Tìm hiểu lịch sử tăng trưởng kinh tế thế giới trong 2000 năm

pdf 11 trang Đức Chiến 04/01/2024 330
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu lịch sử tăng trưởng kinh tế thế giới trong 2000 năm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftim_hieu_lich_su_tang_truong_kinh_te_the_gioi_trong_2000_nam.pdf

Nội dung text: Tìm hiểu lịch sử tăng trưởng kinh tế thế giới trong 2000 năm

  1. KINH TẾ 3 TÌM HIỂU LỊCH SỬ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THẾ GIỚI TRONG 2000 NĂM Ngày nhận bài:10/08/2013 Nguyễn Văn Phúc1 Ngày nhận lại: 15/09/2013 Ngày duyệt đăng: 30/12/2013 TÓM TẮT Tăng trưởng kinh tế đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều nhà kinh tế học vì một sự khác biệt nhỏ trong tốc độ tăng trưởng giữa hai quốc gia trong một thời gian dài có thể dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về sự thịnh vượng. Qua xem xét số liệu tăng trưởng kinh tế thế giới trong 2000 năm qua, bài viết này rút ra các kết luận sau đây. Thứ nhất, trong phần lớn lịch sử, nhân loại nhìn chung sống trong nghèo khổ, tăng trưởng kinh tế nhanh chỉ thật sự diễn ra trong gần 200 năm trở lại đây. Thứ hai, một tốc độ tăng trưởng nhỏ nhưng được duy trì trong một thời gian dài có thể tạo ra khác biệt lớn về kết quả (như Tây Âu giai đoạn 1000-1820). Thứ ba, khả năng bắt kịp tăng trưởng của các nước đang phát triển đối với các nước giàu nhất là vô cùng khó khăn. Sau gần 200 năm công nghiệp hóa, bắt đầu từ năm 1820, thứ bậc các khu vực trên thế giới xét theo GDP bình quân đầu người gần như không hề thay đổi, ngoại trừ Nhật Bản. Hầu hết các nước ngày càng tụt hậu xa hơn so với các nước phương Tây giàu có. Thứ tư, lịch sử cho thấy là tăng trưởng nhanh trong dài hạn là rất khó, rất hiếm quốc gia đạt được tốc độ tăng GDP bình quân đầu người từ 4,0%/năm trở lên trong 40-50 năm liên tục. Kiến nghị rút ra với Việt Nam là chúng ta không nên thúc đẩy tăng trưởng nhanh bằng mọi giá. Tăng trưởng ổn định lâu dài quan trọng hơn là tăng trưởng nhanh nhưng ngắn hạn. Từ khóa: Tăng trưởng kinh tế, Kinh tế thế giới, Lịch sử kinh tế. ABSTRACT Economic growth has attracted many economists because a small difference in growth rates can make a huge difference in prosperity in the long run. By looking at data on world economic growth over 2000 years, the following observations are made. Firstly, the world as a whole had been fairly poor until recently. Rapid growth only took place in the last two hundred years. Secondly, a small difference in growth rates can make a huge difference in prosperity in the long run (e.g., Western Europe over the period 1000-1820). Thirdly, catching up between developing countries and rich countries is very difficult. In the last 200 years, since 1820, the ranking of prosperity by regions has not changed, except for Japan. Most countries have lagged further behind the West. Fourth, rapid economic growth over the long run is rather difficult. Only a few countries could manage to achieve the growth rate of per capita GDP over 4.0% per year for continuous 40-50 years. For Vietnam, the implication is that Vietnam should not push for rapid economic growth at all costs. The more important thing is stable economic growth for the long run rather than short-run fast economic growth. Keywords: Economic Growth, World Economy, Economic History. 1 TS, Hiệu trưởng Trường Đại học Mở TP.HCM.
