gia có khả năng nằm ngoài tầm kiểm soát của một Chính phủ. Những công ty này được phát triển một cách mạnh mẽ trong hơn 3 thập kỷ gần đây và ngày càng giữ vai trò có tính chất chi phối đến các quan hệ kinh tế quốc tế. Còn thuật ngữ "công ty siêu quốc gia" cũng được sử dụng trong một số trường hợp, chủu yếu ám chỉ tầm hoạt động của những công ty này vượt ra ngoài lãnh thổ của một quốc gia mà không quan tâm đến việc hình thành và tổ chức bộ máy của nó. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 5
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Các loại công ty nói trên là một loại chủ thể kinh tế quốc tế quan trọng vì nó chiếm tỷ trọng lớn trong các hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ. Nhưng khi phân nhóm, không thể coi các loại công ty này những chủ thể kinh tế ở cấp độ thấp hơn phạm vi quốc gia, đồng thời cũng không thể khẳng định nó là các chủ thể ở cấp độ vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia. * Bộ phận thứ hai là các quan hệ kinh tế quốc tế: Đây là bộ phận cốt lõi của nền kinh tế thế giới, chúng là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại giữa các chủ thể kinh tế quốc tế đã nói ở trên. Quan hệ kinh tế quốc tế ra đời trên cơ sở phát triển các hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế, hoạt động xuất và nhập khẩu sức lao động, các hoạt động dịch vụ quốc tế, hoạt động chuyển giao công nghệ, hoạt động tài chính và tín dụng quốc tế Nội dung của các quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng phong phú và đa dạng, nó có liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, nó diễn ra ở mọi doanh nghiệp, mọi địa phương, mọi ngành kinh tế quốc dân. Căn cứ vào đối tượng vận động, các quan hệ kinh tế quốc tế gồm có: - Các quan hệ về di chuyển quốc tế hàng hoá và dịch vụ: Đó chính là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia. Việc mua bán hàng hoá hiểu theo nghĩa hẹp là các hàng hoá vật chất (hàng hoá hữu hình), còn hiểu theo nghĩa rộng thì nó bao gồm tất cả các hàng hoá phi vật chất (hàng hoá vô hình). Trong thực tế, các quan hệ di chuyển quốc tế về hàng hoá và dịch vụ được gọi là hoạt động thương mại quốc tế. - Các quan hệ về di chuyển quốc tế vốn tư bản: Đây là việc đưa các nguồn vốn từ nước này sang nước khác để thực hiện các hoạt động đầu tư, bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Các quan hệ về di chuyển quốc tế vốn tư bản trong thực tế được gọi là hoạt động đầu tư quốc tế. - Các quan hệ về di chuyển quốc tế sức lao động: Đó là việc di cư một cách tạm thời một bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động giữa các quốc gia với nhau để điều chỉnh quan hệ cung cầu về sức lao động theo trình độ chuyên môn khác nhau giữa các quốc gia. Đó chính là hoạt động xuất và nhập khẩu sức lao động. Thực chất của hoạt động xuất và nhập khẩu lao động cũng là một loại hình TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 6
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện xuất - nhập khẩu dịch vụ quốc tế nhưng do đặc điểm riêng của đối tượng trao đổi nên nó trở thành một lĩnh vực riêng. - Các quan hệ về di chuyển quốc tế các phương tiện tiền tệ: Đó là việc di chuyển các loại tiền mặt, các loại kim khí quý, các loại giấy tờ có giá trị (trái phiếu, cổ phiếu, chứng khoán, hối phiếu ) giữa các quốc gia nhằm phục vụ cho hoạt động lưu thông tiền tệ, hoạt động tín dụng, hoạt động thanh toán cũng như hoạt động đầu tư Như vậy, giữa việc di chuyển quốc tế các phương tiện tiền tệ và việc di chuyển quốc tế vốn tư bản có một bộ phận trùng hợp với nhau, những giữa chúng vẫn có sự khác nhau quan trọng. Không phải mọi sự di chuyển quốc tế về vốn đều là sự di chuyển quốc tế các phương tiện tiền tệ (vốn không phải bằng tiền) và ngược lại, không phải mọi sự di chuyển quốc tế về tiền tệ đều có liên quan đến sự di chuyển quốc tế về vốn. Nội dung các quan hệ kinh tế quốc tế là rất phong phú và phức tạp. Theo đà phát triển của khoa học và công nghệ, với nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, nội dung của các quan hệ kinh tế quốc tế nói trên tiếp tục phát triển về chiều rộng và chiều sâu. Trong thực tế, nội dung của kinh tế quốc tế còn bao gồm hợp tác và trao đổi quốc tế, về khoa học công nghệ và nhiều hoạt động quốc tế khác. Chính sự phong phú và chiều sâu của các quan hệ kinh tế quốc tế này tạo nên cốt lõi và đánh dấu trình độ phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thế giới là một thực thể thống nhất hữu cơ của 2 bộ phận nói trên, nó vận động theo những quy luật khách quan của quá trình phân công lao động quốc tế và của hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế. Cơ cấu của nền kinh tế thế giới biến đổi gắn liền với các cuộc cách mạng công nghiệp. Ngày nay với xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá làm tăng dần tính đa dạng của các mối quan hệ kinh tế quốc tế và làm tăng tính chỉnh thể của nền kinh tế thế giới. 2.2. Cơ cấu của nền kinh tế thế giới Cơ cấu của nền kinh tế thế giới có thể được xem xét trên nhiều góc độ: - Theo hệ thống kinh tế - xã hội, người ta chia nền kinh tế thế giới ra thành hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa và hệ thống kinh tế của các nước thuộc thế giới thứ ba. Thực ra sự phân chia này chủ yếu có ý nghĩa về mặt nhận thức chính trị và tư tưởng, còn trên thực tế nó mang TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 7
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện tính hết sức tương đối do sự biến đổi và sự đan xen giữa các mô hình kinh tế - xã hội khác nhau đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong thế giới hiện đại. Ngay trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa phát triển cao cũng không phải chỉ tồn tại duy nhất loại hình kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đối với các nước thuộc thế giới thứ ba cũng đang diễn ra sự phối hợp và đan xen giữa nhiều mô hình kinh tế - xã hội và mô hình phát triển khác nhau. Sự tan rã của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô (cũ) và Đông Âu chỉ chứng minh sự yếu kém và không phù hợp với thực tiễn của một mô hình cứng nhắc nào đó, còn phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ xã hội ưu việt vẫn là mục tiêu hướng tới trong tương lai và trên thực tế người ta vẫn đang tìm cách biến nó thành hiện thực sao cho phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển ở một số quốc gia. - Theo trình độ phát triển kinh tế, người ta chia nền kinh tế thế giới thành 3 nhóm quốc gia: Các nước công nghiệp phát triển cao, các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển. Theo cách phân chia này, thế giới ngày nay có khoảng 30 quốc gia được xếp vào nhóm các nước công nghiệp phát triển cao với đặc trưng là họ đã hoàn thành quá trình công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, đạt được cơ cấu kinh tế hiện đại và có mức GDP bình quân đầu người một năm hàng chục ngàn USD. Môt số nước công nghiệp mới (NICs) đã dần dần được chuyển lên nhóm các nước công nghiệp phát triển cao này. Nhóm các nước đang phát triển chiếm đại bộ phận số lượng các quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Những quốc gia này đang thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để tiến hành công nghiệp hoá đất nước họ và bước đầu cũng đạt được những kết quả nhất định trong việc đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. Trong số các nước đang phát triển, có một số nước đạt được thành công với sự tăng trưởng kinh tế cao trong 3 - 4 thập kỷ gần đây và họ được xếp thành nhóm các nước công nghiệp mới (NICs). Trên thế giới ngày nay, còn có một số quốc gia do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và tự nhiên của họ không thuận lợi, mặc dù đã giành được độc lập dân tộc nhưng vẫn ở tình trạng nghèo đói và tốc độ phát triển kinh tế rất thấp, nền kinh tế của các quốc gia này được xếp vào nhóm các nền kinh tế chậm phát triển. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 8
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Ngoài hai cách phân chia trên, người ta còn có thể xem xét kết cấu của nền kinh tế thế giới theo nhiều tiêu thức khác nhau như theo khu vực địa lý, theo trình độ công nghệ, theo đặc điểm dân tộc - văn hoá - lịch sử 3- CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI Theo tiến trình lịch sử của sự vận động các quan hệ kinh tế quốc tế, nền kinh tế thế giới hình thành sau sự ra đời của thị trường thế giới. Bởi vì, chỉ khi phân công lao động quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển đến một giai đoạn nhất định mới đạt tới điều kiện của sự hình thành nền kinh tế thế giới. Ở hình thái ban đầu, nền kinh tế thế giới mới chỉ thể hiện qua những mối quan hệ buôn bán diễn ra có tính chất tự nhiên giữa các quốc gia trên thế giới. Khi ấy, phân công lao động quốc tế diễn ra có tính chất tự phát, chủ yếu dựa trên sự khác biệt về điều kiện tự nhiên sẵn có của từng nước. Đến cuối thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, nhờ những phát kiến địa lý vĩ đại của Christoph Colombo (1446 - 1506) nền sản xuất hàng hoá tư bản đã vượt qua các biên giới quốc gia, hình thành các trung tâm thương mại quốc tế lớn trên thế giới. Vào giai đoạn này, phân công lao động quốc tế đã dần dần chuyển sang tự giác trên cơ sở lợi thế so sánh của từng nước. Cơ cấu sản xuất và trao đổi quốc tế được biến đổi về chất theo các cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (1820-1870) làm cho giao thông vận tải phát triển nhanh chóng, công nghiệp được mở rộng và bước đầu hình thành một thị trường thế giới rộng lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai (1870-1913) gây ra những biến đổi lớn trong các ngành điện lực, hoá chất, luyện kim Những thay đổi cơ bản trong buôn bán quốc tế tăng cường quá trình đầu tư quốc tế, hình thành những quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng bền vững. Đây là thời kỳ đánh dấu sự xuất hiện nền kinh tế thế giới - một thực thể thống nhất hữu cơ bao gồm cả hoạt động sản xuất, buôn bán, đầu tư, tài chính - tín dụng diễn ra giữa các quốc gia chủ đạo và các khu vực kinh tế chủ yếu trên thế giới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (1913-1950) làm xuất hiện và phát triển nhanh chóng các ngành năng lượng hạt nhân, hoá dầu, công nghệ vũ trụ và khai thác đáy đại dương, tin học, công nghệ sinh học làm gia tăng dòng TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 9
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện đầu tư và buôn bán quốc tế, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thế giới lên một cơ sở vật chất - kỹ thuật mới. Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang đi vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với các hướng chủ yếu như phát triển ngành vi điện tử, tin học, thông tin viễn thông và tự động hoá, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đưa tới sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế của các quốc gia và đưa xã hội loài người bước sang một nền văn minh mới, nền văn minh thứ ba. Phân công lao động quốc tế diễn ra cả về chiều rộng và chiều sâu với những mức độ và phạm vi khác nhau. Quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá tác động đan xen lẫn nhau. Các mối quan hệ kinh tế phát triển đa dạng với những cường độ khác nhau làm tăng tính chỉnh thể của nền kinh tế thế giới. 4. BỐI CẢNH MỚI CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI Nền kinh tế thế giới đang bước vào thiên niên kỷ thứ 3 với những đặc điểm mới trong tốc độ tăng trường, trong sự thay đổi cơ cấu và đặc biệt là sự sống động trong các quan hệ kinh tế quốc tế. a. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới diễn ra không đều giữa các quốc gia, giữa các khu vực, giữa các nhóm nước và giữa các thời kỳ. Sau những năm trì trệ đầu thập kỷ 90, kinh tế thế giới tăng trưởng khá cao trong 2 năm 1995 - 1996 (3,8%) song lại bị suy giảm nhẹ vào năm 1997 (3,5%) và tiếp tục tăng không đều ở các năm tiếp theo. Nền kinh tế các nước công nghiệp phát triển trong nhóm G7 được phục hồi. Riêng kinh tế Nhật Bản đang đứng trước những vấn đề nan giải, và đang đòi hỏi những cải cách đáng kể nếu như nó muốn trở lại tăng trưởng với tốc độ cao. Kinh tế các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước mới công nghiệp hoá (NICs) vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao, đặc biệt Trung Quốc vẫn đạt tốc độ rất cao (9%). Riêng các nước ASEAN do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ nên tốc độ tăng trưởng chậm lại, gần đây đã bước sang giai đoạn phục hồi. Kinh tế các nước Mỹ La tinh cũng đang tiếp tục phục hồi với tốc độ tăng GDP 3,3% sau cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Mêhicô năm 1994. Kinh tế các nước châu Phi cũng được phục hồi tốc độ tăng toàn châu lục về GDP đạt khoảng 3%. Kinh tế các nước Đông Âu (kể cả các nước SNG) đã xoay bản lề bước sang thời kỳ mới với tốc độ tăng trưởng GDP TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 10
