Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

doc 219 trang vanle 2260
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docde_tai_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_o_vung_kinh_te_trong_diem.doc

Nội dung text: Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

  1. LỜI CAM ĐOAN Đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tác giả. Các số liệu, trích dẫn sử dụng trong luận án có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, độ tin cậy cao. Kết quả nghiên cứu không trùng lắp với các công trình khoa học đã công bố. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Phạm Duyên Minh
  2. MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANG MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU 5 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ ĐẦU 36 TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1. Những vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài 36 1.2. Kinh nghiệm về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số quốc gia trên thế giới và bài học đối với vùng 61 kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Chương 2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ GIAI ĐOẠN 81 2003 - 2013 2.1. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Sơ lược quá trình hình thành, phát triển; tiềm năng, thế mạnh và những 81 khó khăn, thách thức đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.2. Kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế 90 trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2003 - 2013 2.3. Thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với đầu tư 103 trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Chương 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM 136 BẮC BỘ THỜI GIAN TỚI 3.1. Quan điểm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở 136 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 3.2. Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 149 KẾT LUẬN 179 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 181 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 182 PHỤ LỤC 197
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Số TT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 01 Chủ nghĩa tư bản CNTB 02 Chủ nghĩa xã hội CNXH 03 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH, HĐH 04 Công ty đa quốc gia MNC 05 Công ty xuyên quốc gia TNC 06 Đầu tư nước ngoài ĐTNN 07 Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI 08 Khoa học - công nghệ KH - CN 09 Khu công nghiệp KCN 10 Kinh tế trọng điểm KTTĐ 11 Tổ chức Thương mại thế giới WTO 12 Tổng sản phẩm quốc nội GDP 13 Tư bản chủ nghĩa TBCN 14 Trách nhiệm hữu hạn TNHH 15 Uỷ ban nhân dân UBND 16 Xã hội chủ nghĩa XHCN 17 Xuất khẩu tư bản XKTB
  4. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 1 Số dự án FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ so sánh với 90 vùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ phía Nam (2003 - 7/2012) Bảng 2 Vốn FDI đăng ký ở vùng KTTĐ Bắc Bộ so sánh 91 với vùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ phía Nam (2003 - 7/2012) Bảng 3 Quy mô dự án FDI của vùng KTTĐ Bắc Bộ so 92 sánh với vùng KTTĐ miền Trung và vùng KTTĐ phía Nam giai đoạn 2003 - 7/2012 Bảng 4 Các doanh nghiệp FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ nằm 93 trong tốp 100 doanh nghiệp FDI có vốn đăng ký lớn nhất cả nước Bảng 5 Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo ngành kinh tế 95 Bảng 6 Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức doanh 97 nghiệp ở vùng KTTĐ Bắc Bộ (2003 - 7/2012) Bảng 7 Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng KTTĐ Bắc Bộ 98 phân theo quốc tịch (tính đến tháng 7 năm 2012) Bảng 8 Đầu tư trực tiếp nước ngoài phân theo địa phương 102 vùng KTTĐ Bắc Bộ (2003- 7/2012) Bảng 9 Vốn FDI và tổng vốn đầu tư vùng KTTĐ Bắc Bộ 104 (2003 - 2010) Bảng 10 Thu ngân sách từ khu vực FDI và tổng thu ngân 108 sách vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 - 2010 Bảng 11 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các địa phương 130 vùng KTTĐ Bắc Bộ (Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/3/2013) Bảng 12 Tổng vốn đầu tư dự báo của vùng KTTĐ Bắc Bộ 131 thời kỳ 2014-2015 Bảng 13 Tổng vốn đầu tư dự báo của vùng KTTĐ Bắc Bộ 132 thời kỳ 2016-2020
  5. 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập, chứa đựng niềm mong mỏi được tìm hiểu, khám phá của tác giả trong quá trình học tập, công tác và giảng dạy những năm qua, hoàn thành dưới sự giúp đỡ trực tiếp của tập thể cán bộ hướng dẫn cùng sự tư vấn của một số nhà khoa học kinh tế trong và ngoài quân đội. Để thực hiện đề tài này, tác giả đã bám sát cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ kinh tế quốc tế, thu hút đầu tư; dựa trên kết quả khảo sát thực tiễn về FDI của các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ; đồng thời có sự kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học trong nước và nước ngoài có liên quan. Nội dung chính của luận án thể hiện qua 3 chương. Chương 1 trình bày cơ sở lý luận và kinh nghiệm về FDI. Trên cơ sở những vấn đề lý luận, kinh nghiệm đã chỉ ra trong chương 1, ở chương 2 tác giả khái quát quá trình hình thành, phát triển cùng những tiềm năng, thế mạnh và khó khăn, thách thức của vùng KTTĐ Bắc Bộ đối với hoạt động FDI; đồng thời khảo sát thực trạng FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 - 2013, chỉ rõ những vấn đề nổi lên cần quan tâm giải quyết trong thời gian tới. Từ kết quả nghiên cứu trong chương 1, chương 2, tác giả đã đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thu hút FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ thời gian tới (được trình bày trong chương 3). Hệ thống giải pháp được đề xuất trong đề tài đi từ thống nhất nhận thức, đổi mới tư duy; xây dựng, hoàn thiện quy hoạch tổng thể các dự án có vốn ĐTNN; nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp hỗ trợ; đào tạo nguồn nhân lực; đến nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về FDI.
  6. 6 2. Lý do lựa chọn đề tài luận án Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, dưới tác động của cách mạng KH-CN hiện đại, sự di chuyển các nguồn lực thông qua hoạt động đầu tư là một tất yếu và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia dân tộc, nhất là các nước đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, quốc gia, vùng lãnh thổ nào thu hút được nhiều nguồn vốn quốc tế và sử dụng nó hiệu quả, thì có nhiều cơ hội tăng trưởng kinh tế, qua đó khắc phục nhanh hơn tình trạng tụt hậu về kinh tế so với các nước tiên tiến. Ở nước ta, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo (1986), nhất là từ khi Luật ĐTNN chính thức có hiệu lực (1988), ĐTNN nói chung, FDI nói riêng ngày càng trở nên phổ biến và thực sự trở thành động lực quan trọng trong tiến trình CNH, HĐH đất nước. Trải qua quá trình vận động và phát triển, FDI đã dần khẳng định vị thế, vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể hiện ở những đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP, cho đầu tư phát triển xã hội, làm tăng kim ngạch xuất khẩu và tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Vị thế, vai trò ngày càng tăng của hoạt động này còn thể hiện ở sự lan toả, phát triển của FDI ở hầu hết các tỉnh, thành phố, các ngành và lĩnh vực, các vùng KTTĐ trên phạm vi cả nước, trong đó có vùng KTTĐ Bắc Bộ. Được tạo lập từ 7 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội (hạt nhân của vùng), Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, với lợi thế nhất định, những năm qua, FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng các dự án. Qua đó, bổ sung một lượng vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong vùng, tạo thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh; đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
  7. 7 hiện đại; làm cho vùng KTTĐ Bắc Bộ ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới Tuy nhiên, FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ những năm qua còn có những hạn chế, bất cập, chưa thực sự tương xứng với vị thế, tiềm năng của vùng và sự đầu tư từ Trung ương: nguồn vốn FDI có sự không ổn định, tốc độ tăng trưởng có biểu hiện chậm lại trong những năm gần đây, quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu; cơ cấu vốn đầu tư còn nhiều bất hợp lý; chất lượng các dự án FDI chưa cao, thể hiện ở công nghệ sản xuất trong các doanh nghiệp FDI còn thấp so với các nước trong khu vực; đặc biệt đã có những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp hình thành từ nguồn vốn FDI Phân tích trên cho thấy, việc tìm hiểu, đánh giá toàn diện cả lý luận và thực tiễn về FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm thu hút dòng vốn FDI ở vùng kinh tế này là vấn đề mang tính cấp thiết. Vì vậy, đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” được tác giả lựa chọn để nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu: Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ; đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm thu hút FDI vào vùng KTTĐ Bắc Bộ thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ cơ sở lý luận, khảo sát kinh nghiệm về FDI. - Tập trung phân tích, đánh giá thực trạng FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ từ năm 2003 đến năm 2013. - Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thu hút FDI, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở vùng KTTĐ Bắc Bộ thời gian tới.
  8. 8 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu: - Về nội dung: + Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm đầu tư ra nước ngoài và tiếp nhận đầu tư của nước ngoài. Luận án chỉ nghiên cứu việc tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài vào vùng KTTĐ Bắc Bộ mà không nghiên cứu FDI theo chiều ngược lại, tức là các địa phương ở vùng KTTĐ Bắc Bộ đầu tư ra nước ngoài. + Đầu tư trực tiếp nước ngoài tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Song, hình thức tồn tại chủ yếu của FDI ở Việt Nam nói chung, vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Bởi thế, luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu, đánh giá đối với hai hình thức FDI nói trên ở vùng KTTĐ Bắc Bộ. + Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận án không quá chú trọng nghiên cứu, đề xuất các giải pháp mang tính kỹ thuật, mà chủ yếu là các giải pháp mang tính phương pháp luận, có ý nghĩa định hướng nhằm thu hút FDI vào vùng KTTĐ Bắc Bộ thời gian tới. - Về không gian: Luận án nghiên cứu về FDI trong một không gian kinh tế được giới hạn bởi 7 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Bắc Ninh, thủ đô Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc trong mối quan hệ hữu cơ với toàn bộ không gian kinh tế Việt Nam. - Về thời gian: + Luận án tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ từ năm 2003 đến hết năm 2013. Tuy nhiên, ở một số nội dung, các số liệu được sử dụng để minh chứng có thể có trước năm 2003, đồng thời cũng có số liệu không được cập nhật đến năm 2013.
  9. 9 + Các quan điểm, giải pháp thu hút FDI được đề xuất trong luận án tập trung chủ yếu đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, trong thu hút FDI, trong phát triển các vùng kinh tế và vùng KTTĐ, cùng các lý luận liên quan khác để tiếp cận đối tượng, luận giải các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. * Nguồn số liệu thực tiễn: Tác giả sử dụng số liệu báo cáo từ các cơ quan có liên quan của Đảng và Nhà nước như: - Ban chấp hành Trung ương. - Cục Đầu tư nước ngoài, Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. - Ban Điều phối phát triển vùng KTTĐ. - Tổng cục Thống kê, cục thống kê các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ở vùng KTTĐ Bắc Bộ. - Số liệu báo cáo của các cơ quan quản lý nhà nước về ĐTNN của các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ. - Kết quả đã công bố trong các hội nghị, hội thảo, các cuộc điều tra, đề tài nghiên cứu khoa học do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện trong thời gian gần đây. - Các thông tin, số liệu thu thập được thông qua việc khảo sát thực tế của cá nhân tại các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ. * Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu, bao gồm: - Hệ phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử.
