Tài liệu Toàn chân triết luận

pdf 92 trang Đức Chiến 03/01/2024 1220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Toàn chân triết luận", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_lieu_toan_chan_triet_luan.pdf

Nội dung text: Tài liệu Toàn chân triết luận

  1. “Cành bông nở buổi rạng đông, có phải vì muốn khoe sắc đẹp với hương thơm chăng? Mặc tình khách qua đàng, ai biết thích yêu thì dừng chân mà thưởng thức. Nó nở, vì không thể không nở đặng” (N.d.C) ~o~o~o~o~o~o~o~ 1/92
  2. “ Xƣa kia, có một con chim sa trƣớc cửa thành nƣớc Lỗ. Vua Lỗ bắt về nuôi, dạy bày yến đãi nó ăn, trổi nhạc cho nó nghe, Chim ấy không dám ăn, dám uống, sợ quá mà chết. Đó là dụng cách nuôi mình, mà nuôi chim. Chớ chỉ vua Lỗ dụng cách nuôi chim mà nuôi chim, nghĩa là để cho nó đậu trong rừng sâu, núi lạnh, hoặc ăn rắng lối bƣng, hoặc ăn lúa nơi đồng, thì cuộc kết quả phải khác, lợi mà không hại. Ta nay làm nhƣ vua Lỗ ngày xƣa. Ta đem cái đức của chân- nhân mà giảng cho Tôn- Hƣu là một tên thƣờng nhân mê- muội Bắt chuột ngồi xe ngựa, ép chim nghe chuông trống là làm kinh- động mấy con vật nhỏ đó. Ta có lẽ đã làm kinh động Tôn- Hƣu ” ( Trang Tử) ~o~o~o~o~o~o~o~ TỰA Nói một điều có thể cảm đƣợc mà không thể nói ra đƣợc, rất khó. Miêu tả một lẽ vô hạn bằng một thứ tiếng hữu hạn nhƣ lời nói, câu văn, thì lại càng mâu thuẫn. Ấy vậy, những ví dụ cụ thể lấy theo thực tế hàng ngày, để giúp cho ta hiểu những thuần lý trong quyển nhỏ này, chẳng qua nhƣ tấm ảnh rất thô, không nét nào là giống với sự thật, chỉ có để cho ta hội ý mà độ hiểu cái nét hay sắc đẹp của bức tranh thiên nhiên, phong phú của bồn cảo mà thôi. Độc giả chớ quên lẽ ấy mà lấy cái hình thô thiển vụng về kia làm sự thật, hãy dùng Trực giác mà lĩnh hội, nhiên hậu mới có thể thấu đáo đƣợc cái nguyên ý của tác giả. Có nhiều chỗ nhái đi nhái lại, đó là dụng ý của tác giả. Muốn cho độc giả dễ hiểu, dễ nhớ cần phải dụng phƣơng pháp ấy. Về mặt văn chƣơng thì để tự nhiên, không phọc thúc gì cả, vì rằng còn miễn cƣỡng thời sự tự nhiên e sẽ vì đó mà mất đi chăng? Cốt dùng câu văn giản dị cho mọi ngƣời đều có thể đọc mà khỏi phải dụng công tìm kiếm Về những chữ dùng, tác giả có mƣợn năm ba chữ của các tôn giáo học thuyết. Ấy là sự bất đắc dĩ. Vì lẽ, một thứ tiếng mà dùng chung cho ba học phái nhƣ Phật, Lão, Nho, thời tránh sao, khi nói, khỏi phải hiểu lầm. Tỉ nhƣ chữ Tâm nói ra, thời ngƣời học Phật sẽ hiểu cái nghĩa chữ Tâm theo học phái của họ, ngƣời học Nho sẽ hiểu theo chữ Tâm theo học phái của họ. Thành ra sự hiểu lầm nhau giữa độc giả và ngƣời viết sách, không sao tránh cho khỏi đặng. Sở dĩ tác giả dùng những tiếng mƣợn ấy là vì những chữ ấy có phần phù hợp theo ý tƣởng của tác giả định nói. Song le, vì muốn ngừa sự hiểu lầm đó, tác giả, hoặc tạo chữ mới, 2/92
  3. hoặc mƣợn chữ cũ, mỗi mỗi đều có chú thích và định nghĩa rõ ràng cả. Độc giả hãy chú ý kẻo hiểu lầm cái nguyên ý tác giả. Đây chẳng phải quyển sách khảo cứu về Lão giáo hay để phể bình tôn giáo học thuyết nào. Tác giả cũng không phải đem lý thuyết mới nào nói ra. Ấy là những ý riêng của tác giả đối với lẽ Đạo, mà tác giả tƣởng cho là đúng với lẽ tự nhiên. Trong cách lập ngôn, mới xem qua có kẻ đã bảo rằng tác giả có cái ý công phẫn rất mạnh bạo, không đặng cái vẻ ôn tồn Nếu quả có thật vậy, thì không phải lỗi của tác giả. Thiết tƣởng rằng, Sáng, Tối có xung đột nhau, chẳng phải tƣ tâm. Phải, Quấy có xung đột nhau, chẳng phải vì tƣ ý. Vả lại, mùi hƣơng các thứ hoa, có thứ dịu dàng, có thứ gắt gỏng, đó cũng là một lẽ tự nhiên. Tác giả hôm nay, nếu trong lời lẽ có không đặng dịu dàng mà lại lắm khi gắt gỏng, độc giả cũng không lẽ trách tác giả mà không trách cây bông! Tác giả chỉ nhƣ con chim ca, nhƣ giòng nƣớc chảy, Ca vì ca, chảy vì chảy. Dầu hay dầu dở thế nào, cũng là chỗ sở dĩ đó thôi. Lại nữa, độc giả hãy xem xét những ý tƣởng của tác giả trong quyển sách này một cách vô tƣ, nghĩa là đừng dem nó so sánh với điều mình đã đọc, dã nghe; vì hễ so sánh thì không bao giờ hiểu đặng cái nguyên ý của tác giả. Nghĩ rằng độc giả cầm đến quyển sách nào, là chủ tâm để tìm hiểu coi cái ý tác giả về vấn đề nào đó ra sao, nhƣng nếu đem nó so sánh, thì ra độc giả chỉ có đem hai tƣ tƣởng mà đối chiếu, để chọn lựa cái nào là hợp với thành kiến, với “ tƣ tƣởng sẵn” của mình. Thế thì bao giờ hiểu đặng cái giá thật của mỗi ý tƣởng, vì trong lúc những tƣ tƣởng mới cũ phân tranh thì chỗ thành kiến của ta lại trở nên chỗ “đụt” để cho ta “ lui” vào đó mà “ẩn trú”. Nhà triết học H. Bergson có nói: “ Triết luận là một đều rất dễ, nếu ta không đem những thành kiến ta chen ngăn giữa Trí ta và Sự vật” (NDcan 25/3/1935) QUYỂN NHỨT 3/92
  4. CHƢƠNG THỨ NHỨT ĐẠO ( Sơ luận về quan niệm Đạo) Quan niệm về Đạo có nhiều cách, tuỳ theo trình độ dân tộc, xã hội, mà ra. Kẻ thì cho Đạo là đấng Hoá Công sanh ra vạn vật; cho Trời là đấng riêng biệt với vật thọ tạo, nghĩa là ở ngoài Vũ trụ. Kẻ thì cho Đạo ở trong Vạn vật, sung tắc kiền khôn. Đạo tức là cái Hồn chung của Vũ trụ, cái Sự sống chung của Vạn vật. Nó là cái Lý độc nhất vô nhị quán thông cả thời gian, không gian. Lý ấy, cùng vạn vật vẫn là Một. Đạo ấy, chủ nơi thân ta, gọi là Tâm, nên kêu rằng: Đạo là Tâm, Tâm là Đạo. Hai thuyết ấy, thuyết Hoá công thần chủ và thuyết Vạn vật nhất thể, tuy quan niệm rất phản đối nhau, song cả hai đều bao hàm một ý nghĩa: giải cái lý của Vũ trụ. Đạo là gì? (Đạo, nói đây là thuộc về quan niệm Vạn vật Nhứt thể, là quan niệm mà tác giả đã nhận là phải theo sở kiến của mình. Đây cũng chẳng phải ý soạn giả muốn định nghĩa) Ấy là cái Lý độc nhất vô nhị, cái linh quang sáng suốt, bất thiên bất biến, sung tắc cả không gian vô hạn và quán thông cả thời gian vô hạn, ta sẽ gọi là Bản thể của Vũ trụ. Vũ trụ là cái hiện tƣớng của Lý ấy, cũng nhƣ sóng là cái hiện tƣớng của nƣớc vậy. Tuy phân ra mà nói chớ kỳ thật là Một. Phật giáo gọi là: Chân Nhƣ Vạn Pháp. Lão giáo gọi là: Đạo Đức. Triết học gọi là: Tuyệt đối, Tƣơng đối. Vũ trụ mới xem qua dƣờng thiên hình vạn trạng rất sai biệt, nhƣng ký thật đồng nhứt lý. Phật giáo có câu: “Chân Nhƣ giã chỉ Vũ trụ chỉ bổn thể, nãi bất sanh, bất miệt, bất tăng, bất giảm, vô thỉ cô chung. Vũ trụ chi hiện tƣớng hữu sanh miệt, hữu tăng giảm, hữu thỉ chung, vị chi Vạn pháp. Vạn pháp tức Chân Nhƣ Chân Nhƣ tức Vạn pháp. (Chân Nhƣ là bổn thể của Vũ trụ thì không sanh không mất, không tăng không giảm, không thỉ không chung. Vũ trụ là hiện tƣớng của Chân Nhƣ thì có sanh có tử, có tăng có giảm, có thỉ có chung, nên kêu là Vạn pháp Vạn pháp là Chân Nhƣ, Chân Nhƣ là Vạn pháp) 4/92
  5. Trời đất đều do Đạo mà ra, ta có thể cảm giác đƣợc mà không thể thấy đặng, có thể hiểu biết đƣợc mà không thể nói ra đƣợc. Nói ra đặng, không còn phải là Đạo nữa, vì Đạo là vô cùng, vô tận, vô lƣợng, vô biên; làm sao định nghĩa cho đặng? Ta chỉ mƣợn một tiếng nào đó để chỉ danh. Đã là một lẽ Tuyệt đối thời muốn cảm lấy chỉ phải dùng đến Trực giác mà thôi. Đạo thì tự bản, tự cần, không cần đâu sanh ra. Rộng ra bao nhiêu. Đạo cũng bao trùm, mà thâu nhỏ lại bao nhiêu. Đạo cũng ở trong. Một nhà triết học ngày nay có nói: “Chân lý, tỉ nhƣ lò lửa đỏ, trong ấy tủa ra, nhƣ pháo nổ, văng ra biết bao nhiêu đốm lửa mà mỗi đốm ấy, là Ta” Ta, là một điểm linh quang của Đạo. Linh quang ấy tuy đã thấy có chia ra phần tử, song nó vẫn sung mãn nhƣ một toàn thể hoàn toàn. CHƢƠNG THỨ HAI 5/92
  6. TÂM ( Quan niệm về con ngƣời) “ Tại Thiên vi Mạng, Tại Sự vi Lý, Tại Nhơn vi Tánh, Chủ ƣ Thân vi Tâm, Kỳ thật nhứt dã” Đạo, tức là sự sống chung của Vũ trụ, với Tâm ta, thì đồng một lý. Dầu trong hột cát, trong lá cây, hay trong con ngƣời cũng đều có Đạo. Thử xem luồng Điện khí, đâu đâu cũng là một, hễ ứng thân vào điện phiến thì chuyển thành gió mát, ứng thân vào điện đăng thì hiện ra nóng và sáng, Tuy thế, nguyên lai vẫn là Điện khí. Tâm con ngƣời nhƣ ngọn điện đăng tuỳ theo cơ thể mà ứng hiện cái Đạo Ngọn đèn lu, vì bóng lu, ngọn đèn tối vì bóng tối, ngọn đèn sáng vì bóng sáng. Lu, tối, sáng là cái tính chất của cơ thể, chớ chẳng phải Điện khí có những tánh ấy. Đạo thì tự bản tự căn, vô hình vô thức, nên không có tính cách chỉ riêng; cho nên Đạo ở ngoài cái Tốt, cái Xấu, cái Hay, cái Dở, cái Phải, cái Quấy, nghĩa là Tuyệt đối. Đạo vẫn là cái Thể, mà cũng vừa là cái tƣớng. Vì lẽ Tâm ta đồng lý với Đạo, muốn tầm Chân lý, cần chi ta phải kiếm quanh quẩn đâu xa. Đạo nơi ta đây *~*~*~*~*~*~*~* BẢN NGÃ Tâm, đồng lý với Đạo nên không khác nhau, dẫu tiếng gọi có khác nhau. Đến lúc hiện vào bổn thân ta, cái Tâm bắt đầu lúc ấy, tách ra với cái Tâm của Đại Toàn thể, lại tƣởng mình là riêng biệt ( Bản ngã). Tỉ nhƣ ta có nhiều món, để đựng nƣớc những món ấy có hình, hoặc dài, hoặc tròn, hoặc vuông Cơ thể ta đây cũng thế. Đạo tỉ nhƣ nƣớc không có hình thể. Nếu lấy nƣớc mà đổ vào mấy món ấy thì, nƣớc sẽ có hình, hoặc tròn, hoặc dài, hoặc vuông Khi nƣớc chƣa đổ vào mấy món ấy ta gọi nó là Đạo; nƣớc đổ vào mấy món ấy rồi gọi nó là Tâm. Tuy ống thẳng bầu tròn hình thể có khác nhau, chớ vật chứa trong cũng đồng một thể tánh. Lúc ấy, bị riêng phân với nhau, rồi bị hình thức chi phối nƣớc đựng trong những món ấy quên phứt cái bản căn mình, rồi tự tƣởng là riêng biệt với nhau, tự 6/92
  7. xƣng là Ta. Quan niệm Bản ngã sanh ra bắt đầu lúc ấy Cái Tâm dần dần lu lờ, quên bổn căn xa lần với Đạo vậy. Cái tƣ tâm- thƣờng gọi là Bản ngã, do nơi cái lầm rằng Ta là khác và riêng với Vạn vật chung quanh. Cái ảo tƣởng ấy làm cho lu lờ cái Tâm ta, và làm cho nó dƣờng nhƣ bị nhốt chặt trong cái cốc khô vỏ cứng của Bản ngã, nghĩa là nó làm cho mất cái dây tƣơng khí buộc chặt Ta vào Đại Toàn thể. Cái Tâm ta là một lẽ vô cùng vô tận, mà nhốt chặt vào một cái tâm lý hạn định là Bản ngã, rất bẩn chật, bực bội lắm! Cái khổ vì đó mà sanh ra. Muốn đặng Toàn Phúc thì phải giải thoát cái Tâm ta ra khỏi cái điều mê lầm ấy. Hế tâm giải thoát rồi, thì nó sẽ thấu lý Đạo một cách tự nhiên, vì nó là Đạo, Đạo là nó.” Ngày kia, tôi mộng du, thấy đi cùng với em tôi trên một con đƣờng nhỏ rất hẹp; trong khoảng dạo chơi ấy, tôi có ý xem cái bóng của tôi sao lại đậm hơn bóng của em tôi nhiều. Tôi suy nghĩ tìm kiếm cái lý ấy coi tại đâu; tôi hiểu đƣợc rằng cái tƣ tâm của tôi nó thâm sâu hơn của em tôi (nghĩa là tôi hữu tâm hơn em tôi trong chỗ cái Ta khác với Vũ trụ vậy). Cũng nhƣ lúc tôi dòm qua hai tấm kiến, một tấm thì sậm hơn tấm kia mà tấm sậm hơn là tôi. Tôi mới ƣớc cho hai bóng đồng một màu (bóng em tôi và tôi). Thật vậy, trong giây phút thì hết còn phân biệt đƣợc hai bóng nữa. Lúc ấy tôi cùng em tôi trở lại làm một. “Tôi cũng cứ mộng du nhƣ trƣớc nữa, mơ thấy tôi đang nằm trên bãi cỏ xanh, ngắm xem một cọng cỏ đang mọc Chúng ta đều biết rằng: cỏ dƣới đất mọc lên, trƣớc hết có một cọng; cọng ấy lớn, cao lên, liền tách ra làm hai, hai làm ba lạng Tôi cảm thấy rằng, tôi là cọng cỏ ấy trƣớc khi tách ra đó. Lúc ấy tôi thấy đƣợc sự sống của toàn bộ cây ấy chuyển vận từ dƣới đất phỏng lên rồi biến chuyển thành ra các lạng, lá tƣợc kế đó tôi thấy vụt trong mỗi cọng lá, cây đó, đều là tôi cả Tôi sực tỉnh dậy, rất cảm kích, mới tự nói với tôi rằng: “Từ đây, tôi chỉ ao ƣớc có một điều là đƣợc không biết mình riêng biệt với Vũ trụ, tôi sẽ mất hẳn cái quan niệm rằng tôi là một sự sống riêng không liên lạc gì với vạn vật nữa. Với quan niệm mới nầy, tôi sẽ quên đặng cái tƣ tâm của tôi, và đƣợc hỗn hợp vào Đại Toàn thể, tức là trở lại làm một cùng vạn vât, cùng cỏ cây, cùng thú vật và nhân loại. Thế ấy, tôi mới đƣợc cận với Đạo tức là cận với cái Tận Thiện, Tận Mỹ. Bởi cái Bản ngã tƣ riêng đây, cái Ta hạn định, hẹp hòi đây, cái riêng biệt của tƣ tâm đây, nó làm cho trở ngại sự hành vi ta trên con đƣờng Tận Thiện vậy ” Ấy là đại ý của lời một nhà hiền triết Ấn độ ngày nay, 7/92