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện dương (1,7%). Điển hình là kinh tế Cộng hoà liên bang Nga đã chấm dứt thời kỳ suy thoái 10 năm. Năm 2000 các các chỉ tiêu phát triển kinh tế CHLB Nga đã thể hiện rõ dấu hiệu tích cực. Như vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước và nhóm nước diễn ra rất không đều, làm mở rộng hơn nữa hố sâu ngăn cách về sự giàu có và trình độ phát triển giữa các quốc gia. b- Thương mại quốc tế tiếp tục gia tăng với tốc độ khá cao gấp khoảng hơn 2 lần so với tốc độ tăng trưởng GDP, thể hiện xu hướng tự do hoá thương mại trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên sự gia tăng thương mại không đều giữa các nước và nhóm nước đưa đến tình trạng thặng dư thương mại của một số nước này và sự thâm hụt của một số nước khác. Sự cạnh tranh trong buôn bán quốc tế ngày càng gay gắt. Đặc biệt, thặng dư thương mại giữa các nước châu Á với Mỹ cùng với sự căng thẳng chính trị nảy sinh trong quá trình đó trở thành những vấn đề tiềm ẩn của những nguy cơ trong nền thương mại thế giới. c- Đầu tư nước ngoài trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng ở mức độ cao hơn mức độ gia tăng của thương mại quốc tế (trên 10%/năm) với những thay đổi đáng kể trong cơ cấu chủ đầu tư, cơ cấu lĩnh vực đầu tư cũng như tính đa phương và đa chiều, đa hình thức của hoạt động đầu tư quốc tế. Sự thành công trong phát triển kinh tế của các nước tiếp nhận đầu tư phản ánh các dòng vốn ồ ạt đổ vào các thị trường đầu tư mới nổi lên trong những năm gần đây, đồng thời cũng thể hiện quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang hệ thống tài chính toàn cầu thông thoáng hơn. Tuy nhiên các quốc gia trước hết là các nước đang phát triển, cũng cần phải thận trọng hơn trước sự tiếp nhận với quy mô ngày càng lớn các dòng vốn nói trên vì bản thân sự vận động của chúng rất dễ bị tổn thương do sự nhạy cảm của thị trường vốn quốc tế vì những ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển bền vững cũng như những hậu quả tiêu cực khác có thể xảy ra trong hoạt động đầu tư quốc tế. d- Thị trường tài chính toàn cầu phát triển đang đặt ra những vấn đề hết sức nghiêm trọng đối với các nước quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế. Các quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế diễn ra với tốc độ vận hành tức thời của mạng lưới thông tin viễn thông hiện đại vừa thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của những TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 11
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế, vừa đặt ra những yêu cầu mới cho việc kiểm soát những rủi ro về hối đoái cũng như về khả năng thanh toán. Sự cạnh tranh giữa các đồng tiền, trước hết là những ngoại tệ mạnh, trong hệ thống tiền tệ quốc tế ngày càng gay gắt. Các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, sự chao đảo của thị trường chứng khoán thế giới, sự gia tăng của các khoản nợ nước ngoài, đặc biệt là những khoản nợ không có khả năng thanh toán có thể gây nên những biến động mạnh và sự thiệt hại to lớn cho không những một nhóm nước mà cả cho nền kinh tế toàn cầu. Bởi vậy cần thiết phải có những tổ chức và cơ chế phối hợp một cách nhạy bén trên phạm vi toàn thế giới để dự báo và ngăn ngừa những rủi ro trên thị trường chứng khoán và tiền tệ thế giới. Vai trò của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế ngày càng trở nên quan trọng và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với việc hình thành các tổ chức tài chính tiền tệ khu vực cũng như cải tổ các tổ hiện có. e- Bên cạnh các quá trình phát triển kinh tế, các vấn đề xã hội và môi trường sinh thái đặt ra ngày càng gay gắt. Đó là các vấn đề giải quyết nạn thất nghiệp, vấn đề đói nghèo, vấn đề bệnh tật của xã hội hiện đại, vấn đề thay đổi khí hậu và thời tiết, vấn đề dân số, lương thực, năng lượng Đây chính là các vấn đề có tính chất toàn cầu, liên quan đến sự phát triển và sự sống còn của tất cả các quốc gia, đòi hỏi sự phối hợp liên quốc gia, thậm chí trên bình diện toàn cầu trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến sự phát triển bền vững của các dân tộc. g- Trong các hoạt động kinh doanh quốc tế, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt hơn đồng thời quá trình hợp tác cũng diễn ra ngày càng phong phú hơn, ở nhiều cấp độ khác nhau, rộng và sâu hơn. Các phương thức cạnh tranh mới xuất hiện. Muốn đạt được thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi một sự năng động, một tầm nhìn rộng rãi, một sự thích ứng thường xuyên, một trình độ khoa học và công nghệ cao cũng như sự am hiểu về nền văn hoá, tâm lý của các dân tộc, một trình độ quản lý giỏi và khả năng hợp tác đầu tư quốc tế. Đi đôi với cạnh tranh là sự hợp tác với các cấp độ khác nhau, các bình diện khác nhau, các hình thức khác nhau. Sự hợp tác diễn ra trong hoạt động buôn bán, hoạt động đầu tư, hoạt động chuyển giao công nghệ cũng như trong các loại hình dịch vụ khác nhau. Các khuôn khổ mới cho sự hợp tác phát triển giữa các quốc gia được TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 12
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện hình thành theo khu vực cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Sự hội nhập khu vực và quốc tế của các quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển diễn ra với quy mô ngày càng lớn và cường độ ngày càng mạnh mẽ. Điều đó tạo nên cơ hội mới cho sự phát triển nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho tất cả các quốc gia, trước hết là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. h- Các trung tâm kinh tế và cường quốc kinh tế mới được hình thành và phát triển, chúng giữ vai trò ngày càng lớn trong sự vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế, tác động ngày càng mạnh đến quá trình quốc tế hoá thể hiện trên các bình diện toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế thế giới đang chuyển từ trật tự cũ sang trật tự mới với một số nét đại lược như sau: * Ba liên minh kinh tế lớn chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế: - Liên minh châu Âu (EU) sẽ mở rộng ra 20 nước từ năm 2001 và có thể sẽ được mở rộng ra hơn nữa. - Khối NAFTA cũng mở rộng ra khỏi khuôn khổ Bắc Mỹ. Đồng thời cũng sẽ hình thành khu vực Mậu dịch tự do cho các nước châu Mỹ La tinh từ sau năm 2000. - APEC sẽ trở thành khối mậu dịch tự do từ năm 2020 với dân số và tiềm lực kinh tế và kỹ thuật khổng lồ. * Các cường quốc thế giới mới nổi lên như Trung quốc, Ấn Độ, CHLB Nga, CHLB Đức Riêng khu vực châu Á, các nhân tố giữ vai trò quan trọng là Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc và các nước công nghiệp mới NICs. * Hình thành trật tự kinh tế mới với các liên kết kinh tế khu vực và tiểu khu vực, các trung tâm kinh tế lớn giữ vai trò quan trọng trong viềc chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Sự phân hoá giữa các nước giàu nghèo ngày càng nổi rõ. Nguy cơ đối với các quốc gia đang phát triển tăng lên và càng ở vj trí bất lợi hơn trong giao lưu kinh tế quốc tế. Vấn đề dân tộc và quốc gia cũng nổi lên và chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. 2- NHỮNG XU THẾ LỚN TRONG SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ DỰ BÁO TƯƠNG LAI CỦA NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI 2.1. Khái niệm TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 13
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Nền kinh tế thế giới ngày càng chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau, cả nhân tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị cũng như các nhân tố tự nhiên. Sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu thế khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, bởi vì thế giới là sự thống nhất của các mâu thuẫn. 2.2. Xu thế Từ những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh tế thế giới đã chịu sự tác động của một loạt những xu thế mới, trong đó nổi bật lên là: - Xu thế phát triển mang tính bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ. - Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. - Xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác với sự ưu tiên các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Bên cạnh nhiều xu thế khác, ba xu thế nói trên giữ vai trò chủ yế trong việc định hướng phát triển của nền kinh tế thế giới nói chung, sự phát triển kinh tế của từng quốc gia nói riêng. Nó giữ vai trò chủ yếu vì chúng phản ánh động lực của sự phát triển (xu thế thứ nhất), trạng thái của sự phát triển (xu thế thứ hai) và phương thức của sự phát triển (xu thế thứ ba) của nền kinh tế thế giới. 2.3. Bước sang thế kỷ XXI, ba xu thế nói trên vẫn tiếp tục thể hiện vai trò có tính bao trùm và thường xuyên quyết định, mặc dù có thêm những những sắc thái mới, phức tạp hơn và đa dạng hơn. Những sắc thái mới này thể hiện ở các khía cạnh sau: a. Do tác động của cách mạng khoa học - công nghệ với một cường độ lớn hơn và trình độ cao hơn làm thay đổi cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ mạnh mẽ hơn và sâu sắc hơn, thể hiện ở một số hướng sau: - Các ngành công nghiệp "cổ điển" giảm dần tỷ trọng và vai trò của nó, trở nên "mãn chiều xế bóng". Các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất. Chúng giữ vai trò "khớp nối", bảo đảm cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội được thông suốt và phát triển với tốc độ cao. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 14