  10. 10 - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: trừu tượng hóa khoa học, phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa, xin ý kiến chuyên gia 6. Những đóng góp mới của luận án - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về FDI, vùng KTTĐ. - Đánh giá đúng thực trạng FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ thời gian qua, chỉ rõ những vấn đề nổi cộm cần tập trung giải quyết. - Đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm thu hút FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ thời gian tới. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án * Ý nghĩa lý luận của luận án: Làm rõ và cụ thể hơn lý luận về FDI cho vùng KTTĐ Bắc Bộ, Việt Nam. * Ý nghĩa thực tiễn của luận án: - Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp luận cứ khoa học, làm cở sở cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách đưa ra những quyết sách đúng đắn trong thu hút FDI phát triển kinh tế - xã hội các vùng KTTĐ trên cả nước nói chung, vùng KTTĐ Bắc Bộ nói riêng. - Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị ở các học viện, nhà trường quân đội. 8. Kết cấu của luận án Đề tài có kết cấu gồm: Phần mở đầu; tổng quan vấn đề nghiên cứu; 3 chương (7 tiết); kết luận; danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến đề tài; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  11. 11 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, bởi vậy nó đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học dưới những góc độ, khía cạnh khác nhau. Một số tác giả đi sâu nghiên cứu về vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Một số khác lại tìm cách đưa ra những giải pháp và khuyến nghị trong thu hút FDI. Cũng có những tác giả đi sâu nghiên cứu về khu vực kinh tế được hình thành từ dòng vốn FDI Nhiều sản phẩm của các quá trình nghiên cứu nói trên đã được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc in thành sách với những góc nhìn, cách thức tiếp cận vấn đề khác nhau. 1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài Công trình nghiên cứu: Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc, thách thức và triển vọng cho phát triển khu vực [127], của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), xuất bản tại Pháp, năm 2003, trong đó tập trung một số bài thuyết trình của các chuyên gia kinh tế, với nội dung chủ yếu là khái quát tình hình thu hút FDI vào Trung Quốc ở một số ngành và vùng, kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước như Canada, Brazil và công tác xúc tiến ĐTNN ở Trung quốc. Một số bài viết trong công trình này đã phân tích tình hình thu hút FDI của Trung Quốc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhưng chỉ đề cập một cách sơ lược và các số liệu nghiên cứu chủ yếu từ năm 2000 trở về trước. Báo cáo đầu tư thế giới năm 1996 (World Investment Report - United Nation - 1996) [159], của Ủy ban Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc, đã đưa ra định nghĩa về FDI, nêu một số khái niệm có liên quan đến FDI như: dòng vốn FDI ra, dòng vốn FDI vào, vốn đầu tư cổ phần, lợi nhuận tái đầu tư, các giao dịch vay và nợ bên trong công ty, vốn cổ phần FDI
  12. 12 Tham luận khoa học: Thách thức và kiến nghị cho Việt Nam trong việc thu hút FDI trong thời gian tới [16, tr.174-188], của đại diện Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam - EuroCham, trình bày trong Hội nghị 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, đã nêu lên một thực tế là các doanh nghiệp châu Âu mặc dù vẫn hy vọng vào sự phát triển trong dài hạn của Việt Nam, thì lòng tin của họ đã có chiều hướng suy giảm từ đầu năm 2011. EuroCham tin rằng, sự suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư đến từ châu Âu có nguyên nhân từ những khó khăn về kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, các gánh nặng vể thủ tục hành chính vẫn tiếp diễn cùng một loạt vấn đề mới liên quan đến “tiếp cận thị trường” gây ảnh hưởng đáng kể đến việc nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam Tựu chung lại, EuroCham nhấn mạnh rằng, việc tiến hành cải cách ngay lập tức trong lĩnh vực kinh tế, tài chính và giáo dục, tập trung giải quyết nạn quan liêu, tham nhũng, giảm và đơn giản các gánh nặng hành chính tại tất cả các cấp, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được tuyển dụng người Việt Nam và người nước ngoài theo mong muốn của họ là rất cần thiết nếu Việt Nam muốn hướng đến một mô hình phát triển bền vững và tạo sức hút với các nhà ĐTNN. Báo cáo của Hiệp hội Doanh nghiệp Úc tại Việt Nam (AusCham Vietnam) về phối hợp điều tra và đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp từ nước ngoài của Việt Nam trong 25 năm qua [16, tr.189-191] đã đưa ra những đánh giá khái quát về tình hình FDI tại Việt Nam trong 25 năm qua, khẳng định vai trò của FDI thông qua việc cung cấp lao động nước ngoài có kỹ năng, công nghệ, quản lý và tài chính; cải thiện và nâng cấp các kỹ năng của lao động địa phương, nâng cao đời sống của người lao động qua mức lương trung bình cao hơn các doanh nghiệp trong nước; tạo cơ hội cho sinh viên Việt Nam tiếp cận với giáo dục quốc tế, nâng cao khả năng để làm việc hiệu quả trong công việc sau này. Báo cáo này cũng nêu lên
  13. 13 những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong việc thu hút FDI thời gian tiếp theo như: những lo ngại về việc kinh doanh và môi trường đầu tư ở Việt Nam; các vấn đề về cơ sở hạ tầng tụt hậu; cải cách hành chính cũng có vẻ chậm chạp và đặc biệt có rất nhiều vấn đề xung quanh sự thiếu minh bạch, quan liêu, tham nhũng; quá trình đăng ký giấy phép kinh doanh mất khá nhiều thời gian Báo cáo cũng đề xuất các giải pháp cả trong ngắn hạn và dài hạn, đó là cải thiện điều kiện FDI và thương mại tại Việt Nam; khẩn cấp chỉ ra các vấn đề hành chính mà các doanh nghiệp liên tục phải đối mặt; giải quyết vấn đề tham nhũng và thiếu minh bạch ở tất cả các cấp, đảm bảo lòng tin của các nhà đầu tư. AusCham khuyến cáo, về lâu dài, Việt Nam cần có khung pháp lý, cơ quan chính phủ minh bạch và hiệu quả; cải thiện cơ sở hạ tầng; xây dựng năng lực của lực lượng lao động Công trình nghiên cứu có tên gọi: Môi trường đầu tư tại Việt Nam [16, tr.192-197], của Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản - JETRO (Japan External Trade Organization), đã khẳng định những đóng góp của FDI đối với kinh tế - xã hội Việt Nam; đánh giá tình hình FDI ở Việt Nam, bao gồm FDI từ Nhật Bản và FDI từ các quốc gia khác trên thế giới dịch chuyển vào Việt Nam. Công trình đã chỉ ra ba vấn đề mà doanh nghiệp Nhật Bản quan tâm nhiều hiện này liên quan đến tiền lương và giữ nhân tài; xây dựng cơ sở hạ tầng; công nghiệp phụ trợ. Công trình cũng đưa ra những đề xuất về chính sách, giải pháp như học tập cơ chế thu hút ĐTNN của các nước phát triển trong khối ASEAN và biến thành hành động; khích lệ việc mời gọi các doanh nghiệp, ổn định nhân công, trang bị đầy đủ cơ sở hạ tầng như cung cấp đủ điện, vận chuyển hàng hoá, phát triển công nghiêp Một công trình khác cũng có tên gọi Môi trường đầu tư tại Việt Nam [16, tr.198-204], của tác giả Mark Gillin, Phó chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham) đã khẳng định niềm tin vào tiềm năng lớn mạnh và môi trường đầu tư tốt ở Việt Nam, song cũng quan ngại rằng Việt
  14. 14 Nam có thể sẽ bị kẹt trong “bẫy thu nhập trung bình”, và không thể thành công trong quá trình chuyển đổi từ một quốc gia có kỹ năng yếu, giá trị thặng dư thấp, mức lương sản xuất thấp, sang một đất nước có kỹ năng cao hơn, giá trị thặng dư cao hơn, thu nhập sản xuất và dịch vụ cao hơn. Tác giả cũng chỉ rõ, Việt Nam cần thực hiện quá trình cải cách thật sự trên các lĩnh vực như sửa đổi Luật Lao động - quan hệ công nghiệp, tăng sức cạnh tranh của thị trường lao động, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Cuối cùng, tác giả khẳng định, để có thể duy trì tham vọng là quốc gia có thu nhập cao trong thập niên mới, Việt Nam cần có chính sách cải cách táo bạo như đã thực hiện trong thời kỳ đổi mới. Bài báo khoa học “The Relationship between Direct Foreign Investment and China’s Provincial Export Trade” [161] đăng trên China Economic Review, số 12 (2001) của Zhang và Felmingham đã khẳng định rằng có một sự liên quan, một mối liên hệ hai chiều giữa FDI và xuất khẩu của Trung Quốc ở cả cấp độ địa phương và cấp độ quốc gia. Ở cấp độ quốc gia, chuỗi số liệu hàng tháng giai đoạn 1986 - 1999 cho thấy tồn tại mối tương tác hai chiều giữa sự gia tăng của dòng vốn FDI với sự tăng lên của xuất khẩu. Điều đó có nghĩa rằng FDI là một nhân tố thúc đẩy xuất khẩu của Trung quốc, đồng thời tăng xuất khẩu cũng khiến cho Trung quốc thu hút được nhiều vốn FDI hơn. Một bài báo khoa học khác có tên gọi “Foreign Direct Investment and Relative Wages: The Case of China” [162] cũng đăng trên China Economic Review, số 12 (2001) của Zhao đã đưa ra giả thuyết rằng, trong một nền kinh tế đặc trưng bởi phân khúc thị trường lao động và chi phí thay đổi việc làm cao thì FDI có thể làm tăng giá cả của lao động có tay nghề cao. Dựa vào số liệu trong một cuộc khảo sát hộ gia đình đô thị ở Trung Quốc vào năm 1996, Zhao ước lượng tiền lương tương đối của công nhân lành nghề trong khu vực kinh tế có vốn ĐTNN và khu vực kinh tế nhà
  15. 15 nước tại quốc gia này và chỉ ra rằng, những người có trình độ tay nghề thấp làm việc cho các công ty có vốn ĐTNN có thu nhập thấp hơn so với làm việc cho các doanh nghiệp nhà nước. 2. Các công trình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài 2.1. Dưới dạng sách tham khảo và chuyên khảo Cuốn sách Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [45] của một nhóm tác giả do tác giả Nguyễn Bích Đạt chủ biên. Đây là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước KX.01 Kinh tế thị trường định hướng xã hôị chủ nghĩa. Ở cuốn sách này, sau khi trình bày những vấn đề chung về khu vực kinh tế hình thành từ nguồn vốn FDI, nhóm tác giả đã khái quát những kinh nghiệm phổ biến về thu hút ĐTNN, trong đó nhấn mạnh đến việc xây dựng chiến lược thu thút ĐTNN theo từng giai đoan lịch sử, phù hợp với tiến trình CNH, HĐH cũng như trình độ, kỹ năng của người lao động, đồng thời có chính sách khuyến khích để thu hút ĐTNN di chuyển từ ngành, vùng thuận lợi sang các ngành, vùng khó khăn và phải tạo lập cho được một môi trường đầu tư thuận lợi, có tính cạnh tranh cao. Nhóm tác giả cũng đã phân tích thực trạng ĐTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, từ đó đưa ra những quan điểm cơ bản về ĐTNN trong bối cảnh phát triển mới và các định hướng, giải pháp nhằm nâng cao vị thế, vai trò của ĐTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Ngoài ra, phần phụ lục của cuốn sánh cung cấp cho người đọc những số liệu về tình hình ĐTNN tại Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam [140] của tác giả Nguyễn Văn Tuấn là một đề tài nghiên cứu có phạm vi rộng về lịch sử hình thành, phát triển và đặc điểm của FDI ở Việt Nam; đánh giá tác động của FDI đối với phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua; đề xuất một số
  16. 16 giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong cuốn sách này, tác giả đã nêu một số quan niệm khác nhau về FDI, từ đó đưa ra quan niệm của mình về vấn đề này. Theo đó “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát các doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi” [140, tr.30]. Cũng theo tác giả, FDI ở Việt Nam có quá trình phát triển lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn và việc nghiên cứu FDI ở Việt Nam chỉ có thể bắt đầu tư khi Việt Nam trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, tự quyết mọi chính sách về FDI. Tác giả cũng đã khẳng định vai trò to lớn của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời cho thấy những tác động không mong muốn của nó trong chuyển giao công nghệ, làm ô nhiễm môi trường, làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp, tạo áp lực lớn trong cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước, tình trạng chuyển giá Mặc dù lưu lượng không lớn, song trong cuốn sách này, tác giả cũng đã nêu một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập ngày càng trở nên mạnh mẽ. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Chính sách và thực tiễn [88] là công trình khoa học do tác giả Phùng Xuân Nhạ chủ biên. Cuốn sách được biên soạn trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Nội dung cơ bản mà cuốn sách này đề cập là cơ sở lý luận và thực tiễn của lựa chọn các hình thức FDI ở Việt Nam, bao gồm việc nêu các hình thức FDI ở một số quốc gia đang phát triển là Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Philippines, từ đó khái quát những bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể vận dụng; các hình thức FDI theo luật đầu tư ở Việt Nam; thực trạng các hình thức ĐTNN ở Việt Nam và các đề xuất, khuyến nghị chính sách đối với từng hình thức FDI ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
  17. 17 Điều đặc biệt trong cuốn sách này thể hiện ở việc tác giả đã luận giải khá tường tận về từng hình thức FDI theo Luật Đầu tư ở Việt Nam, bao hàm sự khái quát quá trình hình thành và phát triển, phân tích những đặc điểm pháp lý và kinh doanh của từng hình thức; từ đó có những khuyến nghị về mặt chính sách đối với mỗi hình thức cho phù hợp. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp [142] của tác giả Trần Xuân Tùng đã đi sâu lý giải vị trí, vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; đánh giá thực trạng thu hút FDI ở nước ta những năm qua; đồng thời khuyến nghị một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Về chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam [17] là cuốn sách do tác giả Trần Thị Minh Châu chủ biên. Việc xuất bản cuốn sách này đã giúp cho độc giả và những ai quan tâm có được cái nhìn tổng thể về chính sách khuyến khích đầu tư (trong đó có ĐTNN) của Việt Nam, trên có sở đó cùng suy ngẫm, kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách quan trọng này trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cuốn sách tập trung trình bày ba nội dung cơ bản là: 1) Làm rõ cơ sở lý luận của chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; 2) Phân tích đánh giá thực trạng chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước ta, đặc biệt đã xác định rõ những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI qua các thời kỳ (1992-1995, 1996-1999, 2000-2005) theo từng lĩnh vực chính sách, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân trong chính sách thu hút ĐTNN của Việt Nam; 3) Đề xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư của nước ta trong thời gian tới, tập trung vào các nhóm giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, nâng cao chất lượng quy hoạch, đẩy mạnh cải cách hành chính tạo môi trường thông thoáng cho đầu tư, đổi mới chính sách ưu đãi đầu tư, đổi mới chính sách đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội và tăng cường
