Tác phẩm Văn minh và những bất mãn từ nó - Sigmund Freud
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tác phẩm Văn minh và những bất mãn từ nó - Sigmund Freud", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- tac_pham_van_minh_va_nhung_bat_man_tu_no_sigmund_freud.pdf
Nội dung text: Tác phẩm Văn minh và những bất mãn từ nó - Sigmund Freud
- Văn minh và những Bất mãn từ nó Sigmund Freud (1856 – 1939) Civilization and Its Discontents (1930) Lời người dịch Trong Future of an Illusion (1927) Freud phê phán các tổ chức tôn giáo độc thần Abraham là một lường gạt tập thể, một huyễn tưởng của nhân loại (a mass “delusion” - từ R. Dawkins dùng lại trong tác phẩm gần đây rất nổi tiếng của ông The God delusion). Đến năm 1930, tác phẩm này - Civilization and Its Discontents ra đời sau khi châu Âu vừa chấm dứt một cuộc chiến kinh hoàng, trong đó tất cả sức mạnh của khoa học kỹ thuật đã đem dùng để tàn sát con người – thế chiến thứ I. Đây là một tác phẩm tuy ngắn nhưng rất quan trọng và chính yếu của tư tưởng Freud, cũng là tác phẩm nay đã thành cổ điển và phổ thông nhất của ông. Những mâu thuẫn cá nhân nội tại trong não thức, trước đây ông đã tiên phong dùng kỹ thuật phân tâm để hiển lộ những ego và id, ẩn dấu dưới đáy vô thức - tên ông gọi - nay ông phóng chiếu ra xã hội phương Tây, để thấy văn minh con người xây dựng cũng chính là một không gian tranh chấp, một đấu trường giữa cá nhân và tập thể. Văn minh có một giá con người phải trả, đó là phải chịu những bất mãn nó đem theo cùng với những bước “tiến bộ” của nó. Chủ đề của Freud là văn minh đến nay do con người dựng nên ở phương Tây, không nhất thiết phục vụ con người. Theo ông chính văn minh tự nó là nguồn của những bất mãn, những không hạnh phúc của những con người tự gọi mình là văn minh. Con người bị
- câu thúc đến dồn nén thành điên rồ, ông cảnh cáo - thế nên văn minh cũng có thể trở nên điên rồ, vì cả hai đã phát triển song song. Nhìn con người như luôn luôn tìm thỏa mãn những bản năng tự nhiên dù bản chất là ích kỷ và tham lam ham hố, và văn minh như những động lực xã hội ngăn cấm, kiểm soát hay đè nén chúng, nên trong xã hội phương Tây, luôn thường trực một ám ảnh quen thuộc về phạm cấm, về tội lỗi. Và ám ảnh này – có thể dùng để giải thích sự có mặt dai dẳng và phi lý của đạo Kitô. Tôi chọn dịch bản văn này – trong chiều hướng đó. Trân trọng Lê Dọn Bàn Chương I Không thể nào thoát khỏi ấn tượng rằng người ta thông thường dùng những tiêu chuẩn sai lạc để đo lường - rằng họ tìm quyền lực, thành công và của cải cho chính họ, và ngưỡng phục những điều này thấy trong những người khác, và rằng họ lượng giá non thấp những gì có giá trị chân thực trong đời sống. Và tuy thế, trong khi làm bất kỳ một phán đoán tổng quát nào thuộc loại này, chúng ta ở trong nguy cơ quên mất thế giới con người và đời sống tinh thần của nó muôn màu muôn vẻ như thế nào. Có một số ít người được những người đương thời của họ không kềm được ngưỡng mộ với họ, mặc dù sự lớn lao của những người này nằm trên những cống hiến và những thành tựu hoàn toàn xa lạ với những mục đích và lý tưởng của đám đông quần chúng. Người
- ta có thể dễ dàng nghiêng sang để giả định rằng sau rốt chỉ có một thiểu số tán thưởng những con người lớn lao này, trong khi phần lớn đa số chẳng quan tâm gì đến họ. Nhưng sự việc có lẽ không đơn giản như thế, nhờ vào những bất đồng giữa những suy nghĩ và những hành động của người ta, và vào sự đa dạng nhiều loại của những thôi thúc ước mong của họ. Một vị trong số hiếm hoi khác thường này, tự xưng là bạn tôi trong những thư từ của ông với tôi. Tôi đã gửi ông quyển sách mỏng của tôi, trong đó luận giải tôn giáo như một ảo tưởng [1], và ông trả lời rằng ông hoàn toàn đồng ý với phán xét của tôi về tôn giáo, nhưng ông đã lấy làm tiếc rằng tôi đã không hoàn toàn hiểu thấu nguồn gốc đích thực của những tình cảm tôn giáo. Điều này, ông nói, bao gồm trong một xúc cảm khác thường vốn bản thân ông không bao giờ thiếu vắng, vốn ông tìm được nhiều người khác xác nhận, và ông có thể giả định là nó hiện diện trong hàng triệu người. Đó là một xúc cảm mà ông muốn gọi là một cảm giác về “vĩnh cửu”, một xúc cảm như về một gì đó không cùng tận, không giới hạn - nó đã giống như, là “đại dương” mênh mông. Xúc cảm này, ông nói thêm, là một thực tế hoàn toàn chủ quan, không phải là một tín điều của lòng tin tôn giáo; nó mang theo với nó không bảo đảm nào về bất tử của cá nhân, nhưng nó là nguồn của năng lượng tôn giáo vốn được những Nhà Thờ và những hệ thống tôn giáo khác nhau đã nắm lấy, chúng hướng dẫn nó vào những băng tầng đặc biệt, và không nghi ngờ gì cũng bị chúng làm cạn kiệt. Một người, ông nghĩ rằng, có thể đúng đắn tự gọi mình là có tôn giáo trên nền tảng của chỉ một mình xúc cảm đại dương này mà thôi, ngay cả nếu người ấy
- bác bỏ mọi tin tưởng và mọi ảo tưởng. Quan điểm được bày tỏ từ người mà tôi hết sức vinh dự được xem là bạn, và chính ông là người một lần đã ca ngợi sự kỳ diệu của ảo tưởng trong một bài thơ [2], gây cho tôi không ít khó khăn. Tôi không thể khám phá ra được xúc cảm “đại dương” này trong chính tôi. Không phải là điều dễ dàng để đối phó một cách khoa học với những xúc cảm. Người ta có thể cố gắng để mô tả những dấu hiệu sinh lý của chúng. Chỗ nào điều này là không thể được - và tôi sợ rằng xúc cảm đại dương cũng sẽ thách thức lối mô tả về đặc điểm này - không có gì còn lưu lại, chỉ trừ rơi trở về trên nội dung có tính ý tưởng vốn nó là sẵn sàng nhất được liên kết với xúc cảm. Nếu tôi đã hiểu người bạn tôi cho đúng, với nó ông có ý chỉ về cùng một điều, giống như sự an ủi được một nhà viết kịch sáng tạo và có phần nào lập dị, đem cho người anh hùng của mình là người đang đối mặt với cái chết tự gây ra. “Chúng ta không thể rơi ra ngoài thế giới này” [3]. Đó là nói rằng, nó là một xúc cảm về một sự ràng buộc không thể tháo gỡ, trong tư cách là một với thế giới bên ngoài như một toàn bộ. Tôi có thể nhận xét rằng với tôi điều này có vẻ đúng hơn như một gì đó trong bản chất thuộc về một nhận thức trí thức, vốn nó không phải, nó là sự thật, là không có một giai điệu xúc cảm đi kèm, nhưng chỉ giống như thể sẽ có mặt với bất kỳ hành động khác nào của tư tưởng thuộc cùng phạm vi bằng nhau. Từ kinh nghiệm của riêng tôi, tôi không thể thuyết phục bản thân tôi, về bản chất nguyên thủy của một xúc cảm loại giống như vậy. Nhưng điều này không cho tôi quyền phủ nhận rằng trong thực tế nó xảy ra trong người khác. Câu hỏi duy nhất là liệu nó được thông
- dịch một cách chính xác hay không, và không biết nó có nên được xem như là fons et origo [4] của toàn bộ nhu cầu về tôn giáo hay không. Tôi không có gì để đề nghị hầu có thể có một ảnh hưởng quyết định trên giải pháp của vấn đề này. Ý tưởng về sự tiếp nhận của con người về một điều báo cho biết sự nối kết của họ với thể giới quanh họ qua một xúc cảm trực tiếp, vốn nó từ khởi đầu được hướng về mục đích đó, nghe ra rất lạ và gắn vào quá lệch lạc với dàn khung kết cấu của tâm lý chúng ta – khiến người ta thì có lý do chính đáng trong cố gắng để khám phá một giải thích phân tâm - đó là, một giải thích di truyền - về một xúc cảm loại như vậy. Dòng suy nghĩ nối sau tự nó nảy ra trong trí. Bình thường, không có gì chúng ta chắc chắn về nó hơn là xúc cảm về tự ngã của chúng ta, về ego [5] riêng mỗi chúng ta [6]. Ego này xuất hiện với chúng ta như một gì đó có tính tự trị và nguyên khối đơn nhất, đánh dấu tách biệt rõ rệt với mọi thứ khác. Một dạng ngoài như thế là một đánh lừa, và rằng về mặt ngược lại, ego thì tiếp tục hướng nội, không có bất kỳ phân định nào rõ nét, vào thành một thực thể trí não [7] vô thức vốn chúng ta chỉ định như là cái id , và nó dùng như là một loại mặt tiền cho id - đây đã là một khám phá được khảo cứu phân tích tâm lý thực hiện đầu tiên, vốn sẽ vẫn còn nhiều hơn nữa để nói với chúng ta về sự quan hệ của ego với id. Nhưng hướng ra phía bên ngoài, ở bất kỳ mức độ nào, ego dường như duy trì những đường dây phân giới rõ ràng và sắc nét. Chỉ có duy một trạng thái - đã thừa nhận là một trạng thái không bình thường, nhưng không phải một trạng thái có thể dán nhãn hiệu
- như bệnh lý được - trong trạng thái đó nó không làm điều này. Ở đỉnh cao trong tư cách của yêu đương, ranh giới giữa ego và đối tượng có cơ đe dọa bị tan chảy đi mất. Ngược với tất cả chứng cớ từ những giác quan của mình, một người đang yêu tuyên bố rằng “tôi” và “nàng” là một, và sẵn sàng xử sự như thể đó là một thực tại [8]. Những gì có thể được tạm thời bỏ đi với một chức năng sinh lý (nghĩa là bình thường) tất nhiên, cũng phải chịu để bị quấy nhiễu bởi những tiến trình bệnh lý. Bệnh lý học đã làm chúng ta quen thuộc với một số lượng lớn của những trạng thái trong đó những đường ranh giới giữa ego và thế giới bên ngoài trở nên bất định, hoặc trong đó chúng thực sự không được vẽ chính xác. Có những trường hợp trong đó những phần của cơ thể riêng một người, ngay cả những phần của đời sống trí não của chính ông ta - những nhận thức, những suy nghĩ và những xúc cảm của ông ta -, xuất hiện xa lạ với ông ta và như thể không thuộc về ego của ông ta; có những trường hợp khác, trong đó ông gắn vào thế giới bên ngoài những sự việc rõ ràng bắt nguồn từ ego riêng của ông ta và đáng lẽ phải được nó thừa nhận. Thế nên, ngay cả những xúc cảm của ego riêng của chúng ta là đối tượng của những nhiễu loạn, và những ranh giới của ego không phải là không thay đổi. Suy nghĩ cân nhắc thêm nữa, bảo chúng ta biết rằng cảm-giác-ego của người trưởng thành không thể đã vẫn cùng là một kể từ khi khởi đầu. Nó đã phải trải qua một tiến trình phát triển, tất nhiên, không thể chứng minh được, nhưng nó thừa nhận là được xây dựng với một mức độ xác suất có thể tin được [9]. Một trẻ sơ sinh còn ngậm vú mẹ hẳn vẫn chưa phân biệt được ego của mình với thế giới bên
- ngoài như nguồn của những cảm giác tuôn chảy vào nó. Nó dần dần học để làm như vậy, khi đáp ứng với những thúc giục khác nhau [10]. Nó phải bị ấn tượng rất mạnh mẽ bởi sự kiện là một vài nguồn kích thích, vốn sau này nó sẽ nhận ra như những cơ quan cơ thể chính nó, có thể cung cấp cho nó những cảm giác bất cứ lúc nào, trong khi những nguồn khác thỉnh thoảng lại lẩn trốn khỏi nó - trong đám đó, những gì nó mong muốn hơn tất cả, là bầu vú của người mẹ - và chỉ xuất hiện trở lại, như một kết quả của việc nó la khóc đòi giúp đỡ. Trong cách này, lần đầu tiên có gán đặt một “đối tượng” phản ngược với ego, trong hình thức của một gì đó tồn tại “bên ngoài”, và nó chỉ có thể buộc xuất hiện bằng một hành động đặc biệt [11]. Một khuyến khích xa hơn nữa đi đến một tháo gỡ ego khỏi khối lượng tổng quát của những cảm giác - đó là, đi tới sự nhận thức về một “bên ngoài”, một thế giới bên ngoài - được cung cấp bởi những cảm giác không thể tránh, thường xuyên, và nhiều lớp của đau đớn và khó chịu, bực bội; vốn sự loại bỏ và lẩn tránh chúng được nguyên tắc lạc thú [12] ra lệnh, trong sự thực tập của sự thống trị không hạn định của nó. Một khuynh hướng nổi lên để tách biệt khỏi ego, tất cả mọi thứ có thể trở thành một nguồn của khó chịu loại giống như thế, để ném nó ra bên ngoài, và tạo ra một ego-lạc-thú thuần khiết, vốn nó đương đầu với một “bên ngoài” lạ lùng và đe dọa. Những ranh giới của ego- thuần-lạc-thú nguyên thủy này không thể thoát khỏi sự sửa đổi qua kinh nghiệm. Một số trong những điều mà người ta không muốn buông bỏ, vì
- chúng đem lại lạc thú, tuy nhiên không phải là ego, nhưng là đối tượng; và một vài đau khổ mà người ta tìm cách trục xuất lại quay ra là không thể tách rời được khỏi ego vì tư cách của nguồn gốc bên trong của chúng. Người ta đi đến học một tiến trình, qua một chiều hướng có chủ ý của những hoạt động giác quan của một người, và qua tác động bắp thịt thích hợp, người ta có thể phân biệt giữa những gì là ở bên trong - những gì thuộc về ego - và những gì là ở bên ngoài - những gì bắt nguồn từ thế giới bên ngoài. Trong cách này người ta làm bước đầu tiên hướng tới sự dẫn nhập của nguyên tắc thực tế [13] vốn nó là thống trị sự phát triển trong tương lai [14]. Sự phân biệt này, tất nhiên, phục vụ mục đích thực tiễn là làm cho một người có khả năng để bảo vệ mình chống lại những xúc cảm không thích thú, mà một người thực sự cảm thấy hoặc một người thấy bị nó đe dọa. Ngõ hầu chống đỡ được những kích thích không thích thú nào đó phát sinh từ bên trong, ego có thể sử dụng không những phương pháp nào khác hơn là những phương pháp nó sử dụng chống lại không-thích-thú đến từ bên ngoài, và đây là điểm khởi đầu của những nhiễu loạn bệnh lý quan trọng. Trong cách này, sau đó, ego tách rời chính nó với thế giới bên ngoài. Hoặc, nói cho đúng hơn, ban đầu ego bao gồm tất cả mọi thứ, sau đó nó phân tách một thế giới bên ngoài ra khỏi từ chính nó. Xúc cảm về ego hiện nay của chúng ta, do đó, chỉ là một dư-thừa đã tóp nhỏ lại của một bao gồm lớn rộng hơn nhiều - thực vậy, một xúc cảm ôm-lấy-tất-cả - xúc cảm đó tương ứng với một kết buộc mật thiết hơn giữa ego và thế giới xung quanh nó.
