Đề cương bài giảng Kinh tế thương mại đại cương

pdf 88 trang vanle 3040
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề cương bài giảng Kinh tế thương mại đại cương", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfde_cuong_bai_giang_kinh_te_thuong_mai_dai_cuong.pdf

Nội dung text: Đề cương bài giảng Kinh tế thương mại đại cương

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI Bộ môn kinh tế thương mại ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG Hà nội tháng 2/2006 1
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI Bộ môn kinh tế thương mại ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG KINH TẾ THƯƠNG MẠI ĐẠI CƯƠNG Chủ biên: TS. Ngô Xuân Bình Tham gia biên soạn: TS. Ngô Xuân Bình TS. Thân Danh Phúc TS. Hà Văn Sự Hà nội tháng 2/2006 2
  3. Chương 1: chương mở đầu 1.1. Bản chất kinh tế của thương mại 1.1.1. Lịch sử về sự ra đời của thương mại Thương mại là một phạm trù kinh tế ra đời và tồn tại gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Kinh tế hàng hóa. Về mặt lịch sử, kinh tế loài người đã trải qua hai quá trình là Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Xã hội loài người bắt đầu bằng kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế tự nhiên con người sản xuất ra các sản phẩm với mục đích phục vụ cho nhu cầu của bản thân họ,vì thế chưa có trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Trao đổi hàng hóa chỉ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa khi phân công lao động xã hội đã tương đối phát triển và chế độ tư hữu hình thành. Trong lịch sử phát triển loài người trao đổi hàng hóa xuất hiện vào giai đoạn cuối của xã hội cộng đồng nguyên thủy và thời kỳ đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ. Lúc đầu trao đổi mang tính ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp theo hình thức hàng đổi hàng (H-H’). Khi xã hội xuất hiện tiền tệ thì từ đó trao đổi được tiến hành thông qua môi giới của tiến tệ (H- T – H’) và lưu thông hàng hóa ra đời. Lưu thông hàng hóa là hình thái phát triển của trao đổi hàng hóa, đó là sự trao đổi hàng hóa thông qua môi giới của tiền tệ. Lưu thông hàng hóa ra đời làm cho quá trình mua bán trao đổi dễ dàng hơn, thuận tiện , mở rộng hơn về không gian và thời gian. Nó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của trao đổi và đưa đến sự phủ định trao đổi hàng hóa trực tiếp. Tuy nhiên sự tách rời giữa quá trình mua bán cũng làm xuất hiện mầm mống của mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng. Do vậy cũng làm nảy sinh những điều kiện dẫn tới khủng hoảng sản xuất và tiêu thụ. Trong trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thông hàng hóa, chủ thể của hoạt động trao đổi là những người sản xuất và những người tiêu dùng, không có sự tham gia của những người trung gian (thương nhân) . Mục đích của hoạt động trao đổi là giá trị sử dụng. Sự phát triển ngày càng cao của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một tầng lớp xã hội mới, đó là những người thương gia. Khác với những người sản xuất trực tiếp và những người tiêu dùng trực tiếp, thương gia bỏ tiền ra mua hàng hóa của những người sản xuất, sau đó bán lại để kiếm lời trong hoạt động buôn bán. Hoạt động kinh tế của những người thương gia thông qua mua bán để kiếm lời chính là hoạt động thương mại (T - H - T'). 3
  4. Khác với trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thông hàng hóa, hoạt động thương mại bắt đầu bằng tiền với hành vi mua và kết thúc cũng bằng tiền với hành vi bán. mục đích của hoạt động thương mại không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị cụ thể là nhằm vào lợi nhuận. Lưu thông hàng hóa ra đời đã phủ định trao đổi hàng hóa trực tiếp, ngược lại thương mại ra đời không đưa đến sự phủ định lưu thông mà trái lại nó làm cho lưu thông hàng hóa phát triển ở một trình độ cao hơn. Như vậy, sự xuất hiện của hoạt động thương mại gắn liền với sự xuất hiện của thương gia. Về lịch sử, những người thương gia xuất hiện vào cuối chế độ công xã nguyên thủy và đầu chế độ phong kiến Những hoạt động thương mại lúc đầu chỉ giới hạn chủ yếu trong lĩnh vực trao đổi các sản phẩm hữu hình (thương mại hàng hóa), sau đó được mở rộng sang các sản phẩm vô hình (thương mại dịch vụ), và trong nền kinh tế hiện đại, thương mại còn liên quan rất chặt chẽ với các hoạt động đầu tư và sở hữu trí tuệ. Những người thương gia ngày càng đông trong xã hội như là kết quả tất yếu của quá trình phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng và chuyên sâu . Khi đó, một bộ phận lao động xã hội tách khỏi sản xuất, độc lập với sản xuất, chuyên làm chức năng lưu thông làm xuất hiện một ngành kinh tế mới đó là ngành Thương mại. Ngành thương mại ra đời như là kết quả tất yếu của sự phát triển trao đổi và phân công lao động xã hội. Phân công lao động lần thứ nhất bằng việc tách chăn nuôi ra khỏi trồng trọt đã thúc đẩy sự phát triển của trao đổi và tiền tệ xuất hiện trong giai đoạn này. Phân công lao động lần thứ hai bằng việc tách thủ công nghiệp khỏi nông nghiệp, sản xuất hàng hóa hình thành. Phân công lao động lần thứ ba với việc tách riêng chức năng tiêu thụ khỏi chức năng sản xuất, đã làm xuất hiện một ngành kinh tế chuyên làm chức năng trao đổi, mua bán nhằm vào mục đích kiếm lời trong nền kinh tế đó là ngành thương mại. Phân công lao động xã hội vẫn tiếp tục phát triển và tạo ra nhiều ngành mới. Trong lĩnh vực thương mại, ngoài ngành phân phối là ngành chuyên cung cấp các dịch vụ mua bán hàng hóa hữu hình gồm bán buôn và bán lẻ, còn có các ngành thương mại dịch vụ chuyên đảm nhận việc cung ứng dịch vụ cho thị trường thông qua các hoạt động thương mại vì mục đích lợi nhuận (hiện nay theo phân loại của WTO, lĩnh vực thương mại dịch vụ được phân thành 12 ngành, trong đó có 155 tiểu ngành dịch vụ khác nhau). Ngành thương mại ra đời vừa là sự tiến bộ của lịch sử, vừa là điều kiện thúc đẩy sự phát triển một bước cao hơn nữa của sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là 2 yếu tố cơ bản hợp thành Kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa tất nhiên sản sinh và hình thành thị trường. Vì thế, nói tới thương mại, nói đến kinh tế hàng hóa, không thể tách rời phạm trù thị trương và kinh tế thị 4
  5. trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường, cũng như thương mại và thị trường đó là những mặt không thể tách rời nhau của cùng một sự vật. 1.1.2. Bản chất kinh tế của thương mại 1.1.2.1. Một số cách tiếp cận khi nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại Nghiên cứu bản chất kinh tế của Thương mại chúng ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong giáo trình này chúng tôi sẽ đề cập tới 3 cách tiếp cận cơ bản nhất: a. Thương mại - hoạt động kinh tế. Nếu nhìn dưới góc độ một hoạt động kinh tế thì thương mại là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản và rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Mọi hoạt động thương mại đều bắt đầu bằng hành vi mua hàng và kết thúc bằng hoạt động bán.Mục đích của hoạt động thương mại là nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Có thể tóm tắt hoạt động thương mại bằng công thức sau: T - H - T' . Đối tượng của các hoạt động thương mại là các hàng hóa vá dịch vụ. Chủ thể của hoạt động thưong mại gồm những người bán (người sản xuất hàng hóa, người cung ứng dịch vụ, thương gia ) và những người mua( người sản xuất, thương gia, những người tiêu dùng).Tuy nhiên tham gia vào hoạt động thương mại còn có một số người khác như : người môi giới, người đại lý thương mại Hoạt động thương mại xảy ra trong khâu lưu thông, trên thị trường với những điều kiện kinh tế, xã hôi, luật pháp, chính tri, và môi trường vật chất cụ thể. Trong hành vi mua, người ta chuyển đổi hình thái giá trị của hàng hóa từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật và cùng với quá trình này là sự chuyển đổi về sở hữu, người mua đổi quyền sở hữu tiền tệ để có được quyền sở hữu hàng hóa. Nhờ vậy mà có được quyền sử dụng sản phẩm cho việc thỏa mãn nhu cầu. Trong hành vi bán hàng, quá trình diễn ra hoàn toàn ngược lại. Hoạt động thương mại là một quá trình bao gồm các hoạt động cơ bản là mua và bán. Ngoài các hoạt động cơ bản còn có các hoạt động hỗ trợ cho các hoạt động mua bán, người ta gọi chung các hoạt động này là dịch vụ thương mại. Dịch vụ thương mại gồm tất cả những hoạt động thương mại ngoài hoạt động thương mại cơ bản (hoạt động mua và bán ), chúng phát sinh gắn với mua bán, hỗ trợ cho mua bán được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả. Hoạt động thương mại được tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận và cùng có lợi. Vì thế quá trình mua bán vừa là quá trình cạnh tranh vừa là quá trình hợp tác giữa người bán và người mua. Thông qua các hoạt động thương mại, người bán đạt được giá trị nhằm mục đích lợi nhuận, người mua có được giá trị sử dụng để thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng khác nhau. 5
  6. Chính nhờ hoạt động thương mại mà sản xuất và tiêu dùng nối liền với nhau trong điều kiện của kinh tế hàng hóa. b. Thương mại - khâu trao đổi (lưu thông) của quá trình tái sản xuất xã hội Tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu cơ bản: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Bốn khâu này có quan hệ mật thiết và tác động qua lại với nhau trong đó mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng là mối quan hệ cơ bản nhất. Là hình thái phát triển của trao đổi và lưu thông hàng hóa, thương mại được coi là một khâu cơ bản của tái sản xuất. Thương mại chính là khâu trao đổi nằm trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện xã hội hóa sản xuất và lưu thông hàng hóa ngày một phát triển, hàng hóa được tạo ra trong khâu sản xuất, sau đó được chuyển sang khâu lưu thông qua các giai đoạn khác nhau của khâu lưu thông: Mua > Vận chuyển > Dự trữ > Bán. Kết thúc khâu lưu thông, hàng hóa sẽ được chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng. Trong điều kiện kinh tế hàng hóa, đại bộ phận các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất ra đều phải trải qua khâu lưu thông, thông qua hoạt động mua bán bằng tiền mới có thể chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu khác nhau của xã hội. Vì thế khâu lưu thông rất quan trọng. Nó là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Nền kinh tế hàng hóa giống như một cơ thể sống. Trong đó, lưu thông hàng hóa, thương mại được xem như hệ tuần hoàn. Thương mại phát triển, lưu thông hàng hóa thông suốt là biểu hiện của nền kinh tế lành mạnh, thịnh vượng. c. Thương mại - ngành kinh tế Nếu nhìn dưới giác độ phân công lao động xã hội thì thương mại được coi là một ngành kinh tế độc lập của nền kinh tế. Ngành thương mại chuyên đảm nhận chức năng tổ chức lưu thông hàng hóa và cung ứng các dịch vụ cho xã hội thông qua việc thực hiện mua bán nhằm sinh lợi. 1.1.2.2. Bản chất kinh tế của Thương mại Nghiên cứu Thương mại dưới các góc độ cơ bản: Hoạt động kinh tế, khâu của quá trình tái sản xuất xã hội cũng như góc độ ngành kinh tế của nền kinh tế quốc dân, chúng ta đều nhận thấy đặc trưng chung nhất của Thương mại là buôn bán, trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ gắn với tiền tệ và nhằm mục đích lợi nhuận. Từ đó có thể rút ra bản chất kinh tế chung của Thương mại là: Thương mại là tổng hợp các hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế gắn và phát sinh cùng với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằmi mục đích lợi nhuận. Thương mại, tiếng Anh là “Commerce” , ngoài ra còn có thuật ngữ khác là Trade, tiếng Pháp “Commerce”, tiếng Latinh “Commercium”, về cơ bản các từ này đều được hiểu là buôn bán hàng hóa với mục đích sinh lợi. Luật Thương mại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi: 6
  7. Hoạt động Thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. 1.1.3. Phân loại Thương mại 1.1.3.1. Theo phạm vi hoạt động thương mại Người ta phân thành Thương mại nội địa (nội thương) và Thương mại Quốc tế (ngoại thương) Thương mại nội địa có thể được phân thành: Thương mại thành thị và Thương mại nông thôn, Thương mại vùng đặc biệt,thương mại biên giới, thương mại vùng sâu, vùng xa, Thương mại nội địa phản ánh những quan hệ kinh tế thị trường của các chủ thể kinh tế của một quốc gia. Các hoạt động thương mại nội địa về cơ bản diễn ra trong phạm vi biên giới của một quốc gia. Thương mại Quốc tế bao gồm việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua biên giới quốc gia có thể ở phạm vi toàn cầu (WTO), có thể ở phạm vi khu vực (EU, ASEAN ) hoặc thương mại song phương giữa 2 quốc gia. Thương mại quốc tế phản ánh những mối quan hệ kinh tế thương mại giữa các chủ thể kinh tế của các quốc gia với nhau. Chúng tuân thủ những luật lệ và những thông lệ buôn bán toàn cầu, khu vực và các hiệp định thương mại ký kết song phương giữa các quốc gia. Trong hoạt động ngoại thương, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho nước ngoài và nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài. Ngoại thương là hoạt động kinh tế đã có từ rất lâu, nhưng ngoại thương chỉ thực sự phát triển trong thời đại Tư bản chủ nghĩa. Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế thế giới và tự do hóa thương mại là một xu hướng phổ biến, thì sự phát triển ngoại thương hết sức mạnh mẽ. Ngoại thương không chỉ có ý nghĩa đơn thuần là sự trao đổi buôn bán với bên ngoài mà thực chất cùng với các quan hệ kinh tế đối ngoại khác ngoại thương tham gia vào phân công lao động quốc tế. Thương mại nội địa diễn ra trên thị trường nội địa, ngoại thương là hoạt động thương mại diễn ra trên thị trường quốc tế. Thị trường thế giới và thị trường nội địa là những thị trường khác nhau vì vậy thương mại nội địa và ngoại thương được thực hiện theo những hình thức và phương pháp hoàn toàn không giống nhau. 1.1.3.2. Theo các khâu của quá trình lưu thông Người ta phân thành Thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ. Thương mại bán buôn chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực buôn bán các sản phẩm vật thể. Chủ thể của hoạt động thương mại bán buôn là những nhà sản xuất và thương gia. Chúng phản ánh các mối quan hệ kinh tế thương mại giữa những nhà sản xuất, giữa nhà sản xuất với thương gia và giữa những người thương gia với nhau. Khi hoàn thành các hoạt động 7