  18. 18 quảng bá hình ảnh một Việt Nam đổi mới, một “môi trường đầu tư an toàn” cho các nhà ĐTNN. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay [70] là cuốn sách được biên soạn bởi tập thể các nhà khoa học thuộc Viện Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), do Trần Quang Lâm và An Như Hải đồng chủ biên. Cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến khu vực kinh tế hình thành từ nguồn vốn FDI ở Việt Nam, khẳng định vai trò không thể phủ nhận của khu vực kinh tế này trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, thể hiện trên các giác độ: góp phần hoàn thiện thể chế thị trường, hình thành đồng bộ các loại thị trường; góp phần chuyển giao công nghệ, thúc đẩy hợp tác, phân công lao động quốc tế; góp phần khai thác, sử dụng nguồn nhân lực cũng như thúc đẩy CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Trên cơ sở khảo sát, phân tích các số liệu ở nhiều góc độ, cuốn sách cũng tập trung làm rõ nguồn gốc ra đời, hình thức, đặc trưng, thực trạng, xu thế và triển vọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ở Việt Nam. Đồng thời, thông qua kinh nghiệm của một số nước ở châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, cuốn sách đã nêu ra một số giải pháp nhằm phát triển, mở rộng và sử dụng khu vực kinh tế có vốn ĐTNN để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ ở Việt Nam [85] là cuốn sách chuyên khảo của tác giả Đặng Hoàng Thanh Nga. Sự ra đời của cuốn sách này bắt nguồn từ vai trò ngày càng tăng của các công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới, đặc biệt là quá trình CNH, HĐH của các nước đang phát triển và thực trạng thu hút FDI của cỏc công ty xuyên quốc gia Hoa Kỳ tại Việt Nam thời gian qua. Có thể nói, các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ với tiềm lực kinh tế mạnh do những
  19. 19 ưu thế về vốn, KH - CN và thị trường mang lại là những đối tác đầu tư lớn đó có nhiều dự án thành công tại các quốc gia như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, song lại xuất hiện rất ít ở Việt Nam. Phần lớn các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ hoạt động ở Việt Nam vẫn mang tính cầm chừng và dường như còn chờ đợi vào một sự thay đổi nào đó về môi trường đầu tư cũng như sức mua của thị trường. Hiện trạng này đặt ra nhiều câu hỏi như: Tình trạng thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ ở Việt Nam như thế nào? Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả? Để thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ cần phải có những giải pháp như thế nào? Những câu hỏi đó đã được làm sáng tỏ trong cuốn sách này. Điều quan trọng là cuốn sách này đã cung cấp một số cách tiếp cận khác nhau xung quanh khái niệm FDI, đặc điểm FDI, từ đó giúp nghiên cứu sinh kế thừa khi đưa ra quan niệm của mình về FDI. Cuốn sách Chính sách phát triển bền vững các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam [83], do Nguyễn Văn Nam và Ngô Thắng Lợi đồng chủ biên đã phân tích cơ sở lý thuyết vùng KTTĐ; vai trò của vùng KTTĐ trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam; nội dung và các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững các vùng KTTĐ. Cùng với đó, cuốn sách đã giới thiệu kinh nghiệm quốc tế về sự hình thành các vùng KTTĐ, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, chủ yếu là kinh nghiệm về vai trò của chính phủ và việc sử dụng cơ chế, chính sách có liên quan đến vấn đề tổ chức hoạt động của các vùng KTTĐ. Cuốn sách còn hệ thống hoá các cơ chế chính sách về vùng KTTĐ, phân tích tác động của chính sách đến một số chỉ tiêu phát triển bền vững của các vùng KTTĐ, làm rõ tính lan toả của vùng KTTĐ đến phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia; đề xuất nội dung đổi mới hoàn thiện cơ chế chính sách cho vùng KTTĐ, đồng thời đưa ra các khuyến nghị cần thiết để tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách phát triển bền vững vùng KTTĐ.
  20. 20 2.2. Dưới dạng luận án 2.2.1. Luận án về đầu tư trực tiếp nước ngoài Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Anh Phương, có tựa đề: Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của các nước trong nhóm G7 vào Việt Nam [94]. Luận án đã tập trung phân tích một cách có hệ thống cơ sở lý luận và mục đích của việc thu hút FDI từ 7 nước công nghiệp phát triển vào Việt Nam; đánh giá thực trạng thu hút FDI từ các quốc gia này vào nước ta từ năm 1997 đến cuối năm 2002; từ đó đề xuất hệ thống giải pháp tăng cường thu hút FDI của nhóm G7 nhằm tiếp cận công nghệ sản xuất, phương pháp quản lý hiện đại, đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH đất nước. Luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử kinh tế quốc dân, có tên gọi: Thu hút đầu tư nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc thời kỳ 1978 - 2003: Thực trạng và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam [63] của tác giả Đặng Thu Hương. Luận án có nội dung khá phong phú, trong đó phân tích, làm rõ một số lý luận cơ bản liên quan đến thu hút FDI, đồng thời chỉ ra một số nhân tố tác động đến thu hút FDI trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển. Dựa trên cơ sở lý luận và những phương pháp nghiên cứu thích hợp, luận án đã phân kỳ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc theo ba giai đoạn và phân tích các chính sách, thực trạng thu hút FDI của Trung Quốc theo từng giai đoạn cụ thể. Luận án cũng làm rõ một số tác động chủ yếu của FDI đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, tạo ra một “bức tranh” tương đối đầy đủ về thu hút FDI của Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa. Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bằng phương pháp phân tích, so sánh, luận án chỉ ra một số điểm tương đồng và khác biệt về thu hút FDI của Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa và của Việt Nam từ khi đổi mới nền kinh tế.
  21. 21 Trên cơ sở đó, luận án phân tích những bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể vận dụng trong thu hút FDI, đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án tiến sĩ kinh tế Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước châu Á và giải pháp cho Việt Nam [112], của tác giả Trần Quang Thắng, là một công trình khoa học không chỉ dừng lại ở việc nêu tên các hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh như một hệ quả tất yếu của FDI mà đi vào phân tích căn nguyên dẫn đến các hiện tượng trên, làm rõ các hiện tượng thường xuất hiện trong thu hút FDI của một số nước châu Á. Từ đó, luận án đã khái quát những vấn đề nảy sinh trong thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 như: tạo ra sức ép cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước; làm mất cân đối trong quá trình phát triển giữa các ngành, vùng của nền kinh tế; làm xuất hiện tình trạng “lỗ giả, lãi thật” hay chuyển giá; làm gia tăng nguy cơ chuyển giao công nghệ lạc hậu; gây ô nhiễm môi trường sinh thái ; đồng thời khuyến nghị một số giải pháp khắc phục hiện trạng trên ở Việt Nam hiện nay. Tiếp cận dưới góc độ kinh tế phát triển, Luận án tiến sĩ kinh tế Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ [68], của tác giả Trần Thị Tuyết Lan, được công bố đầu năm 2014, đã nghiên cứu những ảnh hưởng của FDI đến sự phát triển bền vững của vùng KTTĐ Bắc Bộ trên cả ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của FDI đến phát triển bền vững ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, luận án chỉ ra nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy FDI theo hướng phát triển bền vững ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, bao gồm các giải pháp từ phía Nhà nước Trung ương và nhóm giải pháp từ phía chính quyền các địa phương thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ.
  22. 22 Luận án tiến sĩ kinh tế có tựa đề Mô hình phân tích mối quan hệ của FDI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam [86] của tác giả Hồ Đức Nghĩa, đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về FDI, tăng trưởng kinh tế, vai trò của FDI với tăng trưởng kinh tế; phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế và quá trình thu hút FDI tại Việt Nam giai đoạn 1990 - 2012; xây dựng mô hình định lượng phân tích quan hệ của FDI với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đánh giá các yếu tố tác động đến hiệu quả của FDI đối với tăng trưởng kinh tế và sản lượng, hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp (thực nghiệm với dữ liệu 1990 - 2012). Trên cơ sở đó, luận án đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm đẩy mạnh thu hút FDI, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những năm tới ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ Thu hút FDI cho phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam [93], thuộc chuyên ngành kinh tế đối ngoại, là công trình nghiên cứu được thực hiện bởi tác giả Phạm Thu Phương, đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về nguồn vốn FDI, công nghiệp hỗ trợ và mối quan hệ giữa FDI với công nghiệp hỗ trợ, những nhân tố tác động đến thu hút FDI cho phát triển công nghiệp hỗ trợ; tổng kết kinh nghiệm trong việc thu hút FDI cho phát triển công nghiệp hỗ trợ ở một số quốc gia trên thế giới (Đài Loan, Thái Lan, Malaysia), rút ra bài học cho Việt Nam. Luận án cũng phân tích thực trạng thu hút FDI cho phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, chỉ rõ những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế ấy; đồng thời đưa ra định hướng và giải pháp tăng cường thu hút FDI cho phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam thời gian tới. Theo đó, các giải pháp luận án đề xuất bao gồm: ổn định kinh tế vĩ mô, hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư, tạo hành lang pháp lý nhất quán và đồng bộ; mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa và thúc đẩy xuất khẩu để kích thích sản xuất; tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI; hình thành các cụm công nghiệp tập trung cho các ngành công nghiệp hỗ trợ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
  23. 23 Luận án tiến sĩ kinh tế đối ngoại của tác giả Bùi Thuý Vân, có tên gọi: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ở vùng đồng bằng Bác Bộ [145], đã trình bày cơ sở lý luận về FDI và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu; đưa ra một số mô hình lý thuyết nghiên cứu tác động của FDI đến cơ cấu hàng xuất khẩu. Luận án cũng đã phân tích thực trạng tác động của vốn FDI bao gồm cả yếu tố đầu vào và đầu ra đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của vùng đồng bằng Bắc Bộ cả về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu thông qua các mô hình kiểm định đơn giản. Từ đó, luận án đưa ra lộ trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, dịnh hướng thu hút FDI và các giải pháp để phát huy tốt nhất vai trò của FDI phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ở vùng này giai đoạn tiếp theo. 2.2.2. Luận án về vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Luận án tiến sĩ kinh tế Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững trên địa bàn vùng KTTĐ Bắc Bộ - Việt Nam [113], của tác giả Tạ Đình Thi đã hệ thống hoá và vận dụng vào điều kiện Việt Nam, trực tiếp là vùng KTTĐ Bắc Bộ những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn về cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển bền vững; luận giải những vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững. Luận án cũng đã phân tích, đánh giá sự bền vững của chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng KTTĐ Bắc Bộ trên cả ba mặt kinh tế, xã hội, môi trường thời gian qua và dự báo đến năm 2020. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các giải pháp bảo đảm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của vùng kinh tế này. Luận án tiến sĩ kinh tế chính trị của tác giả Bạch Thị Lan Anh có tựa đề Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ [1], đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững làng nghề truyền thống trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Trên cơ sở đó đề xuất định hướng, giải pháp chủ yếu đẩy mạnh sự phát triển bền vững làng nghề truyền
  24. 24 thống vùng KTTĐ Bắc Bộ. Ở công trình này, từ việc nghiên cứu lý thuyết phát triển bền vững, tác giả đã đưa ra kết luận: Phát triển bền vững làng nghề truyền thống phải đảm bảo sự kết hợp trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. Luận án cũng đã xây dựng các tiêu chí phát triển bền vững làng nghề truyền thống trên các mặt: tăng trưởng kinh tế ổn định, tiến bộ và công bằng xã hội, khai thác tối đa các nguồn lực, sử dụng hợp lý tiết kiệm tài nguyên, hạn chế bệnh nghề nghiệp, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống. Luận án tiến sĩ kinh tế Phát triển các khu công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ theo hướng bền vững [64], của tác giả Vũ Thành Hưởng đã làm rõ những vấn đề chủ yếu về lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển các KCN trên quan điểm phát triển bền vững; xây dựng các nhóm chỉ số đánh giá sự phát triển bền vững các KCN về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường; khái quát kinh nghiệm của một số nước về chính sách phát triển bền vững các KCN; phân tích, đánh giá thực trạng phát triển các KCN vùng KTTĐ Bắc Bộ và tác động của các chính sách phát triển KCN tới tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; đề xuất ba quan điểm, bốn nhóm giải pháp chủ yếu cùng bốn kiến nghị bảo đảm phát triển bền vững các KCN của vùng KTTĐ Bắc Bộ. Luận án tiến sĩ kinh tế Phát triển công nghiệp vùng KTTĐ Bắc Bộ - Việt Nam theo hướng bền vững [106], của tác giả Tô Hiến Thà đã làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến phát triển công nghiệp theo hướng bền vững; khái quát cách làm của một số quốc gia về phát triển công nghiệp theo hướng bền vững và rút ra bài học kinh nghiệm cho vùng KTTĐ Bắc Bộ; khảo sát thực trạng, đánh giá thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển công nghiệp theo hướng bền vững trên địa bàn vùng KTTĐ Bắc Bộ, xác định những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó, luân án đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển công nghiệp trên địa bàn vùng KTTĐ Bắc Bộ theo hướng bền vững.