  2. 4 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM - SỐ 1 (34) 2014 1. ĐẶT VẤN ĐỀ dài hạn chiếm vai trò quan trọng hơn. Điều Tăng trưởng kinh tế là một trong quan trọng hơn là nếu một đất nước nào đó các chủ đề lâu đời nhất của kinh tế học. có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn Cuốn sách đánh dấu sự ra đời kinh tế học định trong một thời gian dài thì sẽ tạo ra của Adam Smith (Smith, 1776) cũng dành một kết quả khác biệt rất lớn. Từ phép tính nhiều nội dung nói về tăng trưởng kinh tế. đại số đơn giản, Bảng 1 cho chúng ta thấy Tăng trưởng kinh tế đã thu hút sự quan là nếu một nền kinh tế tăng trưởng ổn định tâm của rất nhiều nhà kinh tế học vì một với tốc độ là 5% bình quân đầu người/năm sự khác biệt nhỏ trong tốc độ tăng trưởng thì thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng giữa hai quốc gia trong một thời gian dài 2,7 lần sau 20 năm, 11,5 lần sau 50 năm và có thể dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về 131,5 lần sau 100 năm. Nếu tăng trưởng sự thịnh vượng. Một trong những mục tiêu là 4%/năm thì sự khác biệt với tốc độ 5%/ chính của phát triển là nâng cao thu nhập năm sau 20 năm là không nhiều (2,2 lần so của người dân. Không có tăng trưởng kinh với 2,7 lần), nhưng sau 100 năm thì sự khác tế, chúng ta không thể nâng cao mức sống biệt là rất lớn (50,5 lần so với 131,5 lần). người dân hay giải quyết những nội dung Nếu tăng trưởng là 3%/năm thì sự khác biệt quan trọng khác của phát triển. Nhà kinh tế với tốc độ 5%/năm sau 100 năm là vô cùng học đoạt giải Nobel - Lucas (1988, tr.5) đã lớn (19,2 lần so với 131,5 lần). Nói tóm từng viết: “Khi một người bắt đầu nghĩ về lại, một sự khác biệt nhỏ trong tốc độ tăng những điều này (tăng trưởng kinh tế), thật trưởng dài hạn sẽ tạo ra một sự khác biệt khó có thể nghĩ về bất kỳ điều gì khác”. rất lớn về thu nhập giữa các quốc gia. Do Tăng trưởng kinh tế được định đó, việc duy trì tăng trưởng bền vững trong nghĩa là sự gia tăng về sản lượng hay thu dài hạn là điều vô cùng quan trọng đối với nhập trong nền kinh tế trong một khoảng mỗi quốc gia. Có những quốc gia tạo được thời gian nhất định. Tổng sản lượng quốc tăng trưởng kinh tế nhanh trong một thời gia (GDP) hoặc tổng thu nhập quốc gia gian nhưng sau đó không thể duy trì được (GNP) thường được dùng để đo lường sản trong dài hạn. Có những quốc gia đạt tốc lượng hay thu nhập được tạo ra trong nền độ tăng trưởng không cao lắm nhưng được kinh tế trong một khoảng thời gian nhất duy trì trong một thời gian rất dài nên đạt định. Trong lý thuyết kinh tế, tăng trưởng được mức thu nhập trên đầu người cao. kinh tế được chia thành tăng trưởng ngắn Bài viết này không nhằm giải thích tăng hạn và tăng trưởng dài hạn. Solow (2001) trưởng kinh tế - chủ đề này tác giả đã thực định nghĩa tăng trưởng dài hạn là tăng hiện công phu trong một nghiên cứu khác trưởng được đo lường trong khoảng thời (Nguyen Van Phuc, 2006) mà chủ yếu tác gian dài, ví dụ 30-50 năm. Đối với khoảng giả muốn xem xét số liệu thống kê tăng thời gian dài như vậy thì tác động của yếu trưởng của thế giới trong 2000 năm qua và tố chu kỳ được giảm thiểu. Các nhân tố rút ra các bài học cần thiết.
  3. KINH TẾ 5 Bảng 1. Tốc độ tăng GDP bình quân đầu người và số lần tăng lên sau 20 năm, 50 năm và 100 năm của GDP bình quân đầu người Tốc độ tăng GDP GDP bình quân đầu GDP bình quân đầu GDP bình quân đầu bình quân đầu người 20 năm sau người 50 năm sau người 100 năm sau người/năm (số lần tăng lên) (số lần tăng lên) (số lần tăng lên) 1% 1,2 1,6 2,7 2% 1,5 2,7 7,2 3% 1,8 4,4 19,2 4% 2,2 7,1 50,5 5% 2,7 11,5 131,5 6% 3,2 18,4 339,3 7% 3,9 29,5 867,7 8% 4,7 46,9 2199,8 Đối với Việt Nam, sau khi tiến hành 2. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ đổi mới kinh tế vào năm 1986, nền kinh CỦA THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 1-2000 tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh từ năm NĂM 1989. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới Bảng 2 trình bày số liệu về tăng (World Development Indicators), nền kinh trưởng GDP bình quân đầu người trong tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng bình gần 2000 năm qua cho các khu vực chính quân GDP/đầu người là 5,7%/năm trong trên thế giới. Về phương pháp tính cụ thể, giai đoạn 1989-2012. Mặc dù đạt được xin vui lòng xem chi tiết trong Maddison tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng do xuất (2001, 2003). Trong 1000 năm đầu tiên phát điểm rất thấp nên hiện tại nền kinh tế (0-1000, A.D.), thế giới nhìn chung không Việt Nam cũng chỉ đạt là nước có thu nhập trung bình thấp, còn thua kém hàng chục hề tăng trưởng (tốc độ 0,00%/năm). GDP lần thu nhập bình quân đầu người của các bình quân đầu người (theo giá cố định nước phát triển. Những năm gần đây, tăng Dollar quốc tế năm 1990) là 444 vào năm trưởng đã chậm lại đáng kể (tăng trưởng Công nguyên, 1000 năm sau là 435. Xét GDP bình quân đầu người năm 2011 là theo từng khu vực thì gần như không có 4,9%, năm 2012 là 3,9%, năm 2013 khoảng khu vực nào có sự tăng trưởng đáng kể, 4,3% so với 7,0% năm 2006 và 7,3% năm một số khu vực thậm chí giảm. Vào năm 2007) làm dấy lên lo ngại về tính bền vững Công nguyên, thế giới rất nghèo, thì một của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tuy ngàn năm sau, thế giới vẫn nghèo như vậy. nhiên, nếu nôn nóng thúc đẩy tăng trưởng Trong 1000 năm tiếp theo, giai đoạn 1000- nhanh bằng mọi giá thì có thể tạo ra tăng 1820, thế giới có tăng trưởng nhưng ở tốc trưởng nhanh ngắn hạn nhưng để lại hậu độ rất thấp, bình quân chỉ đạt 0,05%/năm. quả dài hạn. Bài viết này, bằng lịch sử tăng Đây là tốc độ vô cùng thấp xét theo tiêu trưởng của thế giới, muốn làm sáng tỏ các chuẩn ngày nay. Trong giai đoạn này, chỉ vấn đề sau: i) tăng trưởng nhanh trong thời có Tây Âu và Tây Âu nối dài (bao gồm gian dài dễ hay khó?; ii) khả năng bắt kịp các nước Mỹ, Canada, Úc, New Zealand) tăng trưởng của các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng dương một chút đối với các nước giàu thế nào?, từ đó rút ra (0,14%/năm và 0,13%/năm), các khu vực các bài học cho Việt Nam. còn lại tăng trưởng gần bằng 0. Nhờ có
  4. 6 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM - SỐ 1 (34) 2014 tốc độ tăng trưởng, mặc dù rất nhỏ, nhưng nhưng với tốc độ thấp hơn nhiều so với được duy trì trong thời gian dài nên GDP các nước trên. Kết quả là GDP bình quân bình quân đầu người của Tây Âu và Tây đầu người các khu vực này thấp hơn nhiều Âu nối dài tăng gấp 3 lần năm 1820 so với lần so với Tây Âu, Tây Âu nối dài và Nhật năm 1000. Tăng trưởng nhanh của thế giới Bản. Trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, chỉ thật sự diễn ra từ năm 1820 – là năm về mặt thứ tự xếp theo GDP bình quân đầu được cho là khởi đầu của cách mạng công người các khu vực gần như không thay nghiệp ở Anh – đến ngày nay. Tăng trưởng đổi, ngoại trừ Nhật Bản. Vào năm 1820, GDP bình quân của thế giới giai đoạn Tây Âu và Tây Âu nối dài có GDP bình 1820-1998 là 1,21%/năm. Tây Âu, Tây Âu quân đầu người cao nhất, kế đến là Nhật nối dài và Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng Bản, Đông Âu và Nga, châu Mỹ Latinh, nhanh nhất. GDP bình quân đầu người của rồi đến châu Á (trừ Nhật Bản), đứng cuối thế giới tăng 8,6 lần giai đoạn 1820-1998, là châu Phi. Vào năm 1998, thứ tự trên cơ trong đó Nhật Bản tăng 30,5 lần, Tây Âu bản vẫn như vậy, ngoại trừ Nhật Bản đã tăng 14,5 lần và Tây Âu nối dài tăng 21,8 vươn lên vượt qua Tây Âu. lần. Các khu vực khác cũng có tăng trưởng Bảng 2. GDP và tăng trưởng GDP bình quân trên đầu người/năm giai đoạn 0-1998 năm 1000- 1820- Khu vực/năm 0 1000 1820 1998 0-1000 1820 1998 Tốc độ tăng trưởng Theo giá Dollar quốc tế 1990 bình quân/năm, % Tây Âu 450 400 1232 17921 -0,01 0,14 1,51 Tây Âu nối dài 400 400 1201 26146 0,00 0,13 1,75 Nhật Bản 400 425 669 20413 0,01 0,06 1,93 Nhóm A 443 405 1130 21470 -0,01 0,13 1,67 Châu Mỹ Latinh 400 400 665 5795 0,00 0,06 1,22 Đông Âu và Nga 400 400 667 4354 0,00 0,06 1,06 Châu Á (trừ Nhật Bản) 450 450 575 2936 0,00 0,03 0,92 Châu Phi 425 416 418 1368 0,00 0,00 0,67 Nhóm B 444 440 573 3102 0,00 0,03 0,95 Thế giới 444 435 667 5709 0,00 0,05 1,21 Nguồn: Maddison (2001). Ghi chú: Trong bài viết này, (i) Tây Âu nối dài bao gồm các nước sau: Mỹ, Canada, Úc, New Zealand; (ii) nước Nga bao gồm nước Nga hiện nay và các nước thuộc Liên Xô cũ trước đây.