  8. mua bán buôn, hàng hóa vẫn chưa kết thúc quá trình lưu thông, chúng nằm lại trong khâu sản xuất để sau khi kết thúc sản xuất lại tiếp tục quay trở lại lưu thông hoặc vẫn nằm trong lưu thông để chờ bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Thương mại bán lẻ: phản ánh mối quan hệ buôn bán hàng hóa và các dịch vụ giữa những nhà sản xuất, nhà cung ứng dịch vụ hoặc các thương gia với bên kia là những người tiêu dùng cuối cùng. Khi hoàn thành các hoạt động mua, bán lẻ hàng hóa sẽ kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng để thỏa mãn những nhu cầu khác nhau của xã hội. Sự phân biệt giữa thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ dựa chủ yếu về sự khác biệt theo các khâu của quá trình lưu thông của sản phẩm. Bất kỳ mối quan hệ thương mại nào mà một bên có sự tham gia của người tiêu dùng cuối cùng quan hệ thương mại đó thuộc về thương mại bán lẻ và ngược lại thì đó là thương mại bán buôn. Các hoạt động bán buôn diễn ra ở các chợ đầu mối, thị trường với trung tâm buôn bán trong nước và quốc tế Ngược lại, hoạt động bán lẻ diễn ra ở các chợ, các cửa hàng chuyên doanh, tổng hợp, các siêu thị, hội chợ thương mại 1.1.3.3. Theo đối tượng của hoạt động thương mại Ngưới ta phân thành thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ. Thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ là những khái niệm phân biệt với nhau chủ yếu dựa vào sự khác biệt về đối tượng của hoạt động trao đổi trong thương mại. Nếu thương mại hàng hóa về cơ bản là trao đổi các sản phẩm hữu hình thì Thương mại dịch vụ là lĩnh vực trao đổi, mua bán các sản phẩm “vô hình” . Thương mại dịch vụ là lĩnh vực rất rộng và phức tạp. Trong nền kinh tế hiện đại, thương mại dịch vụ ngày càng phát triển mạnh mẽ. Thương mại dịch vụ tồn tại song song cùng thương mại hàng hóa và ngày càng giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của xã hội hiện đại. Thương mại hàng hóa gồm thương mại hàng tư liệu sản xuất và thương mại hàng tiêu dùng. Người ta có thể phân chia thương mại theo từng nhóm hàng. Ví dụ: Thương mại về hàng công nghiệp, hàng nông sản, thực phẩm, thủy sản,hay theo mặt hàng Ví dụ như: gạo, cà phê, chè hay sắt thép, máy nông nghiệp 1.1.3.4. Theo kỹ thuật trao đổi, buôn bán Người ta phân thành thương mại truyền thống và thương mại điện tử. Sự phân biệt giữa hai khái niệm này dựa trên sự khác biệt về các phương thức mua bán trong thương mại. Các phương thức mua bán trong thương mại truyền thống được xẩy ra trong môi trường tự nhiên ở đó người mua, người bán thường tiếp xúc trực tiếp trên thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau.Trong thương mại truyền thống người 8
  9. mua người bán gặp gỡ trực tiếp, tiến hành các giao dịch mua bán ở các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, hội chợ triển lãm thương mại truyền thống đã có từ rất lâu cùng với sự ra đời của trao đổi . Ngược lại, thương mại điện tử là một phương thức trao đổi mua bán bằng phương pháp điện tử trong môi trường điện tử. Thương mại điện tử chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại. Hiện nay thương mại điện tử đang phát triển rất nhanh chóng trên toàn thế giới và đó là xu hướng phát triển tất yếu vừa là yếu tố hợp thành của nền kinh tế số hóa. Theo định nghĩa phổ biến hiện nay, thương mại điện tử là phương thức hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử, là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử mà không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch. Các phương tiện điện tử được sử dụng trong phương thức mua bán này rất đa dạng: điện thoại, máy fax, truyền hình,các hệ thống thiết bị công nghệ thanh toán điện tử, các mạng nội bộ (intranet), mạng ngoại bộ (extranet), mạng toàn cầu internet Cần lưu ý rằng “Thương mại điện tử” còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn so với cách hiểu thông thường chỉ là buôn bán các hàng hóa và dịch vụ. Trong thực tế, áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các hoạt động kinh tế. Thương mại điện tử sẽ trở thành phương thức thương mại phổ biến trong xã hội tương lai, tuy nhiên thương mại truyền thống vẫn giữ nguyên giá trị về kinh tế và văn hóa, nó vẫn tồn tại song song cùng với thương mại điện tử mặc dù kinh tế thị trường và thương mại thế giới không ngừng mở rộng và phát triển. 1.1.3.5. Phân loại theo mức độ cản trở thương mại Người ta phân thành thương mại có bảo hộ và thương mại tự do hóa. Thương mại bảo hộ thường được các quốc gia áp dụng trong một số lĩnh vực nhạy cảm để bảo vệ các lợi ích quốc gia hoặc để bảo vệ sản xuất trong nước, nhất là đối với những ngành công nghiệp non trẻ, mới hình thành. Các biện pháp thường được sử dụng trong thương mại bảo hộ là thuế quan và các biện pháp phi thuế quan như: các biện pháp hành chính, cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép, các quy định kỹ thuật, các tiêu chuẩn đồng thời các quốc gia còn có thể áp dụng nhiều chính sách ưu đãi đối với sản xuất trong nước. Thương mại tự do hóa được thể hiện qua việc xóa bỏ và giảm thiểu hàng rào thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các thương nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa trong nước và quốc tế lưu thông thông suốt. Thương mại tự do hóa có nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. 9
  10. 1.2. Những lý thuyết cơ bản và lợi thế so sánh trong thương mại 1.2.1. Lý thuyết của Adam Smith Lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối ra đời vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX. Người đề xướng đầu tiên là David Hume (1752) tiếp đến là Adam Smith (1723-1790) và sau đó được tiếp tục phát triển bởi những người kế tục của ông. Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất, khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất một loại sản phẩm có thể do các lợi thế tự nhiên hoặc các lợi thế có được do kỹ thuật và sự lành nghề. Theo lý thuyết lợi thế so sánh tuyệt đối thì các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hóa này sang quốc gia khác để đổi lấy các sản phẩm mà nước ngoài có lợi thế hơn. Bằng việc chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm có lợi thế tuyệt đối cả hai quốc gia đều có lợi khi quan hệ thương mại với nhau. Ví dụ: Nước Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi trong việc trồng lúa mì. Ngược lại nước Anh có nhiều thuận lợi trong sản xuất vải vóc. Khi đó nước Mỹ sẽ chuyên môn hóa sản xuất lúa mì còn nước Anh sẽ chuyên môn hóa sản xuất vải vóc. Nước Anh sẽ sản xuất được nhiều vải vóc hơn và nước Mỹ cũng sẽ sản xuất được nhiều lúa mì hơn so với khi hai nước đó còn ở tình trạng tự túc tự cấp. Nước Mỹ sẽ tiến hành trao đổi một phần lúa mì để đổi lấy một lượng vải vóc của nước Anh. Người ta cũng chứng minh được rằng cả 2 nước Mỹ và Anh sẽ cùng được hưởng lợi nhờ quan hệ thương mại với nhau. 1.2.2. Lý thuyết của D. Ricardo hay còn gọi là lý thuyết về lợi thế so sánh Nhược điểm của lý thuyết về lợi thế so sánh tuyệt đối của A. Smith là không lý giải được hoạt động thương mại khi một trong hai nước có lợi thế tuyệt đối sản xuất tất cả các mặt hàng. David Ricardo đã phát triển và đưa ra một lý thuyết tổng quát hơn về thương mại so với lý thuyết của A. Smith đó là Lý thuyết lợi thế so sánh. Lý thuyết này được trình bày trong tác phẩm “những nguyên lý của kinh tế chính trị học 1817”. Theo D. Ricardo thương mại giữa 2 nước dựa trên lợi thế tương đối. Lợi thế tương đối hay còn gọi là lợi thế so sánh đề cập tới việc các quốc gia có thể sản xuất ra khối lượng các mặt hàng giống nhau khi sử dụng các nguồn lực như nhau nhưng với chi phí khác nhau. Do sự không đồng đều về lợi thế tuyệt đối, nếu mỗi nước chuyên môn hóa vào sản xuất mặt hàng có lợi thế tuyệt đối lớn hơn và dùng một phần để trao đổi với nước khác bằng mặt hàng có lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn thì cả 2 nước sẽ cùng thu được lợi ích thông qua thương mại. Ví dụ: 10
  11. Có 2 nước X và Y và cùng có 2 loại hàng dệt may và lúa mì. Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước X a = Chi phí sản xuất hàng dệt may của nước Y Chi phí sản xuất lúa mì của nước X b = Chi phí sản xuất lúa mì của nước Y Nếu a < b thì nước X nên chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may và ngược lại nước Y chuyên môn hóa vào sản xuất và xuất khẩu lúa mì. Sau quá trình chuyên môn hóa và thương mại, tổng sản phẩm hàng dệt may và lúa mì mà 2 nước sản xuất đều tăng lên và số lượng hàng hóa mà người dân của mỗi nước có thể tiêu dùng đều được cải thiện. 1.2.3.Lý thuyết của Haberler về lợi thế so sánh Lợi thế tương đối là một khái niệm rất quan trọng của kinh tế học. Hạn chế của David Ricardo ở chỗ mới chỉ đề cập đến khái niệm lợi thế tương đối trên cơ sở lý thuyết về lao động, trong khi đó lao động lại chỉ là một yếu tố của sản xuất. Haberler đã đưa ra cách giải thích toàn diện hơn dựa trên lý thuyết về chi phí cơ hội. Theo Haberler, chi phí cơ hội của hàng hóa là số lượng các hàng hóa khác phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn tài nguyên để sản xuất thêm 1 đơn vị hàng hóa thứ nhất. Một nước có lợi thế tương đối về sản xuất một mặt hàng nào đó so với nước khác khi nó có thể sản xuất mặt hàng đó với chi phí cơ hội thấp hơn so với nước khác. Ví dụ: ở 2 nước X và Y khi không có thương mại quốc tế thì X phải bỏ đi 2/3 số đơn vị của vải để sản xuất thêm 1 đơn vị của thép. Như thế chi phí cơ hội sản xuất thép ở X là 1 thép = 2/3 đơn vị vải vóc. Còn ngược lại, chi phí cơ hội về thép ở nước Y là 1 thép = 2 vải. Vậy là nước X có lợi thế về sản xuất thép còn nước Y có lợi thế tương đối trong sản xuất vải. Theo lập luận của lý thuyết này thì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh so với một quốc gia khác trong việc sản xuất một sản phẩm khi mà chi phí cơ hội để sản xuất sản phẩm này ở quốc gia này là rẻ hơn so với quốc gia khác. Và theo đó, mỗi quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh để đổi lấy các sản phẩm mà nước khác sản xuất rẻ hơn một cách tương đối. Người ta cũng chứng minh được rằng trong quan hệ thương mại này cả 2 quốc gia đều cùng có lợi. 1.2.4.Lý thuyết của Heckscher – Ohlin Hai nhà kinh tế học Thụy Điển Eli Heckscher (1919) và Recto Ohlin (1933) đưa ra một cách giải thích khác về nguồn gốc của lợi thế so sánh. Theo hai ông, lợi thế so sánh của một quốc gia xuất phát từ sự khác biệt về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Các yếu tố sản xuất mà lý thuyết này đề cập là: đất đai, lao động và tư bản. 11