  25. 25 2.3. Dưới dạng các bài viết, tham luận khoa học, đề tài khoa học 2.3.1. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Kỷ yếu Hội nghị 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam [16] là một công trình khoa học tập hợp 26 tham luận của các học giả, chính khách, nhà khoa học, nhà quản lý thuộc các bộ, ban, ngành, địa phương và một số đại biểu của các tổ chức quốc tế như: EUROCHAM, AUSCHAM, JETRO, AMCHAM. Với cách đặt vấn đề khác nhau, phạm vi rộng hẹp không giống nhau, các tham luận đó tập trung khẳng định những tác động tích cực của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong suốt 25 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1987, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân và bàn giải pháp khắc phục. “Chính sách đầu tư nước ngoài trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” [13] là một tham luận khoa học của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trình bày tại Hội thảo quốc tế Việt Nam sẵn sàng gia nhập WTO, do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đồng tổ chức ở Hà Nội từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 6 năm 2003. Bài tham luận đã trình bày tổng quan tình hình ĐTNN tại Việt Nam giai đoạn 1988 - 2002; giới thiệu các cam kết quốc tế của Việt Nam về ĐTNN; cam kết về đầu tư trong khuôn khổ WTO và tiến trình đàm phán của Việt Nam; nêu lên những cơ hội và thách thức của ĐTNN đối với Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế. “Tổng kết 20 năm Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” [110] của tác giả Phan Hữu Thắng, đăng trên Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 1/2008 đã khái quát kết quả FDI ở Việt Nam 20 năm qua; đánh giá tác động của ĐTNN trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường; đồng thời nêu ra một số vấn đề có tính định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn 2006 - 2010 ở nước ta.
  26. 26 “Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - Vấn đề đặt ra và một số giải pháp” [77] là bài viêt của tác giả Trần Văn Lợi. Bài viết đã phân tích ảnh hưởng tích cực của dòng vốn ĐTNN đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện CNH, HĐH, phát triển lực lượng sản xuất và những mặt trái của nó như làm mất cân đối vốn đầu tư giữa các vùng, lãnh thổ, ngành kinh tế; gây ô nhiễm môi trường và nguy cơ tiếp nhận công nghệ lạc hậu; từ đó kiến nghị một số giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của vấn đề trên. Bài báo khoa học có tựa đề “Cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” [51] của tác giả Nguyễn Văn Hảo, đã phân tích vai trò quyết định của môi trường đầu tư đối với vấn đề thu hút FDI trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay; khảo sát thực trạng môi trường đầu tư của Việt Nam và đề xuất những giải pháp để cải thiện môi trường đầu tư ở nước ta trong thời gian tới. Bài báo “Một số giải pháp cơ bản phát triển và sử dụng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” [95] của hai tác giả Đinh Văn Phượng và Hoàng Thị Bích Loan đã đánh giá thực trạng phát triển và những đóng góp của khu vực kinh tế được tạo lập từ dòng vốn FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi có Luật ĐTNN; những hạn chế, bất cập về thu hút, về hiệu quả sử dụng nguồn vốn nước ngoài hiện nay và một số giải pháp khắc phục như: bảo đảm sự ổn định về kinh tế, chính trị; đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng; xây dựng chiến lược thu hút vốn. “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần thức đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” [7] là bài viết của tác giả Mai Văn Bảo. Bài viết này đã phân tích vai trò quan trọng của khu vực kinh tế hình thành từ hoạt động ĐTNN trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như: góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH và chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp tỷ lệ ngày càng tăng trong GDP; nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra nhiều ngành nghề, sản
  27. 27 phẩm mới, tăng sức cạnh tranh cho nhiều sản phẩm và doanh nghiệp; nâng cao năng lực quản lý, trình độ tay nghề, thu nhập của người lao động; phát triển kinh tế đối ngoại, mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Bài báo khoa học “Thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam” [124] của tác giả Hồ Thanh Thuỷ đã khái quát kết quả đạt được và những mặt tồn tại, hạn chế của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN sau 17 năm thực hiện Luật ĐTNN; nêu dự báo về khả năng cải thiện môi trường đầu tư và triển vọng thu hút ĐTNN của Việt Nam trong thời gian tới. “Đầu tư nước ngoài với việc phát triển và khai thác nguồn nhân lực Việt Nam” [47] của tác giả Nguyễn Thị Như Hà là bài viết đi vào phân tích vai trò của mở rộng, phát triển khu vực FDI trong việc phát triển và khai thác nguồn nhân lực của Việt Nam, tập trung vào các khía cạnh: tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, đặc biệt là lực lượng lao động chưa qua đào tạo; tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế, góp phần thực hiện một trong những nội dung rất quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nước ta thông qua sử dụng, bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động trực tiếp và lao động quản lý “Vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” [134] là bài viết của tác giả Ngô Quang Trung, mới được đăng tải đầu năm 2014, đã tóm lược về FDI tại Việt Nam, khẳng định vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, đồng thời cũng chỉ ra một thực trạng đáng buồn về tình trạng chuyển giá, trốn thuế của các doanh nghiệp FDI những năm gần đây, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất thu ngân sách, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp trong nước, tác động không tốt đến môi trường đầu tư. Trên cơ sở phân tích biểu hiện chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, tác giả đề xuất một
  28. 28 số giải pháp tăng cường kiểm soát việc chuyển giá của các doanh nghiệp FDI trong thời gian tới. Bài báo khoa học “Chính sách thu hút vốn FDI của Trung Quốc và gợi ý cho Việt Nam” [136] được công bố bởi tác giả Trần Nam Trung đã khẳng định những thành tựu trong thu hút FDI của Trung Quốc kể từ khi Chính phủ nước này thực hiện cải cách, mở cửa (tháng 12 năm 1978), đưa Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia đứng đầu thế giới về thu hút FDI. Theo tác giả, sở dĩ Trung Quốc đạt được những thành tựu nói trên là do họ đã áp dụng các chính sách, biện pháp toàn diện, từ việc thiết lập khung cơ sở pháp lý, tham gia các thoả thuận quốc tế về khuyến khích hợp tác đầu tư, cho đến đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tác giả cũng cho rằng, thành công của Trung Quốc là gợi ý để Việt Nam tham khảo trong việc thu hút FDI hiệu quả, phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “Thu hút đầu tư nước ngoài - Từ những ý tưởng của Hồ Chí Minh đến thực tiễn phát triển hiện nay” [3] là công trình khoa học của tác giả Phạm Ngọc Anh, đăng trong cuốn Việt Nam trên con đường lớn (1945 - 2005) vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Công trình khoa học đã phân tích tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lĩnh vực thu hút ĐTNN ở nước ta. Theo tác giả, Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ rằng, muốn phát triển, Việt Nam không thể tách rời cộng đồng thế giới, có thể dựa vào bên ngoài, nhất là thu hút nguồn vốn - một yếu tố rất cần cho sự tăng trưởng mà tự thân nền kinh tế nước ta lúc đó không thể nào đáp ứng được. Cũng theo tác giả, ý tưởng thu hút ĐTNN của Hồ Chí Minh dựa trên hai cơ sở khách quan: 1) Việt Nam không những có nhu cầu mà còn có rất nhiều tiềm năng, nhất là tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác, thu hút sự chú ý của các nhà tư bản quốc tế; 2) Mong muốn thu hút ĐTNN có thể được thực hiện vì lực lượng sản xuất phát triển đã phá vỡ sự ngăn cách biên giới quốc gia, quốc tế hóa hoạt động kinh tế, và do quy luật tác động tương hỗ của các quan hệ quốc tế, tất yếu hình thành một
  29. 29 dòng vốn, công nghệ chảy từ các nước có trình độ phát triển cao sang các nước chậm tiến, lạc hậu. Việt Nam có thể tiếp nhận nguồn lực quan trọng này. Tác giả cũng đã làm rõ những thay đổi về chất - lượng trong hoạt động đầu tư hiện nay ở Việt Nam trên các giác độ: cơ cấu đầu tư, hình thức đầu tư, đối tác nước ngoài cùng những thay đổi trong địa bàn phân bố các dự án đầu tư. Điều tra cơ bản các yếu tố phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ [103] là đề tài khoa học do tác giả Nguyễn Danh Sơn làm chủ nhiệm đã nghiên cứu, điều tra cơ bản các yếu tố phát triển bền vững của vùng KTTĐ Bắc Bộ từ đó rút ra những cơ sở khoa học cho việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoạch định các chính sách phát triển bền vững vùng; phát hiện những tiềm năng, nguồn lực và phương thức phát triển mới phục vụ cho chiến lược phát triển bền vững của đất nước nói chung và các vùng KTTĐ trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Báo cáo tổng hợp Đề án Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 [14] là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, công phu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện. Đề án đã khái quát các yếu tố, điều kiện và thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2001 - 2010, trên cơ sở đó xac định mục tiêu, quan điểm và định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng và cải cách cơ cấu nền kinh tế vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2011-2020, định hướng đến năm 2030, đồng thời đưa ra các giải pháp về cơ chế chính sách nhằm hiện thực hoá những mục tiêu, quan điểm và định hướng nói trên, trong đó có những nội dung liên quan đến FDI. Ngoài ra, có thể tìm thấy khá nhiều bài viết trong đó đăng tải: những ý kiến nhận định, những số liệu thực tiễn, những chính sách, các quyết định về hoạt động FDI, về thu hút FDI trong phát triển vùng kinh tế, vùng KTTĐ, thu hút FDI phát triển các ngành kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội của các địa
  30. 30 phương trên các tạp chí: Cộng Sản, Kinh tế và Dự báo, Kinh tế và Phát triển, Phát triển kinh tế, Nghiên cứu kinh tế, Quản lý kinh tế, Lao động xã hội, Giáo dục lý luận, Châu Á Thái Bình Dương, Tài Chính, Ngân Hàng hay trên trang website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cổng thông tin điện tử Chính phủ, website của các sở Kế hoạch và Đầu tư các địa phương với những tiêu đề phong phú, đa dạng. Đây thực sự là những tài liệu quan trọng trong quá trình nghiên cứu bởi lượng thông tin lớn, tính cập nhật cao, nhiều ý tưởng mới. 3. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết 3.1. Đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố Thông qua tổng quan các công trình khoa học có liên quan đến luận án, dễ nhận thấy những thành công mà các công trình mang lại khá toàn diện, cho dù góc độ tiếp cận khác nhau, cách đánh giá không giống nhau. Các công trình đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về FDI và có thể khái quát trên một số nội dung như sau: Thứ nhất, các công trình đó đạt được những kết quả quan trọng trong việc xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm, khái quát các hình thức, cùng một số vấn đề lý luận khác về FDI. Mỗi công trình khoa học được nhắc đến trong tổng quan có cách thức tiếp cận về FDI khác nhau tùy thuộc vào góc nhìn của tác giả và không gian, thời gian mà công trình khoa học ra đời. Nói cách khác, nhận thức về FDI có sự vận động, phát triển qua từng giai đoạn lịch sử gắn với quá trình biến đổi của các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ. Mặc dù có cách tiếp cận, thời điểm công bố khác nhau, song các công trình khoa học đều có những những điểm tương đồng về một số tiêu chí, thể hiện trong việc đưa ra khái niệm, đặc điểm, các hình thức của FDI. Những nội dung lý luận thể hiện trong các công trình tiêu biểu như: Kinh tế có vốn
