Tài chính doanh nghiệp - Chương 1: Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng

pdf 63 trang vanle 2050
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài chính doanh nghiệp - Chương 1: Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdftai_chinh_doanh_nghiep_chuong_1_tong_quan_ve_cac_yeu_to_anh.pdf

Nội dung text: Tài chính doanh nghiệp - Chương 1: Tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng

  1. 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN TỶ SUẤT SINH LỢI CỦA NGÂN HÀNG 1.1 Tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng. Có nhiều định nghĩa và khái niệm về tỷ suất sinh lợi, tỷ suất sinh lợi là khái niệm được sử dụng cho nhiều tình hình khác nhau trong kinh tế học, nói về những khoản tiền thu được so với vốn được sử dụng để sinh ra lãi hay số chi phí đã tiêu hao để sinh ra lãi. Tỷ suất sinh lợi được biểu hiện bằng: Tỷ suất sinh lợi của vốn, tỷ suất sinh lợi của giá thành ; Khả năng sinh lợi là thước đo hiệu quả bằng tiền, khả năng sinh lợi là kết quả của việc sử dụng tập hợp các tài sản vật chất và tài sản tài chính, tức là vốn kinh tế mà doanh nghiệp nắm giữ để tạo ra các khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp; “Tỷ số sinh lợi là chỉ số đo lường thu nhập của công ty với các nhân tố khác tạo ra lợi nhuận như doanh thu, tổng tài sản, vốn cổ phần” (Trần Trọng Thơ, 2007, 128). Từ những nội dung trên tác giả đúc kết tỷ suất sinh lợi của ngân hàng là: khoản lãi thu được so với vốn được sử dụng để sinh ra khoản lãi đó hay chi phí đã tiêu hao để sinh ra khoản lãi đó. Tỷ suất sinh lợi của ngân hàng được biểu hiện bằng: tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản, tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên 1.2 Các chỉ tiêu đo lƣờng tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA ROA = Lợi nhuận ròng /Tổng tài sản bình quân ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của ngân hàng. ROA là một thông số chủ yếu về tính hiệu quả quản lý, nó chỉ ra khả năng của hội đồng quản trị ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của ngân hàng. Hiệu
  2. 2 quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA, ROA càng cao thì càng tốt vì ngân hàng đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn. Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu ROE ROE = Lợi nhuận ròng /Vốn cổ chủ sở hữu bình quân ROE đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông ngân hàng, nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Các ngân hàng có xu hướng sử dụng đòn bẩy cao, do đó họ thường đạt ROE cao nhưng ROA thấp. ROE cũng có thể tính bằng cách nhân ROA với tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu. Cả hai tỷ số ROA và ROE đều là tiêu chí quan trọng đối với cơ quan quản lý, các ngân hàng và các nhà đầu tư trong việc đưa ra các quyết định chiến lược trong quản lý và đầu tư phù hợp. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên NIM NIM = Thu nhập lãi thuần /Tài sản sinh lãi Tài sản sinh lãi = Tiền gửi tại NHNN + Tiền gửi lại các TCTC khác + Chứng khoán đầu tư + Cho vay khách hàng Tỷ lệ lãi cận biên (Net Interest Margin - NIM) được xác định bằng tổng doanh thu từ lãi trừ tổng chi phí trả lãi (thu nhập lãi thuần) trên tổng tài sản có sinh lời bình quân. Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Tỷ lệ này chỉ ra
  3. 3 năng lực của hội đồng quản trị và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu so với mức tăng chi phí. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên NNIM NNIM = (Thu nhập ngoài lãi – Chi phí ngoài lãi) /Tài sản sinh lãi Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, và chi phí tổn thất tín dụng). Giống như tất cả các chỉ số tài chính khác, mỗi tỷ lệ đo lường khả năng sinh lợi được sử dụng trong từng trường hợp khác nhau. Để xác định các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng đa số các tác giả nước ngoài cũng như trong nước thường đo lường bằng hai chỉ tiêu là lợi nhuận ròng trên tổng tài sản bình quân (ROA) và lợi nhuận ròng trên tổng vốn chủ sở hữu bình quân (ROE) vì ưu điểm của chỉ số ROA và ROE là tương đối đơn giản, dễ tính toán và mang tính tổng quát cao so với các chỉ số khác. Trong bài luận văn này tác giả sẽ lấy hai chỉ số ROA và ROE để làm biến phụ thuộc đại diện cho tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. 1.3 Các yếu tố ảnh hƣởng đến tỷ suất sinh lợi Tỷ suất sinh lợi của ngân hàng thường được đo bằng lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE), chúng bị tác động bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố tác động bên trong bao gồm các biến đặc thù của từng ngân hàng như quy mô ngân hàng, vốn của ngân hàng, dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, rủi ro tín dụng Các biến bên ngoài bao gồm các biến vĩ mô của môi trường kinh tế sẽ tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng như: tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, thuế, tỷ giá 1.3.1 Các yếu tố bên trong
  4. 4 1.3.1.1 Quy mô ngân hàng Quy mô ngân hàng được thể hiện thông qua tổng tài sản hoặc tổng nguồn vốn của ngân hàng. Quy mô ngân hàng là một yếu tố nội tại quyết định tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Bởi vì trên thực tế các ngân hàng luôn cố gắng mở rộng kinh doanh của mình bằng cách tăng tổng tài sản và nguồn vốn. Các ngân hàng lớn có thể đạt được lợi thế quy mô từ đó làm gia tăng lợi nhuận, với lợi thế về quy mô, nổi tiếng nên các ngân hàng quy mô lớn dễ tiếp cận và huy động vốn, dễ phát hành các chứng khoán hơn. Mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lợi của ngân hàng là kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Anper và Anbar (2011). Mặt khác, tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng lại có quan hệ ngược chiều với khả năng đa dạng hóa. Các ngân hàng tận dụng lợi thế của đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng, nhưng nó cũng có thể làm giảm tỷ suất lợi nhuận, quy mô lớn cũng kéo theo chi phí vận hành và các chi phí khác cao hơn. Theo Eichengreen và Gibson (2001) đề xuất rằng sự gia tăng quy mô vốn chỉ tác động cùng chiều lên lợi nhuận đến một mức độ nhất định nào đó. 1.3.1.2 Quy mô vốn chủ sở hữu Theo Short (1979) thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu hay tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của một ngân hàng gắn liền với quy mô của nó bởi vì các ngân hàng lớn có xu hướng tạo ra tỷ suất sinh lợi cao hơn so với ngân hàng nhỏ dựa vào khả năng huy động vốn ít tốn kém hơn. Thực tế cho thấy các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao, quản trị vốn tốt, duy trì sự thận trọng trong danh mục cho vay có thể cải thiện tỷ suất sinh lợi. Tỷ số này quá cao cũng cho thấy ngân hàng chưa sử dụng tốt đòn bẩy tài chính. Bài nghiên cứu của Sharma và Gounder (2012) cho rằng mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và tỷ suất sinh lợi là không thể dự đoán được. 1.3.1.3 Tiền gửi khách hàng
  5. 5 Đặc thù của các ngân hàng là sử dụng đòn bẩy tài chính cao, và chức năng chính của ngân hàng là trung gian tài chính đóng vai trò luân chuyển nguồn vốn từ nơi dư thừa vốn đến nơi thiếu nguồn vốn, vì thế nguồn vốn huy động đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Ponce (2012) cho rằng sự gia tăng tiền gửi của khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng chủ động trong việc tìm kiếm nguồn vốn đầu vào cho ngân hàng từ đó có thể gia tăng dư nợ và đầu tư vào các kênh khác nhau làm gia tăng tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. 1.3.1.4 Dƣ nợ tín dụng Dư nợ tín dụng cao rõ ràng lợi nhuận thu về từ việc cho vay sẽ cao hơn nếu kiểm soát rủi ro tín dụng tốt. Sufian và Habibullah (2009) đã nghiên cứu thực nghiệm tại các ngân hàng của Bangladesh và đã cho thấy rằng mối quan hệ cùng chiều giữa việc gia tăng dư nợ tín dụng và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Bangladesh. Nghiên cứu còn cho thấy việc gia tăng dư nợ còn có các tác động tích cực khác là chiếm lĩnh thị phần, gia tăng sự nhận biết của khách hàng về ngân hàng. Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thì việc gia tăng thị phần phải đi đôi với việc quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả. 1.3.1.5 Rủi ro tín dụng Hầu hết các nghiên cứu trước đây đều cho rằng rủi ro tín dụng là một trong những biến số quan trọng trong việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Điển hình là nghiên cứu của Athanasoglou và các cộng sự (2005) đã cho thấy rằng sự thay đổi của biến rủi ro tín dụng là lý do chính trong việc giải thích các biến động trong tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, tỷ suất sinh lợi của ngân hàng sẽ giảm khi rủi ro tín dụng tăng lên. Davydenko (2011) cũng cho thấy tỷ suất sinh lợi của ngân hàng có mối quan hệ nghịch biến với rủi ro tín dụng. Mối quan hệ nghịch biến phản ánh điều đó khi danh mục cho vay của các ngân hàng trở nên rủi ro, các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn làm cho lợi
  6. 6 nhuận giảm ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Các ngân hàng có các khoản vay có rủi ro tín dụng thấp thì tỷ suất sinh lợi sẽ cao hơn. 1.3.2 Các yêu tố bên ngoài 1.3.2.1 Tỷ lệ tăng trƣởng GDP hàng năm Có khá nhiều nghiên cứu kiểm định mức độ ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng GDP lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm cao sẽ có tác động tích cực đến hoạt động của ngành ngân hàng. Nghiên cứu của Athanasoglou và các cộng sự (2005) cho thấy chu kỳ kinh tế có tác động cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngành ngân hàng tại Hy Lạp tức là nếu tốc độ tăng trưởng GDP dương qua các năm thì sẽ tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, khi tốc độ tăng trưởng GDP giảm xuống và thậm chí là âm thì chất lượng các khoản tín dụng của ngân hàng sẽ giảm, do đó làm giảm tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. 1.3.2.2 Tỷ lệ lạm phát Tác động của các yếu tố môi trường kinh tế vi mô lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng đã được nghiên cứu khá rộng rãi và trong đó tỷ lệ lạm phát là yếu tố tiêu biểu. Nghiên cứu của Perry (1992) cho rằng tác động của lạm phát lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng thông qua mối liên hệ giữa tốc độ tăng của tiền lương và các chi phí hoạt động với tỷ lệ lạm phát. Khả năng quản lý hiệu quả chi phí hoạt động của các ngân hàng phụ thuộc vào khả năng dự báo lạm phát trong tương lai, mà mức độ dự báo này phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của môi trường kinh tế vĩ mô. Trong trường hợp các nhà quản lý có thể dự báo một mức lạm phát kì vọng tương đối chính xác, ngân hàng cần điều chỉnh mức lãi suất một các hợp lý để tăng doanh thu nhanh hơn chi phí. 1.3.2.3 Lãi suất cho vay
  7. 7 Lãi suất cho vay là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của ngân hàng. Một mức lãi suất cho vay phù hợp sẽ vừa kích thích nhu cầu vay của khách hàng vừa mang lại lợi nhuận hợp lý cho ngân hàng. Nếu lãi suất cho vay quá cao sẽ gây bất lợi cho khách hàng và cả nền kinh vì thế lãi suất cho vay cũng là một trong những biến có tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Theo nghiên cứu của Obamuyi (2013) thì lãi suất cho vay tác động tích cực đến lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Nigeria. 1.3.3 Các yếu tố khác 1.3.3.1 Hình thức sở hữu ngân hàng Hình thức sở hữu ngân hàng là chủ thể nắm quyền sở hữu và điều hành của ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân. Nghiên cứu của Short (1979) cho thấy một mối quan hệ nghịch chiều giữa tỷ suất sinh lợi của ngân hàng và quyền sở hữu của Nhà nước đối với các ngân hàng. Bourke (1989) đã thử nghiệm tác động của yếu tố sở hữu Nhà nước lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng bằng cách sử dụng một biến nhị phân đại diện cho quyền sở hữu của Nhà nước, kết quả cho thấy mối quan hệ ngược chiều với nhau. Kết quả cũng cho thấy rằng chi phí quản lý nhân viên trong nhóm các ngân hàng quốc doanh là không hiệu quả và năng suất lao động của các ngân hàng tư nhân là cao hơn so với các ngân hàng thuộc sở hữu của Nhà nước. 1.3.3.2 Mức độ tập trung của thị trƣờng ngành ngân hàng Theo giả thiết cấu trúc – vận hành - hiệu quả (Structure- Conduct- Performance) thì các ngân hàng có thể tận dụng sức mạnh thị trường của mình để kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Vì có lợi thế về sức mạnh trong thị trường nên các ngân hàng này có thể tăng lãi suất cho vay giảm lãi suất huy động từ đó làm tăng lợi nhuận lên. Nghiên cứu của Bourke (1989) cho rằng mức độ tập trung trong lĩnh vực ngân hàng có quan hệ cùng chiều với tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Các ngân hàng có thể liên kết với nhau tạo ra lợi ích nhóm, lợi ích nhóm có thể gây hại cho khách hàng và các đối thủ cạnh tranh khác khó có thể tham gia vào thị trường hơn.
  8. 8 1.4 Sự cần thiết nghiên cứu tác động của các yếu tố đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng Việc nghiên cứu tác động của các yếu tố lên tỷ suất sinh lợi của ngân hàng là cần thiết để có thể nâng cao tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, thông qua việc nghiên cứu chúng ta có thể thấy được đâu là nhân tố tác động tích cực, đâu là nhân tố tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Từ đó có thể giúp cho các nhà quản trị đưa ra các chính sách phù hợp giúp ngân hàng phát huy tốt các nhân tố tác động tích cực hay khắc phục, loại bỏ các nhân tố tiêu cực tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Đối với các nhà đầu tư việc nghiên cứu góp phần cung cấp sự hiểu biết sâu hơn về các nhân tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng và là căn cứ để ra quyết định đầu tư đúng đắn. Đối với các nhà hoạch định chính sách việc biết được các nhân tố tác động sẽ giúp cho việc ban hành các quy định và chính sách phù hợp hơn phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ của đất nước chúng ta. 1.5 Các nghiên cứu trƣớc đây về tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng 1.5.1 Các nghiên cứu nƣớc ngoài Nối tiếp theo bài nghiên cứu đầu tiên của Short (1979), một số nghiên cứu gần đây cố gắng xác định một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi thông qua lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE). Các nghiên cứu thực nghiệm tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng của từng quốc gia như Athanasoglou và các cộng sự (2005), Rajesh và Sakshi (2009), Andreas và Gabrielle (2010), Ramlall (2009), Sufian (2010), Davydenko (2011), Sufian (2011), Riaz (2011), Alper và Anbar (2011), Ponce (2012) Các kết quả thực nghiệm của các nghiên cứu trên khác nhau về bộ dữ liệu, khoảng thời gian, môi trường kinh tế và các chỉ số vĩ mô ở các quốc gia này đều khác nhau tuy nhiên chúng ta có thể rút ra một số yếu tố chung chấp nhận được tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng.