  12. Trên cơ sở lý thuyết về lợi thế tương đối, Heckscher và Ohlin đã phân tích ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tiềm tàng đến thương mại và giải thích các động thái thương mại xuất phát từ sự khác nhau về mức độ sẵn có của các yếu tố sản xuất. Một quốc gia sẽ chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất chúng sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó tương đối dư thừa và rẻ, đồng thời sẽ nhập khẩu những mặt hàng khi sản xuất chúng đòi hỏi sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó tương đối khan hiếm và đắt. Cụ thể một quốc gia tương đối dư thừa lao động, nhưng lại thiếu vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng cần nhiều lao động và nhập khẩu những mặt hàng cần nhiều vốn. Heckscher và Ohlin cũng cho rằng trong trường hợp này, quan hệ thương mại làm lợi cho cả 2 quốc gia tham gia vào trao đổi 2.3. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu môn học Kinh tế thương mại 2.3.1. Đối tượng, nội dung và kết cấu của môn học kinh tế thương mại Kinh tế thương mại là môn học kinh tế, môn kinh tế ngành. Giống như kinh tế chính trị học và kinh tế học là những môn khoa học nghiên cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế chi phối và vận động nền kinh tế quốc dân. Kinh tế thương mại dựa trên những nguyên lý mà kinh tế chính trị học, kinh tế học đã phát hiện để đi sâu nghiên cứu các nguyên lý, các quy luật kinh tế nhằm bổ sung và cụ thể hóa chúng trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa và dịch vụ. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế thương mại là tất cả các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ kinh tế trong lĩnh vực buôn bán trong một quốc gia và của quốc gia đó với bên ngoài. Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ kinh tế trong buôn bán nội địa và buôn bán quốc tế luôn vận động theo những quy luật và tính quy luật nhất định. Kinh tế thương mại nghiên cứu chúng nhằm tìm ra bản chất kinh tế của chúng, cũng như tìm ra các quy luật chung hoặc tính quy luật vận động của chúng. Trên cơ sở đó xây dựng cơ sở khoa học cho việc tổ chức và quản lý các hoạt động thương mại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Các hiện tượng, các hoạt động và các mối quan hệ thương mại một mặt vận động theo những quy luật chung, phổ biến, tuy nhiên những biểu hiện của chúng trong những điều kiện cụ thể, những quốc gia khác nhau và ở mỗi thời kỳ khác nhau của lịch sử đều có những nét riêng, đặc thù. Kinh tế thương mại không chỉ nghiên cứu những vấn đề chung, những nguyên lý chung và các quy luật chung trong lĩnh vực buôn bán mà nó còn nghiên cứu những vấn đề đặc thù trong những hoàn cảnh cụ thể, các quốc gia cụ thể và các giai đoạn lịch sử cụ thể. Việc nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của các nguyên lý, các quy luật chung trong lĩnh vực thương mại trong điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa (tập trung, quan liêu, bao cấp) sang nền kinh 12
  13. tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt nam hiện nay cũng là một nội dung nghiên cứu quan trọng của kinh tế thương mại. 2.3.2. Kết cấu của môn học kinh tế thương mại Kinh tế thương mại được chia làm 2 học phần: Học phần thứ nhất: Kinh tế thương mại đại cương. Học phần này nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức căn bản nhất về Kinh tế thương mại. Những khái niệm, phạm trù, nguyên lý và những quy luật trình bày trong học phần này là những vấn đề chung và có tính phổ biến cho mọi nước, mọi nền kinh tế. Học phần này bắt đầu nghiên cứu các khái niệm, phạm trù nhằm chỉ rõ bản chất kinh tế của thương mại. Tiếp đó là các vấn đề liên quan tới chức năng và các tác động của thương mại trên các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Những vấn đề tiếp sau là những vấn đề cốt lõi nhất của kinh tế thương mại hàng hóa, kinh tế thương mại dịch vụ và các khía cạnh thương mại có liên quan tới đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ theo cách tiếp cận của WTO. Từ đó tiếp tục nghiên cứu các vấn đề nguồn lực phát triển thương mại và hiệu quả thương mại theo cách tiếp cận phát triển bền vững. Học phần 2: Kinh tế thương mại. Học phần này chủ yếu nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất và đặc thù của kinh tế thương mại Việt nam trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Học phần này bắt đầu từ việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển thương mại Việt nam nhằm tổng kết và rút ra những bài học từ lịch sử. Tiếp đến là nghiên cứu những nội dung chủ yếu của quá trình chuyển đổi thương mại từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam từ năm 1986. Phần cuối của học phần sẽ nghiên cứu những vấn đề cốt lõi và đặc thù của kinh tế thương mại Việt nam như: thương mại và thị trường nông thôn, hội nhập thương mại Việt nam với thế giới và khu vực, kế hoạch hóa thương mại vĩ mô Khi đề cập đến nội dung của môn học, có thể có rất nhiều những ý kiến khác nhau. Những nội dung đề cập đến trong giáo trình này trước hết dựa vào chương trình môn học đã được hội đồng khoa học trường Đại học Thương mại thông qua. Ngoài ra những người biên soạn cố gắng chú trọng trình bày những vấn đề có tính chất phổ biến, và những vấn đề đặc trưng nhất, thiết yếu nhất của kinh tế thương mại Việt nam trong giai đoạn hiện nay. 2.3.3. Phương pháp nghiên cứu môn học và vị trí của môn học Kinh tế thương mại Kinh tế thương mại là môn học kinh tế ngành. Là môn khoa học xã hội nên các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng nghiên cứu kinh tế thương mại. 13
  14. Phương pháp duy vật biện chứng đòi hỏi phải nghiên cứu các sự vật và các hiện tượng trong sự vận động và trong mối quan hệ tác động qua lại với các hiện tượng và sự vật khác. Phép biện chứng duy vật coi nguồn gốc của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, và quá trình phát triển không ngừng của các hiện tượng và sự vật là sự tích lũy những biến đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Trong khi đó, phương pháp duy vật lịch sử đòi hỏi nghiên cứu sự vật, hiện tượng ở thực tại nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ, lịch sử của sự vật và hiện tượng đó. Nhờ vậy mà có thể dự báo được xu hướng vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng trong tương lai. Thương mại là một hệ thống kinh tế với sự tham gia của nhiều yếu tố cấu thành. Vì vậy phương pháp tiếp cận hệ thống cũng cần thiết sử dụng làm phương pháp nghiên cứu môn học. Ngoài ra môn học còn sử dụng nhiều phương pháp khác như điều tra xã hội, phân tích thống kê và mô hình hóa nhằm phân tích tổng hợp, diễn dịch và quy nạp nhằm làm rõ nội dung và đặc thù của môn học. Trong kinh tế thương mại cũng như các môn khoa học xã hội nói chung, phương pháp trừu tượng hóa khoa học có ý nghĩa rất to lớn. Trừu tượng hóa cho phép gạt bỏ những yếu tố cụ thể, ngẫu nhiên, rời rạc, để tìm thấy những cái điển hình, bền vững, ổn định, có tính phổ biến, trên cơ sở đó chỉ ra bản chất của các hiện tượng, phát hiện ra các quy luật và tính quy luật vận động của các hiện tượng các mối quan hệ kinh tế thương mại. Kinh tế thương mại là môn học chuyên môn chính trong chương trình đào tạo cử nhân kinh tế thương mại của trường đại học Thương mại. Ngoài ra kinh tế thương mại đại cương giữ vị trí của môn học cơ sở của các chuyên ngành quản trị kinh doanh, kinh doanh quốc tế, tài chính và kế toán thương mại và các chuyên ngành khác của trường đại học thương mại. Kinh tế thương mại có quan hệ chặt chẽ với các môn khoa học khác như kinh tế học, kinh tế chính trị học, kinh tế phát triển, lịch sử các học thuyết kinh tế Kinh tế thương mại sử dụng các khái niệm và phạm trù đó trong lĩnh vực lưu thông và trao đổi buôn bán các hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường. 14
  15. Chương 2: chức năng và Những tác động của thương mại 2.1. Chức năng của thương mại 2.1.1. Chức năng chung của thương mại Được hình thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phân công lao động xã hội nên chức năng của thương mại mang tính khách quan. Thương mại đã từng tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Bản chất kinh tế xã hội của các hình thái kinh tế xã hội này mặc dù có sự khác nhau nhưng chức năng chung của thương mại là giống nhau. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các chức năng của thương mại chứ không thể tùy tiện áp đặt hoặc thay đổi các chức năng đó. Trong mọi hình thái kinh tế xã hội còn tồn tại sản xuất và lưu thông hàng hóa chức năng của thương mại là thực hiện lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ thông qua mua bán bằng tiền. Tuy nhiên cũng cần phân biệt chức năng thương mại với các tư cách là khâu của tái sản xuất, hoạt động kinh tế và ngành kinh tế. Là hoạt động kinh tế thương mại thực hiện chức năng mua bán hàng hóa và các dịch vụ bằng tiền. Là một khâu của tái sản xuất thương mại thực hiện chức năng cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng thông qua trao đổi, đảm bảo thực hiện tái sản xuất nhanh chóng, hiệu quả trong điều kiện của kinh tế hàng hóa. Là một ngành kinh tế, thương mại thực hiện chức năng tổ chức lưu thông hàng hóa và cung ứng dịch vụ, thông qua mua bán để gắn liền sản xuất với thị trường trong và ngoài nước nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường về hàng hóa và dịch vụ với chi phí thấp nhất. 2.1.2. Biểu hiện chức năng của thương mại trong lĩnh vực thương mại hàng hóa Trong thương mại hàng hóa, chức năng của thương mại có thể được chia thành 2 nhóm chức năng cơ bản sau: 2.1.2.1. Chức năng thay đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị Thương mại có chức năng thay đổi hình thái giá trị từ tiền sang hình thái vật chất trong hành vi mua (T - H) và ngược lại trong hành vi bán. Cùng với việc thay đổi hình thái giá trị là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu về hàng hóa và tiền tệ. Quyền sở hữu tiền tệ chuyển từ người mua sang người bán và ngược lại, quyền sở hữu hàng hóa chuyển từ người bán sang người mua. 15
  16. Nhờ chức năng này của thương mại mà người bán đạt được giá trị nhằm tìm kiếm lợi nhuận, người mua có được các giá trị sử dụng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng khác nhau của họ. Để thực hiện được chức năng này, thương mại phải tiến hành hàng loạt những hoạt động gắn với việc thay đổi hình thái giá trị và chuyển đổi quyền sở hữu như: mua hàng, bán hàng, xúc tiến thương mại, tiếp thị, quảng cáo Về lý thuyết, các hoạt động này không tạo ra giá trị mới, không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hóa nhưng nó rất cần thiết và có ích cho xã hội. 2.1.2.2. Chức năng tổ chức quá trình phân phối hàng hóa, đưa hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất đến thị trường và tiếp tục hoạt động sản xuất trong lĩnh vực lưu thông Sản xuất với tiêu dùng thường không ăn khớp với nhau về không gian, thời gian, số lượng, chủng loại Vì vậy, thương mại cần thực hiện việc đưa các sản phẩm được sản xuất ra đến các thị trường nơi mà con người có nhu cầu phù hợp các đòi hỏi của thị trường về số lượng, cơ cấu, thời gian và không gian với chi phí thấp nhất. Nhờ có chức năng này mà thương mại có thể tiếp tục thực hiện chức năng thay đổi hình thái giá trị, thực hiện giá trị hàng hóa mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Cũng thông qua chức năng này thương mại giải quyết được những mâu thuẫn vốn có giữa cung, cầu, sản xuất và tiêu dùng trong điều kiện kinh tế hàng hóa. Chức năng này của thương mại được thực hiện qua hàng loạt những hoạt động khác nhau. Hoạt động vận tải nhằm di chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến thị trường và những dịch vụ có liên quan đến vận tải như: làm các thủ tục vận tải, giao nhận hàng hóa Hoạt động giữ gìn, bảo quản hàng hóa. Những hoạt động này nhằm bảo vệ giá trị sử dụng của hàng hóa về số lượng, chất lượng trong quá trình vận chuyển cũng như lưu kho phát sinh do sự không ăn khớp giữa sản xuất và đòi hỏi của thị trường về không gian và thời gian. Các hoạt động tiếp tục sản xuất trong lĩnh vực lưu thông như: phân loại, chia nhỏ, đóng gói, bao bì sản phẩm và các hoạt động gia công, chế biến, hoàn thiện sản phẩm trước khi bán cho người tiêu dùng Các hoạt động thương mại thực hiện nhóm chức năng này là các hoạt động sản xuất. Chúng xảy ra trong khâu lưu thông và được thực hiện bởi ngành thương mại. Chúng góp phần làm tăng giá trị hàng hóa, bảo vệ và làm tăng giá trị sử dụng. Hoạt động thương mại xét về góc độ này trực tiếp góp phần tạo ra thu nhập quốc dân. 16
  17. 2.1.2.3. Sự phát triển nhận thức về chức năng thương mại hàng hóa trong xã hội hiện đại Trong xã hội hiện đại cùng với việc phồn thịnh về kinh tế, nhu cầu của con người ngày càng gia tăng và đa dạng hơn. Việc thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của xã hội làm nảy sinh mâu thuẫn trong phân bổ và sử dụng quĩ thời gian của con người. Để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng và đa dạng của con người, đòi hỏi một mặt phải không ngừng sản xuất ra ngày càng nhiều của cải và dịch vụ , mặt khác phải tăng quĩ thời gian sử dụng cho cho việc tiêu dùng các của cải và các dịch vụ. Mâu thuẫn là ở chỗ quĩ thời gian tự nhiên của mỗi con người là một hằng số trong khi đó xã hội càng phát triển quĩ thời gian dành cho tiêu dùng trong tổng quĩ thời gian tự nhiên đòi hỏi ngày càng gia tăng. Để gia tăng thời gian cho tiêu dùng trong điều kiện quĩ thời gian tự nhiên không đổi thì vấn đề tiết kiệm và sử dung hợp lý quĩ thời gian trong tiêu dùng trở nên rất bức thiết. Việc mở rộng các dịch vụ bán hàng đặc biệt là các dịch vụ trước, trong và sau bán hàng như: dịch vụ hoàn thiện sản phẩm , các dịch vụ chuẩn bị sẵn sàng nhất cho người tiêu dùng và các dịch vụ liên quan đến quá trình tổ chức phục vụ quá trình tiêu dùng cá nhân nhằm tạo sự thoải mái, thuận tiện, tiết kiệm thời gian cho người tiêu dùng đang ngày gắn với hoạt động buôn bán và trở thành các hoạt động thuộc chức năng của thương mại trong xã hội hiện đại. Kinh tế thị trường hiện đại với các đặc trưng không phải là “khan hiếm” mà “dư thừa” làm cho cạnh tranh khốc liệt ngày càng buộc các doanh nghiệp thương mại cần phải nhận thức sâu sắc hơn xu hướng thay đổi này trong chức năng của thương mại. 2.1.3. Biểu hiện các chức năng thương mại trong lĩnh vực dịch vụ Do những đặc tính riêng biệt của dịch vụ: tính vô hình, sản xuất và tiêu dùng đồng thời, nên chức năng của thương mại cũng có sự biểu hiện khác so với thương mại hàng hóa. Thương mại dịch vụ thực hiện đồng thời cả chức năng sản xuất, chức năng lưu thông và chức năng tổ chức tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ. Nghĩa là trong thương mại dịch vụ các doanh nghiệp không chỉ thuần túy thực hiện việc mua bán, ngoài việc thực hiện chức năng thương mại nó còn đồng thời thực hiện chức năng sản xuất ra các dịch vụ và tổ chức cả quá trình tiêu dùng các dịch vụ cho khách hàng. Các chức năng này vế cơ bản được thực hiện đồng thời ở cung một không gian và trong cùng một thời gian. Trong thương mại dịch vụ về cơ bản không có các hoạt động vận tải, bảo quản, dự trữ Việc thay đổi hình thái giá trị, quá trình chuyển đổi sở hữu tiền tệ và sở hữu sản phẩm có những đặc thù so với thương mại hàng hóa. 17