  31. 31 đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay [70]; Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam [45]; Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế Việt Nam [140]; Về chính sách khuyến khích đầu tư ở Việt Nam [17]; Đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ ở Việt Nam [85]; Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Chính sách và thực tiễn [88] thực sự có tác dụng rất lớn giúp nghiên cứu sinh nghiên cứu, kế thừa trong quá trình xây dựng luận án. Về cơ bản, các công trình khoa học nói trên đều khẳng định một cách nhất quán vai trò to lớn, không thể phủ nhận của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam. Bằng những cách diễn đạt khác nhau, các công trình khoa học đã khẳng định vai trò của FDI đối với sự phát triển của nền kinh tế, thể hiện trên nhiều yếu tố như góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần bổ sung một nguồn vốn quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội; góp phần chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý; góp phần mở rộng thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư; góp phần bổ sung ngân sách, qua đó giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng Một số công trình bước đầu đó có sự phân tích, luận giải các nhân tố chung nhất tác động đến FDI. Thứ hai, nhiều công trình khoa học tiêu biểu xuất hiện trong tổng quan đã phân tích, lập luận khá sâu sắc về thực trạng FDI ở Việt Nam. Về cơ bản, đó đều là những lập luận xác đáng, có sức thuyết phục. Theo đó, trải qua thời gian, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đặc biệt là từ khi Luật ĐTNN chính thức có hiệu lực ở Việt Nam, FDI ngày càng có sự phát triển mạnh mẽ, thực sự trở thành động lực quan trọng trong tiến trình CNH, HĐH đất nước. Cùng với quá trình vận động,
  32. 32 phát triển, FDI đã dần khẳng định trên thực tế vị thế, vai trò trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thể hiện ở những đóng góp quan trọng cho tăng trưởng GDP, cho đầu tư phát triển xã hội, làm tăng kim ngạch xuất khẩu và tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Vị thế vài trò ngày càng tăng của FDI còn thể hiện ở sự lan tỏa, phát triển của FDI ở hầu hết các tỉnh, thành phố và các ngành, lĩnh vực, các vùng trên cả nước trong đó có vùng KTTĐ Bắc Bộ. Các công trình khoa học cũng rất chú ý đến việc chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thu hút FDI, phân tích rõ nguyên nhân cả khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng trên, trong đó đề cập nhiều đến những nguyên nhân về nhận thức, về cơ chế chính sách, về vai trò quản lý của nhà nước đối với việc thu hút FDI Thứ ba, một trong những thành công đáng ghi nhận của các công trình khoa học tiêu biểu đã công bố chính là việc đề xuất định hướng, quan điểm, giải pháp để giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Một số công trình đề xuất giải pháp thu hút FDI nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở tầm cỡ quốc gia, dân tộc. Một số công trình lại đề xuất giải pháp thu hút FDI trên địa bàn của một vùng kinh tế, vùng KTTĐ hay một tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Một số công trình khác lại đề xuất giải pháp trong thu hút FDI nhằm phát triển các KCN, khu chế xuất. Cũng có công trình đưa ra các giải pháp nhằm thu hút FDI nhằm phát triển một ngành kinh tế nào đó. Việc đề xuất định hướng, quan điểm, giải pháp thu hút FDI trong các công trình khoa học tiêu biểu được thể hiện trong tổng quan cơ bản được đặt trong mối quan hệ với nhiều yếu tố như xu thế phát triển của thời đại, xu hướng vận động của dòng vốn FDI, bám sát thực tiễn kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Vì thế, nó có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở để các cấp các ngành, các nhà lãnh đạo, quản lý hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư quốc tế trong bối cảnh mở cửa, hội nhập. 3.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án, tác giả nhận thấy: FDI là mảng đề tài rộng lớn, có nhiều bài viết, nhiều công trình khoa học đề cập ở
  33. 33 góc độ lý luận, thực tiễn, hoặc đề xuất giải pháp thu hút FDI trên phạm vi toàn quốc hay quy mô nhỏ hơn là các địa phương, trong từng ngành hay từng lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, do đối tượng và phạm vi nghiên cứu chi phối, nên cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào đề cập một cách hệ thống, toàn diện về FDI ở VKTTĐBB dưới góc độ kinh tế chính trị. Bởi thế, tác giả lựa chọn đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” để nghiên cứu, đồng thời xác định những vấn đề mà luận án tập trung giải quyết, đó là: Thứ nhất, hoàn thiện khung lý thuyết về FDI làm cơ sở vũng chắc cho việc khảo sát thực trạng FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 - 2013. Có thể nói đây là vấn đề hết sức quan trọng, bởi nó giúp cho tác giả có định hướng đúng đắn trong quá trình xây dựng luận án. Để thực hiện vấn đề này, trước hết cần hệ thống hóa, khái quát hóa nguyên nhân hình thành và phát triển của FDI, đưa ra quan niệm FDI trên cơ sở nghiên cứu kế thừa khái niệm FDI mà một số tác giả đã đưa ra ở các công trình khoa học đã công bố. Từ khái niệm FDI, phải có sự luận giải rõ nét những đặc trưng của nó. Thực tế, ở một vài công trình khoa học xuất hiện trong tổng quan, đặc điểm của FDI đã được chỉ ra, nhưng đó mới chỉ là những nét phác thảo ban đầu, chưa thật sâu sắc, chưa mang đậm dấu ấn cách nhìn nhận của kinh tế chính trị. Cũng cần có sự thống nhất nhận thức về các hình thức FDI, đặc biệt là các hình thức FDI được thừa nhận theo luật pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Một trong những nội dung hết sức quan trọng để hoàn thiện khung lý thuyết là phân tích cho được những nhân tố chủ yếu tác động đến FDI. Trên thực tế, có nhiều yếu tố tác động đến FDI, nhưng có thể khái quát thành các nhân tố chủ yếu là môi trường chính trị; môi trường kinh tế; môi trường văn hoá - xã hội; môi trường pháp lý Dưới góc độ lý luận, để tiện cho việc khảo sát thực trạng FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, luận án cũng xác định một số tiêu chí đánh giá kết quả FDI trên các giác độ như số lượng các dự án có vốn FDI, tổng số vốn đăng ký, tổng số vốn thực hiện qua các thời kỳ; tình hình chuyển giao công nghệ và
  34. 34 kinh nghiệm quản lý từ các dự án có vốn FDI; ảnh hưởng của FDI với sự phát triển kinh tế - xã hội. Thứ hai, tiến hành nghiên cứu, khảo sát tình hình thu hút FDI ở một số nước trên thế giới nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm về cùng lĩnh vực cho vùng KTTĐ Bắc Bộ. Do phạm vi nghiên cứu chi phối, nên luận án chỉ tập trung khảo sát tình hình thu hút FDI ở những nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam, cụ thể là một số nước trong khối Asean như Thái Lan, Malaysia, Singapore, đặc biệt là Trung Quốc, một quốc gia rộng lớn, là láng giềng và là nước có sự tương đồng về thể chế chính trị, thể chế kinh tế với Việt Nam. Trên cơ sở thực tiễn thu hút FDI ở một số quốc gia trên thế giới, luận án rút ra những bài học kinh nghiệm có tính chất chung nhất, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp thu hút FDI thời gian tới ở vùng KTTĐ Bắc Bộ. Thứ ba, dựa trên khung lý luận đã xác định, đặc biệt là hệ tiêu chí đánh giá kết quả FDI, luận án tiến hành khảo sát đánh giá thực trạng FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 - 2013. Để đảm bảo tính hệ thống, chỉnh thể, luận án dành một thời lượng thích hợp để khái quát quá trình ra đời và phát triển của vùng KTTĐ Bắc Bộ từ khi manh nha ý tưởng hình thành các tam giác phát triển, trong đó có tam giác tăng trưởng phía Bắc với ba đỉnh là Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh dựa vào những lợi thế về địa - kinh tế gắn với lý thuyết lợi thế so sánh, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, đến khi được chính thức hóa khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các vùng KTTĐ trên cả nước. Vùng KTTĐ Bắc Bộ có thể coi như chính thức được hình thành về mặt pháp lý theo Quyết định số 747/1997/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm năm tỉnh, thành trực thuộc Trung ương là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên và có sự phát triển theo thời gian, bổ sung thêm các đơn vị hành chính mới để đến nay bao gồm 7 tỉnh, thành như chúng ta được biết là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc.
  35. 35 Luận án cũng đánh giá những tiềm năng, thế mạnh cùng những khó khăn, thách thức của vùng KTTĐ Bắc Bộ đối với FDI trên các giác độ như: sự tác động của vị trí địa lý vùng KTTĐ Bắc Bộ đến hoạt động FDI; số lượng, chất lượng và khả năng khai thác tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và thu hút đầu tư; thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng KTTĐ Bắc Bộ; mức độ phát triển của thị trường vùng KTTĐ Bắc Bộ; và đặc biệt là những đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực của vùng KTTĐ Bắc Bộ. Luận án không chỉ dừng lại ở việc khẳng định những thành công của FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2004 - 2013, mà quan trọng hơn là chỉ ra những mặt còn tồn tại, phân tích nguyên nhân khách quan, chủ quan của hiện trạng nói trên, đồng thời khái quát những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết đối với hoạt động này thời gian tới. Đó là những nội dung liên quan đến việc giải quyết các mối quan hệ về lợi ích giữa chủ đầu tư với lợi ích quốc gia, lợi ích của các địa phương trong vùng KTTĐ Bắc Bộ; giữa yêu cầu thu hút FDI với các nguồn lực hiện có của vùng; giữa yêu cầu cầu cao về quản lý nhà nước trong thu hút FDI với công tác quản lý nhà nước về FDI còn nhiều hạn chế ở vùng KTTĐ Bắc Bộ. Thứ tư, từ cơ sở lý luận và thực tiễn đã chỉ ra trong các chương 1 và 2, luận án tập trung đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thu hút dòng vốn FDI vào vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn tiếp theo. Hệ thống các giải pháp được đề xuất trong luận án đi từ thống nhất nhận thức, đổi mới tư duy trong thu hút FDI; hoàn thiện quy hoạch phát triển FDI; xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đến nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với các dự án có vốn FDI Những giải pháp được đề xuất trong luận án, tác giả xác định cũng chỉ là những giải pháp chủ yếu, đáp ứng những yêu cầu cấp thiết đặt ra của thực tiễn thu hút FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, giải quyết những vấn đề nổi lên, những mâu thuẫn đặt ra một cách trực tiếp nhằm hiện thực hóa những quan điểm cơ bản đã xác định ở trên.