  5. KINH TẾ 7 Bảng 3. Tăng trưởng GDP bình quân trên đầu người/năm giai đoạn 1000-1820 Khu vực/năm 1000-1500 1500-1600 1600-1700 1700-1820 Tốc độ tăng trưởng bình quân/năm, % Tây Âu 0,13 0,14 0,15 0,15 Tây Âu nối dài 0,00 0,00 0,17 0,78 Nhật Bản 0,03 0,03 0,09 0,13 Châu Mỹ Latinh 0,01 0,09 0,19 0,19 Đông Âu và Nga 0,04 0,10 0,10 0,10 Châu Á (trừ Nhật Bản) 0,05 0,01 -0,01 0,01 Châu Phi -0,01 0,00 0,00 0,04 Nguồn: Maddison (2001). Bảng 3 xem xét chi tiết hơn tăng đối khá ở giai đoạn 1700-1820. Kết quả là trưởng giai đoạn 1000-1820. Trong giai đến năm 1820, GDP bình quân đầu người đoạn 1000-1500, chỉ có Tây Âu là có tốc của khu vực này ngang bằng với Tây Âu. độ tăng trưởng dương một chút, đạt trung Đây là khu vực duy nhất đuổi kịp Tây Âu bình 0,13%/năm. Các khu vực khác hầu và duy trì vị thế đó cho đến ngày nay. Khu như không tăng trưởng. Trong hơn ba thế vực châu Mỹ Latinh, Đông Âu và Nga có kỷ tiếp theo, Tây Âu tiếp tục tăng trưởng tăng trưởng chút ít giai đoạn 1500-1820 ổn định, với 0,14%/năm giai đoạn 1500- nhưng thấp hơn Tây Âu. Khu vực châu Á 1600 và 0,15%/năm giai đoạn 1600-1820. (ngoại trừ Nhật Bản) và châu Phi thì không Kết quả là GDP bình quân đầu người của có tăng trưởng. Kết quả là hai khu vực này Tây Âu tăng lên khoảng ba lần giai đoạn có GDP trên đầu người thấp nhất vào năm 1000-1820 và vượt xa các khu vực khác 1820. Một nhận xét quan trọng rút ra từ (trừ Tây Âu nối dài) về thu nhập trên đầu đây là: một tốc độ tăng trưởng nhỏ nhưng người vào năm 1820 (xem bảng 4). Vào được duy trì trong một thời gian dài có thể năm 1500, trước khi Tây Âu thực hiện việc tạo ra khác biệt lớn về kết quả (như Tây xâm chiếm thuộc địa thì số liệu cho thấy là Âu giai đoạn 1000-1820, Tây Âu nối dài thu nhập trên đầu người của họ đã tương giai đoạn 1600-1820). Các nước Tây Âu đối cao hơn các khu vực khác. Khu vực và Tây Âu nối dài đã tương đối giàu có Tây Âu nối dài bắt đầu có tăng trưởng từ hơn các nước khác khi họ bước vào giai giai đoạn 1600-1700 và tăng trưởng tương đoạn công nghiệp hóa sau năm 1820. Bảng 4. GDP bình quân trên đầu người/năm giai đoạn 1000-1820, các khu vực trên thế giới Khu vực/năm 1000 1500 1600 1700 1820 Theo giá Dollar quốc tế 1990 Tây Âu 400 771 890 998 1204 Tây Âu nối dài 400 400 400 476 1202 Nhật Bản 425 500 520 570 669 Châu Mỹ Latinh 400 416 438 527 692 Đông Âu 400 496 548 606 683
  6. 8 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM - SỐ 1 (34) 2014 Khu vực/năm 1000 1500 1600 1700 1820 Theo giá Dollar quốc tế 1990 Nga 400 499 552 610 688 Châu Á (trừ Nhật Bản) 450 572 575 571 577 Châu Phi 416 414 422 421 420 Nguồn: Maddison (2003). Như vậy, trong suốt 2000 năm qua trưởng nhanh hơn trước. Châu Mỹ Latinh thì tăng trưởng thật sự đáng kể chỉ xảy cũng bắt đầu có tăng trưởng khá nhanh. ra sau năm 1820. Tìm hiểu chi tiết tăng Châu Á và châu Phi vẫn còn tăng trưởng trưởng giai đoạn 1820-2001, số liệu bảng rất thấp. Giai đoạn 1870-1913, tăng trưởng 5 cho thấy là có sự tăng trưởng không đều chung của thế giới đạt 1,30%/năm, cao hơn giữa các khu vực và các giai đoạn khác nhiều tốc độ 0,54%/năm giai đoạn 1820- nhau. Giai đoạn 1820-70, Tây Âu và Tây 70. Giai đoạn 1913-1950 chứng kiến hai Âu nối dài bước vào giai đoạn công nghiệp cuộc chiến tranh thế giới nên tăng trưởng hóa và có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn chậm lại, tăng trưởng chung của thế giới đáng kể so với trước đây và so với các khu chỉ đạt 0,88%/năm, thấp hơn đáng kể giai vực khác. Các khu vực khác của châu Âu đoạn 1870-1913. Ở giai đoạn này, Tây Âu (Đông Âu và Nga) cũng bắt đầu có bước bị ảnh hưởng nặng hơn do là nơi diễn ra tăng trưởng đáng kể. Các khu vực còn lại chủ yếu của hai cuộc chiến tranh thế