  9. 9 Tỷ suất sinh lợi của ngân hàng thường được đo bằng lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE) và chúng bị tác động bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố tác động bên trong bao gồm các biến đặc thù của từng ngân hàng như quy mô ngân hàng, vốn của ngân hàng, dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, rủi ro tín dụng, chi phí Các biến bên ngoài bao gồm các biến vĩ mô của môi trường kinh tế sẽ tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng như: tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, thuế, tỷ giá Athanasoglou và các cộng sự (2005) nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng ở Hi Lạp trong khoảng thời gian từ 1985 đến 2001, sử dụng phương pháp ước lượng GMM (Generalized Method of Moments). Kết quả cho thấy rằng quy mô vốn ngân hàng, kinh nghiệm quản lý điều hành, lạm phát, chu kỳ kinh tế (business cycle) có tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, trong khi đó rủi ro tín dụng và chi phí quản lý lại có tác động tiêu cực đối với tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Hi Lạp. Rajesh và Sakshi (2009) đã nghiên cứu các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước, tư nhân và nước ngoài tại Ấn Độ trong giai đoạn 2001 đến 2007. Sau khi phân tính hồi quy tác giả đưa ra kết luận là thu nhập bình quân đầu người, chỉ số sản xuất công nghiệp, chỉ số giá bán buôn, xuất khẩu và tỷ giá hối đoái có tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Ấn Độ. Trong khi đó tiền gửi, quy mô ngân hàng không tác động đến tỷ suất sinh lợi các ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước và có tác động tích cực đến các ngân hàng tư nhân và các ngân hàng nước ngoài tại Ấn Độ. Andreas và Gabrielle (2010) nghiên cứu các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của 453 ngân hàng tại Thụy Sĩ trong khoảng thời gian năm 1999 đến 2006. Nghiên cứu cho thấy rằng ngân hàng có vốn lớn hơn và tỷ lệ tăng trưởng dư nợ tín dụng nhanh hơn tỷ lệ tăng trưởng tín dụng chung của ngành sẽ có ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Độ tuổi (bank age) của ngân hàng thì không có ảnh hưởng gì đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng tuy nhiên yếu tố vùng miền
  10. 10 (region) và quyền sở hữu ngân hàng (bank ownership) lại có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Các ngân hàng ở Geneva có tỷ suất sinh lợi cao hơn các ngân hàng ở Zurich. Các ngân hàng của Thụy Sĩ và các ngân hàng tư nhân có tỷ suất sinh lợi cao hơn so với các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng do nhà nước sở hữu. Nghiên cứu còn cho thấy tỷ lệ tăng trưởng GPD có tác động rất tích cực tới tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng trong khi đó thuế thu nhập doanh nghiệp và mức độ tập trung của thị trường ngân hàng (bank concentration) có tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Thụy Sĩ. (Mức độ tập trung của thị trường được đo lường bằng tổng tài sản của 3 ngân hàng lớn nhất/ tổng tài sản toàn ngành ngân hàng) Ramlall (2009) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng Đài Loan dựa trên các biến độc lập là các yếu tố nội tại của ngân hàng và các yếu tố vĩ mô, dữ liệu được thu thập theo quý trong khoảng thời gian 2002 đến 2007. Kết quả cho thấy rằng vốn của ngân hàng ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi. Tuy nhiên rủi ro tín dụng có tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, nghiên cứu cho thấy 1% tăng lên của rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến giảm 94% tỷ suất sinh lợi. Điều này có thể thấy được khi gia tăng về rủi ro tín dụng thì nó sẽ làm giảm lợi nhuận từ đó làm giảm tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Một giải pháp được thực hiện bởi ngân hàng Trung ương của Đài Loan là thiết lập chính sách phù hợp để kiểm soát rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng của Đài Loan. Sufian (2010) tìm thấy các yếu tố bên trong và bên ngoài ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi (ROA và ROE) tại các ngân hàng của Thái Lan trong giai đoạn 1999 đến 2005. Sau khi phân tích hồi quy tác giả kết luận rằng: quy mô ngân hàng, vốn chủ sở hữu của ngân hàng có quan hệ tương quan thuận với tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Trong khi đó thu nhập ngoài lãi (non interest income) và chi phí chung (overhead cost) có quan hệ tương quan nghịch với tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, riêng yếu tố tỷ lệ nợ xấu có quan hệ tương quan nghịch với ROA và tương quan thuận với ROE. Có mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ suất sinh lợi với tốc độ tăng
  11. 11 trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát tại các ngân hàng ở Thái Lan tuy nhiên tỷ suất sinh lợi lại có quan hệ ngược chiều với GDP trên đầu người. Davydenko (2011) nghiên cứu về tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng ở Ukraina. Davydenko sử dụng dữ liệu bảng trong khoảng thời gian từ 2005 đến 2009. Kết quả cho thấy, các ngân hàng bị một cú sốc lớn đánh vào chất lượng các khoản cho vay đã làm cho các ngân hàng ở Ukraina không có khả năng tái tạo lại lợi nhuận của họ dựa trên sự tăng trưởng lượng tiền gửi. Thế nên các biến rủi ro tín dụng, thanh khoản, tiền gửi, lạm phát và biến giả (dummy) ngân hàng nước ngoài tất cả đều có ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Không chỉ có các tác động tiêu cực, ông còn phát hiện ra những tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Ukraina đó là vốn, quy mô, tỷ giá và mức độ tập trung trung của thị trường ngân hàng. Sufian (2011) đã nghiên cứu thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng Hàn Quốc trong suốt giai đoạn 1992 đến 2003 ông ấy đã tìm ra được các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng của Hàn Quốc. Tính thanh khoản và các yếu tố vĩ mô đặc biệt là lạm phát có tác động đáng kể tới tỷ suất sinh lợi của ngân hàng, rủi ro tín dụng và chi phí tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi. Ngoài ra quan sát của tác giả thấy rằng các yếu tố trên ảnh hưởng mạnh đến tỷ suất sinh lợi trước giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Alper và Anbar (2011) đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của 10 ngân hàng thương mại tại Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2010. Họ đã đi đến kết luận quy mô ngân hàng có ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi, ngân hàng có quy mô càng lớn thì tỷ suất sinh lợi càng cao. Các biến còn lại như: thanh khoản, tiền gửi, tỷ lệ an toàn vốn và thu nhập lãi thuần không tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Tuy nhiên, biến dư nợ tín dụng và các khoản vay dưới chuẩn tác động tiêu cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi đó các biến vĩ mô là tỷ lệ tăng trưởng GDP và lạm phát ảnh hưởng tích cực nhưng rất ít đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng
  12. 12 tại Thổ Nhĩ Kỳ. Một nghiên cứu khác về hiệu quả hoạt động các ngân hàng của Thổ Nhĩ Kỳ đề xuất rằng ngân hàng nên có quy mô vừa phải sẽ có hiệu quả hoạt động cũng như tỷ suất sinh lợi tốt hơn so với ngân hàng có quy mô lớn tại Thổ Nhĩ Kỳ Aysan và Ceyhan (2007). Riaz (2011) nghiên cứu các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của 32 ngân hàng tại Pakistan trong giai đoạn 2006 đến 2010. Bài nghiên cứu sử dụng các biến độc lập kích thước ngân hàng, rủi ro tín dụng, tiền gửi, dư nợ cho vay, hiệu quả quản lý, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm, chỉ số CPI. Kết quả hồi quy cho thấy rủi ro tín dụng, lãi suất chiết khấu có tác động ngược chiều; tổng tài sản, tiền gửi có tác động cùng chiều đến ROE. Đối với biến phụ thuộc ROA thì chỉ có rủi ro tín dụng và lãi suất chiết khấu có tác động ngược chiều đến ROA. Ponce (2012) nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Tây Ban Nha giai đoạn từ 1999 đến 2009. Kết quả thu được bằng cách sử dụng phương pháp ước lượng GMM cho thấy tỷ suất sinh lợi của ngân hàng bị ảnh hưởng tích cực bởi dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, hiệu quả hoạt động và ảnh hưởng tiêu cực bởi rủi ro tín dụng. Quy mô vốn ngân hàng chỉ ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi khi sử dụng ROA là thước đo. Tác giả không tìm thấy bằng chứng về quy mô ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Trong khi đó các yếu tố vĩ mô tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, mức độ tập trung của thị trường ngoại trừ lãi suất đều tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng tại Tây Ban Nha. 1.5.2 Các Nghiên Cứu Trong Nƣớc Bài nghiên cứu của Phan Thị Hằng Nga (2011) tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Mình (HOSE) và Hà Nội (HNX) tại Việt Nam thông qua việc ước lượng mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là tỷ suất lợi nhuận tính trên tài sản ROA và tỷ suất lợi nhuận tính trên vốn chủ sở hữu ROE với các biến độc lập
  13. 13 tiền gửi khách hàng, vốn cổ phần, dư nợ cho vay, dự phòng rủi ro tín dụng và cấp độ rủi ro là các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết trên cở sở hệ thống dữ liệu thứ cấp (báo cáo tài chính) thu thập từ 6 ngân hàng giai đoạn 2005 đến 2010 gồm có ngân hàng ACB, Eximbank, Sacombank, Vietcombank, Vietinbank, SHB. Kết quả ước lượng cho thấy tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng niêm yết chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố tiền gửi khách hàng, cấp độ rủi ro và dư nợ tín dụng. Biến độc lập tiền gửi khách hàng có mối tương quan thuận với ROA và ROE điều này khẳng định tiền huy động là một trong những yếu tố quyết định đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng cao hay thấp. Biến độc lập vốn cổ phần và dự phòng rủi ro tín dụng không ảnh hưởng đến ROA và ROE, điều này phù hợp với thực tế tại Việt Nam thì năm 2010 các ngân hàng tăng vốn rất nhanh nhưng lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi thậm chí không cao hơn các năm trước. Biến độc lập dư nợ tín dụng có quan hệ tương quan nghịch với cả ROA và ROE, điều này cho thấy hoạt động cho vay của ngân hàng còn tồn tại nhiều yếu kém, tỷ lệ nợ xấu cao. Biến cấp độ rủi ro ngân hàng không có ý nghĩa thống kê đối với ROA nhưng có có ý nghĩa thống kê và tương quan thuận với ROE điều này cho thấy ngân hàng đã sử dụng đòn bẩy tài chính cao để tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông. Tóm tắt các yếu tố tác động theo các công trình nghiên cứu tại phụ lục 1.6 Mô hình nghiên cứu đề xuất Như các yếu tố đã được tác giả xác định, để đo lường mức độ ảnh hưởng của các yếu tố nội tại của các ngân hàng và yếu tố vĩ mô lên tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết tại Việt Nam, tác giả dự kiến sử dụng mô hình nghiên cứu sau: TSSLit = α + β1SIZEit + β2CAit + β3DEit + β4LOit + β5PLit + β6GDPit + β7INFit + β8LIit + ε it - TSSLit: là tỷ suất sinh lợi của ngân hàng i tại thời điểm t, được lượng hóa bởi hai tỷ số là ROA và ROE. - SIZEit: là quy mô của ngân hàng i tại thời điểm t.
  14. 14 - CAit: là quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng i tại thời điểm t. - DEit: là chỉ số tiền gửi của khách hàng của ngân hàng i tại thời điểm t. - LOit: là chỉ số dư nợ tín dụng của ngân hàng i tại thời điểm t. - PLit: là chỉ số rủi ro tín dụng của ngân hàng i tại thời điểm t. - GDPit: là tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm t - INFit: là tỷ lệ lạm phát tại thời điểm t - LIit: là lãi suất cho vay tại thời điểm t - α: là tung độ gốc - β: là hệ số tương quan - ε it: là sai số hồi quy Biến phụ thuộc là: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROA và tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu ROE Biến độc lập là: Quy mô ngân hàng SIZE, quy mô vốn chủ sở hữu CA, tiền gửi khách hàng DE, dư nợ tín dụng LO, rủi ro tín dụng PL, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát INF và lãi suất cho vay LI. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Chương một đã tổng quan về tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết và cơ sở lý thuyết, kết quả thực nghiệm của các bài nghiên cứu trước đây về tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng. Về mặt lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng được chia thành hai nhóm các biến đại diện cho nội tại của ngân hàng (các yếu tố bên trong) và các biến đại diện cho yếu tố ngành và vĩ mô (yếu tố bên ngoài). Đa số các bài nghiên cứu đề cập đến các yếu tố tác động bên trong bao gồm các biến đặc thù của từng ngân hàng như quy mô ngân hàng, vốn của ngân hàng, dư nợ cho vay, tiền gửi khách hàng, rủi ro tín dụng, thu nhập từ lãi Các
  15. 15 biến bên ngoài bao gồm các biến vĩ mô của môi trường kinh tế sẽ tác động đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng như: tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát, lãi suất, thuế, tỷ giá
  16. 16 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐO LƢỜNG YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN TỶ SUẤT SINH LỢI CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM 2.1 Sơ lƣợc về các ngân hàng niêm yết Các ngân hàng niêm yết được phân tích trong luận văn trong giai đoạn từ năm 2007 - 2013 gồm có: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam ( Vietcombank - VCB). Ngân hàng TMCP Công Thương (Vietinbank - CTG), ngân hàng TMCP Quân Đội (MBbank - MBB), ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank - EIB), ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank - STB), ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB). Ngoài ra các ngân hàng niêm yết còn có ngân hàng TMCP Quốc Dân (trước kia là ngân hàng TMCP Nam Việt - NVB) quy mô của ngân hàng này khá nhỏ so với các ngân hàng trên nên tác giả sẽ không đề cập đến ngân hàng này. Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV chuyển đổi từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 100% vốn Nhà nước thành ngân hàng TMCP vào ngày 23/4/2012 và đến ngày 24/1/2014 cổ phiếu ngân hàng này mới được niêm yết, bài luận văn của tác giả thực hiện trong giai đoạn từ năm 2007 – 2013 nên tác giả sẽ không đưa ngân hàng BIDV vào bài luận văn.