  8. Krishnamurti, đã nói trong cuốn Le Royaume du Bonheur. Lời ấy có thể giúp cho ta thấy cái lý của bản ngã và Chân Thể một cách dễ dàng hơn. ~o~o~o~o~o~o~o~ CHƢƠNG THỨ BA VŨ TRỤ (Quan niệm về Vạn vật) “ Vũ trụ tiện thị ngô tâm Ngô tâm tiện thị Vũ trụ” ( Lục Cửu Uyên) Vạn vật cùng ta là Một, vẫn có cái dây liên khí buộc chặt lấy nhau. Giờ mà ta tách ra lấy mình làm một vật riêng biệt, khác hẳn với Vũ trụ, ta nhƣ cành cây gãy, nhƣ lá cây rơi, nhƣ đoá hoa rụng, lìa cội vậy Có khác nào con sông kia đang thông thƣơng cùng Đại Hải mà bị lấp vằm, không còn đặng cùng sống với cái Chung của Đại Hải nữa Thật thế, chúng ta ngày nay, trong xã hội văn minh này, vẫn là con ngƣời mất cội, đang tìm kiếm cái dây tƣơng khí ta đã làm đoạn lìa rồi đó Đời ta, nói thật ra, vẫn là một cái đời tƣ phân làm hai phần rất hệ trọng: một cõi đời vật chất và một cõi đời linh thiêng. Tóm lại, ta tự nhận chắc chắn rằng, có một cõi tinh thần tâm lý bề trong ( tức Tâm ta), và một cõi đời vật chất rờ rẫm đƣợc bề ngoài ở chung quanh ta tức vạn vật trong vũ trụ. Vĩ lẽ ấy mà cổ kim triết học chỉ vần xây chung quanh hai quan niệm ấy. Tâm ta là một cõi riêng biệt, khác hẳn với vạn vật hữu hình chung quang ta, ấy là đều thứ nhất, mà ai ai cũng đều công nhận. Nhƣng nếu có ai bảo ta rằng cái quan niệm ấy sái với sự thật, thì ta sẽ lấy làm bối rối và có khi bất bình lắm. Vì sao? Vì lẽ, từ thủa nhỏ đến lúc có trí khôn, trót đời, ta vẫn thấy ai ai cũng đều cho cái vật ta nằm trong tay, đạp dƣới cẳng, đụng thân mình ta đây, là không phải ta thì làm sao đồng lý với ta cho đặng? Vì sao nữa? Vĩ lẽ, ta thƣờng thấy thƣờng nghe, nên không thể để ý hoài nghi đặng. Làm sao hoài nghi một điều mà ta thƣờng nghe, thƣờng thấy, thƣờng cho là một sự tự nhiên? Bởi cớ ấy mà ta không quan tâm gì đến nó nữa cả, nên không thể hoài nghi đƣợc. Thói quen, là cái lẽ làm cho ta không để 8/92
  9. ý suy xét về những việc hằng ngày trong đời ta. Nên chỉ cũng vì thói quen mà làm cho ta không để ý hoài nghi rằng ta và Vũ trụ là đồng lý, hay là khác biệt với nhau. Phải biết rằng, chẳng cần truy tầm lẽ huyền bí chi xa, nó vẫn ở bên ta, nơi ta đây, và cũng bởi thói quen nên ta cho nó là thƣờng, không quan tâm gì đến nó nữa, cam chịu sống mê trong giấc mộng của ta Cái bƣớc đầu hết trong con đƣờng Triết học là sự Hoài nghi. Phải khởi hoài nghi và suy hỏi những điều ta thƣờng thấy, thƣờng nghe, nhứt là những đều cận ta và thƣờng xảy ra hằng ngày, hoặc trong tâm lý của ta đây. Chớ để cho thói quen làm cho ta xem thƣờng những lẽ mầu nhiệm ấy. Cái Bản ngã của ta là giả; vạn vật chung quanh ta là ảo huyền. Hai lẽ ấy, thật làm cho ta bối rối và hoài nghi lắm. Song le, có mấy ai chịu để ý quan sát suy nghĩ chăng? Trƣớc một việc lạ, thƣờng con ngƣời nhu nhƣợc có hai cử chỉ để đối tiếp; một là tin theo liền mà không để chút ý lừa lọc cả; hai là sẽ trề môi khinh thị và bỏ qua, viện lẽ rằng dị đoan hay vô lý Ấy là những cử chỉ khoẻ cho ngƣời nhu nhƣợc Kẻ tìm Chân lý, chớ bắt chƣớc nhƣ thế, hãy biết tin, và hoài nghi, để mà suy xét cho kỳ cùng. Lại nữa vì cớ thƣờng thấy, thƣờng nghe, nên cái lẽ mầu nhiệm ta lại bỏ qua, không quan thiết gì đến nó nữa. Những tâm chỉ biếng nhác, những cử chỉ nhu nhƣợc ấy, làm cho ta không bao giờ hiểu đƣợc lý thật của mọi vật. Theo khoa học ngày nay, lấy theo quan niệm Vật chất hợp nhất ( unité de la matiere) thì vạn vật chung quanh ta đây là những cách hợp tuyển của muôn vàn nguyên tố (atome). Nhƣ đá, sắt, cây chẳng qua là một cách sắp đặt riêng theo toán số của nhiều nguyên tố hợp laị; mà mỗi một hột nguyên tố chẳng qua là một cái luồng âm điện (électron) tiếp xây chung quanh một hột dƣơng điện (proton). Thế thì cái xác thân ta đây, những ngoại vật chung quanh ta đây, nghĩa là cái cõi đời vật chất hữu hình đây, chẳng qua là một cách sắp đặt riêng của những luồng lƣu động của âm điển thôi. Lại nữa, những hột dƣơng điển và âm điển ấy không khít với nhau, mà lại rất phân xa nhau, nhƣ hành tinh xây chuyển chung quanh mặt trời vậy; cho nên ta có thể gọi rằng hai hột nguyên tố không bao giờ dính nhau đặng. Thì ra ta đứng đây trên đất bằng cũng vị tất là chân liền đất, mà ta ngồi dựa trên ghế đây vị tất thân ta liền với mặt ghế Ấy là một điều thƣờng sự, ai là ngƣời có học, khi đọc qua những bộ sách khoa học ngày nay đó, đều hiểu biết, nhƣng không mấy ai quan tâm đến vì không mấy ai chịu suy nghĩ đến một việc lạ và mới ấy. Đều ấy, tuy rất quan hệ cho nhân sinh nhiều lắm, nhƣng bởi thói quen, vì nhu nhƣợc mà rồi họ cũng bỏ qua, coi nhƣ không có đều chi lạ. 9/92
  10. Bấy nhiêu đó chỉ cho ta biết rằng, có cần phải đến non cao rừng thẳm mà tìm Đạo đâu. Cái lẽ huyền vi u uẩn chỉ ở bên ta và nơi ta đây, chỉ vì bị thói quen mà ta bỏ qua. Huống chi cái tâm ta, nó là một bầu huyền cơ bí ẩn vô cùng Tâm là Đạo, mà Đạo thì vô biên, vô lƣợng Tâm ta cũng vô cùng, vô tận, cũng huyền vi siêu việt. Biết Ta và biết Đạo. Vạn vật chung quanh ta có, hay không có? Ta không thể hoài nghi rằng: thảy là ảo huyền. Nhƣng, lấy tận lý mà xét, thì Vạn vật không có thật. Vạn vật sở dĩ có đây là đối với cái Tâm của ta. Phật giáo có câu: “Thật đại thừa, phi hữu phi không, diệc hữu diệc không ”(Theo Đại Thừa, thì cho vạn vật, là chẳng có, chẳng không, mà cũng có cũng không) Hiểu đặng cái lý Phi hữu Phi không, Diệc hữu Diệc không là hiểu đặng cái lý thật của Vũ trụ vậy. Ta thử lấy theo khoa học ngày nay mà giải cái lý ấy. Chúng ta đều dƣ biết rẳng vạn vật trong Vũ trụ chẳng qua là những cách lãng động riêng (vibrations). Ngũ quan ta có thể hƣởng ứng đặng với một số nhiều trong những cách rung động riêng ấy (modes de vibrations particulieres) trong không khí, nhƣ màu sắc, âm thanh Tỉ nhƣ lỗ tai ta có thể nghe đặng tiếng từ khoảng 16 lần rung động cho tới số 32.768 trong giây đồng hồ. Con mắt ta thấy ánh sáng đặng trong một khoảng rung động hạn định mà thôi. Ngoài ra những con số ấy, tai ta hết nghe đặng, và mắt ta hết thấy đặng. Sức hƣởng ứng của giác quan ta vẫn có ngần ấy thôi. Bây giờ ta thử tƣởng tƣợng mỗi giống vật không có những giác quan nhƣ ta, lại có thứ giác quan khác, có thể thấy đặng những cách rung động riêng khác hơn ta, hoặc nhiều, hoặc ít hơn ta, nghĩa là nó có thể hƣởng ứng hay không hƣởng ứng hay là cảm giác những cách rung động mà ta không thể thính giác đặng Chỗ ta thấy là hình chất, nó thấy rộng là những luồng linh khí mà thôi, - chỗ ta gọi là mầu sắc đẹp, nó không thấy chi ráo Cái quan niệm vũ trụ của giống vật ấy với của ta, khác nhau là dƣờng nào! Chỗ ta gọi có, nó gọi không. chỗ ta gọi không, nó gọi có. Nếu ta có thể giao tiếp, và trao đổi ý kiến với giống vật ấy, thì nó sẽ nói với ta rằng, cái cõi đời của nó thấy đó là thật Có, còn chỗ ta gọi là có, nó không thấy, không thể gọi là có cho đặng. Còn ta, ta sẽ cãi lại rằng, cái cõi đời ta thấy đây, ta rờ rẫm đƣợc đây, nhƣ nhà cửa, cây cối, núi non là Có, không thể gọi không cho đặng “ Có”, “ Không”, - kỳ thực là sự thấy riêng của từng loại. Nói thế, thì vạn vật đây là không có thật sao?, nếu ta muốn ra Hà Nội mà cứ miệt nằm đi xuống hoài, thì có thấy Hà Nội chăng? Nếu ta bỏ ăn vài ba bữa mà không biết đói, chừng 10/92
  11. ấy sẽ gọi vật chất là không có thật. Bởi thế, nói rằng Vạn vật là không có thì không trúng, mà nói có cũng không trúng Sự thực hiện của Vũ trụ vẫn tƣơng quan. Vạn vật có thật là đối với cái giác quan của ta, còn không, là đối với sự thấy riêng của giống vật khác giác quan với ta đó. Ấy vậy, vạn vật có, là đối với cái tâm ta; vạn vật và tâm là Một, tƣơng ứng tƣơng cảm rất mật thiết. Nếu bỏ cái tâm ta ra thì vạn vật tất là có thật, - có thật một cách tuyệt đối, tự bản, tự căn vậy. Đối với ta nó là có; mà tự nó, nó không có. Đó là cái nghĩa có mà không, không mà có (Le monde n’existe pas en tant que soil mais existe par rapport aux consciences qui le per coivent. – Đây cũng là một nghĩa trong nhiều nghĩa của Phi Hữu Phi Không của Phật giáo.) Những tánh của vạn vật ta thấy đây, nhƣ nặng nhẹ, màu sắc, âm hƣởng, thời gian, không gian có cái giả thật của nó là khi đối với cái tâm (tâm đây là cái tánh biết, chớ lầm với cái Tâm, viết bằng chữ hoa- là cái tiếng chỉ danh của Chân thể) của con ngƣời tƣơng ứng, tƣơng cảm với nó đó. Nếu phân cái tâm ra với vạn vật, thì những tính cách ấy, tự nó không còn nghĩa lý gì là thật cả. Cho nên, ngày mà ta tách phân cũng Vũ trụ làm một vật riêng biệt, ngày ấy ta khởi lần xa Đạo, nghĩa là không còn thấy đặng cái chân tƣớng của vạn vật nữa (Đây là nói về mặt tâm lý; những ví dụ trên kia chẳng qua để giúp cho ta hội ý mà thôi, chớ chẳng phải nói kẻ giải thoát rồi, sẽ thấy Vạn vật về mặt hình thể khác hẳn với sự thấy của kẻ thƣờng nhân. Chỉ có cái tâm lý đối với vạn vật là khác mà thôi. Lúc còn sống trong bản ngã, cảnh đời đối với ta nhƣ một trƣờng chiến đấu, tử, sanh, khổ sở Tâm ta giải thoát rồi, đời sẽ đối với ta nhƣ một chỗ toại sinh của vạn vật Còn sống trong tƣ tâm, ta sẽ thấy vạn vật có đây, là vì một tôn chỉ hay một tƣ ý chi chi của Hoá công. Sống trong Chân tính, ta sẽ thấy vạn vật có đây, là vì có, một cách vô vi trầm tỉnh Cũng một sự xem, mà chỗ thấy lại khác nhau dƣờng nào! Nhà văn sĩ Lameanais có nói: “ Devant un spectacle, tout le monde regarde ce que je regarde, mais personne ne voite ce que je vois” - Đứng trƣớc một cảnh tƣợng nào, ai ai cũng xem nhƣ tôi xem, nhƣng không ai thấy cái chỗ tôi thấy. Xem bài “ Kia thử xem hoa xuân phong thuỷ ” trong quyển Trƣờng Lạc Ca, trang 20, và bài chú giải trong quyển “ Trƣờng Lạc Yếu Luận”) 11/92
  12. Những ai có đọc sách Theosophie moderne, đều biết rằng cái cảnh vật trong cõi thế giải vật chất này (monde physique), những sự Cứng, Mềm, Nặng, Nhẹ, không còn chi gọi là thật nữa đối với kẻ đã thoát xác. Cõi tính linh (plan astral) tự nó không có thật, nhƣng đối với kẻ sống trong tính linh thể (corp astral) thì cõi ấy là Có, mà đối với kẻ sống trong xác thịt (corps physique) không thể gọi là Có đặng. Trang Tử có thuật câu chuyện, một ông nhà giàu kia, ban ngày là một vị phú ông “nhứt hô bá ứng”, ban đêm ngủ thấy mình làm một tên đầy tớ hết sức cực khổ. Còn anh đầy tớ của ông ấy, ban ngày là ngƣời tôi mọi vất vả, ban đêm thấy mình làm một vị phú ông “nhứt hô bá ứng”. Đời ngƣời chỉ có ngày với đêm mà thôi. Nhƣ ngƣời hầu nói trên đây, phân nửa đời “sướng”, phân nửa đời “khổ”. Thời ai hơn ai? Ai dám nói rằng: cảnh nào là thật, cảnh nào là giả? Cảnh nào cũng thật, đối với lúc sống hiện tại đó. Ta không thể nói rằng cảnh trong giấc mộng là giả, cảnh ta sống lúc ban ngày đây là thật. Thế thƣờng, cho cảnh thức dậy là thật, mà cảnh ngủ là ảo huyền, đều ấy cũng vị tất . ~o~o~o~o~o~o~o~ Cho nên, khi Trang Tử, mộng thấy mình hoá Hồ Điệp. Tỉnh dậy nói: “Hồ Điệp là Trang Sinh, hay Trang Sinh hoá Hồ Điệp”. Hai quang cảnh ấy, chẳng qua là hai cuộc đời không thật, của một vật có một, không cõi nào, không cảnh nào tự có thật cả. Trang Châu không chấp mình vào cảnh nào. Sống phải vào cảnh nào, thì cứ thuận biến theo cảnh ấy, rồi thôi. Ngài lại nói: “Ví nhƣ cánh tay ta bên này thành cây cung, cánh tay bên kia thành con chim, thì cây cung này bắn con chim kia mà ăn Ngài lấy cái sống của Ngài bấy giờ làm một cùng cái Sống Chung của Vũ Trụ rồi, thì tha hồ có ở vào địa vị nào, Ngài cũng an vui với cái tự tánh của Ngài vậy. Ta vì quá cố chấp trong một cái có hay một cái không mà phải vất vả khổ sở, cũng tại ta sống trong cái sống tƣ mà chƣa thấy đặng cái chỗ nhứt quán của cái Sống Chung Vạn Vật. Cho nên mới nói rằng: “ những cảnh ngộ liên tiếp theo, đều là cuộc đắp đổi mà thôi, hết thảy là một. Duy có bực đạt nhơn mới thông hiểu chỗ một đó. Ta chớ lo phân chia ra mà phải xem xét hết trong chỗ độc nhất của Đạo. Đừng cãi cọ đặng tranh hơn ai hết, mà phải dùng cái chƣớc của ngƣời nuôi khỉ. Ngƣời nầy nói với khỉ: Ban mai tao cho bây ba củ khoai, ban chiều bốn củ. Khỉ đều giận. Ngƣời đó lại nói: Vậy thì mai bốn, chiều ba. Khỉ đều mừng. Số cho không thêm bớt, mà đặng hoà. Ấy nên Thánh nhân cũng làm nhƣ thế. Vì cái lợi của sự 12/92
  13. hoà mà Thánh nhân nói thị hoặc nói phi, rồi đứng yên trong bánh xe tạo hoá, để mặc tình nó xây hƣớng nào cũng phải. CHƢƠNG THỨ TƢ BẢN NGÃ VÀ CHÂN TÍNH (Hữu ngã và Vô ngã) Tâm của ta là cái trung điểm do đấy mà Đạo phát triển ra đƣợc. Ngày mà ta đem cái tâm ta ra làm một vật riêng, ta tách, ta tách với cái Sống chung của Vũ trụ. Ta làm cho mất cái Thiên tính (instinct), tức là sự hiều biết một cách tự nhiên của ta. Cái thiên tính ấy, khi ở cùng vạn vật nhƣ thào mộc, thú cầm thì vô tâm; khi nó về cùng ngƣời thì nó bị phá mất cái bổn căn thành ra Trí luận; đến khi về cùng ngƣời trí huệ thì thành ra Trực giác rất mẫn nhuệ. Sự hiểu biết ấy rất lanh lẹ, đạt suốt cái lý của sự vật một cách tự nhiên quán triệt.(1) Xem chƣơng bản ngã biện chứng THIÊN- TÍNH: vô tâm TRỰC GIÁC: Thiên tính, Trí luận Tuyệt đối A C chân lý (Lập) ( Phá cái phá) Tƣơng quan- TRÍ LUẬN: Hữu tâm chân lý B (phá) BẢN ĐỒ SỐ 1 Krishnamurti nói: “Cây cỏ thì toàn thiện mà vô tâm trong cái toàn thiện ấy, con ngƣời thì bất toàn mà hữu tâm trong cái bất toàn ấy”. Mới nghe qua thất là khó hiểu lắm, nhƣng thử xem cành bông kia, nó không tƣ tâm, chỉ nở ra một cách tự nhiên. Nó không vì ngƣời khen mà nở; hoặc ngƣời chê mà không nở. Nó không vì có ngƣời biết mới khoe sắc đẹp, hƣơng thơm. Nó mọc vì mọc; nó nở vì nở, thơm vì thơm ấy là cái tính tự nhiên của nó. 13/92