  18. Việc nhận thức đúng và vận dụng đúng các chức năng của thương mại có ý nghĩa to lớn không chỉ trong tổ chức hoạt động cung ứng dịch vụ ở phạm vi doanh nghiệp mà nó còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối với thương mại dịch vụ ở phạm vi vi mô. 2.2. Cơ sở luận nghien cứu và phân loại các tác động của thương mại 2.2.1. Cơ sở luận nghiên cứu tác động thương mại Khi nghiên cứu tác động thương mại cần quán triệt các vấn đề lí luận cơ bản sau: Thứ nhất: Thương mại là một hoạt động kinh tế cơ bản và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Là một hoạt động kinh tế cơ bản, thương mại có liên quan mật thiết và ảnh hưởng đến những hoạt động kinh tế khác như: kinh doanh, đầu tư, Là hoạt động kinh tế phổ biến vì thế thương mại tác động đến nhiều chủ thể kinh tế và các quan hệ kinh tế khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Thứ hai: Thương mại là khâu lưu thông trong quá trình tái sản xuất xã hội Thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng và có liên hệ mật thiết với khâu phân phối. Một mặt thương mại chịu sự chi phối của sản xuất và tiêu dùng, mặt khác thương mại cũng có những tác động đến quy mô, cơ cấu và sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng xã hội. Thứ ba: Thương mại là một ngành kinh tế rất quan trọng của nền kinh tế. Theo nghĩa rộng, ngành thương mại không chỉ gồm những doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bán buôn, bán lẻ hàng hóa mà gồm cả những doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ đa dạng trong nhiều ngành dịch vụ vì mục tiêu lợi nhuận. Đó là lĩnh vực rất rộng, bao gồm nhiều ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Ngành thương mại thông qua hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ với mục đích lợi nhuận có liên quan và tác động to lớn tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực đa dạng của nền kinh tế. Thứ tư: Thương mại còn được xem như một hệ thống kinh tế. Thương mại là một tập hợp các yếu tố có mối liên hệ qua lại thực hiện việc trao đổi mua bán hàng hóa và các dịch vụ thông qua tiền tệ vì lợi nhuận. Hệ thống thương mại được hình thành bởi 2 hệ thống con là cung và cầu. Các hệ thống này hoạt động và liên hệ với nhau qua hoạt động của người mua, người bán trên thị trường. Đó là một hệ thống kinh tế mở với môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp, công nghệ, xã hội và môi trường tự nhiên bên ngoài. Thương mại một mặt chịu sự chi phối của các yếu tố môi trường nói trên, những yếu tố này có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của thương mại nhưng ngược lại thương mại cũng tác động trở lại làm biến đổi những yếu tố môi trường. 18
  19. Vì thế tác động thương mại không chỉ thuần túy mang tính chất kinh tế, thương mại còn có tác động mang tính chất xã hội, chính trị, pháp luật, công nghệ và ảnh hưởng mật thiết với môi trường tự nhiên. 2.2.2. Phân loại tác động của thương mại Tác động của thương mại rất phức tạp và đa chiều. Chúng ta có thể phân loại tác động thương mại trên một số tiêu chí cơ bản sau: 2.2.2.1. Theo xu hướng ảnh hưởng của tác động Tác động của thương mại được phân thành các tác động tích cực và tác động tiêu cực. Những tác động của thương mại mà kết quả của ảnh hưởng có thể là những lợi ích (vật chất hoặc tinh thần) hoặc tạo ra sự thúc đẩy vận động của các quá trình kinh tế-xã hội theo chiều hướng tiến bộ. Đó là những tác động tích cực. Ngược lại những tác động của thương mại mà kết quả mang lại là những tổn thất (về vật chất và tinh thần) hay tạo ra xu hướng kìm hãm, đẩy lùi sự vận động của các quá trình kinh tế - xã hội được coi là những tác động tiêu cực. Cần lưu ý rằng: Một hoạt động thương mại cụ thể, một chính sách thương mại nhất định có thể vừa chứa đựng trong đó những tác động tích cực và cả những tác động tiêu cực. Rất ít trường hợp tác động thương mại chỉ thuần túy mang tính tích cực hay tiêu cực. 2.2.2.2. Theo phạm vi ảnh hưởng Tác động của thương mại được phân thành các tác động vi mô và vĩ mô. Những tác động vi mô là ảnh hưởng của thương mại trong phạm vi doanh nghiệp, hộ gia đình. Những tác động thương mại vĩ mô là những tác động mà ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ các doanh nghiệp, các đơn vị kinh doanh, những tác động này có thể ở phạm vi toàn cầu, hoặc một khu vực kinh tế (ASEAN, EU, ), phạm vi quốc gia hoặc địa phương trong mỗi quốc gia. Hoạt động kinh doanh ở đơn vị kinh tế ngoài việc xem xét tác động vi mô cần phải tính đến các tác động vĩ mô mà nó có thể ảnh hưởng. Ngược lại, quản lý nhà nước ở phạm vi vĩ mô với hoạt động thương mại cần xem xét toàn diện ảnh hưởng của tác động thương mại ở cả phạm vi vi mô và vĩ mô một cách hài hòa. 2.2.2.3. Dựa theo lĩnh vực tác động Tác động của thương mại được phân thành các tác động kinh tế, tác động xã hội (xã hội, chính trị, văn hóa) và tác động môi trường tự nhiên. Tác động kinh tế bao gồm những ảnh hưởng của thương mại đến tốc độ tăng trưởng kinh tế , sự thay đổi cơ cấu kinh tế, hoạt động đầu tư, các cân đối kinh tế vi mô trong nền kinh tế 19
  20. Tác động xã hội bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới sự ổn định chính trị quốc gia, tới thực hiện đường lối, chính sách của nhà nước, ảnh hưởng tới hệ thống luật pháp của quốc gia.Ngoài ra nó còn bao gồm cả những tác động thương mại tới yếu tố dân cư, hôn nhân và tổ chức gia đình, mức sống và trình độ giáo dục, phong tục, tập quán, lối sống, hệ thống giá trị trong xã hội. Tác động môi trường tự nhiên bao gồm những ảnh hưởng của thương mại tới môi trường sống: bảo tồn các yếu tố tự nhiên (khí hậu, nguồn nước, khoáng sản, hệ thực vật, động vật ), các yếu tố hạ tầng (giao thông vận tải, hệ thống thông tin, truyền thông ) Con người càng ngày càng nhận thức sự cần thiết và quan trọng của sự phát triển bền vững. Vì vậy nghiên cứu các tác động thương mại cần xem xét toàn diện không chỉ ảnh hưởng về kinh tế mà cả những khía cạnh tác động thương mại về xã hội, môi trường cũng ngày càng được chú trọng trong việc hoạch định chiến lược và chính sách thương mại phát triển của các quốc gia. 2.2.2.4. Các cách phân loại khác Ngoài các cách phân loại cơ bản trên, người ta còn có thể phân loại tác động thương mại theo nhiều tiêu thức khác như: Tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, tác động có thể lượng hóa được (đo lường được) và những tác động khó đo lường được (nhiều tác động thương mại có thể cảm nhận được bằng định tính song rất khó định lượng). Một số tác động thương mại mà hậu quả của nó có thể khắc phục được dễ dàng, nhưng cũng có nhiều tác động mà hậu quả lại có thể là vĩnh viễn không khắc phục được hoặc nếu sửa chữa được thì phải tốn kém nhiều tiền của, sức lực và thời gian. 2.2.3. ý nghĩa của việc nghiên cứu những tác động của thương mại Nghiên cứu những tác động của thương mại rất quan trọng, nó không chỉ giúp cho việc thúc đẩy hoạt động thương mại ở phạm vi doanh nghiệp đạt được những mục tiêu kinh doanh mà còn có tầm quan trọng đối với việc quản lý hoạt động thương mại ở phạm vi vi mô một cách có kết quả và hiệu quả, góp phần đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội của thương mại cũng như đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển kinh tế bền vững. 2.3. Những tác động của thương mại về kinh tế, xã hội và môi trường 2.3.1. Những tác động kinh tế của thương mại 2.3.1.1. Thương mại với tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là mức tăng lượng của cải vật chất của cải của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Mức gia tăng của cải có thể được tính bằng hiện vật hoặc tiền (giá trị). 20
  21. Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế: lao động, vốn đầu tư, khoa học công nghệ, thông tin, cơ chế chính sách Các yếu tố này có vai trò không giống nhau đối với tăng trưởng kinh tế trong một thời kỳ. Thương mại có thể tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế của quốc gia trong một giai đoạn nhất định trên các mặt: số lượng và chất lượng của tăng trưởng. Tác động của thương mại đến tăng trưởng thể hiện ở chỗ: Thương mại tạo khả năng huy động các nguồn lực sẵn có của quốc gia cũng như tác động tới việc di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia. Nhờ vậy mà góp phần to lớn vào mở rộng quy mô sản xuất của mỗi quốc gia Thương mại còn tác động đến tăng khả năng tiêu dùng của một nước và gián tiếp sản xuất ra các sản phẩm có hiểu quả hơn là tự sản xuất (điều này đã được chứng minh trong các lý thuyết của A. Smith, D. Recardo và các lý thuyết khác của Heckscher Ohlin). Thương mại tác động đến chất lượng của tăng trưởng ở phương diện nâng cao hiệu quả sản xuất. Thứ nhất, nhờ lợi thế về quy mô do các công ty có thể tiếp cận với các thị trường rộng lớn hơn ở nước ngoài. Thương mại cho phép các công ty tiếp cận được với các công nghệ hiện đại hóa, do vậy năng suất lao động được cải thiện. Ngoài ra việc mở cửa thị trường trong nước cho các công ty nước ngoài làm cho cạnh tranh gia tăng trên thị trường nội địa và nhờ vậy có tác dụng kích thích các công ty trong nước nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Thương mại một mặt trực tiếp làm gia tăng GDP nhờ chính hoạt động của mình, mặt khác gián tiếp tác động đến việc gia tăng GDP của các ngành khác nhờ ảnh hưởng có tính chất lan truyền như đã phân tích trong các lí thuyết của kinh tế học hiện đại. 2.3.1.2. Thương mại với vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế được hiểu là cách thức liên kết, phối hợp giữa các phân tử cấu thành hệ thống kinh tế biểu hiện quan hệ tỷ lệ cả về mặt lượng và chất của các phần tử hợp thành của hệ thống kinh tế. Cơ cấu kinh tế thường được xem xét trên các phương diện: cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần của nền kinh tế. Thương mại có thể tác động làm thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng đa dạng hóa thành phần kinh tế, thay đổi vai trò của các thành phần kinh tế xu hướng biến đổi có thể không giống nhau trong các nền kinh tế. ở Việt nam sự biến đổi theo xu hướng xuất hiện nhiều thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân, kinh tế vốn đầu tư nước ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng gia tăng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thương mại có thể tác động làm biến đổi cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế theo xu hướng làm xuất hiện những vùng kinh tế trọng điểm, các vùng kinh tế đặc biệt có tác động lớn tới nền kinh tế, làm thay đổi cơ cấu kinh tế thành thị, nông thôn, kích thích phát triển kinh tế của các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế biên giới 21
  22. Thương mại có thể tác động làm biến đổi cơ cấu kinh tế ngành của nền kinh tế. Xu hướng chung tác động thương mại là kích thích phát triển những ngành kinh tế có lợi thế so sánh, kích thích phát triển các ngành dịch vụ đặc biệt là các ngành dịch vụ hạ tầng của nền kinh tế như: vận tải, viễn thông, ngân hàng và các ngành dịch vụ đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống: y tế, giáo dục, thể thao, giải trí, du lịch Nhờ vậy mà làm biến đổi cơ cấu khu vực sản xuất và lĩnh vực dịch vụ theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ và công nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp. 2.3.1.3. Thương mại với cán cân thanh toán quốc gia Cán cân thanh toán quốc gia là một bảng cân đối hay một bản báo cáo thống kê tổng kết tất cả các giao dịch tài chính với nước ngoài mà một quốc gia tham gia trong 1 thời gian nào đó. Cán cân thanh toán quốc gia mô tả mối quan hệ giữa 2 luồng thanh toán vận hành liên tục một vào và một ra mà một đất nước phải có. Cán cân thương mại là một bộ phận rất quan trọng của cán cân thanh toán quốc gia. Đó là mức chênh lệch của giá trị xuất khẩu và nhập khẩu các hàng hóa và các dịch vụ và giá trị nhập khẩu của chúng trong một thời kỳ nhất định. Nếu giá trị xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của 1 quốc gia lớn hơn so với giá trị nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thì cán cân thương mại dương (hay thặng dư). Điều đó sẽ làm cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia và ngược lại. Thương mại quốc tế là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ của một quốc gia. Thiếu ngoại tệ gây ra những hạn chế về nguồn tài chính cho sự phát triển kinh tế của một đất nước. Vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng đối với những nền kinh tế của các nước đang phát triển. Thông thường chính sách của các quôc gia đều cố gắng khai thác tối đa các lợi thế so sánh của đất nước mình nhằm đẩy mạnh xuất khẩu không chỉ hàng hóa mà cả các dịch vụ kể cả trên thị trường quốc tế và xuất khẩu tại chỗ nhằm tăng nguồn thu về ngoại tệ. Với nguồn ngoại tệ này có thể bù đắp được những nhu cầu nhập khẩu của quốc gia mình. Và nếu thặng dư thì nguồn ngoại tệ dư thừa có thể bù đắp về thâm hụt ngoại tệ do những nhu cầu khác hoặc tăng cường dự trữ quốc gia. Việc đánh giá tác động của thương mại đối với việc cải thiện cán cân thanh toán của một quốc gia không giống với các quốc gia khác và ngay cả các thời kỳ khác nhau của một quốc gia cũng cần phải được đánh giá một cách thận trọng. 2.3.1.4. Những tác động kinh tế khác của thương mại Ngoài những tác động nói trên, thương mại còn có những tác động kinh tế khác như: thúc đẩy phân công lao động quốc tế, thúc đẩy quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. 22