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Cơ cấu kinh tế trở nên "mềm hoá", khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nền "kinh tế tượng trưng" có quy mô lớn hơn nền "kinh tế thực" nhiều lần. - Cơ cấu lao động theo ngành nghề có sự thay đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới, những nghề với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ. b. Do tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, của sự phân công lao động quốc tế, do vai trò và tầm hoạt động mới của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia, quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu trên 2 cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá và đưa đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể chế kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế thế giới trên bước vào cạnh tranh toàn cầu bên cạnh việc đẩy mạnh tìm kiếm sự hợp tác trong cạnh tranh. Thể chế kinh tế thế giới chuyển biến theo hướng thị trường hoá nền kinh tế của từng quốc gia; quốc tế hoá thể chế kinh tế giữa các nước theo hướng mở cửa với sự xuyên suốt của thể chế thị trường; theo hướng nhất thể hoá và tập đoàn hoá kinh tế khu vực (thành lập và phát triển các tổ chức kinh tế quốc tế, các liên kết kinh tế khu vực dưới dạng hiệp hội mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, khu vực đầu tư tự do, Liên minh kinh tế ). c. Xu thế toàn cầu hoá kinh tế gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt động tài chính - tiền tệ; sự gia tăng của Mậu dịch quốc tế nhanh hơn nhiều tốc độ tăng trưởng kinh tế; việc gia tăng làn sóng sáp nhập các công ty xuyên quốc gia; vai trò ngày càng quan trọng của trí thức và sự phát triển loại hình kinh tế tri thức. Công nghệ thông tin phát triển làm thay đổi cách thức tổ chức sản xuất và đời sống, đưa đến sự tác động ngày càng lớ của kinh tế đến chính trị và xã hội. Quá trình toàn cầu hoá diễn ra cả bề rộng và bề sâu, một mặt đưa tới cơ hội cho sự phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới, giúp cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên hiện có trên trái đất cũng như gây tác động ngược trở lại đối với sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ và đối với việc phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hoá kinh tế cũng đưa đến những thách thức lớn ở nhiều góc độ khác nhau như sự gia tăng của các rủi ro kinh tế (khủng TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 15
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện hoảng tài chính - tiền tề khu vực, sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, việc hình thành các "bong bóng" tài chính và tiền tệ ) cũng như gây nên mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội (làm suy giảm tính độc lập và chủ quyền quốc gia, gây nên sự phụ thuộc quá mức vào các trung tâm kinh tế lớn, phương hại đến sự phát triển văn hoá dân tộc ). Trong quá trình toàn cầu hoá kẻ mạnh thường là thu được nhiều lợi ích hơn còn người yếu dễ bị thua thiệt. Những quốc gia có tiềm lực lớn, có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác quá trình toàn cầu hoá và cài đặt các lợi ích của họ. Các quốc gia phát triển chậm hơn không thể bị động theo sau, cũng không thể tham gia vào quá trình toàn cầu hoá một cách bị động và vô vọng được. 2.4. Bên cạnh ba xu thế nổi bật nêu trên, đối với các quốc gia ở châu Á phải kể đến xu thế thứ tư là: Sự phát triển của vòng cung châu Á - Thái Bình Dương với các quốc gia có nền kinh tế hết sức năng động, đạt nhịp độ phát triển cao liên tục qua nhiều năm, đang làm cho trung tâm của nền kinh tế thế giới dịch chuyển dần về khu vực này. Vòng cung châu Á - Thái Bình Dương có khoảng 2 tỷ dân, chiếm gần 40% GNP của toàn thế giới với những tài nguyên thiên nhiên phong phú, đã từng có những nền văn minh rực rỡ trong quá khứ và ngày nay đang chứng tỏ một sự phát triển hết sức mau lẹ, chưa từng có trong tiền tệ. Người ta dự báo rằng thế kỷ XXI là thế kỷ châu Á - Thái Bình Dương. Điều đó tạo điều kiện cho việc hình thành những quan hệ quốc tế mới, tạo nên những khả năng mới cho sự phát triển đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới cho tất cả các quốc gia. Sự phát triển của vòng cung châu Á - Thái Bình Dương đòi hỏi mỗi nước phải tính đến trong chiến lược phát triển của mình. Ngoài những xu thế nêu trên còn có nhiều xu thế khác chi phối sự vận động của nền kinh tế thế giới, thí dụ xu thế "mềm hoá" cơ cấu kinh tế của các quốc gia, xu thế hình thành các liên kết tiểu khu vực (tam giác phát triển, tứ giác phát triển ), xu thế phát huy các nhân tố truyền thống, xã hội và văn hoá trong cạnh tranh kinh tế, xu thế đa nguyên tranh cực, xu thế phục hồi kinh tế, xu thế cạnh tranh khoa học - kỹ thuật, xu thế chấn chỉnh xã hội, xu thế cảnh giới quốc tế, xu thế bành trướng tôn giáo Trên cơ sở phân tích tác động của các xu thế nêu trên, có thể dự báo tương lai của nền kinh tế thế giới sau vài ba thập kỷ tới. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 16
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện 1- Do tác động của cách mạng khoa học - công nghệ mà kết cấu ngành sản xuất và dịch vụ chuyển dịch theo hướng: - Các ngành công nghiệp cổ điển giảm dần tỷ trọng và ý nghĩa của nó. Nhiều ngành trở nên mãn chiều xế bóng và thu hẹp dần tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân. - Các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao tăng nhanh, đặc biệt là các ngành dịchvụ kỹ thuật phục vụ sản xuất chiếm vị trí ngày càng lớn. Chúng giữ vai trò "khớp nối" đảm bảo cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội được thông suốt và phát triển với tốc độ cao. - Kết cấu kinh tế trở nên "mềm hoá", khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nền kinh tế "tượng trưng" có quy mô lớn hơn nền kinh tế "thực" nhiều lần. Vai trò của các hoạt động tài chính và tiền tệ, dịch vụ ngân hàng, dịch vụ công nghệ càng trở nên quan trọng, các luồng vốn di chuyển với quy mô lớn và đa chiều giữa các quốc gia trên thế giới. - Kết cấu lao động theo ngành nghề có những thay đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới, những nghề với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học - công nghệ. 2- Sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, vai trò của các công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia ngày càng lớn trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Chúng như những con bạch tuộc khổng lồ với các vòi hút bám ở khắp nơi với các hệ thống chi nhánh bao trùm mọi lĩnh vực lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ, tham gia mạnh mẽ vào quá trình phát triển khoa học - kỹ thuật và chuyển giao công nghệ, thực hiện phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá ở tầm quốc tế cũng như tham gia vào sự điều tiết kinh tế quốc tế. Các công ty lớn theo đuổi giá thành thấp trên phạm vi toàn cầu với cơ cấu tổ chức sản xuất và tiêu thụ tối ưu: Tổ chức nghiên cứu ở nước thứ nhất, sản xuất các yếu tố sản phẩm ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư, gửi tiền ở nước thứ năm Các công ty đa quốc gia tìm cách thoát ly khỏi sự kiểm soát của chính phủ, đồng thời ảnh hưởng mạnh đến việc hoạch định chính sách của các chính phủ. Sự cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt đi đôi với sự phát triển mạnh mẽ của tình báo công nghiệp. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 17
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Mức độ xã hội hoá lao động và tư bản tăng lên. Lao động sống ngày càng có trình độ cao và trở nên đắt đỏ hơn. 3- Phương thức tổ chức của nền sản xuất phát triển theo chiều hướng ngược lại so với tính chất của xã hội công nghiệp, đó là chiều hướng: - Phi tiêu chuẩn hoá - Phi chuyên môn hoá - Phi tập trung hoá - Phi tối đa hoá Tự động hoá sản xuất đồng bộ với kỹ thuật điều khiển linh hoạt là đặc điểm nổi bật của tổ chức sản xuất trong tương lai. 4- Xã hội loài người đang bước sang nền văn minh mới với những cơ sở mới cho sự phát triển của nó. - Cơ sở năng lượng mới với nhiều nguồn khác nhau có thể tái sinh được. - Cơ sở công nghệ mới: công nghệ không phế thải, công nghệ khép kín. - Cơ sở nguyên liệu mới: thông tin là một nguồn nguyên liệu lớn. - Cơ sở tổ chức sản xuất mới: quy mô nhỏ, linh hoạt, ít vốn năng lượng. - Khái niệm kinh tế mở rộng hơn: phải tính giá thành xã hội, tính lợi ích sinh thái và môi trường, sở hữu trí tuệ là loại hình sở hữu phát triển cao. Trong cuốn sách "Dự báo thế kỷ XXI" - công trình tập thể của các tác giả Trung Quốc (NXB Thượng Hải - 12/1996) đã nêu lên dự báo về nền kinh tế thế giới thế kỷ XXI với một số xu thế phát triển mới cảu nền kinh tế thế giới là: - Cải cách và điều chỉnh - Xu thế nhất thể hoá - Tập đoàn hoá khu vực Mậu dịch quốc tế trở nên "mềm hoá" về nội dung "cao cấp hoá" về cơ cấu, "tập đoàn hoá" về hình thức tổ chức, "cao tốc hoá" về phát triển dịch vụ, "bảo hộ hoá" về lợi ich, "toàn cầu hoá" về quản lý, "đa phương hoá" về thể chế mậu dịch Vai trò mới của các công ty xuyên quốc gia thể hiện ở việc "đa nguyên hoá" chủ thể đầu tư, "toàn cầu hoá" chiến lược kinh doanh, "đa dạng hoá" cơ cấu đầu tư, "địa phương hoá xí nghiệp" của các công ty ở nước ngoài. Xa lộ thông tin phục vụ cho sự phát triển kinh tế. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 18
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Cũng trong cuốn sách trên, người ta dự báo về những đặc trưng mới của "tinh thần kinh tế thị trường hiện đại" trên 6 phương diện sau đây: Một là, biến động cơ mưu lợi đơn thuần và dục vọng muốn làm giàu về vật chất thành cảm giác tự hào về thành tựu và trách nhiệm xã hội, làm cho hành động kinh tế của toàn dân tộc có động cơ cao hơn hẳn. Hai là, biến chủ nghĩa coi trọng thương nghiệp và ý thức làm giàu bằng lưu thông hàng hoá thành tinh thần công nghiệp và thực nghiệm. Ba là, biến ý thức coi trọng tư bản hàng hoá và tiền bạc thành ý thức coi trọng nguồn vốn nhân lực. Bốn là, biến ý thức hại người lợi mình thành ý thức vừa lợi mình vừa lợi người, tôn trọng tinh thần chính nghĩa và lành mạnh trong trao đổi kinh tế. Năm là, biến ý thức coi thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên là đối tượng của lao động thành ý thức coi sự thống nhất hữu cơ giữa con người và thiên nhiên trong hiện tại, đề cao lý thuyết sinh thái. Sáu là, biến ý thức an nhàn hưởng lạc trong sự giàu có vô cùng tận và thủ đoạn làm giàu không lương thiện thành tinh thần siêu việt mưu cầu giá trị và ý nghĩa cuộc sống. Với những dự báo nêu trên, người ta đưa ra những nét phác thảo về quang cảnh toàn cầu của thiên niên kỷ tới thể hiện ở bước nhảy vọt về khoa học kỹ thuật, ở việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế gắn liền với sức sản xuất sinh thái cũng như ở những đường nét mới về sự phát triển của văn hoá nghệ thuật. 2.5. Khái quát về các ván đề có tính chất toàn cầu Cho đến nay, các vấn đề có tính chất toàn cầu bao gồm nhiều loại hình, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội cũng như tự nhiên. Theo quan điểm của Đảng CS Việt Nam, có bốn vấn đề toàn cầu nổi bật là "giữ vững hoà bình và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo" (xem cuốn Một vấn đề quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản - 1994). Bên cạnh những vấn để trên, thực tiễn của đời sống kinh tế xã hội đang tiếp tục xuất hiện những vẫn đề có tính chất TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 19
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện toàn cầu khác nữa. Có thể phân loại một cách khái quát các vấn đề có tính chất toàn cầu như sau: - Các vấn đề có tính chất toàn cầu liên quan đến nguồn lực phát triển: Vấn đề dân số, vấn đề lương thực, vấn đề nguyên liệu, vấn đề năng lượng - Vấn đề có tính chất toàn cầu liên quan đến môi trường sinh thái: Vấn đề nước ngọt, nạn cháy rừng, trái đất nóng dần lên, lỗ thủng tầng ô-zôn, vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái - Các vấn đề có tính chất toàn cầu liên quan đến việc tăng trưởng và phát triển kinh tế: Vấn đề nợ nước ngoài, vấn đề thất nghiệp và lạm phát, vấn đề chiến tranh thương mại, vấn đề khủng hoảng tài chính - tiền tệ - Các vấn đề có tính chất toàn cầu liên quan đến khía cạnh xã hội: Vấn đề phân cực giàu nghèo, vấn đề bệnh tật của xã hội công nghiệp hiện đại, vấn đề bạnh trướng tôn giáo, vấn đề xung đột chủng tộc và sắc tộc Một vấn đề toàn cầu có tính chất bao trùm ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhân loại là vấn đề chiến tranh và hoà bình. Mặt khác, số lượng các vấn đề có tình chất toàn cầu càng nảy sinh nhiều hơn. cũng như quy mô, phạm vi ảnh hưởng và tính chất của nó ngày càng phức tạp và lớn hơn. Trong những vấn đề toàn cầu nêu trên, người ta thường đề cập đến và phải đương đầu một cách thường xuyên là vấn đề bùng nổ dân số, vấn đề thiếu lương thực và thiếu năng lượng, vấn đề nợ nước ngoài, vấn đề khủng hoảng tài chính - tiền tệ và vấn đề ôn nhiễm môi trường sinh thái Đến nay, sự bùng nổ dân số vẫn là mối đe doạ đối với sự phát triển của nhiều quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. Mặc dù số lượng dân số là điều kiện đầu tiên và có ý nghĩa quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhưng một sự tăng trưởng cao hơn ý muốn vẫn là một sức ép về nhiều phương diện như đảm bảo lương thực, nhà ở, việc làm, y tế, văn hoá đối với mỗi quốc gia. Dân số Trái đất năm 1825 mới là 1 tỷ người sau nhiều năm phát triển. Một trăm năm sau dân số thế giới tăng gấp đôi tới 2 tỷ người. Một nửa thế kỷ tiếp sau nữa (1925 - 1975) dân số thế giới đã tăng lên 4 tỷ. Đến năm 2000, dân số thế giới khoảng 6 tỷ. Nếu như tốcộ tăng dân số vẫn giữ ở mức của nửa đầu thế kỷ XX thì dân số thế giới sẽ đạt 12 tỷ người vào năm 2050. Tất nhiên điều đó khó có thể xảy ra nhưng để đạt được quy mô dân só phù hợp với các nguồn tài nguyên trên trái đất và sự phát triển của khoa học - công TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 20