- Nếu chúng ta được phép giả định rằng có nhiều người, trong đời sống tinh thần của họ có xúc cảm ego chính này, ở một mức độ nhiều hoặc ít hơn, vẫn dai dẳng tồn tại trong họ bên cạnh xúc cảm ego hẹp hơn nhiều và phân giới sắc rõ hơn nữa của sự chín chắn trưởng thành, giống như một thứ đối ứng của nó. Trong trường hợp đó, những nội dung ý tưởng thuận hợp với nó sẽ chính xác là của những gì của sự vô hạn và của một kết buộc với vũ trụ - cùng những ý tưởng vốn với chúng, người bạn của tôi đã diễn giải là xúc cảm “đại dương”. Nhưng chúng ta có hay không một quyền để giả định sự tồn tại của một cái gì đó mà ban đầu đã có ở đó, bên cạnh của những gì đã về sau vốn bắt nguồn từ nó? Chẳng nghi ngờ gì. Không có gì lạ trong một hiện tượng như vậy, dù là trong lĩnh vực trí não hoặc nơi nào khác. Trong thế giới động vật, chúng ta giữ quan điểm rằng những loài phát triển cao nhất đã được tiến hành từ những loài thấp nhất; và dẫu thế chúng ta tìm thấy tất cả những thể dạng đơn giản vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Loài của những giống bò sát [15] vĩ đại đã tuyệt chủng, và đã mở đường cho loài của những động vật có vú, nhưng một đại diện đích thực của nó, giống cá sấu, vẫn còn sống giữa chúng ta. So sánh tương tự này có thể là quá xa, và nó cũng bị yếu đi vì trường hợp những loài thấp hơn còn tồn tại hầu hết không phải là tổ tiên thực sự của loài phát triển cao hơn ngày nay. Như một nguyên tắc, những nối kết trung gian đã tuyệt giống và chúng ta chỉ biết được qua sự tái dựng. Trong lĩnh vực của não thức, về mặt khác, những gì là nguyên thủy là quá thông thường
- được gìn giữ bên cạnh của những phiên bản chuyển đổi vốn đã phát sinh từ nó rằng đến nỗi không cần thiết phải cung cấp những trường hợp như bằng chứng. Khi điều này xảy ra, nó thường là hậu quả của một sự tách rẽ ra trong phát triển: một phần (trong ý nghĩa định lượng) của một thái độ, hay thôi thúc bản năng vẫn giữ nguyên không thay đổi, trong khi một phần kia đã trải qua phát triển xa hơn nữa. Điều này đưa chúng ta đến vấn đề tổng quát hơn của sự bảo tồn trong lĩnh vực của não thức. Vấn đề hầu như còn chưa hề được nghiên cứu [16], nhưng nó thì quá hấp dẫn và quan trọng khiến chúng ta có thể được phép chuyển chú ý của chúng ta sang nó một lúc, dẫu cho lý do của chúng ta là không đủ. Bởi vì chúng ta đã vượt qua được sai lầm của giả định rằng sự quên lãng mà chúng ta quen thuộc với, là biểu hiện một sự phá hủy của vết tích-ký ức - đó là, một sự hư vô hóa nó - chúng ta đã có khuynh hướng nhận quan điểm ngược lại, rằng trong đời sống trí não không có gì từng một lần thành hình mà có thể diệt vong – rằng tất cả mọi thứ, một cách nào đó được bảo tồn, và trong những hoàn cảnh thích hợp (lấy thí dụ, khi hồi tưởng ngược về quá khứ cho đủ xa) nó có thể lại một lần được đưa ra ánh sáng. Chúng ta hãy cùng cố gắng nắm bắt những gì liên quan đến giả định này, bằng cách lấy một tương tự từ một lĩnh vực khác. Chúng ta sẽ chọn lịch sử của Thành phố Vĩnh Cửu [17] như một thí dụ. Những sử gia kể cho chúng ta biết rằng Rome cổ xưa nhất là Quadrata Roma, một địa điểm định cư có tường rào trên đồi Palatine. Sau đó, tiếp theo giai đoạn của Septimontium, một liên đoàn của
- những khu định cư trên những ngọn đồi khác nhau; sau đó đến thành phố giới hạn bởi những bức tường Servian; và vẫn sau đó nữa, sau tất cả những biến đổi trong những thời kỳ của nền cộng hòa và những Caesars đầu tiên, là thành phố mà Hoàng đế Aurelian xây tường thành của ông bao quanh. Chúng ta sẽ không truy nguyên những thay đổi mà thành phố đã trải qua xa hơn thêm nữa, nhưng chúng ta sẽ tự hỏi chúng ta, nếu như có một du khách, người mà chúng ta giả sử sẽ được trang bị kiến thức lịch sử và địa hình đầy đủ nhất, vẫn có thể tìm thấy được bao nhiêu xót lại của những giai đoạn đầu này trong Rome của ngày nay. Ngoại trừ một vài khoảng trống, ông sẽ thấy những bức tường của Aurelian gần như không thay đổi. Ở một vài chố, ông sẽ có thể tìm thấy những phần của bức tường Servian nơi chúng đã được khai quật và đưa ra ánh sáng. Nếu ông biết cho đủ - nhiều hơn khảo cổ học ngày nay biết - ông có lẽ có thể truy ra vết tích trong đồ thị của thành phố, toàn bộ dãy tường đó chạy, và nét chính của Quadrata Roma. Về những tòa nhà mà có thời đã chiếm khu vực cổ xưa này, ông sẽ không tìm thấy gì cả, hoặc chỉ có rất ít vẫn còn, vì chúng thôi không tồn tại nữa. Những tài liệu tốt nhất về Rome trong thời đại cộng hòa sẽ chỉ có thể cho ông khả năng nhiều nhất là chỉ ra những vị trí nơi những đền thờ và những dinh thự công cộng của thời đại đó đã đứng. Địa điểm của chúng hiện nay bị những tàn tích chiếm chỗ, nhưng không phải những tàn tích của chính chúng, nhưng của những phục hồi đã làm sau khi chúng bị cháy hoặc tiêu hủy.
- Hầu như không cần thiết phải nhận xét rằng tất cả những gì còn lại này của LaMã cổ đại được tìm thấy lồng khớp chặt chẽ vào mớ lộn xộn của một thủ phủ vĩ đại đã lớn lên trong vài thế kỷ vừa qua kể từ thời Phục hưng. Chắc chắn không phải là có một ít vốn là cổ đại vẫn còn chôn vùi trong đất của thành phố, hoặc dưới những tòa nhà hiện đại của nó. Đây là cách qua đó quá khứ được được giữ lại trong những địa điểm lịch sử giống như thành Rome. Bây giờ chúng ta hãy cùng, theo một chuyến bay của tưởng tượng, giả sử rằng Rome không phải là một cư trú của con người nhưng là một thực thể thuộc về tinh thần với một quá khứ lâu dài và phong phú tương tự - một thực thể, đó là nói rằng, trong đó không có gì đã một lần đi đến hiện hữu mà đã mất đi, và tất cả những giai đoạn đầu của sự phát triển vẫn tiếp tục tồn tại song hành với những gì mới nhất. Điều này có nghĩa rằng trong Rome, những cung điện của Caesars, và Septizonium của Septimius Severus sẽ vẫn dựng lên như chiều cao xưa của chúng trên đồi Palatine, và lâu đài S. Angelo sẽ vẫn có những bức tượng đẹp tiếp tục đứng trên những lỗ châu mai làm dáng cho chúng như cho đến khi có cuộc vây hãm của những người Goths, và vân vân như vậy. Nhưng còn hơn thế này. Tại nơi Caffarelli Palazzo đã chiếm chỗ, một lần nữa sẽ đứng - mà Palazzo không phải bị gỡ bỏ - đền thờ của Jupiter Capitolinus; và đền này không chỉ ở hình dạng mới nhất của nó, như người LaMã thời Đế quốc đã nhìn thấy nó, nhưng cũng trong một hình dạng sớm nhất của nó, khi nó vẫn cho thấy những dạng Etruscan và được trang trí với những hoa văn mái ngói bằng đất nung.
- Ở chỗ Coliseum bây giờ đang đứng, chúng ta có thể cùng lúc chiêm ngưỡng Golden House đã biến mất của của Nero. Trên Piazza của Pantheon chúng ta nên tìm thấy không chỉ Pantheon của ngày nay, như Hadrian đã để lại cho chúng ta, nhưng trên cùng một địa điểm, dinh thự Agrippa đã dựng lên ban đầu; quả thật vậy, cùng một mảnh đất sẽ chống đỡ cả nhà thờ Santa Maria Sopra Minerva, và cả ngôi đền cổ vốn nó được xây dựng trên đó. Và người quan sát sẽ có lẽ chỉ phải thay đổi hướng nhìn, hoặc vị trí của mình để gọi lên một cảnh quan này hay một cảnh quan khác. Rõ ràng là không cần phải quay đẩy mơ tưởng của chúng ta tiếp tục xa hơn nữa, vì nó dẫn đến những điều không thể tưởng tượng và thậm chí vô lý. Nếu chúng ta muốn trình bày lại diễn tiến lịch sử trong những điều kiện không gian, chúng ta chỉ có thể làm điều đó bằng sự đặt kề cạnh nhau trong không gian: vì cùng một không gian không thể có hai nội dung khác nhau. Nỗ lực của chúng có vẻ là một trò chơi vô hiệu. Nó chỉ có một biện minh. Nó cho chúng ta thấy chúng ta đã xa như thế nào khỏi việc nắm vững những đặc điểm của đời sống tinh thần bằng cách tái trình bày chúng trong những thuật ngữ hình tượng. Có một phản đối xa thêm nữa phải được xem xét. Câu hỏi có thể được nêu lên – tại sao chúng ta lại chọn đúng ngay quá khứ của một thành phố để so sánh với quá khứ của não thức. Sự giả định rằng tất cả mọi thứ quá khứ thì được gìn giữ - đứng vững, ngay cả trong đời sống tinh thần, chỉ với điều kiện là cơ quan của não thức vẫn giữ nguyên vẹn, và những mô tế bào của nó không bị hư hỏng do chấn thương, hoặc viêm nhiễm.
- Nhưng những ảnh hưởng tàn phá vốn có thể so sánh được với những nguyên nhân của bệnh tật như thế này không bao giờ thiếu trong lịch sử của một thành phố, ngay cả khi nó có một quá khứ ít phức tạp hơn so với Rome, và như London, ngay cả khi nó đã hầu như không bao giờ phải chịu đựng những sự đột nhập của một thù địch. Những phá hủy và thay thế những tòa nhà xảy ra trong tiến trình phát triển hòa bình nhất của một thành phố. Một thành phố do đó là tiên nghiệm không thích hợp cho một so sánh loại này với một cơ cấu trí não. Chúng ta cúi đầu trước điều phản đối này, khi từ bỏ nỗ lực của chúng ta để vẽ một tương phản ấn tượng, và thay vào đó, chúng ta sẽ quay về những gì sau cùng có liên quan gần gũi hơn với đối tượng so sánh - cơ thể của một con vật hay một con người. Nhưng ở đây, cũng vậy, chúng ta tìm thấy cùng điều tương tự. Những giai đoạn đầu của phát triển thì không trong ý hướng nào vẫn được gìn giữ; chúng đã được hấp thụ vào những giai đoạn sau vốn chúng đã cung cấp vật liệu cho những giai đoạn đó. Thai phôi không thể được khám phá ở người trưởng thành. Tuyến thymus của tuổi thơ được thay thế sau tuổi dậy thì bằng mô liên kết, nhưng tự thân nó thôi không còn hiện diện nữa; trong tủy xương của người trưởng thành tôi có thể, là đúng thực vậy, truy nguyên những phác thảo của xương của đứa trẻ, nhưng chính nó đã biến mất, sau khi kéo dài và dày lên, cho đến khi nó đạt được hình dạng cuối cùng dứt khoát của nó. Thực tế vẫn còn là chỉ trong não thức là một bảo tồn như thế của tất cả những giai đoạn trước đó song song với hình thức cuối cùng có thể có, và rằng chúng ta đang
- không ở trong một vị trí để trình bày hiện tượng này trong những thuật ngữ tượng hình. Có lẽ chúng ta đang đi quá xa trong việc này. Có lẽ chúng ta nên tự hài lòng với khẳng định rằng những gì là quá khứ trong đời sống tinh thần có thể được bảo quản và không nhất thiết phải bị tiêu huỷ. Nó luôn luôn có thể có rằng ngay cả trong não thức một số của những gì là cũ là bị xòa nhòa hoặc bị hấp thụ - cho dù trong tiến trình bình thường của những sự vật, hoặc như là một ngoại lệ - cho đến một mức mà nó không thể phục hồi, hoặc làm sống lại được bằng bất kỳ phương tiện nào; hoặc sự bảo quản nói chung là phụ thuộc trên một số điều kiện thuận lợi nào đó. Có thể, nhưng chúng ta không biết gì về nó. Chúng ta chỉ có thể giữ chặt vào sự kiện - nó đúng hơn là quy luật hơn là ngoại lệ - để quá khứ được bảo tồn trong đời sống tinh thần. Thế nên, chúng ta là hoàn toàn sẵn sàng thừa nhận rằng xúc cảm “đại dương” hiện hữu trong nhiều người, và chúng ta có khuynh hướng truy nguyên nó về một giai đoạn đầu của xúc cảm-ego. Câu hỏi nêu lên sau đó là - tuyên xưng gì để đòi xúc cảm này phải được xem như nguồn của những nhu cầu tôn giáo. Đối với tôi tuyên xưng thực không có vẻ mạnh mẽ. Sau tất cả, một xúc cảm chỉ có thể là một nguồn của năng lượng nếu chính nó là biểu hiện của một nhu cầu mạnh mẽ. Những dẫn xuất của những nhu cầu tôn giáo từ sự bất lực của trẻ sơ sinh, và sự khao khát về người cha vốn nó dựng dậy, có vẻ như với tôi không thể chối cãi, đặc biệt là vì xúc cảm thì không đơn thuần chỉ kéo dài từ những ngày thơ ấu, nhưng là vĩnh viễn duy trì bởi sự sợ hãi về sức mạnh
- vượt trội của Số Phận. Tôi không thể nghĩ được bất kỳ một nhu cầu nào trong thời thơ ấu cũng mạnh như sự nhu cầu về sự bảo vệ của một người cha. Do đó, phần đóng của xúc cảm đại dương, vốn nó có thể tìm kiếm một cái gì đó tựa như khôi phục lại quá-yêu-chỉ-mình [18] vô hạn, là bị lật đổ khỏi một nơi trên chính diện. Nguồn gốc của thái độ tôn giáo có thể được truy ngược trở lại trong những nét đại cương rõ ràng xa cho về đến những xúc cảm của sự bất lực ấu trĩ trẻ con. Có thể có một cái gì đó thêm xa hơn nữa sau đó, nhưng với hiện tại, nó bị gói trong tối tăm. Tôi có thể tưởng tượng rằng xúc cảm đại dương đã trở thành kết nối với tôn giáo muộn hơn về sau. Sự “đồng nhất với vũ trụ” vốn dựng thành nội dung ý tưởng của nó nghe giống như một nỗ lực đầu tiên ở một sự an ủi tôn giáo, dường như thể nó đã là một cách khác để tuyên bố phủ nhận sự nguy hiểm mà ego nhận ra như đe dọa nó từ thế giới bên ngoài. Hãy một lần nữa để tôi thú nhận rằng, rất khó khăn cho tôi làm việc với những số lượng mơ hồ không thể nắm bắt này. Một người bạn khác của tôi, người có lòng khao khát kiến thức vô độ đã dẫn ông đến làm những thí nghiệm khác thường nhất, và đã kết thúc bằng đem cho ông một kiến thức bách khoa, đã đảm bảo với tôi rằng qua những thực hành Yoga, bằng cách rút mình khỏi thế giới, bằng cách sửa chữa sự chú ý của những chức năng cơ thể, và bằng những phương pháp đặc biệt của phép thở, một người trong thực tế có thể khơi dựng dậy những cảm giác mới, và một kết hợp những cảm giác hữu cơ bao gồm nhận thức về sự hiện hữu của cơ