giới. tăng trưởng rất thấp hoặc thậm chí là thụt Tây Âu nối dài (cụ thể là Mỹ) có bước phát lùi. Giai đoạn 1870-1913, các nước Tây triển bức phá do ít bị ảnh hưởng của chiến Âu, Tây Âu nối dài tiếp tục tăng trưởng tranh mặc dù có gánh chịu cuộc Đại suy khá tốt, với tốc độ tăng cao hơn giai đoạn thoái năm 1929-1933. Nước Nga, sau này trước đó 1820-70. Nhật Bản cũng bắt đầu là Liên Xô cũng bắt đầu công nghiệp hóa tăng trưởng nhanh (đây là giai đoạn cải nhanh. Châu Mỹ Latinh cũng có tốc độ cách của Minh Trị). Các khu vực khác của phát triển tốt. Châu Phi có bước cải thiện châu Âu (Đông Âu và Nga) bắt đầu tăng nhỏ. Châu Á (trừ Nhật Bản) tiếp tục trì trệ. Bảng 5. Tăng trưởng GDP bình quân trên đầu người/năm giai đoạn 1820-2001 Khu vực/năm 1820-70 1870-1913 1913-50 1950-73 1973-2001 Tốc độ tăng trưởng bình quân/năm, % Tây Âu 0,98 1,33 0,76 4,05 1,88 Tây Âu nối dài: 1,41 1,81 1,56 2,45 1,84 + Mỹ 1,34 1,82 1,61 2,45 1,86 Nhật Bản 0,19 1,48 0,88 8,06 2,14 Đông Âu 0,63 1,39 0,60 3,81 0,68 Nga 0,63 1,06 1,76 3,35 -0,96 Châu Mỹ Latinh -0,03 1,82 1,43 2,58 0,91 Châu Á (trừ Nhật Bản): -0,10 0,42 -0,10 2,91 3,55 + Trung Quốc -0,25 0,10 -0,62 2,86 5,32
  7. KINH TẾ 9 Khu vực/năm 1820-70 1870-1913 1913-50 1950-73 1973-2001 Tốc độ tăng trưởng bình quân/năm, % + Ấn Độ 0,00 0,54 -0,22 1,40 3,01 Châu Phi 0,35 0,57 0,92 2,00 0,19 Thế giới 0,54 1,30 0,88 2,92 1,41 Nguồn: Maddison (2003). Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thế Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xin-ga-po, giới bước vào thời kỳ tăng trưởng nhanh Ma-lay-xi-a, Thái Lan đã tăng trưởng rất nhất trong lịch sử, đạt tốc độ tăng GDP nhanh, kế tiếp là Trung Quốc và Ấn Độ bình quân đầu người là 2,92%/năm cho trong các thập niên kế tiếp. Mặc dù châu giai đoạn 1950-73. Đây được gọi là giai Á và một số khu vực khác đạt được tốc độ đoạn tăng trưởng vàng (golden age). Tăng tăng trưởng cao sau năm 1950 nhưng thứ trưởng nhanh nhất là Nhật Bản với tốc độ bậc giữa các khu vực gần như không hề 8,06%/năm, kế đến là Tây Âu 4,06%/năm. thay đổi sau 180 năm công nghiệp hóa của Tất cả các khu vực khác đều có tốc độ tăng thế giới: Các nước giàu có nhất vào năm trưởng nhanh hơn nhiều so với trước đó. 1820 vẫn tiếp tục là các nước giàu có nhất Hầu hết các nước thuộc địa ở châu Á, châu vào năm 2001. Các nước này bao gồm Tây Phi, Mỹ Latinh đã giành được độc lập và Âu và Tây Âu nối dài. Ngoại lệ duy nhất tiến hành quá trình công nghiệp hóa và đã là Nhật Bản, là nước đã đuổi kịp các nước thu được những thành quả ban đầu. Sau Tây Âu. Nhóm giữa là các nước Đông Âu, năm 1973, thế giới tăng trưởng chậm lại Nga và châu Mỹ Latinh. Nhóm gần cuối đáng kể. Những năm 1970s chứng kiến là châu Á (trừ Nhật Bản) và nhóm cuối là hai cuộc khủng hoảng dầu hỏa làm giá châu Phi. Trật tự này không hề thay đổi dầu tăng đột biến. Thập niên 1980s là trong hơn 180 năm qua. Thậm chí khoảng khủng hoảng nợ ở các nước Mỹ Latinh. cách giữa các nước giàu nhất và các nước Thập niên 1990s chứng kiến cuộc khủng còn lại ngày càng rộng ra (xem bảng 6). hoảng tài chính Đông Á. Trong giai đoạn Vào năm 1820, GDP bình quân đầu người 1973-2001, tăng trưởng GDP bình quân của Tây Âu cao hơn châu Mỹ Latinh là 1,7 đầu người của thế giới đạt 1,41%/năm, lần, châu Á (trừ Nhật Bản) là 2,1 lần, châu chỉ bằng một phần hai của giai đoạn 1950- Phi là 2,9 lần; đến năm 1950 các tỉ lệ này 73. Tây Âu và Nhật Bản không còn tăng lần lượt là 1,8 lần, 7,2 lần và 5,1 lần; đến trưởng nhanh nữa. Tăng trưởng của châu năm 2001 các tỉ lệ này lần lượt là 3,3 lần, Mỹ Latinh và Châu Phi giảm rất mạnh. 5,9 lần và 12,9 lần (tính từ số liệu bảng Khu vực Đông Âu và Nga cũng gặp khó 6). Nhận xét rút ra là hầu hết các nước khăn tương tự. Chỉ có châu Á là bắt đầu có ngày càng tụt hậu xa hơn so với các nước tăng trưởng nhanh đáng kể. Các nền kinh phương Tây giàu có. tế Đông Á được gọi là con hổ như Hàn Bảng 6. GDP bình quân trên đầu người/năm giai đoạn 1820-2001, các khu vực trên thế giới Khu vực/năm 1820 1870 1913 1950 1973 2001 Theo giá Dollar quốc tế 1990 Tây Âu 1204 1960 3458 4579 11416 19256 Tây Âu nối dài: 1202 2419 5233 9268 16179 26943