  17. 17 Bảng 2.1: Tóm tắt một số thông tin về các ngân hàng niêm yết Tổng Tài Vốn Điều Sàn Tên Ngân Ngày Niêm Sản Lệ Niêm Hàng Yết 31/12/2013 31/12/2013 Yết (tỷ VNĐ) (tỷ VNĐ) Vietcombank HOSE 30/06/2009 468,994 23,174 Vietinbank HOSE 16/07/2009 576,368 37,234 MBbank HOSE 1/11/2011 180,432 11,256 Eximbank HOSE 27/10/2009 169,913 12,355 Sacombank HOSE 12/7/2006 161,377 12,425 ACB HNX 16/07/2009 166,598 9,377 SHB HNX 20/04/2009 143,625 8,866 Nguồn: tổng hợp của tác giả 2.2 Tổng quan nền kinh tế và ngành ngân hàng giai đoạn năm 2007-2013 Hoạt động của các ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng nhiều bởi môi trường vĩ mô và cách Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) điều hành và quản lý các ngân hàng thương mại. Ở đây, tác giả điểm lại những điểm nổi bật của tăng trưởng GDP và tỷ lệ lạm phát từ năm 2007 đến năm 2013, tốc độ tăng trưởng tín dụng, nợ xấu ngành ngân hàng và một số thay đổi quan trọng trong quy định và cơ chế của NHNN trong quản lý chính sách tiền tệ. 2.2.1 Tốc Độ Tăng Trƣởng GDP Và Tỷ Lệ Lạm Phát
  18. 18 Biểu đồ 2.1: Tăng trƣởng GDP và của các khu vực kinh tế Nguồn: Tổng cục thống kê Với tốc độ tăng trưởng GDP khá cao 8,46% vào năm 2007 bước qua năm 2008, kinh tế thế giới trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc suy thoái năm 1929. Nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với tăng trưởng GDP chậm lại chỉ còn 6,31% năm 2008. Mặc dù giảm thêm xuống mức 5,32% vào năm 2009, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế phục hồi tốt nhất trong khu vực. Nền kinh tế Việt Nam đã mạnh lên và tiếp tục tạo ấn tượng so với các nước châu Á trong năm 2010, với tỷ lệ tăng trưởng GDP đạt 6,78% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nền kinh tế sau đó đã tăng trưởng chậm lại ở mức 5,89% năm 2011, 5,1% năm 2012 và 5,42% năm 2013. Đóng góp chính cho mức tăng của GDP vẫn đến từ khu vực dịch vụ trong khi khu vực công nghiệp và xây dựng ghi nhận mức tăng 5,43% thấp hơn mức 5,75% của năm 2012, còn lại là nông nghiệp. Dấu hiệu thoát đáy của nền kinh tế đã trở nên rõ ràng với sự phục hồi tốt của lĩnh vực sản xuất.
  19. 19 Biểu đồ 2.2: Tăng trƣởng GDP và Lạm phát Tăng trƣởng GDP và Lạm phát 25% 23,12% 18,58% 20% 15% GDP 8,30% Lạm Phát 10% 8,86% 9,09% 7,06% 6,04% 8,46% 5% 6,78% 6,31% 5,89% 5,32% 5,10% 5,42% 0% 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Nguồn: Tổng cục thống kê Tỷ lệ lạm phát tăng rất nhanh từ 8,3% vào năm 2007 lên 23,12% vào năm 2008 do cuộc khủng hoảng giá lương thực và giá dầu toàn cầu gây ra lạm phát cao ở Việt Nam. Trước tình hình lạm phát ở mức cao năm 2008, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt trong sáu tháng đầu năm. Tuy nhiên, việc thắt chặt tiền tệ không thể kéo dài trước nguy cơ kinh tế suy thoái do chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu. Từ tháng 09/2008, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt hơn bao gồm việc cắt giảm lãi suất huy động. Lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn giảm xuống chỉ còn 8,5%, 7,5%, và 9,5% vào cuối năm 2008. Lãi suất cho vay cao nhất giảm xuống chỉ còn 12,75% và lãi suất huy động cũng hạ xuống quanh mức 8%/năm. Ngoài ra, chính phủ đã tung ra gói kích thích kinh tế trị giá 143 nghìn tỷ đồng, một phần trong gói kích thích này đã được sử dụng trong chương trình hỗ trợ lãi suất cho vay. Chương trình
  20. 20 hỗ trợ này đã tăng thêm động lực phát triển cho nền kinh tế và nhờ đó, trong năm 2010, tăng trưởng GDP đã cao hơn các năm trước. Chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với tăng trưởng tín dụng và gia tăng cung tiền nhanh chóng là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chỉ số CPI đã tăng trở lại lần đầu tiên kể từ năm 2009 và đà tăng tiếp tục diễn ra trong năm 2010 và 2011. CPI trong hai năm 2010 và 2011 lần lượt đạt ngưỡng cao ở mức 8,86% và 18,68%. Thực tại đó, đã buộc Việt Nam đổi hướng chính sách tiền tệ từ mục tiêu ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ thắt chặt đã giúp tỷ lệ lạm phát giảm xuống trong năm 2012 còn 9,09%, năm 2013 còn 6,04% mức thấp nhấp trong vòng 10 năm qua. 2.2.2 Môi Trƣờng Pháp Lý Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Các hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) chịu sự điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của Nhà Nước, cụ thể trong từng thời kỳ tuân thủ những quy định về lãi suất, dự trữ, hạn mức cho vay Mặt khác, các NHTM là các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, là lĩnh vực chứa đựng rủi ro rất lớn do vậy mà các ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật. NHNN căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để thực hiện điều chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm một số mục tiêu nhất định như ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế Các ngân hàng thương mại là định chế trung gian, đóng vai trò phân phối luồng tiền lưu thông trên thị trường, lợi nhuận có được do phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí trên luồng tiền đó. Do đó, khi luồng tiền được phép lưu thông tăng hay giảm đều ảnh hưởng đến nguồn lợi nhuận cũng như khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng. Tác giả xin tổng hợp lại các quy định pháp luật quan trọng nhất như sau:
  21. 21 Bảng 2.2 Tóm tắt các văn bản pháp luật quan trọng VĂN BẢN NỘI DUNG Luật 46/2010/QH12 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam Luật 47/2010/QH12 Luật Các tổ chức tín dụng Quy định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng Nghị định 59/2009/NĐ-CP thương mại Quy định về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân Nghị định 22/2006/NĐ-CP hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam. Quy định việc áp dụng Luật Phá sản đối với các tổ Nghị định 05/2010/NĐ-CP chức tín dụng Quyết định phê duyệt đề án "Cơ cấu lại hệ thống Quyết định 254/QĐ-TTg các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015" Nghị định 141-2006-NĐ-CP Mức vốn pháp định dành cho các tổ chức tín dụng Mức vốn pháp định dành cho các tổ chức tín dụng Nghị định 10/2011/NĐ-CP đến hết ngày 31/12/2011 Quy định về việc Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ Nghị định 69/2007/NĐ-CP phần của NHTM Việt Nam Thông tư 08/2010/TT- Quy định về Kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín NHNN dụng. Nghị định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 109/2005/NĐ-CP Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi . Quyết định về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế Quyết định 27/2008/QĐ- nghiệp vụ thị trường mở ban hành theo Quyết định NHNN 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007.
  22. 22 Thông tư 13/2010/TT- Thông tư quy định tỷ lệ an toàn trong hoạt động NHNN của các tổ chức tín dụng Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự Quyết định 493/2005/QĐ- phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NHNN ngân hàng của tổ chức tín dụng Quy định về phân loại nợ với nợ được điều chỉnh Quyết định 780/QĐ-NHNN kỳ hạn, gia hạn nợ Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, Thông tư 02/2013/TT- phương pháp lập và sử dụng dự phòng rủi ro của NHNN các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài Quyết định thành lập công ty quản lý tài sản của Nghị định 53/2013/NĐ-CP các tổ chức tín dụng Việt Nam Thông tư 19/2013/TT- Quy định về mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty NHNN Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam Thông tư 20 /2013/TT- Quy định về cho vay tái cấp vốn của Công ty Quản NHNN lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam Quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng Thông tư 15/2013/TT- đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín NHNN dụng Thông tư 09/2014/TT- Sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số NHNN 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 Nguồn: tác giả tự tổng hợp từ các văn bản của NHNN Theo nghị định 141/2006/NĐ-CP, hết năm 2008 các ngân hàng thương mại cổ phần phải đạt mức vốn điều lệ tương đương mức vốn pháp định được quy định tại nghị định này là 1.000 tỷ đồng và hết 2010 là 3.000 tỷ đồng. Tuy nhiên mới chỉ tới
  23. 23 gần 10 đơn vị mới đạt mức vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng vào cuối 2009, muộn hơn một năm so với quy định tại Nghị định 141. Nghị định 10/2011/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 141/2006/NĐ-CP, quy định mức vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại tại Việt Nam đến hết ngày 31/12/2011 là 3.000 tỷ đồng. Đến tháng 2 năm 2011, vốn điều lệ của các ngân hàng đã dần thấy có biến chuyển tăng trên hoặc ở mức 3.000 tỷ đồng. Việc phải tăng vốn điều lệ trong thời gian quá ngắn khiến các tổ chức tín dụng gặp khá nhiều khó khăn trong việc tăng vốn. Quyết định số 254/QĐ-TTg về đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015. Qua đó NHNN tiến hàng đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản và nợ xấu của các TCTD để phân loại, xác định các TCTD yếu kém; trên cơ sở đó, ưu tiên xử lý trước phù hợp với nguồn lực, bảo đảm cơ cấu lại, xử lý những TCTD yếu kém nhưng vẫn giữ vững sự ổn định, an toàn của hệ thống. Điều này buộc các TCTD phải tự tái cấu trúc, đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, việc mua bán, sáp nhập, hợp nhất cũng được các ngân hàng chủ động tiến hàng trong giai đoạn này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, trong đó quy định nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của NHTM từ 8% lên 9%. Việc ra đời Thông tư trên là một tín hiệu đáng mừng phản ánh quyết tâm của NHNN trong việc nâng cao hơn nữa khả năng bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng tiếp cận và áp dụng hệ thống chuẩn mực đánh giá an toàn ngân hàng theo Ủy ban Giám sát ngân hàng Basel. Trong những năm trở lại đây, sự tăng trưởng nhanh về quy mô vốn đã giúp các ngân hàng cải thiện đáng kể năng lực tài chính và hệ số này. Hệ số CAR của nhiều NHTM đã vượt 9% mà NHNN đặt ra tại Thông tư 13. Bên cạnh đó, Thông tư số 13 có hiệu lực từ ngày 1/10/2010, đây cũng là thời điểm các NHTM phải đáp ứng vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ đồng (hạn chót là 31/12/2010). Nhưng vấn đề đặt ra là tử số (vốn tự có) tăng lên thì mẫu số (tài sản "có" rủi ro) không được tăng theo đây là vấn đề mà các NHTM sẽ gặp khó khăn.
  24. 24 Nghị định 53/2013/NĐ-CP Công ty quản lý tài sản VAMC của các TCTD Việt Nam ra đời nhằm xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Theo đó, đến cuối tháng 8/2014, VAMC đã mua được 3.281 khoản nợ, với tổng dư nợ gốc hơn 56 nghìn tỷ đồng nợ xấu, giá mua hơn 46 nghìn tỷ đồng. Đến nay, VAMC đã thu hồi được 1.462 tỷ đồng nợ xấu thuộc 31 TCTD. Việc xử lý nợ xấu của VAMC tuy chưa hiệu quả nhưng phần nào cũng giúp các TCTD giảm gánh nặng nợ xấu trên bảng cân đối kế toán, có thêm thời gian và nguồn lực để xử lý nợ xấu cho chính mình. Thông tư 02/2013/TT-NHNN ban hành ngày 21 tháng 1 năm 2013 Quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp lập và sử dụng dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo chuẩn mới. Thông tư 02 ra đời sẽ phơi bày thực chất hơn thực trạng nợ xấu, nợ xấu nhiều ngân hàng có thể tăng lên 10%, 20%, thậm chí cao hơn. Các ngân hàng phải dồn nguồn dự phòng lớn để xử lý nợ xấu, có thể thua lỗ, làm tăng chi phí và gây sức ép đối với lãi suất Nhưng NHNN đã ban hành Thông tư 09 sửa đổi Thông tư 02 về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, lùi một số điều khoản trong Thông tư 02. Việc lùi thời hạn hiệu lực đối với những quy định này sẽ làm giảm và trì hoãn áp lực về nợ xấu đối với các ngân hàng, qua đó, giúp các TCTD có thêm thời gian để điều chỉnh hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình theo hướng áp dụng từng bước các quy định trong thông tư 02 trước đây, đồng thời tránh được cú sốc về nợ xấu tăng đột biến và lợi nhuận kế toán sụt giảm mạnh. Trong năm 2013, để tránh sự thay đổi đột ngột về nợ xấu khi áp dụng thông tư 02, các ngân hàng đã tăng dần trích lập dự phòng, nâng dần tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay khách hàng/Tổng dư nợ để cải thiện nguồn tiền để đối phó và xử lý nợ xấu sau này. Đồng thời, tích cực sử dụng nguồn dự phòng để xử lý nợ xấu và bán nợ xấu cho VAMC. 2.2.3 Tăng Trƣởng Tín Dụng
  25. 25 Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng trƣởng tín dụng Tốc Độ Tăng Trƣởng Tín Dụng 60% 51,4% 50% 37,7% 40% 31,2% 30% 30,0% 20% 10,9% 11,0% 7,0% 10% 0% 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam Tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt kỷ lục vào năm 2007 lên đến 51,4% so với năm trước. Trong một khoảng thời gian kéo dài, tốc độ tăng trưởng tín dụng ở Việt Nam gấp ba đến bốn lần tốc độ tăng trưởng GDP. Nói một cách khác, tín dụng đã tăng trưởng quá nóng và đó là một tín hiệu không tốt trong việc điều hành của NHNN. Tốc độ tăng trưởng trong ba năm gần đây đã giảm đáng kể. Tín dụng năm 2012 tăng trưởng ở mức thấp kỷ lục, đây là lần đầu tiên kể từ năm 1992, mức tăng trưởng tín dụng ở một chữ số. Nguyên nhân tín dụng tăng thấp là cầu yếu, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, hàng tồn kho cao nên nhiều doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn, các tổ chức tín dụng phải kiểm soát chặt chẽ tín dụng nhằm ngăn chặn nợ xấu 2.2.4 Lãi Suất Cho Vay và Huy Động
  26. 26 Biểu đồ 2.4: Lãi suất cho vay và huy động hàng năm Lãi Suất Cho Vay Và Huy Động Hàng Năm 18% 17,00% 15,80% 16% 13,10% 13,50% 14% 11,20% 11,50% 12% 10,10% 14,00% 10% 12,70% 11,20% 10,50% 8% 7,90% 6% 7,50% 7,90% 4% 2% 3,70% 3,60% 3,10% 2,20% 1,90% 3,00% 3,00% 0% 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Lãi Suất Cho Vay Lãi Suất Huy Động Chênh Lệch Lãi Suất Nguồn: Wordbank Diễn biến lãi suất ở Việt Nam kể từ năm 2007 đã trải qua nhiều thay đổi, đặc biệt là giai đoạn từ 2007 đến 2012. Lãi suất cho vay và huy động trung bình hàng năm từ mức thấp, lần lượt ở mức 7,5% và 11,3% năm 2007, đã lên cao tới 14% và 17% tương ứng năm 2011. Lãi suất cho vay và huy động không phải luôn luôn di chuyển song song, khiến cho lợi nhuận biên trung bình (lãi suất cho vay - lãi suất huy động) dao động từ 1,9% năm 2010 đến 3,7% năm 2007. Với nỗ lực của chính phủ nhằm bình ổn kinh tế bằng cách điều chỉnh lãi suất, quy định trần lãi suất huy động, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu diễn biến lãi suất dường như đã ổn định hơn và mức lãi biên đã ổn định dần kể từ 2011. Trong năm 2013, do tăng trưởng tín dụng đã khá chậm, tỷ suất này đã tăng lên một ít. Lãi suất huy động giảm đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng giảm mạnh lãi suất cho vay để chia sẻ khó khăn đối với các doanh nghiệp.