  14. Dầu phải mọc nơi hang cùng non thẳm, nó cũng cứ nở, cứ thơm Nó làm nhƣ vậy, ví nó không thể không làm nhƣ vậy cho đƣợc. Hành động ấy, gọi là hành động vô vi nhƣ giá tuyết thì lạnh, lửa thanh thì nóng. Nó tự túc, tự mãn, thật là toàn thiện, nhƣng vẫn không hay rằng mình toàn thiện. Ngƣời tri huệ hành động vô vi, cũng tự túc, tự mãn nhƣng hữu tâm trong cái toàn thiện của mình. Cái hữu tâm ấy, tuy thấy là Có mà thật Không vì nó đã thuận với Đạo rồi vậy. Sao gọi là tự túc? Bởi nó không vì một tôn chỉ chi, hoặc một cớ chi hay một tƣ ý chi mà làm. Nó không vì hoàn cảnh, không vì dƣ luận, không vì bổn phận, không vì đạo lý nhân, nghĩa chỉ mà hành động, nên nó đủ (Porter en son cocur le fardeau d’être incomplet; e’est cela la douleur.- mang nơi lòng cái đều Bất túc, đó là khổ -Krishnamurti), mà ta thiếu ( con ngƣời mà ly tâm ra đây, là một đều cần thiết của sự luân chuyển để về sau đắc đặng cái hữu tâm. Con ngƣời sở dĩ hơn con thú là chỗ hữu tâm đó. Nhƣng đừng lầm rằng con ngƣời toàn thiện hơn con thú. Xem chƣơng Bản ngã biện chứng trong quyển nầy.) Ngƣời cổ lỗ nhƣ đứa trẻ thơ, chƣa có tƣ tâm nên Vạn vật cùng tâm họ còn liên ứng với nhau rất mật thiết. Nói thế chằng phải gọi họ là toàn thiện đặng, họ chỉ vì chƣa có tƣ tâm nên còn giữ cái tính bản nhiên. Sự họ thấy, đều họ cảm, chỉ thấy hay cảm một cách vô tâm, vô ý, cũng nhƣ trong giấc mộng mơ màng. Bởi họ vô tâm (inconscient), cái tâm họ mới còn tƣơng ứng, tƣơng cảm với Vạn vật, thiên tính họ nhờ đó còn linh hoạt đƣợc một cách tự nhiên. Bởi vậy, khi nói về thiên tính của cổ nhân (homme primitif) và cái quan niệm của họ về Vạn vật, ta chỉ muốn nói về phƣơng diện siêu hình hay là triết lý thôi. Theo quan niệm ấy, họ cho rằng Vạn vật, vật mà ta gọi vô tri vô giác, đều có sự sống nhƣ họ Thấy đều có sự sống, họ bất phân vật nào là vật chất, vật nào là linh khí; sao là tinh thần, sao là hình thể. Với họ, cõi đời thiêng liêng cũng nhƣ cõi đời vật chất. Họ không phân biệt, chia phân vũ trụ, không gọi chi là thiện, là ác, hữu thần, vô thần Vạn vật chung quanh họ cả thảy là Một, không vật nào là vô tri không vật nào là vô giác. Cái thiên tính của họ, rất linh hoạt, không cần trí luận mà biết, biết một cách lanh lẹ, tự nhiên. Con ngƣời văn minh ngày nay, trái lại vì đã làm mất cái thiên tính bản nhiên của mình, nên muốn tìm lại con đƣờng mình đã mất dấu, phải tính toan trù, nghĩ lắm công phu. 14/92
  15. Cái thiên tính của con ngƣời cổ lỗ, làm cho họ biết và cảm giác đặng một cách lẹ làng tự nhiên nhƣ vậy là nhờ Vạn vật với họ còn cái giây liên khí, tƣơng cảm với nhau. Thiên tính ấy, thƣờng ta gọi là Xích tử chỉ tâm (xem bài “nơi bãi thế ” quyển Trƣòng Lạc Ca), bởi con trẻ thƣờng chƣa có tƣ tâm. Ngƣời cổ lỗ, không xƣng tôi Cái ý niệm Bản ngã (moi sépere) phát lộ ra trong lịch sử của đời ngƣời rất muộn. Dầu trên lịch sử của nhân loại cũng thế. Trong xã hội cổ, con ngƣời sống chẳng vì cá nhân, mà vì đoàn thể xã hội, gia tộc mà thôi. Họ là gia tộc, gia tộc là họ. Lần lần mởi nảy sinh ra cái chủ nghĩa cá nhân ( Xem cuốn “Phong Hòa Khí Thuận” cũng một tác giả. Cá nhân đấy là cá nhân bản ngã của phần tử có tánh phân biệt đó, chớ lầm lộn với cá nhân hoàn toàn của chân nhân. Xã hội cổ, là xã hội của những cá nhân bất toàn, nhƣng còn vô tâm cái bất toàn của mình. Xã hội trung và cận thời, là xã hội của những cá nhân hữu tâm trong cái bất toàn của mình. Xã hội vị lai sẽ là xã hội của những cá nhân hoàn toàn Tuy cách sinh hoạt nhƣ cổ mà khác rất xa Hãy xem chƣơng Bản Ngã biện chứng trong Toàn Chân pháp luận.) rồi sau đây, cuộc đời tấn biến cũng sẽ trở lại nhƣ xƣa ( Đó là thuộc về quan niệm Xã hội học. Không phải thuộc về vấn đề quyển sách này. Bời vậy ta thấy con trẻ và kẻ thiếu niên thƣờng có lòng quảng đại, hào hiệp và mạo hiểm Càng lớn chừng nào, tánh tình lại càng ích kỷ lợi thân chừng nấy Theo Tâm lý học, ích kỷ là cái đặc sắc của tuổi già. Ấy là con đƣờng tự nhiên Vận vật trong Vũ trụ phải luân chuyển theo (Trƣớc khi đặng hữu tâm trong cái Toàn thiện của mình con ngƣời phải trải qua cái hữu tâm bất toàn thiện của mình đã; ấy là cái mật lý của sự luân chuyển của Vạn vật. Đây lại là con đƣờng biện chứng của Vạn vật trong Vũ trụ. Nên xem cái thuyết của Bergson trong những bộ L’Evolution creatrice và bộ Les deux Sources de la Morale et de la Religion, ta sẽ thấy rõ cái lối biện chứng ấy. Thí dụ, ta ban đầu chơi với bóng mà vẫn vô tâm, đến một khoảng thời gian kia ta sẽ dựt mình, nghĩ rằng bóng ta là khác với ta từ đó nảy sanh cho ta nhiều nối lo sợ phòng ngừa. Lúc ấy ta gọi là hữu tâm trong cái Tƣ tâm của ta. Đến khi biết rõ, nó cùng ta 15/92
  16. là Một, ta trở lại sống với bóng ta. Tuy bây giờ ta hữu tâm rằng bóng ta với ta là Một, song le ta sống một cách vô tâm nhƣng cái vô tâm bây giờ không còn giống với cái vô tâm trƣớc kia nữa QUYỂN NHỊ NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CỦA NHÂN SINH “ Đạo đại, nhân tự tiểu chi, Đạo công, nhân tự tư chi, Đạo quản, nhân tự hiệp chi” (Lục Cửu Uyên) Trƣớc kia, ta đã thấy: ngày mà ta tách phân làm một bản ngã riêng biệt với vạn vật, ngày ấy ta khởi lần lo sợ Chừng ấy mới có biết tƣ lự. Ấy là ngày mà trong Thánh kinh (bible) gọi rằng, ta bị đày ra khỏi vƣờn Cực lạc (Eden) là nơi ta sống với vạn vật một cách tƣơng ứng rất mật thiết. Nơi vƣờn Cực Lạc ấy con ngƣời sống với thú dữ, mà vẫn không biết sợ Bởi phải bị gạt ăn nhầm trái cấm của cây Thiện –Ác (arbre du Bien et du Mal) mới biết xấu, tốt, nhục, vinh, trái, phải cho nên mới phải bị đày vào cõi thế gian tƣơng quan để chịu các đều khổ tâm, vất vả (xem quyển “Toàn chân pháp luận” chƣơng “Bản ngã siêu hình”, cùng một tác giả). Chính ngày ấy là ngày mà những vấn đề triết lý (problemes philosophiques) bắt đầu nảy sanh, trong đời con ngƣời vậy, nhƣ vấn đề Công bình, Tự do, Trƣờng sinh của Linh hồn, Sanh tử, Tạo hóa những vấn đề ấy, tự cổ chí kim, biết bao nhà triết học, siêu hình, tôn giáo tìm tâm giải quyết, nhƣng vẫn tƣ lự phân vân, chƣa nhứt định. Ta sở dĩ không giải quyết đặng, vì bởi ta chỉ căn cứ vào quan niệm lầm lạc rằng, cái Bản ngã là cái Chân lý tuyệt đối. Ta chỉ lấy sự trừu tƣợng mơ màng, chớ không lấy cái lẽ thực hiện làm căn bản (se basant sur les speculations et non sur les faits). Lấy bản ngã làm cái cốt cho những vấn đề ấy; mà bản ngã là ảo vọng, thì những vấn đề ấy làm sao giải quyết cho đặng. Nếu ta ra một bài toán đố mà cái đề không đúng với sự thật, thì dầu ta có lấy hết lý luận mà giải, cũng không sao cho đƣợc. Tóm lại, cái Ta đây, khi phân tách ra làm một nhân vật riêng, không liên lạc gì đến Toàn thể nữa, thì nhƣ tự nhốt chặt vào một cái vỏ cứng không còn ăn chịu với Vũ trụ. Một mình hiu quạnh trong khoảng thời gian và không gian vô hạn, bấy giờ ta lấy làm hãi hùng lắm. Nhƣ ngƣời kia, lúc ngồi chơi với bóng mình, thì vô tâm, vui vẻ Bỗng dựt 16/92
  17. mình tự hỏi: “ Bóng này là ai?” chừng ấy mới có sanh ra cái lòng nghi sợ, chẳng biết bóng ấy mới có thể hại mình đặng chăng? Ta cũng vậy, ngày mà ta cho vạn vật chung quanh ta là khác nhau, thì vạn vật sẽ trở nên một thế giới đầy dẫy sự bí mật làm cho ta phải khủng khiếp. Những vấn đề triết lý quan trọng của nhân sinh nảy sanh trong tâm trí con ngƣời từ đây cốt để an ủi ta trong cái mê lầm của ngã chấp ( Tỉ nhƣ có kể hỏi ta: “ Lông rắn, sừng ngựa, có thể nào chấp thành bút chăng?” Ta không xét lại cái câu hỏi có thật đúng với sự thật chăng? Lại chỉ lo tìm phƣơng thế trả lời. Thì dầu lý luận có hoạt bát đi mấy cũng không sao giải quyết cho đúng với sự thật đặng. Bản ngã tự nó là không có thật, nhƣ “ rắn đâu có lông, ngựa đâu có sừng” thế là làm sao cắt nghĩa và giải quyết vấn đề ấy Căn cứ vào Bản ngã để trả lời là lầm. Trƣớc khi trả lời, ta phải xét lại cái đầu đề, coi có trúng với lẽ thật chăng, chớ vội trả lời, dụng tâm vào một đều huyền ảo. Nhƣ ta sẽ thấy sau đây, những vấn đề quan trọng của nhân sinh sở dĩ không thể giải quyết đặng là do nơi cớ ấy) ~oo~o~o~o~o~oo~ A. NHẬP THẾ VÀ XUẤT THẾ Đã biết thế giới ngoại vật có thể hại cho ta, nhƣng nếu ta còn giữ Xích tử chi tâm thì không hề biết lo sợ bao giờ, vì Tâm ta cùng vạn vật là một, chỉ đến lúc ta thấy mình là riêng với vạn vật, ta mới tìm thế mà tu giữ lấy thân và binh vực lấy ta mà thôi. Đứng trƣớc một vật lại, nà ta nghĩ có thể hại cho ta, thƣờng ta có hai cách đối phó để giữ thân: một là thâu cái đó làm của, hay là giết tan đi, hai là, trốn hoặc lánh nó! Những cử chỉ ấy đều do cái sợ mà ra. Bởi thế, con ngƣời xƣa nay, kẻ tì lo thâu trữ của đời, ngƣời thì từ bỏ, lánh thân không quan tâm gì đến thế sự. Thƣờng ta gọi là Nhập thế và Xuất thế. Hai quan niệm ấy, chỉ do nơi cái lầm, rằng thế gian ngoại vật cùng ta là khác nhau vậy. Làm sao mà thâu đoạt hay từ bỏ một vật mà ta là nó, nó là ta? Cái ý thâu trữ hay từ bỏ, có ra chỉ lúc nào ta thấy ta khác biệt cùng vạn vật chớ khi ta rõ nó cùng ta là Một rồi, thì những tâm lý ấy không còn nghĩa lý gì là thật nữa. Bên Á Đông thì con ngƣời thƣờng dùng cái thuyết Xuất thế. Bên Âu Tây thì dùng cái thuyết Nhập thế. Thƣờng tình, ta cho kẻ Xuất thế là cao thƣợng đạo đức hơn ngƣời Nhập thế, đó là một sự mê lầm. Thế gian là đâu, ta là đâu mà hòng Nhập, Xuất? 17/92
  18. Nếu ta so sánh một ông đạo sĩ của ta, ly gia cát, ái, xa lánh cõi đời, đứng ngoài thế tục, xoá bỏ những sự vui sƣớng xác thịt, để sống trầm tƣ, mặc tƣởng nơi hang sâu rừng thẳm với một ông đại gia Huê -kỳ, suốt đời chỉ xung đột vất vả luôn luôn với ngƣời, không đƣợc một phút yên tĩnh; thì ta sẽ cho đó là hai cái rất tƣơng phản nhau là dƣờng nào Kỳ thật, hai nhân vật ấy chẳng có khác nhau chút nào về mặt tâm lý cả. Ý thâu trữ là ý từ bỏ thế gian, chẳng qua hai cái chứng của một tâm bệnh: tƣởng lầm rằng mình là khác với vạn vật. Vậy mà xƣa nay, con ngƣời thƣờng thƣờng có ý trọng ngƣời xuất thế và khinh khi ngƣời nhập thế, có dè đâu những bực ấy đều lầm lạc mê muội nhƣ nhau. Những vấn đề Vật chất và Tinh thần, cổ kim con ngƣời cãi cọ tranh đấu mãi trong trƣờng ngôn luận mà không một ai giải quyết đặng, chỉ phân vân lƣỡng lự; - kẻ cho đời là gỉa, bỏ mà đi, ngƣời cho nó là thật, tìm mà thâu trữ, - vẫn tại cái đề cho ra không đúng với sự thật, nhƣ ta đã thấy trƣớc kia. Lấy Bản ngã làm cái lý thật, tuyệt đích, rồi vịn đó để giải quyết những vấn đề của nhân sinh, đó là cái lầm của phần nhiều học giả xƣa nay vậy. Tuy nhiên, có kẻ sẽ cho rằng: “ Tuy đã biết ngƣời đã giải thoát đặng tƣ tâm rồi thì không còn thấy mình là khác biệt với Vạn vật vũ trụ, nên những vấn đề Nhập thế, Xuất thế không còn nghĩa lý gì với họ nữa cả. Song le, đó là để cho những bực siêu nhân, chớ đối với những bực tầm thƣờng thời những hoàn cảnh ràng buộc của đời ngƣời đây, không phải là một sự trở ngại cho sự giải thoát hay sao? Phải có ở trong những cảnh huống khó khăn của sự đời mới rõ cái khổ ấy !” Thật vậy, nếu lấy theo con mắt thƣờng tình mà xem, thời câu hỏi nầy cũng có lắm ý nghĩa, nhƣng nếu xét kỹ lại, thời đó là một việc mê lầm rất nặng của phần đông học giả, thƣờng xem cõi đời và cảnh ngộ là một sự trở ngại rất lớn lao cho sự hoàn toàn giải thoát. Theo chánh lý thời chẳng phải hoàn cảnh của thế sự trở ngại cho sự giải thoát mà kỳ thật là tại nơi Tâm ta mắc cùng không mắc lấy nó mà thôi. Tâm ta thì thƣờng trụ, vô biên vô lƣợng, chỉ vì ta chấp lầm cái thân vô thƣờng, cái hoàn cảnh tạm thời và giả dối làm sự thật, nên phải liệt mình nô lệ lấy hoàn cảnh. Ta có thể ví cái Chân tâm thƣờng trụ ấy nhƣ nƣớc. Dầu phải ở trong ve tròn hay ve vuông thời cũng tuỳ theo hình thức của ve mà có hình tròn hoặc hình vuông. Tuy nhiên, nƣớc đựng trong mấy ve ấy vẫn là nƣớc không hình trạng, không thay đổi, dầu có đem đổ vào thiên hình vạn trạng kiểu ve, nó cũng tuỳ theo hoàn cảnh mà lấy đủ thiên 18/92
  19. hình vạn trạng hình thức, nhƣng trƣớc sau chỉ giữ một cái tính bình đẳng nhƣ nhƣ không mắc cứng vào một hình thức nào cả! Có tích rằng: Xƣa kia, bên Ấn độ có một ông thầy tu, cho cuộc đời là giả, nên lập nguyện từ bỏ cả công danh sự nghiệp chỉ giữ lại cho mình có hai cái chăn mà thôi. Ngày kia, ông đi tìm một ông vua có tiếng là cao đệ trong đƣờng Đạo học. Buổi nọ, trong lúc hai ông cùng nhau đang cãi luận về một vấn đề triết lý, dƣới cội cây to, cách xa đền vua chừng hai ba trăm thƣớc. Bỗng chốc cái đền nguy nga tráng lệ kia, phát cháy một cách rất dữ dội. Vị vua rất bình tĩnh dƣờng nhƣ không có sự gì xảy đến cả, cứ thản nhiên bình luận đạo lý. Còn ông thầy tu thì tâm trí rối loạn, cặp mắt dòm chừng nơi chỗ hoả tai hoài Vì sao? Vì hồi sớm ông có phơi cái chăn của ông gần đấy. Tóm lại, chẳng phải sống trong cuộc đời danh lợi mà tâm ta phải bị mắc; cũng không phải nhờ xa lánh thế sự mà tâm ta hết bị mắc vào hoàn cảnh. Mắc hay không mắc là tại nơi ta. Biết giữ cái Tâm thƣờng trụ không cho bị vƣớng lấy hoàn cảnh nào cả, đó là cái mầu nhiệm của sự Giải thoát vậy. ~o~o~o~o~o~o~o~ B. CÁ NHÂN VÀ TOÀN THỂ Muốn hoà với thiên lý, ta phải làm sao cho hành vi của ta bao giờ cũng vừa là một lẽ hạn định vừa là một lẽ vô tận, vừa là một phần tử mà cũng vừa là một toàn thể. Tuy rằng sống trong một vị trí cá nhân, nhƣng cái Tâm không bao giờ lìa với Vũ trụ, Vạn vật. Đó là cái lý nhất quán rất mầu nhiệm của luật mâu thuẫn, chi phối các sự vật. Chấp vào cái quan niệm phần tử mà thôi, là một điều hƣ hỏng, vì Toàn thể thƣờng bao hàm phần tử, mà phần tử thƣờng không có Toàn thể ở trong, nghĩa là chƣa đặng toàn túc vậy. Cốt yếu của sự hoàn toàn giải thoát, là ta phải làm sao quán nhứt cái đều mâu thuẫn (cá nhân toàn thể) ấy, nơi ta một cách đầy đủ điều hoà Bây giờ, ta hãy cùng bàn qua cái quan niệm Vô Ngã và Hữu Ngã, để cho rõ cái hại quá thiên lệch về một phƣơng diện của tƣơng quan. Thật vậy, kẻ đã giải thoát rồi thì hành vi bao giờ cũng vừa là của một phần tử vừa là của một toàn thể điều hoà nhau một cách rất sung mãn. Kìa thử lắng nghe một khúc Hợp tấu nhạc(symphonie), trong ấy có đủ nhạc khí nào là đờn nguyệt, đờn tranh, tiêu, hoà lẫn với nhau mà khảy một bản tiêu thiều Vũ trụ chẳng 19/92