- thể [19] trong tự thân một người, mà ông xem như là những hồi quy về với những trạng thái nguyên sơ của não thức vốn bị che phủ từ đã lâu rồi. Ông nhìn thấy trong chúng một cơ sở sinh lý học, như nó đã là, thuộc nhiều về trí tuệ của chủ nghĩa thần bí. Là điều sẽ không khó để tìm thấy những kết nối ở đây với một số những biến cải mờ khuất của đời sống tinh thần, chẳng hạn như những nhập định và xuất thần. Nhưng tôi xúc động để kêu lên trong những lời của người thợ lặn của Schiller: - “. . . Hãy để hắn cùng vui, với những người thở trên kia trong ánh sáng hồng” [20] Lê Dọn Bàn tạm dịch-bản nháp thứ nhất (Jul/2011) (Còn tiếp ) Nguyên văn tiếng Đức: Sigmund Freud. Das Unbehagen In Der Kultur (Vienne, 1929). Dịch từ bản tiếng Anh: Sigmund Freud. Civilization and its Discontents. Translated & Edited: James Strachey. W.W. Norton & Company. NewYork, 1961. Có đối chiếu và tham khảo với một vài bản tiếng Anh hiện có khác, và bản dịch tiếng Pháp: Sigmund Freud. Malaise Dans La Civilisation. Traduit de L’Allemand par Ch. Et J. Odier. Presses
- Universitaires De France. Paris, 1971 [1] [The Future of an Illusion (1927c)] - Tương lai của một Ảo tưởng – bản dịch Lê DọnBàn: Dịch theo bản : Sigmund Freud, Civilization and its Discontents, Ed. & Tr. James Strachey, Norton &Co., New York, 1961 Ở trang 36 – Freud định nghĩa “văn minh”: “Kultur”: tổng số những thành tựu và những quản thúc làm đời sống chúng ta khác biệt với đời sống thuần sinh vật trước đây của tổ tiên chúng ta, nó phụng sự hai mục đích – nêu tên là: bảo vệ con người chống lại thiên nhiên và điều chỉnh quan hệ tương hỗ giữa chính con người với nhau. Những chú thích trong ngoặc vuông [ ] là của dịch giả bản Anh Ngữ của James Strachey. Những chú thích khác, không trong ngoặc vuông – là của tôi - LDB. [2] [Cước chú thêm 1931: Liluli (1939) – Kể từ sự xuất bản hai tập sách La vie de Ramakrisna (1929) và La vie de Vivekanada (1930), tôi thôi không dấu sự kiện là người bạn đã nói trên trong bài văn là Romain Rolland. (Rolland đã viết cho Freud về “xúc cảm đại dương” trong một lá thư Dec 5, 1927, không lâu sau khi The Future of an Illusion xuất bản)] [3] Christian Grabbe, Hannibal : “Ja, aus der Welt warden wir nicht fallen. Wir sind einmal darin.” [4] tiếng Pháp trong nguyên văn – “gốc và nguồn” [5] Ego (“I” hay “Ich”), id (“it” hay “Es”), super-ego (“over-I” hay
- “Über-ich”) – Trong bản dịch này và những bản dịch khác của những tác phẩm của Freud – tôi đề nghị giữ nguyên những từ đặc biệt này của ông, trong tiếng Anh, như libido, ego, id, lý do nếu dịch là gì đi nữa, cũng sẽ là phiền phức và quanh co hơn để tìm một ký hiệu khác thay thế cho chúng, mà sẽ không trọn nghĩa (thí dụ - ego không phải là bản ngã, id không là căn cước, libido không đơn giản là nhục dục, ). Chúng có những nội dung rất đặc biệt “Freud”, chúng ta nên để nguyên khi đọc ông. Id là chỗ trụ của thèm muốn và bản năng, nó hoàn toàn vô thức. Ego, vốn phần lớn là hữu thức, bắt đầu như một cơ cấu tâm lý không phân biệt – như Freud trình bày ở chương I, Khi đứa trẻ học phân biệt giữa chính nó (ta) và những đối tượng nó ham muốn (cái khác), ego phát triển như là một cơ cấu phân tách với id. Sự phân biệt này kết quả từ những thất vọng ban đầu - khi những thàm muốn không được thỏa mãn của chúng ta. Khi Freud nói đến ego, ông nói về một thứ gì đó tự hiểu nó là ai. Còn super-ego là sự tự phê phán được chủ quan hóa. Sự chủ quan hóa như tiếng nói của người cha, hay của uy quyền. - Lương tâm: Super-ego (Uber-Ich): Qui luật đạo đức xã hội - Hữu thức: Ego (Ich): Tư tưởng, suy nghĩ, ý tưởng, hình ảnh (kể cả giấc mơ) trong hữu thức - Vô thức: Id (Est): Những dục vọng không được chấp nhận, những bản năng xấu xa dơ bẩn đáng khinh. [6] [Một vài chú thích về cách Freud dùng những thuật ngữ “ego” và “self” sẽ tìm thấy trong bài giới thiệu của người biên dịch tập The Ego and the Id (1923b), Standard Ed., 19,7. ]
- [7] mental entity. [8] [Cf. một cước chú ở Phần III của câu chuyện về trường hợp Schreber (1911c) Standard Ed., 12, 69. ] [9] [Cf. nhiều bài viết về chủ đề phát triển-ego và cảm xúc-ego ghi năm tháng từ luận văn của Ferenczi trong ‘Những giai đoạn trong sự Phát triển của Xúc cảm và Thực tại’, (1913) đến những đóng góp của Federn những năm 1926, 1927 và muộn hơn.] [10] [Trong đoạn văn này, Freud lập lại trên một mảnh đất quen thuộc. Ông đã bàn về vấn đề không lâu trước đó, trong luận văn về sự ‘Phủ nhận’ (1925h), Standard Ed., 19, 236-8. Nhưng ông đã bàn luận về nó trong nhiều dịp sớm hơn nữa. Xem, thí dụ, ‘Những bản năng và những thăng trầm của chúng’ (1915c), ibid, 14, 119 vad 134-6, và Sự diễn giải những giấc mộng (1900a), ibid., 5, 565-6. Nội dung cơ bản của nó, thực vậy, đã được tìm thấy trong ‘Project’ của năm 1895, những mục 1, 2, 11 và16 của phần I (Freud, 1950a).] [11] [“hành động đặc biệt” của ‘Project’ ] [12] Pleasure Principle – Nguyên tắc lạc thú: khái niệm của Freud, trình bày trong Beyond the Pleasure Principle, 1921, của ông. Id tuân thủ nguyên tắc này, vốn nó là những nỗ lực nhằm thỏa mãn những ước muốn đã thiết lập từ thơ ấu Nguyên tắc lạc thú/không lạc thú, thường được gọi ngắn là nguyên tắc lạc thú, đòi hỏi bộ máy tâm lý tự động buông xả những kích thích khi chúng tích lũy đến cao hơn một ngưỡng cửa nhất định nào đó, và có kinh nghiệm như không lạc thú. Nguyên tắc này điều hành sự hoạt động của những quá trình chính yếu và là cơ sở cho quan điểm kinh tế trong triết lý tâm lý (metapsychology).
- “Lustprinzip” trong tiếng Đức, được dịch sang tiếng Anh là “pleasure principle”, chúng ta tạm dịch là “Nguyên tắc lạc thú” . “Lust” trong tiếng Đức thực sự có hai nghĩa: một nghĩa của niềm vui, nhưng còn có nghĩa là ao ước, hoặc muốn. “Lust haben auf” là thành ngữ phổ thông nhất cho “muốn, ao ước có”. Nên nguyên tắc lạc thú cũng là nguyên tắc ao ước: Bộ máy tâm lý không có thể làm gì khác hơn ngoài mong muốn, Freud nói vậy. Tương tự như vậy, đối với “Unlustprinzip” là “nguyên tắc không lạc thú”. Trong The Interpretation of Dreams (1900a) - “Unlust” cũng có nghĩa là không thích, không muốn, ác cảm. Có những dịp, hữu thức chúng ta quay đi, làm ngơ, và tránh né trước những gì mình có ác cảm, không thích, Bản chất hai mặt của nguyên tắc lạc thú: Trong biểu hiện tích cực của nó, nguyên tắc này đơn giản là xung lực nội tại ích kỷ đòi thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của chúng ta; nó là một xu thế săn đuổi chạy theo sau lạc thú. Nhưng chúng ta nhanh chóng nhận ra rằng thế giới bên ngoài và những người khác cũng có những đòi hỏi, hoặc chúng can thiệp, hoặc ngăn chặn trực tiếp hay gián tiếp không cho chúng ta thỏa mãn nhiều những đòi hỏi của chúng ta – nên xuất hiên nguyên tắc thực tế, đây là chỗ và lúc chúng ta ý thức rằng những mong ước của chúng ta không có thể thỏa mãn tất cả, và nếu thỏa mãn cũng không trọn vẹn, như ý. Điều này dẫn tới biểu hiệu thứ hai, tiêu cực của nguyên tắc lạc thú: cố gắng tránh thất vọng, bất mãn càng nhiều càng tốt – Từ chỗ này, chúng ta học được từ chối những đòi hỏi, mong ước vốn tự thấy trước không thể thỏa mãn, thành công; khi tự từ chối chúng như
- thế, chúng ta sẽ bớt chịu bất mãn, ít đau khổ hơn là đuổi theo chúng rồi đi đến tan vỡ thất bại không tranh khỏi. Những biện pháp xoa dịu giảm nhẹ: Những chiến lược giúp chúng ta tránh những đau khổ của cuộc sống: Chuyển hướng: chúng ta chuyển dòng chảy những nhu cầu và mong muốn của chúng ta vào những khu vực nơi chúng có thể dễ dàng được thỏa mãn. Trong phạm trù này, Freud bao gồm những hoạt động khoa học hoặc những hình thức khác của thành tựu chuyên môn. Đây là những đường lối gặp kháng cự ít nhất (Liên kết nhất với thực tại.) Thay thế những thỏa mãn: đây là những hình thức đền bù cho sự thiếu niềm vui ở những nơi khác. Freud liệt kê ở đây tất cả những hình thức của ảo giác, ảo tưởng, bao gồm nhiệt tình tôn giáo, tưởng tượng, trốn thoát vào nghệ thuật, v.v. Say sưa, nhiễm độc: chúng ta thoát khỏi sự khó chịu, bất hạnh của chúng ta bằng cách quên chúng đi, tránh chúng sang một bên, và chúng ta quay sang tự nhiễm độc bằng rượu, ma túy, v.v Ở đây chúng ta xử lý những triệu chứng, kết quả (bất hạnh của chúng ta), không phải nguyên nhân (những lý do của bất hạnh). Như những chiến lược né tránh và từ chối, Tự nhiễm độc có thể làm tăng bất hạnh thực sự chúng ta vốn muốn phá vỡ. (Xa thực tại nhất). Những phản ứng điển hình của nhu cầu của lạc thú này và tự bảo vệ trước sự bất mãn: 1) rút lui = những người sống ẩn dật, sống khổ hạnh, như cuộc sống của những đạo sĩ, tu sĩ trong những tôn giáo; giết chết bản năng; 2) tiếp tục tấn công = những con người của hành động, như những
- chính trị gia, những nhà cải, vv; kiểm soát bản năng; 3) hoán chuyển hoặc thăng hoa = tìm kiếm lạc thú thông qua những nguồn thay thế mà trong đó người ta có kiểm soát hơn, chẳng hạn như khảo cứu khoa học, truy tầm kiến thức vv, thay thế hoán chuyển thỏa mãn, đổi những con đường ức chế với những lối dễ dàng đạt được hơn; 4) thoát vào ảo tưởng = tưởng tượng, tôn giáo, những thuốc có dược tính tác dụng não thức, vv; 5) áp dụng một thái độ "thẩm mỹ" = nuôi dưỡng một tình yêu với vẻ đẹp (thực chất là một sự hài lòng thay thế), nghệ thuật, một cách thức cụ thể cho việc tìm kiếm sự hài lòng = tìm những gì đẹp trên thế giới, nhìn thấy khía cạnh “tích cực” của tất cả mọi thứ; - thái độ “cốc rượu không bị vơi một nửa, nhưng còn đầy một nửa”. 6) ôm lấy hoặc thay đổi thế giới: chuyển sang hoạt động từ thiện và những hình thức tham gia vào sự chăm sóc thế giới và xã hội = chuyển Eros vào Caritas, tình yêu đại đồng và quan tâm phụng sự nhân loại; làm việc đẻ cải thiện thực tại, để làm bớt đi những cơ hội và điều kiện gây bất hạnh cho tất cả con người. [13] Reality principle – nguyên tắc thực tế - Nguyên tắc thực tế: Một khái niệm khác nữa của Freud: nguyên tắc thực tế là vị thống đốc thực sự của những hành động được ego thực hiện, và luôn luôn phản đối lại nguyên tắc lạc thú của Id. Vai trò của nó có thể xem như áp đặt một điều chỉnh trên nguyên tắc lạc thú, thường là cố gắng hòa giải những ham muốn của id với thực tế; do đó nó có tính toán đến những ảnh hưởng của thế giới bên ngoài. Nguyên tắc thực tế là một trong hai nguyên tắc chính chi phối hoạt
- động của não thức. Nó chỉ định nhận thức cần thiết của tâm lý về những thông tin liên quan đến thực tại và đứng tương phản với nguyên tắc lạc thú tìm kiếm việc buông xả hoặc loại bỏ những căng thẳng bằng mọi giá. Mặc dù những nguyên tắc thực tế được chính thức đưa vào vốn từ vựng của Freud vào năm 1911 (“Formulations on the Two Principles of Mental Functioning” nó có thể được tìm thấy ở dạng tiềm ẩn trong những suy nghĩ của ông từ sớm hơn (“Project for a Scientific Psychology” - 1895) Sự cần thiết cho một khái niệm như vậy phát sinh tại thời điểm như là một kết quả của một mâu thuẫn nội bộ trong nguyên tắc lạc thú, hoặc cụ thể hơn, trong khái niệm hoàn thành mong muốn bằng ảo giác, có xu hướng đánh lừa bộ máy tâm thần và làm nó tổn thương khi tạo ra một sự thỏa mãn hư ảo giả tạo, chứ không thực tại. [14] [Cf. ‘Formulations on the Two Priciples of Mental Functioning’ (1911b), Standard Ed., 12 222-3] [15] saurians [16] [một cước chú về vấn đề đã được Freud thêm vào năm 1907, trong đoạn F của chương cuối của The Psychopathology of Everyday Life (1901b), Standard Ed., 6, 274-5] [17] [Dựa trên The Cambridge Ancient History, 7 (1928): ‘The Founding of Rome’, Hugh Last] [18] Narcissism: Thuật ngữ narcissism, như nội dung câu chuyện Narcissus trong thần thoại HyLạp, chỉ tình yêu với chính mình, tự- yêu-mình. Khái niệm này đã được giới thiệu trong công trình của Freud một thời gian ngắn trước khi xuất bản “On Narcissism: An