  23. Tác động của thương mại hết sức to lớn tới quá trình phân công lao động không chỉ ở phạm vi từng quốc gia mà ảnh hưởng tới quá trình phân công lại lao động sâu hơn giữa các quốc gia trong phạm vi toàn cầu và phạm vi các khu vực của nền kinh tế thế giới. Thương mại thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình phát triển đan xen của các nền kinh tế trên thế giới, hình thành nên các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình khách quan thể hiện mức độ phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở quy mô toàn cầu và khu vực. Hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng hoàn thiện và góp phần tích cực vào dàn xếp các quan hệ kinh tế giữa các nước trong từng khu vực và trên phạm vi toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế bắt đầu từ hội nhập về thương mại, tiếp đó là vốn và cuối cùng là sản xuất kinh doanh. Điều này nói lên ảnh hưởng quan trọng của thương mại đối với quá trình này. Thực tiễn của hội nhập kinh tế của tất cả các quốc gia đều khẳng định tác động to lớn và không thể bỏ qua của sự phát triển và hội nhập về thương mại. 2.3.2. Những tác động xã hội của thương mại Thuật ngữ “tác động xã hội” ở đây được hiểu là những tác động của thương mại trên các mặt văn hóa, chính trị, luật pháp và xã hội. 2.3.2.1. Thương mại và các vấn đề văn hóa Thương mại và văn hóa có mối quan hệ rất mật thiết. Một mặt các yếu tố văn hóa chi phối các hoạt động thương mại của mọi cá thể, địa phương và từng quốc gia. Tuy nhiên sự phát triển thương mại cũng có tác động ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa của từng cá thể, cộng đồng và mỗi quốc gia ở những mức độ rất khác nhau. Sự phát triển các mối quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa và các dịch vụ trong thương mại không chỉ đơn thuần là sự trao đổi các yếu tố vật chất thông thường mà nó còn hàm chứa trong đó và đi liền với nó là những yếu tố và các quan hệ mang tính văn hóa. Các yếu tố văn hóa chứa đựng trong bản thân các hàng hóa và các dịch vụ cụ thể, các thông tin quảng cáo, hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại cũng như trong các hoạt động giao dịch thương mại của con người Các yếu tố này sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới văn hóa, tôn giáo, phong tục tập quán, phong cách, lối sống, đạo đức, niềm tin, hệ thống các giá trị của mỗi cá thể, cộng đồng và các quốc gia. Ngày nay quá trình hội nhập thương mại quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ thì phạm vi ảnh hưởng và cường độ tác động của thương mại tới văn hóa cũng gia tăng rất nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Sự giao thoa của các nền văn hóa, sự mong muốn bổ sung các yếu tố “tốt” của nền văn hóa khác loại bỏ các yếu tố “xấu” thông qua ảnh hưởng của thương mại làm cho văn 23
  24. hóa nhân loại trở nên phong phú và đa dạng hơn. Tuy nhiên không phải tất cả các tác động này đều “bổ ích” và mang tính tích cực. Thương mại cũng mang lại nhiều yếu tố “ngoại lai’ thậm chí “độc hại”, những tác động này không loại trừ bất kỳ ai và bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc và đáng chú ý nhất về văn hóa của thương mại là đối với các nước đang phát triển và các dân tộc lạc hậu. 2.3.2.2. Thương mại và các vấn đề luật pháp Các hoạt động thương mại bao giờ cũng diễn ra trong môi trường luật pháp và thể chế nhất định. Luật pháp và thương mại có mối quan hệ rất chặt chẽ. Luật pháp gồm luật thành văn và luật bất thành văn. Luật thành văn là các đạo luật do nhà nước ban hành, các đạo luật này nằm trong các ấn bản luật thành văn. Luật bất thành văn được tạo ra bởi các phong tục tập quán của con người. Chúng chi phối các hoạt động thương mại trong nước và cả ở phạm vi buôn bán quốc tế. Một mặt thương mại chịu sự chi phối của luật pháp và các luật lệ do xã hội quy định. Tuy nhiên thương mại cũng có tác động mạnh mẽ trở lại tới luật pháp. Luật pháp là một khung các nguyên tắc và luật lệ do xã hội quy định để điều tiết các hành vi và các thành viên của nó trong đó có các hoạt động buôn bán, thương mại. Các hoạt động kinh tế, hoạt động thương mại không ngừng vận động và phát triển vì thế luật pháp cũng phải không ngừng phát triển và hoàn thiện như là kết quả của những thay đổi các chuẩn mực và các giá trị của xã hội. Tác động của thương mại tới luật pháp có thể nhận thấy rất rõ trong quá trình hội nhập kinh tế và thương mại quốc tế. Sự phát triển của các mối quan hệ thương mại giữa các quốc gia, quan hệ thương mại giữa các quốc gia trong từng khu vực kinh tế và ở phạm vi toàn cầu đang hình thành nên 1 hệ thống đa dạng những định ché, những luật lệ thương mại mới ở phạm vi toàn cầu, khu vực cũng như đối với các quốc gia để điều chỉnh những mối quan hệ thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp và không ngừng biến đổi trong nền kinh tế thị trường của xã hội hiện đại. Tác động thương mại tới luật pháp cũng thấy rất rõ đối với quốc gia như Việt nam từ 1986 đến nay khi mà Việt nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế thương mại với thế giới và khu vực. 2.3.2.3. Thương mại và các vấn đề chính trị Thương mại và chính trị cũng có mối liên hệ rất chặt chẽ. Đặc trưng nổi bật về chính trị thể hiện ở định hướng chính trị mà mỗi chế độ chính trị nhằm đạt tới. Sự ổn định chính trị là điều kiện hết sức quan trọng trong sự phát triển thương mại, nó tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn về đầu tư, về quyền sở hữu các tài sản Đó là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy thương mại phát triển. 24
  25. Ngược lại sự thịnh vượng thương mại là yếu tố quan trọng đưa lại sự thịnh vượng kinh tế cho các quốc gia, các khu vực kinh tế. Do vậy, đây là yếu tố tác động quan trọng đến sự ổn định chính trị. Vì suy cho đến cùng kinh tế quyết định chính trị. Hội nhập kinh tế thương mại quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế giữa nhiều quốc gia với các chế độ chính trị khác nhau. Chính thương mại như một nhân tố quan trọng tác động liên kết lợi ích của các quốc gia. Nhờ vậy mà mang lại những lợi ích to lớn cho sự chung sống hoà bình giữa các quốc gia có thể chế chính trị khác nhau thậm chí đối lập (ASEAN là một ví dụ điển hình). Thương mại là nhân tố tạo nên sự ổn định chính trị thế giới và khu vực. Tuy nhiên thương mại mà bản chất của nó là vì lợi nhuận luôn đi cùng với cạnh tranh khốc liệt, đó là những cuộc cạnh tranh không khoan nhượng giữa các quốc gia nên cũng là nguyên nhân trực tiếp hoặc sâu xa của nhiều mâu thuẫn và xung đột chính trị. 2.3.2.4. Thương mại và các vấn đề xã hội Các yếu tố xã hội như các đặc điểm về dân số (quy mô, cơ cấu dân cư, mức tăng dân số), hôn nhân và tổ chức gia đình, mức sống và chất lượng cuộc sống của dân cư đều có ảnh hưởng trực tiếp đến thương mại. Ngược lại thương mại cũng có những ảnh hưởng rất to lớn đến các yếu tố xã hội nói trên. Thứ nhất, thương mại tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới, những việc làm mà thương mại tạo ra trực tiếp và trước hết là ở những doanh nghiệp thương mại và các đơn vị liên quan trực tiếp tới các hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu hàng hoá và những đơn vị cung ứng dịch vụ vì mục đích lợi nhuận trong nền kinh tế. Tuy nhiên xét rộng hơn, thương mại còn tạo thêm nhiều việc làm cho các ngành và các lĩnh vực có liên quan. Cần lưu ý đến một đặc điểm là: Thương mại là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động sống và lao động phổ thông. Các lĩnh vực thương mại dịch vụ lại càng sử dụng nhiều lao động hơn, lao động sử dụng trong lĩnh vực này thường rất đa dạng. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các quốc gia nhưng đặc biệt quan trọng với những nước đang phát triển nơi mà có nhiều lao động dư thừa và vì vậy phát triển thương mại như một giải pháp quan trọng giải quyết vấn đề dư thừa lao độngvà nạn thất nghiệp. Thứ hai, sự phát triển thương mại góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nhiều vùng lạc hậu, vùng sâu, vùng xa của đất nước, tạo cơ hội thuận lợi và thúc đẩy phát triển kinh tế nhiều quốc gia đang phát triển, nhiều khu vực kinh tế kém phát triển của kinh tế thế giới. Như vậy thương mại như một nhân tố quan trọng tác động rút ngắn chênh lệch khoảng cách phát triển giữa các quốc gia, các vùng, các khu vực kinh tế trong nền kinh tế thế giới. Phát triển thương mại đặc biệt là thương mại dịch vụ có ý nghĩa rất to lớn trong việc ổn định và nâng cao mức sống và đặc biệt là chất lượng cuộc sống của dân cư. 25
  26. Phát triển thương mại cũng là nhân tố quan trọng mở rộng hội nhập giao lưu văn hoá, củng cố hoà bình, xây dung tình hữu nghị giữa các quốc gia và các dân tộc trên thế giới. Thương mại cũng là nhân tố tác động quan trọng tới những sự thay đổi quy mô, cơ cấu dân cư, hôn nhân tổ chức gia đình và các yếu tố xã hội khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Những tác động xã hội của thương mại không chỉ bao gồm những yếu tố tích cực. Do bản chất kinh tế của thương mại có thể gây ra nhiều tác động tiêu cực về xã hội như động cơ tìm kiếm lợi nhuận có thể đưa đến nguy cơ xâm nhập lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, du nhập lối sống ngoại lai xa lạ với lối sống và bản sắc văn hoá của dân tộc. Phân phối bất bình đẳng của thị trường có thể tác động phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, chênh lệch giàu nghèo giữa các quốc gia, cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh các nguồn tài nguyên nhiều khi là nguyên nhân trực tiếp của các xung đột giữa các dân tộcvà các quốc gia. 2.3.3. Những tác động môi trường của thương mại Bất kỳ một hoạt động kinh tế nào trong đó có hoạt động thương mại đều diễn ra trong một môi trường vật chất cụ thể. Vì thế, một mặt thương mại chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Vị trí địa lý, các khí hậu, khoáng sản, đất đai, rừng biển, tài nguyên thiên nhiên, hệ động thực vật Những yếu tố này có thể tác động thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển thương mại của một quốc gia. Ngược lại thương mại cũng tác động trở lại rất mạnh mẽ tới môi trường tự nhiên ở các khía cạnh như sau: Tác động thương mại tới việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Thương mại phát triển thúc đẩy mở rộng và phát triển sản xuất. Thương mại càng phát triển thì càng làm cho sản xuất hướng vào nhu cầu tiêu dùng, tức là sản xuất để bán sản phẩm cho thị trường. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất ra của cải phục vụ đời sống con người. Thương mại càng phát triển, kinh tế càng phát triển thì quy mô sản xuất càng mở rộng, điều đó làm giảm tổng lượng tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho việc sản xuất hàng hóa vì mục đích thương mại. Tài nguyên thiên nhiên thì luôn có giới hạn mà nhu cầu của con người thì vô hạn, hơn nữa dân số trong hành tinh của chúng ta ngày càng gia tăng. Sự phát triển thương mại, phát triển kinh tế tự phát theo điều tiết của thị trường có thể đưa đến sự khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có hạn. Sự phát triển thương mại không chỉ gia tăng sử dụng tài nguyên thiên nhiên mà đòi hỏi gia tăng sử dụng khai thác yếu tố thuộc kết cấu hạ tầng như: giao thông vận tải, bưu chính viễn thông Vì vậy một mặt thương mại phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển hệ 26
  27. thống kết cấu hạ tầng của nền kinh tế mặt khác nếu sự phát triển này thiếu kế hoạch có thể làm quá tải và hư hỏng hệ thống hạ tằng đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên cũng như các yếu tố kết cấu hạ tầng nền kinh tế luôn gắn bó hữu cơ với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển thương mại có thể là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường sinh thái: nguồn nước, không khí, tiếng ồn, phá hủy hệ sinh thái, quần thể động thực vật. Vì thế cùng với sự phát triển thương mại cần phải có hệ thống luật pháp, chính sách về khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, chính sách bảo vệ môi trường, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất sạch, tiêu dùng sản phẩm sạch nhằm đảm bảo yêu cầu của phát triển bền vững. 27