  36. 36 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1. Những vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.1. Quá trình hình thành, phát triển; khái niệm, đặc điểm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài Có rất nhiều quan điểm khác nhau lý giải nguyên nhân hình thành và phát triển của FDI, song tựu chung tại có hai luồng quan điểm chủ yếu, đó là quan điểm của các nhà kinh tế học tư sản và các nhà kinh tế học chính trị mácxít. Các nhà kinh tế học tư sản như A.Smith (1776), Thomas Malthus (1798), D.Ricardo (1817), và sau này là Vernon (1966), Kojima (1973), Hymer (1976), Dunning (1988) đã có những nghiên cứu liên quan đến hoạt động đầu tư quốc tế. Họ cho quá trình hình thành và phát triển của đầu tư quốc tế có cơ sở lý thuyết là sự phân công lao động dựa trên lợi thế so sánh và thương mại quốc tế. Theo họ, khởi nguyên của quan hệ kinh tế giữa các quốc gia bắt nguồn từ hoạt động thương mại quốc tế. Bằng học thuyết “Lợi thế so sánh - Comparative advantages”, Adam Smith và David Ricardo cho rằng mỗi quốc gia trên thế giới đều chuyên môn hóa sản xuất ra một hoặc một nhóm sản phẩm với chi phí sản xuất thấp hơn so với quốc gia khác và tiến hành xuất khẩu hàng hóa này sang quốc gia đó. Đồng thời quốc gia này cũng dành cơ hội để quốc gia khác sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn chi phí sản xuất do nước mình tiến hành mà không phụ thuộc vào quy mô sản xuất và trình độ phát triển. Lợi thế so sánh chính là nguyên nhân hình thành, phát triển quan hệ thương mại quốc tế giữa các quốc gia với nhau và cũng cho thấy trình độ phát triển về lực lượng sản xuất giữa các quốc gia cơ bản là rất khác nhau. Như vậy, thương mại quốc tế là quan hệ đầu tiên, cơ bản và làm phát sinh quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia sau này. Tuy nhiên, do có sự chênh lệch về
  37. 37 lực lượng sản xuất giữa các quốc gia và những trở ngại trong hoạt động thương mại quốc tế đã hình thành và phát triển quan hệ đầu tư giữa các quốc gia. Dưới góc độ nước tiếp nhận đầu tư, để phát triển một số ngành sản xuất với điều kiện chưa cho phép hoặc sản xuất với chi phí cao thay vì phải nhập khẩu, quốc gia tiếp nhận đầu tư đã kêu gọi đầu tư từ những quốc gia có thế mạnh về những ngành công nghiệp đó. Dưới góc độ của nước đi đầu tư, những nước này mong muốn đầu tư tại những nước có trình độ phát triển thấp hơn để tận dụng chi phí sản xuất rẻ và khai thác tài nguyên thiên nhiên. Tại những nước công nghiệp phát triển, do phải đối đầu với môi trường cạnh tranh gay gắt nên tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp sản xuất ở những quốc gia này là rất thấp. Do vậy, các doanh nghiệp thường có xu hướng chuyển vốn, công nghệ và tài sản ra những nước có môi trường cạnh tranh kém hơn, với chi phí sản xuất rẻ hơn, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Các nước đang phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và thực hiện CNH, HĐH đất nước thường đối mặt với vấn đề thiếu vốn, công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiến tiến. Chính vì những nhu cầu này đã tạo điều kiện cho việc di chuyển vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển. Xu hướng bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng, nên ĐTNN là một biện pháp hữu hiệu nhằm xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường, tránh được hàng rào thuế quan và phi thuế quan, giảm chi phí vận chuyển hàng hóa. Các nhà kinh tế học chính trị mácxít mà một trong những đại diện điển hình là V.I.Lênin cho rằng, sự phát triển của FDI dựa trên XKTB. Ở thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh, mặc dù kinh tế TBCN đã phát triển mạnh mẽ, khối lượng sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều, theo đó thị trường hàng hoá, dịch vụ cũng ngày càng được mở rộng, song XKTB chưa mang tính phổ biến và cấp thiết. Nhưng khi CNTB có bước phát triển mới,
  38. 38 chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền - hay giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, với sự xuất hiện hiện tượng “thừa tư bản” thì XKTB trở thành một tất yếu kinh tế nhằm thu lợi nhuận ngày càng nhiều cho nhà tư bản. Việc luận chứng về XKTB được V.I.Lênin thể hiện hết sức khúc triết qua tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Trong tác phẩm này, khi phân tích về nguồn gốc của XKTB, V.I.Lênin cho rằng: trong thời đại của tư bản tài chính, khi lực lượng sản xuất phát triển, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, làm cho cấu tạo hữu cơ trong toàn bộ nền kinh tế tăng cao đã dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút. Cùng với nó là quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên dưới tác động trực tiếp của quy luật giá trị và quy luật tích luỹ tư bản, trong khi đó giá trị sức lao động tăng lên làm tiền công và chi phí sản xuất tăng tương ứng, dẫn đến xuất hiện phổ biến trong nền kinh tế ở các nước tư bản phát triển hiện tượng thừa tư bản. V.I.Lênin còn cho rằng: “tư bản thừa” ở đây là thừa có tính chất tương đối, tức là thừa so với lợi nhuận thấp nếu phải đầu tư trong nước, còn nếu đầu tư ra nước ngoài thì tỷ suất lợi nhuận sẽ cao hơn. V.I.Lênin luận giải: “Nếu chủ nghĩa tư bản chú ý phát triển đến nông nghiệp, đến việc nâng cao mức sống của nhân dân thì không thể có hiện tượng thừa tư bản”. “Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn còn là chủ nghĩa tư bản, số tư bản thừa vẫn còn được dùng không phải là để nâng cao mức sống của quần chúng trong nước đó, vì như thế sẽ đi đến kết quả là giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản, mà là để tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước lạc hậu” [71, tr.456]. V.I.Lênin cũng khẳng định, nền kinh tế TBCN, đặc biệt là ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, luôn chịu sự tác động của quy luật phát triển không đều Dưới tác động của quy luật này đã nảy sinh hiện tượng một số nền kinh tế của các quốc gia này phát triển rất nhanh, trong khi rất nhiều nền kinh tế khác lại ở trạng thái chậm và đang phát triển.
  39. 39 Trong một hệ thống kinh tế thế giới TBCN thống nhất, khi luôn tồn tại một nhóm nước phát triển thừa tư bản, nhưng phần lớn các nước chậm và đang phát triển lại thiếu tư bản, công nghệ, thừa lao động, nguyên liệu và sức lao động rẻ, thị trường dễ tính, thì tư bản nơi thừa sẽ chảy sang nơi thiếu tạo thành dòng XKTB. Do đó, XKTB là một khách quan về kinh tế bắt nguồn từ sự vận động nội tại của chính bản thân các quy luật trong CNTB. Xét về khía cạnh đầu tư, XKTB tồn tại dưới hai hình thức đó là: XKTB dưới hình thức gián tiếp hay đầu tư gián tiếp; XKTB dưới hình thức trực tiếp hay đầu tư trực tiếp. Xuất khẩu tư bản trực tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc xây dựng các nhà máy, xí nghiệp tại các nước khác (nước nhập khẩu tư bản), có sự quản lý trực tiếp của các nhà tư bản với tài sản dùng để xây dựng các nhà máy, xí nghiệp nói trên. Cùng với việc lý giải nguyên nhân của ĐTNN thông qua XKTB, các nhà kinh điển mácxít cho rằng, CNTB đã thiết lập quan hệ đầu tư quốc tế từ các nước tư bản phát triển sang các nước thuộc địa nhằm tìm kiếm lợi nhuận, khai thác tài nguyên thiên nhiên và duy trì sự áp bức, bóc lột tại hệ thống thuộc địa do mình quản lý. 1.1.1.2. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư nước ngoài và cùng với đó là FDI đã xuất hiện trong thời kỳ chuyển từ CNTB tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền. Tuy nhiên, chỉ đến sau chiến tranh thế giới thứ II, do nhu cầu của công cuộc tái thiết kinh tế ở một loạt quốc gia và điều kiện giao lưu quốc tế trở nên thuận tiện, FDI mới có sự gia tăng mạnh mẽ. Chính sự gia tăng mạnh mẽ của dòng FDI trên thực tế đã thu hút sự quan tâm của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học bằng việc đưa ra khái niệm về FDI, nhằm giúp các quốc gia hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thúc đẩy tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế.
  40. 40 Một trong những khái niệm về FDI được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay là khái niệm do Quỹ Tiền tệ quốc tế - IMF (International Moneytary Fun) và Tổ chức Hợp và Phát triển kinh tế - OECD (Organisation for Economic Cooperation and develoment) đưa ra dựa trên khái niệm về cán cân thanh toán. Theo IMF: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư - hosting country), không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư - source country) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp” [157, tr.100]. Khái niệm này nhấn mạnh lợi ích lâu dài của nhà đầu tư thông qua việc quản lý doanh nghiệp một cách trực tiếp. Đây cũng là một trong những đặc tính để phân biệt giữa đầu tư trực tiếp với đầu tư gián tiếp trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế - OECD cũng đưa ra khái niệm về FDI tương tự khái niệm của IMF. Tuy nhiên, OECD có quan niệm rất rộng về chủ thể FDI. Theo đó, chủ thể FDI có thể là cá nhân hoặc tổ chức thuộc cơ quan chính phủ hoặc không thuộc cơ quan chính phủ đầu tư tại nước ngoài. Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD đã đưa ra định nghĩa về FDI như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp)” [160, tr.243]. Khái niệm này nổi lên hai đặc trưng, đó là quyền kiểm soát lâu dài và lợi ích khống chế. Hoa Kỳ là một trong những nước tiếp nhận đầu tư đồng thời tiến hành đầu tư lớn nhất trên thế giới cũng đưa ra khái niệm về FDI. Theo đó: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là bất kỳ dòng vốn nào thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công ty của nước đi đầu tư có được từ việc cho vay hoặc dùng để mua sở hữu của doanh nghiệp nước ngoài” [158, tr.432]. Hoa Kỳ coi việc sở hữu đa phần chỉ chiếm 10% giá trị của doanh nghiệp nước ngoài trở lên.