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện nghệ đòi hỏi sự cố gắng vượt bậc và sự phối hợp chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hiện nay tốc độ tăng dân số giữa các quốc gia, giữa các dân tộc, giữa các vùng thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư khác nhau về mức sống và trình độ văn hoá là rất không đều, điều đó đưa đến hậu quả về sự thay đổi tỷ trọng dân số theo các tiêu thức nói trên. Hơn nữa chính sự bùng nổ dân số kéo theo mức độ gia tăng của nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu khác (vấn đề lương thực, vấn đề năng lượng, vấn đề việc làm, vấn đề ô nhiễm ). Một vấn đề có tính chất toàn cầu khác liên quan đến khía cạnh kinh tế là vấn đề nợ nước ngoài. Nếu như sau Thế thiến thứ II, cả quốc gia lâm vào tình trạng nợ nước ngoài chủ yếu là các nước bại trận hoặc các nước phải trải qua các cuộc chiến tranh tàn khốc, thì đến thập kỷ 70 tình trạng nợ nước ngoài lại trở thành gánh nặng đối với hầu hết các nước đang và chậm phát triển. Hiện nay có nhiều quốc gia đã rơi vào tình trạng nợ nước ngoài lớn hơn chỉ tiêu GDP được sản xuất hàng năm, thậm chí có quốc gia tăng trưởng cao hơn và liên tục trong vài và thập kỷ cũng rơi vào tình trạng nợ nước ngoài chồng chất. Có thể nhận xét rằng vấn đề nợ nước ngoài đang phát triển với một gia tốc ngày càng cao và nó có thể cuốn hút vào đó mọi quốc gia, không phân biệt là có trình độ phát triển cao hay thấp, không phân biệt là nước lớn hay nhỏ,, nếu như quốc gia đó không chú trọng khắc phục những nguyên nhân khác nhau có thể dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài. Nợ nước ngoài lớn không những là một sự đe doạ nghiêm trọng đối với tương lai của một quốc gia, gây nên sự phụ thuộc không những về kinh tế mà cả về chính trị và ngoại giaom mà nó còn là một trong những nguyên nhân đưa đến các cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ và từ đó đưa tới sự tàn phá và đổ vỡ khủng khiếp, phá hoại thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua nhiều thập kỷ của một quốc gia. Bởi vậy, kết luận đối với sự phát triển kinh tế ngày nay không đơn thuần là một tốc độ tăng trưởng cao mà điều quan trọng hơn là phải đạt được sự tăng trưởng trong an toàn và ổn định, tăng trưởng một cách vững chắc và lâu dài. Gần đây, môi trường sinh thái trở nên một vấn đề có tính chất toàn cầu hết sức gay gắt. Sự huỷ hoại và ô nhiễm về môi trường sinh thái là hậu quả tất yếu của sự tăng trưởng kinh tế nhanh và khai thác tài nguyên quá mức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự huỷ hoại và ô nhiễm môi trường sinh thái lại diễn ra một TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 21
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện cách từ từ, khó nhận biết, trong khi để khắc phục một hậu quả xấu lại phải mất một khoảng thời gian tất dài với chi phí cực kỳ tốn kém. Trong thực tế, việc theo đuổi lợi ích riêng của một tập đoàn kinh doanh, thậm chí của một quốc gia lại đưa tới tác hại cho nhiều quốc gia khác và cho cả nhân loại. Bởi vậy, việc huỷ hoại và ô nhiễm môi trường sinh thái trở thành vấn đề toàn cầu nghiêm trọng nhất, đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực trên nhiều phương diện, sự phối hợp hành động chung của tát cả các tổ chức cũng như của toàn nhân loại. 2- NỘI DUNG VÀ TÍNH CHẤT CỦA CÁC QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ 1.2. Khái niệm và nội dung Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về vật chất và tài chính, các quan hệ diễn ra không những trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực khoa học - công nghệ có liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, chúng diễn ra giữa các quốc gia với nhau cũng như giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế. Chủ thể của cac quan hệ kinh tế quốc tế là các quốc gia cùng với các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân trong các quốc gia đó cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế. Các công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia là những chủ thể có vị trí quan trọng trong việc hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Phạm vi vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế thường vượt ra ngoài biên giới một quốc gia. Các quan hệ kinh tế quốc tế của một quốc gia với các quốc gia khác và các tổ chức kinh tế quốc tế tạo thành lĩnh vực kinh tế đối ngoại của quốc gia đó. Nội dung của các quan hệ kinhtế quốc tế rất rộng và đa dạng, trước hết phải kể đến các hoạt động sau đây: * Thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế có quốc tịch khác nhau (trong đó đối tượng trao đổi thường là vượt ra ngoài phạm vi địa lý của một quốc gia) thông qua hoạt động mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới. Hoạt động thương mại quốc tế ra đời sớm nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Sở dĩ thương mại quốc tế có vai trò quan trọng như vậy bởi vì kết quả của các quan hệ kinh tế quốc tế khác cuối cùng được thể hiện tập trung TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 22
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện trong thương mại quốc tế và quan hệ hàng hoá - tiền tệ vẫn là quan hệ phổ biến nhất trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trên giác độ một quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của thương mại quốc tế bao gồm: - Xuất và nhập khẩu hàng hoá hữu hình (nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng ). Đây là bộ phận chủ yếu và giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. - Xuất và nhập khẩu hàng hoá vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại hình dịch vụ khác ). Đây là bộ phận có tỷ trọng ngày càng gia tăng phù hợp với sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ và việc phát triển các ngành dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. - Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công. Gia công quốc tế là một hình thức cần thiết trong điều kiện phát triển của phân công lao động quốc tế và do sự khác biệt về điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia. Nó được phân chia thành hai loại hình chủ yếu tuỳ theo vai trò của bên đặt hàng và bên nhận gia công. Khi trình độ phát triển của một quốc gia còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì các doanh nghiệp thường ở vào vị trí nhận gia công thuê cho nước ngoài. Nhưng khi trình độ phát triển ngày càng cao thì nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia công cho mình. Hoạt động gia công mang tính chất công nghiệp nhưng chu kỳ gia công thường rất ngắn, đầu vào và đầu ra của nó gắn liền với thị trường nước ngoài nên nó được coi là một bộ phận của hoạt động ngoại thương. - Tái xuất khẩu và chuyển khẩu. Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hoá từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang một nước thứ ba. Như vậy ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao. Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho lưu bãi, bảo quản TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 23
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện - Xuất khẩu tại chỗ: Trong trường hợp này hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh, trong khi vẫn có thể thu được ngoại tệ. * Đầu tư quốc tế Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh trong đó vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh lời. Trong đầu tư quốc tế thường có hai hoặc nhiều bên có quốc tịch khác nhau cùng phối hợp với nhau để triển khai một dự án đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Khác với hoạt động thương mại quốc tế có thể chỉ diễn ra theo từng vụ việc, đầu tư quốc tế là một quá trình được kéo dài, có trường hợp đến 30 năm, 50 năm hoặc lâu hơn nữa. Vốn đầu tư quốc tế có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như bằng cac loại tiền mặt hoặc giấy tờ có giá trị, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, quyền sử dụng đất đai, các sáng chế, phát minh, bí quyết công nghệ, nhãn hiệu hàng hoá .v.v Lợi ích do hoạt động đầu tư mang lại thường là lợi ích kinh tế, đồng thời còn có cả lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá - xã hội, lợi ích về bảo vệ môi trường sinh thái Vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính: đầu tư của tư nhân và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của các chính phủ, các tổ chức quốc tế. a. Đầu tư của tư nhân Đầu tư của tư nhân được thực hiện dưới 3 hình thức: * Đầu tư trực tiếp: Chủ đầu tư nước ngoài toàn bộ hay phần lớn vốn đầu tư vào các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại * Đầu tư gián tiếp: Chủ đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của các công ty ở nước sở tại (ở mức nhất định) để thu lợi nhuận mà không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. * Tín dụng thương mại: Cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay. b. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 24
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại (cho vay dài hạn với một số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ cức Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế (như ngân hàng Thế giới WB, ngân hàng phát triển châu Á - ADB, Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF ) dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ phát triển trên được gọi chung là đối tác viện trợ nước ngoài. * Hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học - công nghệ Bao gồm việc chuyên môn hoá và hợp tác hoá ở tầm quốc tế giữa các tổ chức kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau trong việc sản xuất một loại sản phẩm nào đó, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, sáng chế, thiết kế, thử nghiệm, trong đào tạo cán bộ a. Việc chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế trong sản xuất Việc chuyên môn hoá có thể diễn ra theo cac ngành, trong nội bộ từng ngành (theo từng sản phẩm), theo chi tiết sản phẩm và theo quy trình công nghệ. Chuyên môn hoá theo các ngành diễn ra khi có sự khác biệt lớn về điều kiện tự nhiên, sự chênh lệch đáng kể về trình độ công nghệ, trong đó mỗi quốc gia sẽ tập trung vào những ngành mà bản thân họ có điều kiện sản xuất thuận lợi và đạt được hiệu quả cao. Việc chuyên môn hoá theo chi tiết sản phẩm và theo quy trình công nghệ đòi hỏi sự tương đồng về trình độ công nghệ, trong đó mỗi bên chịu trách nhiệm chế tạo một số chi tiết sản phẩm nhất định hoặc từng giai đoạn nhất định trong quá trình tạo nên sản phẩm cuối cùng. Đây là việc chuyên môn hoá có tính chất chiều sâu và nó phát huy thế mạnh công nghệ của từng quốc gia. Việc chuyên môn hoá thường gắn liền với việc hợp tác hoá vì đây là hai mặt của một vấn đề: Việc chuyên môn hoá đòi hỏi việc hợp tác hoá và việc hợp tác hoá phải trên cơ sở chuyên môn hoá. Quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong sản xuất gắn liền với sự phát triển của cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Những công ty lớn có chi nhánh ở hàng chục quốc gia có khả năng thực hiện quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá một cách ăn khớp trên những phạm vi rộng lớn. Đặc biệt sự ra đời của các khối liên kết kinh TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 25