  28. Chương 3. thương mại hàng hóa 3.1. Bản chất và các phương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa. 3.1.1.Bản chất và phân loại thương mại hàng hóa 3.1.1.1. Khái niệm thương mại hàng hoá Thương mại hàng hoá ra đời từ rất lâu trong lịch sử. Hoạt động trao đổi thông qua mua bán gắn liền với sự xuất hiện của tiền tệ và có trước thương mại với tư cách là ngành kinh tế. Thương mại hàng hoá là lĩnh vực trao đổi hàng hoá hữu hình, bao gồm tổng thể các hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động hỗ trợ của các chủ thể kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình trao đổi đó diễn ra theo mục tiêu đã xác định. Đó là hình thức hoạt động kinh tế của các chủ thể người bán và người mua. Người bán, người mua trong thương mại hàng hoá chính là nhà sản xuất, người tiêu dùng và thương nhân. Do vậy, quan hệ trao đổi trong thương mại hàng hoá bao gồm các quan hệ chủ yếu giữa nhà sản xuất với sản xuất, nhà sản xuất với thương nhân, thương nhân với nhau, nhà sản xuất và thương nhân với người tiêu dùng. Ngoài ra, chủ thể tham gia vào thương mại hàng hoá còn có các nhà môi giới, tư vấn, giao nhận, quảng cáo, Họ là những nhà cung cấp các dịch vụ hỗ trợ và thúc đẩy thương mại hàng hoá phát triển. Trong thương mại hàng hoá, quan hệ giữa người bán và người mua được thể hiện trên thị trường thông qua hình thức trao đổi hàng hoá-tiền tệ hoặc hàng đổi hàng. Các quan hệ trao đổi hàng hoá được thực hiện bởi các phương thức mua bán khác nhau và diễn ra không chỉ trong phạm vi thị trường nội địa mà còn mở rộng trên phạm vi thị trường khu vực và toàn cầu. Xét về bản chất, thương mại hàng hoá là đó là thương mại, nhưng đối tượng trao đổi là sản phẩm hữu hình. Thương mại hàng hoá là lĩnh vực hoạt động kinh té khác với thương mại dịch vụ cần có định chế riêng để hướng dẫn, điều chỉnh và kiểm soát cho phù hợp (WTO đưa ra Hiệp định chung về thương mại và thuế quan - GATT). 3.1.1.2. Phân loại thương mại hàng hoá. Nghiên cứu các cách phân loại thương mại hàng hoá có các ý nghĩa sau: Trên tầm vĩ mô, giúp cho việc xây dựng các quy định về chính sách, khung khổ pháp lý để hướng dẫn và điều tiết các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá cụ thể ở phạm vi từng quốc gia, từng khu vực và toàn cầu. Trên tầm vi mô, các chủ thể kinh doanh đầu tư và sử dụng các nguồn lực trong lĩnh vực thương mại hàng hoá phù hợp với môi trường thể chế. a. Theo công dụng của hàng hoá 28
  29. Thương mại hàng sản xuất, là phản ánh quan hệ mua bán hoặc xuất nhập khẩu các hàng hoá với tư cách là các đầu vào của sản xuất kinh doanh, bao gồm vật tư, nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng Thương mại hàng tiêu dùng, là sự trao đổi mua bán hàng lương thực, thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống và sinh hoạt của con người, nhu cầu tái sản xuất sức lao động. b. Theo phạm vi trao đổi Thương mại hàng hoá trong nước, phản ánh quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể trong nước tham gia thị trường trong giới hạn lãnh thổ quốc gia. Thương mại hàng hoá trong nước lại được phân nhỏ hơn thành thương mại hàng hoá ở thành thị, nông thôn, miền núi, cửa khẩu, biên giới, các vùng. Thương mại hàng hoá quốc tế, phản ánh hoạt động trao đổi ngoại thương(XNK) giữa một quốc gia với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới hoặc quan hệ trao đổi giữa các chủ thể thương mại một nước với nước ngoài diễn ra tại lãnh thổ của nước đó. Thương mại hàng hoá quốc tế cũng được phân chia thành thương mại hàng hoá khu vực và toàn cầu. c. Theo đặc điểm của lưu chuyển hàng hoá Thương mại hàng hoá bán buôn, là sự trao đổi mua bán hàng hoá giữa các nhà sản xuất với sản xuất, sản xuất với thương nhân hoặc nội bộ thương nhân. Hoạt động bán buôn hàng hoá diễn ra chủ yếu ở các chợ đầu mối, đầu nguồn, các thị trường, trung tâm bán buôn trong nước và quốc tế. Thương mại hàng hoá bán lẻ, phản ánh quan hệ trao đổi mua bán trực tiếp về hàng hoá giữa những người sản xuất hoặc thương nhân bán lẻ với người tiêu dùng cuối cùng không có sự tham gia của trung gian. Hoạt động mua bán lẻ diễn ra trên thị trường bán lẻ bao gồm các chợ, cửa hàng chuyên doanh, bách hoá, tổng hợp, các siêu thị, hội chợ, d. Theo mức độ rào cản và hướng điều tiết vĩ mô Thương mại bảo hộ, là trao đổi buôn bán hàng hoá trong trường hợp có hàng rào bảo hộ thông qua thuế quan, trợ cấp hoặc các biện pháp phi thuế, sự nâng đỡ của chính phủ nhằm cản trở hàng hoá nhập khẩu khi thâm nhập vào thị trường quốc nội. Thương mại tự do, là trao đổi buôn bán hàng hoá có rất ít hoặc không gặp trở ngại nào về rào cản thương mại, tạo thuận lợi cho thương mại của 2 bên được tư do, mở rộng và phát triển. Thương mại tự do thường gắn liền với sự mở cửa về thị trường hàng hoá trong quá trình hội nhập. e. Theo nhóm hàng kinh doanh Thương mại hàng nông sản, hàng thuỷ sản, hàng dệt may, hàng giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử, 29
  30. Mỗi nhóm hàng đều có đặc điểm riêng, có lợi thế thương mại và vị trí quan trọng khác nhau trong nền kinh tế. Trong mỗi nhóm hàng lại phân ra những mặt hàng cụ thể, trong đó có những mặt hàng chủ yếu. Thông thường những nhóm, mặt hàng chủ yếu được hiểu là những nhóm, mặt hàng có khả năng cạnh tranh, tỷ trọng thương mại lớn, đóng góp quan trọng vào quá trình hội nhập thương mại và phát triển. 3.1.2. Những đặc điểm cơ bản của thương mại hàng hóa 3.1.2.1. Tính hữu hình của đối tượng trao đổi Sản phẩm đưa ra thị trường trao đổi tồn tại ở dạng vật thể hữu hình, nên các chủ thể thương mại có thể dùng các giác quan để cảm thụ về hàng hoá. Nhà kinh doanh, người tiêu dùng và cơ quan quản lý nhà nước đều có thể dễ dàng hơn trong việc nhận biết sản phẩm về số lượng, chất lượng, mức độ công năng, lợi ích và sự an toàn của sản phẩm đối với người sử dụng. 3.1.2.2. Sự chuyển quyền sở hữu sản phẩm trong trao đổi Dù các giao dịch có đa dạng thế nào chăng nữa, trong thương mại hàng hoá, kết thúc quá trình mua bán quyền sở hữu về sản phẩm sẽ chuyển từ người bán sang người mua. Tuy nhiên, người mua không được sở hữu về tài sản trí tuệ hay bản quyền, nhãn hiệu sản phẩm đó. 3.1.2.3. Lưu thông hàng hoá tách rời sản xuất và tiêu dùng Chức năng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng đối với hàng hoá tương đối độc lập với nhau. Đối với nhà sản xuất, có thể sản xuất ra bán ngay hoặc chưa bán, người tiêu dùng mua hàng hoá nhưng chưa sử dụng, còn đối với nhà thương mại có thể mua nhưng chưa bán, hoặc bán nhưng lại chưa mua. 3.1.2.4. Tính thống nhất và mâu thuẫn giữa các khâu của quá trình lưu thông Quá trình lưu thông hàng hoá bao gồm quá trình mua, bán, vận chuyển và dự trữ kho hàng. Nhìn nhận tổng thể quá trình lưu thông, hàng hoá chỉ thoát khỏi quá trình sản xuất và vân động tới tiêu dùng nếu có sự thống nhất và kết hợp các quá trình bộ phận lưu chuyển hàng hoá (mua, bán) và giao nhận (vận chuyển và kho hàng). Tuy nhiên, ở từng khâu của quá trình lưu thông lại có sự mâu thuẫn và tách rời giữa lưu chuyểnhàng hoá và giao nhận, hoặc mâu thuẫn trong từng quá trình bộ phận đó. 3.1.3. Các phương thức mua bán chủ yếu trong thương mại hàng hóa Có nhiều phương thức mua bán được sử dụng trong thương mại hàng hoá. Mỗi phương thức mua bán, trao đổi thương mại đều có đặc điểm riêng, bao gồm những hình thức cụ thể và có ý nghĩa thực tiễn ở các góc độ nghiên cứu khác nhau. Đối với nhà kinh doanh, đòi hỏi vận dụng các phương thức mua bán hoặc xuất nhập khẩu phù hợp với từng loại hàng hoá, điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp và hoàn cảnh cụ thể của môi trường thương mại . 30
  31. Đối với nhà nước, cần có chính sách khuyến khích phát triển các phương thức kinh doanh tiến bộ, đa dạng, tạo thuận lợi về hành lang pháp lý cho doanh nghiệp sử dụng các phương thức đó mà không gặp các trở ngại, rủi ro trong chính sách thương mại, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bán và người mua, nhà sản xuất và người tiêu dùng. Dưới đây là một số phương thức mua bán chủ yếu: 3.1.3.1. Mua bán buôn và mua bán lẻ Mua bán buôn là phương thức trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể nhà sản xuất, thương nhân nhưng hàng hoá vẫn còn trong khâu lưu thông, chưa đến lĩnh vực tiêu dùng. Mua bán buôn và dự trữ kho hàng thường với khối lượng lớn. Thời gian chu chuyển hàng hoá và thu hồi vốn nhanh. Thanh toán thông qua ngân hàng thương mại và sử dụng các chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt. Mua bán lẻ là phương thức trao đổi giưã các chủ thể người sản xuất, thương nhân và người tiêu dùng, hàng hoá ra khỏi lưu thông và bắt đầu đến lĩnh vực tiêu dùng. Mua bán lẻ và dự trữ kho hàng với khối lượng nhỏ. Chu chuyển hàng hoá và thu hồi vốn chậm. Thanh toán trực tiếp và sử dụng tiền mặt trong thanh toán là chủ yếu. 3.1.3.2. Mua bán trực tiếp và qua trung gian Mua bán trực tiếp là phương thức mà các chủ thể người mua, người bán trực tiếp quan hệ, giao dịch và trao đổi hàng hoá-tiền tệ, không có sự xuất hiện của người thứ 3. Mua bán trực tiếp có phân biệt giữa hoạt động nội thương và ngoại thương (về trụ sở của người giao dịch, đồng tiền thanh toán, sự di chuyển của hàng hoá). Mua bán trực tiếp diễn ra trên cả thị trường bán buôn và bán lẻ, trong các cửa hàng, trung tâm thương mại, siêu thị và các chợ. Mua bán qua trung gian. Trong thương mại không phải các nhà sản xuất và người tiêu dùng đều có điều kiện để thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp, mà phải tiến hành giao dịch thương mại qua trung gian, tức người thứ 3. Nhiều hàng hoá xuất khẩu không qua chế biến, ở dạng thô, hàng nguyên liệu công nghiệp hay dây chuyền công nghệ không tiếp cận được thị trường nguồn đều phải mua bán qua trung gian thương mại. 3.1.3.3. Mua bán qua đại lý và môi giới Mua bán qua đại lý. Người sản xuất muốn trao đổi mua bán với nhau hoặc với người tiêu dùng, trong trường hợp này phải qua đại lý. Đại lý là người đại diện mua, bán hoặc xuất, nhập khẩu hàng hoá cho người khác. Họ không bỏ tiền ra mua, bán hàng và không chịu những rủi ro trong kinh doanh thương mại thay người uỷ thác. Họ có thể là pháp nhân hay thể nhân tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại theo sự uỷ thác của người uỷ thác. Quan hệ giữa họ và người uỷ thác thể hiện trong các hợp đồng đại lý. Họ được hưởng một khoản hoa hồng nhất định theo kết quả mua bán theo thoả thuận 31
  32. trong hợp đồng. Những mặt hàng áp dụng phương thức mua bán này thường có quy mô sản xuất lớn, tính chuyên môn hoá cao và được tiêu chuẩn hoá. Mua bán qua môi giới. Trong trường hợp nay giữa người mua và người bán không tiến hành các quan hệ và giao dịch trực tiếp mà thông qua môi giới. Người môi giới cũng không bỏ vốn ra kinh doanh như người đại lý, mà chỉ chắp nối các quan hệ trao đổi thông qua cung cấp các thông tin, tư vấn, làm cầu nối cho người mua, người bán tiếp xúc, ký kết hợp đồng và triển khai hoạt động thương mại có hiệu quả. Họ được hưởng hoa hồng từ cả người bán và người mua theo thoả thuận của mỗi lần giao dịch với người uỷ thác. Người môi giới có thể được người bán hoặc người mua uỷ thác cả công việc bán và mua hàng hoá. Phương thức này thường được áp dụng trong trường hợp người bán không biết người mua hoặc ngược lại, ngoài ra còn có những yếu tố khác như năng lực giao dịch trực tiếp bị hạn chế 3.1.3.4. Mua bán truyền thống và qua mạng internet Mua bán truyền thống. Đây là phương thức phổ biến, mang tính truyền thống lâu đời trong lịch sử. Người bán và người mua phải tiếp xúc với nhau tại các địa điểm nhất định để thực hiện các giao dịch mua bán và thanh toán. Các quan hệ mua bán diễn ra theo hợp đồng hoặc không nhất thiết phải có thoả thuận từ trước. Mua bán qua mạng internet. Khác với phương thức mua bán truyền thống, phương thức trao đổi này sử dụng mạng internet để tiến hành các giao dịch mua bán hoặc xuất nhập khẩu. Phương thức này luôn luôn phải dựa vào nền tảng công nghệ thông tin, viễn thông. Trong nền kinh tế số hoá, khi thương mại điện tử phát triển, các giao dịch thương mại về cơ bản sẽ không cần đến giấy tờ. Trên thực tế, mua bán qua mạng có thể khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối cùng, nhưng cũng có thể kết hợp với các giao dịch của phương thức thương mại truyền thống (chẳng hạn, tìm kiếm thông tin, đặt hàng qua mạng nhưng giao hàng và thanh toán thì người mua trả tiền trực tiếp cho người bán hoặc người được uỷ quyền). Các hình thức cụ thể về mua bán qua mạng tuỳ thuộc vào hạ tầng của thương mại điện tử và thói quen của các chủ thể kinh doanh. 3.1.3.5. Mua bán thanh toán ngay và mua bán chịu Mua bán thanh toán ngay có thể áp dụng cho toàn bộ lô hàng hoặc cả hợp đồng hoặc giao hàng đén đâu thanh toán đến đó. Mua bán chịu áp dụng trong trường hợp giao hàng trước thanh toán sau. Ngoài ra trong thương mại hàng hoá quốc tế còn có các kỹ thuật thanh toán khác. 3.1.3.6. Các phương thức khác Trong thương mại hàng hoá còn có các phương thức khác như: 32