  8. 10 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM - SỐ 1 (34) 2014 Khu vực/năm 1820 1870 1913 1950 1973 2001 Theo giá Dollar quốc tế 1990 + Mỹ 1257 2445 5301 9561 16689 27948 Nhật Bản 669 737 1387 1921 11434 20683 Đông Âu 683 937 1695 2111 4988 6027 Nga 688 943 1488 2841 6059 4626 Châu Mỹ Latinh 692 681 1481 2506 4504 5811 Châu Á (trừ Nhật Bản): 577 550 658 634 1226 3256 + Trung Quốc 600 530 552 439 839 3583 + Ấn Độ 533 533 673 619 853 1957 Châu Phi 420 500 637 894 1410 1489 Thế giới 667 875 1525 2111 4091 6049 Nguồn: Maddison (2003). Từ kết quả trên, xin rút ra các nhận nhanh trong một thời gian dài. Điều này xét sau đây: i) Trong phần lớn lịch sử, nhân dẫn chúng ta đến một câu hỏi quan trọng loại nhìn chung sống trong nghèo khổ, có liên quan khác là: tăng trưởng nhanh tăng trưởng kinh tế nhanh chỉ thật sự diễn trong thời gian dài dễ hay khó? ra trong gần 200 năm trở lại đây; ii) Giai 3. TĂNG TRƯỞNG NHANH đoạn 1820-1998 mặc dù có tốc độ tăng TRONG THỜI GIAN DÀI DỄ HAY trưởng nhanh nhất trong lịch sử nhân loại KHÓ? nhưng cũng chỉ đạt trung bình 1,21%/năm Nhà kinh tế học Maddison (2001, GDP/đầu người, đây là một tốc độ tương 2003, 2008) cho rằng một tốc độ tăng đối thấp so với tiêu chuẩn ngày nay; iii) Một tốc độ tăng trưởng nhỏ nhưng được trưởng ổn định lâu dài quyết định đến sự duy trì trong một thời gian dài có thể tạo ra thịnh vượng. Ông cho rằng Tây Âu và Tây khác biệt lớn về kết quả (như Tây Âu giai Âu nối dài là những nước giàu có nhất ngày đoạn 1000-1820); iv) Sau gần 200 năm nay bởi vì họ duy trì được sự tăng trưởng công nghiệp hóa, bắt đầu từ năm 1820, ổn định trong hàng thế kỷ. Tốc độ tăng thứ bậc các khu vực trên thế giới xét theo trưởng của họ là không cao (so với một số GDP bình quân đầu người gần như không nước Đông Á trong các thập niên gần đây) hề thay đổi, ngoại trừ Nhật Bản. Gần như nhưng được duy trì trong thời gian rất dài không có khu vực nào, nước nào bắt kịp là mấu chốt của sự thành công. Trong hơn sự giàu có của Tây Âu và Tây Âu nối dài, 60 năm qua, có những nước ban đầu có ngoại trừ Nhật Bản. Hầu hết các nước tốc độ tăng trưởng rất nhanh, nhưng sau đó ngày càng tụt hậu xa hơn so với các nước không duy trì được tốc độ này, dẫn đến bị phương Tây giàu có. Từ đây rút ra kết luận tụt hậu. Điều này cho thấy tầm quan trọng là khả năng bắt kịp tăng trưởng của các của tăng trưởng ổn định lâu dài, như câu nước đang phát triển đối với các nước giàu nói dân gian của Việt Nam: “ngựa chạy nhất là vô cùng khó khăn. Trong lịch sử đường dài mới biết ngựa hay”. Phần này đến ngày nay chỉ có Nhật Bản là làm được muốn tìm hiểu xem qua số liệu tăng trưởng điều này. Muốn bắt kịp các nước giàu thì của thế giới có bao nhiêu nước đã duy trì nước đang phát triển phải tăng trưởng được tăng trưởng nhanh trong thời gian