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển của việc chuyên môn hoá và việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sản xuất. b. Sự hợp tác và trao đổi quốc tế về khoa học - công nghệ * Sự hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học - công nghệ Là một loại hìn hoạt động bao gồm các hình thức phối hợp giữa các nước để cùng nhau tiến hành nghiên cứu, sáng chế, thiết kế, thử nghiệm, trao đổi các kết quả nghiên cứu, thông tin về khoa học - công nghệ; áp dụng các thành tựu k hoa học - công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất. Sự hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học - công nghệ là một đòi hỏi khách quan trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào có khả năng tự mình giải quyết mọi vấn đề khoa học - công nghệ mà thực tiễn đặt ra. Khoa học - công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và những thành tựu khoa học - công nghệ phải trở thành tài sản chung của nhân loại. Điều đó không loại trừ tình hình thực tế là vẫn có việc giữ bí mật những kết quả nghiên cứu và nhiều khi nó còn là phương tiện để khống chế lẫn nhau. * Việc chuyển giao công nghệ Hoạt động chuyển giao công nghệ không chỉ là một hoạt động mua bán đơn thuần vì hàng hoá công nghệ có những đặc điểm riêng. Quá trình chuyển giao công nghệ phải giải quyết các khía cạnh kinh tế, kỹ thuật và pháp lý thì mới bảo đảm cho việc chuyển giao đạt kết quả mong muốn Việc chuyển giao công nghệ không chỉ đơn thuần là việc mua bán máy móc, thiết bị. Đó mới chỉ là "phần cứng" của công nghệ đã được vật chất hoá, có giá cả xác định và được mua bán theo mối quan hệ thương mại thông thường. Công nghệ còn có "phần mềm" bao gồm các kiến thức khoa học, các công thức và bí quyết kỹ thuật Đó là hàng hoá "vô hình" và không có giá cả xác định. Các dạng khác nhau của công nghệ và quyền sử dụng chúng vào sản xuất được phản ánh bằng các khái niệm "kiểu dáng công nghiệp", "nhãn hiệu hàng hoá", "sáng chế", "bí quyết kỹ thuật", "bằng bảo hộ sáng chế", giấy phép sử dụng .v.v * Các dịch vụ thu ngoại tệ Các dịch vụ thu ngoại tệ bao gồm các hoạt động kinh tế quốc tế dưới dạng các dịch vụ quốc tế như du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, bảo hiểm quốc tế, thanh toán và tín dụng quốc tế, xuất và nhập khẩu TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 26
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện sức lao động v.v Yếu tố quốc tế ở đây thể hiện ở phạm vi hoạt động hoặc chủ thể sản xuất và đối tượng tiêu dùng thuộc các quốc tịch khác nhau. Để thuận tiện, người ta quy ước tính quốc tế của các dịch vụ này đồng nhất với hình thức thanh toán là việc thu được ngoại tệ. Các dịch vụ thu ngoại tệ có quy mô ngày càng lớn, nội dung ngày càng phong phú và hình thức ngày càng trở nên đa dạng. Như vậy, quan hệ kinh tế quốc tế có nội dung rộng lớn hơn nhiều so với thương mại quốc tế (theo nghĩa thông thường). Theo nghĩa rộng, người ta có thể dùng khái niệm thương mại quốc tế để chỉ toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung, bởi vì hình thức biểu hiện phổ biến hiện nay trong các quan hệ kinh tế quốc tế là thông qua buôn bán hàng hoá và dịch vụ. 1.3. Mục đích và phương pháp nghiên cứu Mục đích nghiên cứu môn học này là cung cấp cho học viên các kiến thức chuyên môn về các quy luật vận động của nền kinh tế thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế, trước hết là các quy luật vận động của thương mại quốc tế, quy luật vận động của hoạt động đầu tư quốc tế, quy luật vận động của hệ thống tiền tệ và quan hệ tài chính quốc tế, quy luật vận động của các hoạt động dịch vụ quốc tế, quy luật hình thành và phát triển của các loại hình liên kết kinh tế quốc tế cũng như nghiên cứu các xu hướng vận động chủ yếu của nền kinh tế thế giới trong giai đoạn hiện nay. Môn học này còn nghiên cứu các nhân tố và sự tác động của chúng đến các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và lĩnh vực kinh tế đối ngoại của một quốc gia nói riêng. Trên cơ sở đó, nó giúp cho sinh viên hiểu rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của các chính sách mà các chính phủ áp dụng trong lĩnh vực các quan hệ kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia. Một trong những mục đích quan trọng khi nghiên cứu môn học này là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Điều đó không những thể hiện tính thực tiễn, tính hướng đích mà đồng thời còn phản ánh yêu cầu khách quan đặt ra đối với môn học này. Để nghiên cứu và học tập môn học kinh tế quốc tế có kết quả cần sử dụng các phương pháp của phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử, cũng như các TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 27
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện phương pháp quy nạp và diễn giải, so sánh và lịch sử. Đặc biệt các phương pháp mô hình hoá và các phương pháp phân tích của kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô được sử dụng khá phổ biến khi tiếp cận các vấn đề kinh tế cụ thể. Việc sử dụng các công cụ trừu tượng hoá được kết hợp với việc phân tích thực tiễn phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia. Bởi vậy bên cạnh những nguyên lý có tính phổ biến của sự vận động các quan hệ kinh tế quốc tế, trong giáo trình này còn đề cập đến thực tiễn Việt Nam để phục vụ cho việc đào tạo cán bộ quản lý lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Việt Nam. 4- CÁC QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Các văn kiện Đại hội lần thứ VI, VII, VIII, IX, X khẳng định chính sách đổi mới và mở cửa với những quan điểm sau đây về kinh tế đối ngoại: 4.1. Phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Thế giới ngày nay là một thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ, nhưng phụ thuộc vào nhau về kinh tế và khoa học - công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồn từ những yếu tố khách quan. Nhiều nhà kinh tế học cho rằng đối với bất kỳ quốc gia nào sự phát triển kinh tế đòi hỏi phải có 16 sản phẩm cơ bản như: Năng lượng, than, dầu thô, khí đốt, sắt, đồng, chì, kẽm, nhôm, niken, gỗ, lương thực, thiết bị kỹ thuật Do điều kiện địa lý, do sự phân bố không đều tài nguyên thiên nhiên, không một quốc gia nào có khả năng tự bảo đảm các sản phẩm cơ bản nói trên. Mọi quốc gia đều phụ thuộc vào nước ngoài với mức độ khác nhau về các sản phẩm đó. Mặt khác, sự phụ thuộc giữa các quốc gia còn bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới nữa. Lịch sử thế giới chứng minh không có quốc gia nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đều là những nước dựa vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển; biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 28
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện học - công nghệ để hiện đại hoá nền sản xuất, biết khai thác những nguồn lực ngoài nước để phát huy các nguồn lực trong nước. Đối với nước ta là một nước nghèo và kém phát triển, nông nghiệp lạc hậu, trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp, nhưng có nhiều tiềm năng chưa được khai thác, để đảm bảo đường lối xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển ngoại thương, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ với bên ngoài là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp bách. Để bảo đảm mục tiêu tổng quát của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 đã được xác định tại Đại hội VII: "Ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ 21. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) đến năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990". Đại hội VIII, IX và X "đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020". Những mục tiêu của kinh tế đối ngoại có thể xác định như sau: - Tạo nguồn ngoại tệ cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu tổng quát, phục vụ nhập khẩu công nghệ, nguyên, nhiên vật liệu và hàng hoá thiết yếu, góp phần đẩy lùi lạm phát và ổn định đời sống nhân dân, đồng thời góp phần đổi mới cơ cấu kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế mới gắn với nền kinh tế thế giới, tăng cường tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học - công nghệ, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh vào những năm đầu thế kỷ 21. - Khai thác có hiệu quả những lợi thế của nước ta, tham gia sâu rộng vào các giao dịch kinh tế khu vực và thế giới, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, hội nhập tích cực và chủ động nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, thu hẹp sự mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế, sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế và khoa học - công nghệ giữa Việt Nam với các nước khác, nhất là các nước láng giềng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. 4.2. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 29
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Trong lĩnh vực đối ngoại hai mặt kinh tế và chính trị có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau, có trường hợp không tách rời nhau, quyện chặt vào nhau. Thông thường mối quan hệ chính trị - ngoại giao mở đường và thúc đẩy mối quan hệ thương mại - kinh tế phát triển. Việc khai thông mối quan hệ chính trị là tiền đề không thiếu được để phát triển và mở rộng mối quan hệ kinh tế. Ngược lại, mối quan hệ kinh tế - thương mại phát triển có tác dụng củng cố, tăng cường mối quan hệ chính trị. Trong điều kiện thông thường, chính sách kinh tế đối ngoại gắn bó với chính sách ngoại giao trong một chính thể, chính sách đối ngoại với từng khu vực, từng nước nhằm thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển và mở rộng phù hợp với đặc điểm khu vực, nước hữu quan trong từng giai đoạn nhất định. Khác với hoạt động kinh tế trong nước, hoạt động kinh tế đối ngoại không chỉ tuỳ thuộc vào những yếu tố kinh tế, vào lợi ích của các bên trực tiếp tham gia hoạt động, mà còn tuỳ thuộc một phần quan trọng vào những yếu tố chính trị, vào lợi ích của các quốc gia hữu quan, tuỳ thuộc vào đặc điểm từng loại hình kinh tế đối ngoại, mức độ gắn bó giữa kinh tế với chính trị đối với loại hình đó và được thể hiện, trong chính sách của các nước hữu quan trong từng giai đoạn nhất định nữa. Việc xử lý mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị là vấn đề có ý nghĩa quyết định của lĩnh vực kinh tế đối ngoại, là một vấn đề cốt lõi trong chính sách kinh tế đối ngoại với các khu vực và các nước. Cơ sở để giải quyết vấn đề là lợi ích dân tộc, xem xét trên quan điểm tổng thể bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của đất nước. Trong một thế giới thống nhất nhưng đa dạng gồm những quốc gia có những đặc điểm, mục tiêu khác nhau, những lợi ích mâu thuẫn nhau, phương hướng xử lý mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong kinh tế đối ngoại nước ta là: Mở rộng, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Độc lập cần được hiểu một cách toàn diện bao gồm độc lập chính trị và độc lập kinh tế. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 30