  27. 27 2.2.5 Tỷ Lệ Nợ Xấu Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng qua các năm Tỷ lệ Nợ Xấu 05% 4,55% 4,08% 3,79% 04% 3,50% 3,30% 03% 2,47% 2,17% 2,00% 02% 01% 00% 2007 2008 2009 2010 2011 2012 6/2013 12/2013 Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, Ủy Ban Giám Sát Tài Chính Quốc Gia Tỷ lệ nợ xấu tăng liên tục từ năm 2009 đến nay cho thấy sự yếu kém trong quản trị rủi ro của các ngân hàng và quản lý lỏng lẻo của NHNN trong việc xử lý các nguyên nhân gây ra nợ xấu. Gần đây nhất cho thấy nổ lực cố gắng của NHNN nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu xuống là việc thành lập công ty quản lý tài sản VAMC vào ngày 26/7/2013. Tính đến ngày 31/12/2013, VAMC đã mua được 38.900 tỷ đồng nợ xấu tính theo giá trị sổ sách. Xử lý nợ xấu đang là một yêu cầu đặt ra không chỉ với bản thân của mỗi tổ chức tín dụng mà còn cả toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Nợ xấu lớn như hiện nay cũng đã làm ách tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ với các ngân hàng mà còn cả các doanh nghiệp. Do bị đọng vốn trong nợ xấu, các ngân hàng không có điều kiện mở rộng tăng trưởng tín dụng, khiến cho hoạt động sản xuất của nền kinh tế gặp khó khăn. Xử lý được nợ xấu sẽ góp phần hạ mặt bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lành mạnh và
  28. 28 góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững. 2.3 Thực trạng các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng thƣơng mại niêm yết hiện nay 2.3.1 Kết quả hoạt động và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng thƣơng mại niêm yết Trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2013 hoạt động của các ngân hàng niêm yết diễn biến theo chiều hướng tốt, kinh doanh đều có lãi, tiền gửi và dư nợ đều tăng qua các năm. Tuy nhiên lợi nhuận các ngân hàng đã giảm nhanh từ năm 2011 do diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế vĩ mô, trong giai đoạn này các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước là Ngân hàng Công Thương Việt Nam Vietinbank, và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Vietcombank và ngân hàng Quân Đội MBbank hoạt động tương đối tốt và ổn định trong khi đó các ngân hàng còn lại lợi nhuận sụt giảm rất nhiều. Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam, gây ra không ít khó khăn đối với các doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng của Việt Nam tuy nhiên các ngân hàng niêm yết vẫn đạt được mức tăng trưởng đáng kể. Tăng trưởng lợi nhuận trung bình của các ngân hàng niêm yết năm 2008 là 46% năm 2009 đạt kỷ lục 59% nổi bật nhất trong trong hai năm trên là ngân hàng TMCP Xuất Nhập Khẩu Việt Nam Eximbank, ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam Vietinbank và ngân hàng TMCP Quân Đội MB. Đến cuối năm 2013. Về tỷ lệ nợ xấu trong bối cảnh ngành ngân hàng đang đối diện với diễn biến khó lường của nợ xấu thì nhìn chung các ngân hàng đều duy trì tỷ lệ nợ xấu dưới 3% qua các năm ngoại trừ Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội có tỷ lệ nợ xấu tương đối cao vào năm 2012 là 8,8% và 2013 là 4,06% do do việc sát nhập Ngân hàng TMCP Habubank và phải gánh chịu khoản nợ xấu sau khi sát nhập ngân hàng này vào. Trong thời gian tới kết quả hoạt động của ngành ngân hàng sẽ phù thuộc rất nhiều vào việc giải quyết vấn đề nợ xấu.
  29. 29 Biểu đồ 2.6 Tỷ suất sinh lợi trung bình của các ngân hàng niêm yết ROE ROA 25% 3% 21,79% 19,32% 20,27% 20% 19,14% 2% 16,72% 1,98% 14,97% 15% 2% 1,71% 1,59% 1,49% 10,88% 1,45% 10% 1,14% 1% 0,91% 5% 1% ROE ROA 0% 0% 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 Nguồn: theo tổng hợp của tác giả Theo bảng phụ lục 4, 5, 6 và biểu đồ 2.6 thì tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết đang có dấu hiệu giảm dần qua các năm. Tỷ suất sinh lợi trung bình của các ngân hàng niêm yết cao nhất là năm 2007, ROA đạt 1,98% và ROE đạt 21,79% và thấp nhất vào năm 2013 ROA đạt 0,91% và ROE đạt 10,88%. Năm 2013 chứng kiến sự sụt giảm mạnh của ROA và ROE của các ngân hàng niêm yết mà nguyên nhân chủ yếu là do lợi nhuận suy giảm và tốc độ tăng trưởng tổng tài sản và vốn chủ sở hữu nhanh hơn nhiều so với lợi nhuận. Trong các ngân hàng niêm yết thì ACB là ngân hàng có mức suy giảm tỷ suất sinh lợi cao nhất. Từ mức cao nhất trong các ngân hàng niêm yết, vào năm 2007 ROE của ngân hàng ACB đạt mức 42,8% và ROA đạt mức 2,72% chỉ đứng sau Sacombank là 3,13% và giảm qua các năm. Đến năm 2013 thì ROE chỉ còn 6,57% cao hơn Eximbank đạt 4,32% còn
  30. 30 ROA chỉ đạt 0,48% mà nguyên nhân chính là do nợ xấu của ACB tăng nhanh. Các ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, MBbank nhìn chung tỷ suất sinh lợi biến động ít hơn và ổn định như Vietcombank ROA vào ROE cao nhất vào năm 2009 đạt lần lượt là 1,65% va 25,74% và thấp nhất vào năm 2013 là 1,05% và 12,33%. Trong những năm gần đây 2013 và 2013 chứng kiến sự sụt giảm lợi nhuận nghiêm trọng của các ngân hàng ACB, Eximbank, SHB kéo theo tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng này rất thấp trong các ngân hàng niêm yết. 2.3.2 Các yếu tố bên trong 2.3.2.1 Quy mô ngân hàng Quy mô các ngân hàng của Việt Nam hiện nay là rất nhỏ so với các ngân hàng nước ngoài điều này làm giảm đi tính cạnh tranh trong quá trình hội nhập hiện nay, tuy nhiên để tối đa hóa lợi nhuận các ngân hàng cần lựa chọn một quy mô vốn tối ưu để tối đa hóa lợi nhuận. Điều này chứng tỏ rằng quy mô ngân hàng có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến lợi nhuận cũng như tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Với thực tế thị trường Việt Nam hiện nay, vẫn đang trong giai đoạn tăng trưởng ban đầu điển hình là sự tăng trưởng tín dụng nhanh trong giai đoạn năm 2007 đến năm 2010 dẫn đến sự tăng trưởng của tổng tài sản và lợi nhuận, thực tế cũng cho chúng ta thấy trong giai đoạn này tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết rất cao, kỳ vọng mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi và quy mô ngân hàng sẽ cùng chiều. Theo phụ lục 4 thì tổng tài sản của các ngân hàng niêm yết nhìn chung tăng khá nhanh nhưng so với các ngân hàng nước ngoài thì các ngân hàng niêm yết của Việt Nam quá nhỏ bé. Vietinbank có tốc độ tăng trưởng tài sản trung bình nhanh nhất tính đến 12/2013 thì tổng tài sản của Vietinbank là cao nhất trong các ngân hàng niêm yết đạt hơn 28 tỷ USD, Vietcombank hơn 23 tỷ USD, MBbank gần 9 tỷ USD, ACB hơn 8 tỷ USD, Sacombank gần 8 tỷ USD, Eximbank hơn 8 tỷ USD, SHB hơn 7 tỷ USD. Tổng tài sản của Agribank, ngân hàng lớn nhất Việt Nam cũng chỉ đạt khoảng 35 tỷ USD trong khi đó theo phụ lục 8 tổng tài sản của các ngân hàng nước ngoài như: Ngân hàng Công Thương Trung Quốc lên đến 3.125 tỷ USD, ngân hàng HSBC là
  31. 31 830 tỷ USD, ngân hàng Bangkok của Thái Lan là 78 tỷ USD, ngân hàng OCBC của Singapore là 278 tỷ USD. Tổng tài sản của các ngân hàng niêm yết tại Việt Nam quá nhỏ sẽ ảnh hưởng đến việc mở rộng thị phần ra nước ngoài bằng chứng gần đây nhất là sự thất bại của BIDV trên đất Myanmar mà nguyên nhân chính là tổng tài sản ngân hàng này quá bé. Vì thế, tổng tài sản sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh cũng như quy mô của các ngân hàng niêm yết của Việt Nam vẫn chưa đạt đến mức độ tối ưu từ đó ta thấy được quy mô ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận cũng như tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết tại Việt Nam. 2.3.2.2 Vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng, tuy nhiên việc sử dụng vốn chủ sở hữu cao sẽ làm giảm tác dụng của đòn bẩy tài chính. Các ngân hàng thương mại trong nước đã có cuộc đua tăng vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu trong các năm vừa qua theo yêu cầu của NHNN nhằm đảm bảo năng lực tài chính, giữ thị phần trước sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Yêu cầu tăng vốn đối với các ngân hàng Việt Nam chủ yếu xuất phát từ quy mô về tài sản và vốn chủ sở hữu của các ngân hàng Việt Nam là quá nhỏ so với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Các ngân hàng tăng vốn chủ sở hữu cho mục đích đầu tư tăng năng lực hạ tầng (đầu tư xây dựng trụ sở, đầu tư cho công nghệ, mở rộng mạng lưới hoạt động ) và tăng vốn để tăng năng lực tài chính nhằm nâng cao cạnh tranh và đảm bảo các hệ số an toàn vốn (hệ số CAR) đáp ứng cho việc ngân hàng tăng trưởng nóng tín dụng và tài sản có rủi ro khác trong tổng tài sản. Theo phụ lục 4 thì về tốc độ tăng vốn chủ sở hữu nhanh nhất vẫn là Vietinbank năm 2007 đạt hơn 10 ngàn tỷ đồng đến năm 2013 đạt hơn 54 ngàn tỷ đồng tiếp theo là Vietcombank từ hơn 13 ngàn tỷ đồng năm 2007 và đạt hơn 42 ngàn tỷ đồng năm 2013. Các ngân hàng niêm yết còn lại tốc độ tăng vốn thấp hơn so với Vietinbank và Vietcombank. Eximbank hơn 6 ngàn tỷ đồng vào năm 2007 đến năm 2011 đạt 16,3 ngàn tỷ đồng sau đó giảm còn 14,6 ngàn tỷ đồng vào năm 2013, ACB cũng tương tự vốn chủ sở hữu năm 2012 đạt 12,8 ngàn
  32. 32 tỷ đồng còn 12,5 ngàn tỷ đồng vào năm 2013. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm vốn chủ sở hữu của các ngân hàng này nhưng nguyên nhân chính là do chi phí trích lập dự phòng tăng cao làm tiêu hao một phần vốn chủ sở hữu. Ngân hàng MBbank và SHB có tốc độ tăng vốn chủ sở hữu tương đối đều qua các năm, MBbank đạt hơn 3 ngàn tỷ đồng năm 2007 tới năm 2013 đạt hơn 15 ngàn tỷ đồng, SHB đạt 2 ngàn tỷ đồng năm 2007 tới năm 2013 đạt hơn 10 ngàn tỷ đồng, Sacombank đạt 7 ngàn tỷ đồng năm 2007 tới năm 2013 đạt hơn 16 ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên trong thời gian đã xảy ra một số trường hợp các ngân hàng thực hiện luân chuyển vốn lòng vòng để có thể tăng được vốn và đó cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến khó khăn về tài chính của các ngân hàng cũng như việc thâu tóm của một số ngân hàng gây ra những rủi ro tiềm ẩn cho hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Đối với các ngân hàng niêm yết của Việt Nam đang trong quá trình phát triển thì vai trò vốn chủ sở hữu là cực kỳ quan trọng nó tạo ra một cấu trúc vốn vững chắc, là lá chắn giúp ngân hàng tránh khỏi những cuộc khủng hoảng tài chính vượt qua được các giai đoạn khó khăn của thị trường và vốn chủ sở hữu là một yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết của Việt Nam. 2.3.2.3 Tiền gửi của khách hàng Sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng để thu hút tiền gửi khách hàng trong thời gian qua cho thấy tầm quan trọng của yếu tố tiền gửi khách hàng. Tiền huy động từ khách hàng sẽ được ngân hàng sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau nhằm tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng như cho vay, đầu tư Thông thường lượng vốn huy động từ tiền gửi khách hàng càng lớn thì ngân hàng càng tạo ra nhiều lợi nhuận hơn ngoài ra còn góp phần nâng cao thương hiệu của ngân hàng đó. Theo phụ lục 4 thì lượng tiền gửi khách hàng của Vietinbank và Vietcombank lớn hơn nhiều so với các ngân hàng khác, lượng tiền gửi của các ngân hàng này đều tăng qua các năm cho thấy các ngân hàng này có thị phần lớn trong các ngân hàng niêm yết cụ thể là ngân hàng Vietinbank năm 2007 đạt hơn 112 ngàn tỷ đồng đến năm 2013 đạt hơn 364 ngàn tỷ đồng tiếp theo là Vietcombank từ hơn 141 ngàn tỷ đồng