  33. Tạm nhập tái xuất: Là phương thức xuất khẩu trở lại nước ngoài (ở nước tái xuất) đối những sản phẩm trước đây đã nhập khẩu, nhưng chưa qua chế biến. Phương thức mua bán này phản ánh giao dịch thương mại của 3 bên: nước xuất khẩu, nhập khẩu và nước tái xuất. Hàng hoá đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất rồi đi tiếp đến nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập khẩu. Phương thức này bao gồm cả hình thức chuyển khẩu (hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu). Buôn bán đối lưu: Là phương thức hàng đổi hàng trong đó hoạt động mua và bán kết hợp chặt chẽ với nhau, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi tương đương với nhau về giá trị. Phương thức này phản ánh hoạt động không phải vì mục đích tiền tệ, mà là một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Yêu cầu cơ bản của giao dịch thương mại là sự cân bằng (về mặt hàng, giá, tổng trị giá, điều kiện giao hàng). Buôn bán đối lưu còn có các hình thức bù trừ, bồi hoàn). Xuất nhập khẩu tại chỗ: Là phương thức mua bán giữa một bên trong nước với một bên nước ngoài nhưng thông qua thể nhân hoặc pháp nhân của nước này đang hiện diện ở nước bên kia và ngược lại. Trong trường hợp này, hàng hoá không có sự di chuyển qua biên giới của nước có quan hệ trao đổi thương mại. Phương thức này phù hợp và áp dụng ngày càng phổ biến ở các nước tham gia vào tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Gia công thương mại: Là phương thức trao đổi mà bên nhận gia công tiếp nhận vật tư, nguyên liệu do bên đặt gia công giao hoặc bán cho, cùng bản vẽ thiết kế và tiến hành lắp ráp, chế tạo sản phẩm theo yêu cầu kỹ thuật đã quy định trước, sau đó giao hoặc bán lại hàng hoá cho bên đặt gia công. Bên nhận gia công sẽ nhận được một khoản thù lao (gọi là phí gia công) theo thoả thuận trong hợp đồng. Đây là phương thức thường được áp dụng trong thương mại quốc tế đối với các nước đang phát triển (nơi có nhiều lao động, giá nhân công thấp ) trong một số lĩnh vực như dệt may, da giày, Đấu giá: Là phương thức mua bán đặc biệt, trong đó hàng hoá được tổ chức bán công khai tại một địa điểm nhất định, những người mua được xem trước hàng hoá, tự do cạnh tranh về giá và cuối cùng hàng hoá được bán cho người trả giá cao nhất. Những mặt hàng áp dụng phương thức mua bán này thường là những hàng hoá khó tiêu chuẩn hoá. Đấu thầu: Là phương thức mua bán đăc biệt, trong đó người mua (là người gọi thầu) công bố các điều kiện mua hàng để người bán (người dự thầu) báo giá cả và các điều kiện trả tiền, sau đó người mua sẽ chọn mua của người báo giá rẻ nhất và điều kiện về tín dụng, giao hàng phù hợp hơn cả so với yêu cầu mà người mua đã đưa ra. Phương thức này áp dụng phổ biến trong mua sắm (đấu thầu mua hàng) và thi công (đấu thầu dịch vụ xây lắp) cấc công trình. 33
  34. 3.2. Những vấn đề cơ bản của kinh tế thương maị hàng hóa 3.2.1. Nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hóa 3.2.1.1. Nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua hàng hoá Nhu cầu có khả năng thanh toán là một bộ phận của nhu cầu nói chung. Đó là nhu cầu về hàng hoá bị giới hạn bởi khả năng thanh toán bằng tiền hay các tài sản thanh toán của dân cư và xã hội. Nhu cầu có khả năng thanh toán luôn được thể hiện trên thị trường ở tổng số và cơ cấu hàng hoá mà xã hội và dân cư đòi hỏi thị trường phải thoả mãn trong một khoảng thời gian nhất định. Thu nhập bằng tiền của dân cư và xã hội dùng để mua hàng hay thanh toán hàng hoá chính là quỹ mua hàng hoá. Sức mua hàng hoá trên thị trường phản ánh khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng nhận được khi sử dụng quỹ mua để thanh toán tiền hàng trong điều kiện giá cả xác định. Sức mua hàng hoá trên thị trường phụ thuộc vào sức mua của đồng tiền và quỹ mua của dân cư và xã hội. Giữa nhu cầu có khả năng thanh toán, quỹ mua và sức mua trên thị trường có quan hệ tỷ lệ thuận. Giá cả hàng hoá tỷ lệ nghịch với sức mua và nhu cầu có khả năng thanh toán về hàng hoá. 3.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán a. Nhóm yếu tố thuộc về nhu cầu nói chung Nhu cầu là cơ sở của nhu cầu có khả năng thanh toán, do vậy các nhân tố ảnh hưởng tới nhu cầu cũng tác động tới quy mô, cơ cấu nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. Các yếu tố về dân cư, điều kiện sinh hoạt và lao động của con người: Nhìn chung số dân càng đông, số người trong mỗi gia đình càng lớn thì nhu cầu về hàng hoá càng tăng. Thay đổi quy mô dân số và số người trong mỗi gia đình còn ảnh hưởng tới cơ cấu nhu cầu có khả năng thanh toán. Thông thường thu nhập thấp, nhưng số dân đông, số thành viên trong gia đình lớn thì hướng chi tiêu cho hàng lương thực, thực phẩm sẽ cao. Trong trường hợp ngược lại, sẽ chi tiêu cho mua hàng phi lương thực, thực phẩm nhiều hơn. Các sở thích, tập quán, thói quen tiêu dùng: Các yếu tố tâm lý, sở thích của con người, tập quán, thói quen tiêu dùng của dân cư, kỳ vọng của người tiêu dùng có thể ảnh hưởng theo hướng kích thích hoặc hạn chế nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. Các điều kiện về tự nhiên: Sự biến đổi của môi trường tự nhiên, thời tiết khí hậu đều có ảnh hưởng tới nhu cầu và nhu cầu có khả năng thanh toán. b. Nhóm yếu tố về thu nhập và phân phối thu nhập của dân cư, của xã hội Thu nhập bằng tiền tăng lên, thì thường nhu cầu có khả năng thanh toán sẽ mở rộng và cơ cấu của nhu cầu cũng thay đổi theo hướng sử dụng nhiều hàng phi lương thực, thực phẩm hơn và ngược lại. 34
  35. Ngoài ra, hướng sử dụng thu nhập bằng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô và cơ cấu chi tiêu của dân cư, của xã hội để mua hàng hoá trên thị trường. Nếu dân cư giảm dự trữ hoặc không gửi tiết kiệm tiền mặt thì chi tiêu mua hàng hoá và thanh toán dịch vụ sẽ tăng lên. Nếu giảm chi tiêu cho dịch vụ thì nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội về hàng hoá sẽ tăng và ngược lại. c. Nhóm yếu tố về sản xuất, cung ứng Sản xuất và cung ứng có sự phù hợp về quy mô, cơ cấu và chất lượng hàng hoá cũng như tính đều đặn, đảm bảo tiến độ thời gian giao hàng theo yêu cầu của thị trường sẽ làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội và ngược lại. Hoạt động sản xuất, cung ứng với tính ổn định càng cao và chi phí càng thấp càng kích thích làm tăng nhu cầu có khả năng thanh toán. d. Nhóm yếu tố về giá cả, thị trường và cạnh tranh Giá hàng tiêu dùng tăng thông thường làm hạn chế hoặc giảm nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và ngược lại. Giá các mặt hàng bổ sung gia tăng sẽ không kích thích nhu cầu có khả năng thanh toán. Giá mặt hàng thay thế giảm sẽ làm chuyển dịch nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư sang mặt hàng thay thế đó. Hạ tầng của thị trường về kỹ thuật, về dân cư và pháp lý, dung lượng thị trường, quan hệ cung cầu, xu hướng cạnh tranh về chất lượng, về dịch vụ hỗ trợ như quảng cáo, tư vấn, giao nhận, đều ảnh hưởng tới nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. e. Nhóm yếu tố về chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ Chính sách của chính phủ có thể điều tiết cung, cầu và mối quan hệ đó, cũng như giá cả. Xu hướng các tác động từ chính sách vĩ mô của chính phủ là nhằm kích cung hoặc kích cầu và cải thiển mối quan hệ đó, bình ổn giá cả để đáp ứng tốt hơn các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. 3.2.1.3. Hoạt động mua hàng trên thị trường Nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội thể hiện thông qua thị trường, thương mại mà cụ thể ở hoạt động mua hàng của người tiêu dùng và các doanh nghiệp. Hoạt động mua hàng là bộ phận cấu thành của hoạt động thương mại. Trên thị trường diễn ra hoạt động mua hàng của nhà sản xuất, người tiêu dùng và thương nhân bán buôn, bán lẻ với tư cách là người đại diện cho cả sản xuất và tiêu dùng. Hoạt động mua hàng luôn phản ánh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư, của xã hội và doanh nghiệp. Đối với thương nhân, hoạt động mua hàng (T-H) bao giờ cũng là khởi đầu của hoạt động thương mại. Mua hàng có ảnh hưởng trực tiếp đén bán hàng và kết quả hoạt động thương mại. Hoạt động mua hàng vừa tuân theo các quy luật của thị trường, vừa chịu sự 35
  36. hướng dẫn, điều tiết của chính phủ. Chính phủ hướng dẫn bằng các chính sách và điều chỉnh đối với các hoạt động mua hàng trên thị trường thông qua hệ thống chế định, pháp luật. 3.2.2. Cung ứng và nguồn cung ứng hàng hóa 3.2.2.1. Khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hoá a. Khái niệm Cung ứng hàng hoá là tổng trị giá và cơ cấu hàng hoá hiện có và sẽ có bán trên thị trường đề đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định. Cung ứng hàng hoá bao gồm những hàng hoá là các thành phẩm đã kết thúc quá trình sản xuất, những bán thành phẩm sẽ được hoàn tất quá trình sản xuất để đưa vào lưu thông. Cung ứng hàng hoá thể hiện ở cả tổng trị giá và lượng hàng hoá đưa ra thị trường từ các nguồn hàng khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội trong một khoảng thời gian xác định. b. Các yếu tố ảnh hưởng tới cung ứng hàng hoá bao gồm Yếu tố về sản xuất như năng lực sản xuất trong nước thể hiện ở quy mô vốn, nhân lực và trình độ công nghệ, chu kỳ sống của sản phẩm. Các yếu tố đó ảnh hưởng tới sự phát triển nguồn hàng trong nước, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng, quy mô và cơ cấu cũng như thời gian cung ứng hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra, yếu tố sản xuất còn phụ thuộc vào công tác nghiên cứu và triển khai, phát triển sản phẩm. Yếu tố về nguồn hàng nhập khẩu. Quy mô, cơ cấu, khoảng cách địa lý và tính ổn định hay sự thay đổi của nguồn hàng nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng hàng hoá trong nước. Ngoài ra, năng lực, uy tín của các nhà cung cấp nước ngoài và yếu tố xuất khẩu cũng ảnh hưởng tới hoạt động cung ứng đối với các hàng hoá nhập khẩu để lưu thông trên thị trường nội địa. Yếu tố về thị trường. Giá cả hàng hoá và các sản phẩm thay thế, những thay đổi của nhu cầu, tình hình cạnh tranh trong nước và quốc tế, có thể ảnh hưởng tới quy mô hay cơ cấu cung ứng hàng hoá trên thị trường. Các chính sách vĩ mô đối với cung và nguồn hàng bao gồm các chính sách thương mại, đầu tư, tài chính, đất đai, tài nguyên môi trường, và quy hoạch phát triển nguồn hàng. 3.2.2.2. Nguồn hàng cung ứng trên thị trường a. Khái niệm Nguồn hàng là nguồn tạo ra hàng hoá để cung ứng trên thị trường. Đó là nơi phát ra các luồng hàng hoá vận động trên thị trường trong nước và quốc tế, là nơi cung ứng hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu dùng, sản xuất nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn hàng không phải đơn thuần là khái niệm chỉ vị trí địa lý, nơi khởi nguồn các dòng chảy 36
  37. của hàng hoá vào kênh phân phối, mà còn hàm chứa quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng, tiềm năng đưa hàng hoá ra thị trường trong một khoảng thời gian nhất định. b. Tạo lập nguồn hàng cung ứng trên thị trường Nguồn hàng có 2 loại: nguồn hàng trong nước và nguồn nhập khẩu. Mỗi nguồn hàng có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Một mặt quy mô, cơ cấu và sự phân bố nguồn hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cung ứng hàng hoá trên thị trường. Mặt khác, sự phát triển của nguồn hàng phụ thuộc vào sản xuất, các quy hoạch phát triển kinh tế và chính sách vĩ mô của chính phủ về tài chính, thương mại và đầu tư cũng như các hỗ trợ khác về hạ tầng cơ sở, các yếu tố của môi trường quốc tế. Nhà nước cần phải có chính sách tạo lập và phát triển nguồn hàng, đảm bảo nguồn hàng mang tính ổn định, hợp lý và cân đối. Doanh nghiệp cũng cần chủ động tham gia đầu tư vào các khu vực nguồn hàng để tạo ra cơ sở vật chất cho hoạt động cung ứng liên tục, mang tính cạnh tranh và có hiệu quả, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế. 3.2.2.3. Hoạt động bán hàng của các nhà cung ứng Chủ thể của hoạt động bán hàng trên thị trường là các nhà sản xuất hoặc thương nhân trong và ngoài nước (gọi chung là các nhà cung ứng). Hoạt động bán hàng có ảnh hưởng tới tính liên tục của dòng chảy hàng hoá từ nguồn hàng ra thị trường và vận động tới người tiêu dùng. Đối với thương nhân, bán hàng (T-H’) là khâu kết thúc của hoạt động thương mại, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả thương mại. Chính phủ phải có chính sách, quy hoạch phát triển mạng lưới bán hàng và hệ thống kênh phân phối hàng hoá trong nước và xuất nhập khẩu để khơi thông các luồng hàng, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá trên cả thị trường trong và ngoài nước. 3.2.3. Dự trữ hàng hóa trong lưu thông 3.2.3.1. Khái niệm và sự cần thiết của dự trữ hàng hoá a. Khái niệm dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là một hình thái dự trữ sản phẩm xã hội, bao gồm toàn bộ hàng hoá cần thiết đang vận động trong các khâu khác nhau của quá trình lưu thông. Đó là những hàng hoá đã thoát khỏi quá trình sản xuất nhưng chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Các hình thái dự trữ sản phẩm xã hội bao gồm: dự trữ trong sản xuất, trong lưu thông và trong tiêu dùng. Dự trữ trong lưu thông là dự trữ hàng hoá, có quan hệ ảnh hưởng tới dự trữ trong sản xuất và tiêu dùng. Dự trữ trong lưu thông bao gồm hàng hoá ở kho thành phẩm của nhà sản xuất, kho trạm của mạng lưới thương mại bán buôn, bán lẻ và hàng đang đi trên đường, hàng gửi bán. Dự trữ hàng hoá khác tồn kho ở chỗ nó chủ 37