- Introduction” (1914c). Bài viết này là một phản ứng với bốn vấn đề liên quan: những khó khăn gặp phải trong phân tâm học trong khi làm việc với neurotics, những tranh cãi với Jung, người bảo vệ ý tưởng về sự hiệp nhất của năng lượng tâm lý (unity of psychic energy), tranh luận với Adler về vai trò của “phản đối nam tính” (masculine protest) trong sự hình thành triệu chứng, và trên tất cả là sự quan tâm ngày càng tăng của Freud về những bệnh rối loạn tâm thần (psychoses), mở đường cho việc nghiên cứu ego (1923a). Đưa ra khái niệm của quá-yêu-chỉ-mình, Freud (1914c) có ý định cho thấy bốn hiện tượng khác nhau có liên quan như thế nào: narcissism như sự suy bại, lầm đường về tình dục; narcissism như một giai đoạn phát triển tâm lý; narcissism là sự truyền nghị lực cho libido; và narcissism là sự lựa chọn đối tượng. Ông cũng mô tả một ego lý tưởng là người thừa kế của narcissism trẻ con và như một cơ năng tâm linh tự-quan sát. Hai khái niệm này sẽ được Freud về sau khai triển chi tiết. Trong trường hợp của narcissism là sự lựa chọn đối tượng: một người yêu thương “(a) những gì là chính hắn (tức là chính người ấy), (b) những gì hắn đã là, (c) những gì bản thân hắn muốn giống như, trở nên, sẽ là, (d) người nào đó đã từng là một phần của chính hắn”. [19] Coenaesthesias – hay coenesthesia, coenesthesis, cenesthesia, cenesthesis [20] tiếng Đức trong bản Anh ngữ: “. . . Es freue Sich. Wer da atmet rosigten im Licht”. Schiller - ‘Der Taucher’
- Sigmund Freud - Văn minh và những Bất mãn từ nó (3) Văn minh và những Bất mãn từ nó
- Sigmund Freud (1856 – 1939) Das Unbehagen In Der Kultur (Vienne, 1929). Civilization and Its Discontents (1930) (tiếp theo) Chương II Trong Tương lai của một Ảo tưởng của tôi, tôi đã quan tâm rất ít về những nguồn sâu xa nhất của xúc cảm tôn giáo, không nhiều như về những gì con người thông thường hiểu tôn giáo của mình – với hệ thống những giáo lý và những hứa hẹn vốn một mặt giải thích cho hắn những câu đố khó hiểu của thế giới này với sự toàn vẹn đáng thèm thuồng, và mặt kia, đảm bảo với hắn rằng một Gót phù trợ [1] cẩn thận sẽ dõi theo cuộc đời của hắn, và sẽ đền bù cho hắn trong một đời sống tương lai bất kỳ thất bại nào hắn chịu khổ nơi đây. Con người thông thường không thể tưởng tượng Gót phù trợ này một cách nào khác hơn trong hình ảnh của một người cha vĩ đại cao vời. Chỉ có một hữu thể như vậy mới có thể hiểu được nhu cầu của con cái của loài người, và có thể làm mềm lòng được bằng lời cầu nguyện của họ, và ngôi ngoai bớt giận dữ bởi những dấu hiệu của sự hối hận của họ. Toàn bộ sự việc rõ rành rành là quá đỗi trẻ con, quá đỗi xa lạ với thực tại, đến nỗi với bất cứ ai có một thái độ thân thiện với nhân loại là đau đớn khi nghĩ rằng đại đa số những kẻ trong tử sinh đó sẽ không bao giờ có thể vượt lên trên quan điểm này của đời sống. Điều lại còn xấu hổ hơn nữa khi khám phá có một số lớn đến như thế nào gồm những người đương sống ngày nay, những người
- không thể chỉ thấy rằng tôn giáo này là không biện hộ, bảo vệ được, tuy nhiên cố gắng để bảo vệ nó từng mảnh một, trong một loạt những hành động tháo chạy chống trả sau lưng đáng khinh. Một người sẽ thích lẫn vào giữa hàng ngũ của những tín đồ ngõ hầu gặp những triết gia này, là những người nghĩ rằng họ có thể giải cứu Gót của tôn giáo bằng cách thay thế ông với một nguyên lý trừu tượng, mờ ảo ẩn hiện, không cá tính người, và để nói với những tín đồ những lời cảnh cáo: “Ngươi chớ lấy tên của Đấng là Gót của ngươi để làm chuyện chơi”. Và nếu một vài trong số những người tên tuổi của quá khứ đã hành động cùng một lối, không thể gọi thí dụ về họ để làm một trưng dẫn: chúng ta biết tại sao họ đã buộc phải thế. Chúng ta hãy cùng trở lại với con người thông thường và với tôn giáo của anh ta - tôn giáo độc nhất vốn nó phải mang tên gọi đó. Việc đầu tiên mà chúng ta nghĩ đến là câu nói quen biết của một trong những nhà thơ lớn và nhà tư tưởng của chúng ta liên quan đến quan hệ giữa tôn giáo với nghệ thuật và khoa học: Ai là người sở hữu khoa học và nghệ thuật cũng có tôn giáo; Nhưng ai là người không sở hữu một nào cả trong hai, hãy để hắn có tôn giáo! [2] Câu nói này, về một mặt, vẽ một phản đề giữa tôn giáo và hai thành tựu cao nhất của con người, và mặt kia, khẳng định rằng, đối với giá trị của chúng trong đời sống, những thành tựu đó và tôn giáo có thể đại diện hoặc thay thế lẫn nhau. Nếu chúng ta khởi đầu cũng định tước mất khỏi con người thông thường (người không có khoa học
- mà cũng chẳng có nghệ thuật) tôn giáo của anh ta, chúng ta rõ ràng sẽ không có uy tín nhà thơ về phía chúng ta. Chúng ta sẽ chọn một lối đặc biệt để đưa chúng ta đến gần hơn một sự hiểu biết giá trị những từ của ông. Đời sống, như chúng ta thấy, nó quá khó cho chúng ta; nó mang đến cho chúng ta quá nhiều những đau đớn, những thất vọng và những công việc không thể làm được. Ngõ hầu để gánh vác nó, chúng ta không thể miễn trừ những biện pháp xoa dịu đỡ đau. “Chúng ta không thể làm mà không có những xây dựng phụ trợ”, như Theodor Fontane [3] bảo chúng ta. Có lẽ có ba biện pháp giống như thế: những tiêu khiển mạnh mẽ, vốn làm khổ sở của chúng ta nhẹ đi; những thỏa mãn thay thế, vốn làm giảm thiểu nó, và những chất say sưa, làm cho chúng ta vô cảm với nó. Một điều gì đó thuộc loại này là không thể thiếu [4]. Voltaire có những tiêu khiển làm khuây khỏa trí não khi ông kết thúc Candide với lời khuyên mỗi người hãy trồng tỉa vườn cây của mình; và hoạt động khoa học cũng là một sự tiêu khiển của loại này. Những thỏa mãn thay thế, như được nghệ thuật cung cấp, là những ảo tưởng trái ngược với thực tại, nhưng chúng không kém hiệu quả tâm lý chút nào, nhờ vào vai trò mà fantasy [5] đã đảm đương trong đời sống tinh thần. Những chất say sưa ảnh hưởng đến cơ thể của chúng ta và thay đổi hóa học của nó. Đó không là vấn đề đơn giản để xem tôn giáo có vị trí của nó ở đâu trong chuỗi này. Chúng ta phải nhìn ra ngoài xa hơn. Câu hỏi về mục đích của đời người đã được nêu lên nhiều lần không đếm nổi; nó vẫn chưa từng bao giờ nhận được một câu trả lời thỏa đáng, và có lẽ sẽ không nhận được lấy một. Một vài trong những
- người hỏi câu hỏi đó, đã thêm rằng nếu như kết quả xoay thành đời sống không có mục đích, nó sẽ mất hết tất cả giá trị với họ. Nhưng đe dọa này không thay đổi được gì. Có vẻ, về ngược lại, như thể người ta có một quyền gạt bỏ câu hỏi, bởi vì nó có vẻ xuất phát từ sự tự cao tự phụ của con người, nhiều những biểu hiện khác của nó chúng ta đã quen thuộc rồi. Không có ai nói về mục đích của đời sống của loài vật, trừ khi, có lẽ, nó có thể được giả định nằm trong tư thế phục vụ cho con người. Nhưng quan điểm này cũng không biện hộ được, vì có nhiều loài động vật mà con người không thể làm được gì cả, ngoại trừ việc mô tả, phân loại, và nghiên cứu chúng; và vô số loài động vật đã trốn thoát ngay cả điều này, bởi vì chúng đã tồn tại và trở thành tuyệt chủng trước khi con người đặt mắt nhìn chúng. Lại một lần nữa, chỉ tôn giáo có thể trả lời câu hỏi về mục đích của đời sống. Người ta khó có thể sai lầm khi kết luận rằng ý tưởng đời sống có một mục đích là chìm và nối với và chỉ có trong hệ thống tôn giáo. Do đó chúng ta sẽ chuyển đến câu hỏi kém tham vọng hơn về những gì là mục đích và ý định của đời sống của con người qua ứng xử của họ tự cho thấy. Họ đòi hỏi gì từ đời sống và mong đạt được gì ở trong đó? Câu trả lời cho điều này khó có thể bị nghi ngờ. Họ dồn nhắm vào hạnh phúc; họ muốn trở nên hạnh phúc và giữ tiếp được như vậy. Nỗ lực này có hai mặt, một mục tiêu tích cực và một tiêu cực. Một mặt, nó hướng mục tiêu đến một sự vắng mặt của đau đớn và khó chịu bực mình, và mặt kia, hướng đến kinh nghiệm có những
- xúc cảm mạnh mẽ của khoái trá sung sướng. Trong ý nghĩa hẹp hơn của nó, từ “hạnh phúc” chỉ liên quan đến điều sau. Phù hợp với sự phân đôi này trong mục tiêu của mình, hoạt động của con người phát triển theo hai hướng, tương ứng khi nó tìm kiếm để nhận ra - trong chính yếu, hoặc thậm chí chỉ chuyên vào - một trong hai mục tiêu này. Như chúng ta thấy, những gì quyết định mục đích của đời sống chỉ đơn giản là chương trình của nguyên tắc lạc thú. Nguyên tắc này chi phối hoạt động của bộ máy trí não từ khởi đầu. Không thể có nghi ngờ nào về sự hữu hiệu của nó, và dẫu chương trình của nó là bướng bỉnh tranh chấp với toàn bộ thế giới, với những cực lớn cũng nhiều như với những cực nhỏ. Không có cơ hội nào cả về sự nó thực hiện được cho xong hết; tất cả những quy định của vũ trụ chạy ngược chiều với nó. Người ta cảm thấy nghiêng về nói rằng chủ định để con người sẽ được “vui sướng” không được gồm trong kế hoạch của “Sáng tạo”. Những gì chúng ta gọi là sự vui sướng trong ý nghĩa chặt chẽ nhất, đến từ sự thỏa mãn (tốt nhất là đột ngột) của những nhu cầu vốn chúng đã bị ngăn dồn ứ đến một mức độ cao, và là từ bản chất của nó, nó chỉ có thể có được như một hiện tượng từng đoạn, không liên tục. Khi bất kỳ tình huống nào được nguyên tắc lạc thú mong muốn và được kéo dài, nó chỉ tạo ra một xúc cảm thỏa mãn dịu nhẹ. Chúng ta đã được tạo dựng đến nỗi chúng ta chỉ có thể rút ra được vui thú mãnh liệt từ một tương phản, và rất ít từ một trạng thái của những sự vật [6].
- Thế nên những khả năng của chúng ta về hạnh phúc là đã bị sự tạo dựng của chúng ta hạn chế rồi. Không-vui-sướng thì trải qua rất ít khó khăn hơn. Chúng ta bị đe dọa với đau khổ từ ba hướng: từ cơ thể của riêng chúng ta, cuối cùng tất phải thối rữa và phân hủy, và thậm chỉ nó lại không thể không đi kèm đau đớn và khắc khoải như những dấu hiệu báo trước; từ thế giới bên ngoài, có thể cuồng nộ chống lại chúng ta với những sức mạnh áp đảo và tàn nhẫn của tàn phá; và cuối cùng từ những quan hệ của chúng ta với những con người khác. Sự đau khổ đến từ nguồn cuối này có lẽ với chúng ta là đau đớn hơn so với bất kỳ nguồn nào khác. Chúng ta có xu hướng xem nó như một loại thêm thắt vô cớ, một phụ kiện thừa thãi, mặc dù so với đau khổ đến từ đâu đâu khác, nó không thể là kém bất kỳ tính định mệnh không thể tránh được nào. Đó là không tự hỏi, nếu dưới áp lực của những khả năng của đau khổ này, con người thành thói quen điều hòa những tham vọng của mình với hạnh phúc - cũng đúng như nguyên tắc lạc thú, quả thật vậy, dưới ảnh hưởng của thế giới bên ngoài, tự nó đã thay đổi thành nguyên tắc thực tế khiêm tốn hơn - , nếu một người nghĩ mình hạnh phúc chỉ đơn thuần là đã tránh khỏi sự bất hạnh, hoặc đã còn được sống sót sau đau khổ của mình, và nếu trong tổng quát, công việc tránh đau khổ đẩy công việc nhận vui sướng ra sau hậu trường. Suy tưởng phản ảnh cho thấy sự hoàn thành công việc này có thể được gắng gỏi theo những con đường rất khác nhau, và tất cả những con đường này đã được nhiều trường phái khác nhau của khôn ngoan thế gian khuyên bảo giới thiệu, và có nhiều người đã đưa vào
- thực hành. Một sự thỏa mãn không bị hạn chế với mỗi nhu cầu trình bày chính nó như là phương pháp hấp dẫn nhất để dẫn đạo đời một người, nhưng nó có nghĩa đặt vui thú trước thận trọng, và chẳng mấy chốc mang hình phạt riêng của nó lại. Những phương pháp khác, trong đó tránh khó chịu không vui là mục đích chính, được phân biệt theo nguồn gốc của sự khó chịu không vui mà chú ý của họ chủ yếu quay hướng về. Một vài những phương pháp này là cực đoan và một vài là ôn hòa; một vài là một chiều, và một vài tấn công vấn đề ở nhiều điểm cùng một lúc. Chống lại đau khổ vốn có thể đến với một người từ những quan hệ con người, sự phòng chống sẵn sàng nhất là tự nguyện cách ly, giữ mình xa cách người khác. Hạnh phúc có thể đạt được dọc theo lối này, như chúng ta thấy, là hạnh phúc của sự tĩnh lặng. Chống lại thế giới hãi hùng bên ngoài, một người chỉ có thể bảo vệ chính mình bằng một vài loại thuộc kiểu quay đi cho xa khỏi nó, nếu người ta định giải quyết công việc tự một mình. Có đó, quả thật vậy, lối khác và tốt hơn: đó là trở nên một thành viên của cộng đồng nhân loại, và với sự giúp đỡ của một kỹ thuật được khoa học hướng dẫn, xem xét sự tấn công chống trả thiên nhiên và đặt thiên nhiên dưới ý chí con người. Sau đó, một người làm việc với tất cả, vì lợi ích của tất cả. Nhưng những phương pháp đáng chú ý nhất của sự ngăn tránh đau khổ là của những phương pháp mà chúng tìm cách ảnh hưởng đến cơ cấu sinh vật của chúng ta.