  20. qua là một khúc Hợp tấu vô tận ( symphonie éternelle) trong ấy mỗi ngƣời, mỗi vật là mỗi cây đờn Tuy, mỗi cây mỗi khác, mỗi ngƣời có mỗi điệu độc tấu riêng, song hoà với nhau một bản, dẫu khi phù, khi trầm có khác nhau trong âm vận, nhƣng nhịp phách cũng ăn rập với nhau luôn luôn. Nếu nghe riêng từng cây đờn, thì thấy mỗi ngƣời một điệu mà nghe chung thì thảy là một nhịp một nhàng rất thâm trầm êm ái Tỉ nhƣ trong ấy, có một ngƣời tài tử nào dụng tƣ ý, độc tấu một bản khác theo điệu riêng thích của mình, thì bài ấy đối với khúc Hợp tấu kia, vẫn là một bài vô thần lạc vận, dở dang hƣ hỏng; nhƣng nếu lấy riêng nó ra mà nghe thì khúc nhạc của ngƣời ấy có thể là một khúc tuyệt âm đƣợc. Điệu đờn anh tài tử độc tấu đó đối với bài Hợp tấu nhạc chỉ làm cho hƣ hỏng cái Toàn khí của bài ấy, nên xem ra vô thần, vô khí, khô khan, lạnh lẽo Ai hiếu kỳ, hãy xem cách khiêu vũ của rợ Châu Phi trong khoảng đêm thanh trăng sáng Cả một khóm ngƣời lao chao theo một cái nhịp tự nhiên .đứng xa xem vào, nhƣ bóng trăng phản ứng trên mặt nƣớc xao, sóng dợn Cách khiêu vũ ấy rất tự nhiên nhƣ cách linh hoạt của bóng trăng lấp lánh, của lƣợn sóng nhấp nhô, của tiếng giớ tỉ tê, của lá cây xào xạc vậy Đứng xa mà xem, nghĩa là lấy chung mà ngắm, thì thật là đẹp vô cùng Cái sống là chỗ đó Ấy nên, theo quan niệm Hữu ngã, nếu có xem vạn vật lại lấy theo một phƣơng diện của phần tử nên rất câu nệ và bần chật lắm. Theo quan niệm Vô ngã, trái lại ta lấy cái Toàn thể làm trung điểm cho sở kiến. Ấy là cái tinh thần Lão giáo mà P.Wieger kết luận trong bộ Đạo đức kinh bằng một câu rất giản dị mà hàm súc lắm.(Tout regarder, de si haut, de si loin, que tout apparaisse comme fondu en un, qu’il n’y ait plus de détails, d’individus et par suite plus d’intêret, plus de passions Evoluer avec le Grand Tout) – Nhìn xem muôn vật, hãy đứng chỗ cho thật cao, cho thật xa, đặng bao trùm lấy muôn vật, coi thảy thảy nhƣ hoá làm một cùng nhau, đừng cho còn thấy, chỗ vụn vặt, chỗ cá nhân riêng biệt, thì ra không còn chi là tƣ tâm, tƣ lợi, tƣ đức nữa Hãy sống thuận biến theo Đại Toàn thể) ( Xem Phụ Lục- bài Chí Nhân) Theo quan niệm này thì ta không lấy Vũ trụ làm lớn, trí huệ thƣờng bao quát kiền khôn, chớ không câu chấp tỉ mỉ theo chỗ hạn định của tƣ tâm. Tuy ở trong cõi đời hạn lƣợng mà chi hƣớng bao hàm và quán thông Vạn vật, cho nên ngƣời theo chủ nghĩa này suốt đời chỉ lấy Vũ trụ làm căn bản, chớ không câu nệ chỗ vụn vặt của nhân sinh. Thế mới không xem ngọn cỏ cành cây, hay con trùng con bọ làm thƣờng, mà cũng không lấy kiền khôn làm lớn. Bởi không gọi chi là Phải, Quấy, Lợi, Hại, Trọng, Khinh nên không khen mà cũng 20/92
  21. không chê ai, không tôn trọng mà cũng không miệt ai Mỗi sự, mỗi vật, đứng vào vị trí nào cũng đều có một nghĩa tối cao, tối trọng đối với Toàn thể cả (Trong một cái máy đồng hồ nếu lấy theo phần tử quan niệm thì con ốc vẫn là nhỏ và không đẹp, hoặc không đƣợc công dụng bằng cây kim, hay mặt kiến Song nếu đứng theo Toàn thể - Vô ngã mà xem thì dầu cho một con ốc nhỏ hay sơi dây thiều, cũng đều có trách vị tối cao tối trọng đối với sự “Sống Chung của Toàn bộ máy” vậy. Xem bài “ Thu thuỷ”, nơi chƣơng Phụ lục quyển Toàn Chân Pháp Luận cùng một soạn giả) Ấy, mới gọi rằng, kẻ hoàn toàn, hành vi bao giờ cũng toàn mãn, vì hành vi ấy đƣợc kiêm vừa một phần hạn định vừa một lẽ vô cùng ~o~o~o~o~o~o~o~ D. CÔNG BÌNH Chấp ngã làm cho ta không xem thấy đặng cái lý thật của sự vật, nên những sự hiểu biết và phán đoán của ta vẫn thiên về lẽ tƣơng quan mà thôi. Giác ngộ tức là hiểu biết cái lý thật của mọi sự vật, ( L’illumination est la connaissance de la vraie valeur des choses. Phật giáo có câu: “ Kiến Vũ trụ chi chân lý vị chi ngộ; muội Vũ trụ chi chân lý vị chi mê”. Ngộ, tức là đừng theo quan niệm Vô ngã mà xem, thì Vạn vật dầu cho nhỏ đến bực nào, cũng có cái lý huyền vi sâu xa của nó Cho nên, không chi gọi là Quý, Tiện, Trọng, Khinh Mê, tức là đứng theo quan niệm tƣ ngã mà xem, nên vạn vật mới có vật gọi là sang, hèn, khinh trọng. Đó là cái mầm tranh đấu đau đớn của nhân sinh. Vì thế, Lão tử mới bảo: Bất thƣợng hiền, sử dân bất tranh( Chớ trọng ngƣời hiền, đó là làm cho thiên hạ không tranh)- Xem trang Phụ Luc quyển Toàn Chân Pháp Luận, Cây Bách Thọ. Cho nên những đều hiểu biết của kẻ giữ quan niệm tƣ ngã thì lầm lạc sai suyễn lắm. Xƣa nay thậm chí, kẻ học Phật giáo mà cũng chƣa thoát khỏi đặng cái lầm ấy. Vì phần nhiều họ còn chấp trong cái Bản ngã, mà sự học phải sai lầm, lại không biết đâu mà thoát ly cho đặng. Họ thƣờng vịn lấy cái thuyết luân hồi Quả báo làm cái trung điểm cho học phái mình Tuy nói rằng tôn chỉ là Từ bi, Bác ái, song chẳng qua đó là cách để thoát kiếp luân hồi, nắm lại cái bánh xe Nhân quả Phật giáo cho rằng mỗi mỗi cái hiện tƣợng sanh sanh tử tử đây là gốc bởi cái dây nhân duyên tiếp tục mãi mãi nhƣ con sông lớn trên mặt biển Chân nhƣ, chớ không bao giờ gọi đó là luật Công bình của Trời! 21/92
  22. Luân hồi Quả báo chẳng qua là một cái luật phản ứng cũng nhƣ luật Nhân quả của thế giải vật chất hữu hình của ta đây. Thế mà, biết bao kẻ lấy cái thuyết ấy làm tôn chỉ tuyệt đích cho hành vi của mình, chỉ bo bo nô lệ, trong mỗi việc làm, sợ có một việc quả báo mà thôi. Vì Quả báo mới chịu làm phƣớc, thiện, vì Quả báo mới chịu lánh việc tàn khốc, ích kỷ. Tóm lại, Quả báo là cái chủ động của hành vi suốt đời họ. Họ lại cho đó là luật Công bình của Trời, để giải quyết cái vấn đề bất bình đẳng của Nhân loại. Quan niệm Công bình thật là một quan niệm rất sai suyễn lắm! Ta thử hỏi sự Công bình có thật cùng chăng? Trên thế gian này hẳn là không có rồi Muốn cắt nghĩa lẽ bất bình đẳng của xã hội và nhân loại, Tôn giáo vịn lấy cái thuyết Tiền nhân quả báo mà luận giải. Đời ta đây vui sƣớng hay khổ cực, chỉ là cái hậu quả của một cái tiền nhân kia? song nếu ta lại hỏi cái nhân của cái nhân đó và hỏi nhƣ thế mãi đến một lúc mới sanh cái Ta đầu hết thì ai tạo ra? Vì lẽ cái Ta hiện thời đây là cái vọng niệm của cái Ta trƣớc, thì khi tiên khởi phải có ai tự ý tự tâm tạo cái Ta ấy, mới ngày nay có Ta đây mà vọng niệm. Theosophie moderne, - (có kẻ gọi là Thông Thiên Học)- cắt nghĩa rằng, ta trƣớc khi thành ngƣời phải trải qua một kiếp thú Muốn đầu thai lên làm ngƣời, con thú phải cần cậy lấy sức mình, hết sức trụ thần trì đặng cho điểm linh quang Trí Huệ (monade divin) trực tiếp với điểm ấy mà nhập vào, tức thì lúc ấy con thú đặng thành ngƣời. Khoa Thông Thiên Học lại giảng thêm rằng có nhiều cách hoá thân, Hoặc một con thú bị đánh đập đau đớn trong lúc bị phẫn uất sợ hãi thái quá mà hạ trí tiếp diễn đƣợc với điểm linh quang trí huệ, nên tức khắc đƣợc hoá thân làm ngƣời, sau khi nó bị thƣơng mà chết. Cách hoá thân ấy là cách hoá thân xấu. Hoặc có con nhƣ chó, mèo, vv những thú nhà, nhờ gần gũi với những ngƣời mà trí hiểu biết khôn lanh nó tấn hoá rất mau lẹ thần trí nó tiếp điển đƣợc với linh quang trí huệ mà hoá thân. Cách hoá thân ấy gọi là cách hoá thân tốt - Những cách hoá thân ấy có ảnh hƣởng rất trọng hệ cho suốt đời con ngƣời. Kẻ bị cách hoá thân xấu, vì bị ảnh hƣởng lúc mình hoá thân đó, nên có tánh hèn nhát, xảo quyệt, độc dữ mà suốt đời phải chịu nặng nề quả báo Trái lại, kẻ nhờ cách hoá thân tốt, thì đƣợc lắm sự may mắn trong cảnh đời Nhƣ chồn, cáo, đẩu thai thì có những tính gian xảo, trộm cắp còn nhƣ chó, cọp, sƣ tử, đầu thai thì lại đƣợc những đức tánh trung cang, nghĩa, khí (Xem cuốn “L’Homme d’ou ll vient, ou ll va”của A.Besanat và C. Leadbeater) Ấy vậy, đâu là công bình? 22/92
  23. Vấn đề này, chẳng những lý thuyết Quả báo luân hồi không cắt nghĩa đặng; cái lý thuyết hoá thân của Thông thiên học cũng bó tay, chỉ có trả lời cho có, rồi, rốt lại, gọi Quả báo là luật Công bình của Trời ( Xem những bộ sách về Luân Hồi Quả báo của A.Besant ) Công bình có thật hay chăng? Vấn đề này làm sao giải quyết? Trƣớc khi có tôi là ngƣời ta, thì tôi là cây cỏ, thú vật nhƣng tôi không đặng tự do muốn hoặc hành động, thì ra sự may rủi của kiếp đời tôi sau này thật là oan ức và tàn chế lắm. Có kẻ bảo phải thuận lòng Trời, tự Trời muốn sao hay vậy, đừng cƣỡng lý không nên (Ấy là những đều khuyên lơn an ủi của Tôn giáo chớ không bao giờ làm dứt cái khổ trong lòng con ngƣời). Đó chỉ là sợ, nhƣ con sợ cha, nhƣ tớ sợ chủ mà không dám nói thôi, chớ tự tâm ai lại không có chỗ bất bình phẫn uất. Xƣa nay tôn giáo thƣờng dụng tâm mà cắt nghĩa, nhƣng cũng không giải quyết đặng, chỉ có để làm kế khuyên lơn an ủi lấy lòng mà thôi. An ủi lấy mình, chẳng phải là giải lý. Vấn đề Công bình sở dĩ không giải quyết đặng, chỉ vì ta chấp lấy Bản ngã, nghĩa là lấy nó làm cái căn bản, thật có vậy. Con một nhà, nếu anh em không yêu thƣơng nhau, lại phân chia cạnh tranh thì sẽ có thấy sôi nổi cái vấn đề Công bình cha mẹ đối với con. Nếu đƣợc hoà thuận yêu thƣơng nhau, coi nhau là một, không phân Nhĩ ngã, thì anh mình hoặc em mình có đặng may mắn, quyền lộc hơn mình, mình cũng không vì đó mà cạnh tranh thắc mắc. Chỉ vì tại ta sống trong cái Bản ngã, xem ta là riêng với vạn vật nhân loại, mà vấn đề Công bình mới có nảy sanh ra. Theo quan niệm vô ngã thì vấn đề ấy không có thật; vạn vật cùng ta là một. Kẻ sống theo quan niệm ấy không còn phân nhĩ ngã nữa, nên không còn so đo hơn thiệt với nhau, vấn đề Công bình đối với họ bấy giờ không còn nghĩa lý gì là thiết thực nữa. Thảy đều có một trách vị quan trọng đối với Toàn thể, nên sanh ra đứng vào vị trí nào, thì cứ tuỳ theo vị trí nấy, làm cho rồi trách vị mình, theo bổn phận của phần tử cho tận thiện (Xem cuốn Thể Tƣớng Luận, chƣơng “Toàn Thiện”, cuốn “ Toàn Chân Pháp Luận” chƣơng 4, cùng một tác giả); không phân giai cấp sang, hèn, trọng, khinh, vì sang, hèn, trọng, khinh là không có thật đối với Toàn thể. Trong một khúc Hợp tấu nhạc, nếu mỗi thứ đờn cứ than trách lấy chỗ nhỏ nhen hèn thấp của mình và lo sủng bái cái mà mình lầm cho là cao, sang, quý trọng hơn mình kia thì khúc nhạc ấy sẽ hƣ hỏng. Đâu là trọng hơn, đâu là hèn hơn? Nhƣ cung, thƣơng, giác, truỷ chẳng tiếng nào là trọng, là khinh vẫn tƣơng tiếp nhau, làm thành một khúc nhạc tiêu tao thánh thót. Bởi lấy tiếng thấp, tiếng nhỏ, tiếng to, chớ nếu lấy Toàn thể mà nghe, thì trƣớc sau là một, tiếng nào cũng cần ích trọng hệ cho sự Sống chung của bài nhạc Thế thì, nếu những tiếng ấy cứ lẫn trách, cảnh nạnh hơn thiệt, viện lẽ Công 23/92
  24. bình mà so đo với nhau mãi quên lửng cái trách vị mình đối với Toàn thể thì đó thật là một đều vô lý và bất thông lắm Sự không so đo ấy, chẳng phải tại tánh ta khiêm nhƣợng, rụt rè và an phận mà bởi Ta là vạn vật, Ta là ngƣời, ngƣời là Ta (Khi ta đã tán Bản ngã ta rồi, nghĩa là không còn lấy mình làm riêng với Vũ trụ Vạn Vật nữa mà là Một cùng Vạn Vật rồi, thời không cần lo lên cõi trên sợ xuống cõi dƣỡi chi chi nữa. Tha hồ, ở vào đâu, cũng yên, vì đâu đâu cũng là Một với ta. Chỉ có kẻ xem mình là riêng với Vũ trụ, mới lo lắng về địa vị giai cấp, cõi thƣợng, cõi hạ, mong mỏi đem mình sau này về một cõi nào riêng biệt nhƣ Cực Lạc Quốc, Thiên đàng, Bồng Lai, Thƣợng giải (tuỳ theo tôn giáo) tức là đem mình vào cõi hạn định nào trong Càn Khôn vậy – xem chƣơng Bản ngã siêu hình trong quyển Toàn Chân Pháp Luận cùng một tác giả) Nói rằng vấn đề Công bình không thể lấy Luân hồi Quả báo mà giải quyết, còn đạo Phật lại lấy cái thuyết ấy làm trung điểm cho triết lý của mình, thì ra Phật giáo không thấu Chân lý sao? Không! sự lầm ấy chỉ tại học giả còn chấp Ngã (Ngã đây chẳng phải nói về cái Ta tình dục, xác thịt Ấy là nói về cái tâm lý cho Ta là có, và riêng biệt với Vạn Vật) mà thành ra sự học hỏi của mình phải thiên lệch, và lầm lạc thế ấy. Kỳ thật, Phật giáo sở dĩ nói đến cái thuyết quả báo luân hồi là cốt để giải cái lý của Vũ trụ hiện tƣớng mà thôi, chớ không bao giờ gọi thuyết ấy là luật Công bình. Chỉ vì phần đông thƣờng dụng tƣ tâm mà hiểu Đạo, nên mới lấy Quả báo làm Chủ động cho hành vi. Bởi muốn tạo cái quả tốt và lánh cái quả xấu cho kiếp sau nên con ngƣời mới lo ngại mãi về quả báo; những hành vi họ chỉ bị bó buộc trong vòng ái kỷ Lấy vấn đề Công bình làm câu hỏi thiên niên là để tự làm vất vả cho tri luận, chẳng qua là tại cái lầm của ngã chấp bày ra. Kẻ học giả chớ hề nên đứng trong quan niệm ấy mà luận Đạo. ~o~o~o~o~o~o~o~ E. TỪ BI BÁC ÁI Cái đặc tính của cái Ta (le moi), là Ích Kỷ. Mà ích kỷ là nguồn khổ, vì ích kỷ mà nhân loại tranh giành, bốc lột, xâu xé nhau; cho nên muốn thoát khổ ta phải diệt nó. Song, Bản ngã, tức là cái lòng ái kỷ rất mạnh, tuy lặn bên nầy, nó cũng mọc lên bên kia; rồi muốn phờ phỉnh, che đậy cái mặt nó mới tạo, Bản ngã đêm cái tên Nhân, Nghĩa, Từ Bi, Bác Ái, mà phô trƣơng lên. 24/92