  33. 33 năm 2007 và đạt hơn 332 ngàn tỷ đồng năm 2013. Ngân hàng MBbank và SHB lượng tiền gửi của khách hàng đều tăng qua các năm, MBbank đạt hơn 17 ngàn tỷ đồng năm 2007 tới năm 2013 đạt hơn 136 ngàn tỷ đồng, SHB đạt 2,8 ngàn tỷ đồng năm 2007 tới năm 2013 đạt hơn 90 ngàn tỷ đồng. Ngân hàng Eximbank và Sacombank cũng tăng qua các năm nhưng năm 2011 lượng tiền của khách hàng giảm nhẹ và sau đó tăng lại vào các năm tiếp theo, ngân hàng ACB lượng tiền gửi của khách hàng bị giảm sút vào năm 2012 do sự kiện bên trong nội bộ của ngân hàng làm suy giảm niềm tin của khách hàng gửi tiền nhưng sau đó năm 2013 đã tăng trở lại đạt 138 ngàn tỷ đồng. Các ngân hàng có lượng tiền gửi ngân hàng cao như Vietinbank và Vietcombank đã tạo ra lợi nhuận nhiều hơn so với các ngân hàng có lượng tiền gửi ít hơn. Với nguồn vốn chủ sở hữu không cao đa phần các ngân hàng Việt Nam đều sử dụng tỷ trọng lớn tiền huy động từ tiền gửi khách hàng cho vay để tạo lợi nhuận từ đó tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng. 2.3.2.4 Dƣ nợ tín dụng Theo phụ lục 4 thì dư nợ tín dụng của các ngân hàng niêm yết đều tăng qua các năm đứng đầu vẫn là Vietinbank năm 2007 đạt hơn 102 ngàn tỷ đồng đến năm 2013 đạt hơn 460 ngàn tỷ đồng tiếp theo là Vietcombank từ hơn 97 ngàn tỷ đồng năm 2007 và đạt hơn 247 ngàn tỷ đồng năm 2013. Các ngân hàng còn lại cũng có mức tăng trưởng dư nợ qua các năm nhưng tốc độ tăng bắt đầu giảm từ sau năm 2011 do ảnh hưởng trực tiếp từ thị trường bất động sản và khó khăn của nền kinh tế nên việc tìm đầu ra cho dòng vốn của các ngân hàng này gặp khó khăn trong những năm gần đây. Tính đến cuối năm 2013 dư nợ của ngân hàng ACB, Eximbank, Sacombank, MBbank, SHB lần lượt là hơn 109 ngàn tỷ đồng, 83 ngàn tỷ đồng, 107 ngàn tỷ đồng, 87 ngàn tỷ đồng, 76 ngàn tỷ động. Dư nợ tín dụng trực tiếp tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lãi và các khoản phí (nếu có) trên các khoản cho vay. Đối với các ngân hàng của Việt Nam thì lợi nhuận đóng góp từ hoạt động tín dụng chiếm rất cao thường trên 75%, nếu việc gia tăng dư nợ tín dụng đồng hành cùng chất lượng tín dụng thì nó sẽ tác động rất tích cực đến lợi nhuận
  34. 34 cũng như tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng. Dư nợ tín dụng là biến tác động trực tiếp đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. 2.3.2.5 Rủi ro tín dụng Tình hình nợ xấu hiện nay đang diễn biến phức tạp gây ra không ít khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng của Việt Nam, các ngân hàng niêm yết của Việt Nam cũng không nằm ngoài những khó khăn này. Ngân hàng ACB, SHB, MBbank, Eximbank bắt đầu từ năm 2011 nợ xấu tăng nhanh và vượt tầm kiểm soát của các ngân hàng này. Cuối năm 2013 thì nợ xấu của ABC là hơn 3%, MBbank 2,46%, Eximbank 1,98%, Sacombank 1,44% kéo theo chi phí trích lập dự phòng tín dụng cũng tăng theo. Đặc biệt là ngân hàng SHB sau khi gánh khoản nợ xấu của ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Habubank sau thương vụ sáp nhập tỷ lệ nợ xấu của SHB tăng vọt đến 8,8% vào cuối năm 2012 và chi phí trích lập dự phòng của SHB là 1.259 tỷ đồng cao nhất trong các năm, nợ xấu cao làm cho chi phí trích lập dự phòng cao làm giảm phần lớn lợi nhuận của ngân hàng này. Trong khi đó Vietinbank và Vietcombank lại kiểm soát tốt nợ xấu vào những năm gần đây, chí phí dự phòng rủi ro tín dụng lần lượt chỉ chiếm 0,9% và 1,28% dư nợ tín dụng. Đối với các ngân hàng của Việt Nam thì rủi ro tín dụng đang là rủi ro lớn nhất mà các ngân hàng gặp phải. Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng của Việt Nam hiện nay rất cao, tỷ lệ này càng cao thì rủi ro tín dụng phát sinh từ việc các khách hàng mất khả năng đáp ứng các nghĩa vụ của mình trong việc thanh toán nợ đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng, hơn nữa tỷ lệ nợ xấu cao đồng nghĩa với việc số tiền phải trích lập dự phòng theo quy định của NHNN để xử lý rủi ro tín dụng càng cao ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Chính vì thế mà rủi ro tín dụng có tác động mạnh mẽ đến lợi nhuận cũng như tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. 2.3.3 Các yếu tố bên ngoài 2.3.3.1 Tốc độ tăng trƣởng GDP
  35. 35 Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu gặp khó khăn vào năm 2008 tốc độ tăng trưởng GDP đã chững lại sau khi đạt mức 7,1% vào năm 2007 tương tứng với tỷ suất sinh lợi trung bình của các ngân hàng niêm yết cũng cao nhất trong giai đoạn 2007 đến 2013, ROA trung bình đạt 1,98% và ROE trung bình đạt 21,79%. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển tăng trưởng và ổn định, thu nhập của người dân được đảm bảo và ổn định thì nhu cầu tích luỹ của dân cư cao hơn từ đó lượng tiền gửi vào Ngân hàng tăng lên hay khả năng huy động vốn tăng lên. Mặt khác khi nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định thì nhu cầu sử dụng vốn tăng lên làm tăng dư nợ tín dụng cũng như chất lượng tài sản đảm bảo cũng sẽ cao hơn. Theo phụ lục 7 thì năm 2008 tốc độ tăng trưởng GDP chỉ còn 5,7% GDP kéo theo ROA và ROE trung bình của các ngân hàng niêm yết giảm xuống còn 1,59% và 16,72%. Cũng tương tự năm 2012 và 2013 tốc độ tăng trưởng GDP khá thấp chỉ đạt 5,2% và 5,42%, khi đó tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng cũng giảm, ROE trung bình năm 2012 và 2013 chỉ đạt 14,97% và 10,88%, ROA chỉ đạt 1,14% và 0,91%. Khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái tỷ lệ tăng trưởng GDP thấp, thu nhập thực tế của người lao động giảm và ngày càng biến động, điều này sẽ làm giảm lòng tin của khách hàng vào sự ổn định của đồng tiền, hơn nữa khi thu nhập thấp thì lượng tiền nhàn rỗi trong toàn nền kinh tế sẽ giảm xuống mà lượng tiền dân cư đã ký thác vào hệ thống Ngân hàng còn có nguy sơ bị rút ra. Khi đó ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản lý dự trữ và củng cố lòng tin của khách hàng vào hệ thống Ngân hàng. Ngoài ra khi nền kinh tế gặp khó khăn sẽ làm giảm giá trị của các tài sản thế chấp và cũng giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Trong trường hợp của Việt Nam, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, kỳ vọng tốc độ tăng trưởng GDP sẽ có mối quan hệ tích cực đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. 2.3.3.2 Tỷ lệ lạm phát Theo phụ lục 7 tỷ lệ lạm phát năm 2007 là 8,3% nằm trong vòng kiểm soát của chính phủ thì tỷ suất sinh lợi trung bình của các ngân hàng niêm yết cũng cao
  36. 36 nhất, đến năm 2008 tỷ lệ lạm phát cao nhất lên đến 23,1% nằm ngoài tầm kiêm soát và đương nhiên là tỷ suất sinh lợi trung bình của các ngân hàng niêm yết cũng giảm xuống. Tỷ lệ lạm phát cao cho thấy dấu hiệu nền kinh tế đang tăng trưởng quá nóng, lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế dư thừa, đồng tiền mất giá, người dân không có xu hướng nắm dữ tiền mặt cũng như gửi tiền vào các ngân hàng này, làm giảm sức mua, chi phí lãi vay, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp cũng sẽ cao hơn từ đó sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi của doanh nghiệp và ngân hàng này cũng không phải ngoại lệ. Trong giai đoạn 2007 đến 2010 thì tỷ lệ lạm phát có mối quan hệ ngược chiều với ROA và ROE trung bình của các ngân hàng niêm yết, giai đoạn 2011 đến 2013 thì thì tỷ lệ lạm phát có mối quan hệ cùng chiều với ROA và ROE trung bình của các ngân hàng niêm yết, năm 2011, 2012, 2013 tỷ lệ lạm phát là 18,7%, 9,1%, 6,04% trong giai đoạn này chỉ có năm 2013 là chính phủ kiểm soát tốt lạm phát còn trong năm 2011 và 2012 tỷ lệ lạm phát cao và tình hình kinh tế vĩ mô chưa ổn định. Tuy nhiên một tỷ lệ lạm phát quá thấp sẽ khiến cho nền kinh tế tăng trưởng thấp. Một tỷ lệ lạm phát vừa phải đối với nền kinh tế Việt Nam theo các chuyên gia kinh tế thì khoảng 5% - 7% được xem là giúp tăng trưởng kinh tế thông qua khuyến khích huy động vốn và tăng tính linh hoạt tỷ giá. Tỷ lệ lạm phát vừa phải có thể giúp bôi trơn thị trường hàng hóa, lao động và tăng tính linh hoạt tương đối đối với giá cả thúc đẩy các doanh nghiệp gia tăng sản xuất, đẩy mạnh cạnh tranh, đưa ra thị trường nhiều sản phẩm với chất lượng cao hơn, làm cho nội tệ mất giá nhẹ so với ngoại tệ tạo lợi thế cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho nền kinh tế, khuyến khích sản xuất. Vì vậy tỷ lệ làm phát sẽ tác động nhiều đến lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. 2.3.3.3 Lãi suất cho vay Theo phụ lục 7 thì lãi suất cho vay trung bình của nền kinh tế trong giai đoạn 2007 đến 2013 chỉ có năm 2007 khi lãi suất cho vay là 11,2%/năm là có tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi trung bình của các ngân hàng niêm yết. Sau khi khủng
  37. 37 hoảng kinh tế thì hàng loạt doanh nghiệp gặp khó khăn, tuy những năm gần đây mặt bằng lãi suất cho vay trung bình năm 2011 là 17% đã giảm xuống còn 10,88% vào năm 2013 nhưng cũng không giúp được các ngân hàng niêm yết nâng cao tỷ suất sinh lợi trung bình của mình, khi mà hàng loạt doanh nghiệp đã mất khả năng tài chính nghiêm trọng và việc lựa chọn doanh nghiệp đáp ứng được điều kiện cho vay rất khó khăn. Nguồn thu về từ lãi suất cho vay là nguồn thu nhập nuôi sống hoạt động của ngân hàng và theo bản năng, ngân hàng nào cũng muốn cho vay lãi suất cao. Tuy nhiên, xét về bản chất kinh tế thì lãi suất tiền vay có lại nguồn gốc từ lợi nhuận hoạt động của doanh nghiệp, do đó các NHTM chỉ có thể sống được khi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả và phát triển. Việc lãi suất cho vay tăng sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và khả năng vỡ nợ của doanh nghiệp cũng sẽ cao hơn từ đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng. Đánh giá chung thực trạng các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2013 thì chúng ta nhận thấy rằng rủi ro tín dụng là yếu tố tác động mạnh nhất đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết, tiếp đến là tỷ lệ lạm phát, dư nợ tín dụng, tiền gửi khách hàng, quy mô vốn chủ sở hữu, quy mô tổng tài sản và tốc độ tăng trưởng GDP. 2.4 Đo lƣờng các yếu tố ảnh hƣởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết 2.4.1 Dữ liệu nghiên cứu 2.4.1.1 Cơ sở chọn lọc dữ liệu Từ cở sở lý thuyết của chương 1 tác giả thu thập dữ liệu cho các biến ROA, ROE, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, tiền gửi khách hàng, dư nợ cho vay, dự phòng rủi ro tín dụng, tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay.