- Trong phân tích vừa mới qua, tất cả khổ đau là không có gì khác hơn ngoài sự xúc cảm, nó chỉ tồn tại chừng nào chúng ta cảm thấy nó, và chúng ta chỉ cảm thấy nó trong hệ quả của những đường lối nhất định, trong đó cấu trúc sinh vật của chúng ta bị quy định. Thô sống nhất, nhưng cũng hiệu quả nhất trong những phương pháp tạo ảnh hưởng này là một phương pháp hóa học – uống chất gây say. Tôi không nghĩ rằng có bất cứ ai hoàn toàn hiểu được cơ chế của nó, nhưng một sự kiện là có những chất lạ, khi hiện diện trong máu hoặc mô tế bào, trực tiếp gây cho chúng ta những cảm giác thích thú, và chúng cũng thay đổi những điều kiện quản trị sự nhạy cảm của chúng ta khiến chúng ta trở thành không có khả năng để tiếp nhận những xung lực không thích thú. Hai hiệu ứng không chỉ xảy ra đồng thời, nhưng dường như ràng buộc mật thiết với nhau. Nhưng phải có những thực chất trong kết cấu hóa học của cơ thể của chính chúng ta, chúng có những tác dụng tương tự, bởi vì chúng ta biết ít nhất một trạng thái bệnh lý, mania [7], trong đó một điều kiện tương tự như say sưa phát sinh mà không có cho uống bất kỳ loại thuốc uống say sưa độc hại nào. Bên cạnh điều này, đời sống tinh thần bình thường của chúng ta trưng bày những dao động giữa một thoát mở tương đối dễ dàng của niềm vui và một thoát mở tương đối khó khăn, song song với điều đó có một giảm bớt đi hoặc một tăng lên sự cảm thụ với khó chịu không vui. Rất đáng tiếc khía cạnh nhiễm say sưa này của tiến trình trí não cho đến nay đã tránh thoát nghiên cứu khoa học. Dịch vụ đem lại từ những môi chất làm say sưa [8] này trong phấn đấu cho hạnh phúc, và trong giữ đau khổ ở cách một khoảng xa, là
- được ước vọng rất cao như một phúc lợi mà những cá nhân và và đám đông đều như nhau đã cho chúng một chỗ vững chãi trong nền kinh tế của libido [9] của họ. Chúng ta nợ những môi chất làm say sưa loại giống như vậy không chỉ đơn thuần là thu hoạch trực tiếp của niềm vui, nhưng cũng còn một mức độ độc lập với thế giới bên ngoài được khao khát rất lớn. Bởi vì người ta biết rằng, với sự giúp đỡ của chất “đánh chìm những bận lòng” [10] này, một người bất kỳ lúc nào cũng có thể rút khỏi áp lực của thực tại, và tìm trú ẩn trong một thế giới của một người riêng, với những điều kiện tốt hơn về sự nhạy cảm. Như được biết rõ, chính là do thuộc tính này của những chất gây say nó cũng quyết định sự nguy hiểm và gây thương tích của chúng. Chúng có trách nhiệm, trong những trường hợp nhất định, cho sự phí phạm vô ích một phần chia lớn của sinh lực vốn có thể đã được sử dụng vào sự cải thiện của đám đông nhân loại. Cấu trúc phức tạp của bộ máy trí não của chúng ta, tuy nhiên, chấp nhận cả toàn bộ một số những ảnh hưởng khác. Cũng đúng như khi một thỏa mãn của bản năng đem hạnh phúc đến cho chúng ta, nên khổ đau khốc hại sinh ra cho chúng ta nếu thế giới bên ngoài để chúng ta thiếu ăn, nhịn đói, nếu nó từ chối không thỏa mãn chán ngấy những nhu cầu của chúng ta. Do đó người ta có thể hy vọng sẽ thoát khỏi được một phần của những đau khổ của người ta, bằng cách ảnh hưởng trên những xung động bản năng. Đây là loại bảo vệ chống đau khổ thôi không còn được áp dụng cho bộ máy cảm giác, nó tìm cách để làm chủ những nguồn gốc bên trong của những nhu cầu chúng ta. Hình thức cực đoan của điều
- này là nguyên nhân xảy ra làm giết sạch những bản năng, như được sự khôn ngoan thế gian của phương Đông kê đơn, và được thực hành trong Yoga. Nếu như nó thành công, đó là sự thật, sau đó chủ thể cũng từ bỏ tất cả những hoạt động khác nữa - ông đã hy sinh đời mình, bằng con đường khác, và một lần nữa ông chỉ đạt được hạnh phúc của sự tĩnh lặng. Chúng ta theo con đường tương tự, khi mục tiêu của chúng ta ít cực đoan hơn, và chúng ta chỉ thử cố gắng kiểm soát đời sống bản năng của chúng ta. Trong trường hợp đó, những yếu tố kiểm soát là những tác lực tinh thần cao hơn, vốn tự thân chúng là đối tượng của nguyên tắc thực tế. Ở đây, mục tiêu của sự thỏa mãn là hoàn toàn tất cả tuyệt không có nghĩa buông bỏ; nhưng một số lượng nhất định của sự bảo vệ chống lại đau khổ được nắm giữ, trong sự không-thỏa mãn đó, đau đớn không phải chịu cảm nhận đến thế, như trong trường hợp của những bản năng giữ phụ thuộc như trong những trường hợp của những không-bị-cấm-đoán. Như chống lại điều này, có một giảm thiểu không chối cãi trong tiềm năng của vui hưởng thích thú. Xúc cảm về hạnh phúc xuất phát từ sự thỏa mãn của một thúc đẩy có tính bản năng man dã, không uốn nắn, đến từ ego, thì dữ dội hơn không thể sánh với cái xuất phát từ một sự thỏa mãn đến ngấy một bản năng đã được thuần hóa. Những khôn cưỡng được của những bản năng đồi trụy, và có lẽ sự hấp dẫn nói chung của những thứ bị cấm, tìm thấy một giải thích về lợi hại hơn thiệt ở đây. Một kỹ thuật khác để ngăn chống đau khổ là sử dụng những chuyển dịch vị trí của libido, vốn bộ máy trí não của chúng ta cho
- phép làm, và qua đó chức năng của nó thu gặt được sự mềm dẻo rất nhiều. Công việc ở đây là là chuyển đổi những mục tiêu bản năng theo một cách sao cho chúng không thể trồi lên va đầu với thất vọng từ thế giới bên ngoài. Trong điều này, sự thăng hoa của những bản năng [11] giúp tay hỗ trợ của nó. Người ta gặt hái được nhiều nhất, nếu như người ta có thể nâng cao đầy đủ năng suất của niềm vui từ những nguồn của công việc thuộc về tinh thần và trí tuệ. Khi được như vậy, số phận ít có thể làm được gì với một người. Một sự thỏa mãn của loại này, chẳng hạn như niềm vui của một nghệ sĩ trong sáng tạo, trong việc đem cho ra khối lượng những tưởng tượng lạ lùng của ông, hoặc của một nhà khoa học trong việc giải quyết vấn đề hay khám phá những sự thật, có một tính chất đặc biệt mà chúng ta chắc chắn một ngày sẽ có thể mô tả trong những thuật ngữ khoa lý thuyết ức đoán tâm lý [12]. Lúc này đây, chúng ta chỉ có thể nói tượng trưng rằng những thỏa mãn như vậy có vẻ “thanh hơn và cao hơn”. Nhưng cường độ của chúng là dịu nhẹ so với của những có nguồn gốc từ thỏa mãn chán ngấy những xung động bản năng thô dã và nguyên sơ; nó không làm chấn động sinh mạng vật lý của chúng ta. Và điểm yếu của phương pháp này là nó không áp dụng được một cách tổng quát: chỉ với một số ít người có thể đạt đến nó. Nó tiền giả định là bao hàm một sở hữu của những phân bối và những quà tặng đặc biệt, vốn với bất kỳ mức độ thực tế nào, chúng là rất xa mới thành phổ thông. Và ngay cả với một số ít người quả thực sở hữu chúng, phương pháp này không thể đem cho sự bảo vệ hoàn toàn khỏi khổ đau. Nó không tạo ra áo giáp không thể xuyên
- thủng nào để chống lại những mũi tên của số mệnh, và nó có thói quen thất bại khi nguồn gốc của khổ đau là cơ thể của riêng của một người [13]. Trong khi trình tự này đã rõ ràng cho thấy một dự định để làm một người độc lập với thế giới bên ngoài, bằng tìm kiếm sự thỏa mãn ở bên trong, những tiến trình thuộc về tinh thần, trình thức tiếp theo sẽ đem phơi ra những đặc trưng đó lại còn mạnh mẽ hơn. Trong nó, sự liên kết với thực tại vẫn còn lỏng lẻo hơn nhiều nữa, thỏa mãn là thu được từ những ảo tưởng, chúng được nhận thức như thể không có sự khác biệt giữa chúng và thực tại được cho phép can dự với sự vui hưởng. Khu vực mà từ đó những ảo tưởng này nổi lên là đời sống của sự tưởng tượng; vào thời gian khi sự phát triển của ý thức về thực tại đã xảy ra, khu vực này đã được bày tỏ được miễn trừ khỏi những đòi hỏi của thử nghiệm-thực tại, và đã được đặt riêng ra cho mục đích của những ao-ước-mong-thỏa-mãn [14] vốn chúng là đã khó khăn để thực hiện cho được. Đứng đầu trong những thỏa mãn này thông qua fantasy là sự vui hưởng của những tác phẩm nghệ thuật – một thích thú vui hưởng, vốn do tác nhân của nghệ sĩ, được làm cho ngay cả những người tự họ không thuộc giới sáng tạo cũng tiếp cận được [15]. Ai là người có thể tiếp thụ được ảnh hưởng của nghệ thuật không thể đặt một giá trị quá cao cho nó như là một nguồn vui và an ủi trong đời sống. Dù sao đi nữa, sự gây mê nhẹ gây ra trong chúng ta bằng nghệ thuật không có thể làm hơn được ngoài đem ra một rút lui tạm thời ngắn ngủi khỏi áp lực của những nhu cầu của sống còn, và nó không đủ
- mạnh để làm cho chúng ta quên đi đau khổ thực sự. Một trình tự khác, hoạt động đầy năng lực mạnh mẽ hơn và thông quán toàn diện hơn. Nó nhìn thực tại như là kẻ địch độc nhất, và như nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau, vốn không thể nào có thể sống được với nó, thế nên người ta phải cắt đứt tất cả những quan hệ với nó, có thế người ta mới có hạnh phúc dù là trong cách bất kỳ nào đi nữa. Vị đạo sĩ ẩn tu quay lưng ông lại với thế giới, và sẽ không có trao đổi mặc cả nào với nó. Nhưng người ta có thể làm nhiều hơn thế; người ta có thể cố gắng tái tạo thế giới, để xây lên thay vào trong chỗ đứng của nó một thế giới khác, trong đó những nét đặc biệt nào của nó không thể chịu đựng được bị loại bỏ, và thay thế bằng những cái khác phù hợp với mong ước của riêng một người. Nhưng bất cứ là ai, trong thách thức tuyệt vọng, bát đầu hành trình trên lối này để đến hạnh phúc, như một quy luật sẽ không đạt được gì cả. Thực tại là quá mạnh với anh ta. Anh trở thành một người điên, một người trong hầu hết mọi phần không tìm thấy được một ai giúp anh trong việc thực hiện qua trọn những ảo tưởng của anh ta. Tuy nhiên, điều được xác định là mỗi người trong chúng ta hành xử trong một cách, dưới cái nhìn của người khác, như một kẻ bị bệnh hoang tưởng [16], sửa chữa một vài khía cạnh của thế giới vốn anh ta không thể chịu đựng được, bằng sự xây dựng một ao ước và đưa ảo tưởng này vào trong thực tại. Một tầm quan trọng đặc biệt gắn với trường hợp vốn trong đó cố gắng này nhằm kiếm chác một chắc chắn của hạnh phúc, và một bảo
- vệ chống lại đau khổ, qua một sự trộn khuôn đúc lại ảo tưởng cho thực tại, được một số lượng đáng kể con người nói chung đem thực hiện. Những tôn giáo của nhân loại phải được xếp vào trong số những ảo tưởng của quần chúng thuộc về loại này. Không một ai, không cần phải nói, là người chia sẻ một ảo tưởng đã từng bao giờ công nhận nó là như thế. Tôi không nghĩ rằng tôi đã thực hiện một liệt kê đầy đủ những phương pháp, vốn qua chúng con người gắng gỏi để dành hạnh phúc và giữ đau khổ ở xa, và tôi cũng biết nữa, rằng chất liệu đã có thể được sắp xếp một cách khác đi. Một trình tự tôi đã vẫn chưa đề cập - không phải tôi đã quên nó, nhưng vì nó sẽ là quan tâm của chúng ta sau này trong một kết nối khác. Và làm sao người ta lại có thể quên được, trong tất cả những gì khác, kỹ thuật này trong nghệ thuật sống? Nó nổi bật dễ thấy vì một sự kết hợp đáng chú ý nhất của những tính năng đặc trưng. Cũng thế, dĩ nhiên nó có mục tiêu nhắm làm cho chủ thể độc lập với Số Phận [17] (tốt nhất là gọi nó như thế), và đến cuối cùng đó, nó tìm ra chỗ của sự thỏa mãn trong những tiến trình trí não nội bộ, trong khi làm như vậy, đem sử dụng sự chuyển đổi của libido mà chúng ta đã nói. Nhưng nó không quay lưng lại với thế giới bên ngoài; trái lại, nó bám vào những đối tượng thuộc thế giới đó và thu nhận được hạnh phúc từ một quan hệ xúc cảm với chúng. Cũng không phải nó hài lòng với mục tiêu nhắm một sự tránh khó chịu không vui - một mục đích, như chúng ta có thể gọi nó, thuộc sự cam chịu mệt mỏi; nó vượt qua điều này bằng cách không chú ý nhiều và không giữ chặt
- với cái nguyên bản, phấn đấu đầy đam mê cho một thực hiện tích cực của hạnh phúc. Và có lẽ nó thực sự đến gần với mục tiêu này hơn bất kỳ phương pháp khác. Tất nhiên, tôi đương nói về cách sống vốn nó lấy tình yêu làm trung tâm của tất cả mọi thứ, vốn nó tìm kiếm tất cả sự thỏa mãn trong yêu thương và được thương yêu. Một thái độ tâm lý thuộc loại này đủ tự nhiên đến với tất cả chúng ta; một trong những hình thức mà trong đó tình yêu tự nó thể hiện - tình yêu tính dục [18] - đã cho chúng ta kinh nghiệm mạnh mẽ nhất của chúng ta về một cảm giác tràn ngập lạc thú, và như thế đã trang bị cho chúng ta với một mô hình trong săn tìm hạnh phúc của chúng ta. Còn điều gì tự nhiên hơn là chúng ta nên kiên trì khi tìm kiếm hạnh phúc dọc theo con đường mà chúng ta đầu tiên trên đó đã chạm mặt nó? Mặt yếu của kỹ thuật sống này dễ dàng nhận thấy; nếu không không có con người nào sẽ nghĩ đến việc bỏ con đường đến hạnh phúc này với bất kỳ gì khác. Đó là chúng ta không bao giờ bỏ ngỏ không phòng vệ đến thế trong chống lại đau khổ, như khi chúng ta yêu thương, không bao giờ bị bất hạnh trong bất lực không sao giúp đỡ được đến thế, như khi chúng ta đánh mất đối tượng yêu thương của chúng ta, hay tình yêu của nó. Nhưng điều này không gạt bỏ đi kỹ thuật sống dựa trên giá trị của tình yêu như là một phương tiện để hạnh phúc. Có nhiều hơn nữa để nói về nó. (Xem dưới đây – ở chương V) Từ đây, chúng ta có thể tiếp tục xem xét trường hợp thú vị, trong đó hạnh phúc trong đời sống là chủ yếu tìm trong việc vui hưởng về cái đẹp, bất cứ chỗ nào vẻ đẹp tự trình bày với những giác quan của
- chúng ta và phán đoán của chúng ta - vẻ đẹp của những hình dạng và động tác của con người, của những đối tượng và những phong cảnh thiên nhiên, và của những sáng tạo của nghệ thuật và ngay cả của khoa học. Thái độ thẩm mỹ này cho mục tiêu của đời sống cung cấp rất ít bảo vệ chống lại những mối đe dọa của đau khổ, nhưng nó có thể bù đắp rất lớn lao. Việc vui hưởng cái đẹp có một phẩm chất gây ngộ độc nhẹ, đặc thù của xúc cảm. Cái đẹp không có công dụng rõ ràng; cũng chẳng có bất kỳ nhu cầu rõ ràng nào về văn hóa cho nó. Thế nhưng văn minh không thể không có nó. Khoa học về thẩm mỹ điều tra những điều kiện theo đó những sự vật được cảm thấy là đẹp, nhưng nó đã không có khả năng đưa ra bất kỳ giải thích nào về bản chất và nguồn gốc của cái đẹp, và giống như thường thường xảy ra, thiếu thành công được giấu dưới một dòng tuôn chảy những từ vang dội và trống rỗng. Đáng tiếc, khoa phân tích tâm lý cũng chẳng có chút gì để nói về cái đẹp cả. Tất cả những gì có vẻ chắc chắn là sự bắt nguồn của nó từ lĩnh vực của xúc cảm tính dục. Tình yêu về cái đẹp xem ra là một thí dụ hoàn hảo về một thúc đẩy bị ức chế trong mục tiêu của nó. “Cái đẹp” và “thu hút” [19] là những thuộc tính ban đầu được gán vào đối tượng tính dục. Điều đáng được ghi nhận lại, là tự thân những bộ phận sinh dục, ảnh tượng của chúng là luôn luôn phấn khích, tuy nhiên hầu như không bao giờ được đánh giá là đẹp; thay vào đó, phẩm chất thuộc vẻ đẹp dường như gắn vào những đặc tính tính dục thứ yếu hạng nhì nào đó.