  9. KINH TẾ 11 dài. Solow (2001) định nghĩa tăng trưởng có tốc độ tăng GDP bình quân đầu người từ dài hạn là tăng trưởng được đo lường trong 5,0%/năm trở lên trong ba thập niên liên tục khoảng thời gian dài, ví dụ 30-50 năm. Ở là: Botswana (giai đoạn 1961-90), Trung đây, chúng ta chọn tối thiểu là 30 năm để Quốc (1981-2010), Hàn Quốc (1961- xem một nước có duy trì được tăng trưởng 2000), Xin-ga-po (1961-1990) (Ngân cao trong suốt 30 năm trở lên hay không. hàng Thế giới không có số liệu của Đài Như đã đề cập, trước năm 1820 thế Loan nhưng có lẽ Đài Loan nằm trong giới tăng trưởng rất thấp. Maddison (2001, nhóm này). Các nước trên đều nằm ở khu 2003) có số liệu chi tiết tốc độ tăng trưởng vực Đông Á, trừ Botswana, đây là nước cho phần lớn các nước Tây Âu và các nước nhỏ ở châu Phi, với dân số chưa đến hai khác như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, triệu người, nền kinh tế chủ yếu dựa vào Mê-hi-cô cho thấy rằng gần như không có khai thác các mỏ kim loại quý. Các nước nước nào đạt được tốc độ tăng trưởng quá có tốc độ tăng GDP bình quân đầu người 0,5%/năm giai đoạn 1500-1820, không có từ 4,0%/năm trở lên trong ba thập niên nước nào đạt được tăng trưởng quá 2%/ liên tục là: Ma-lay-sia (1961-2000), Thái năm cho từng giai đoạn 1820-70 và 1870- Lan (1961-1990). Các nước có tốc độ tăng 1913 (trừ Mê-hi-cô giai đoạn 1870-1913 GDP bình quân đầu người từ 3,0%/năm đạt 2,22%/năm), không có nước nào đạt trở lên trong ba thập niên liên tục là: Hồng được tăng trưởng quá 2,5%/năm cho giai Kông (1961-1990), In-dô-nê-xi-a (1971- đoạn 1913-50. Trong giai đoạn tăng trưởng 2010), Ấn Độ (1981-2010), Nhật Bản vàng son 1950-73, trong các nước giàu chỉ (1961-1990), Bồ Đào Nha (1961-1990). có Nhật Bản, Đức, Áo, Ý, Tây Ban Nha, Nhận xét rút ra là, từ năm 1960 đến nay, Bồ Đào Nha đạt được tốc độ tăng GDP trong tất cả các nước trên thế giới với dân bình quân đầu người từ 5,0%/năm trở lên. số từ một triệu người trở lên, những nước Các nước đạt tốc độ tăng trưởng từ 4,0%/năm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh (GDP trở lên có Pháp và Phần Lan. Trong giai bình quân đầu người tăng từ 3,0%/năm trở đoạn này, Mỹ chỉ đạt tốc độ tăng trưởng lên) trong ba thập niên liên tục là rất ít, chủ 2,45%/năm. Tuy nhiên, bước sang giai yếu nằm ở Đông Á. Điều này dẫn đến cái đoạn 1973-2001, không có nước nào kể gọi là “Sự thần kỳ Đông Á” (xem World trên đạt được tốc độ tăng trưởng GDP bình Bank, 1993) mà Ngân hàng Thế giới đã đề quân đầu người quá 3,0%/năm. cập. Tuy nhiên, Đông Á gặp phải khủng Đối với các nước đang phát triển, hoảng tài chính nghiêm trọng năm 1997- các nước này chỉ thật sự có tăng trưởng 1998 và từ đó đến nay, tốc độ tăng trưởng cao ở những thập niên sau Chiến tranh thế của các nền kinh tế Đông Á cũng chậm giới thứ hai. Sử dụng số liệu thống kê của lại rất nhiều. Ngoại trừ Trung Quốc, không Ngân hàng Thế giới về tăng trưởng GDP còn nước nào giữ được tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người có được từ năm 1960 GDP bình quân đầu người quá 4,0%/năm đến nay chúng ta sẽ xem coi có nước nào trong giai đoạn 2001-2010. Ngay cả Trung đạt được tăng trưởng GDP bình quân đầu Quốc, tốc độ tăng trưởng đã chậm lại đáng người liên tục trong ba thập niên từ 3,0%/năm kể trong những năm gần đây. Trong lịch trở lên (xem World Development Indicators, sử có những nước đạt được tăng trưởng World Bank). Đối tượng xem xét là tất cả cao trong một hay thập niên nhưng sau đó các nước – phát triển và đang phát triển – không duy trì được lâu. Một số nước nôn với qui mô dân số từ một triệu người trở nóng muốn đạt được tăng trưởng cao nên lên. Trong giai đoạn 1960-2010, các nước đã vay nợ nhiều để đầu tư, kết quả tạo ra