  38. 38 Dữ liệu nghiên cứu được thu thập trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2009 của 7 ngân hàng niêm yết tại Việt Nam là: Vietinbank, Vietcombank, ACB, Eximbank, Sacombank, MBBank, SHB. 2.4.1.2 Nguồn dữ liệu thu thập Hệ số ROA, ROE, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, tiền gửi khách hàng, dư nợ cho vay, dự phòng rủi ro tín dụng được thu thập trên báo cáo tài chính hàng năm trên các website của từng ngân hàng. Tốc độ tăng trưởng GDP được thu thập từ Tổng Cục Thống Kê Việt Nam. Tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay hàng năm được thu thập trên wesite của Worldbank Như vậy dữ liệu là 49 biến quan sát của 7 ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2013. 2.4.2 Các biến nghiên cứu và nhóm các giả thiết nghiên cứu 2.4.2.1 Biến phụ thuộc Để đo lường tỷ suất sinh lợi của ngân hàng niêm yết luận văn sử dụng biến lợi nhuận ròng trên tổng tài sản và lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu ROA là tỷ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (Return on total assets) Công thức: ROA = Lợi nhuận ròng /Tổng tài sản bình quân ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của công ty. ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng tài sản. Chỉ số này cho biết công ty tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế từ một đồng tài sản. Thông thường để đánh giá, ta thường so sánh với chỉ số này của năm trước đó hoặc với các công ty có cùng quy mô trên thị trường ROE là tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (Return on common equity)
  39. 39 Công thức: ROE = Lợi nhuận ròng /Vốn cổ chủ sở hữu bình quân ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường. Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo ra bao nhiêu đồng lợi. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty nào. 2.4.2.2 Biến Độc Lập 2.4.2.1.1 Quy mô ngân hàng Quy mô ngân hàng được thể hiện thông qua tổng tài sản của ngân hàng. Theo nghiên cứu của Rajan và Zingale (1995) cho rằng với lợi thế về quy mô, nổi tiếng nên các doanh nghiệp quy mô lớn dễ tiếp cận và huy động vốn dễ hơn, dễ phát hành các chứng khoán vì thế doanh nghiệp quy mô lớn sẽ có lợi thế hơn. Theo Smirlock (1985); Pasiouras và Kosmidou (2007); Riaz (2011) thì sự gia tăng quy mô ngân hàng ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Hơn nữa các ngân hàng lớn thường có uy tín trên thị trường nên thương hiệu sẽ ảnh hưởng nhiều đến khách hàng hơn. Các ngân hàng lớn có thể có nhiều sản phẩm hơn các khoản cho vay cũng sẽ lớn hơn, tính an toàn cao hơn so với ngân hàng có quy mô nhỏ. Tuy nhiên quy mô lớn cũng kéo theo chi phí vận hành và các chi phí khác cao hơn. Theo bài nghiên cứu của Staikouras và Wood (2004); Athanasoglou và các cộng sự (2005) họ cho rằng có mối quan hệ giữa quy mô và lợi nhuận có thể cùng chiều và ngược chiều. Chúng ta sẽ sử dụng tổng tài sản để đo lường thay cho biến quy mô trong bài này. Đo lường: Logarit của giá trị tổng tài sản (Bank size) Giả thiết H01: Quy mô ngân hàng có tác động cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng 2.4.2.1.2 Quy mô vốn chủ sở hữu
  40. 40 Đại diện cho vốn của ngân hàng, tác giả sử dụng tỷ lệ vốn chủ sở hữu/ tổng tài sản. Chỉ số này phản ánh khả năng tài trợ tổng tài sản từ vốn chủ sở hữu của ngân hàng, tỷ số này cao chứng tỏ khả năng tự chủ tài chính của ngân hàng. Các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản cao được coi là tương đối an toàn hơn so với các ngân hàng vốn chủ sở hữu thấp. Mối quan hệ cùng chiều được tìm thấy bởi các nghiên cứu: Athanasoglou và các cộng sự. (2005); Davydenko (2010); Olweny và Shipho (2011); Ani và các cộng sự (2012); Sufian (2010). Trong khi đó mối quan hệ ngược chiều được tìm thấy ở các nghiên cứu: Saona (2011); Qin và Pastory, (2012). Đo lường: Vốn chủ sở hữu/ tổng tài sản (Equity over total assets) Giả thiết H02: Quy mô vốn chủ sở hữu có tác động hai chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng 2.4.2.1.3 Tiền gửi khách hàng Nguồn vốn huy động từ tiền gửi khách hàng có ý nghĩa quyết định đến hoạt động của ngân hàng, nó góp phần giải quyết nguồn vốn đầu vào cho ngân hàng. Sự gia tăng trong tỷ số tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản tức nguồn vốn sẵn có gia tăng, ngân hàng sẽ sử dụng chúng để tạo ra các khoản lợi nhuận khác nhau như cho vay, đầu tư. Sự gia tăng trong tiền gửi khách hàng sẽ làm gia tăng dư nợ cho vay, gia tăng lãi suất biên và lợi nhuận theo Riaz (2011); Deger và Adem (2011); Ponce (2012). Nên theo dự đoán của tác giả tiền gửi khách hàng tác động cùng chiều đến lợi nhuận cũng như tỷ suất sinh lợi. Đo lường: Tiền gửi khách hàng/ tổng tài sản (Total deposits over total assets) Giả thiết H03: Tiền gửi khách hàng có tác động cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng 2.4.2.1.4 Dƣ nợ tín dụng Tỷ số dư nợ trên tổng tài sản cho thấy tỷ lệ dư nợ cho vay hiện tại là bao nhiêu phần trăm của tài sản. Theo Bourke (1989) thì có mối quan hệ cùng chiều
  41. 41 giữa tỷ số dư nợ trên tổng tài sản và lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên việc gia tăng dư nợ không đi đôi với việc gia tăng chất lượng tín dụng sẽ làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm đi. Theo Eichengreen và Gibson (2001) các ngân hàng có thể thu về lợi nhuận cao hơn bằng cách đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản thay vì gia tăng dư nợ có rủi ro hơn. Vì thế tác giả dự đoán tỷ lệ dư nợ trên tổng tài sản tác động hai chiều đến tỷ suất sinh lợi. Đo lường: Dư nợ tín dụng/ tổng tài sản (Total loans over total assets) Giả thiết H04: Dư nợ tín dụng có tác động hai chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng 2.4.2.1.5 Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng được xác định bằng dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ tín dụng là thước đo chất lượng tín dụng của ngân hàng. Rủi ro tín dụng cho biết chất lượng và rủi ro của danh mục cho vay của ngân hàng, khi danh mục cho vay của các ngân hàng có nhiều rủi ro thì các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu cao cho thấy chất lượng tín dụng kém và đi kèm theo đó là lợi nhuận giảm. Theo Athanasoglou và các cộng sự (2005); Davydenko (2011); Riaz (2011) rủi ro tín dụng có quan hệ ngược chiều với lợi nhuận của ngân hàng; Nên tác giả dự đoán có mối quan hệ ngược chiều của rủi ro tín dụng và tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Đo lường: Dự phòng rủi ro tín dụng/ tổng dư nợ tín dụng (Loan loss provisions over total loans) Giả thiết H05: Dự phòng rủi ro tín dụng có tác động ngược chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng 2.4.2.1.6 Tỷ lệ tăng trƣởng GDP hàng năm Là thước đo tăng trưởng của một nền kinh tế sau khi điều chỉnh tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sẽ tác động đến nhiều yếu tố từ đó làm ảnh hưởng đến cung cầu của ngân hàng như tiền gửi, dư nợ cho vay Theo nghiên cứu của Alper và Anbar (2011), Andreas và Gabrielle (2010) thì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế có
  42. 42 quan hệ cùng chiều đối với lợi nhuận ngân hàng. Vì vậy tác giả dự đoán tốc độ tăng trưởng GDP ảnh hưởng tích cực đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Đo lường: Tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm (GDP growth rate) Giả thiết H06: Tỷ lệ tăng trưởng GDP có tác động cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng 2.4.2.1.7 Tỷ lệ lạm phát Tỷ lệ lạm phát là tốc độ tăng mặt bằng giá của nền kinh tế. Thông thường, người ta tính tỷ lệ lạm phát dựa vào chỉ số giá tiêu dùng. Theo nghiên cứu của Perry (1992) thì mối quan hệ giữa lạm phát và lợi nhuận có thể thuận chiều hoặc ngược chiều. Nếu tỷ lệ lạm phát có thể dự đoán trước được thì các ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất để tăng doanh thu hơn chi phí. Ngược lại, nếu tỷ lệ lạm phát không thể dự đoán được các ngân hàng điều chỉnh lãi suất không hợp lý có thể làm cho chi phí tăng nhanh hơn doanh thu. Theo nghiên cứu của Davydenko (2011) thì tỷ lệ làm phát tác động ngược chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Nhưng theo nghiên cứu của Ponce (2012); Sufian (2011); Sufian (2010) cho thấy mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ suất sinh lợi. Tác giả dự đoán tác động hai chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Đo lường: Tỷ lệ lạm phát theo năm (Inflation rate) Giả thiết H07: Tỷ lệ lạm phát có tác động hai chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng 2.4.2.1.8 Lãi suất cho vay Tác giả sử dụng lãi suất cho vay bình quân của ngành ngân hàng và kỳ vọng nó tác động tích cực đến tỷ suất sinh lợi bởi vì lãi suất cho vay ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Theo nghiên cứu của Obamuyi (2013) thì lãi suất cho vay tác động tích cực đến lợi nhuận và tỷ suất sinh lợi của ngân hàng. Đo lường: Lãi suất cho vay bình quân (average lending interest rate)
  43. 43 Giả thiết H08: Lãi suất cho vay bình quân có tác động cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng Bảng 2.2 Tóm tắt các biến và mối tƣơng quan kỳ vọng giữa các biến độc lập và các biến phụ thuộc CÁC BIẾN CÁCH TÍNH KÝ HIỆU Biến phụ thuộc: Tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết Lợi nhuận ròng trên tổng ROA ROA tài sản bình quân Lợi nhuận ròng trên vốn ROE ROE chủ sở hữu bình quân Biến Độc Lập Mối quan hệ tƣơng quan Các biến độc lập vi mô kỳ vọng Quy mô ngân hàng Logarit của tổng tài sản SIZE + Vốn chủ sở hữu trên tổng Quy mô vốn chủ sở hữu CA +/- tài sản Tiền gửi khách hàng trên Tiền gửi khách hàng DE + tổng tài sản Dư nợ tín dụng trên tổng Dư nợ tín dụng LO +/- tài sản Dự phòng rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng PL - trên dư nợ tín dụng Các biến độc lập vĩ mô Tốc độ tăng trưởng Tốc độ tăng trưởng GDP GDP + GDP thực hàng năm Tỷ lệ lạm phát Tỷ lệ lạm phát hàng năm INF +/- Lãi suất cho vay Lãi suất cho vay bình quân LI + Nguồn: tổng hợp theo thiết kế nghiên cứu của tác giả
  44. 44 2.4.3 Mô Hình Nghiên Cứu Thực Nghiệm Để đánh giá mức độ tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài lên tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết tại Việt Nam, tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu sau: TSSLit = α + β1SIZEit + β2CAit + β3DEit + β4LOit + β5PLit + β6GDPit + β7INFit + β8LIit + ε it Trong đó: - TSSLit: là tỷ suất sinh lợi của ngân hàng i tại thời điểm t, được lượng hóa bởi hai tỷ số là ROA và ROE. - SIZEit: là quy mô của ngân hàng i tại thời điểm t. - CAit: là quy mô vốn điều lệ của ngân hàng i tại thời điểm t. - DEit: là chỉ số tiền gửi khách hàng của ngân hàng i tại thời điểm t. - LOit: là chỉ số dư nợ tín dụng của ngân hàng i tại thời điểm t. - PLit: là chỉ số rủi ro tín dụng của ngân hàng i tại thời điểm t. - GDPit: là tốc độ tăng trưởng GDP tại thời điểm t - INFit: là tỷ lệ lạm phát tại thời điểm t - LIit: là lãi suất cho vay tại thời điểm t - α: là tung độ gốc - β: là hệ số tương quan - ε it: là sai số hồi quy 2.4.5 Kết Quả Nghiên Cứu 2.4.5.1 Thống Kê Mô Tả Các Biến
  45. 45 Bảng 2.3 Thống kê mô tả các biến Bình quân Nhỏ nhất Lớn nhất Độ lệch chuẩn Mẫu quan sát (mean) (minimum) (maximum) (st. dev) (observations) ROA 0,0147 0,0034 0,0313 0,0054 49 ROE 0,1758 0,0432 0,4280 0,0769 49 SIZE 5,1160 4,0920 5,7600 0,3796 49 CA 0,0919 0,0426 0,2662 0,0418 49 DE 0,6052 0,2267 0,8290 0,1158 49 LO 0,5132 0,3308 0,8058 0,1105 49 PL 0,0118 0,0244 0,0019 0,0013 49 GDP 0,0592 0,0520 0,0710 0,0064 49 INF 0,1161 0,0604 0,2310 0,0614 49 LI 0,1317 0,1010 0,1700 0,0235 49 Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả Theo kết quả của bảng 3.2 thống kê mô tả thì biến ROA có giá trị trung bình là 1,4%. Hơn nữa độ lệch chuẩn của ROA là rất nhỏ đạt 0,54% cho thấy mức độ tương đồng cao trong tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản giữa các ngân hàng thương mại niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Biến ROE có giá trị trung bình là 17,58%, độ lệch chuẩn của ROE là 7,6% cho thấy cũng không có sự khác nhau lớn trong hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu giữa các ngân hàng thương mại niêm yết. Biến SIZE quy mô ngân hàng có giá trị trung bình là 5,1160 (đã lấy log cơ số 10 của tổng tài sản) độ lệch chuẩn là 37,96% cho thấy sự không tương đồng cao về quy mô giữa các ngân hàng thương mại niêm yết. Biến CA quy mô vốn chủ sở hữu có giá trị trung bình 9,19%, độ lệch chuẩn 4,18% cho thấy mức độ tương đồng trong quy mô vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của các ngân hàng niêm yết. Biến DE tiền gửi khách hàng có giá trị trung bình là 60,52%, độ lệch chuẩn 11,58% cho thấy không có sự khác nhau lớn giữa tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản của các ngân hàng niêm yết.