  41. 41 Quan điểm của Việt Nam về FDI thể hiện rất rõ trong Luật ĐTNN tại Việt Nam thông qua lần đầu tiên vào năm 1987 và được sửa đổi, bổ sung những năm gần đây cho phù hợp với thực tiễn. Luật ĐTNN năm 1996 ghi rõ: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này” [98], trong đó nhà ĐTNN được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật Đầu tư, trong đó xác định “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư” [100, tr.10]. Luật Đầu tư năm 2005 không đề cập đến khái niệm FDI nhưng cùng với khái niệm ĐTNN, luật này còn đưa ra khái niệm đầu tư trực tiếp: “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” [100, tr.8]. Như vậy, mặc dù có khá nhiều cách diễn đạt khác nhau về FDI, song tựu chung lại, các cách diễn đạt đó đều nhấn mạnh yếu tố vốn đầu tư (bằng tiền, bằng các loại tài sản hợp pháp) và quyền kiểm soát các doanh nghiệp được thành lập từ nguồn vốn đó, với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Nghiên cứu, kế thừa các định nghĩa nói trên, từ thực tiễn tồn tại, vận động của FDI, tác giả cho rằng: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn, công nghệ hoặc các loại tài sản hợp pháp từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập các doanh nghiệp mới hoặc kiểm soát những doanh nghiệp đang hoạt động trên cơ sở thông lệ quốc tế và luật pháp của nước sở tại, nhằm kinh doanh, thu lợi nhuận. 1.1.1.3. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ nhất, FDI không chỉ đơn thuần là sự di chuyển nguồn lực vốn mà còn bao hàm trong đó quá trình chuyến giao công nghệ, kinh nghiệm quản
  42. 42 lý từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư. Bởi thế, thông qua FDI, chủ thể đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư đều kỳ vọng vào những lợi ích có thể thu được từ hoạt động này. Thông qua FDI, nước tiếp nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển sẽ giải quyết được bài toán khát vốn, hạn chế về công nghệ, qua đó thúc đẩy tăng trường kinh tế, đồng thời giải quyết nhiều vấn đề về mặt xã hội, như tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xoá đói, giảm nghèo Tuy nhiên, các nước này cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ như lệ thuộc về kinh tế, phát triển không cân đối giữa các vùng miền, ô nhiễm môi trường nếu không có cơ chế, chính sách thích hợp. Thứ hai, FDI có tính ổn định lâu dài bởi nó liên quan đến việc thành lập mới hoặc kiểm soát những doanh nghiệp đang hoạt động ở nước sở tại bằng cách mua lại các chi nhánh, các doanh nghiệp hiện có, hoặc tiến hành hợp nhất, chuyển nhượng doanh nghiệp. Từ đặc điểm này, dễ nhận thấy, nhà đầu tư có thể được hưởng lợi nhiều hơn khi thu được lợi nhuận cao, nhưng sẽ phái chấp nhận rủi ro lớn hơn nếu đầu tư thua lỗ. Thứ ba, về sở hữu vốn. Nguồn vốn FDI bao gồm vốn góp để hình thành vốn pháp định, vốn đi vay hoặc vốn bổ sung từ lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nhà ĐTNN trong các dự án có vốn FDI có thể là chủ sở hữu hoàn toàn hoặc đồng chủ sở hữu vốn với một tỷ lệ nhất định đủ sức khống chế và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động của doanh nghiệp cũng như phân chia lợi nhuận. Tỷ lệ đóng góp của nhà ĐTNN trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của cụ thể của họ, đồng thời lợi nhuận hay rủi ro cũng được xác định dựa vào tỷ lệ này. Thứ tư, tổ chức và hoạt động của các doanh nghiệp hình thành từ nguồn vốn FDI được thực hiện trên cơ sở thông lệ quốc tế và luật pháp của nước tiếp nhận đầu tư. Như vậy mức độ phù hợp của hệ thống luật pháp nước tiếp nhận đầu tư với thông lệ quốc tế cùng với sự cởi mở trong chính sách ĐTNN của nước đó sẽ có tác động rất lớn đến việc ra quyết định của
  43. 43 nhà ĐTNN. Trong các doanh nghiệp FDI, nhà ĐTNN là người quản lý hoặc tham gia quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Riêng với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, nhà ĐTNN có toàn quyền ra quyết định về hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc thuê người quản lý, điều hành theo chiến lược của họ. Thứ năm, về quan hệ phân phối trong khu vực FDI. Thực chất của quan hệ phân phối chính là việc giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khu vực FDI, phân phối được thực hiện theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, đó là phân phối dựa vào sở hữu các nguồn lực. Theo đó, nhà ĐTNN là những người bỏ vốn thu được lợi nhuận, nhà nước sở tại là chủ sở hữu đất đai thu được địa tô, còn người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn FDI nhận được tiền công. Sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với nước sở tại, nhà đầu tư có quyền chuyển lợi nhuận của mình ra nước ngoài. Thứ sáu, mục đích của các nhà ĐTNN là tối đa hóa lợi nhuận, bởi thế FDI thường tập trung vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh, những địa bàn có điều kiện tự nhiên thuận lợi, có trình độ phát triển cao về kinh tế, xã hội, kết cấu hạ tầng, trình độ dân trí Lực lượng chi phối chủ yếu đến sự vận động của dòng vốn FDI là các tập đoàn kinh tế hay các công ty xuyên quốc gia (TNC s), các công ty đa quốc gia (MNC s) vì FDI là một trong những phương thức tồn tại căn bản của chúng. Với tiềm lực tài chính mạnh mẽ, các tập đoàn kinh tế này sử dụng FDI nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận, không ngừng mở rộng thị trường, chiếm ưu thế trong cạnh tranh toàn cầu. Cũng vì vậy, sự khác biệt về lợi ích giữa chủ ĐTNN với nước tiếp nhận đầu tư là khó tránh khỏi. Đây là điều mà cả đôi bên, một mặt có những toan tính riêng của mình, mặt khác cũng phải có sự thoả thuận để cùng đạt được mục đích.
  44. 44 Thứ bảy, FDI chịu sự tác động đồng thời của tình hình kinh tế - xã hội nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Điều đó có nghĩa là mọi biến động về kinh tế - xã hội của nước chủ đầu tư và tiếp nhận đầu tư đều ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp tác động đến quá trình tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp hình thành từ nguồn vốn FDI. Vì lẽ đó, ổn định tình hình kinh tế - xã hội luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của các quốc gia, vùng lãnh thổ hiện nay. 1.1.1.4. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như trong thời đại của V.I.Lênin, XKTB bao gồm XKTB hoạt động của nhà nước, XKTB cho vay của nhà nước và XKTB hoạt động của tư nhân, XKTB cho vay của tư nhân, thì trong trong điều kiện hiện nay, các hình thức XKTB hay FDI đa dạng và phong phú hơn. Tuy nhiên, người ta thường đề cập đến ba hình thức chủ yếu là: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức liên kết kinh doanh giữa hai bên hoặc nhiều chủ thể trên cơ sở quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi chủ thể để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không cần thành lập một pháp nhân. Ở đây, có thể thấy, hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản pháp lý duy nhất quy định đặc trưng về pháp lý của dự án. Việc quản lý thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh được giao cho một bên đối tác, thường là nước chủ nhà. Trong quá trình kinh doanh, các bên liên quan có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng. Ban điều phối không phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh. Về phân chia kết quả kinh doanh, các bên có thể thực hiện phân chia kết quả kinh doanh chung, hoặc phân chia lợi nhuận trước thuế theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thỏa thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nước chủ nhà một cách riêng lẻ.
  45. 45 Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng và thường tồn tại một cách phổ biến trong các lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí, công nghiệp gia công và dịch vụ. Trong trường hợp này, các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp nhân riêng biệt, thời hạn hợp đồng thường không kéo dài. Chính vì thế, loại hình này thích hợp với các nhà ĐTNN có tiềm lực về vốn còn hạn chế. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại nước nhận đầu tư trên cơ sở hợp đồng liên doanh giữa các bên nước ngoài (chủ đầu tư) và bên nhận đầu tư (nước sở tại) trên cơ sở góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước chủ nhà. Mỗi bên tham gia vào liên doanh vừa chịu trách nhiệm pháp lý chung trong liên doanh, đồng thời là những pháp nhân độc lập với các bên tham gia. Như vậy, trong một doanh nghiệp liên doanh, các bên tham gia đều có lượng vốn góp nhất định bằng tiền mặt, máy móc thiết bị, nhà xưởng, quyền sử dụng mặt đất, mặt nước, phát minh, sáng chế, cũng có thể là khả năng kinh nghiệm, uy tín công ty, nhãn hiệu hàng hóa, hoặc các loại tài sản khác. Do vậy, các bên cũng đều được quyền tham gia xây dựng bộ máy quản lý hoạt động của doanh nghiệp, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ công nhân viên phục vụ; được quyền phân phối các khoản lợi nhuận thu được của doanh nghiệp sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về tài chính đối với nhà nước; và phải chia sẻ những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình tiến hành kinh doanh do nhiều yếu tố khác nhau như những biến động về kinh tế, sự tính toán không chu đáo, sự thay đổi của hệ thống pháp lý, do cạnh tranh hay những yếu tố bất ngờ khác. Doanh nghiệp liên doanh là hình thức FDI thường được các nước chủ nhà ưa chuộng. Hầu hết các nhà ĐTNN tham gia liên doanh thường mang
  46. 46 theo các máy móc, thiết bị tiên tiến, cùng với kinh nghiệm quản lý hiện đại, do đó nước chủ nhà đứng trước cơ hội của sự chuyển giao công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý đến từ các quốc gia khác. Hình thức này thường được nước chủ nhà áp dụng đối với các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Để đạt được kết quả mong muốn trong liên doanh, đòi hỏi nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đủ trình độ, năng lực quản lý, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của nước ngoài. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà ĐTNN (có thể là tổ chức hoặc cá nhân), do nhà ĐTNN thành lập tại nước sở tại, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh nhưng vẫn là pháp nhân của nước chủ nhà và chịu sự kiểm soát của nước chủ nhà. Đặc trưng nổi bật của doang nghiệp 100% vốn nước ngoài là có tư cách pháp nhân, là một thực thể pháp lý độc lập hoạt động theo pháp luật nước chủ nhà, được thành lập dưới dạng công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Quyền lợi và nghĩa vụ của nhà ĐTNN được quy định rõ trong điều lệ doanh nghiệp, phù hợp với luật pháp của nước chủ nhà. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành, quản lý của chủ đầu tư nhưng vẫn phải tùy thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại như điều kiện về chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa, mức độ cạnh tranh. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải tạo lập được các mối quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp trong nước nhằm khai thác các nguồn lực sẵn có, tạo nên thế và lực trong cạnh tranh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng phải dựa trên các điều kiện về kết cấu hạ tầng của nước sở tại như đất đai, hệ thống giao thông công cộng, viễn thông khi tiến hành sản xuất kinh doanh. Mặt khác, doanh
  47. 47 nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng phải nỗ lực hình thành nên một hình ảnh hấp dẫn trong khách hàng nước sở tại về sản phẩm của mình, nhanh chóng tạo được chỗ đứng trên thị trường nước sở tại. Hình thức FDI này ngày càng được các nhà ĐTNN mong muốn thành lập vì họ hoàn toàn có sự chủ động trong quản lý điều hành, có thể thực hiện được chiến lược toàn cầu của công ty mẹ, có thể triển khai các dự án đầu tư nhanh và chủ động trong tuyển chọn, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển chung của tập đoàn. Hình thức 100% vốn nước nước ngoài có một số dạng thức đặc biệt là: Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Building - Operate - Transfer), viết tắt là BOT; Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (Biulding - Transfer - Operate), viết tắt là BTO và Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (Building - Transfer), viết tắt là BT. Với hình thức BOT, các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn và có mức lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ công trình sẽ được chủ đầu tư chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ một khoản phí nào. Đối với hình thức BTO, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Tuy nhiên, nước chủ nhà phải dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư cùng với một khoản lợi nhuận hợp lý. Còn với hình thức BT, sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà; bù vào đó, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện một dự án nào khác nhằm thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận phù hợp. Ngoài ba hình thức chủ yếu nêu trên, người ta còn nói đến một số hình thức FDI khác như: công ty cổ phần có vốn FDI; hình thức đầu tư phát triển kinh doanh; hình thức mua lại và sáp nhập (Merger and Aquitition), viết tắt là M&A; hình thức công ty mẹ - con (Holding Company); hình thức chi nhánh công ty nước ngoài.
  48. 48 1.1.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài và các tiêu chí đánh giá kết quả đầu tư tực tiếp nước ngoài 1.1.2.1. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một nguồn vốn đầu tư quan trọng, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, mở ra nhiều ngành nghề và sản phẩm mới; góp phần giải quyết việc làm, nâng cao năng lực quản lý và trình độ tay nghề cho người lao động; tạo điều kiện thuận lợi để tiếp nhận và chuyển giao những công nghệ tiên tiến trên thế giới vào nội địa; mở rộng thị trường xuất khẩu cùng nhiều hiệu ứng tích cực khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế mà còn có tác động tích cực đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả lĩnh vực quốc phòng. Sự hiện diện của các doanh nghiệp có vốn FDI đã và đang tạo ra những điều kiện, khả năng mới cho việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu của công cuộc bảo vệ Tổ quốc, cũng như yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhìn từ góc độ lý luận, có thể thấy vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư thể hiện trên một số nét chính như sau: Thứ nhất, hoạt động FDI góp phần tạo môi trường hoà bình, ổn định - yếu tố luôn cần thiết cho phát triển kinh tế. Một trong những vấn đề hết sức bức thiết đối với các quốc gia, dân tộc hiện nay là tập trung mọi nguồn lực, mọi khả năng để phát triển kinh tế, tạo sự bứt phá về kinh kinh tế. Muốn phát triển kinh tế, theo đó là tăng cường tiềm lực kinh tế đất nước, trước hết cần phải giữ vững môi trường hoà bình, ổn định thông qua nhiều con đường, biện pháp khác nhau, trong đó đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, thu hút FDI là một nội dung quan trọng.