  25. Thật thế, Từ Bi, Bác Ái chẳng qua là chỗ xảo ý của tƣ tâm, bởi còn phân Nhĩ ngã. Thƣơng ngƣời, tất phải có một ngƣời thƣơng (chủ quan) một ngƣời đƣợc thƣơng (khách quan) – nghĩa là hai ngƣời,khác nhau, dẫu có đem thiên ngôn vạn ngữ mà tô điểm tiếng ấy cho đẹp đẽ cao thƣợng bực nào cũng chẳng qua để tự phỉnh đó thôi. Lòng ái kỷ thật mạnh và khéo léo, lặn, mọc luôn luôn, chớ không chịu cho mình là không có, không hề chịu để mất bao giờ Kẻ Toàn thiện thì sống ngoài vòng Bản ngã, tức là ngoài sự Từ Bi Bác Ái. Bởi họ lấy cái Toàn thể làm chuẩn đích cho hành vi và sở kiến, chớ không lấy tƣ tâm mà hành động, nên chẳng những họ ở trên chỗ Từ Bi, Bác Ái; - ( nghĩa là thƣơng hết vạn vật) mà thôi; họ là Vạn Vật, họ là Toàn thể, họ là sự Sống chung Vũ trụ ) Đạo đức kinh có câu: “Đại Đạo phế, hữu Nhân, Nghĩa. Lục thân bất hoà, hữu hiếu từ. Quốc gia hỗn loạn hữu trung thần” Đại Đạo phế, tức là cái Sống chung của Vũ trụ đã bị tách phân ra tƣ ngã riêng biệt cho nên mới có bày ra Nhân, Nghĩa, cốt là để lập lại trật tự, nối lại sự liên lạc của những phần tử riêng nhau đó. Cũng nhƣ trong nhà, anh em bà con bất hoà, mới có bày ra Hiếu, Đễ cốt để sửa và nối cái dây liên ái khí xƣa lại. Nếu hoà thuận yêu mến nhau, thì, có cần phải bày ra những tiếng ấy mà làm chi Chẳng qua đó là những đều tạo ra của Bản ngã để gạt lấy mình mà thôi. Kẻ tự xƣng là thánh nhân lại muốn lợi dụng lấy cái mê của nhân loại, đặt ra luân lý, kinh, sách đạo đức để hạn chế con ngƣời, bắt buộc vào một khuôn khổ eo hẹp của luân lý nhất định của tƣ ngã. Đó chẳng qua là những trò tuồng của Bản ngã mà thôi Tuy mới xem qua, thì thấy trong gia đình, trong xã hội, nhân loại bị hỗn loạn tƣ phân ấy, nhờ có Nhân, Nghĩa, Hiễu, Đễ mà cái niềm hoà ái đã mất, đặng nối lại nhƣ xƣa và có vẻ thƣợng hoà, hạ mục song le, đó chẳng qua là thuận thụ đƣợc về mặt hình thức bề ngoài, chớ kỳ trung cũng vẫn còn phân nhĩ ngã, nghĩa là về mặt tâm lý thì vẫn còn tƣ tâm, tƣ dục ~o~o~o~o~o~o~o~ F. THIỆN ÁC Thế thƣờng, ở đời có ai là không công nhận cái khổ là không có thật chăng ? Sự khổ là một điều hiển nhiên hơn sự Vui. Nhƣng ta phải biết rằng nếu lấy cái lý Tuyệt đối nghĩa là lấy theo quan niệm tƣ ngã, thì Vạn Vật phải có cái Tốt, cái Xấu, cái Lớn, cái Trọng, cái Khinh tất phải có cái Lợi, cái Hại. 25/92
  26. Đối với Toàn thể thì không có một vật chi là hại, là vô ích cả. Một việc hại cho ta vị tất là hại cho kẻ khác, tất nhiên một việc ta gọi là thiện, đối với ta biết chừng đâu là một việc tàn Ác ? đối với ngƣời (Bản ngã đối với ta là một đều hại, nhƣng nó là đều cần ích cho những kẻ còn bán khai Cái vỏ bao cái trứng gà, thì rất cần ích cho con gà khi chƣa nở nhƣng đến lúc nó nở đƣợc rồi, thì cái vở cứng trở lại là một đều hại cho nó, nó phải khẽ bể để thoát ra. Bản ngã của ta cũng không khác nào vở trứng gà mà chân tính ra nhƣ con gà con, ở trong vậy.) Thế thì lấy chi làm cái quy tắc để định nghĩa chữ Lợi, Hại, Phải, Quấy? Luân lý, vì lầm và không biết phân biệt cái lý ấy, nên làm cho nhân sinh thống khổ biết bao nhiêu? Một cái văn minh hay Luân lý chi, muốn cho chỗ công dụng có kết quả, tất phải cho hạp thời, thuận cảnh, theo lẽ biến hoá của xã hội, nhân loại. Cho nên, gọi là Phải, việc gì, đều gì có thể lợi ích cho nhân sinh trong một thời gian không gian nào đó, nghĩa là có thể làm cho nhân sinh thời bấy giờ đƣợc chỗ lạc phúc yên vui Ấy vậy, muốn cho một đều đƣợc gọi là phải, thì tất phải cho đều ấy đƣợc thuậ thời hạp thế. Văn minh của dân rợ và của ngƣời Âu Mỹ vẫn khác nhau xa song le nếu đem văn minh của ngƣời Âu mỹ cho dân Châu Phi, Châu Á, chƣa ắt đƣợc có chỗ hay; còn văn minh dân rợ mọi đem cho dân Âu Mỹ cũng vị tất là đƣợc Văn minh nào cũng phải, cũng hay, miễn cho hợp với trình độ dân tộc ấy; chớ không phải nó là lẽ tuyệt đối đặng. Vậy mà có kẻ tự xƣng là Thánh trí cố hạn định Nhân Nghĩa để làm cái khuôn mẫu tuyệt đích cho nhân sinh. Họ quên rằng kiền khôn vũ trụ chẳng qua là một lẽ biến hoá lƣu chuyển luôn luôn không ngớt, chẳng có một giờ nào mà ta còn giống ta trong một giờ trƣớc. Cái ngƣời xác thịt của ta, trong một năm cũng không còn cái ngƣời của ta năm trƣớc. Cái tâm lý của ta trong một phút đồng hồ nầy, không còn phải là tâm lý của ta trong phút trƣớc nữa đặng. Cái lẽ biến hoá của Vũ trụ thì vô cùng vô tận, mãi mãi hoài hoài, không bao giờ ngƣng đặng. Thế thì nhân sinh muốn sống thuận biến theo lẽ luân chuyển sinh hoá của Toàn thể, tất phải biết tuỳ theo thời hành sự không nên khép chặt tinh thần trong chỗ câu nệ chấp nhứt, nhỏ nhen vụn vặt Toàn thể Vũ trụ vẫn là một bài nhạc vô cùng vô tận. Ta là kẻ tài tử trong đám nhạc ấy, có nên vì tƣ tâm mà dạo đi dạo lại một khúc nào riêng thích chăng? (Ám chỉ kẻ cứ nô lệ câu chấp lấy một thứ luân lý cũ rích đem nhai đi nhai lại, mà không kể chi đến hoàn cảnh đã biến đổi, tấn biến đến đâu ) Hết câu nọ sang câu kia, phải biết thuận biên theo Toàn thể của bài nhạc luôn luôn Nếu cứ dụng tâm, lấy tƣ ý của mình, mà không kể đến hoàn cảnh thay đổi, 26/92
  27. sống nhƣ thế không gọi là có Sống vậy (Độc giả xem bộ Duree et Simullaneite của H. Berson(F. Alcan) cho rõ thêm những đều nói trong chƣơng này) ~o~o~o~o~o~o~o~ G. CHÂN TÍNH VÀ LUÂN LÝ Ta chớ nên khi nào dụng tƣ tâm, lấy luân lý, chế độ để hạn định nhân loại, dó là làm sái Đạo vậy. Tuy nói thế, ta chớ lầm tƣởng rằng ngƣời không biết dụng tâm là ngƣời không có đặc tính gì cả, ấy là một bộ máy vô hồn cứ quây cuồng theo con gió thổi, mặc tình ai muốn sai sử thể nào cũng đặng Không phải thế, nói rằng ta chớ nên dụng tƣ tâm mà hại Đạo, là ý nhắc ta chớ quên rằng, ta là Một với vạn vật. Ta phải nhớ luôn luôn lẽ ấy, tuy cứ hành động theo cá tính, nhƣng phải để con mắt xem chừng Toàn thể để cùng nó đƣợc cái chỗ hoà hợp với nhau. Ta chớ lộn cái Bản ngã với cái Bản tính tức là cái Tâm Hành vi vảu Bản ngã là làm, mà không quan tâm gì đến Toàn thể. Hành vi của Chân tính, thì không hề quên rằng mình là Một với vạn vật, và cứ thuận biến theo luôn luôn. Chân tính của ta, có câu Cá tính riêng của nó, nhƣ hƣờng thì thơm mùi hƣờng chớ không thơm đặng mùi huệ, hay mùi lan Ta chớ lầm lộn Cá tính với Bản ngã. Trong một khúc Hợp tầu nhạc, mỗi ngƣời đờn mỗi thứ đờn. Cây đờn, đó là thân ta, ngƣời đờn, là Chân tính ta (Nếu ta đờn mà không dụng tƣ tâm, cứ thuận chuyển theo cái Toàn thể của khúc Hợp tấu nhạc thì đó là Chân tính ta hành động. Nếu ta đờn mà dụng tƣ ý, đơn riêng một mình một bản, không quan tâm gì đến Toàn thể thì đó là Bản ngã ta hành động; khác nhau có bấy nhiêu đó) Ta đờn cỏ, có kẻ đờn tranh kẻ chơi đờn tranh không có một cách điệu giống với cách điệu của kẻ chơi đờn cỏ Mỗi ngƣời có mỗi điệu riêng, phải tuỳ theo cây đờn mình khảy mà đờn theo cách hay riêng của mình, (ấy là cái Cá tính của Chân tính ta vậy). Cho nên mới nghe qua thì thấy có khác nhau nhiều, song đối với Toàn thể của khúc Hợp tấu nhạc, thì trƣớc ssau vẫn một, họ không hề ly tâm một phút. Ta đây, đối cùng Toàn thể cũng vậy. Hãy cứ tự nhiên để cho Chân tính ta đƣợc tự do biến hoá theo Cá tính của nó, miễn đừng cho ly tâm cùng Toàn thể thôi. Đến khi ta dụng tƣ tâm không kể gì đến Toàn thể nữa, cứ độc tấu 27/92
  28. riêng một mình, sống riêng một cõi theo bản ngã chừng ấy ta mới gọi Ta là có, và là riêng với vạn vật Ta chớ có lầm lộn mấy tiếng cá tính của chân tính và Bản ngã vì Bản ngã và Cá tính của chân tính thƣờng có chỗ tƣơng tợ khó phân biệt (khi ta dụng chỗ sở thích của ta mà đờn, nhƣng ta không ly cái nhịp với Toàn thể. Đó là Cá tính. Còn nếu dụng chỗ riêng của ta mà đờn, không quan thiết gì đến Toàn thể. Đó gọi là Bản ngã. Chỗ phân biệt hai lẽ ấy có bấy nhiêu mà thôi) Tóm lại, Tâm ta tuy đồng lý với Đạo, song nó có cá tính của nó, nhƣ bông huệ thì cái đặc tính tự nhiên của nó là thơm mùi huệ chớ không thơm mùi sen, hay mùi lý đặng nên Lão tử bảo để cho cái tâm tính tự nhiên con ngƣời đặng tự do sinh hoạt chớ dụng tƣ tâm mà hại Đạo, là lẽ ấy. Dụng tƣ tâm mà hại Đạo, là gốc nơi Luân lý Trong một cảnh vƣờn biết bao nhiêu là hoa thảo: nào là hƣờng, lan, mai, cúc, Tuy khác nhau về hình thức, sắc, hƣơng chớ cả thảy đều công cộng để làm ra một cái Đẹp chung. Cảnh vƣờn nào mà thảy là hƣờng, hay là cúc mà thôi, coi ngán quá! Có hƣờng, có lan, có mai, có cúc, lẫn chen mới đẹp. Mỗi thứ hoa có mỗi sắc riêng, hƣơng riêng nhƣng nếu hợp lại sẽ làm thành một cái Đẹp chung vừa hƣơng vừa sắc. Thế mà, trong ấy nếu có một cây hƣờng đứng lên làm chủ, bảo cả thảy rằng: mùi hƣơng của nó là thơm. sắc nó là đẹp hơn hết. Rồi nó lại bày ra cái luật riêng, buộc cả thảy phải làm sao giống nhƣ nó, vì nó tự cho là mô phạm của sự Tận Thiện Tận Mỹ Nếu cả thảy các thứ hoa đều vì lẽ đó mà dụng tâm ép thân thể và tinh thần mình để thành hƣờng cả, thì thử hƣờng mới này, nếu có thể đƣợc, sẽ là một thứ hƣờng quái dị lắm Con ngƣời vẫn thế ấy Bày ra cái quan niệm Tận Thiện, Tận Mỹ, Nhân, Nghĩa để làm một khuôn mẫu nhứt định chung cho cả loài ngƣời. Cái Tâm tính Bản nhiên của con ngƣời vì đó mà tiêu ma, hƣ hỏng Con chó bắt kéo xe, con ngựa bắt giữ nhà là sái với tính tự nhiên của nó (Trang Tử bảo chớ mong kéo cẳng vịt cho dài, và thâu giò hạc cho ngắn lại –Xem thêm chƣơng Thu thuỷ của Trang tử) Thế mà nhân loại ngày nay lại dụng tâm lấy luân lý nhân nghĩa làm chuẩn tắc nhứt định cho hành vi của mình. Con chó vì đó, mất cái hay của bản tính nó, con ngựa vì đó, mất những nết hay của bản tính nó. Nhân loại ngày nay, chẳng qua cũng một thể ấy cả, thành thử con ngƣời hiện thời giống nhƣ kẻ tàn tật khô héo, đèo đuột, vất vả, hƣ hỏng bởi không còn cái tự do sinh hoạt của bản tính thiên nhiên nhƣ cỏ cây cùng vạn vật chung quanh. Đứng trong một hoàn cảnh mới, một dân tộc mơi, ta không thể lấy một cái Đạo Đức luân lý cũ rích xƣa kia, làm chuẩn tắc, làm khuôn mẫu cho nhân sinh đặng. Những kinh sách chẳng qua là những thang thuốc để trị cái khổ của Nhân loại trong một thời đại nào 28/92
  29. đó. Mấy bực thánh trị ấy, nhƣ ông thầy thuốc, còn nhân loại khổ là ngƣời bệnh. Bệnh còn biến, thang thuốc cũng phải tuỳ theo bệnh mà gia giảm, chớ không phải để y nhƣ trƣớc hoài đặng Ấy là một ví dụ cho ta dễ hiểu cái lẽ tuỳ thời chớ chẳng phải nói rằng hết thảy kinh sách là chỉ đúng cái phƣơng pháp diệt khổ. Nếu còn một mảy tƣ tâm thì dầu cho kinh sách ấy của Phật hay Lão, cũng không giúp ta giải thoát bao giờ (Thuở nay con ngƣời lầm về chỗ nói nơi chƣơng nầy và cũng bởi không hiểu cái chủ nghĩa của Lão Trang nên chỉ thƣờng gọi rằng Lão là ích kỷ, là phiếm thế. Trong lúc Khổng Tử ra dạy đời, Lão bỏ dời mà đi. Kỳ thật Lão nào có bỏ đời Ngài thuyết cái lý Vô Vi, nên tự mình không chịu dụng tâm đem lý thuyết mình mà nhét vào óc ngƣời Ngài viết bộ sách Đạo đức kinh cũng không vi tƣ ý chi. chỉ làm vì làm, một cách tự nhiên. Nếu Ngài dụng tâm mà đem lý thuyết mình hạn chế nhân sinh nhƣ Khổng phu tử, thì thành ra Ngài làm ngƣợc với chủ nghĩa của Ngài hay sao? Bởi kì ông hiểu cho tận lý Đạo Ngài, mà ngƣời cho Ngài là không thƣơng đời, yếm thế, xuất tục Ngài cũng không quan tâm đến chỗ thiên hạ biết hay không biết đến Ngài. Làm sao gọi là ích kỷ? Huống chi Lão Trang đã không cho đời là khổ thì lấy gì để mà duyệt khổ mà han chế cái phƣơng pháp tuyệt đích cho nhân sinh? ) Vả lại, cái khổ không có thật, nhƣ bệnh vậy. Ta có thể gọi rằng: không có bệnh, chỉ có ngƣời bệnh mà thôi. Tỉ nhƣ cái bệnh làm biếng, tuy có cái tiếng mà không có sự thật. Hai ngƣời cùng mang một bệnh làm biếng, không thể cùng lấy một phƣơng thuốc cùng trị cho đặng. Ngƣời thứ nhứt, làm biêngs vì làm việc nhiều mà không biết cách dùng đúng thì giờ; ngƣời thứ hai, làm biếng vì yếu đuối, bạc nhƣợc. Hai chứng bệnh không đồng một nguyên nhân, cách trị liệu không thể đồng một cách. Có phải thật sự thì chỉ có ngƣời bệnh mà không có bệnh chăng vậy? Cái khổ cũng một thế. Ta có thể gọi rằng: chỉ có ngƣời khổ mà không có cái khổ, thì những phƣơng pháp diệt khổ của thánh nhân để lại xƣa nay, sao dám đem nó làm cái lẽ tuyệt đối mà hạn định nhân sinh dƣờng ấy! Cái lầm này, xƣa nay đã làm hại nhân loại không phải là ít. Độc giả ai là ngƣời nhiệt tâm về sự phổ độ cũng nên suy nghĩ lại cho chính, kẻo muốn cứu ngƣời mà giết ngƣời, vô tình đem cái thuật độ nhân mà hại nhân vậy. ~o~o~o~o~o~o~o~ H. TẠO HOÁ Về quan niệm Tạo hoá, kẻ còn sống trong Bản ngã, lấy cái Ta làm tâm trung điểm cho hành vi, trí thức, thì tất nhiên công nhận hoặc tự tạo ra cái thuyết Hóa Công thần chủ cho 29/92