  46. 46 Biến LO dư nợ cho vay có giá trị trung bình 51,32% và độ lệch chuẩn là 11,05% cho thấy không có sự khác nhau lớn giữa dư nợ cho vay trên tổng tài sản của các ngân hàng niêm yết Biến PL rủi ro tín dụng có giá trị trung bình là 1,18%, độ lệch chuẩn 0,13% cho thấy mức độ tương đồng cao giữa dự phòng rủi ro trên tổng dư nợ giữa các ngân hàng niêm yết. Các biến vĩ mô GDP tốc độ tăng trưởng kinh tế, INF tỷ lệ lạm phát, LI lãi suất cho vay có giá trị trung bình lần lượt là 5,92%; 11,61%; 13,7%. 2.4.5.2 Kết Quả Nghiên Cứu Bảng 2.4 Kết quả phân tích tƣơng quan giữa các biến độc lập SIZE CA DE LO PL GDP INF LI SIZE 1 CA -0,6273 1 DE 0,2306 -0,0890 1 LO 0,5739 -0,1334 0,4156 1 PL 0,2877 -0,1848 0,3896 0,1212 1 GDP 0,0299 -0,1248 0,0680 -0,0187 0,0577 1 INF -0,2236 0,0664 -0,2324 -0,2068 -0,0414 0,0443 1 LI -0,0258 -0,0671 -0,3242 -0,1088 0,0502 0,0321 0,8746 1 Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả Theo kết quả phân tích tương quan giữa các biến độc lập của bảng 3.3 ta thấy hệ số tương quan giữa biến INF và LI khá cao là 0,8746 > 0,8. Hệ số tương quan cao cho thấy đã có hiện tượng đa cộng tuyến tính tồn tại trong dữ liệu nghiên cứu mà cụ thể là giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất cho vay trung bình của thị trường ngân hàng. Nguyên nhân có thể là do lãi suất cho vay được các ngân hàng điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát để đảm bảo mức sinh lợi trên đồng vốn cho vay. Xét về đặc điểm hoạt động của các ngân hàng niêm yết của Việt Nam thì lãi suất cho vay sẽ ảnh
  47. 47 hưởng rất nhiều đến tỷ suất sinh lợi so với tỷ lệ lạm phát. Vì thế để xử lý hiện tượng đa cộng tuyến tính trên tác giả tiến hành loại bỏ biến INF tỷ lệ lạm phát ra khỏi mô hình. Hệ số tương quan của các cặp biến còn lại không có trường hợp nào vượt quá 0,8. Mô hình hồi quy mới TSSLit = α + β1SIZEit + β2CAit + β3DEit + β4LOit + β5PLit + β6GDPit + β7LIit + ε it Bảng 2.5 Kết quả hồi quy mô hình 1- ROA và các nhân tố ảnh hƣởng Dependent Variable: ROA Method: Least Squares Date: 01/14/15 Time: 21:48 Sample: 1 49 Included observations: 49 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C 0.006101 0.017151 0.355695 0.7239 SIZE 0.000903 0.002954 0.305866 0.7613 CA 0.033066 0.021675 1.525557 0.1548 DE 0.013534 0.007246 1.867845 0.0689 LO -0.024446 0.008422 -2.902540 0.0059 PL -0.372822 0.146294 -2.548448 0.0147 GDP -0.003816 0.103325 -0.036932 0.9707 LI 0.075224 0.030100 2.499118 0.0165 R-squared 0.416378 Mean dependent var 0.014674 Adjusted R-squared 0.316736 S.D. dependent var 0.005446 S.E. of regression 0.004502 Akaike info criterion -7.820430 Sum squared resid 0.000831 Schwarz criterion -7.511561 Log likelihood 199.6005 Hannan-Quinn criter. -7.703245 F-statistic 4.178716 Durbin-Watson stat 1.708238 Prob(F-statistic) 0.001486 Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả Hệ số Durbin-Watson của mô hình 1 là 1,708238 theo bảng 2.5 nằm trong khoảng 1 đến 3 nên không có có hiện tượng tự tương quan trong Mô hình 1.
  48. 48 Theo bảng 2.5 hệ số R2 = 0,3167 cho thấy các biến độc lập giải thích 31,67% sự thay đổi của biến phụ thuộc. Tiến hành kiểm định Glejser để kiểm định phương sai thay đổi với giả thiết sau: H0: Mô hình không xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. H1: Mô hình xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Bảng 2.6: Kết quả kiểm định Glejser của mô hình hồi quy 1 Heteroskedasticity Test: Glejser F-statistic 0.509567 Prob. F(8,40) 0.8219 Obs*R-squared 3.921775 Prob. Chi-Square(8) 0.7887 Scaled explained SS 3.607859 Prob. Chi-Square(8) 0.8237 Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của tác giả Từ bảng 2.6 kiểm định Glejser , ta có P_value 0,7887 > α = 0,05 (ở mức ý nghĩa 5%) cho nên chấp nhận H0. Vậy mô hình không xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Bảng 2.7 Kết quả hồi quy mô hình 2 - ROE và các nhân tố ảnh hƣởng Dependent Variable: ROE Method: Least Squares Date: 01/14/15 Time: 21:49 Sample: 1 49 Included observations: 49 Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob. C -0.102261 0.229448 -0.445684 0.6582 SIZE 0.069279 0.039517 1.753145 0.0871 CA -0.595099 0.289963 -2.052326 0.0466 DE 0.230429 0.096937 2.377100 0.0222 LO -0.426953 0.112676 -3.789229 0.0005 PL -5.478162 1.957123 -2.799090 0.0078 GDP 0.234224 1.382288 0.169446 0.8663 LI 0.827863 0.402680 2.055884 0.0462
  49. 49 R-squared 0.476385 Mean dependent var 0.175835 Adjusted R-squared 0.386987 S.D. dependent var 0.076920 S.E. of regression 0.060224 Akaike info criterion -2.633201 Sum squared resid 0.148705 Schwarz criterion -2.324332 Log likelihood 72.51341 Hannan-Quinn criter. -2.516016 F-statistic 5.328819 Durbin-Watson stat 1.629529 Prob(F-statistic) 0.000217 Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả Hệ số Durbin-Watson của mô hình 1 là 1,629529 theo bảng 2.7 nằm trong khoảng 1 đến 3 nên không có có hiện tượng tự tương quan trong mô hình 1. Theo bảng 2.7 hệ số R2 = 0,3869 cho thấy các biến độc lập giải thích 38,69% sự thay đổi của biến phụ thuộc. Tiếp tục tiến hành kiểm định Glejser để kiểm định mô hình phương sai có thay đổi hay không với giả thiết sau: H0: Mô hình không xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi H1: Mô hình xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Bảng 2.8: Kết quả kiểm định Glejser của mô hình hồi quy 2 Heteroskedasticity Test: Glejser F-statistic 0.216790 Prob. F(7,41) 0.9794 Obs*R-squared 1.748898 Prob. Chi-Square(7) 0.9724 Scaled explained SS 1.539224 Prob. Chi-Square(7) 0.9809 Nguồn: kết quả phân tích dữ liệu của tác giả Từ bảng 2.8 kiểm định Glejser, ta có P_value 0,9724 > α = 0,05 (ở mức ý nghĩa 5%) cho nên chấp nhận H0. Vậy mô hình không xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi. Kết quả hồi quy của hai bảng 2.5 và 2.7 chi tiết nhƣ sau:
  50. 50 SIZE: Biến quy mô ngân hàng mang giá trị dương đối với cả hai biến phụ thuộc ROA và ROE, tuy nhiên nó không có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 15% đối với ROA (P_value = 76,13% > 15%) mà chỉ có ý nghĩa thống kê đối với ROE (P_value = 0,08% < 10%). Khi các yếu tố khác không đổi, nếu quy mô ngân hàng tăng 1% thì giá trị bình quân của ROE sẽ tăng 6,9%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Riaz (2011), Sufian (2010), Alper và Anbar (2011), Pasiouras và Kosmidou (2007) điều này chứng tỏ các ngân hàng niêm yết có thể đạt được lợi thế về quy mô để gia tăng tỷ suất sinh lợi trong quá trình kinh doanh. CA: Biến quy mô vốn chủ sở hữu mang giá trị dương và không có ý nghĩa thống kê đối với ROA nhưng lại có giá trị âm và có ý nghĩa thống kê đối với ROE ở mức ý nghĩa 5%. Cụ thể, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi khi quy mô vốn chủ sở hữu tăng 1% thì giá trị bình quân của ROE sẽ giảm 59,5%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Saona (2011); Ali và các cộng sự (2011), tuy nhiên lại không phù hợp với hầu hết các nghiên cứu khác như Athanasoglou và các cộng sự (2005), Sufian (2010), Davydenko (2010). Việc quy mô vốn chủ sở hữu có quan hệ ngược chiều với ROA tại các ngân hàng niêm yết của Việt Nam có thể là do trước sức ép bắt buộc tăng vốn nhanh của ngân hàng nhà nước nhưng việc tăng vốn quá nhanh đã không mang lại hiệu quả thậm chí lợi nhuận còn giảm đi so với các năm trước đó. Một số ngân hàng đã tăng vốn bằng mọi giá và không bằng chính thực lực của mình, thực hiện luân chuyển vốn lòng vòng để có thể tăng được vốn làm gia tăng tình trạng sở hữu chéo cũng như lợi ích nhóm gây ra những rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng. DE: Biến tiền gửi khách hàng có hệ số hồi quy dương đối với cả hai biến phụ thuộc ROA và ROE có ý nghĩa thống kê đối với ROA ở mức ý nghĩa 10%, có ý nghĩa thống kê đối với ROE ở mức ý nghĩa5%. Cụ thể là khi các yếu tố khác không đổi nếu biến tiền gửi khách hàng tăng 1% thì giá trị bình quân ROA sẽ tăng 1,3% và giá trị bình quân của ROE sẽ tăng 23,04%. Điều này phù hợp với các nghiên cứu của Riaz (2011); Deger và Adem (2011); Phan Thị Hằng Nga (2011).
  51. 51 LO: Biến dư nợ tín dụng có hệ số hồi quy âm và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5% đối với cả hai biến phụ thuộc ROE và ROA. Qua kết quả này thì chúng ta thấy dự nợ tín dụng có mối quan hệ tương quan nghịch đối với tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi dư nợ tín dụng tăng 1% thì giá trị bình quân của ROA và ROE giảm lần lượt là 2,44% và 42,69%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Alper và Anbar (2011); Phan Thị Hằng Nga (2011). Điều này cho thấy việc gia tăng dư nợ của các ngân hàng niêm yết chưa đi cùng với chất lượng tín dụng. PL: Biến rủi ro tín dụng có hệ số hồi quy âm và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5% đối với cả hai biến phụ thuộc ROE và ROA. Cụ thể nếu các yếu tố khác không đổi thì khi dư nợ tín dụng tăng 1% thì giá trị bình quân của ROA và ROE giảm lần lượt là 37,28% và 547%. Điều này cho thấy biến rủi ro tín dụng tác động rất mạnh đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Athanasoglou và các cộng sự (2005), Davydenko (2010), Riaz (2011), Ramlall (2009), Sufian (2011). GDP: Biến tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm mang giá trị âm đối với ROA và dương đối với ROE tuy nhiên cả hai đều không có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 15% tuy nhiên, như đã phân tích ở phần thực trạng của chương 2 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế có tác động khá nhiều đến hoạt động của ngân hàng với tỷ suất sinh lợi, đây là một biến khá quan trọng tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết tại Việt Nam. Nguyên nhân có thể là do cách tính chỉ số GDP của Việt Nam mang tính đặc thù và các công cụ thống kê của Việt Nam chưa thực sự hiệu quả. Kết quả nghiên cứu này không phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Alper và Anbar (2011), Andreas và Gabrielle (2010). LI: Biến lãi suất cho vay bình quân có hệ số hồi quy mang giá trị dương có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5% đối với cả hai biến phụ thuộc ROE và ROA. Cụ thể nếu các yếu tố khác không đổi thì khi lãi suất cho vay tăng 1% thì giá trị bình
  52. 52 quân của ROA và ROE tăng lần lượt là 7,52% và 82,78%. Kết quả nghiên cứu phù hợp với các kết quả nghiên cứu của Ponce (2012), Sufian (2011), Sufian (2010). Bảng 2.9: Tổng hợp các kết quả kiểm định. Biến Kết quả Giả thiết H0 độc lập ROA ROE Quy mô ngân hàng có tác động cùng chiều Không có ý SIZE + đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng (+) nghĩa thống kê Quy mô vốn chủ sở hữu có tác động hai CA + - chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng (+/-) Tiền gửi khách hàng có tác động cùng chiều DE + + đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng (+) Dư nợ tín dụng có tác động hai chiều đến tỷ LO - - suất sinh lợi của ngân hàng (+/-) Rủi ro tín dụng có tác động ngược chiều đến PL - - tỷ suất sinh lợi của ngân hàng (-) Tỷ lệ tăng trưởng GDP có tác động cùng Không có ý Không có ý GDP chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng (+) nghĩa thống kê nghĩa thống kê Lãi suất cho vay bình quân có tác động cùng LI + + chiều đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng (+) Nguồn: tổng hợp từ kết quả nghiên cứu của tác giả Phương trình hồi quy của hai mô hình hồi quy ROA, ROE và các nhân tố ảnh hưởng: ROA = 0,0009SIZE + 0,033CA + 0,0135DE - 0,0232LO – 0,3728PL - 0.0038GDP + 0,0752LI ROE = 0,0692SIZE – 0,595CA + 0,2304DE – 0,4269LO – 5,4781PL + 0,2342GDP+ 0,3658LI Đánh giá chung về các nhân tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết thông qua phân tích thực trạng và qua kết quả nghiên cứu, thì rủi ro tín dụng là nhân tố tác động nhiều nhất và ngược chiều đến tỷ suất sinh lợi cả ROA
  53. 53 và ROE. Tiếp đến là biến quy mô vốn chủ sở hữu, dư nợ tín dụng, lãi suất cho vay, tiền gửi khách hàng, tố độ tăng trưởng GDP và quy mô ngân hàng cũng có tác động đến tỷ suất sinh lợi nhưng ít hơn nhiều so với biến rủi ro tín dụng. KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 Chương 2 đã tập trung vào phân tích thực trạng và đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết được lượng hóa bằng hai biến là ROA và ROE. Sau khi kiểm định mối quan hệ tương quan, phương sai thay đổi, kiểm định ý nghĩa các hệ số hồi quy tác giả nhận thấy đối với biến phụ thuộc ROA thì có 5 biến độc lập có ý nghĩa thống kê đó là quy mô vốn chủ sở hữu (CA), tiền gửi khách hàng (DE), dư nợ tín dụng (LO), rủi ro tín dụng (PL), lãi suất cho vay (LI); biến phụ thuộc ROE thì có 6 biến độc lập có ý nghĩa thống kê đó là quy mô ngân hàng (SIZE), quy mô vốn chủ sở hữu (CA), tiền gửi khách hàng (DE), dư nợ tín dụng (LO), rủi ro tín dụng (PL), lãi suất cho vay (LI). Tổng hợp lại kết quả nghiên cứu kết hợp với phân tích ý nghĩa có 7 biến độc lập tác động đến biến phụ thuộc tỷ suất sinh lợi bao gồm: quy mô ngân hàng, quy mô vốn chủ sở hữu, tiền gửi khách hàng, dư nợ tín dụng, rủi ro tín dụng, lãi suất cho vay và tốc độ tăng trưởng GDP.