- Mặc dù liệt kê của tôi không đầy đủ. Tôi sẽ liều lĩnh với một ít nhận xét như một kết luận cho sự thăm dò của chúng ta. Chương trình của làm trở nên hạnh phúc, vốn nguyên tắc niềm vui áp đặt trên chúng ta, không thể hoàn thành được, thế nhưng chúng ta phải không – đúng vậy, chúng ta không thể - buông bỏ những nỗ lực của chúng ta để mang nó gần đến hơn sự hoàn thành bằng vài phương tiện này hay khác. Những lối rất khác nhau có thể được lấy trong hướng đó, và chúng ta có thể dành ưu tiên hoặc là cho khía cạnh tích cực của mục tiêu, đó là dành lấy niềm vui, hoặc về khía cạnh tiêu cực của nó, đó là của tránh né khó chịu không vui. Không bằng một lối nào trong số này chúng ta có thể đạt được tất cả những gì chúng ta ao ước. Hạnh phúc, trong ý nghĩa giảm thiểu, trong đó chúng ta nhìn nhận nó như có thể có được, là một vấn đề của kinh tế của libido từng cá nhân. Không có quy tắc vàng áp dụng chung cho tất cả mọi người: mỗi người phải tìm ra cho chính mình xem ông ta có thể được cứu trong thời thức đặc biệt cụ thể nào [20]. Tất cả mọi loại của những thành tố khác nhau sẽ hoạt động để chỉ đạo lựa chọn của ông ta. Nó là một câu hỏi về bao nhiêu thỏa mãn thực sự ông ta có thể mong đợi lấy được từ thế giới bên ngoài, xa đến đâu ông bị dẫn đi để làm chính ông độc lập với nó, và cuối cùng, bao nhiêu sức mạnh ông cảm thấy ông có để thay đổi thế giới cho thích hợp với những ước muốn của ông. Trong điều này, thể chất tâm thần của ông sẽ đóng một phần quyết định, không đếm xỉa gi tới những hoàn cảnh bên ngoài. Một người là người ưu thắng về gợi tình nhục dục [21] sẽ dành
- chọn lựa đầu tiên cho những quan hệ xúc cảm của mình với người khác; con người quá-yêu-chỉ-mình [22], người nghiêng về tự chủ độc lập, sẽ tìm kiếm những thỏa mãn chính của mình trong những tiến trình trí não bên trong ông ta; con người của hành động sẽ không bao giờ buông bỏ thế giới bên ngoài mà ông có thể thử sức mạnh của mình trên nó [23]. Đối với loại thứ hai của những loại này, bản chất của những tài năng của ông ta, và số lượng của sự thăng hoa bản năng mở ra cho ông ta, sẽ quyết định đâu là chỗ ông sẽ đặt định những chú tâm của mình. Bất kỳ lựa chọn nào nếu được đẩy đến một cực đoan sẽ bị trừng phạt bằng cách phơi mở cá nhân với những nguy hiểm vốn chúng nổi lên nếu như một kỹ thuật của sinh sống đã được chọn như là một độc nhất không nào khác, lại tỏ ra không thỏa đáng. Cũng đúng như một doanh nhân thận trọng tránh buộc tất cả vốn của mình vào chỉ một doanh nghiệp, thế nên, có lẽ sự khôn ngoan của thế gian sẽ khuyên chúng ta đừng tìm toàn bộ sự hài lòng của chúng ta từ chỉ một nguyện vọng ao ước duy nhất. Sự thành công của nó không bao giờ chắc chắn, bởi vì điều đó phụ thuộc vào sự hội tụ của nhiều yếu tố, có lẽ trên không gì nhiều hơn là trên khả năng của thể chất tâm linh để thích ứng những chức năng của nó với môi trường, và sau đó khai thác môi trường đó cho một thu hoạch của niềm vui. Một người là kẻ được sinh ra với một thể chất bản năng bất lợi đặc biệt, và là người đã không được hợp thức trải qua sự chuyển đổi và sắp xếp lại những thành phần libido của mình vốn chúng là không thể nào thiếu được cho những thành tựu sau đó, sẽ thấy khó khăn
- để đạt được hạnh phúc từ những tình cảnh bên ngoài của mình, đặc biệt là nếu ông phải đối mặt với những nhiệm vụ thuộc loại một vài khó khăn. Như là một kỹ thuật cuối cùng của sinh sống, vốn nó ít nhất sẽ mang lại cho ông ta những thỏa mãn thay thế, ông được cung cấp một thứ trốn chạy vào những bệnh thần kinh - một trốn chạy mà ông thường hoàn thành khi ông vẫn còn trẻ. Người nhìn thấy theo đuổi hạnh phúc của mình không đi đến gì cả trong những năm về sau vẫn có thể tìm thấy sự an ủi trong thu hoạch niềm vui từ say sưa ngộ độc mãn tính; hoặc ông ta có thể bắt đầu trên nỗ lực tuyệt vọng ở sự nổi loạn xem thấy trong một bệnh nhân psychosis [24]. Tôn giáo hạn chế cuộc chơi này của lựa chọn và thích ứng, vì nó áp đặt cùng như nhau trên tất cả mọi người, lối đi riêng của nó đến sự thụ nhận hạnh phúc và phòng chống đau khổ. Kỹ thuật của nó bao gồm trong sự dìm giá trị của đời sống xuống thành chán nản, và bóp méo bức tranh thế giới thực tại trong một phương cách huyễn tưởng – vốn tiền giả định một sự dọa dẫm trên trí thông minh. Với giá này, bằng cách ép buộc gắn chặt chúng trong một trạng thái tinh thần ấu trĩ trẻ con, và bằng cách lôi kéo chúng vào một huyễn tưởng của đám đông, tôn giáo đã thành công trong việc tránh cho nhiều người một bệnh neurosis [25] cá nhân. Nhưng hầu như không có được bất cứ gì khác hơn nữa. Như chúng ta đã nói, có nhiều lối vốn chúng có thể dẫn đến hạnh phúc loại như con người có thể đạt được, nhưng chẳng có lối nào vốn có thể là thế với sự chắc chắn. Ngay cả tôn giáo cũng không thể giữ lời hứa của nó. Nếu kẻ tin tưởng cuối cùng thấy chính mình
- buộc phải nói về những “lệnh truyền không thể hiểu được” của Gót, ông đương thú nhận rằng tất cả những gì còn lại với ông ta như một sự an ủi khả hữu cuối cùng, và nguồn của hoan lạc trong sự khổ đau của ông là một sự tuân phục vô điều kiện. Và nếu như ông ta đã được sửa soạn với điều đó, có lẽ ông đã có thể tránh cho chính ông lối đi vòng ông đã làm. Chương III Thăm dò của chúng ta liên quan đến hạnh phúc cho đến đây đã không dạy chúng ta nhiều những gì mà đã không là kiến thức phổ thông rồi. Và ngay cả nếu chúng ta từ đó tiến đến vấn đề tại sao là quá khó cho con người được hạnh phúc, dường như không có nhiều triển vọng hơn để học hỏi được bất cứ gì mới. Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất (Aug/2011) (Còn tiếp ) [1] Providence [2] tiếng Đức trong bản Anh ngữ: “Wer Wissenschaft und Kunst besitzt, hat auch Religion; - Wer jene beide nicht besitzt, der habe Religion!” – Goethe, Zahme Xenien IX (Gedichte aus dem Nachass)
- [3] [Vẫn chưa tìm được truy nguồn được trích dẫn này] [4] [Trong Die Fromme Helene Wilhelm Busch cũng đã nói cùng một điều trên một diện thấp hơn: ‘Wer Sorgen hat, hat auch Likor’ – Ai là người có bận tâm cũng có rượu ngọt nữa] [5] fantasy, hay phantasy : tưởng tượng, nhưng về những điều thường không có cơ sở thực tại. Cõ lẽ chúng ta nên dùng từ “phăng-ta-di” hay “fantasy” thì gọn hơn là diễn dịch dài dòng mà vẫn chưa hoàn toàn sát ý, nếu dịch là tưởng tượng thì quá tổng quát. [6] [Goethe, thực vậy, báo trước chúng ta rằng “không có gì khó hơn phải gánh chịu một liên tục của những ngày tươi đẹp”. Alles in der Welt lässt sich ertragen Nur nicht eine Reibe von schönen Tagen. (Weimar, 1810-12.) Nhưng điều này có thể là một cường điệu, phóng đại quá mức.] [7] mania: hưng cảm - bệnh tâm thần đánh dấu bằng những thời kỳ phấn khích, sảng khoái, có ảo giác, và năng động thái quá (great excitement, euphoria, delusions, and overactivity). . [8] Intoxicating media. [9] Libido: từ của Freud – chỉ năng lực của thúc đẩy tình dục, như một bộ phận của đời sống bản năng con người. – the economics of libido là thuật ngữ đặc biệt của ông. [10] Trong nguyên bản tiếng Đức: “Sorgenbrecher”: rượu tiêu sầu. [11] sublimation of the instincts: sự thăng hoa những bản năng – sublimation – nghĩa chữ là “nâng lên cao” đến tuyệt hảo. Từ Freud dùng để chỉ một hiện tượng trong đó có một tiến trình chuyển hướng năng lực tâm lý từ khát vọng-ego (thí dụ, thỏa mãn tình dục)
- - xem là thấp - sang qua sự thỏa mãn những mục tiêu văn hóa (thí dụ, nghệ thuật, xã hội) - xem là cao. [12] metapsychological: khoa lý thuyết ức đoán tâm lý – nghiên cứu những tiến trình não thức, quan hệ não thức và cơ thể, những gì vượt quá khả năng có thể nghiên cứu thực nghiệm được. [13] [Trong một con người, khi không có phân bối đặc biệt ghi rõ như mệnh lệnh cho thấy những quan tâm thích thú của đời sống của anh ta sẽ nhận được phương hướng nào, công việc của nghề chuyên môn thông thường là mở cửa cho tất cả mọi người có thể “chơi” phần được giao cho nó bằng lời khuyên khôn ngoan của Voltaire (nói ở trên). Điều là không thể, trong những giới hạn của một thăm dò ngắn, để thảo luận cho đầy đủ ý nghĩa quan trọng của công việc của nền kinh tế của libido. Không có kỹ thuật nào khác cho việc tiến hành đời sống gắn chặt cá nhân với thực tại như đặt sự nhấn mạnh trên công việc; bởi vì ít nhất là công việc của anh ta đem cho anh một chỗ vững chắc trong một phần chia của thực tại, trong cộng đồng con người. Khả năng nó cung cấp về sự chuyển dịch một lượng lớn những thành phần libido, dù là quá-yêu-chỉ-mình (narcissistic), hung hãn (aggressive) hay ngay cả như gợi dâm (erotic), đến với công việc của nghề chuyên môn, và với những quan hệ của con người thông nối với nó, đem thêm cho nó một giá trị không có cách nào là phải xếp hàng thứ yếu, sau những gì nó vui thích như một gì đó không thể thiếu được trong sự bảo tồn và biện minh cho sự hiện hữu trong xã hội.