  30. rằng vạn vật có đây là do nơi một đấng Hoá Công. Lẽ ấy chẳng qua là cái quan niệm chấp ngã trong cảnh tƣơng đối mà chuyển di qua cảnh Tuỵệt đối hƣ vô Kẻ cho mình riêng với vạn vật, thƣờng tƣởng tƣởng Tạo Hoá là một đấng riêng biệt với vật thọ tạo, nhƣ mình riêng với vạn vật chung quanh mình vậy. Bởi ta cho ta là riêng với Vũ trụ, tự nhiên cho rằng Vạn vật có đây, phải có ngƣời tạo, có ngƣời làm chủ. Thật vậy, kẻ ích kỷ, thƣờng tình cho ai cũng ích kỷ, ngƣời nhân thƣờng tƣởng cho ai cũng nhân Cho nên kẻ còn Chấp ngã thƣờng cho rằng Trời cũng là một vật riêng biệt với Vũ trụ -một cái Ta, nhƣng lớn vô cùng vô tận Có dè đâu, hễ là cái Ta thì dẫu có lớn vô cùng đi mấy cũng vẫn là cái Ta, mà nhỏ bực nào đi nữa cũng vậy. Hễ là cái Ta thì ở đâu cũng là cái Ta, nghĩa là bất toàn, hạn định, hẹp hòi Lại nữa cái Ta là giả, thì đấng Hoá Công cũng chƣa chắc là có thật Đã gọi là Hoá Công thì Toàn Năng, Toàn Trí, Toàn Thiện, Toàn Mỹ, nhƣng sao lại sanh ra một vật bất toàn năng, bất toàn thiện, bất toàn mỹ nhƣ Ta đây? Có thể nào một đóa hoa thơm mà sanh ra mùi hôi đặng chăng? Lẽ nào cầm quyền sửa trị, toàn năng, toàn lực, tự do muốn tạo cách nào cũng đặng, lại phải lập cách sửa trị hành phạt, hâm he hay khuyên lơn tƣởng lệ, phải dụng tâm mà cải hoán? Thế thì cũng nhƣ ta, chớ sao lại gọi là Toàn năng, Toàn lực ?Trả lời câu hỏi này, có kẻ nói rằng nếu muốn, thì Tạo hoá sẽ sanh con ngƣời có Công??? Trả lời nhƣ thế, thật nhƣ đứa trẻ thơ, nói cho có nói, chớ không có nghĩa lý gì cả. Phái Cơ đốc giáo cho rằng Trời sanh vạn vật vì lòng Bác Ái. Trời, thì tự bản tự căn, song bổn tánh là Bác Ái. Bởi Trời là Bác Ái cho nên phải tạo ra nhân vật để có mà thƣơng, vì lòng Bác Ái của Trời thì vô biên vô lƣợng Có phải là ta dụng tƣ tâm mà bày ra cái thuyết ấy chăng? Có khác nào, khi ta thƣơng, phải có một ngƣời cho ta thƣơng, nghĩa là có nhĩ ngã, chủ quan, khách quan mới đặng. Thế nên, Trời là Chủ quan, tất phải có Vạn vật làm khách quan khôn khéo thay cái trò tuồng của Bản ngã! Phái Phật giáo (Thông thiên học bây giờ) lại cho rằng, có một cái Chân Nhƣ tuyệt đối lúc chƣa có vạn vật thì một mình trầm tĩnh hƣ vô, tịch mịch lắm. Chợt trong một lúc Vọng niệm, Ý Chí phát chuyển gọi: “Ta muốn có muôn loài, Vũ trụ hằng hà, Ta muốn biến ra thiên hình vạn trạng ” Tức thì Vạn vật phát sinh, hiện tƣợng trùng trùng Lẽ ấy dụng ròng Ý chỉ làm căn bản, nhƣ phái Cơ đốc giáo dụng ròng Tâm Cảm làm nguyện động lực vậy.() Đạo học Á Đông vì lẽ nói trên đây, dụng ròng Ý Chí làm gốc cho trí thức và hành vi nên phƣơng đông thƣờng có bọn Đạo Sĩ chỉ dụng thần thông phép tắc để làm chuẩn tắc cho hành vi và sự học của mình về Đạo. Những Phái Phật, Lão là những phái siêu hình học 30/92
  31. rất tuyệt luân, mà lâu dời lại phải chuyển thành một cơ quan Huyền bí luyện đơn Sự biến thiên về khoa Thần thông phép tắc ấy, do nơi cái quan niệm siêu hình của Á đông, cho rằng Đạo chuyển thành Vũ trụ nhờ dụng Ý Chí mà thành. Con ngƣời muốn hợp với hành động của Đạo, phải dụng Ý Chí chuyển thần thông nhƣ Đạo vậy mới nên Đó gọi là thuận Thiên lý Còn bên Âu Tây, triết lý thƣờng dụng chữ Ái làm gốc cho hành vi, tƣ tƣởng vì Trời hoá sanh vạn vật cũng vì Bác Ái, nên chỗ học và cách sinh hoạt củ học cỏ vẻ Nhân từ, chỉ dụng Tâm Cảm hơn Ý Chí. Dẫu hai phái ấy có khác nhau về mặt trừu tƣợng, nhƣng cũng đồng một quan niệm Hoá Công. Gọi rằng Chân Nhƣ thì Toàn lực, Toàn năng nhƣng phải còn dụng lực, dụng công chuyển thành tạo hoá thì tất phải có dùng Năng lực riêng là Ý Chí, nghiâ là phải có một cái sức ráng mới đƣợc. Còn ráng sức mà hành động, thì sao còn gọi Toàn lực, Toàn năng cho đặng. Hễ còn ráng là còn thiếu, mà Chân Nhƣ thì toàn bị nhƣ thế có hợp lý chăng? Còn hữu ý, nghĩa là làm, mà còn phải cần có một tôn chỉ chi chi thì không sao gọi là Toàn Mãn cho đặng nữa! Có phải tại do nơi cái quan niệm Tƣ tâm của Bản ngã ta chuyển di qua, mới có nảy sanh trong trí con ngƣời cái thuyết Tôn thần quyền nhƣ trong xã hội, con ngƣời còn tồn tại cái thuyết Quân quyền chăng? Bởi còn phân Nhĩ ngã mới có phân giai cấp, đặt lễ nhác để giữ gìn trật tự lại nhƣ trong nƣớc có loạn mới có bày ra Nhân, Nghĩa, Hiếu, Đễ, đặng nối lại cái dây Hoà Ái đã mất (Có kẻ sẽ nói: “Bây giờ sự đã lỡ rồi, phải dùng Nhân Nghĩa để chế tiết tƣ dục, giữ lại trật tự, chớ không thể nào bỏ đặng ” Nói thế cũng phải, nhƣng đó là để đỡ bớt cho qua buổi, chớ không phải là cái phƣơng pháp hay vậy. Cái hại càng ngày càng sâu, cái khổ càng ngày càng tăng. Tự mình phải diệt lấy khổ cho mình trƣớc đi, thì Nhân loại vì đó sẽ hết khổ, vì Cá nhân tức là Nhân loại vậy. Đau mà uốn thuốc là muốn cho tuyệt sự đau, chớ đau mà uống thuốc đỡ bớt đau lúc đau nầy thì không phải gọi là uống thuốc ) Ấy cũng bởi ta làm cho loạn ly, nên phải tìm tâm mà sửa đổi. Ta chớ có lầm lẽ ấy mà chia vạn vật ra giai cấp và lấy theo tƣ tâm mà cho Trời là đứng Quân Chủ: thánh, thần, tiên, phật là những kẻ thế mặt trời mà cai quản chúng ta Cho nên, hễ còn giai cấp tức là còn loạn ly, phân tƣ với nhau, mà nếu Trời, Phật, Tiên, Thánh còn giữ giai cấp thì ra cũng chƣa phải là hiểu Đạo vậy. Lão tử có nói: “Đại Đạo phế, hữu Nhân Nghĩa” -Đại Đạo mất rồi, mới có bày nhân nghĩa. Có Nhân Nghĩa tức là có Nhĩ ngã, mà có Nhĩ ngã mới có bày ra giai cấp (Xem chƣơng “Bản ngã siêu hình” trong quyển “Toàn Chân Pháp Luận” của tác giả ) 31/92
  32. ~o~o~o~o~o~o~o~ I. VÔ VI Cái vấn đề Hoá Công vì lấy theo quan niệm Bản ngã mà xét, nên không hề giải quyết đặng. Cái Ta đã là ảo vọng, thì đấng Hoá Công cũng là huyền mộng Theo quan niệm Vô ngã thì lấy cái thuyết Vạn Vật nhứt thể làm hạp với Chân lý. Tuy thuyết ấy có nhiều phái phân biệt, song đó là do nơi trình độ con ngƣời mà biến thiên chút ít, chớ đại ý thì cho Vạn vật trong Vũ trụ đây chẳng qua là cái hiện tƣớng của Chân Nhƣ, vẫn đồng nhứt lý. Ví nhƣ, mặt trời có ra, nhờ ánh sáng và sự nóng (Đây là ví dụ lấy theo sự thƣờng thấy mà nói cho dễ hiểu chớ không phải lấy theo khoa học mà nói. Khoa học bây giờ ngƣời ta lại tìm mặt trời thì lạnh và tối Hãy xem cuốn La Terre et Nous pa G. Lakbowsky). Ánh sáng, sự nóng là cái hiện tƣớng của mặt trời, không thể gọi rằng mặt trời tạo ra ánh sáng và sự nóng. Tạo ra, tiếng ấy hàm chỉ rằng mặt trời và ánh sáng là riêng nhau, chẳng phải một. Tạo ra, tức là lấy một vật ngoài mà làm, mới gọi đƣợc tiếng ấy; chớ một món nó là mình, mình là nó, thì sao gọi là tạo cho đặng. Tạo, tức là mình thiếu mới tạo thêm ra, cho nên Toàn mãn nhƣ Đạo mà gọi là tạo ra, thì rất vô lý Mặt trời, tức là mình thiếu mới tạo thêm ra, cho nên Toàn mãn nhƣ Đạo mà gọi là tạo ra, thì rất vô lý Mặt trời, tức là hàm ý sáng và nóng. Đƣợc gọi là mặt trời phải có đủ mấy đức tính ấy gồm lại. Chƣa hiện ra là Đạo, hiên ra có hình sắc là Vũ trụ Tuy nói thế, là dụng cách phân tích mà học, chớ kỳ thật Đạo là Vạn Vật, không riêng biệt với Vũ trụ, nghĩa là Sanh ra vạn vật. Cái Có đây, là cái tự nhiên của Đạo, nhƣ cành bông nở, nhƣ hột giống nứt mộng biến thành cái cây vậy. Cái hột giống, ta có thể ví nhƣ Đạo. Trong đó lúc chƣa mọc thành cây, nó đã có đủ Toàn thể của cây rồi. Hột giống là cái cây nhƣ Đạo là Vũ trụ, khác nhau một tịnh, một động mà thôi. Vạn vật có ra đây là vì có, nhƣ gió thổi thì thổi, chim thì kêu, cây thì mọc một cách tự nhiên chớ không phải vì một tôn giáo chủ, tƣ ý mà thổi, mà kêu, mà mọc; nó không thể không nhƣ vậy cho đƣợc, ấy là cái tính của nó. Những hành động ấy, đều gọi là hành động vô vi nghĩa là làm mà không vì chủ nghĩa, vì mục đích chi cả (Tiếng Pháp gọi rằng: Agir et pourtant ne rien faire. Agir, nghĩa là 32/92
  33. làm mà không mục đích chi. Faire cũng làm mà có chủ nghĩa) lại cũng không hay rằng mình làm là có làm nữa. Lão giáo có nói: làm, mà còn biết rằng mình làm, cái làm ấy rất thô bỉ, chƣa gọi là hoàn toàn (Xem chƣơng Hữu Tâm Vô Tâm trong quyể này và chƣơgn Hành vi hoàn toàn trong quyển Toàn chân Pháp Luận sẽ in sau) Ấy vậy, ngƣời Quân tử theo quan niệm vô ngã thì làm, vì tự nhiên phải làm. Kẻ còn Bản ngã thì làm chi, cũng dụng tƣ tâm, phải luôn luôn có một cái lợi chi để làm chủ động cho hành vi mình. Hành vi ấy không giống với hành vi tự nhiên của Đạo, chỉ có kẻ thánh trí mới am hiểu đƣợc cái nghĩa toàn mãn vô vi của Đạo mà chuyển di lẽ ấy qua hành vi của mình, nên mới thuận với Đạo mà thôi. Cho nên hành vi họ rất tự nhiên mà hành vi kẻ có Bản ngã thì vất vả miễn cƣỡng. Cành bông nở một cách sung mãn tốt đẹp là khi đƣợc nở một cách vô vi , nếu phải còn có ngƣời phục sức hoặc dụng cách truyền khí cho mau nở thì dầu có nở, cũng không đặng tốt đẹp bằng hoa kia nở một cách tự nhiên. Có sống đƣợc là nhờ nô lệ lấy ngoại lực mà thôi, thì cái sống ấy không còn gọi là cái sống tự nhiên cho đặng nữa. Con ngƣời cũng vậy, sanh ra không đặng sinh khí vũ trụ chuyển tiếp với mình, nghĩa là sống trong cái sống tƣ, lìa với cái sống chung của Vũ trụ, giống nhƣ cây mọc phải trên đất khô nắng cháy, không tiếp xúc đƣợc với luồng sinh khí đất, đứng cheo leo riêng biệt với cái sự sống của kiền khôn, nên phải héo khô, ủ dột Con ngƣời đứng riêng với Vũ trụ, thì hoạt động không còn chỗ toại sinh tự nhiên của Chân tính. Phải cần có Nhân, Nghĩa, Từ bi, Bác Ái, có lời khuyến khích tƣởng lệ, có tiếng khen trọng mới làm đƣợc điều hay, lẽ phải. Hành vi nô lện bần chật ấy thật là bất mãn vậy. Đạo không sanh vạn vật, van vât vẫn là cái hiện tƣớng của Đạo mà thôi.(Có kẻ sẽ hỏi rằng : Vạn Vật là hiện tƣớng của Đạo. Vậy ngoài Đạo, ai tạo Nó, mới có Nó để tạo lại vạn vật ? Lại họ còn viện lẽ rằng: nói đây là lấy theo vô ngã mà hỏi Đây cũng là cái trò tuồng của Bản ngã nữa. Vì ta còn ở trong Bản ngã, mới còn ở trong vòng thời gian, không gian; nên tƣ tƣởng ta bao giờ cũng còn giữ cái quan niệm Thời gian và Không gian. Bởi thế mới hỏi: Ngoài Đạo còn gì ? Trong lòng hãy còn bị cái hạn định của thời gian nên cứ tƣởng tƣợng cái Trong,cái Ngoài, cái Trƣớc, cái sau luôn luôn Lại nữa, đã nói rằng Đạo là Vô thỉ Vô chung mà còn hỏi ai tạo? thì ra cái bản ngã của ta cũng chƣa diệt đặng, nên nó lặn, mọc hoài mà ta không dè Ấy là chỗ lầm của độc giả phần đông) Đạo là Vô Vi, cho nên con 33/92
  34. ngƣời hễ toàn đức, toàn thiện thì tự nhiên sẽ có đều hay cho nhân loại. Hễ ta đƣợc đầy đủ rồi, tất nhiên phải xuất hiện cái hay đó một cách vô tâm. Ta chớ dụng tƣ tâm ép buộc nó làm sái với cái lẽ tự nhiên. ~o~o~o~o~o~o~o~ L. TẾ ĐỘ QUẦN SINH Thông thƣờng hễ gọi là ngƣời đạo đức thì phải lo tế độ quần sinh, giúp ích cho nhân loại, nghĩa là phải thi ân bố đức. Vì bởi cho rằng con ngƣời đang chìm đắm trong sông mê bể khổ, cho nên, ta là ngƣời thấy chút ít Chân lý phải ra tay tế độ, phận sự ta là phải ra dạy dỗ đời truyền bá cái ánh sáng của mình Nên hễ đọc đƣợc bộ sách chi thích ý mình hoặc mê mẩn về một tôn giáo hay lý thuyết thì tức khác bôn chôn đem hô hào cổ động Chỗ dụng tâm hâm hở ấy sái với lẽ tự nhiên của Trời Đất. Lấy theo quan niệm Bản ngã, thì ta tƣởng ai cũng nhƣ ta, chớ không hay rằng con ngƣời ai ai cũng có cái cá tính riêng bịêt. Cho nên, kẻ nào không đồng một quan niệm với ta đều không trùng với lẽ phải. Kẻ học Phật muốn cho ai ai cũng theo một quan niệm với mình, ngƣời học Lão, hay học Khổng cũng đều cho ai không đồng một quan niệm với mình là sái cả (Trang 268 Mumero 6, Mars 1930 Bulletin des Etoiles có nói: Servir le monde, c’est souvent nous mêler des affaires d antrui. Nous voulons changer le monde, mars selon notre ideal, selon notre conception du Bien et du Mal (Giúp đời, ấy chẳng qua là ta dụng tâm xen vào việc kẻ khác. Ta muốn hoán cải đời, nhƣng cải là hoàn cải theo cái quan niệm riêng của ta về lẽ phải đều quấy mà thôi) Bởi muốn cho ai ai cũng theo một tƣ tƣởng với mình, mới có bày ra những phƣơng pháp, những cơ quan phổ độ, chẳng qua là mình cho rằng đều mình tƣ tƣởng đây là phải, là đúng; hạnh mình đây là toàn. Ta phải biết rằng, một việc ta gọi là phải, vị tất là hay cho kẻ khác, một việc của kẻ khác làm, ta cho là quấy cũng vị tất là đã có hại cho họ. Ta ăn ngon, ta muốn cho kẻ khác cũng khen ngon, nếu họ có chê, ta sẽ gọi là sái lý thật hay sao? Chỗ ta cho là phúc, ngƣời gọi là hoạ; chỗ ta gọi hoạ, ngƣời cho phúc. Ta cho rằng chỗ nô lệ vào luồn ra cúi là sang, ngƣời cho đó là hèn (Sự Phải, Quấy, là một lẽ tƣơng đối, ta lấy cớ nào mà gọi sự ta cho là phải, cũng phải đối với kẻ khác? Phần đông, ngày đêm mài miệt, để hết tâm huyết vào sự “đem kẻ khác vào một phạm vi của mình”, tức là đem cả Trí lực để dạy dỗ kẻ khác, đem những quan 34/92