  10. 12 TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM - SỐ 1 (34) 2014 được tăng trưởng cao một thời gian nhưng 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ không bền vững, tạo ra gánh nặng nợ nần Qua xem xét số liệu tăng trưởng kinh sau đó. Ví dụ như: Bra-xin đạt tăng trưởng tế thế giới trong 2000 năm qua, xin rút GDP trên đầu người 6,0%/năm thập niên ra các kết luận sau đây. Thứ nhất, trong 1971-1980 nhưng sang thập niên 1981- phần lớn lịch sử, nhân loại nhìn chung 1990 có tốc độ tăng trưởng âm 0,4%/ sống trong nghèo khổ, tăng trưởng kinh năm; Mê-hi-cô đạt tăng trưởng GDP trên tế nhanh chỉ thật sự diễn ra trong gần 200 đầu người 3,7%/năm thập niên 1971-1980 năm trở lại đây. Thứ hai, một tốc độ tăng nhưng sang thập niên 1981-1990 có tốc độ trưởng nhỏ nhưng được duy trì trong một tăng trưởng âm 0,2%/năm, Ác-hen-ti-na thời gian dài có thể tạo ra khác biệt lớn đạt tăng trưởng GDP trên đầu người 2,4%/ về kết quả (như Tây Âu giai đoạn 1000- 1820). Như vậy, tăng trưởng ổn định lâu năm thập niên 1961-1970 nhưng sang thập dài quan trọng hơn là tăng trưởng nhanh niên 1981-1990 có tốc độ tăng trưởng âm nhưng ngắn hạn. Thứ ba, khả năng bắt kịp 2,8%/năm, Ngay cả như Nhật Bản đạt tăng trưởng của các nước đang phát triển được tốc độ tăng trưởng rất cao trong giai đối với các nước giàu nhất là vô cùng khó đoạn 1950-90 nhưng không thể duy trì sau khăn. Sau gần 200 năm công nghiệp hóa, đó. Tăng trưởng GDP trên đầu người của bắt đầu từ năm 1820, thứ bậc các khu vực Nhật Bản chỉ đạt 0,9%/năm trong giai đoạn trên thế giới xét theo GDP bình quân đầu 1991-2000 và 0,7%/năm trong giai đoạn người gần như không hề thay đổi, ngoại 2001-2010. Từ lịch sử tăng trưởng như trừ Nhật Bản. Hầu hết các nước ngày càng trên, có thể rút ra nhận xét là tăng trưởng tụt hậu xa hơn so với các nước phương Tây nhanh trong dài hạn là rất khó. Trong lịch giàu có. Thứ tư, lịch sử cho thấy là tăng sử rất hiếm quốc gia đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh trong dài hạn là rất khó, rất GDP bình quân đầu người từ 4,0%/năm hiếm quốc gia đạt được tốc độ tăng GDP trở lên trong 40-50 năm liên tục. Thông bình quân đầu người từ 4,0%/năm trở lên thường khi xuất phát điểm thấp, các nước trong 40-50 năm liên tục. có thể tăng trưởng nhanh, nhưng khi đạt Kiến nghị rút ra với Việt Nam là đến một mức nào đó thì tăng trưởng trở chúng ta không nên thúc đẩy tăng trưởng nên khó khăn hơn rất nhiều. Barro và nhanh bằng mọi giá. Tăng trưởng ổn định Sala-i-martin (1995) giải thích điều này lâu dài quan trọng hơn là tăng trưởng nhanh nhưng ngắn hạn. Tăng trưởng những năm là do quy luật lợi tức biên giảm dần theo gần đây có chậm lại nhưng vẫn là tốc độ tích tụ vốn. Ngoài ra, ở trình độ thấp tăng tăng trưởng khá tốt. Vấn đề là làm sao duy trưởng chủ yếu là bắt chước (imitation) dễ trì được tốc độ tăng trưởng này liên tục hơn nhiều tăng trưởng ở trình độ cao chủ trong vài thập niên tới. yếu do sáng tạo (innovation).
  11. KINH TẾ 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Barro, R. J. and Sala-I-Martin, X. (1995), Economic Growth, London: McGraw- Hill. 2. Lucas, R. E. Jr. (1988), ‘On the Mechanics of Economic Development’, Journal of Monetary Economics, Vol. 22, No. 1, pp. 3-42. 3. Maddison, A. (2001), The World Economy: A Millennial Perspective, Paris: OECD. 4. Maddison, A. (2003), The World Economy: Historical Statistics, Paris: OECD. 5. Maddison, A. (2008), ‘The West and the Rest in the World Economy: 1000-2030’, World Economics, Vol. 9, No. 4, pp. 75-99. 6. Nguyen Van Phuc (2006), Entrepreneurship, Investment and Economic Growth: The Essential Role of the Entrepreneurial Environment, Maastricht, the Netherlands: Shaker Publishing BV. 7. Smith, Adam (2000) [original 1776], The Wealth of Nations, New York: The Modern Library. 8. Solow, R. M. (2001), ‘Applying Growth Theory across Countries’, World Bank Economic Review, Vol. 15, No. 2, pp. 283-8. 9. World Bank (1993), The East Asian Miracle: Economic Growth and Public Policy, New York: Oxford University Press. 10. World Bank (various years), World Development Indicators, downloaded at www. worldbank.org.