- Hoạt động của những nghề nghiệp chuyên môn là một nguồn của sự thỏa mãn đặc biệt, nếu nó là một lựa chọn tự do -, đó à nói rằng, nếu bằng những phương tiện của sự thăng hoa, nó làm cho có khả năng xử dụng về những khuynh hướng hiện hữu, về sự dai dẳng hay tăng cường những xung lực bản năng. Và tuy thế, như là một đường dẫn đến hạnh phúc, con người không đánh giá rất cao việc làm. Họ không cố gắng theo đuổi nó như như là họ theo đuổi những khả năng khác của sự thỏa mãn. Tuyệt đại đa số người ta chỉ làm việc dưới áp lực của sự cần thiết, và ác cảm tự nhiên này của con người với sự làm việc nêu lên những vấn đề xã hội khó khăn nhất.] [14] fulfilling wishes : những ao ước mình ôm ấp – thường là rất khó khăn, tự biết là khó thành [15] [Cf. ‘Formulations on the two Principles of Mental Functioning’ (1911b) và Lecture XXIII của tập Introductory Lectures (1916-17) của tôi] [16] paranoia [17] Fate : hiểu là số phận – nhưng gì xảy ra ngoài sự kiểm soát của con người – gốc ý từ “Moirae” – nội dung trong câu chuyện ba chị em trong huyền thoại Greek: Clotho quay guồng chỉ - là chiều dài đời sống của mỗi người, Lachesis do chiều dài cho mỗi người, và Atropos cắt chỉ - khi một người đến lúc chết. [18] sexual love: tình yêu trên cơ sở phái tính con người. [19] [từ tiếng Đức ‘Reiz’ có nghĩa là ‘kích thích’ cũng như ‘duyên dáng’ hay ‘hấp dẫn, thu hút’. Freud đã biện luận cùng một lối trong bản đầu tiên của tập Three Essays (1905d), Standard Ed., 9,209,
- cũng như trong một cước chú được thêm vào công trình trên năm 1915, ibid., 156.] [20] [cách diễn tả ở đây nhắc một câu nói của Frederick the Great: ‘trong nhà nước của ta, mỗi người đều có thể được cứu theo cách thức thời thượng riêng của hắn”. Freud đã dẫn câu này, không lâu trước đó trong Lay Analysis (1926e), Standard Ed., 20, 236.] [21] erotic: có tính chất gợi tình nhưng là tình dục, thiên về dâm đãng – porn/pornography: dâm thư gợi dục [22] narcissistic – narcissisim: sự chỉ yêu mình – nhưng quá đáng và thiên về hình thể, sắc diện bên ngoài, yêu hình dạnh, tướng mạo của chính mình thái quá. [23] [Freud phát triển xa hơn nữa những ý tưởng của ông về những mẫu người khác nhau này trong luận văn của ông ‘Libidinal Types’ (193a)] [24] psychosis: thác loạn thần kinh (?) – một rối loạn trầm trọng trong đó tư tưởng và cảm xúc bị quá hư hại nên mất hết khả năng tiếp xúc với thực tại bên ngoài. [Cước chú thêm 1931: Tôi cảm thấy buộc phải chỉ ra ít nhất một trong những khoảng trống vẫn còn bỏ ngỏ trong giải thích ở trên. Không một thảo luận nào về những khả năng của hạnh phúc con người mà nên bỏ qua không đem vào xem xét sự liên hệ giữa narcissism và đối tượng libido. Chúng ta cần biết được những gì là tự-tùy thuộc thiết yếu vốn nó biểu thị cho kinh tế của libido.] [25] Neurosis: một triệu chứng bệnh tâm thần nhẹ, không có nguyên nhân sinh hóa, nó gồm những triệu chứng của chịu đựng căng thẳng từ đời sống (chán nản, lo lắng, có thái độ thái quá, sợ có
- những bệnh tưởng tượng), nhưng bệnh nhân không đi đến mất gốc, mất tiếp xúc với thực tại. Theo Freud, các tín đồ tôn giáo độc thần châu Âu đều mắc bệnh này Sigmund Freud - Văn minh và những Bất mãn từ nó (4) Văn minh và những Bất mãn từ nó
- Sigmund Freud (1856 – 1939) Das Unbehagen In Der Kultur (Vienne, 1929). Civilization and Its Discontents (1930) (tiếp theo) Chương III Thăm dò của chúng ta quan tâm đến hạnh phúc cho đến đây đã không dạy chúng ta được nhiều những gì mà chưa là kiến thức phổ thông. Và ngay cả nếu chúng ta từ đó tiến đến vấn đề tại sao là quá khó cho con người được hạnh phúc, dường như không có nhiều triển vọng hơn để học hỏi được bất cứ gì mới. Chúng ta đã trả lời rồi, bằng cách kể ba nguồn vốn đau khổ của chúng ta xuất phát từ chúng: sức mạnh vượt thắng của thiên nhiên, sự yếu nhược của cơ thể của chính chúng ta, và sự bất toàn của những quy định vốn chúng điều chỉnh những quan hệ tương hỗ của những cá nhân con người trong gia đình, nhà nước và xã hội. Về phần hai nguồn đầu tiên, phán xét của chúng ta không thể ngần ngừ được lâu. Nó buộc chúng ta phải thừa nhận những nguồn đau khổ này và đặt mình cam chịu dưới sự bất khả. Chúng ta sẽ không bao giờ hoàn toàn làm chủ tự nhiên; và cơ cấu sinh vật cơ thể của chúng ta, chính nó là một phần của tự nhiên đó, sẽ luôn luôn còn mãi là một cấu trúc vô thường, với một khả năng hữu hạn cho sự thích ứng và sự thành tựu. Nhìn nhận này không có tác dụng làm tê liệt. Ngược lại, nó chỉ phương hướng cho hoạt động của chúng ta. Nếu chúng ta không thể loại bỏ tất cả đau khổ, chúng ta có thể loại bỏ một số, và chúng ta
- có thể giảm nhẹ một phần: kinh nghiệm của hàng ngàn năm đã thuyết phục chúng ta điều đó. Đối với nguồn thứ ba, nguồn xã hội của đau khổ, thái độ của chúng ta là khác. Chúng ta không thừa nhận nó tất cả chút nào; chúng ta không thể nhìn thấy lý do tại sao những quy định được chính chúng ta làm nên, về ngược lại, lại không là một bảo vệ và một lợi ích cho tất cả mỗi người chúng ta. Chưa hết, khi chúng ta xem xét đích xác làm thế nào chúng ta không thành công được trong lĩnh vực này về phòng chống của đau khổ, một nghi ngờ trùm xuống chúng ta, thấy rằng quả ở đây nữa, có một mảnh không thể thắng nổi của tự nhiên có thể nằm đằng sau nó - lần này là một mảnh của cấu tạo thể chất tinh thần của chúng ta. Khi chúng ta bắt đầu xem xét khả năng này, chúng ta đến với một luận điểm hết sức đáng ngạc nhiên khiến chúng ta ta phải suy nghĩ dài lâu hơn về nó. Luận điểm này chủ trương rằng những gì chúng ta gọi là văn minh của chúng ta chủ yếu chịu trách nhiệm về sự bất hạnh đau khổ của chúng ta, và chúng ta sẽ được nhiều hạnh phúc hơn nếu chúng ta bỏ nó đi, và quay lại với những điều kiện sống nguyên thủy. Tôi gọi đây là luận điểm đáng kinh ngạc, bởi vì dù trong bất cứ cách nào chúng ta có thể định nghĩa khái niệm văn minh, nó là một thực tế chắc chắn rằng tất cả những điều mà chúng ta tìm kiếm để bảo vệ chúng ta chống lại những mối đe dọa phát ra từ những nguồn của đau khổ là phần của chính nền văn minh đó. Đã xảy ra thế nào khiến rất nhiều người như thế đã đi đến nhận lấy thái độ lạ lùng thù địch với văn minh này? [1] Tôi tin rằng cơ sở của nó đã là một bất mãn sâu xa và lâu dài với tình trạng của nền văn
- minh lúc ấy đương có, và trên cơ sở đó, một sự lên án nó đã được dựng lên theo thỉnh thoảng từng thời kỳ do một số biến cố lịch sử nào đó cụ thể. Tôi nghĩ rằng tôi biết thời kỳ nào mới nhất, và cuối cùng nhưng chỉ một trong những trường hợp đã xảy ra. Tôi không đủ kiến thức để truy nguyên chuỗi của chúng đủ xa ngược trở lại trong lịch sử của loài người, nhưng một yếu tố của loại thù địch này với văn minh đã phải từng có rồi và hoạt động trong chiến thắng của đạo Kitô trên những tôn giáo đa thần khác nó. Bởi vì nó đã liên quan rất chặt chẽ với sự đánh giá thấp của giáo lý Kitô giáo trên sự sống trần gian này. Cuối cùng nhưng chỉ một trong những trường hợp này dã là khi những tiến bộ của chuyến viễn du hàng hải khám phá, đã dẫn đến sự tiếp xúc với những dân tộc và những giống người nguyên thủy. Trong hậu quả của sự quan sát thiếu xót và một cái nhìn sai lạc về những phong tục và tập quán của họ, họ hiện ra với người châu Âu như đương sống một đời đơn giản, hạnh phúc với ít những nhu cầu, một đời sống giống như thế đã là không thể đạt được bởi những khách đến thăm họ, vốn có văn minh cao hơn họ rất nhiều. Kinh nghiệm sau đó đã sửa chữa một số những phán đoán này. Trong nhiều trường hợp, những người quan sát đã sai lầm quy sự vắng mặt của những nhu cầu văn hóa phức tạp với những gì trong thực tế đã là do sự thừa thãi của thiên nhiên và do sự dễ dàng vốn những nhu cầu lớn của con người đã được thỏa mãn. Trường hợp cuối cùng là đặc biệt quen thuộc với chúng ta. Nó xuất hiện khi người ta đến để biết về cơ chế của chứng nhiễu loạn thần kinh [2], nó đe dọa làm hao mòn đến chút hạnh phúc ít ỏi mà con người văn
- minh được hưởng. Đã được khám phá rằng một người bị loạn thần kinh bởi vì ông ta không thể chịu đựng được số lượng của bực dọc thất vọng mà xã hội áp đặt vào ông trong công việc phục vụ những lý tưởng văn hóa của nó, và đã được suy diễn từ điều này rằng việc bãi bỏ, hoặc giảm thiểu những đòi hỏi này sẽ dẫn đến một sự trở về với những khả năng của hạnh phúc. Ngoài ra cũng còn có thêm một yếu tố của thất vọng. Trong vài thế hệ mới vừa qua, nhân loại đã thực hiện được một tiến bộ khác thường trong những ngành khoa học tự nhiên và trong những ứng dụng kỹ thuật của chúng, và đã thiết lập sự kiểm soát của con người trên thiên nhiên trong một cách chưa bao giờ tưởng tượng có trước đó. Những bước của tiến bộ này là kiến thức phổ biến và không cần thiết phải liệt kê chúng. Con người tự hào về những thành tựu này, và có quyền được tự hào. Tuy nhiên, họ dường như đã quan sát thấy rằng sức mạnh mới giành được này trên không gian và thời gian, sự chinh phục này của những sức mạnh thiên nhiên, đó là sự hoàn thành một khát khao đã khởi từ hàng ngàn năm về trước, nó đã không làm tăng khối lượng thỏa mãn lạc thú vốn họ có thể mong đợi từ đời sống, và nó đã không làm cho họ cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn. Từ nhận thức sự kiện thực tế này, chúng ta phải bằng lòng để kết luận rằng sức mạnh trên thiên nhiên không phải là điều kiện tiên quyết duy nhất của hạnh phúc con người, cũng giống như nó không phải là mục tiêu duy nhất của nỗ lực văn hóa; nhưng chúng ta phải không nên suy ra từ đó rằng tiến bộ kỹ thuật là không có giá trị kinh tế cho hạnh phúc chúng ta.
- Người ta sẽ muốn hỏi: sau đó, nếu vậy có tích cực dành được niềm vui hay không, có tăng trưởng chắc chắn hay không trong xúc cảm của tôi về hạnh phúc, nếu tôi có thể, thường xuyên như tôi thích, nghe được tiếng nói của một đứa con tôi đang sống xa hàng trăm dặm, hoặc nếu tôi có thể nhận được trong thời gian ngắn nhất có thể được, sau khi một người bạn đã đạt đến đích của ông, rằng ông đã vượt qua chuyến đi dài và khó khăn không hề hấn gì? Liệu nó có phải là không có nghĩa gì khi y học đã thành công trong việc làm giảm lớn lao tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, và nguy cơ nhiễm trùng cho phụ nữ khi sinh con, và, thực sự, trong kéo dài đáng kể tuổi thọ trung bình của một người văn minh? Và có một danh sách dài có thể thêm vào với những lợi ích của loại này mà chúng ta có, nhờ vào thời đại rất bị kinh thường của những tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Nhưng ở đây, tiếng nói của sự phê bình bi quan tự làm nó được nghe và cảnh cáo chúng ta rằng hầu hết những thỏa mãn này theo khuôn mẫu của sự “hưởng thụ rẻ tiền” tán dương trong giai thoại – thích thú có được bằng cách rút một chân trần đang ủ dưới mền ra ngoài vào một đêm đông lạnh và sau đó đưa nó trở lại vào trong êm ấm. Nếu như đã không có đường sắt chinh phục những khoảng cách, con tôi hẳn đã không bao giờ rời thị trấn quê hương, và tôi không cần điện thoại để nghe giọng nói của nó, nếu du hành vượt biển bằng tàu đã không được thực hiện, bạn tôi hẳn sẽ không xuống tàu đi biển và tôi không cần một điện tín để giảm lo lắng của tôi về ông. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ con để làm gì khi chính sự giảm thiểu đó áp
- đặt hạn chế lớn nhất trên chúng ta trong sự sinh sản trẻ em, do đó, chạy trọn vòng quanh, chúng ta dù sao đi nữa vẫn không nuôi con nhiều hơn so với những ngày trước khi có sự ngự trị của vệ sinh, trong khi đồng thời chúng ta đã tạo những điều kiện khó khăn cho đời sống tính dục trong hôn nhân của chúng ta, và có thể đã làm việc chống lại những tác động có lợi của chọn lọc tự nhiên? Và, cuối cùng, tốt gì cho chúng ta có một đời dài sống lâu, nếu những niềm vui là khó khăn và cằn cỗi thưa thớt, và nếu như nó đầy những đau khổ khiến chúng ta chỉ có thể chào đón cái chết như một sự giải thoát? Có vẻ như chắc chắn rằng chúng ta không cảm thấy thoải mái trong nền văn minh hiện nay của chúng ta, nhưng nó là rất khó khăn để hình thành một ý kiến, không biết có hay không và trong mức độ nào con người của thời trước đã cảm thấy hạnh phúc hơn, và phần nào của những điều kiện văn hóa của họ đã đóng vai trong vấn đề này. Chúng ta sẽ luôn luôn có xu hướng xem xét sự cùng quẫn của con người một cách khách quan - đó là, đặt tự chúng ta, với những mong muốn và nhạy cảm riêng của chúng ta, trong điều kiện của họ, và sau đó xem xét những trường hợp nào chúng ta sẽ tìm thấy trong chúng để kinh nghiệm sự hạnh phúc hay bất hạnh. Phương pháp xem xét sự vật này, mà dường như khách quan bởi vì nó bỏ qua những chuyển biến trong tính nhạy cảm chủ quan, tất nhiên, là sự chủ quan nhất có thể có, bởi vì nó đặt những trạng thái trí não của riêng một người vào vị trí của bất kỳ những người khác, không rõ suy nghĩ mà họ có thể có. Hạnh phúc, tuy nhiên, là một gì
- đó chủ quan về yếu tính. Bất kể nhiều đến bao nhiêu chúng ta có thể co rúm người lại với kinh hoàng từ những tình huống nào đó nhất định – của một nô lệ chèo chiến thuyền thời cổ, của một nông dân trong Chiến tranh Ba mươi năm [3], của một nạn nhân của Toà dị giáo Catô, của một người Do Thái chờ đợi một pogrom tàn sát – dù thế nào đi nữa, không thể nào cho chúng ta có thể cảm nhận cách thức của chúng ta đưa vào bên trong những con người như vậy – tiên đoán những thay đổi vốn của sự khó hiểu nguyên ủy của não thức, một tiến trình u mê dần dần, sự thôi ngừng những mong đợi, và những phương pháp thô sống hơn hoặc nhiều tinh luyện hơn của sự đánh thuốc mê đã tạo ra trên sự tiếp nhận của họ với những xúc cảm của niềm vui và của khó chịu không vui. Hơn nữa, trong trường hợp của khả năng khắc nghiệt nhất của đau khổ, những thiết bị bảo vệ trí não đặc biệt được đưa vào hoạt động. Dường như với tôi không có lợi để theo đuổi khía cạnh này của vấn đề xa thêm nữa. Giờ là lúc chúng ta chuyển chú ý của chúng ta sang bản chất của nền văn minh này vốn nghi ngờ đã được ném xuống giá trị của nó như những phương tiện đến hạnh phúc. Chúng ta sẽ không tìm một công thức, trong đó diễn đạt bản chất đó trong một vài từ, cho đến khi chúng ta đã học được một vài điều gì đó bằng cách khảo sát nó. Do đó chúng ta sẽ tự hài lòng nói một lần nữa rằng từ “văn minh” [4] mô tả toàn bộ tổng số những thành tựu và những quy định vốn chúng phân biệt đời sống của chúng ta với của những động vật tổ tiên của chúng ta, và chúng phục vụ hai mục đích - đó là để bảo vệ con người chống lại thiên nhiên, và điều chỉnh những quan hệ hỗ
- tương của họ [5]. Để học hỏi thêm, chúng ta sẽ mang cùng lại những đặc điểm riêng lẻ khác nhau của văn minh, như chúng được phô bày trong những cộng đồng nhân loại. Khi làm như vậy, chúng ta sẽ không do dự trong việc để chính mình được hướng dẫn bởi cách sử dụng ngôn ngữ, như cũng còn được gọi là, là xúc cảm ngôn ngữ, trong niềm tin rằng chúng ta như vậy sẽ thực hiện được công lý với sự sáng suốt bên trong vốn nó vẫn còn thách thức sự biểu hiện trong những từ trừu tượng. Giai đoạn đầu tiên là dễ dàng. Chúng ta nhìn nhận như văn hóa tất cả những hoạt động và những nguồn lực vốn chúng hữu dụng cho con người để làm trái đất trở nên xử dụng được với họ, để bảo vệ họ chống lại cuồng bạo của những sức mạnh tự nhiên, và vân vân như vậy. Về mặt này của nền văn minh, hiếm có thể có bất kỳ nghi ngờ nào. Nếu chúng ta quay về ngược đủ xa, chúng ta thấy rằng những hành động có văn minh đầu tiên là việc sử dụng những dụng cụ, đạt được sự điều khiển lửa và sự xây dựng những cư trú. Trong số này, sự làm chủ được lửa nổi bật lên như là một thành tựu hoàn toàn khác thường và một dẫn chứng không gì sánh bằng [6], trong khi những thành tựu khác đã mở những đường mà con người đã theo đuổi kể từ đấy, và có thể dễ dàng đoán tác dụng kích thích với chúng. Với mỗi dụng cụ, con người hoàn thiện những cơ quan của chính mình, cho dù động cơ hoặc xúc cảm, hay là loại bỏ những giới hạn với chức năng của chúng. Công suất động cơ đặt những sức mạnh khổng lồ vào sự xử dụng của con người, giống như những bắp thịt của mình, hắn có thể sử
- dụng nó theo bất cứ hướng nào; nhờ tàu bay và tàu thủy, nước và không khí không có thể cản trở những chuyển động của con người; bằng phương tiện của kính đeo mắt, hắn sửa chữa những khuyết tật trong những ống kính của mắt chính mình; bằng phương tiện của kính viễn vọng, ông nhìn thấy khoảng cách xa; và bằng phương tiện của kính hiển vi, ông vượt qua những giới hạn của tầm nhìn thiết lập bởi cấu trúc của võng mạc của mình. Trong máy chụp ảnh, hắn đã tạo ra một dụng cụ giữ lại những ấn tượng thị giác thoáng qua, cũng giống như một đĩa hát giữ lại của những âm thanh thoáng qua, cả hai đều ở dưới đáy những sự vật chất hóa của sức mạnh con người sở hữu về hồi tưởng, ký ức của mình. Với sự giúp đỡ của điện thoại anh ta có thể nghe ở những khoảng cách vốn nó sẽ được tôn trọng như là không thể nào đạt được ngay cả trong một chuyện thần tiên. Viết có nguồn gốc của nó là tiếng nói của một người vắng mặt; và nhà ở là một thay thế cho tử cung của người mẹ, chốn cư ngụ đầu tiên, vốn con người vẫn mong nhớ nó trong tất cả khả năng, và trong đó hắn đã an toàn và cảm thấy thoải mái. Những điều này, bằng khoa học và kỹ thuật của mình, con người đã thực hiện trên trái đất này, trên đó lần đầu tiên hắn xuất hiện như là một cơ cấu sinh vật yếu đuối, và trên đó mỗi cá nhân của những loài của mình một lần nữa phải làm nhập cảnh cho nó (“Ô, cái mảnh khốn khổ của thiên nhiên!” [7]) như một con vật còn phải bú mớm bất lực - những điều này không chỉ nghe như một chuyện thần tiên, chúng là sự thực sự lấp đầy của mỗi - hay hầu hết của những – ước muốn như chuyện thần tiên.