  35. niệm về lẽ Thị, Phi theo sở kiến của mình, nhét vào đầu kẻ khác Họ chăm nom đào tạo nhân loại làm một giống nộm sống nhƣ họ vậy. Rồi tự lƣợng, gọi cơ quan của mình là cơ quan phổ độ, cứu thế Họ chỉ thấy họ, những đều chi Hay cho họ, là Hay cho kẻ khác Họ vẫn thƣơng ngƣời thật, nhƣng khác nào đứa trẻ kia bắt con cá bỏ lên bờ khô rồi nói rằng: “Tội nghiệp mầy ở dƣới nƣớc làm sao thở đặng, chắc ngộp lắm Tao làm phƣớc cứu mầy khỏi nƣớc ” Cá lên khô, cá chết, nó than: “Tội nghiệp, chỗ khổ của mầy, mà mầy vẫn vui, vẫn chịu sống làm thân thuỷ tộc. Tao muốn đem mầy lên cõi quang minh chánh đại thong thả tự do, mà mầy không chịu sống Than ôi! Bởi nhà ngƣời Ngu mới chết vậy”. Đó là tại nơi Ta không lấy cái lý Nhứt quán (toàn thể) mà xem, mà lại chỉ cố chấp trong chỗ tƣ tâm của một phần tử mà luận. Đó là có Tâm mà không có Trí vậy. – Hãy xem Lẽ Cảm Sinh và Dịch Hoá trong bộ Toàn Chân Pháp Luận) Cho nên, chỗ ta quý trọng, cho là đạo đức, vị tất là chỗ mà kẻ khác cũng quý trọng, cũng gọi là đạo đức. Mà cũng không chắc rằng chỗ của ta là đúng lý hơn của ngƣời (có kẻ sẽ hỏi: Rằng không chi là bạn định đặng Thành thử văn chƣơng học thuật cũng không lấy gì làm quy tắc sao? Đó là một việc thông thƣờng, con ngƣời muốn trao đổi ý kiến với nhau cho khỏi chỗ hiểu lầm nhau phải tạo bày ra cơ giải ấy, nhƣ đồng bạc ta hạn giá có là bao nhiêu cốt để thông dụng bên ngoài Chớ về mặt tâm lý thì khác hẳn, ta không thể hạn định bao giờ đặng –xem quyển “Toàn Chân Pháp Luận”: “Đạo là cái lý thực nghiệm của từng ngƣời, rất khác với những cơ quan hình thức cốt mƣu đồ sự an ổn cho xác thịt, cho cách sinh hoạt về phần vật chất ”) Con trong nhà, thảy đều yêu mến cha mẹ. Nhƣng đứa thì ta gọi là hiếu tử, vì mỗi tháng đem tiền về nuôi cha mẹ, còn đứa thì ta gọi là bất hiếu vì nó không nuôi cha mẹ đặng. Hiếu là tình, mà tình thì vô hạn và cũng tuỳ theo tâm tánh riêng của mỗi đữa; thế mà ta lại đem cái tình ấy hạn định giam hãm vào một cái lý hẹp hòi bó buộc (nhƣ trong Hiếu Kinh) để ép buộc con ngƣời phải làm một bộ máy vô hồn, chỉ quay cuồng theo một cách thức tiền định kia, mới gọi là Hiếu, thì ra sái với lý tự nhiên lắm! Trƣớc kia, đã có lấy vƣờn hoa làm thí dụ, nay lập cho rõ rệt thêm một phƣơng diện khác. Trong một cảnh huê viên có đủ các loài hoa. Bông hƣờng quên cái lý Toàn thể, dụng tƣ tâm, cho sự đẹp của mình là Tận Mỹ, nên tự lập ra một cái luật riêng để hạn chế các thứ hoa thảo khác, lại tự xƣng rằng vì lòng Bác Ái vì dạ Từ Bi, muốn cứu khổ cứu nạn cho quần sinh; bởi nó cho rằng các thứ hoa kia vì còn mê nên không biết cái chỗ bất toàn của 35/92
  36. mình nhƣ bông sen phải mọc dƣới bùn, bông tử la thì hoa phải núp dƣới lá Đó là chỗ sái lẽ tự nhiên. Nó thƣơng hại cho những hoa thảo kia sống trong chỗ hèn hạ mà không hay. Thế thì, bây giờ nó phải lấy cái chi làm mô phạm nhứt định của sự Tận Thiện, Tận Mỹ đó? Nó lấy Nó Ép các thứ hoa khác phải chịu, uốn thân, vất vả cái tính tự nhiên của mình đặng hoá thân thành hoa hƣờng cả Thật là một điều quái dị hết sức. Cái hoa vì bị uốn mình, ép uổng tinh thần, bó buộc cái tính bản nhiên của nó, để thành một vật không phải nó nữa, nên phải trở nên tàn tật, héo rũ, hƣ hỏng Thế mà, khi các loài hoa bị đau đớn vất vả loài hoa hƣờng lại đứng trên cao, hoặc ngó xuống mà lắc đầu, chép miệng than: “Tội nghiệp chúng sanh vẫn khổ luôn luôn, mà không đủ sức giải thoát ” Có dè đâu khi xƣa, những bông hoa kia đang sống toại sinh trong cái lạc phúc riêng của chỗ sinh hoá tự nhiên, kế bị rũ quyền, áp bức mà quên mất bổn căn bôn chôn hăm hở dụng tƣ tâm để trở nên cái Tâm Thiện Tận Mỹ của kẻ khác, cho phải khổ sở muôn phần. Kết quả, chỉ làm hƣ hỏng cái Bản Tính tự nhiên của mình. Lỗi ấy do nơi chỗ dụng tâm của Hoa Hƣờng mà cũng do nơi chỗ lầm lạc của tƣ dục của các hoa (Xem bài “Cây Bách Thọ” nơi chƣơng Phụ Lạc quyển Toàn Chân Pháp Luận) Phỉnh phớ thay, những chữ Từ bi, Bác ái, Tế độ quần sinh ! Tên nông phu kia, bởi thấy lúa mình lâu lớn, muốn giúp cho mau hơn, nhớm gốc lên một tấc Qua ngày sau, than ôi! một đồng rộng mênh mông và xanh um buổi trƣớc, nay đã thành một đám cỏ phai vàng ủ dột Tấm lòng nhiệt thành của tên nông phu không phải là giả, nó quyết lòng giúp cho lúa mau lớn Cái bụng Ham làm Phải ấy, ở đời cũng lắm ngƣời rất nhiệt tâm về sự phổ độ chúng sanh, mà tiếc vì cái bụng nghĩ không cùng sự lý, làm trái với lẽ thiên nhiên, thành ra tạo lắm đều hƣ hỏng khổ sở hơn là mƣu đồ sự hạnh phúc cho nhân sanh. Muốn giúp hãy giúp nhƣ vừng Thái Dƣơng, chiếu vạn vật Giứp mà không ép uổng nên gọi làm mà không làm nghĩa là không tƣ ý. Nhờ ánh sáng của Thái dƣơng mà trăm bông đua nở, nhƣng hoa lan không vì hấp thụ ánh sáng Thái dƣơng mà nở hoa hƣờng hay hoa lý Kẻ chí nhân giúp đời lấy cái tự nhiên mà giúp cái tự nhiên, không dụng cái nhân tạo mà giúp lẽ thiên nhiên bao giờ. Nhƣ anh nông phu kia, muốn giúp lúa cho mau lớn, mà biết dụng lẽ tự nhiên giúp cái tự nhiên thì không bao giờ dụng tâm ép buộc lúa bằng cái sức ngƣời của anh mà anh nên lấy nƣớc tƣới thêm, lấy phân bón thêm, lấy những sức thiên nhiên để bổi bổ thiên nhiên, thời kết quả sẽ khác trƣớc kia, lợi mà không có hại vậy. Thế nên R.M. Pedretti mới nói: “Cái bụng ham làm phải, tạo cho nhân sanh nhiều đều đau khổ hơn hết” 36/92
  37. Tóm lại, giúp, muốn giúp nhân loại một cách tự nhiên, trƣớc hết phải để cho nhân loại tự do, hoặc làm thế sao cho nhân loại đặng chỗ tự do sinh hoá, tức là phải lo giải thoát lấy ta trƣớc đã, rồi ta mới có thể giúp ích cho đời một cách tự nhiên. Xã hội là gì? Là hết thảy cá nhân hợp lại. Vấn đề Xã hội, là vấn đề Cá nhân. Cá nhân sƣớng, Xã hội sƣớng. Cá nhân khổ, Xã hội khổ. Sự tự nhiên sinh hoạt của cá nhân, là sự tự nhiên sinh hoạt của Xã hội vậy. Xua kia, ta lấy Xã hội làm cái cốt cho cá nhân; ngày nay, trái lại, ta phải lấy Cá nhân làm cái cốt cho xã hội Nói thế, không phải bảo Cá nhân đừng tuỳ nhân loại vạn vật (Đừng lầm lộn Nhân loại Vạn vật với Xã hội. Xã hội là của Nhân tạo), cứ đi tách riêng một mình một ngả. Không! Ta phải lấy toàn thể làm cơ bản cho hành vi, tƣ tƣởng rồi cứ do đó mà luân chuyển theo lẽ Biến hoá của Vũ trụ. Nói rằng Xã hội phải chuyển theo Cá nhân, chẳng phải bảo Toàn thể Vũ trụ biến chuyển theo cá nhân. Xã hội đối với cá nhân là một món cụ khí của Cá nhân tạo ra, để mƣu lấy cái sự an ổn về vấn đề vật chất nhƣ ăn, mặc Xã hội lôn luôn vẫn là cái đoàn thể; cái cơ quan của Cá nhân tạo ra. Còn Toàn thể Vũ trụ thì biến hoá luôn luôn, ta do nơi Đó mà ra, nên ta phải do nơi Đó mà luân chuyển, sinh hoạt. Cũng nhƣ Xã hội do nơi Cá nhân mà có, nên phải thuận biến sửa theo cá nhân. Một cái Văn Minh riêng biệt, tất là một cái đoàn thể của một đám cá nhân đồng một trình độ, một phong giáo với nhau. Cho nên, nếu trình độ của cá nhân có tiến lên, thì Xã hội đó cũng phải tiến theo lên. Bởi ta lầm, lấy Xã hội làm gốc, nghĩa là lấy ngoài làm trong, nên mới có những thói câu nệ, chấp nhất, bo bo lo thu góp những lập luật, chế độ phong hoá, luân lý, tạp tục cũ rích của một Xã hội đã quá thời rồi, làm cái quy tắc tuyệt đối, hạn chế cá nhân. Cũng chẳng khác nào, tên thợ kia, lấy mình làm nô lệ cho cụ khí của mình đã tạo ra, quên rằng mình tạo ra cụ khí ấy chẳng qua để giúp cho tiện việc mình làm. Nếu công việc gặp phải buổi đồi hồi khác mà ta cứ bo bo giữ cái cụ khí cũ kia hoài thì ngông cuồng lắm! Cá nhân, tạo ra Xã hội, tức là để làm món lợi khí, một cơ quan để mƣu đồ hạnh phúc chung về nỗi sinh nhai vật chất của mình Bởi vậy Xã hội phải thuận biến theo Cá nhân, còn Cá nhân phải thuận biến theo Toàn thể Vũ trụ. Trong một khúc Hợp tấu nhạc, tuy cá nhân có quyền tự do độc tấu đủ cách điệu sở trƣờng của mình, song miễn biết thuận biến theo cái phong vận của Toàn thể, thì đã không hại đến cái Hoà khí chung mà lại càng thêm hay thêm ngộ Trong một khóm đờn ấy, không ai có quyền phạm đến cách điệu tự do của ngƣời khác. Phải kinh lấy cái Cá tính của mỗi ngƣời (ta chớ lầm Cá tính đây với tƣ ngã) (Cá tính tất là cái tự do sinh hoá của Bản tính riêng 37/92
  38. của mỗi ngƣời, còn Bản ngã thì làm chi cũng theo Tƣ Ý không sá kể gì đến Toàn thể. Hai lẽ ấy khác nhau rất xa Học giả chớ nên lầm lộn. Nhiều kẻ thanh niên vì quá cảm kích cái chủ nghĩa tự do sinh hoạt của cá nhân, mà thành ra sai lầm với chủ nghĩa chánh của Đạo. Vì không hiểu đến chỗ cùng tột của lý Thiên hình và Nhất Quán, nên mới dụng tâm sống chỗ Tự Do của cá nhân không quan thiết gì đến Toàn thể cả Đó là cái nạn thiên lệch của phần nhiều học giả vậy) nhƣng ta chớ quên để mắt xem đến Toàn thể luôn luôn(Xem mục Tình và Lý trong quyển Toàn Chân Pháp Luận của Tác giả) Tuy nhiên ta nên biết rằng, thời bây giờ là buổi phong trào cải cách rất sôi nổi, nam nữ thanh niên, rất phản đối những cổ lệ ông bà, những khuôn khổ eo hẹp của tiền nhân về mặt luân lý quyết đập phá cả nền tảng xƣa kia Đó, là cái phản động lực của một sự bị tàn phế rất lâu đời, thật đáng khen, nhƣng tiếc thay, họ chỉ có phá cái khuôn khổ này, để tạo khuôn khác mới hơn, rồi giam lấy mình vào nhƣ cũ, tự lƣợng hô hào cổ động gọi đó là Tấn hoá. Lầm lạc lắm! Theo họ, cái chi mới, mà cũng là do nơi mình tạo ra, là họ hoan nghinh, rồi tự ban cho cái tên đẹp đẽ phờ phỉnh ấy. Đem cái lồng nầy thế cho cái lồng kia, con thú bị nhốt ở trong, có thể nào gọi mình đƣợc tấn hoá chăng? Cái khuôn mới nầy, chƣa ắt là hay hơn cái khuôn cũ kia mà vội bỏ, trƣớc khi ta có cái sức sống một mình, không ỷ lại Thế nào thì thế, hễ là khuôn thì khuôn nào cũng khuôn Chủ nghĩa đây, là đem tinh thần ta để di dƣỡng trong chỗ vô cùng đặng biểu lộ cái bản tính thiên nhiên của ta. Ta chớ lầm những cuộc cách mạng bông lông của bọn thanh niên bây giờ với sự giải thoát của bực Chân Nhân vậy. ~o~o~o~o~o~o~o~ K. THẦN THÔNG ĐẠO PHÁP Quan niệm Thần Quyền là quan niệm của Bản ngã. Bản ngã đã tạo ra cái thuyết Thần Quyền, tất nhiên phải tạo ra cái thuyết Trƣờng Sinh của Linh Hồn cho rằng xác thịt mất đặng .chớ Linh Hồn sống hoài, không bao giờ mất Cái nỗi lo ngại về sự Sanh Tử là cái lẽ tự nhiên của kẻ đứng riêng một mình trong Vũ trụ, cho nên thƣờng có ý sợ cho tánh mạng mình. Bởi muốn cho cái Ta đừng mất, bản ngã phải dụng tâm tích trữ thâu đoạt cho mình, để bồi bổ mình thêm, không cho tan mất . 38/92
  39. Vì lẽ ấy, Bản ngã mới tạo ra cái thuyết Thần bí luyện đơn, cốt để sống cho lâu, diên thọ lấy cái Ta để sau khi chết, đƣợc luân chuyển, sinh hoạt trên những cõi tinh linh, thần trí Thế nào thì thế, cái Ta cũng vẫn là cái Ta, tự nhiên một ngày kia cũng tan mất. Hế hữu sanh, hữu miệt, đó là cái luật tự nhiên. Bởi cho mình là riêng biệt với Vạn Vật, ta mới có thể sanh ra cái ý tích trữ thâu đoạt đƣợc, chớ không dè đâu thuộc về cõi sắc tƣớng của Đạo. Hễ thuộc về sắc tƣớng thì phải có Thỉ, có Chung, có Sanh, có Tử. Ý muốn thâu trữ đã là một việc lầm, lại là đều tham (Có kẻ sẽ nói: “Nếu gọi rằng Huyền diệu phép tắc là không đúng Chân lý, sao có nhiều bực tu hành rất thần thông quảng đại. Nhƣ vậy thì Phép tắc huyền vi là có thật ” Lẽ ấy thật có, không cãi chối gì cả. Nhƣng ta phải biết rằng: trong cõi đời vật chất này những bực bác sĩ dụng tâm chế tạo ra biết bao nhiêu huyền phép, mƣợn vật chất cõi này làm tài liệu; thì cõi trên cũng một thế. Dầu cõi trên là cao hơn cõi dƣới bực nào, nhƣng cũng thuộc về cõi sắc tƣớng. Hễ còn cho mình là riêng với Vạn Vật thì dầu có thâu của thiêng liêng hay của vật chất, cũng đều lầm. Bởi còn phân biệt nhĩ ngã, mình và vạn vật; cho nên mới gọi rằng Thần bí luyện đơn khoa học là cái học của Bản ngã để thâu Vạn Vật làm tay sai mình). Dẫu tham cách nào cũng tham. Tham về vật chất, hay tham về tinh thần cũng một thế. Tham tiền kẽm, tiền đồng, hay tiền vàng, tiền bạc, lòng tham cũng nhƣ nhau. Có thể nào ta gọi kẻ tham tiền của thiêng liêng là cao thƣợng đạo đức hơn kẻ tham của vật chất chăng (Cõi thiêng liêng đối với cõi vât chất này chẳng qua nhƣ tiền vàng đối với tiền kẽm. Dầu thƣợng giới hay hạ giới cũng đồng một cõi sác tƣớng, cũng nhƣ vàng, kẽm vẫn đồng là một loại kim. Khác nhau, chỉ khác chỗ tinh, thô mà thôi vậy) Chẳng qua là những tiếng của Bản ngã bày ra, để phờ phỉnh ngƣời và gạt lấy cái lòng tham ẩn của mình. Cũng là mình tạo ra, rồi đem mà phong cho mình. Con ngƣời, phần nhiều hễ học Đạo thì thƣờng để ý vào chỗ luyện đơn luyện phép để đoạt cái thần thông quảng đại đặng là chủ Vạn Vật Kẻ suốt đời cứ để ý vào một việc tích trữ của cải thế gian để làm của riêng, cái tham của họ còn kém cái lòng tham của kẻ muốn thâu tạo hoá làm của riêng Lẽ ấy do nơi chỗ lầm của Bản ngã tƣởng mình là riêng với Vũ trụ. Cái Ta, muốn cho thêm sức mạnh đặng sống hoài, sống mãi mới tìm tâm thâu đoạt; nhƣng thâu đoạt làm sao cho đặng, vì một ngày kia cái Ta cũng phải tan vào bổn thể (Dầu đoá hoa, hay cành lá, dầu sung mãn bực nào, đến một ngày kia cũng rụng, rồi cái sinh khí cũng trở vào cội cây để nẩy sanh chồi lá khác. Nên ta sống trong cái sống tƣ của nhành lá 39/92