  54. 54 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VẬN DỤNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ NHẰM NÂNG CAO TỶ SUẤT SINH LỢI CỦA CÁC NGÂN HÀNG NIÊM YẾT 3.1 Định hƣớng nâng cao tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết trong thời gian tới. VietinBank chủ trương tiếp tục đẩy mạnh tăng trưởng, chiếm lĩnh thị trường về cả tín dụng, huy động và dịch vụ. Tập trung thực hiện tái cấu trúc toàn diện ngân hàng theo hướng hiện đại. Nâng cao tiềm lực tài chính, năng lực cạnh tranh, đổi mới, nâng cấp mô hình tổ chức, mô hình kinh doanh, quản trị điều hành phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; đảm bảo hoạt động của VietinBank tăng trưởng an toàn, hiệu quả, bền vững, tối đa hóa lợi nhuận. Vietcombank phát triển và mở rộng hoạt động để trở thành Tập đoàn ngân hàng tài chính đa năng có sức ảnh hưởng trong khu vực và quốc tế. Tiếp tục khẳng định vị thế đối với mảng hoạt động kinh doanh lõi của Vietcombank là hoạt động ngân hàng thương mại dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại với nguồn nhân lực chất lượng cao và quản trị theo chuẩn mực quốc tế. Tiếp tục củng cố phát triển bán buôn, đẩy mạnh hoạt động bán lẻ làm cơ sở nền tảng phát triển bền vững. Duy trì và mở rộng thị trường hiện có trong nước và phát triển ra thị trường nước ngoài. An toàn và hiệu quả trong kinh doanh là mục tiêu hàng đầu. Ngân hàng đạt hiệu suất sinh lời cao nhất và đạt ROE tối thiểu 15%. ACB tập trung nguồn lực xử lý nợ xấu và quản lý rủi ro, nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động kinh doanh, tối đa hóa lợi nhuận. Ưu tiên tập trung phát triển hoạt động kinh doanh ngân hàng bán lẻ, với các phân đoạn khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa, khách hàng cá nhân, đảm bảo khả năng phát triển bền vững, an toàn, hiệu quả của ngân hàng trong giai đoạn sắp tới.
  55. 55 Eximbank đẩy mạnh hoạt động huy động vốn đối với khách hàng cá nhân và tổ chức kinh tế nhằm tăng thị phần của Eximbank. Tăng cường công tác quản lý rủi ro, áp dụng các chuẩn mực quốc tế vào trong hoạt động của ngân hàng nhằm đảm bảo Eximbank phát triển an toàn và bền vững. Đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất và phát triển mạng lưới phục vụ cho hoạt động kinh doanh, tăng cường sư hiện diện của Eximbank tại TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội và một số tỉnh, thành có tiềm lực kinh tế, các trung tâm thương mại, khu công nghiệp, khu chế xuất. Sacombank xác định mô hình kinh doanh theo hướng ngày càng giảm sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và nâng cao hơn nữa tỷ trọng nguồn thu ngoài lãi. Tín dụng vẫn là hoạt động trọng yếu tuy nhiên sẽ được san sẻ cho các mục đích khác để đa dạng khả năng sử dụng vốn nhằm đảm bảo tính an toàn, hiệu quả, kiểm soát rủi ro tốt và sinh lời tối đa. Tăng cường huy động vốn từ dân cư, tập trung khai thác nguồn vốn trung dài hạn trong và ngoài nước để đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả. MBbank đạt mục tiêu tốc độ tăng trưởng hàng năm gấp 1,5 đến 2 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành ngân hàng, là ngân hàng có quản trị rủi ro hàng đầu thông qua xây dựng năng lực quản trị rủi ro vượt trội: xây dựng các công cụ, hạ tầng kiểm soát rủi ro chặt chẽ theo Basel II, quản trị rủi ro hoạt động, cơ chế quản trị rủi ro nhiều lớp phòng ngừa. Phát triển mạng lưới với mục tiêu trở thành ngân hàng thuận tiện, hiện đại, đa năng, phục vụ tốt nhất cho tổ chức và cá nhân, MBbank luôn chú trọng phát triển mạng lưới, kênh phân phối. SHB tập trung nguồn lực để xử lý nợ xấu tiến tới việc kiểm soát nợ xấu dưới 2%. Phát triển ngân hàng bán lẻ đa năng hiện đại, hướng tới mở rộng thị trường và khách hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng bán lẻ, hiện đại nhằm đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ theo hướng trọn gói, cao cấp và chuyên biệt. Đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào công tác quản trị điều hành, phát triển sản phẩm dịch vụ và quản trị rủi ro ở mức tốt nhất.
  56. 56 3.2 Giải pháp vận dụng tác động của các yếu tố nhằm nâng cao tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. 3.2.1 Giải pháp về rủi ro tín dụng Theo kết quả phân tích ở chương 2 thì rủi ro tín dụng là yếu tố tác động mạnh nhất và có mối quan hệ ngược chiều đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. Vì thế để nâng cao tỷ suất sinh lợi các ngân hàng niêm yết cần phải giảm rủi ro tín dụng ở mức thấp nhất có thể. Để giảm rủi ro tín dụng các ngân hàng niêm yết cần phải tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp hạn chế nợ xấu gia tăng như siết chặt và kiểm soát hoạt động cho vay đặc biệt là quy trình thẩm định khách hàng vay vốn. Các ngân hàng niêm yết có thể xử lý nợ xấu thông qua quỹ dự phòng rủi ro, bán nợ cho VAMC, xử lý tài sản đảm bảo và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Đối với tình hình diễn biến phức tạp của nợ xấu hiện nay xử lý nợ xấu đang là một yêu cầu đặt ra không chỉ với bản thân các ngân hàng niêm yết mà còn cả toàn bộ hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. Nợ xấu lớn như hiện nay cũng đã làm ách tắc dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực không chỉ với các tổ chức tín dụng mà còn cả các doanh nghiệp. Do bị đọng vốn trong nợ xấu, các tổ chức tín dụng không có điều kiện mở rộng tăng trưởng tín dụng, khiến cho hoạt động sản xuất của nền kinh tế gặp khó khăn. Xử lý được nợ xấu sẽ góp phần hạ mặt bằng lãi suất, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng lành mạnh và góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng bền vững. Các ngân hàng niêm yết cần quyết liệt trong việc quản lý rủi ro tín dụng, tiến hành phân loại nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, từ đó có căn cứ đưa ra các giải pháp phù hợp với từng ngân hàng niêm yết. Để giải quyết nợ xấu triệt để thì bản thân các ngân hàng niêm yết không thể tự mình xử lý hết được mà cần có sự hỗ trợ từ chính phủ và NHNN, cụ thể các bên cần phối hợp để thực hiện tốt các giải pháp sau: - Nhanh chóng triển khai Basel II: Việc triển khai áp dụng Basel II cũng như xu hướng nâng cao các chuẩn mực trong hoạt động của các ngân hàng là yêu cầu tất yếu. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và TCTD
  57. 57 - Vận hành Công ty Quản lý tài sản Việt Nam VAMC phải có hiệu quả. - Phát triển thị trường mua bán nợ. - Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để các TCTD tuân thủ đúng các quy tắc về hoạt động ngân hàng đặc biệt là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro và quy định về an toàn tín dụng. - Tranh thủ sự ủng hộ của các định chế tài chính và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu. - Tăng cường giám sát hoạt động của DNNN, bên cạnh đó, cần phải nâng cao hiệu quả đầu tư công và đầu tư công cần phải có tác động lan tỏa để hỗ trợ đầu tư tư nhân. - Phục hồi thị trường bất động sản và chứng khoán. . 3.2.2 Giải pháp về vốn chủ sở hữu Qua mối quan hệ nghịch biến giữa quy mô vốn chủ sở hữu và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết thì ta thấy được việc gia tăng vốn chủ sở hữu chưa hiệu quả điển hình nhất là ngân hàng ACB. Tuy nhiên, như đã phân tích thực trạng về vốn chủ sở hữu thì đối với tình hình của Việt Nam từ chương 2 các ngân hàng niêm yết của chúng ta thì vốn chủ sở hữu vẫn thấp hơn nhiều so với các ngân hàng nước ngoài thì việc gia tăng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng niêm yết là cần thiết cũng như nó sẽ giúp cho các ngân hàng niêm yết nâng cao lá chắn của mình khi nền kinh tế gặp cú sốc, không chỉ hỗ trợ ứng phó rủi ro mà còn là đòn bẩy tài chính để các ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống. Nhưng việc tăng vốn cần phải từng bước một kết hợp với hệ thống quản trị vốn tốt mới có thể nâng cao tỷ suất sinh lợi. Việc tăng vốn chủ sở hữu hay chọn một cơ cấu nguồn vốn tối ưu tùy thuộc vào điều kiện, tình hình cũng như khả năng của từng ngân hàng ngân hàng niêm yết, tuy nhiên cần chú ý đến tính hiệu quả của đồng vốn tăng thêm. Trong một nền kinh tế khi hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán chưa phát triển như Việt Nam thì việc các ngân
  58. 58 hàng niêm yết cần có tầm nhìn dài hạn bằng cách xây dựng cho mình một cơ cấu vốn mục tiêu, nhưng phải linh hoạt trong việc sử dụng đòn bẩy tài chính để huy động nguồn vốn giá rẻ. Xét theo tình hình thực tế hiện nay của các ngân hàng niêm yết của Việt Nam thì quản trị vốn chủ sở hữu cần chú ý vốn chủ sở hữu và quản trị vốn phải đảm bảo tính an toàn trong hoạt động bảo vệ mỗi ngân hàng niêm yết và cả hệ thống ngân hàng tránh khỏi và vượt qua được các cuộc khủng hoảng tài chính, tránh gây đổ vỡ toàn hệ thống. Do vậy, quản trị vốn ngân hàng theo những quy tắc và thông lệ tốt nhất, mỗi một ngân hàng niêm yết cần đặt ưu tiên hàng đầu để phát triển ổn định, bền vững. Điều này còn quan trọng hơn nữa khi ngành ngân hàng Việt Nam đang trong các giai đoạn đầu tiên trong quá trình tái cơ cấu ngành theo đề án: “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015” được ban hành theo Quyết định 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2011. Để có thể tồn tại và phát triển, ngay lúc này, các ngân hàng phải ngồi lại với nhau để bàn đến việc hợp nhất, sáp nhập. Đây cũng là mục tiêu của đề án tái cơ cấu của ngành đang được ngân hàng Nhà Nước đẩy mạnh. 3.2.3 Giải pháp dƣ nợ tín dụng Theo kết quả kiểm định thực nghiệm dư nợ tín dụng và rủi ro tín dụng có mối quan hệ tương quan nghịch với tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. Điều này cho thấy ở thời điểm hiện tại các ngân hàng niêm yết gia tăng dư nợ nhưng không hiệu quả, không đi đôi với việc kiểm soát rủi ro tín dụng tốt. Và một điều hiển nhiên đối với các ngân hàng niêm yết là phải kiểm soát rủi ro tín dụng, giải quyết nợ xấu đi đôi với gia tăng dư nợ là điều vô cùng quan trọng mà các ngân hàng này bắt buộc phải thực hiện. Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất đối với các ngân hàng và trong bối cảnh các ngân hàng niêm yết đang khó khăn trong việc tìm dòng vốn đầu ra thì việc gia tăng dư nợ tín dụng là cần thiết và là thực tế trong lúc này, dư nợ tín dụng tăng cao sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho các ngân hàng niêm yết nếu đi kèm là chất lượng tín dụng được nâng cao, nhưng nó sẽ là rủi ro cực kỳ nguy hiểm gia tăng dư
  59. 59 nợ không đi kèm với chất lượng tín dụng, ngân hàng có thể mất toàn bộ số vốn cho vay. Để gia tăng dư nợ trước hết các ngân hàng niêm yết cần điều chỉnh cơ cấu dư nợ các khoản vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn phụ hợp theo nguồn vốn của mình, đa dạng hóa danh mục tín dụng, tìm kiếm các nguồn vốn đầu vào giá rẻ, đưa ra các chương trình khuyến mãi vay vốn, tuy nhiên cần chú ý giảm dư nợ tín dụng có rủi ro nhiều trong thời điểm hiện nay như kinh doanh chứng khoán và bất động sản. 3.2.4 Giải pháp về tiền gửi khách hàng Ngân hàng là một tổ chức tài chính trung gian huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế và sử dụng vốn cho vay để hưởng chênh lệch. Nguồn vốn huy động từ tiền gửi khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng quyết định đến lợi nhuận cũng như tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. Theo kết quả kiểm định thực nghiệm thì tiền gửi khách hàng có tác động cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết. Để có thể gia tăng huy động vốn các ngân hàng niêm yết của Việt Nam cần đa dạng các sản phẩm dịch vụ và chương trình khuyến mãi, phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch một cách phù hợp, đẩy mạnh việc quãng bá thương hiệu. Với lợi thế về thương hiệu, mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch rộng Vietinbank và Vietcombank là hai trong các ngân hàng niêm yết có lượng tiền gửi khách hàng lớn và tăng trưởng nhanh qua các năm, Vietinbank và Vietcombank cần tận dụng lợi thế này để gia tăng lượng tiền gửi của khách hàng từ đó sẽ tác động làm gia tăng tỷ suất sinh lợi của ngân hàng mình. Ngoài ra các ngân hàng niêm yết của Việt Nam cần đa dạng hóa các hình thức và kênh huy động vốn thậm chí là nên tính trước phương án là phát hành trái phiếu ra nước ngoài để huy động vốn giá rẻ phục vụ cho mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. 3.2.5 Giải pháp về quy mô ngân hàng Biến quy mô ngân hàng và tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng niêm yết có mối quan hệ tương quan thuận, mặt khác biến số này được đo lường thông qua giá