  38. động hình thành và cần thiết cho lưu thông, luôn đổi mới không ngừng trong quá trình vận động. Tồn kho còn bao gồm cả hàng hoá do hậu quả của lưu thông để lại. b. Sự cần thiết của dự trữ hàng hoá Dự trữ hàng hoá là điều kiện cần thiết của lưu thông, đảm bảo cho lưu thông hàng hoá diễn ra liên tục thông suốt. Không có dự trữ hàng hoá thì không có lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, dự trữ hàng hoá phải hợp lý mới rút ngắn thời gian lưu thông, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và tiết kiệm chi phí. Dự trữ hàng hoá hình thành là do quan hệ cung cầu, giá cả và tình hình cạnh tranh thị trường, do yêu cầu xử lý mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng, nhằm đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra liên tục, thông suốt. Mặt khác, dự trữ hàng hoá là cần thiết còn do vai trò của nó trong các công cụ, chính sách điều tiết vĩ mô của chính phủ, thông qua đó để nắm bắt, khai thác các cơ hội thị trường và giảm thiểu các nguy cơ rủi ro. 3.2.3.2. Phân loại dự trữ hàng hoá a. Theo công dụng của hàng hoá dự trữ Dự trữ hàng sản xuất bao gồm toàn bộ hàng hoá vật tư, nguyên, nhiên phụ liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng, công nghệ là những “đầu vào” phục sản xuất được lưu thông trên thị trường. Dự trữ hàng tiêu dùng bao gồm hàng lương thực, thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng được lưu thông trên thị trường phục vụ tiêu dùng đời sống dân cư. b. Theo mục đích sử dụng Dự trữ thường xuyên bao gồm toàn bộ những hàng hoá thường xuyên phải có bán trên thị trường. Nếu thiếu hàng sẽ gián đoạn lưu thông, gây khó khăn trở ngại cho sản xuất và đời sống (Ví dụ: xăng dầu, phân bón, sắt thép, xi măng, lương thực, thực phẩm ). Dự trữ thời vụ, là những hàng hoá được hình thành ở vào thời vụ của sản xuất và tiêu dùng nhằm tận dụng tối đa các cơ hội trong mua và bán hàng hoá hoặc khắc phục tính thời vụ của sản xuất và tiêu dùng (chẳng hạn, kinh doanh hàng nông sản, hàng thuỷ sản ở vào mùa thu hoạch, hàng tiêu dùng trong các dịp lễ, tết, và chính sách vĩ mô của chính phủ đối với dự trữ lưu thông đối với các mặt hàng có tính thời vụ đó) . Dự trữ bảo hiểm là loại dự trữ đề phòng những rủi ro, bất trắc xảy ra (chẳng hạn, do bán nhanh hết hàng, do vận chuyển hàng đến chậm, do thiên tai, do chiến tranh ). c. Các phân loại khác (theo quy mô, thời gian, hình thức biểu hiện và sự vận động của dự trữ) Theo quy mô gồm có dự trữ thấp nhất, cao nhất và bình quân. Theo thời gian gồm có dự trữ đầu kỳ, cuối kỳ. Theo hình thức biểu hiện có dự trữ hiện vật, trị giá dự trữ và thời gian (số ngày) dự trữ hàng hoá. Theo quá trình vận động gồm hàng hoá dự trữ trong 38
  39. các kho hàng, hàng hoá đang trên đường đi, hàng gửi bán hoặc quảng cáo tại các hội chợ thương mại. 3.2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới dự trữ hàng hoá Các yếu tố thuộc về sản xuất như quy mô, cơ cấu, trình độ, tính chất và sự phân bố sản xuất. Hệ thống giao thống và hạ tầng kỹ thuật: số lượng, chất lượng, cơ cấu các loại tuyến đường và phương tiện giao thông cũng như sự phân bố hạ tầng giao thông. Các hạ tầng kỹ thuật khác như thông tin, viễn thông, ngân hàng, điện năng, Mạng lưới thương mại và hệ thống phân phối bao gồm cửa hàng, kho hàng, trung tâm thương mại, siêu thị, hội chợ triển lãm, các chợ bán buôn, bán lẻ, Cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại gồm các phương tiện kinh doanh trong các khâu mua bán, kho hàng và vận chuyển hàng hoá. Tình hình thị trường và cạnh tranh trong thương mại. Quan hệ cung cầu hàng hoá, giá cả, mức độ cạnh tranh và xu hướng biến động của các yếu tố và quan hệ đó. Chính sách kinh doanh của doanh nghiệp và cơ chế quản lý nhà nước đối với hàng hoá lưu thông. Các yếu tố khác (điều kiện tự nhiên, những bất trắc khác). 3.2.4. Chi phí lưu thông hàng hóa 3.2.4.1. Khái niệm chi phí lưu thông Chi phí lưu thông là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phục vụ cho việc tổ chức và quản lý quá trình lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế. Các hao phí về lao động vật hoá bao gồm các bộ phận cấu thành chủ yếu như hao mòn vật chất về tài sản, phương tiện trong các khâu mua, bán, kho hàng và vận chuyển hàng hoá, hao hụt, tổn thất hàng hoá. Ngoài ra, còn bao gồm những hao phí vật chất ở các cơ quan quản lý nhà nước về thương mại. Hao phí về lao động sống bao gồm hao phí sức lao động của nhân sự thực hiện các công việc ở các khâu lưu thông nói trên và công tác quản lý thương mại. Chi phí lưu thông trong nền kinh tế bao gồm chi phi lưu thông của nhà sản xuất trong mua các yếu tố “đầu vào”, tiêu thụ sản phẩm “đầu ra”, chi phi lưu thông của nhà thương mại và chi phí thời gian mua sắm của người tiêu dùng, trong đó chi phí lưu thông của thương mại là bộ phận lớn nhất. 3.2.4.2. ý nghĩa của việc hạ thấp chi phí lưu thông trong nền kinh tế Hạ thấp chi phí lưu thông được hiểu là giảm thấp tỷ suất chi phí chứ không phải giảm quy mô, khối lượng chi phí phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá. Hạ thấp chi phí lưu thông có ý nghĩa như sau: 39
  40. Tiết kiệm chi phí và vốn đầu tư của nhà nước, của xã hội và doanh nghiệp vào lĩnh vực lưu thông, dành vốn ưu tiên cho các lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả thương mại và sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh nghiệp cũng như của cả nền kinh tế. Tiết kiệm chi phí thời gian và tiền bạc trong quá trình mua sắm hàng hoá của người tiêu dùng. 3.2.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí lưu thông Khối lượng và cơ cấu hàng hoá lưu thông. Quy mô lưu chuyển hàng hoá tăng làm khối lượng chi phí cũng tăng lên, nhưng tỷ lệ chi phí lưu thông có xu hướng giảm, nhờ tiết kiệm các chi phí cố định. Mỗi loại hàng, nhóm hàng có đặc điểm kinh doanh khác nhau, đòi hỏi hao phí trong quá trình trao đổi khác nhau, do vậy, sự chuyển dịch cơ cấu hàng hoá lưu chuyển sẽ làm thay đổi quy mô và cơ cấu chi phí lưu thông. Dự trữ hàng hoá và thời gian lưu thông. Dự trữ hàng hoá càng lớn, thời gian lưu thông hàng hoá càng kéo dài chi phí càng tăng và thậm chí gây lãng phí lớn tiền vốn đầu tư vào lĩnh vực thương mại. Giá cả hàng hoá và giá các dịch vụ. Tỷ suất chi phí lưu thông có quan hệ tỷ lệ nghịch với giá cả và tỷ lệ thuận với giá các dịch vụ. Sử dụng các phương thức mua bán, các phương tiện kinh doanh thích hợp vừa thúc đẩy chu chuyển hàng hoá, vừa giảm thấp chi phí trong lưu thông nói chung và chi phí khâu thanh toán tiền hàng. Công tác quản lý cũng như trình độ nguồn nhân lực, thủ tục thương mại đều có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu chi phí lưu thông trong nền kinh tế. Các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, những bất trắc do chiến tranh, xung đột sắc tộc, dịch bệnh, thiên tai. 3.2.5. Kết quả trong thương mại hàng hóa 3.2.5.1. Khái niệm kết quả thương mại Đó là phạm trù kinh tế phản ánh kết cục hoạt động thương mại của chủ thể nào đó trong một thời kỳ nhất định. Kết quả thương mại thường được xác định trên tầm vĩ mô và doanh nghiệp. Kết quả phản ánh mục tiêu mà hoạt động thương mại cần hoặc đã đạt được trong khoảng thời gian xác định. Kết quả và hiệu quả thương mại có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên hiệu quả bao giờ cũng phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được kết quả thương mại theo mục tiêu đã đặt ra, không thể đồng nhất với kết quả. 3.2.5.2. Các chỉ tiêu chủ yếu biểu hiện kết quả trong thương mại hàng hoá Tổng mức lưu chuyển hàng hoá. 40
  41. Kết quả hoạt động thương mại nội địa hay lưu thông hàng hoá trong nước được thể hiện ở tổng mức lưu chuyển hàng hoá. Trong trường hợp này, toàn bộ kết quả hoạt động trao đổi được tính theo trị giá, đo lường theo đồng nội tệ (bản tệ). Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bao gồm tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán buôn và bán lẻ. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán buôn phản ánh kết quả dưới hình thái giá trị các giao dịch thương mại diễn ra trên thị trường giữa các nhà doanh nghiệp với nhau trong hoạt động mua bán buôn, hàng hoá vẫn nằm trong khâu lưu thông, chưa kết thúc khâu bán lẻ để tới người tiêu dùng cuối cùng. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ (hay tổng mức bán lẻ xã hội). Đó là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động lưu thông hàng hoá trong nước. Tất cả kết quả các giao dịch mua bán giữa chủ thể người bán với người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường dưới hình thái giá trị đều được phản ánh qua chỉ tiêu tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Chỉ tiêu này rất cần thiết cho các phân tích kinh tế vĩ mô về cân đối cung cầu, quỹ mua và nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư và xã hội. Đây là chỉ tiêu quan trọng và là bộ phận hợp thành chủ yếu của tổng mức lưu chuyển hàng hoá trong nền kinh tế. Kết quả thương mại còn được biểu hiện dưới hình thức hiện vật, đó là khối lượng hàng hoá lưu chuyển. Thông thường những mặt hàng quan trọng, thiết yếu thuộc cân đối lớn trên tầm vĩ mô của quốc gia, cần phải thống kê và phân tích theo cả 2 hình thức giá trị và hiện vật để phục vụ cho công tác hoạch định chính sách kinh tế và quản lý thương mại của nhà nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu phản ánh toàn bộ hoạt động thương mại quốc tế hai chiều (ngoại thương) của một quốc gia, bao gồm kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Đơn vị sử dụng trong đo lường kết quả hoạt động ngoại thương là đồng ngoại tệ (có thể là đồng tiền chung quốc tế USD hay các đồng tiền của đối tác thương mại). Chỉ tiêu này cũng phản ánh qui mô và cơ cấu cán cân thương mại của quốc gia trong từng thời kỳ cụ thể. Nó cho phép đánh giá chiến lược, chính sách thương mại, cũng như phân tích các xu hướng tăng trưởng, phát triển kinh tế, vị thế của thương mại từng quốc gia trong nền thương mại toàn cầu và khu vực. Kim ngạch xuất khẩu phản ánh kết quả hoạt động ngoại thương một chiều xuất khẩu của quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Kim ngạch nhập khẩu phản ánh kết quả hoạt động ngoại thương trong trường hợp ngược lại khi nhập hàng từ nước ngoài về. Ngày nay, do mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại, hoạt động ngoại thương của một nước có thể diễn ra ngay tại thị trường trong nước, đó là trường hợp xuất nhập khẩu tại chỗ. 41
  42. Để tính toán và phân tích kết quả hoạt động thương mại nói chung của quốc gia, cần phải quy đổi ra một đơn vị tiền tệ thống nhất các kết quả thương mại trên thông qua lựa chọn đúng đắn quan hệ tỷ giá chuyển đổi giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Chỉ tiêu phản ánh toàn bộ kết quả hoạt động thương mại của quốc gia, đó tổng trị giá thương mại hay tổng thương mại. Giá trị gia tăng trong thương mại hàng hoá. Chỉ tiêu này phản ánh khoảng cách chênh lệch tuyệt đối giữa kết quả đạt được và chi phí nguồn lực bỏ ra trong trao đổi thương mại hàng hoá của quốc gia. Giá trị gia tăng có phân biệt khi mua bán hàng hóa và dịch vụ trên thị trường nội địa và quốc tế. Giá trị gia tăng là chỉ tiêu phản ánh kết quả tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Nó cho phép phân tích, đánh giá sự tham gia, đóng góp của thương mại vào thu nhập quốc dân của nền kinh tế. Nếu so sánh tương quan (số tương đối) giữa giá trị gia tăng với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó thì đây còn là thước đo về hiệu quả và sức cạnh tranh của thương mại. Ngoài ra, còn có chỉ tiêu trị giá thương mại hàng gia công. Trong thương mại, ngoài kết quả trao đổi theo các giao dịch thông thường, còn có gia công, lắp ráp, chế biến sản phẩm. Kết quả của các hoạt động này tuy mang tính chất sản xuất nhưng lại diễn ra trong khâu lưu thông nên được tính vào giá trị thương mại. Trị giá hàng hoá gia công trong thương mại quốc tế được coi là kim ngạch xuất khẩu. Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá hiệu quả xã hội của thương mại thể hiện ở thu hút việc làm, khai thác lợi thế về nhân công dồi dào, giá rẻ. 3.2.5.3. Đặc điểm phát triển có tính quy luật trong thương mại hàng hoá (1) Quy mô thương mại hàng hoá ngày càng tăng lên trên cả thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu, tỷ trọng thương mại có xu hướng giảm trong tổng thương mại. Cơ sở: Do nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và đời sống xã hội ngày càng tăng lên. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến. Chiến lược và các chính sách phát triển kinh tế và thương mại của quốc gia ngày càng phù hợp với quá trình tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Sự phát triển của thương mại dịch vụ và thương mại điện tử. Biểu hiện: Tổng mức lưu chuyển hàng hoá trên thị trường nội địa, kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước về trị giá thương mại. Các nước phát triển sẽ gia tăng thương mại đối với những hàng hoá có yêu cầu đổi mới công nghệ và chuyển giao kỹ thuật, phát triển quy mô thương mại ở thị trường nước ngoài. 42