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Phù hợp với phương hướng nói trên, công tác quốc phòng an ninh phải tạo thuận lợi cho việc mở rộng kinh tế đối ngoại và không được gây trở ngại cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Ngược lại, kinh tế đối ngoại phải bảo đảm độc lập, chủ quyền an ninh quốc gia, phải góp phần nâng cao năng lực quốc phòng, nhất là trong khi các thế lực thù địch còn những âm mưu và hoạt động phá hoại nước ta. Kinh tế đối ngoại phải quán triệt cả hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặc khác, sự phát triển và việc mở rộng kinh tế đối ngoại đòi hỏi phải quan tâm đầy đủ đến lợi ích chính đáng, hợp lý của các bên đối tác trên cơ sở đó xác định những điểm các bên có thể gặp nhau, có sự cân bằng lợi ích giữa các bên đối tác trên nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. 4.3. Quan điêm "mở cửa", tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế "Mở cửa", tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một chính sách có tính chiến lược hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. "Mở cửa", tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan và là một yêu cầu cấp bách đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là trong điều kiện nước ta còn là một nước đang phát triển ở trìng độ phát triển thấp nhưng có nhiều khả năng tiền tàng chưa được khai thác, nhiều lợi thế chưa được phát huy. Việc "Mở cửa" và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là mở rộng giao lưu kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ với nước ngoài, tham gia sâu rộng vào sự trao đổi, sự phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu, tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại, các tổ chức, định chế và liên kết kinh tế quốc tế. "Mở cửa" và tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một chính sách kinh tế lớn và là một điều kiện bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Mục tiêu của chính sách "mở cửa", chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là góp phần thực hiện đường lối xây dựng và phát triển kinh tế, các mục tiêu về kinh tế - xã hội trong những năm 1991 - 1995 và thực hiện các mục tiêu đề ra trong chiến lược kinh tế - xã hội đến năm 2000, chiến lược phát triển kinh TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 31
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện tế xã hội 2001 - 2010 nhằm sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển và phấn đấu về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Việc "mở cửa", hội nhập còn góp phần thực hiện đường lối đối ngoại, các mục tiêu về kinh tế đối ngoại trên cơ sở gắn thị trường trong nước và thị trường quốc tế, từng bước hội nhập tích cực và chủ động kinh tế quốc gia là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ với nền kinh tế thế giới. Nhưng việc "mở cửa", hội nhập phải bảo đảm sự ổn định chính trị, an ninh quốc gia, phải bảo vệ được tài nguyên và môi trường, phải có biện pháp hạn chế những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình "mở cửa", hội nhạp. Ngược lại, sự ổn định về chính trị, kinh tế, pháp luật, tổ chức là điều kiện để "mở cửa", hội nhập. Với tinh thân trên việc "mở cửa", hội nhập phải có định hướng, có kế hoạch cụ thể, bước đi vững chắc và phải được quản lý chặt chẽ. "Mở cửa", hội nhập và quản lý không được hạn chế quá trình "mở cửa", nhưng "mở rộng cửa" và hội nhập kinh tế quốc tế tích cực, chủ động đòi hỏi phải tăng cường có hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà nước, có những biện pháp thích hợp để tạo môi trường thuận lợi cho việc "mở cửa", hội nhập, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực có thể phát sinh. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn quan điểm mở cửa, hệ thống kinh tế mở, phải phê phán sâu sắc các quan niệm sai lầm về mở cửă như: - "Mở toang cửa", "thả cửa", hội nhập vội vàng thiếu cân nhắc kỹ lưỡng các tác động nhiều mặt. - Coi việc "mở cửa", hội nhập là một chính sách nhất thời, một biện pháp tình thế v.v Đồng thời, khắc phục những xu hướng không đúng như: - Xu hướng giản đơn mà biểu hiện là chỉ thấy những mặt tích cực, cơ hội không thấy hoặc không đánh giá đầy đủ những mặt tiêu cực, thách thức của "mở cửa", hội nhập. - Xu hướng tiêu cực đối với chính sách "mở cửa", hội nhập mà biểu hiện là sự do dự, ngập ngừng trong "mở cửa", hội nhập. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 32
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Việc nhận thức đúng đắn quan điểm mở cửa đòi hỏi phải dự kiến, đánh giá đầy đủ, sâu sắc các mặt tích cực và tiêu cực của chính sách "mở cửa", hội nhập chủ động và tích cực, trên cơ sở đó mạnh dạn "mở cửa", hội nhập kinh tế quốc tế tích cực, chủ động nhằm phát triển và mở rộng kinh tế đối ngoại, đồng thời đề cao cảnh giác đối với các âm mưu của các thế lực thù địch, có những biện pháp khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, - kinh tế - văn hoá - xã hội, gìn giữ được những truyền thống tốt đẹp và những giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. 4.4. Phát huy ý chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh cảu dân tộc với sức mạnh của thời đại, triệt để khai thác những lợi thế khu vực và thế giới. Việc phát huy ý chí tự lực tự cường không đồng nghĩa với việc coi nhẹ sức mạnh của thời đại, các yếu tố bên ngoài, bao gồm sự giúp đỡ quốc tế. Ngược lại, trong bối cảnh mới việc khai thác sức mạnh của thời đại, đặc biệt là những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ đang diễn ra trên thế giới, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. chủ yếu là vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thị trường thế giới để khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước là một nhân tố bảo đảm sự thành công của công cuộc xây dựng đất nước với nhịp độ nhanh. Tình hình quốc tế phức tạp đòi hỏi phải có chính sách mềm dẻo, không khéo, được điều chỉnh kịp thời, phù hợp với những biến động của tình hình và phải có cách làm thông minh, sáng tạo, nhằm mở rộng sự hợp tác toàn diện với nước ngoài, với các tổ chức quốc gia và tổ chức quốc tế, chính phủ và phi chính phủ và khai thác có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế. Giải quyết mối quan hệ giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài, các yếu tố trong nước và quốc tế cùng với việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế là vấn đề cốt lõi trong chiến lược và chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta. Vận dụng lý thuật "lợi thế so sánh" vào điêu kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay có thể khẳng định nước ta có những lợi thế quan trọng trong sự trao đổi và sự phân công lao động quốc tế (con người Việt Nam, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý ) TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 33
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Khai thác hiệu quả các lợi thế, kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài là biện pháp cơ bản để đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, vượt qua tình trạng một kém phát triển và phấn đấu về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010. Chìa khoá giải quyết vấn đề là sự kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, là việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ với bên ngoài, là sự phát triển các hoạtd động thương mại, đầu tư, dịch vụ quốc tế, khoa học - công nghệ, phát triển các quan hệ hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế bằng mọi hình thức và từ mọi nguồn. 4.5. Mở rộng diện bạn hàng, đối tượng hợp tác, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, phù hợp với cơ chế thị trường, trên nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. Kinh tế đối ngoại vận động trong một khung cảnh rộng lơnbs là nền kinh tế thế giới, thị trường quốc tế, Đối tượng hợp tác trong mối quan hệ đối ngoại rất đa dạng: - Ở bình diện quốc gia: Chính phủ nước ngoài, các tổ chước quốc gia (chính phủ và phi chính phủ), các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên quốc gia. - Đối với các tổ chức tham gia kinh tế đối ngoại: Các bạn hàng, các đối tượng hợp tác trong kinh doanh, bao gồm tổ chức kinh doanh và tư nhân nước ngoài, kể cả các công ty xuyên quốc gia. Ở bình diện quốc gia, sự phát và mở rộng kinh tế đối ngoại đòi hỏi phải mở rộng đối tượng hợp tác, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, thiết lập các mối quan hệ kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ với nước ngoài, không phân biệt chế độ kinh tế - xã hội. Đối với tổ chức kinh doanh việc mở rộng kinh tế đối ngoại đòi hỏi phải mở rộng diện bạn hàng ở ngoài nước, có chính sách đối với bạn hàng, nhất là các bạn hàng có độ tín nhiệm cao và thực sự muốn làm ăn lâu dài, trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Việc mở rộng diện đối tác ở cấp nhà nước và mở rộng diện bạn hàng đối với các tổ chức kinh doanh có quan hệ mật thiết với nhau. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 34
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Việc mở rộng các mối quan hệ chính trị - ngoại giao sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tiền đề pháp lý cho các tổ chức kinh doanh phát triển bạn hàng mới. Việc mở rộng diện bạn hàng trong kinh doanh đối ngoại góp phần củng cố, phát triển, mở rộng các mối quan hệ chính trị - ngoại giao. Vì vậy, phải có chính sách mở rộng các mối quan hệ cính trị - ngoại giao ở bình diện quốc gia, và chính sách mở rộng diện bạn hàng trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, hình thành chính sách kinh tế đối ngoại đối với các khu vực và các nước chủ yếu mà nước ta có các mối quan hệ kinh tế - thương mại. 4.6. Đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại phù hợp với điều kiện của nền kinh tế và điều kiện quốc tế Đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại là một tiền đề của sự phát triển và việc mở rộng kinh tế đối ngoại. Đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại gắn bó chặt chẽ với đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại và phải phù hợp với các điều kiện của nền kinh tế trong từng giai đoạn phát triển, tuỳ thuộc vào những lợi thế của đát nước trong sự trao đổi và sự phân công lao động quốc tế, vào chính sách đối ngoại và không tách rời những diễn biến trong các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Điều kiện trong nước và điều kiện quốc tế cho phép Việt Nam đa dạng hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại theo các hướng chủ yếu dưới đây: - Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá (xuất khẩu hữu hình), xuất khẩu lao động. - Phát triển các dịch vụ thu ngoại tệ (xuất khẩu vô hình). - Thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, từng bước đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. - Thu hút công nghệ và kinh nghiệm quản lý của thế giới thông qua nhiều hình thức trong đó đặc biệt coi trọng hình thức đầu tư trực tiếp và chuyển giao công nghệ. - Tranh thủ sự viện trợ quốc tế bằng nhiều hình thức và từ nhiều nguồn, kể cả viện trợ phát triển chính thức. Trong điều kiện nói trên việc đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại cần tiến hành toàn diện, nhưng có trọng điểm theo phương châm vừa mở rộng, vừa tập trung sức vào một số hoạt động có điều kiện phát triển nhanh và có hiệu quả. Căn cứ vào các yếu tố trong nước và các yếu tố quốc tế, phát triển lĩnh vực TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 35