  49. 49 Hoạt động FDI khiến cho quốc gia tiếp nhận đầu tư tham gia ngày càng sâu hơn, rộng hơn vào các quan hệ kinh tế quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng thương lượng. Mặt khác, sự xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp có vốn FDI đến từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau trên cùng một địa bàn sẽ tạo thế đan cài về lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế. Từ đó, môi trường hoà bình, ổn định được thiết lập; kinh tế có điều kiện phát triển. Đây là yếu tố rất quan trọng giúp cho các quốc gia thực hiện chiến lược dài hạn trên các lĩnh vực khác của đời sống, kể cả lĩnh vực quốc phòng. Thứ hai, FDI góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế đất nước, tạo điều kiện thực hiện an sinh xã hội, củng cố quốc phòng. “Tiềm lực kinh tế, khả năng về kinh tế có thể khai thác, huy động nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế, phát triển xã hội và củng cố quốc phòng; là cơ sở vật chất của các tiềm lực khác” [128, tr.766]. Tiềm lực kinh tế biểu hiện ở trình độ, khối lượng sản xuất xã hội; ở khả năng phát triển và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, ở nguồn dự trữ tài nguyên và lao động Cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ, bất kỳ một nền kinh tế nào cũng đều được cấu thành bởi những thực thể kinh tế khác nhau (trong đó có các thực thể kinh tế hình thành từ nguồn vốn FDI) và sự phát triển của các thực thể kinh tế này luôn có tác động trực tiếp tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Với ưu thế về vốn, công nghệ và kinh nghiệm trong quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp hình thành từ nguồn vốn FDI thường đạt được tốc độ phát triển khá cao, tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, kích thích các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế tự đổi mới, tự hoàn thiện để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều đó đã, đang và sẽ góp phần tạo ra một diện mạo mới cho nền kinh tế, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho GDP, cho ngân sách Nhà nước, tức là làm tăng khả giải quyết các vấn đề xã hội thông qua phát triển kinh tế.
  50. 50 Trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, tiềm lực kinh tế được biểu hiện ở các mặt chủ yếu như: khối lượng nhân lực, vật lực, tài lực có thể động viên phục vụ cho quốc phòng, mà hoạt động quân sự là đặc trưng; tính cơ động của nền kinh tế; sức sống của nền kinh tế trước thử thách ác liệt của công cuộc phòng thủ đất nước (nếu chiến tranh xảy ra). Mức độ huy động tiềm lực kinh tế cho chiến tranh, cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng phụ thuộc vào mục đích, tính chất của từng cuộc chiến tranh và nhiệm vụ quân sự cụ thể, vào bản chất chế độ xã hội và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy, dưới góc độ quốc phòng, tiềm lực kinh tế quyết định đến khối lượng nhân lực, vật lực, tài lực có thể động viên cho quốc phòng; tính cơ động của nền kinh tế và sức sống của nền kinh tế trước những thử thách ác liệt của cuộc chiến. Ph.Ăngghen - một nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ: “không có gì lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế tiên quyết hơn là chính ngay quân đội và hạm đội” [5, tr.235]. Đối với Việt Nam, chính sự phát triển kinh tế dưới tác động tích cực cuả FDI những năm gần đây đã bổ sung một lượng ngân sách lớn để mua sắm vũ khí, trang thiết bị hiện đại, góp phần nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu cho quân đội, cho lực lượng vũ trang, nhất là hải quân, không quân, cảnh sát biển, tác chiến điện tử nhằm đối phó với những thách thức ngày càng có chiều hướng gia tăng về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nhất là chủ quyền và an ninh trên biển. Thứ ba, FDI thúc đẩy sự phát triển tiềm lực KH - CN, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Trong điều kiện hiện nay, tiềm lực KH - CN có ý nghĩa rất lớn đến sức mạnh kinh tế của một quốc gia. Đó là trình độ đã đạt được và tốc độ phát triển của tất cả các ngành khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học kỹ thuật), là khả năng và sự sẵn sàng của khoa học để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ lâu dài cũng như trước mắt nhằm thoả mãn các nhu cầu của
  51. 51 xã hội, trước hết là những yêu cầu trong phát triển kinh tế. Tiềm lực khoa học công nghệ được cấu thành bởi nhiều yếu tố: nhân lực (đội ngũ cán bộ khoa học), vật lực (cơ sở vật chất kỹ thuật), tài lực (các nguồn vốn đầu tư), tin lực (thông tin khoa học công nghệ) và hệ thống các cơ quan, viện nghiên cứu. Tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia lớn mạnh sẽ là nền tảng vững chắc cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trên thực tế, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, các quốc gia luôn tìm cách huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực mà vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng. Trong những trường hợp nhất định, việc thiếu hụt nguồn vốn đầu tư (căn bệnh thường gặp của các nước đang phát triển) có thể được giải quyết một phần bằng chính sách thắt chặt chi tiêu. Tuy nhiên, để phát triển KH - CN, cùng với đó là tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến thì phải sử dụng những phương thức khác, trong đó có thu hút FDI Thu hút FDI có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển tiềm lực khoa học - công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nâng cao năng lực sản xuất và năng suất lao động tại nước tiếp nhận đầu tư. Thông qua thu hút FDI, đặc biệt là FDI tử các TNC, MNC, quốc gia tiếp nhận đầu tư có cơ hội tiếp thu KH - CN hiện đại và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã phải tích luỹ trong nhiều năm, với những khoản chi phí rất tốn kém. Quá trình vận hành của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, cùng với sự gia tăng của nguồn vốn FDI, các dây chuyền sản xuất hiện đại cũng như các thành tựu khoa học kỹ thuật mới của thế giới sẽ thâm nhập, thẩm thấu vào nước sở tại. Nhờ đó mà trình độ sản xuất, kinh doanh của nước sở tại sẽ dần được thu hẹp so với các nước phát triển. Phần nhiều công nghệ của các TNC, MNC được chuyển giao cho vào nước tiếp nhận đầu tư thông qua các chi nhánh của nó. Cùng với quá trình chuyển giao công nghệ, phổ biến công nghệ, những kỹ năng quản lý tiến tiến như xây dựng chiến lược kinh doanh, điều hành sản xuất, quản trị nhân lực, tài chính cũng dần thâm nhập vào nước sở tại như một hệ quả tất yếu.
  52. 52 Thứ tư, FDI góp phần phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng lao động, đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế. Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực con người có vài trò quyết định, nó được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài nguyên. Do vậy, nhu cầu phát triển về số lượng cùng với đó là nâng cao chất lượng lao động trong giai đoạn hiện nay ở mỗi quốc gia dân tộc là vấn đề được nhiều nước đặc biệt quan tâm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự tác động mạnh mẽ đến việc phát triển nguồn nhân lực của nước tiếp nhận đầu tư cả về số lượng và chất lượng. Số lượng lao động ở đây được hiểu là vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Hoạt động FDI kéo theo sự hình thành và mở rộng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khiến cho nhu cầu sử dụng lao động ở nước sở tại tăng lên. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các doanh nghiệp có FDI rất chú trọng đến chất lượng con người, tạo điều kiện cho người lao động thuộc quyền được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng và công nghệ tiến tiến. Việc đào tạo lao động của doanh nghiệp FDI được thực hiện không chỉ đối với những người trực tiếp sản xuất mà cả đới với những người đảm nhiệm chức năng quản lý hay quản trị doanh nghiệp. Trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt, bản thân người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng được rèn luyện về tính tổ chức, tính kỷ luật, tác phong lao động công nghiệp, đồng thời thích ứng dần với cơ chế quản lý mới. Như vậy, rõ ràng FDI đã góp phần phát triển số lượng, nâng cao chất lượng lao động ở nước tiếp nhận đầu tư, ảnh hưởng tích cực đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng. Thứ năm, ở Việt Nam, FDI góp phần giải quyết những vấn đề xã hội, củng cố lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, sự quản lý của Nhà nước XHCN. Mục đích của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là huy động tối đa mọi nguồn lực, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn
  53. 53 về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ngoài những yếu tố tích cực cũng chứa đựng nhiều yếu tố tiêu cực cần có vai trò điều tiết của chính phủ ở Trung ương và địa phương, đó là những hệ quả về mặt xã hội như phân hoá giàu nghèo, vấn đề việc làm, thu nhập, các tệ nạn xã hội Quan điểm nhất quán của Việt Nam là không phát triển kinh tế bằng mọi giá, mà cùng với phát triển kinh tế phải quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội - hệ quả của kinh tế thị trường, quan tâm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, “đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng”[43, tr.77]. “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục”[43, tr.77]. Để giải quyết tốt các vấn đề xã hội trong phát triển kinh tế thị trường, Nhà nước cần có thực lực kinh tế mạnh thông qua việc phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước và các khoản thu từ các doanh nghiệp không thuộc sở hữu Nhà nước. Chính sự hiện diện của khu vực kinh tế hình thành từ nguồn vốn FDI, kéo theo sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế sẽ trực tiếp góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế đất nước, làm cho thu nhập của người lao động tăng lên; đời sống đại bộ phận các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Nhờ đó mà niềm tin của quần chúng nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng cầm quyền, của Nhà nước được củng cố. Rõ ràng, FDI có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư mà Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Song vai trò đó có được thực thi hay không, thực thi như thế nào, ở mức độ nào, hoàn toàn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người thông qua việc nhận thức được nó, tạo cơ chế, chính sách để nó phát huy tác dụng. 1.1.2.2. Tiêu chí đánh giá kết quả đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, kể cả các hiện tượng và quá trình kinh tế luôn
  54. 54 ở trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Sự vận động và biến đổi không ngừng của các hiện tượng và quá trình kinh tế, một mặt chịu sự tác động của ngoại cảnh, mặt khác cũng bắt nguồn từ chính các nhân tố mang tính nội tại của các hiện tượng và quá trình kinh tế ấy. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày nay là một tất yếu kinh tế và khu vực kinh tế hình thành từ nguồn vốn này có kết cấu phức tạp, cùng với các khu vực kinh tế khác hợp thành nền kinh tế hoàn chỉnh. Bởi vậy, nghiên cứu đánh giá kết quả thu hút FDI là nghiên cứu quá trình thay đổi về số lượng, cơ cấu và chất lượng các yếu tố cơ bản hợp thành, nghiên cứu quá trình thay đổi vị thế, vai trò của nó trong nền kinh tế. Từ cách tiếp cận trên, tác giả cho rằng: Để đánh giá kết quả thu hút FDI nói chung và kết quả thu hút FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ cần dựa vào những tiêu chí nhất định, bao hàm những biến động của dòng vốn FDI, những thay đổi về số lượng, cơ cấu, quy mô dòng vốn FDI cùng số và chất lượng các yếu tố hợp thành trong các doanh nghiệp có vốn FDI, kéo theo sự thay đổi về vị thế, vai trò của khu vực FDI trong nền kinh tế. Các tiêu chí đánh giá kết quả thu hút FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ được khái quát như sau: Thứ nhất, sự thay đổi số lượng, quy mô vốn đầu tư sản xuất kinh doanh kéo theo sự thay đổi của số lượng và quy mô doanh nghiệp có vốn FDI. Nói đến FDI, người ta thường đề cập đến nhiều yếu tố khác nhau và một trong những yếu tố được nhắc đến trước tiên là sự thay đổi của nguồn vốn đầu tư sản xuất kinh doanh. Trên thực tế, để sản xuất và tái sản xuất mở rộng, các doanh nghiệp phải xây dựng nhà máy, xí nghiệp, mua máy móc, trang thiết bị, nguyên, nhiên liệu, thuê mướn nhân công. Muốn vậy, cần phải có một lượng tiền vốn nhất định. Nói cách khác, vốn là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng đối với mọi doanh nghiệp, ở mọi khu vực của nền kinh tế. Quá trình gia tăng hay suy