  40. của đóa hoa thì tự nhiên phải vất vả lo sợ cho vận mạng mình. Chớ nếu ta sống trong cái Sống của Toàn thể của cái cây, thì còn có gì phải lo bận. Thế thƣờng ta thấy ai chứa của cải, nhƣ ruộng, đất, nhà cửa ta cho là làm đều mơ mộng, giỏi lắm thì giữ một đời ngƣời thôi. Nhƣng ngƣời thâu trữ ấy có cho mình là mơ đâu, tuy biết chết là mất, nhƣng cái Ta của họ, lại tao ra cái quan niệm di sản để lại cho con, cháu chẳng qua là một cách để diên thọ cái Ta, nên ai là con cháu đồng tông phái với ta thì đặng ăn của mà thôi. Cái ta xác thịt có mất, thì còn cái Ta gia tộc, cái Ta gia tộc có mất, thì cũng còn cái Ta quốc gia (Có nhiều kẻ dám hi sanh tánh mạng để giữ lấy cái thinh danh của cái Ta quốc gia, nhƣ những nhà Quốc sĩ liều thân vì nƣớc. Họ xả thân chỉ để cứu lấy Hồn quốc gia dầu có thác cũng sẽ đặng truy phong là anh hùng nghĩa sĩ. Còn coi quốc gia riêng với Nhân loại, tức là còn coi Ta riêng với Vạn Vật nghĩa là còn sống trong Bản ngã), dầu có chạy vòng vo đến đâu cũng không thoát khỏi cái Bản ngã. Cái Ta đây, lo lắng cho linh hồn, cũng nhƣ lo cho con, cháu vậy đến sự sống hiện tại của mình mỗi ngày đây cũng quên, không quan thiết gì đến, chỉ ƣu tƣ vất vả cho lúc sau khi chết phải đi đâu, làm gì ? Cho nên hễ học Đạo thì thiên về khoa thần bí (OCCULTISME) cũng nhƣ khoa thần thông đạo pháp (YOGAS) (Xem trang viết về nguyên nhân của sự Thần Thông đạp pháp) Ta biết gọi kẻ mong làm chủ đất, ruộng, nhà cửa, tiền bạc là lầm, còn kẻ luyện phép tắc, ấn quyết thần thông để thi hoạch của cải vật liệu trên những cõi trên đặng làm chủ vạn vật mai sau nầy, sao ta không cho kẻ ấy là lầm? Sao họ chắc rằng những vật thiêng liêng là thật có, còn vật chất đây là mộng ảo? (Cảnh nào cũng thật, đối với lúc sống hiện tại đó. Ta không thể cho rằng cảnh trong mộng là giả, cảnh ta sống ban ngày là thật )thiêng liêng cũng thuộc về cõi sắc tƣớng, thì dầu sao sao cũng là vật chất. Hễ có tụ, phải có tan, có sanh phải có tử nghĩa là hữu hình thì hữu hoại, cho nên, chƣa ắt cõi trên là thật hơn cõi dƣới, vì thảy cũng đều là vật chất Vậy thì, cái ý thu tập là lầm, vì không thể thu đƣợc, cũng nhƣ ta đã thấy xƣa nay, trong lịch sử thế gian hoặc trong những đều ta thấy chung quanh ta hằng ngày Huống chi muốn thu hoạch của thiêng liêng thì cũng chẳng qua làm một việc rỗng không ranh trẻ. Có kẻ sẽ bảo rằng: Tuy thế nào thì thế, lẽ huyền vi phép tắc là có thật. Phải! ai nào dám bảo ta là không! Kìa sự giàu sang, của kẻ thế gian vật chất kia, nhƣ Thạch Sùng 40/92
  41. đời xƣa, hoàng để Nga –la- tƣ ngày nay, còn có thật thay! Thế thì sự tích của thiêng liêng, sao gọi là không thể có cho đặng? Chẳng qua ta muốn chỉ sự lầm lạc của sự tích trữ đó thôi. Tôn giáo thƣờng hay lợi dụng lấy cái nguyện vọng ấy (do nơi Bản ngã) nên bày ra cái thuyết Trƣờng Sinh của linh hồn chẳng qua là một cách vọng mai chỉ khát rất lừa dối, chớ không giải quyết đặng vấn đề Sinh tử. Kẻ tôn thần quyền, luôn luôn có ý tham, nhƣng không dám tự nhận đó thôi. Tham mới tôn trọng thánh, thần; nhƣ kẻ thế gian vì tham Phú, Quý, Tƣớc, Quyền mới tôn ngƣời xa mã Trong cái ý tôn trọng ấy, có ẩn cái ý ham muốn ƣớc ao vậy. Mà hễ có ý tôn cái nầy, thì tất có ý khi cái kia Cái sự Tôn trọng luôn luôn đi cặp với sự Khinh khi (Xem bài Cây Bách thọ sau chƣơng Phụ lục) Kẻ siêu nhiên thánh trí không tôn ai, nên không khinh ai, (nhƣ ta đã thấy nơi chƣơng Cá nhân và Toàn thể). Bởi không phân nhĩ ngã, nên không phân giai cấp, biết rằng dẫu có đứng vào vị trí nào, cũng có cái nghĩa tôn trọng đối với Toàn thể. Thế nê, dầu nhỏ bực nào họ cũng không xem là thƣờng, mà lớn bao nhiêu họ cũng không cho là trọng. Không lấy mình làm riêng với Vũ trụ (Tỉ nhƣ trong một cái cây, họ không sống trong cái lá, hay đoá hoa. Họ sống trong cái Sống Chung của Toàn bộ. Nên, là cỏ khô thì cứ rụng sự sống cũng rút vào cây mà nảy sinh chồi lá khác) nên không lo thâu trữ chi chi, cũng chẳng cần đến huyền vi phép tắc, quảng đại thần thông làm gì, vì họ không còn sống trong tƣ tâm nữa họ là Đạo, họ là sự Sống Chung của Vũ trụ Dẫu mất đây là sống đó, mờ đây là tỏ đó nên không vì lẽ sống thác mà lo ngại. Họ chỉ để ý có một đều là hoà hợp với Đại Toàn Thể, để làm một cùng Vạn Vật. Đó là cái phản bổn hoàn nguyên, nghĩa là trở lại sống trong cái Tâm, linh hoạt đồng cùng Đạo trong chỗ trầm tĩnh vô vi, cứ chỉ lo trong lúc hiện tại sống đây, làm sao cho hành vi lúc nào cũng hiệp hoà với Đạo, thuận biến theo Toàn thể, nghĩa là không cho một mảy tƣ tâm dính vào, để biểu lộ cái Chân Tính một cách tự nhiên không gì bó buộc . ~o~o~o~o~o~o~o~ 41/92
  42. QUYỂN TAM CHƢƠNG THỨ NHẤT CHỖ PHÂN BIỆT HÀNH VI BẢN NGÃ VÀ CHÂN TÍNH Đạo, luân chuyển vô cùng. Tâm con ngƣời là Đạo, cũng luân chuyển hành động luôn luôn, không bao giờ ngƣng đặng. Ta chớ quên lẽ ấy mà cho rằng Vô Vi là không làm gì hết. Vạn vật tự hột nguyên tố đến những ngôi tinh tú, không phút nào không động Sự Động Chuyển là cái luật chung của vũ trụ. Bây giờ ta phải làm thế nào để phân biệt, trong những hành động hằng ngày của ta, cái nào là hợp Đạo, cái nào là sái Đạo? Trƣớc hết, ta phải biết rằng, hành vi của Đạo thì Vô Vi, nghĩa là làm là vô tƣ ý không vì tôn chỉ, hoặc để mƣu cầu kết quả chi. Cho nên, khi nào trong hành động ta, ta trừ tuyệt không còn lẫn một điểm tƣ tâm, thì cái Đạo nơi ta sẽ đƣợc giải thoát mà phát lộ ra Ấy gọi là đƣợc nhập lý với Đạo vậy! Cái Đạo nơi ta, bị Bản ngã bao, cũng nhƣ gà con bị nhốt trong vỏ của nó, nếu không lấy mỏ mà khẻ cho bể tan cái vở ấy đi, thì không sao ra đƣợc mà sinh hoạt tự do theo bản tính của nó đặng. Cho nên, diệt Bản ngã thì Chân tính của ta mới hiển lộ ra đặng mà sống cái sống tự nhiên của nó. Khi ấy ta gọi là đƣợc đắc Đạo vậy. Lý là vậy, song le, diệt Bản ngã không phải là đều dễ, vì nó rất không lanh xảo quyệt lặn mọc một cách rất khôn khéo, nếu ta không lấy con mắt vô tƣ mà xem xét thì không thể nào gỡ mặt nạ nó cho đặng. Nó thƣờng ẩn núp theo những hành động ta gọi là cao thƣợng nhƣ Từ Bi, Bác Ái, Tế độ quần sinh cho nên con ngƣời hay lầm mà sùng bái, đừng nói chi đến sự không dè mà bỏ qua. Hành động kẻ Vô ngã và Hữu ngã thƣờng lại giống nhau; vậy muốn phân biệt phải làm thế nào? (Có kẻ sẽ nói: “Dễ! miễn trong mỗi hành động, phải đừng cho ích kỷ nghĩa là phải vô tƣ lợi là Đạo vậy” Phải coi chừng kẻo lầm! Hành động ta, bao giờ ta chịu là ích kỷ. Có kẻ thật rất nhiệt thành, hết sức diệt cái tƣ lợi vật chất, nhƣng cũng không tránh khỏi cái tƣ lợi tinh thần Còn có ráng hết sức mình mà diệt cái tƣ lợi tinh thần nữa, thì lại sa vào cái tƣ ý, “ao ƣớc một kết quả chi chi” không phải dễ dúng gì. Đến bực giàu lòng Nhân loại, yêu thƣơng vạn vật kia, mà còn không khỏi chỗ tƣ tâm biệt phân Nhĩ ngã thay Học giả chớ vội phán đoán, vội tƣởng minh hiểu Đạo rất mau rất dễ nhƣ thế ) 42/92
  43. Ta hãy lấy mặt trời và mặt trăng làm thí dụ cho dễ hiểu. Ta tạm cho ánh sáng là hành vi của hai vật ấy: một cái thì do nơi mình phát phóng ra; một cái thì do nơi chỗ hƣởng ứng mà có ra. Cho nên, cái trƣớc thì do nơi chỗ sung bị của mình mà chiếu ra, cái sau do nơi chỗ mình nhờ của ngoài mà phản xạ. Một cái thì không tùng cái chi, nghĩa là tự bản tự căn, một cái thì nhận ánh sáng của vật khác để chói, nghĩa là còn phải ỷ lại vào một ngoại vật nào để chuyển. Tóm lại, muốn phân biệt hai lẽ hành động ấy, hãy nhớ một điều này: Hành động vô ngã thì Vô Vi, nghĩa là tự động chớ không phải vì hƣởng ứng. Bản ngã của ta là một cái phản quang thể, hành vi lúc nào cũng vị một tôn chỉ hay kết quả chi mới làm. Trong đời ta, hành động hằng ngày luôn luôn vì hƣởng mà ững. Ngƣời nào, không thể làm động ta, ta không hƣởng đƣợc, nghĩa là không cảm đƣợc, thì ta không ứng, tức là không thƣơng lại. Đến khi ta giải thoát lấy tƣ tâm rồi, thì sự thƣơng cùng những hành động ta sẽ đổi hẳn. Cũng thƣơng, nhƣng không mắc lấy sự thƣơng nữa ( Sự không bị mắc đây, chẳng phải vì ta cắt đứt cái dây liên ái buộc ta cùng ngƣời ta yêu, cho nên thƣơng mà không bận. Trái lại, không mắc đây là vì ta không còn Tƣ tâm nữa. Ta là ngƣời ta yêu, ngƣời Yêu của ta là Ta. Dầu ngƣời mà ta yêu có không yêu lại ta, cũng không cảm xúc ta đặng , vì ta là ngƣời ấy, ngƣời ấy là ta. Học giả chớ lầm rằng muốn thƣơng mà không bận, không mắc là phải từ bỏ. Từ bỏ là còn phân Nhĩ ngã nữa thì làm sao từ bỏ cho đặng –Xem bài Chí Nhân, nơi chƣơng Phụ lục). Sự thƣơng ấy cũng nhƣ mùi hƣơng của đóa hoa, nó cứ phảng phất ra hoài không vì ai mà nở, cũng không nhớ ai mà nở. Nó cũng nhƣ một luồng Sinh Khí tự nơi trong mình phát triển ra, có thể sánh với một cái đèn dọi, sọi sáng mọi vật chung quanh, làm cho đẹp đẽ vinh quang thêm, nhƣng sự sáng ấy không phải nhờ đâu mà có, hoặc vì có mọi vật chung quanh mới chiếu. Nó tự nhiên chói sáng; bất kỳ vật nào ở theo làn sáng đó thì đƣợc hƣởng. Hành vi kẻ tƣ ngã, chỉ do nơi chỗ cảm ứng với ngoại vật, cũng nhƣ mặt nguyệt, nếu không có mặt nhựt thì không thể tự mình sáng chói nữa đặng. Kẻ tƣ ngã thƣơng, vì muốn ngƣời thƣơng lại, hay là bởi ngƣời đó mến mình? Nếu kẻ ta yêu không thƣơng trả lại ta, ta sẽ thất vọng, và trở lại oán ghét, thƣơng nhƣ thế chẳng phải là thƣơng thật, ấy là ta thƣơng ta mà thôi vậy. Tự động là Sống, bị động là chƣa có Sống. Trí huệ đạo đức của ta cũng thế. Nếu thật là Chân trí huệ thì không do nơi ngoài mà có. Ấy là một cái ánh sáng tự nhiên nơi trong tâm phát sanh ra(Krishnamurti phân biệt hai lẽ trí huệ: 43/92
  44. a. Giả trí huệ: thuộc về Bản ngã; b. Chân trí huệ thuộc về Chân tính. Giả trí huệ là Trí huệ của sách vở mà ta thu thập trong óc Chân trí huệ thì do nơi lòng, cảm đƣợc cái Lý, mà hiểu biết ) Bởi vậy, đều quan trọng nhứt đời ta, là phải làm thế nào biến đổi lần lần những cái hành động phản ứng của tƣ tâm, thành ra hành động Vô Vi. Mỗi hành vi của ta, thuộc về vật chất, tình cảm, hay trí thức phải tự Chân tính phát triển ra, chớ để ngoại vật, cảm kích, sai khiến nữa (Sự giải thoát, tức là diệt Tƣ tâm để biểu lộ Bản tính ra một cách tự nhiên. Bản tính ấy là cái tính thiên nhiên của ta, không bị tập quán, phong tục chế nhiễm, mà Lão tử bảo để thả rong, đừng bó buộc cản thúc. Lúc ta muốn thi hành một sự lợi tƣ ích kỷ đối với kẻ khác, ta phải dụng tâm suy tính, lo nghĩ hằng ngày, hằng tháng, ta còn phải dụng sức cố gắng và quyết định, đem hết trí não mà làm, chớ không phải theo tâm tính tự nhiên. Lại nữa, ta còn phải du dự, lo sợ cân nhắc vì những nỗi phong tục tập quán tiêm nhiễm trong óc ta xƣa nay. Tỉ nhƣ, ta thấy một sự đau đớn thống khổ của con ngƣời, tức thì tâm ta cảm động, mà ta vẫn không dám làm, vì những nỗi nọ đƣờng kia, nào là phong độ gia đình xã hội, nào là dƣ luận chê khen, mà ta có khi buộc phải làm trái với lƣơng tâm. Những hành động ấy không còn là của bản tính ta nữa. Hễ còn dụ dự lo nghĩ, cân nhắc, thì hành động ấy mất vẻ tự nhiên của tâm tính vì ta làm đây là vì lý trí so đo lợi hại, chớ chẳng phải tâm ta thốt nhiên cảm động mà làm ). Ta phải làm làm sao, tự chuyển cái linh khí ấy, cho nó biểu lộ ra và bao trùm mọi vật chung quanh ta. Đem cái hành động, tự bản, tự căn, thay thế vào cái hành động tƣơng quan của Bản ngã; đó là phép giải thoát lấy tƣ tâm một cách tự nhiên. Tóm lại, ngƣời thánh trí làm mà không bận, không mắc vào đâu cả; cũng không phải vì ngƣời yêu mình, hay bởi muốn cho ngƣời mến mình, mà thƣơng. Thƣơng vì thƣơng, nhƣ lửa thì nóng, tuyết thì lạnh Hành vi họ, vào lúc nào cũng không phân Nhĩ ngã, nên không hề khi nào có cân nhắc đến lợi hại Kẻ tƣ tâm làm vì lợi hoặc vì một tôn chỉ chi, cho nên hành vi lúc nào cũng do một cớ ngoài mà hƣởng ứng, hoặc có phóng ra, là để nhận lại, nên chỗ hành động rất bần chật, câu chấp. Bởi chẳng biết biến thông theo hoàn cảnh nên không đặng thản nhiên bình tĩnh. Trong hai cử chỉ ấy, bề ngoài tuy không thấy gì khác biệt, chớ kỳ trung, một đàng thì rất khổ sở, tù túng, một đàng lại rất ung dung hoằng đại. 44/92