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài trực tiếp là những hoạt động kinh tế đối ngoại quan trọng hàng đầu. 4.7. Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế và đời sống xã hội Hiệu quả là mục tiêu đồng thời là thước đo kết quả của hoạt động kinh tế đối ngoại. Ở nước ta, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là điều kiện cơ bản để mở rộng quy mô và tăng nhanh nhịp độ nhập khẩu. Nhưng sự hợp tác sản xuất, việc đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là điều kiện không thể thiếu được để tăng nguồn hàng xuất khẩu và các dịch vụ. Trong điều kiện nói trên cần nâng cao hiệu quả của từng hoạt động kinh tế đối ngoại, đồng thời phải nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại với tính cách là một tổng thể, phát huy sức mạnh tổng hợp của các mối quan hệ kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. 4.8. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các cam kết quốc tế Cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại cần được đổi mới theo các hướng sau: a- Mở rộng quyền giao dịch với thế giới cho các cơ quan và tổ chức trong nước, mở rộng quyền hoạt động kinh doanh đối ngoại cho các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần và cá nhân trong khuôn khổ luật pháp và phù hợp với điều kiện của nền kinh tế. b- Phân biệt chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý kinh doanh trong các hoạt động kinh tế đối ngoại. c- Xoá bỏ các quy định về trợ cấp trái với các nguyên tắc quốc tế và các cam kết trong WTO và với các tổ chức, định chế, liên kết và các đối tác của Việt Nam, thực hiện quản lý kinh tế đối ngoại bằng công cụ quản lý gián tiếp (dự báo, định hướng, chính sách kinh tế, luật pháp). d- Bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, tài chính của các tổ chức kinh doanh đối ngoại, đi đôi với sự tăng cường quản lý thống nhất của nhà nước. e- Nhà nước, mà các cơ quan có chức năng quản lý kinh tế đối ngoại là người đại diện, không can thiệp vào sự hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh doanh và thực hiện các chức năng quản lý chủ yếu là: + Tạo môi trường pháp lý, kinh tế, điều kiện (trong nước và quốc tế) thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh đối ngoại, thông suốt giữa trong nước và TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 36
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện nước ngoài, mở rộng quan hệ đối ngoại làm chỗ dựa cho các tổ chức và cá nhân trong kinh tế đối ngoại, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. + Hoàn thiện các quy định pháp luật để tạo hành lang pháp lý cho những hoạt động kinh tế đối ngoại, trong phạm vi đó các tổ chức kinh tế đối ngoại được quyền hoạt động trên nguyên tắc được làm những gì luật pháp không cấm và những gì không trái với pháp luật. + Hướng dẫn các tổ chức kinh doanh hoạt động theo pháp luật và có hiệu quả cao, thông qua cung cấp thông tin về thị trường thế giới, dự báo sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế, ban hành các chính sách kinh tế, đặc biệt các chính sách tài chính, tín dụng cải thiện hệ thống tài chính, ngân hàng - tiền tệ. Thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế đối ngoại, định ra những chế tài hữu hiệu bảo đảm sự vận hành hữu hiệu của lĩnh vực kinh tế đối ngoại trong điều kiện mới. 5- CÁC NGUỒN LỰC VÀ LỢI THẾ CỦA VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI 5.1. Vị trí của nền kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế thế giới - Quy mô của nền kinh tế Việt Nam còn nhỏ bé cả về chỉ tiêu GDP cũng như kim ngạch xuất nhập khẩu so với nền kinh tế thế giới trong khi đó Việt Nam đứng thứ 12 thế giới về dân số mà tốc độ tăng dân số vẫn ở mức cao bằng 2%/năm. Điều này đặt ra các yêu cầu lớn về giải quyết việc làm cũng như phải tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững. - Cơ cấu kinh tế sẽ còn mang tính chất lạc hậu, trình độ công nghệ thấp, vẫn là một nền kinh tế ở giai đoạn khai thác tài nguyên và khai thức sức lao động, hàm lượng khoa học - công nghệ và hàm lượng vốn trong sản phẩm còn thấp, hệ thống hạ tầng yếu kém. Điều này gây khó khăn cho việc tham gia vào phân công lao động quốc tế và thương mại quốc tế. - Đang thực hiện quá trình đổi mới, đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao trong 10 năm qua cả về GDP cũng như về kim ngạch xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài với quy mô ngày càng lớn. Nhưng để đạt được một cơ sở phát triển lâu dài và bền vững còn phải giải quyết nhiều vấn đề kinh tế và xã hội phức TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 37
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện tạp, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng năng động và có hiệu quả. - Tốc độ tăng trưởng kinh tế đối ngoại từ khi thực hiện chính sách đổi mới khá cao, đã gia nhập được với cộng đồng tài chính quốc tế, mở rộng quan hệ ngoại giao và buôn bán với hàng trăm quốc gia, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và liên kết kinh tế khu vực (ASEAN, WTO ). Việt Nam có khả năng mở rộng quan hệ buôn bán và hợp tác kinh tế với những thị trường kinh tế lớn và những cường quốc kinh tế và công nghệ trên thế giới, đa phương hoá quan hệ thị trường và đối tượng hợp tác, phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại với tốc độ cao. - Tuy nhiên còn có sự chênh lệch đáng kể giữa mặt bằng giá cả trong nước với mặt bằng giá cả quốc tế: giá một số hàng hoá và dịch vụ trong nước cao hơn mức giá quốc tế (giá cước bưu điệnm, giá điện năng, giá thuê đất ) nhưng cũng có khá nhiều hàng hoá và dịch vụ trong nước có mức giá thấp hơn mặt bằng giá quốc tế (giá một số thực phẩm, một số dịch vụ sinh hoạt, một số hàng tiêu dùng ). Điều đó chứng tỏ mức độ mở cửa và hội nhập kinh tế của Việt Nam chưa cao, chưa khai thác triệt để lợi thế và những nguồn lực của nền kinh tế trong nước. - Nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, tư chất con người Việt Nam rất cần cù, sáng tạo, tiếp thu nhanh công nghệ mới, có thể tham gia vào phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, người lao động Việt Nam bị hạn chế về thể lực, về trình độ và ý thức kỷ luật trong lao động, còn thiếu nhiều việc làm, thiếu tác phong công nghiệp và chuyên nghiệp, tâm lý hẹp hòi, tản mạn. - Tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú, bao gồm đất đai, khoáng sản, tài nguyên rừng, tài nguyên biển cho phép phát triển nhiều ngành công nghiệp để tham gia tích cực vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên các nguồn tài nguyên này phân bố rải rác, điều kiện khai thác khó khăn, khối lượng không lớn, tài nguyên rừng và biển bị xói mòn và hiệu quả sử dụng thấp. - Vị trí địa lý của Việt Nam nằn trên các đường hàng không và hàng hải quốc tế quan trọng. Hệ thống cảng biển là cửa ngõ không những cho nền kinh tế Việt Nam mà cả các quốc gia lân cận. Vị trí địa lý thuận lợi của Việt Nam tạo khả năng phát triển các hoạt động trung chuyển, tái xuất khẩu, và chuyển khẩu TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 38
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện hàng hoá qua các khu vực lân cận. Đây chính là nguồn tài nguyên vô hình rất quan trọng. Việc đánh giá các nguồn lực trên phải đứng trên quan điểm toàn diện và thực tiễn. Cụ thể là phải xem xét trên các yếu tố hữu hình và vô hình, đồng thời phải xem xét chúng trong trạng thái vận động, trong mối quan hệ với các quốc gia khác. Tuy nhiên cũng phải đánh giá chúng trên cả các mặt trận thuận lợi và khó khăn của nguồn lực để xác định rõ những điều kiện cần có khi khai thác và sử dụng chúng. Theo cách phân tích đó có thể phát triển các ngành như khai thác dầu khí, chế biến hải sản và các ngành sử dụng nhiều lao động 5.2. Các điều kiện cần thiết để phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế đối ngoại ở Việt Nam Để phát huy lợi thế so sánh nhằm mở rộng lĩnh vực kinh tế đối ngoại ở Việt Nam cần phải đảm bảo những điều kiện cần thiết sau đây: a. Đảm bảo ổn định về chính trị và kinh tếm giữ vững môi trường hoà bình và hữu nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo bầu không khí thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đối ngoại Bảo đảm sự ổn định vĩ mô nền kinh tế trong đó chú ý bảo đảm ổn định giá cả, chế độ tỷ giá hối đoái ổn định và phù hợp; khắc phục sự thâm hụt của cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế nhằm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. b- Hoàn thiện hệ thống luật pháp một cách đồng bộ và nhất quán, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm tạo nên hành lang pháp lý rõ ràng cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. c- Thực hiện cải cách hành chính, kiện toàn bộ máy quản lý theo hướng gọn nhẹ, có hiệu lực; thực hiện nguyên tắc quản lý "một cửa" cho các hoạt động kinh tế đối ngoại, khắc phục sự chồng chéo, phiền hà, đùn đẩy trong thủ tục hành chính gây lãng phí và bỏ lỡ cơ hội. d- Từng bước hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, trước hết là ở những trung tâm và cửa ngõ giao dịch kinh tế với thế giới như hệ thống đường giao thông, cảng biển, sân bay, thông tin liên lạc, điện nước, các dịchvụ cần thiết khác đạt trình độ quốc tế để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 39
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện e- Khẩn trương đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và đặc biệt là cán bộ lĩnh vực kinh tế đối ngoại, có đủ năng lực chuyên môn và bản lĩnh để làm việc với đối tác nước ngoài. Bản lĩnh của các nhà kinh doanh phải được xây dựng trên cơ sở có trình độ chuyên môn vững vàng, mức độ chuyên nghiệp hoá cao, thấm nhuần tinh thần dân tộc, dám chịu trách nhiệm và chấp nhận mạo hiểm trong hoạt động. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1- Trình bày khái niệm, cơ cấu và các giai đoạn phát triển của nền kinh tế thế giới ? 2- Trình bày những xu thế vận động chính của nền kinh tế thế giới và tác động của các xu thế này đến nền kinh tế của các nước cũng như việc hoạch định và điều chỉnh chính sách hội nhập kinh tế quốc tế ? 3- Trình bày nội dung của các vấn đề có tính chất toàn cầu và ý nghĩa của các vấn đề này đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới ? 4- Phân tích nội dung và tính chất của các quan hệ kinh tế quốc tế ? Cơ sở hình thành các quan hệ kinh tế quốc tế và tác động của chúng đến các chính phủ và doanh nghiệp ? 5- Thảo luận về nội dung và phương pháp nghiên cứu môn học kinh tế quốc tế ? 6- Trình bày các quan điểm cơ bản của Đảng và Chính phủ Việt Nam về phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại ? 7- Hãy chỉ ra các nguồn lực và lợi thế phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam và những giải pháp khai thác ? TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 40
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Chương 2 THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1- KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm và nội dung của thương mại quốc tế Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ (hàng hoá hữu hình) giữa các quốc gia, thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới, tuân theo nguyên tắc trao đỏi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Thương mại quốc tế có mầm mống từ hàng ngàn năm nay, nó ra đời sớm nhất và hiện nay vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Thương mại quốc tế thường được nghiên cứu dưới ba góc độ. Góc độ thứ nhất nhìn nhận hoạt động thương mại trên quan điểm toàn cầu, tìm ra những quy luật, xu hướng, vấn đề mang tính chất chung nhất trên thế giới, không phụ thuộc vào lợi ích của từng quốc gia. Góc độ thứ hai đứng trên lợi ích và quan điểm của từng quốc gia để xem xét hoạt động buôn bán chủ yếu của quốc gia đó đối với phần còn lại của thế giới. Góc độ thứ ba gắn với hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty nhằm mục đích thu lợi cao nhất cho công ty. Thương mại quốc tế bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Trên góc độ một quốc gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của thương mại quốc tế bao gồm: - Xuất và nhập khẩu hàng hoá hữu hình (nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, lương thực, thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng ) thông qua xuất - nhập khẩu trực tiếp hoặc xuất - nhập khẩu uỷ thác. - Xuất và nhập khẩu hàng hoá vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng sáng chế, phát minh, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết bị, máy móc, dịch vụ du lịch, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả, độc quyền nhãn hiệu, thương hiệu ) thông qua xuất - nhập khẩu trực tiếp hoặc xuất - nhập khẩu uỷ thác. - Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công. Khi trình độ phát triển còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì cần phải chú trọng các hoạt động gia công thuê cho nước ngoài, nhưng khi trình độ phát triển TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 41