- Tất cả những tài sản này, hắn có thể đòi đặt cho là thụ nhận văn hóa của mình. Thật xưa trước đây, hắn đã thành lập một khái niệm lý tưởng về sự toàn năng và toàn trí vốn hắn thể hiện trong những vị gót của mình. Với những vị gót này, hắn gán cho tất cả mọi thứ thuộc tính mà dường như những mong muốn của hắn không thể đạt được, hoặc những thứ hắn đã bị cấm. Do đó, một người có thể nói rằng những vị gót này đã là những lý tưởng văn hóa. Ngày nay, hắn đã đến rất gần với việc đạt được lý tưởng này, hắn đã gần như tự hắn trở thành một vị gót. Duy chỉ có, nó là sự thật, trong thời thức, trong đó những lý tưởng này thường đạt được tùy theo phán xét tổng quát của nhân loại. Hoàn toàn không; trong một số phương diện không chút nào tất cả, trong những phương diện khác chỉ có một nửa. Con người đã, như nó đã là, trở thành một loại Gót có những bộ phận giả [8]. Khi con người lắp tất cả những bộ phận phụ trợ của gót vào, gót thật sự là nguy nga tráng lệ; nhưng những bộ phận này đã không phát triển với ông ta và chúng vẫn thỉnh thoảng cho ông ta nhiều khó khăn rắc rối. Tuy nhiên, con người có quyền an ủi chính mình với tư tưởng rằng sự phát triển này sẽ không chấm dứt chính xác vào năm 1930 CN. Những thời đại tương lai sẽ mang lại theo chúng những tiến bộ vĩ đại mới và có lẽ không thể tưởng được trong lĩnh vực này của văn minh, và sẽ tăng lên sự giống-gót của con người lại nhiều còn hơn nữa. Nhưng trong những chú tâm của những điều tra của chúng ta, chúng ta sẽ không quên rằng con người ngày nay không cảm thấy hạnh phúc trong đặc tính giống-gót n của mình. Chúng ta nhìn nhận, vậy sau đó, rằng những nước đã đạt đến một
- mức độ cao của văn minh, nếu như chúng ta tìm thấy trong những nước đó, tất cả mọi thứ mà có thể trợ giúp con người trong việc khai thác trái đất, và trong sự bảo vệ con người chống lại những lực lượng thiên nhiên - tất cả mọi thứ, nói gọn, những gì là sử dụng của hắn ta - là có chủ định để và được thực hiện hiệu quả. Trong những quốc gia như thế, những con sông đe dọa lũ lụt đất đai, chúng được qui định điều hòa lưu lượng của chúng, và nước của chúng được tiếp dẫn qua kênh đến những nơi có nạn thiếu nước. Canh tác đất màu một cách cẩn thận và trồng thực vật thích ứng với nó, và những tài nguyên khoáng sản dưới lòng đất được cần mẫn đưa lên mặt và tạo vào thành những công cụ và dụng cụ gia dụng cần thiết. Những phương tiện truyền thông là phong phú, nhanh chóng và đáng tin cậy. Những thú hoang và nguy hiểm đã bị tiêu diệt, và chăn nuôi gia súc phát triển mạnh mẽ. Nhưng bên cạnh những sự việc này, chúng ta đòi hỏi những thứ khác từ văn minh, và nó là một sự kiện đáng chú ý rằng chúng ta hy vọng tìm thấy chúng được thể hiện trong cùng những nước này. Như thể chúng ta đã tìm để thoái thác đòi hỏi đầu tiên chúng ta đã thực hiện, chúng ta chào đón nó cũng như một dấu hiệu của văn minh nếu chúng ta thấy con người hướng quan tâm của họ tới những gì không có bất cứ giá trị thực tế nào, tới những gì là vô dụng - lấy thí dụ, nếu những không gian xanh cần thiết trong một thị trấn như những sân chơi, và như những hồ chứa không khí trong lành cũng được bố trí với những bồn hoa, hoặc nếu những cửa sổ của những ngôi nhà được trang trí với những chậu hoa. Chúng ta sớm quan sát rằng điều vô dụng này vốn chúng ta mong đợi văn minh coi
- trọng là vẻ đẹp. Chúng ta đòi hỏi con người văn minh tôn thờ cái đẹp bất cứ nơi nào hắn thấy nó trong tự nhiên, và tạo ra nó trong những đối tượng của những công trình thủ công của hắn cho đến mức mà hắn có khả năng. Nhưng điều này còn xa mới hết những đòi hỏi của chúng ta về văn minh. Bên cạnh, chúng ta mong đợi nhìn thấy những dấu hiệu của sạch sẽ và trật tự. Chúng ta không nghĩ văn hóa của một thành phố nước Anh trong thời của Shakespeare là cao cho lắm, khi chúng ta đọc rằng có một đống phân lớn ở trước nhà cha ông ở Stratford; chúng ta đã phẫn nộ và gọi là “dã man” (đó là đối nghich với có văn minh) khi chúng ta tìm thấy những lối đi trong khu Wald Wiener [9] xả rác đầy giấy. Với chúng ta, bẩn thỉu của bất của loại nào có vẻ như không tương hợp với văn minh. Chúng ta mở rộng đòi hỏi của chúng ta về sạch sẽ đến cơ thể con người nữa. Chúng ta rất sửng sốt học được về mùi hôi khó chịu phát ra từ Vua Trời [10], và chúng ta lắc đầu về Bella Isola [11] khi chúng ta được cho thấy bồn rửa nhỏ tí, trong đó Napoleon làm vệ sinh buổi sáng của ông. Thật vậy, chúng ta không ngạc nhiên bởi ý tưởng về sự thiết lập việc sử dụng xà phòng như là một thước đo thực tế của nền văn minh. Điều này cũng đúng với trật tự. Giống như sự sạch sẽ, nó chỉ áp dụng độc nhất với công trình của con người. Nhưng trong khi sự sạch sẽ không được mong đợi trong tự nhiên, ngược lại, trật tự đã là đã được bắt chước từ tự nhiên. Quan sát của con người với những điều hòa thiên văn lớn lao, không chỉ trang bị cho hắn một mô thức để đưa vào đời sống của hắn,
- nhưng đã cho hắn những điểm đầu tiên của khởi hành để làm như vậy. Trật tự là một thứ ép buộc phải lặp lại, khi quy định đã được đặt ra một lần và cho tất cả, quyết định khi nào, ở đâu và làm thế nào một điều sẽ được thực hiện, như thế để trong mọi trường hợp tương tự, nó khiến người ta khỏi phải do dự và lưỡng lự không quyết định. Những lợi ích về trật tự là không thể chối cãi. Nó cho người ta có khả năng sử dụng không gian và thời gian với lợi thế tốt nhất, trong khi những sức mạnh tinh thần của họ. Chúng ta đáng lẽ phải có quyền để kỳ vọng rằng trật tự đã hẳn phải nhận vị trí của nó trong những hoạt động của con người ngau từ khởi đầu và không có khó khăn; và chúng ta cũng có thể tự hỏi rằng tại sao điều này đã không xảy ra - đó là, trái lại, những sinh vật nhân loại thể hiện một xu hướng bẩm sinh của bất cẩn, bất thường và không đáng tin cậy trong công việc của họ, và rằng một huấn luyện gian khổ là cần thiết trước khi họ học được để làm theo thí dụ gương mẫu của những mô hình vũ trụ của họ. Đẹp đẽ, sạch sẽ và trật tự rõ ràng là chiếm một vị trí đặc biệt trong số những yêu cầu của nền văn minh. Không ai sẽ chủ trương rằng chúng cũng quan trọng với đời sống như với sự kiểm soát trên những sức mạnh của tự nhiên, hay như một vài yếu tố khác mà chúng ta sẽ trở thành quen thuộc. Và dẫu thế không ai sẽ quan tâm để đặt chúng lùi vào nền phía sau như những điều tầm thường không quan trọng. Rằng nền văn minh không chỉ chiếm giữ trọn vẹn với những gì là hữu ích đã được thể hiện bằng những thí dụ về vẻ đẹp, mà chúng ta
- từ chối không bỏ qua trong số những quan tâm của nền văn minh. Tính hữu ích của trật tự là khá hiển nhiên. Đối với sự sạch sẽ, chúng ta phải giữ trong đầu rằng nó là cũng là đòi hỏi của chúng ta cho vệ sinh nữa, và chúng ta có thể nghi ngờ rằng ngay cả trước thời có khoa học phòng bệnh sự kết nối giữa hai đã không hoàn toàn xa lạ với con người. Tuy nhiên, tiện ích hoàn toàn không giải thích những nỗ lực này; một cái gì khác nữa bên cạnh đó phải làm việc. Tuy nhiên, không có đặc trưng nào để biểu thị đặc điểm của văn minh có vẻ tốt hơn lòng quí trọng của nó và sự khuyến khích của con người với những hoạt động trí não cao hơn – những thành tích trí thức, khoa học, và nghệ thuật của nó và vai trò hàng đầu mà nó gán cho những ý tưởng trong đời sống con người. Cao nhất trong số những ý tưởng này là những hệ thống tôn giáo, cấu trúc phức tạp của chúng tôi đã cố gắng soi ánh sáng ở một chỗ khác [12]. Tiếp theo là những suy đoán của triết học; và cuối cùng những gì có thể được gọi là những “lý tưởng” của con người - ý tưởng của hắn về một sự toàn hảo có thể có được của những cá nhân, hoặc của những dân tộc, hoặc của toàn thể nhân loại, và những đòi hỏi hắn đã thiết lập trên cơ sở của những ý tưởng như vậy. Thực tế là những sáng tạo này của hắn không phải là độc lập với lẫn nhau, nhưng ngược lại chúng đan cuộn chặt vào nhau, làm tăng sự khó khăn không chỉ mô tả chúng, nhưng trong truy tìm nguồn gốc tâm lý của chúng. Nếu chúng ta giả đính khá tổng quát là động lực của tất cả những hoạt động của con người là một nỗ lực hướng tới hai mục tiêu hợp lưu của tiện ích và mang lại lạc thú, chúng ta cũng phải giả định rằng
- điều này cũng đúng với những biểu hiện của văn minh mà chúng ta đương thảo luận ở đây, mặc dù điều này có thể dễ dàng nhìn thấy chỉ trong những hoạt động khoa học và thẩm mỹ. Nhưng không thể nghi ngờ rằng những hoạt động khác, cũng thế nữa, chúng tương ứng với nhu cầu mạnh mẽ ở con người - có lẽ với những nhu cầu vốn chỉ phát triển ở một thiểu số. Chúng ta cũng phải không cho phép mình bị lầm lạc bởi những phán đoán về giá trị liên quan đến một tôn giáo, hoặc hệ thống triết học, hoặc lý tưởng đặc thù nào. Cho dù chúng ta nghĩ rằng để tìm thấy trong chúng những thành tích cao nhất của tinh thần con người, hoặc chúng ta lấy làm tiếc về chúng như là những sai lạc, chúng ta không thể nhưng phải nhận ra rằng nơi nào chúng có mặt, và đặc biệt, nơi nào chúng chiếm ưu thế, là có bao hàm một trình độ cao của văn minh. Cuối cùng, nhưng chắc chắn không phải là kém quan trọng nhất, trong những đặc trưng riêng biệt của văn minh vẫn còn chờ được đánh giá: cách thức trong đó những quan hệ của con người với nhau, những quan hệ xã hội, được quy định - những quan hệ vốn chúng ảnh hưởng một cá nhân như một người hàng xóm, như một nguồn của sự giúp đỡ, như một đối tượng tính dục của một các nhân khác, như là một thành viên của một gia đình và của một Nhà nước. Đặc biệt là khó khăn ở đây để giữ cho rõ ràng về nhu cầu lý tưởng đặc biệt và để xem những gì nói chung là văn minh. Có lẽ chúng ta có thể bắt đầu bằng cách giải thích rằng yếu tố của văn minh đi vào sân khấu với nỗ lực đầu tiên để điều chỉnh những mối quan hệ xã hội. Nếu như nỗ lực này đã không được làm, những mối quan hệ sẽ
- phải chịu tùy ý chí bất kỳ của mỗi cá nhân: đó là nói rằng, con người thể chất mạnh mẽ hơn sẽ quyết định chúng trong ý hướng của những lợi ích và những xung động bản năng riêng của anh ta. Không gì sẽ có thể thay đổi trong điều này nếu con người mạnh mẽ hơn này đến lượt mình lại gặp một ai đó thậm chí còn mạnh hơn anh ta. Đời sống con người trong có chung chỉ có thể có được khi một đa số đến cùng với nhau mà nó thì mạnh hơn bất cứ cá nhân nào riêng biệt, và nó vẫn giữ đoàn kết chống lại tất cả những cá nhân riêng biệt. Sức mạnh của cộng đồng này sau đó được thiết lập là “phải” trong đối lập với quyền lực của cá nhân, vốn nó bị lên án như “bạo lực”. Sự thay thế này của sức mạnh cá nhân với sức mạnh của một cộng đồng tạo nên bước quyết định của nền văn minh. Bản chất của nó nằm trong sự kiện là những thành viên của cộng đồng tự hạn chế mình trong những khả năng của họ về sự thỏa mãn, trong khi những cá nhân không biết có những giới hạn như vậy. Điều kiện cần thiết đầu tiên của nền văn minh, do đó, là thuộc về công lý - có nghĩa là, việc bảo đảm rằng một đạo luật một khi được làm sẽ không bị phá vỡ vì thiên vị với một cá nhân. Điều này không có tiềm ẩn gì hết về phần giá trị đạo đức của một luật giống như vậy. Tiến trình xa hơn của phát triển văn hóa xem ra có khuynh hường nghiêng về làm cho luật pháp thôi không còn là biểu hiện của ý chí của một cộng đòng nhỏ - một giai cấp, hay một tầng lớp dân chúng, hoặc một nhóm chủng tộc - trong đó, đến lượt nó, hhành xử như một cá nhân bạo động với nhóm khác, và có lẽ đông đảo hơn, những tập hợp của con người. Hệ quả cuối cùng sẽ là một quy tắc