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện ngày càng cao thì nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia công cho mình và cao hơn là phải sản xuất và xuất khẩu trực tiếp (trong ngoại thương gọi là hình thức xuất khẩu FOB). Hoạt động gia công mang tính chất công nghiệp nhưng chu kỳ gia công thường rất ngắn, có đầu vào và đầu ra gắn liền với thị trường nước ngoài, nên nó được gọi là một bộ phận của hoạt động ngoại thương. - Tái xuất khẩu và chuyển khẩu. Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời hàng hoá từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang một nước thứ ba với điều kiện hàng hoá đó không qua gia công, chế biến. Như vậy, ở đây có cả hành động mua và hành động bán nên mức rủi ro có thể lớn và lợi nhuận có thể cao. Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho, lưu bãi, bảo quản Bởi vậy, mức độ rủi ro trong hoạt động chuyển khẩu nói chung là thấp và lợi nhuận cũng không cao. - Xuất khẩu tại chỗ. Trong trường hợp này, hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng có ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt được hiệu quả cao do giảm bớt chi phí bao bì đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh 1.2. Chức năng của thương mại quốc tế Thương mại quốc tế có hai chức năng cơ bản sau đây: Một là, làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước thông qua việc xuất và nhập khẩu nhằm đạt tới cơ cấu có lợi cho nền kinh tế trong nước. Chức năng này thể hiện việc thương mại quốc tế làm lợi cho nền kinh tế quốc dân về mặt giá trị sử dụng. Hai là, thương mại quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế quốc dân, do việc mở rộng trao đổi mà khai thác triệt để lợi thế của nền kinh tế trong nước trên cơ sở phân công lao động quốc tế, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành. Các chức năng của thương mại quốc tế có liên quan chặt chẽ với các nhân tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nó. Căn cứ vào nhân tố này người ta phân biệt thành thương mại bù đắp và thương mại thay thế. Thương mại bù đắp diễn ra do sự khác nhau về các điều kiện tự nhiên và do trình độ phát TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 42
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện triển còn thấp của lực lượng sản xuất. Thương mại thay thế diễn ra trên cơ sở sự phân công lao động quốc tế đã đạt tới trình độ phát triển cao, chuyên môn hoá vào những mặt hàng có ưu thế. Thương mại bù đắp và thương mại thay thế có liên hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau phát triển. 1.3. Đặc điểm của thương mại quốc tế - Thương mại quốc tế những năm gần đây có xu hướng tăng nhanh, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất, điều đó đưa đến tỷ trọng kim ngạch ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc dân của mỗi quốc gia ngày càng lớn, thể hiện mức độ mở cửa gia tăng của nền kinh tế mỗi quốc gia ra thị trường thế giới. - Tốc độ tăng trưởng của thương mại "vô hình" nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của thương mại "hữu hình" thể hiện sự biến đổi sâu sắc trong cơ cấu kinh tế, cơ cấu hàng xuất - nhập khẩu của mỗi quốc gia. Điều này đã kéo theo nhiều quốc gia đang có sự đầu tư phát triển nhiều lĩnh vực dịch vụ. - Cơ cấu mặt hàng trong thương mại quốc tế có những thay đổi sâu sắc với các xu hướng chính sau: + Giảm đáng kể tỷ trọng của nhóm hàng lương thực, thực phẩm và đồ uống. + Giảm mạnh tỷ trọng của nhóm hàng nguyên vật liệu, tăng nhanh tỷ trọng của dầu mỏ và khí đốt. + Giảm tỷ trọng hàng thô, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm công nghiệp chế tạo, nhất là máy móc, thiết bị và những mặt hàng tinh chế. + Giảm tỷ trọng buôn bán những mặt hàng chứa đựng nhiều lao động giản đơn, tăng nhanh những mặt hàng kết tinh lao động thành thạo, lao động phức tạp. - Tỷ trọng buôn bán những mặt hàng chứa đựng hàm lượng vốn lớn, công nghệ cao tăng nhanh. - Sự phát triển của nền thương mại thế giới ngày càng mở rộng phạm vi và phương thức cạnh tranh với nhiều công cụ khác nhau, không những về mặt chất lượng, giá cả mà còn về điều kiện giao hàng, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng và các tiêu chuẩn khác gắn với trách nhiệm xã hội và quyền lợi người tiêu dùng. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 43
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Trình độ phát triển của các quan hệ thị trường càng cao, càng mở rộng phạm vi thị trường sang các lĩnh vực tài chính - tiền tệ và chính công cụ tài chính - tiền tệ này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đi đôi với các quan hệ mậu dịch, sự phân công lao động quốc tế, hợp tác đầu tư, hợp khác khoa học và kỹ thuật, chuyển giao công nghệ ngày càng đa dạng và phong phú, bổ sung cho nhau và thúc đẩy nhau phát triển. - Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng được rút ngắn, việc đổi mới thiết bị, đổi mới công nghệ, đổi mới mẫu mã hàng hoá diễn ra liên tục, đòi hỏi phải năng động, nhạy bén khi gia nhập thị trường thế giới. Các sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao có sức cạnh tranh mạnh mẽ trong khi các sản phẩm, nguyên liệu thô ngày càng mất giá, kém sức cạnh tranh. - Sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc đẩy tự do hoá thương mại, song mặt khác, giữa các liên kết kinh tế quốc tế cũng hình thành các hàng rào mới, yêu cầu bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi hơn. - Vai trò của GATT/WTO ngày càng quan trọng trong điều chỉnh thương mại quốc tế. Có thể coi WTO là một tổ chức quốc tế có uy lực nhất trong điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế. Các thể chế điều chỉnh GATT/WTO ngày càng có hiệu lực đối với nhiều nước, mức độ điều chỉnh và tính chất điều chỉnh cũng ngày càng sâu sắc và hiệu quả hơn. Việc hơn 130 quốc gia thành viên sau vòng đàm phán Uruguay nhất trí thành lập WTO với những nguyên tắc hoạt động mới hơn, thay thế GATT 1947 cũng chứng tỏ vai trò ngày càng tăng của tổ chức này. Chính vì vậy, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào ngày 11/01/2007 vừa qua là một thành công, mở ra giai đoạn phát triển mới trong quan hệ kinh tế quốc tế. 2- MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 2.1. Quan điểm của phái trọng thương về mậu dịch quốc tế a) Đặc điểm kinh tế - xã hội, cơ sở hình thành các quan điểm của phái trọng thương Vào đầu thế kỷ XV, khi Tây Âu vừa thoát khỏi thời kỳ Trung Cổ và phong kiến, xã hội chủ yếu vẫn là nông nghiệp được hình thành, sản xuất tự cung tự cấp là chính, mậu dịch chưa phát triển. TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 44
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Đến cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI mậu dịch đã bắt đầu phát triển do ba nguyên nhân chủ yếu sau: Con người đã sản xuất ra một số sản phẩm cao cấp như: đồng hồ, kính hiển vi, phong vũ biểu giúp người ta quan sát và thực nghiệm được chính xác hơn, nâng tầm hiểu biết của con người giúp họ nhận biết được một cách đầy đủ hơn về thế giới vật chất xung quanh. Con người đã khám phá ra những vùng đất mới, tạo điều kiện mở rộng giao lưu giữa các khu vực (tìm ra Tân thế giới, từ đó mở rộng giao thương với các nước phương Đông, Tây Ban Nha, chinh phục được Mexico, từ đó mở rộng giao thương với Mỹ; cuộc du hành của Vasco da Gama đến Ấn Độ đã tạo cơ hội cho Bồ Đào Nha có thể giao thương với Ấn Độ và các nước Nam Á bằng đường biển .v.v ). Sự gia tăng dân số tạo nên thị trường lao động, thị trường tiêu thụ, làm tăng doanh lợi của các nhà sản xuất và thương gia. Ngoài ra, phải kể đến các nguyên nhân khác như: vai trò của các thương gia được nâng cao, sự hình thành ngày càng nhiều các quốc gia độc lập cả về chính trị, vàng bạc từ Tân thế giới đổ về tất cả đã làm cho mối quan hệ thương mại của các quốc gia tăng lên. Trong bối cảnh như vậy một nhóm người (bao gồm các thương gia, nhân viên ngân hàng, nhân viên chính phủ và cả một số nhà triết học thời đó) đã viết những bài tiểu luận và những cuốn sách nhỏ về mậu dịch quốc tế. Những tác phẩm đó đã biện hộ cho một trường phái kinh tế triết học được gọi là chủ nghĩa trọng thương. b) Các quan điểm của phái trọng thương Coi trọng xuất - nhập khẩu, phái này cho rằng đó là con đường mang lại sự phồn vinh cho đất nước - Một quốc gia giàu có phải có nhiều tiền, muốn có nhiều tiền phải phát triển thương nghiệp. Phát triển thương nghiệp nếu chỉ chú ý đến nội thương thì quốc gia không mạnh. Quốc gia mạnh phải phát triển ngoại thương, nhưng trong ngoại thương đất nước luôn luôn nhập siêu là đất nước yếu. Do vậy, muốn trở thành quốc gia mạnh thì phải thực hiện xuất siêu: "Một quốc gia chỉ có thể thủ lợi do ngoại thương nếu xuất khẩu vượt nhập khẩu". TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 45
- GIÁO ÁN KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Ngọc Thiện Chủ trương "Một cán cân thương mại thặng dư" của phái trọng thương đã dẫn đến: - Chỉ chú ý đến xuất khẩu, tìm mọi cách để tăng được xuất khẩu cả về số lượng và giá trị. Còn nhập khẩu thì rất hạn chế, đặc biệt là các sản phẩm đã hoàn chế và hàng hoá xa xỉ phẩm. Một học giả người Áo là Von - Hornick (1638 - 1712) đã nói "Thà phải trả giá 2 mỹ kim để mua một món hàng mà tiền đó vẫn còn trong nước còn hơn là chỉ trả có 1 mỹ kim nhưng lại mất vào tay ngoại quốc". Từ đó dẫn đến một phương châm hay một chính sách có thể gói gọn trong nguyên tắc: "Để ngoại quốc trả cho mình càng nhiều càng tốt, mình trả cho ngoại quốc càng ít càng hay". - Thực hiện độc quyền mậu dịch, tức là loại ngoại quốc ra khỏi một số vùng mậu dịch nào đó. Chẳng hạn: Bồ Đào Nha nắm quyền mậu dịch đối với vùng Đông Ấn; Tây Ban Nha cũng cố gắng nắm độc quyền buôn bán đối với thuộc địa của mình Cán cân thương mại được cải thiện bằng cách mỗi quốc gia mua ở những nơi thuộc quyền kiểm soát của họ với giá rẻ và bán đắt ở những nơi nào cần thiết. - Vàng bạc (quý kim) được coi trọng quá mức. Các nhà trọng thương "Thà quốc gia có nhiều vàng bạc hơn là nhiều thương gia và hàng hoá" hay "chúng ta sống nhờ vàng bạc hơn là nhờ buôn bán nguyên liệu" (hai học giả trọng thương Clement Amstrong - người Anh và Monchreitien - người Pháp ở thế kỷ XVI và XVII đã nói như vậy). Họ cho rằng quốc gia nào có mỏ vàng, mỏ bạc là số 1, nếu không, phải buôn bán với nước ngoài để đổi lấy quý kim. Sở dĩ vàng bạc thời đó được quá coi trọng vì: + Hiểu sai về khái niệm "tài sản quốc gia". Ngày nay, chúng ta cho rằng vàng bạc chỉ là một phần nhỏ của tài sản trong nước. Điều quan trọng hơn là liệu chúng ta có đủ hàng hoá để thoả mãn nhu cầu con người hay không và nhất là chúng ta có đủ tài nguyên sản xuất để luôn luôn có được số hàng hoá ấy. Nhưng vào thời đó, người ta lại chỉ coi tiền là tài sản quốc gia mà tiền ở đây chính là vàng bạc - đá quý, còn tiền giấy chưa dược sử dụng nhiều. + Vàng bạc là những quý kim bền nên có thể làm phương tiện tích trữ hay bảo tồn giá trị được. Các nhà trọng thương đặc biệt đề cao tiết kiệm, coi đó như là một cách tích luỹ tài sản. Với một tư duy thương mại như vậy, các chính sách TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NAM ĐỊNH 46